Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Sein
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót | Haruki Murakami

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2012 20:36:18 | Xem tất


Chương 2
Không Có Tin Lành Nào Trong Chương Này


Tôi rời quán cà phê đi vơ vẩn qua các phố. Cái nóng hầm hập buổi chiều bắt đầu khiến tôi nôn nao khó chịu, thậm chí ớn lạnh nữa. Nhưng về nhà thì tôi không muốn chút nào. Chỉ nghĩ đến chuyện ngồi một mình trong căn nhà câm lặng đó mà đợi một cú điện thoại có lẽ chẳng bao giờ tới là tôi thấy nghẹt thở rồi.

Việc duy nhất tôi nghĩ ra được để làm là đi gặp Kasahara May. Tôi về nhà, trèo qua tường rồi men theo con ngõ đến mặt hậu nhà cô bé. Tựa vào hàng rào căn nhà bỏ không phía bên kia ngõ, tôi nhìn khu vườn có bức tượng chim. May hẳn sẽ thấy tôi nếu tôi cứ đứng thế này. Ngoài đôi lần ra ngoài làm việc cho công ty tóc giả, May lúc nào cũng ở nhà, hoặc quan sát con ngõ từ cửa sổ nhà mình hoặc tắm nắng trong sân.

Nhưng chả thấy Kasahara May đâu. Trên trời không một đám mây. Ánh nắng hè nung cháy lưng cổ tôi. Mùi cỏ hăng hăng dậy lên từ mặt đất, xộc vào phổi tôi. Tôi nhìn đăm đăm bức tượng chim, cố nghĩ đến những chuyện mà cậu tôi đã kể về số phận những người đã sống trong căn nhà này. Nhưng tôi chẳng nghĩ tới gì khác được ngoài biển, lạnh và xanh. Tôi hít sâu mấy hơi liền rồi nhìn đồng hồ. Coi như hôm nay đành chịu thua, tôi đã định bỏ đi thì Kasahara May rốt cuộc cũng xuất hiện. Cô chậm rãi băng qua đường đến chỗ tôi đứng. Cô mặc quần soóc bằng vải bông thô, áo sơ mi chim cò màu xanh dương, mang xăng đan đỏ. Đứng cạnh tôi, hình như cô mỉm cười qua cặp mắt kính.

- Chào Chim vặn dây cót. Đã tìm thấy mèo Wataya Noboru chưa?

- Chưa, - tôi nói. - Sao hôm nay em ra muộn vậy?

Cô thọc tay vào túi bên hông, nhìn quanh với vẻ thích thú.

- Này Chim vặn dây cót, em có nhiều thì giờ thật đấy, nhưng có phải em sinh ra để đứng canh cái ngõ này từ sáng đến tối đâu. Em có vài việc để làm chứ. Thôi được rồi, xin lỗi anh vậy. Anh chờ lâu chưa?

- Không lâu lắm. Có điều đứng đây nóng quá.

Kasahara May nhìn chăm chú vào mặt tôi rồi nhíu mày.

- Có gì không ổn hở Chim vặn dây cót? Anh trông khiếp lắm, cứ như mới đào dưới đất lên ấy. Vào chỗ râm mà nghỉ đi nào.

Cô nắm tay tôi dẫn vào vườn nhà cô. Ở đó cô chuyển một chiếc ghế xếp vào chỗ bóng râm dưới cây sồi, đặt tôi ngồi lên đó. Những cành lá xum xuê hắt bóng râm mát rượi mang mùi hương của cuộc sống.

- Đừng lo, nhà lúc nào cũng vậy thôi, chẳng có ai đâu, - cô nói. - Anh chẳng phải lo gì hết. Đừng nghĩ ngợi nữa. Thư giãn đi.

- Anh có một việc muốn nhờ em, - tôi nói.

- Anh nói đi, - cô bảo.

- Anh muốn nhờ em gọi một cú điện thoại cho anh.

Tôi rút sổ và bút ra ghi số điện thoại cơ quan của Kumiko. Rồi tôi xé trang đó ra đưa cho May. Cuốn sổ nhỏ bìa nhựa âm ẩm, nhớp nháp vì mồ hôi.

- Em chỉ cần gọi điện đến chỗ này hỏi xem Okada Kumiko có ở đó không, nếu không thì hỏi xem hôm qua cô ấy có đi làm không.

Kasahara cầm mảnh giấy rồi đọc, môi chu lại. Đoạn cô nhìn tôi.

- Được rồi, xong ngay thôi. Anh đừng nghĩ ngợi gì hết, cứ nằm ngang. Anh không được cử động đấy. Em quay lại ngay.

Cô bé đi rồi, tôi duỗi người ra nhắm mắt theo lệnh cô. Người tôi ướt đẫm mồ hôi từ đầu đến chân. Tôi thử suy nghĩ thì nghe giật phừng phừng ở tận bên trong đầu, lại như có một túm bùng nhùng ở trong dạ dày. Chốc chốc một cơn buồn nôn lại dợn lên. Xung quanh hoàn toàn tĩnh lặng. Tôi chợt nhớ ra rằng đã khá lâu tôi không nghe tiếng con chim vặn dây cót. Lần cuối tôi nghe tiếng nó là khi nào nhỉ? Có lẽ bốn năm hôm trước gì đó. Nhưng tôi không chắc. Đến khi tôi nhận ra thì đã vắng tiếng nó quá lâu rồi. Có thể nó là chim di cư. Thử nghĩ mà xem, ta nghe tiếng nó lần đầu khoảng một tháng trước. Thế rồi suốt một thời gian, con chim vặn dây cót đều đặn hằng ngày lên dây cót cái thế giới nhỏ bé của chúng tôi. Đó là mùa Chim vặn dây cót.

Mười phút sau, Kasahara May trở lại. Cô đưa cho tôi một cái cốc to. Khi tôi cầm cốc, nước đá từ trong cốc kêu lanh canh. Âm thanh ấy như thể đến với tôi từ một thế giới xa xăm. Có mấy cánh cổng nối thế giới đó với nơi tôi ở lúc này, và tôi như nghe được âm thanh đó chỉ vì các cánh cổng tình cờ mở ra cùng lúc. Nhưng ấy chỉ là trong khoảnh khắc ngắn ngủi thôi - chỉ cần một cổng đóng lại, âm thanh đó sẽ không còn đến tai tôi nữa.

- Nước chanh đá đây. Uống vào sẽ nhẹ đầu hơn.

Tôi cố uống một nửa rồi trả cốc cho cô. Nước lạnh trôi qua cổ họng rồi xuống sâu vào trong cơ thể tôi, ngay sau đó một cơn buồn nôn dữ dội trỗi dậy. Cái khối lùng nhùng thối rữa trong dạ dày bắt đầu bung ra, dâng lên trong cuống họng tôi. Tôi nhắm mắt lại, cố chống chọi cho qua đi. Mắt nhắm, tôi lại thấy Kumiko đứng trên tàu điện, tay ôm chiếc áo cánh và váy. Có lẽ tốt nhất là nôn ra, tôi nghĩ. Nhưng tôi không nôn. Tôi hít thở sâu mấy lần cho đến khi cảm giác đó nguôi dần và biến mất hẳn.

- Thế nào, anh đỡ chưa? - Kasahara May hỏi.

- Anh đỡ rồi.

- Em gọi điện rồi, - cô nói. - Em bảo em là họ hàng. Thế được chứ phải không?

- Ờ.

- Cô Okada Kumiko này chính là bà Chim vặn dây cót phải không?

- Ờ.

- Họ bảo bà ấy không đi làm, hôm nay không, hôm qua cũng không. Nghỉ mà chẳng báo gì cả. Họ chẳng hiểu thế nào nữa. Bà ấy không phải loại người làm chuyện như vậy, họ bảo thế.

- Đúng. Cô ấy không phải loại người ấy.

- Chị ấy đi từ hôm qua phải không?

Tôi gật đầu.

- Tội nghiệp Chim vặn dây cót! - Kasahara May nói, giọng cô có vẻ thành thật lấy làm tiếc cho tôi. Cô đặt tay lên trán tôi. - Em có thể giúp gì cho anh không?

- Bây giờ thì không, - tôi nói. - Cám ơn em.

- Em hỏi tiếp có được không? Hay là em không hỏi nữa?

- Cứ hỏi đi. Nhưng không chắc anh trả lời được đâu.

- Có phải vợ anh bỏ đi với người khác không?

- Anh không chắc. Có thể. Cũng có thể là vậy.

- Nhưng hai anh chị đã ở với nhau suốt ngần ấy năm còn gì. Làm sao chuyện như vậy mà anh không biết được?

Cô nói có lý. Làm sao tôi lại không biết cơ chứ?

- Tội nghiệp Chim vặn dây cót, - cô lại nói. - Ước gì em có thể nói gì đó để giúp anh được, nhưng em có biết gì về đời sống hôn nhân đâu.

Tôi đứng dậy khỏi ghế. Để đứng được như vậy cần phải mất sức hơn tôi tưởng nhiều.

- Cám ơn em về mọi chuyện. Em đã giúp anh nhiều lắm. Giờ anh phải đi. Anh cần phải ở nhà, nhỡ ra có tin tức gì. Có thể ai đó sẽ gọi điện.

- Về nhà thì anh đi tắm nhé. Tắm là việc đầu tiên. Được chứ? Rồi mặt quần áo sạch vào. Và cạo râu nữa.

- Cạo râu á? - tôi sờ cằm. Đúng thật vậy: tôi quên cạo râu. Từ sáng đến giờ tôi quên khuấy việc ấy.

- Những chuyện ấy tuy nhỏ nhưng mà quan trọng đấy, Chim vặn dây cót ạ, - Kasahara May nói, nhìn thẳng vào mắt tôi. - Về nhà soi gương cho kỹ đi.

- Ừ, anh sẽ soi, - tôi nói.

- Sau đó em ghé qua nhà anh được không?

- Được chứ, - tôi nói. Rồi tôi thêm: - Em giúp anh nhiều lắm.

Kasahra May im lặng gật đầu.

° ° °


Về đến nhà, tôi nhìn mặt mình trong gương. Đúng thật: trông tôi khiếp quá. Tôi cởi quần áo, tắm vòi hoa sen, gội đầu ra trò, cạo râu, đánh răng, thoa dầu sau cao râu lên mặt rồi lại soi gương, ngắm mình thật kỹ. Hình như có khá hơn một chút. Không buồn nôn nữa. Duy có cái đầu vẫn còn hơi mụ mẫm.

Tôi mặc quần soóc và áo phông mới. Tôi ngồi trên hàng hiên, dựa lưng vào cột mà ngắm khu vườn trong khi chờ tóc khô. Tôi cố gắng xếp lại các sự kiện trong những ngày vừa qua theo thứ tự. Đầu tiên là cú điện thoại của Trung úy Mamiya. Là sáng hôm qua thì phải? Ừ, chắc chắn rồi: sáng hôm qua. Sau đó Kumiko bỏ nhà đi. Tôi kéo khóa áo cho nàng. Kế đó tôi tìm thấy hộp đựng nước hoa. Rồi Trung úy Mamiya đến kể cho tôi nghe những câu chuyện kỳ lạ về thời chiến: chuyện ông bị quân Ngoại Mông bắt rồi ném xuống giếng. Ông để lại cho tôi kỷ vật của ông Honda. Một cái hộp rỗng. Rồi Kumiko không về nhà. Sáng hôm đó nàng đã ghé lấy đồ giặt ở hiệu giặt gần nhà ga rồi biến mất. Không nói với cơ quan một tiếng. Đó là những gì đã diễn ra ngày hôm qua.

Tôi khó lòng tin được ngần ấy chuyện đã xảy ra chỉ trong vòng một ngày. Một ngày mà đến thế thì quá nhiều.

Ngẫm nghĩ mãi về những chuyện đó, tôi đâm ra buồn ngủ kinh khủng. Đây không phải cơn buồn ngủ bình thường. Nó là một cơn buồn ngủ mãnh liệt, thậm chí dữ dội. Cơn buồn ngủ lột phăng ý thức của tôi như người ta lột phăng quần áo khỏi cơ thể một người không kháng cự. Chẳng nghĩ ngợi gì, tôi vào phòng ngủ, cởi hết quần áo trừ quần lót rồi leo lên giường. Tôi cố nhìn chiếc đồng hồ trên bàn ngủ, nhưng thậm chí tôi không ngoảnh đầu lại được. Tôi nhắm mắt và lập tức rơi tõm vào một cơn ngủ không đáy sâu hun hút.

° ° °


Trong giấc ngủ, tôi đang kéo khóa áo cho Kumiko. Tôi thấy tấm lưng trơn nhẵn trắng ngần của nàng. Nhưng khi kéo khóa áo lên đến đỉnh, tôi nhận ra đó không phải là Kumiko mà là Kano Creta. Trong phòng chỉ có tôi và cô ta.

Đó cũng là căn phòng trong giấc mơ lần trước: một căn phòng cũng trong khách sạn đó. Trên bàn là một chai Cutty Sark và hai chiếc cốc. Có cả một xô bằng thép không gỉ đựng đầy nước đá. Ở hành lang ngoài có ai đó đang đi ngang qua, vừa đi vừa nói gì đó giọng trầm trầm. Tôi không nghe rõ lời, hình như là tiếng nước ngoài. Trên trần có một chùm đèn nhưng không bật lên. Ánh sáng duy nhất trong căn phòng nhá nhem này là từ những ngọn đèn gắn trên tường. Cửa sổ cũng treo rèm dày kéo kín mít.

Kano Creta mặc bộ váy áo mùa hè của Kumiko màu xanh dương nhạt có hoa văn chim. Váy cao hơn đầu gối cô ta một chút. Cũng như mọi khi, cách trang điểm của cô ta theo phong cách Jacqueline Kennedy. Cổ tay phải cô đeo một cặp vòng tay hợp phong cách.

- Cô lấy đâu ra bộ áo này? Của cô à? - tôi hỏi.

Kano Creta nhìn tôi lắc đầu. Khi cô làm vậy, đầu những lọn tóc quăn của cô rung rung một cách đáng yêu.

- Không, không phải của tôi, - cô nói. - Tôi mượn thôi. Nhưng xin ông Okada đừng lo, việc đó chẳng làm phiền ai cả.

- Chúng ta đang ở đâu đây? - tôi hỏi.

Kano Creta không đáp. Cũng như lần trước, tôi đang ngồi trên mép giường. Tôi mặc com lê, đeo cà vạt chấm hạt đỗ.

- Ông không phải nghĩ ngợi gì cả, ông Okada ạ, - Kano Creta nói. - Chẳng có gì phải lo hết. Mọi chuyện rồi sẽ tốt thôi.

Và một lần nữa, cũng như trước, cô mở toan khóa quần tôi, kéo dương vật của tôi ra rồi ngậm vào miệng. Điểm duy nhất khác lần trước là cô không cởi quần áo. Suốt thời gian đó cô vẫn mặc áo váy của Kumiko. Tôi cố cử động, nhưng dường như thân thể tôi bị trói chặt bằng những sợi dây vô hình. Tôi cảm thấy mình càng lúc càng to và cứng lên trong miệng cô ta.

Tôi thấy cặp mi giả và đuôi những lọn tóc quăn của cô rung rung. Những chiếc vòng tay của cô chạm vào nhau phát ra một âm thanh khô khốc. Lưỡi cô dài và mềm, dường như bọc kín quanh tôi. Ngay lúc tôi sắp xuất thì đột ngột cô ngãng người ra và bắt đầu chầm chậm cởi áo quần tôi. Cô cởi áo khoác, cà vạt, quần âu, áo sơ mi, quần lót của tôi rồi đẩy tôi nằm xuống giường. Tuy nhiên, cô vẫn mặc nguyên y phục. Cô ngồi lên giường, cầm tay tôi kéo vào dưới lần áo của cô. Cô không mặc quần lót. Tay tôi cảm thấy sự ấm áp của âm đạo cô. Chỗ đó sâu, ấm và rất ẩm ướt. Ngón tay tôi sục xuống càng lúc càng sâu.

- Này, chút nữa Wataya Noboru có đến đây không? - tôi hỏi. - Chẳng phải cô đang đợi hắn hay sao?

Thay vì trả lời, Kano Creta sờ trán tôi.

- Đừng nghĩ gì hết, ông Okada. Chúng tôi sẽ lo mọi chuyện. Cứ để đấy cho chúng tôi.

- Chúng tôi là ai? - tôi hỏi, nhưng không có câu trả lời.

Rồi Kano Creta trèo lên người tôi, dùng tay giúp đưa tôi vào bên trong cô. Khi tôi đã vào sâu bên trong rồi, cô bắt đầu xoay hông chầm chậm. Nhịp theo chuyển động của cô, mép áo váy xanh nhạt vờn lên chỗ dạ dày và cặp vế trần của tôi. Trong tư thế cưỡi trên tôi như vậy, váy xòe ra quanh mình, trông Kano Creta như một cây nấm mềm mại khổng lồ, lặng lẽ trồi qua lớp lá khô trên mặt đất mà nở bung ra dưới đôi cánh chở che của bóng đêm. Âm đạo của cô vừa ấm lại vừa lạnh. Nó vừa cố bao bọc quanh tôi, hút tôi vào, lại vừa ra sức đẩy tôi ra. Tôi càng lúc càng cương to, càng cứng. Tôi cảm thấy mình sắp sửa nổ tung. Đó là một cảm giác thật kỳ lạ, vượt ngoài khoái cảm tình dục đơn thuần. Dường như có một cái gì đó bên trong cô, một cái gì đó đặc biệt từ bên trong cô đang thông qua cơ quan sinh dục của tôi mà từ từ nhập vào tôi.

Mắt nhắm, cằm hơi ngước lên, Kano Creta nhẹ nhàng đu đưa người từ trước ra sau như đang mơ. Tôi thấy bộ ngực cô dềnh lên hạ xuống dưới lần áo theo từng hơi thở. Vài sợi tóc rụng vương trên trán cô. Tôi hình dung mình đang bồng bềnh một mình giữa biển rộng mênh mông. Tôi nhắm mắt lại, lắng tai, chờ nghe thấy tiếng những làn sóng nhỏ vỗ vào mặt tôi. Thân thể tôi tắm trong nước đại dương ấm áp. Tôi cảm thấy dòng thủy triều chầm chậm chuyển. Nó đang mang tôi đi. Tôi quyết định làm theo lời Kano Creta, không nghĩ ngợi gì hết. Tôi nhắm mắt lại, để cho sức lực thoát khỏi tay chân, phó thác thân mình cho dòng nước.

Đột nhiên tôi nhận thấy căn phòng sụp tối. Tôi cố nhìn quanh nhưng hầu như chẳng thấy gì. Các ngọn đèn tường đều đã tắt phụt. Chỉ còn hình dáng mờ mờ bộ áo dài xanh của Kano Creta đang khẽ lắc lư trên người tôi. "Quên đi," cô ta nói, nhưng đó không còn là giọng của Kano Creta nữa. "Quên hết mọi chuyện đi. Anh đang ngủ. Anh đang mơ. Anh đang nằm trong một vũng bùn ấm, dễ chịu. Tất cả chúng ta từ bùn mà ra và đều trở về bùn".

Đó là người đàn bà đã nói chuyện với tôi qua điện thoại. Người đàn bà bí ẩn trên điện thoại lúc này đang cưỡi trên tôi, hợp nhất thân mình với thân tôi. Cô ta cũng mặc áo váy của Kumiko. Cô ta và Kano Creta đã đổi chỗ cho nhau mà tôi không hề biết. Tôi cố nói. Tôi không biết mình mong nói được gì, nhưng ít nhất tôi cũng cố nói gì đó. Tuy nhiên, vì quá bối rối nên tôi chẳng thốt được tiếng nào. Tôi chỉ bật ra được mỗi một luồng khí nóng. Tôi mở căng mắt cố nhìn rõ mặt người đàn bà đang cưỡi trên tôi, nhưng trong phòng tối quá.

Người đàn bà không nói gì nữa. Thay vào đó cô ta bắt đầu chuyển động đôi hông càng khêu gợi hơn. Thịt da mềm mại của cô, dường như bản thân nó là một cơ thể độc lập, vừa ôm trùm lấy tôi vừa nhẹ nhàng kéo tôi vào trong nó. Từ phía sau cô ta tôi nghe thấy - hay tưởng như nghe thấy - tiếng quả đấm cửa xoay. Một ánh lóe trắng lướt qua trong bóng tối. Có thể là chiếc xô đựng đá đặt trên bàn vừa được chiếu sáng trong khoảnh khắc bởi ánh đèn ngoài hành lang. Hoặc có thể ánh lóe đó phát ra từ một lưỡi dao bén. Nhưng tôi không nghĩ gì hơn được nữa. Chỉ còn một việc duy nhất tôi có thể làm: tôi xuất.

° ° °


Tôi rửa tay thật kỹ dưới vòi hoa sen, giặt bằng tay chiếc quần lót vấy tinh dịch. Lạ thật, tôi nghĩ. Cớ sao tôi lại gặp mộng tinh trong giai đoạn khó khăn này của cuộc đời mình?

Một lần nữa tôi lại thay quần áo mới, một lần nữa tôi lại ra ngoài hiên nhìn khu vườn. Những vạt nắng lọc qua tầng lá xanh dày, nhảy múa trên vạn vật. Mấy ngày mưa liên tục làm cỏ dại xanh tươi mọc um tùm đây đó, khiến khu vườn phảng phất vẻ tiêu điều tù đọng.

Lại Kano Creta. Hai cơn mộng tinh cách nhau chỉ một thời gian ngắn, và cả hai lần đều là Kano Creta. Tôi chưa lần nào nghĩ đến việc ngủ với cô ta cả. Ý muốn ngủ với cô ta chưa bao giờ nảy ra trong đầu tôi. Ấy thế mà cả hai lần tôi đều cùng ở trong một căn phòng đó mà nhập thân thể mình vào thân thể cô ta. Nguyên do là thế nào chứ? Lại còn người đàn bà trên điện thoại về sau thế chỗ cho Creta nữa, cô ta là ai? Cô ta biết tôi, mà tôi cũng biết cô ta, ấy là cô ta bảo vậy. Tôi điểm lại trong đầu mấy người bạn tình tôi từng có trong đời, nhưng không ai trong số đó có thể là người đàn bà trên điện thoại cả. Thế nhưng ở cô ta có cái gì đó quen lắm. Đó là điều khiến tôi bứt rứt khó chịu.

Có một thứ ký ức nào đó đang cố thoát ra ngoài. Tôi cảm thấy nó đang vùng vẫy ở bên trong. Tất cả những gì tôi cần chỉ là một lời gợi ý nhỏ. Nếu tôi rút đúng sợi chỉ nhỏ nhoi đó, mọi thứ sẽ được tháo gỡ hết. Điều bí ẩn đang chờ tôi giải nó. Nhưng sợi chỉ mỏng manh duy nhất kia thì tôi chưa thể tìm ra.

Tôi chịu thua không nghĩ nữa. "Quên hết đi. Anh đang ngủ. Anh đang mơ. Anh đang nằm trong bùn ấm, dễ chịu. Tất cả chúng ta từ bùn mà ra và tất cả chúng ta đều trở về bùn".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2012 20:49:26 | Xem tất


Đến 6 giờ chiều vẫn không ai gọi điện. Chỉ có Kasahara May đến. Cô chỉ cần một hớp bia thôi, cô bảo. Tôi lấy một lon bia trong tủ lạnh rồi chia đôi với cô. Tôi đói, thế nên tôi kẹp ít thịt băm và rau diếp vào giữa hai lát bánh mì rồi ăn. Thấy tôi ăn, May bảo cô cũng muốn ăn. Tôi bèn làm sandwich cho cả cô. Chúng tôi lặng lẽ ăn và uống bia. Chốc chốc tôi lại nhìn đồng hồ.

- Nhà này không có tivi à?

- Không có tivi, - tôi đáp.

Cô hơi cắn môi.

- Em cũng nghĩ vậy. Anh không thích tivi sao?

- Không phải anh không thích. Nhưng không có tivi cũng chả sao.

Kasahara May ngẫm nghĩ một hồi.

- Chim vặn dây cót này, anh chị lấy nhau được mấy năm rổi?

- Sáu năm, - tôi đáp.

- Suốt sáu năm ấy anh chị không hề có tivi à?

- Ờ. Ban đầu bọn anh không có tiền mua. Sau rồi quen, sống không cần tivi nữa. Vậy cũng tốt, yên tĩnh.

- Hẳn hai anh chị hạnh phúc lắm.

- Sao em nghĩ vậy?

Cô nhăn mặt.

- Em thì không sống nổi một ngày nếu không có tivi.

- Vì sao, vì em không hạnh phúc à?

Kasahara May không trả lời.

- Nhưng giờ Kumiko đi rồi. Hẳn anh sẽ không hạnh phúc như vậy nữa đâu, Chim vặn dây cót à.

Tôi gật đầu, nhấp một ngụm bia.

- Có vậy thật, - tôi nói. Quả đúng vậy.

Cô cho một điếu thuốc lên môi rồi bật diêm mồi thuốc bằng một động tác thành thạo.

- Này Chim vặn dây cót, anh nói thật với em nhé, hết sức thành thật đấy. Em có xấu xí không?

Tôi đặt cốc bia xuống rồi nhìn lại khuôn mặt Kasahara May. Nói chuyện với cô từ nãy đến giờ mà tâm trí tôi cứ để đâu đâu. Cô mặt váy áo phông đen quá khổ, làm lộ rõ đường cong của bộ ngực con gái.

- Em hoàn toàn không xấu chút nào, - tôi nói. - Dứt khoát là vậy. Sao em hỏi thế?

- Bạn trai em cứ luôn mồm bảo em xấu xí, rằng em không có vú vê gì hết.

- Có phải cậu bị tai nạn môtô không?

- Vâng, cậu ấy đấy.

Tôi quan sát Kasahara May chầm chậm phà khói thuốc.

- Tụi con trai ở tuổi đó toàn nói năng vậy thôi. Chúng không biết nói sao để diễn đạt chính xác cảm nhận của mình, nghĩ một đằng nói một nẻo, thành ra vô cớ làm tổn thương đến người khác và cũng làm tổn thương chính mình. Chứ em thì có xấu chút nào đâu. Anh thấy em rất xinh. Không phải nịnh đâu.

Kasahara May ngẫm nghĩ một hồi. Cô gạt tàn thuốc vào lon bia rỗng.

- Bà Chim vặn dây cót có xinh không?

- Chà, cái ấy thì khó nói. Kẻ thì bảo cô ấy xinh, người khác lại bảo không. Đó là chuyện sở thích.

- Em hiểu, - cô nói. Cô gõ móng tay lên thành cốc như thể đang thấy buồn chán.

- Bạn trai em làm gì? - tôi hỏi. - Cậu ta có đến gặp em nữa không?

- Không, - Kasahara May đáp, ngón tay đặt lên vết sẹo cạnh mắt trái. - Em sẽ không bao giờ gặp cậu ấy nữa. Chắc chắn thế. Chắc hai trăm phần trăm. Có cược chặt ngón chân út em cũng cược. Nhưng em không thích nói chuyện đó ngay lúc này. Anh biết đó, có những điều hễ mình nói tới thì lại thành ra không thật. Anh hiểu ý em chứ, hở Chim vặn dây cót?

- Chắc anh hiểu, - tôi nói. Đoạn tôi liếc cái điện thoại trong phòng khách. Nó nằm trên bàn, chìm trong im lặng. Nó trông như một sinh vật đáy biển giả vờ là một vật vô tri, đang mai phục rình mồi.

- Chim vặn dây cót à, hôm nào đó em sẽ kể với anh về cậu ấy. Khi nào em thấy thích kể ấy. Nhưng bây giờ thì không. Đơn giản là em không thích kể bây giờ.

Cô nhìn đồng hồ.

- Em phải về đây. Cám ơn anh cho uống bia nhé.

Tôi tiễn cô ra bức tường ngoài vườn. Vầng trăng gần tròn tuôn ánh sáng to hạt xuống mặt đất. Cảnh trăng tròn làm tôi nhớ lại rằng sắp tới kỳ kinh của Kumiko. Nhưng điều đó hẳn không liên quan gì tới tôi nữa. Ý nghĩ đó khiến trong ngực tôi đau nhói lên. Cái đau dữ dội đột kích tôi thật bất ngờ: nó giống như nỗi buồn.

Đặt hai tay lên đầu tường, Kasahara May nhìn tôi.

- Này Chim vặn dây cót, anh nói em nghe, anh yêu Kumiko phải không?

- Anh nghĩ là yêu.

- Cho dù chị ấy bỏ đi với tình nhân? Nếu chị ấy bảo muốn quay lại với anh, anh có đón nhận chị ấy không?

Tôi thở dài.

- Câu hỏi khó đây, - tôi nói. - Chừng nào xảy ra như vậy thật thì anh cần phải nghĩ đã.

- Xin lỗi nếu em hơi tọc mạch, - Kasahara May vừa nói vừa khẽ tắc lưỡi. - Anh đừng giận nhé. Em chỉ cố học thôi mà. Em muốn biết nếu bị vợ bỏ thì thế nào thôi. Có bao nhiêu chuyện mà em không biết.

- Anh không giận đâu, - tôi đáp. Rồi tôi lại nhìn lên vầng trăng tròn.

- Thế thì được rồi. Chim vặn dây cót, anh khỏe nhé. Em mong vợ anh sẽ về và mọi chuyện sẽ êm đẹp.

Nhẹ nhàng đến khó tin, Kasahara May nhảy phóc qua tường rồi biến mất vào màn đêm mùa hè.

° ° °


Kasahara May đi rồi, tôi lại chỉ có một mình. Tôi ngồi ngoài hiên ngẫm nghĩ về những câu hỏi cô bé đã nêu ra. Nếu Kumiko bỏ nhà đi với tình nhân, liệu tôi có thể đón nhận nàng nếu nàng trở lại không? Tôi không biết câu trả lời. Tôi thực sự không biết. Có bao nhiêu điều tôi không biết.

Bất ngờ điện thoại reo. Bàn tay tôi bật ngay ra như một phản xạ có điều kiện, chộp lấy ống nghe.

Giọng nói ở đầu dây bên kia là của một phụ nữ.

- Tôi là Kano Malta đây, - cô ta nói. - Xin ông thứ lỗi vì tôi gọi ông thường xuyên như vậy, thưa ông Okada. Tôi muốn biết chẳng hay ngày mai ông có dự định gì không?

Tôi bảo tôi chẳng có dự định nào hết. Đơn giản rằng tôi không hề có cái gọi là dự định.

- Nếu vậy, liệu chúng ta có thể gặp nhau vào buổi chiều không ạ?

- Chuyện này có liên quan gì đến Kumiko không?

- Tôi tin là có, - Kano Malta vừa nói vừa chọn kỹ từng lời. - Rất có thể Wataya Noboru cũng sẽ gặp chúng ta.

Nghe đến đây tôi suýt đánh rơi ống nghe.

- Ý cô là ba chúng ta sẽ gặp nhau để nói chuyện à?

- Vâng, tôi nghĩ vậy, - Kano Malta nói - trong hoàn cảnh hiện nay thì điều đó là cần thiết. Tôi xin lỗi không thể nói chi tiết hơn qua điện thoại.

- Tôi hiểu. Thôi được rồi, - tôi nói.

- Chúng ta gặp nhau lúc 1 giờ chiều nhé. Cũng ở nơi ta gặp nhau lần trước: trà quán ở khách sạn Shinagawa Pacific.

- 1 giờ ở trà quán tại khách sạn Shinagawa Pacific, - tôi đáp lại rồi gác máy.

° ° °


10 giờ đêm thì Kasahara May gọi điện. Cô chẳng có chuyện gì đặc biệt cần nói cả, chỉ muốn nói chuyện với ai đó thôi. Chúng tôi chuyện gẫu một hồi về những đề tài vặt vãnh.

- Nói em nghe, Chim vặn dây cót, - cuối cùng cô hỏi, - từ lúc em về anh có nhận được tin lành nào không?

- Không có tin lành nào hết, - tôi nói. - Chẳng có gì.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2012 20:51:15 | Xem tất


Chương 3
Wataya Noboru Nói

Chuyện Lũ Khỉ Trên Đảo


Tôi đến quán trà sớm hơn giờ hẹn mười phút, nhưng Wataya Noboru và Kano Creta đã ngồi nơi bàn đợi tôi rồi. Đang giờ ăn trưa, quán đông nghẹt khách, nhưng tôi nhận ra Kano Creta ngay lập tức. Có mấy ai đội mũ vải vinyl màu đỏ giữa trưa hè nắng gắt đâu. Đó hẳn cũng là cái mũ cô đã đội vào hôm đầu tiên tôi gặp cô ta, trừ phi cô có cả một bộ sưu tập mũ bằng vải vinyl, tất cả đều cùng màu, cùng kiểu. Cô vẫn ăn mặc như lần trước, đơn giản mà tinh tế: áo ngắn tay bằng vải lanh khoác ngoài áo cánh không cổ bằng vải bông. Cả hai đều trắng phau, không một nếp nhăn. Không trang sức, không trang điểm. Duy chỉ có chiếc mũ vải vinyl màu đỏ là tương phản với mọi thứ còn lại cả về màu sắc lẫn chất liệu. Khi tôi đến kéo ghế ngồi, cô ta giở mũ đặt lên bàn như chỉ đợi có thế. Bên cạnh chiếc mũ là một cái xắc tay nhỏ bằng da màu vàng. Cô ta đã gọi nước tonic nhưng chưa đụng tới, cũng như lần trước. Thứ chất lỏng kia trông có vẻ lúng túng thế nào đó trong cái cốc cao, như thể nó chẳng có gì hay hơn để làm ngoài việc sủi lên những bong bóng nhỏ.

Wataya Noboru đeo kính râm màu xanh lục. Ngay khi tôi ngồi xuống, hắn tháo kính ra nhìn chăm chăm vào cặp tròng kính một lúc rồi lại đeo vào. Hắn mặc áo phông trắng nom mới tinh, bên ngoài là áo khoác thể thao bằng vải bông màu xanh nước biển. Trên bàn trước mặt hắn cũng có một cốc trà đá, nhưng hình như hắn cũng chưa đụng tới.

Tôi gọi cà phê rồi nhấp một ngụm nước đá.

Không ai nói gì. Wataya Noboru thậm chí ra vẻ không hề nhận thấy tôi đã đến. Tôi đặt một bàn tay lên bàn, lật lên úp xuống và quan sát kỹ để biết chắc không phải mình đã đột ngột trở nên vô hình. Bồi bàn đến, đặt tách trước mặt tôi rồi rót cà phê. Khi anh ta đi rồi, Kano Malta khẽ hắng giọng như để thử micro, nhưng cô ta vẫn chẳng nói gì.

Người đầu tiên lên tiếng là Wataya Noboru.

- Tôi có rất ít thời gian, nên chúng ta hãy nói càng đơn giản và thẳng thắn càng tốt.

Hắn như đang nói với cái chén đựng đường bằng thép không gỉ ở giữa bàn, nhưng dĩ nhiên đó là hắn nói với tôi. Cái chén đựng đường chẳng qua là một điểm chung chuyển thuận tiện giữa chúng tôi, để hắn có thể hướng lời vào đấy.

- Nói càng đơn giản và thẳng thắn càng tốt về cái gì? - tôi hỏi một cách cực kỳ thẳng thắn.

Rốt cuộc Wataya Noboru cũng tháo kính ra, xếp lại, để lên bàn, rồi nhìn thẳng vào tôi. Đã hơn ba năm rồi tôi không gặp hắn, không nói chuyện với hắn, nhưng tôi không hề cảm thấy có cái khoảng cách thời gian ấy - hẳn là vì cái mặt hắn từ trên báo chí và truyền hình quá thường xuyên chường ra trước mắt tôi. Có một số loại thông tin cứ như khói: nó xộc vào mắt, vào tâm trí người ta dù người ta có tìm kiếm nó hay không, có thích hay không.

Nhưng lúc này, buộc phải gặp trực tiếp hắn, tôi không thể không nhận thấy ba năm qua đã làm thay đổi đến mức nào cái ấn tượng mà khuôn mặt hắn gây ra. Vẻ lờ đờ, uể oải trước kia của hắn đã lùi xuống đằng sau, được thay bằng một cái gì đó bóng lưỡng, nhân tạo. Wataya Noboru đã tìm được cho mình một cái mặt nạ mới, tinh vi hơn, một cái mặt nạ làm rất khéo, thậm chí có thể nói là một bộ da mới. Dù nó là gì đi nữa, mặt nạ hay bộ da, tôi buộc phải thừa nhận - vâng, ngay cả tôi cũng phải thừa nhận - rằng nó có một sức hấp dẫn nào đó. Thế rồi tôi vỡ ra: nhìn cái mặt này cũng như nhìn một hình ảnh trên truyền hình vậy. Hắn nói năng đúng theo kiểu người ta nói trên truyền hình, hắn cửa động đúng theo kiểu người ta cử động trên truyền hình. Giữa hai chúng tôi luôn luôn có một lớp kính. Tôi ở bên này, hắn ở bên kia.

- Nói chuyện gì thì chắc cậu biết rồi, ta gặp nhau hôm nay để nói về Kumiko, - Wataya Noboru nói. - Về Kumiko và cậu. Về tương lai của cậu. Cậu và cô ấy sẽ làm gì.

- Làm gì á? - Tôi vừa nói vừa nâng tách lên, nhấp một ngụm cà phê. - Anh nói cụ thể hơn một chút được không?

Wataya Noboru nhìn tôi với cặp kính vô cảm đến kỳ lạ.

- Cụ thể hơn một chút à? Kumiko có tình nhân. Nó đã bỏ cậu. Chắc cậu cũng biết, không ai là người trong cuộc ở đây lại muốn tình thế này kéo dài mãi. Như vậy sẽ không tốt cho bất cứ ai.

- Có tình nhân? - tôi hỏi.

- Khoan đã, xin hãy khoan, - Kano Malta chọn đúng lúc đó để xen vào. - Những cuộc nói chuyện như thế này phải theo trình tự trước sau. Thưa ông Wataya, ông Okada, xin mọi người hãy nói theo trình tự.

- Tôi không hiểu, - Wataya Noboru nói bằng giọng hoàn toàn vô sinh khí. - Ở đây chả có trình tự gì hết. Cô nói về cái trình tự nào kia? Chẳng có trình tự quái gì ở đây cả.

- Cứ để ông ấy nói trước, - tôi nói với Kano Malta. - Trình tự thì ta có thể áp đặt sau, nếu cứ cho là có trình tự.

Kano Malta nhìn tôi vài giây, hơi bĩu môi, rồi khẽ gật đầu.

- Thôi được, - cô nói. - Ông Wataya nói trước. Xin mời.

- Kumiko đã tìm được một người đàn ông khác, - hắn bắt đầu nói. - Nay nó đã bỏ nhà theo anh ta. Chuyện đó đã rõ. Nghĩa là chẳng còn lý do gì để hai cô cậu tiếp tục cuộc hôn nhân. Cũng may cô cậu chưa có con, và xét hoàn cảnh thì cũng chẳng có khoản tiền nào cần trao tay cả. Mọi việc có thể thu xếp chóng vánh. Đơn giản là nó rút tên khỏi hộ khẩu gia đình nhà cậu thôi. Cậu chỉ cần ký tên, đóng dấu vào các mẫu đơn do luật sư soạn sẵn, thế là xong. Và cho tôi nói thêm điểm này để tránh hiểu lầm: những gì tôi đang nói đây là quan điểm cuối cùng của toàn bộ gia đình Wataya.

Tôi khoanh tay trước ngực, ngẫm nghĩ một lúc những điều hắn vừa nói.

- Tôi có vài câu hỏi, - tôi nói. - Trước hết, làm sao anh biết Kumiko có tình nhân?

- Chính nó bảo tôi, - Wataya Noboru nói.

Tôi không biết nói gì nữa. Tôi đặt hai tay lên bàn, im lặng. Tôi thật khó hình dung một vấn đề cá nhân như vậy mà Kumiko lại đi nói với Wataya Noboru.

- Nó gọi điện cho tôi cách đây một tuần, nói rằng có chuyện cần bàn, - Wataya Noboru nói tiếp. - Hai chúng tôi đã gặp nhau và nói chuyện. Mặt đối mặt. Lúc đó Kumiko mới kể với tôi nó đang hẹn hò với một người khác.

Lần đầu tiên trong nhiều tháng, tôi thấy thèm thuốc. Dĩ nhiên tôi không mang theo thuốc lá. Thay vì thuốc, tôi nhấp một ngụm cà phê rồi đặt tách xuống đĩa đánh cách một tiếng lớn, khô khốc.

- Rồi nó bỏ nhà đi, - hắn nói.

- Tôi hiểu, - tôi nói. - Nếu anh nói vậy thì chắc đúng như vậy. Hẳn là Kumiko đã có tình nhân. Và cô ấy đến gặp anh nhờ khuyên bảo. Tôi thật khó mà tin được, nhưng tôi không thể hình dung chuyện như vậy mà anh có thể nói dối với tôi.

- Dĩ nhiên là tôi không nói dối, - Wataya Noboru nói, môi thoáng cười.

- Anh chỉ có ngần ấy để nói với tôi sao? Kumiko bỏ tôi theo người khác, thế là tôi nên đồng ý ly dị à?

Wataya Noboru đáp bằng cách chỉ khẽ gật đầu, như thể hắn đang cố tiết kiệm sức lực.

- Chắc cậu cũng biết ngay từ đầu tôi đã không đồng tình với việc Kumiko lấy cậu. Tôi đã không tích cực can thiệp vào bởi tôi cho đó không phải là việc của tôi, nhưng giờ thì tôi lấy làm tiếc hồi đó mình đã không can thiệp. - Hắn nhấp một ngụm nước rồi đặt lại cốc xuống bàn. Đoạn hắn nói tiếp: - Ngay từ lần đầu tiên gặp cậu, tôi đã biết không thể hy vọng bất cứ cái gì ở cậu hết. Tôi không thấy ở cậu có chút hứa hẹn gì sất. Ở cậu không có cái gì cho thấy cậu sẽ làm được việc gì ra hồn, làm người cho ra người còn không được nữa là. Chẳng có gì lấp lánh, chẳng có gì tỏa sáng, chẳng có gì ráo. Tôi đã biết cậu đặt tay lên cái nào là y như rằng cái đó dở cơm dở cháo, rằng cậu sẽ không bao giờ làm được việc gì đến nơi đến chốn. Và tôi có sai đâu. Cậu đã cưới em tôi được sáu năm, trong suốt thời gian đó cậu làm được cái gì? Không gì hết, đúng không? Suốt sáu năm qua cậu chỉ làm được mỗi một việc là bỏ việc và hủy hoại cuộc đời của Kumiko. Nay cậu đang thất nghiệp và không có dự định nào cho tương lai. Trong cái đầu cậu chẳng có gì khác ngoài đá cục và rác rưởi.

Tại sao Kumiko lại ưa cái ngữ như cậu, tôi không bao giờ hiểu nổi. Có lẽ nó thấy đống rác rưởi đá cục trong đầu cậu là thú vị chăng. Nhưng nói gì thì nói, rác vẫn là rác, đá vẫn là đá. Ngay từ đầu nó đã chọn lầm người. Nói vậy không có nghĩa Kumiko là người hoàn hảo. Từ nhỏ nó đã có những thói kỳ quặc, vì lý do này nọ. Tôi cho rằng chính vì vậy mà có thời nó đã bị cậu thu hút. Nhưng giờ thì hết rồi. Trong mọi trường hợp, tốt nhất là hãy chấm dứt chuyện này càng sớm càng tốt. Cha mẹ tôi và tôi sẽ trông nom Kumiko. Chúng tôi muốn cậu hãy rút lui. Mà cũng đừng mất công tìm nó. Cậu không còn liên quan gì tới nó nữa. Cậu càng cố dây vào thì chỉ tổ càng gây rắc rối thôi. Tốt nhất cậu hãy bắt đầu cuộc đời mới ở một chỗ mới, một cuộc đời thích hợp với cậu hơn. Thế là tốt nhất cả cho cậu lẫn cho chúng tôi.

Để tỏ ra hắn đã nói xong, Wataya Noboru uống cạn cốc nước rồi gọi bồi, bảo mang thêm nước lên.

- Anh còn gì nói nữa không? - tôi hỏi.

Lần này Wataya Noboru trả lời bằng cách khẽ lắc đầu.

- Nếu vậy, - tôi nói với Kano Malta, - trình tự của cuộc nói chuyện này là thế nào?

Kano Malta lấy trong xắc ra một chiếc khăn mùi soa nhỏ màu trắng mà lau khóe miệng. Đoạn cô ta nhấc chiếc mũ bằng vải vinyl màu đỏ đặt lên trên cái xắc.

- Tôi biết chuyện này sẽ rất sốc đối với ông, thưa ông Okada, - cô nói. - Về phần mình, tôi rất khổ tâm khi phải nói chuyện trực tiếp với ông về những chuyện này, mong ông hiểu.

Wataya Noboru liếc đồng hồ như để xác nhận rằng trái đất vẫn đang xoay quanh trục, càng xoay thì lại càng lấy mất thì giờ quý báu của hắn.

- Tôi hiểu mình phải nói càng đơn giản và thẳng thắn càng tốt. Bà Okada đến gặp tôi đầu tiên. Bà ấy đến xin tôi lời khuyên.

- Theo lời giới thiệu của tôi, - Wataya Noboru xen vào. - Kumiko đến gặp tôi về chuyện con mèo, tôi mới giới thiệu nó với cô Kano.

- Chuyện ấy là trước hay sau khi tôi gặp cô? - tôi hỏi Kano Malta.

- Trước, - cô đáp.

- Trong trường hợp đó, nếu sắp xếp mọi chuyện theo trình tự thì đại loại thế này. Kumiko biết về sự tồn tại của cô thông qua Wataya Noboru, cô ấy liền đến tìm cô về việc con mèo đi lạc. Sau đó, vì lý do gì tôi chưa rõ, cô ấy giấu tôi việc cô ấy đã gặp cô mà sắp xếp cho tôi gặp cô, thế là chúng ta gặp nhau, ngay ở đây. Tôi nói có đúng không?

- Gần như vậy, - Kano Malta nói, hơi ngắc ngứ. - Cuộc gặp đầu tiên giữa tôi với bà Okada là chỉ về chuyện con mèo. Tuy nhiên, tôi lại thấy chuyện này có gì đó sâu xa hơn chứ không chỉ có thế, chính vì vậy tôi mới cần gặp ông Okada để nói trực tiếp với ông. Sau đó tôi lại thấy cần phải gặp bà Okada một lần nữa để hỏi về những việc sâu kín, riêng tư hơn.

- Đó cũng là lúc Kumiko kể với cô rằng cô ấy có tình nhân.

- Vâng. Đại để là vậy. Ở địa vị của tôi, tôi không thể nói chi tiết hơn về chuyện đó, - Kano Malta nói.

Tôi thở dài. Thở dài có giải quyết được gì cho cam, nhưng tôi không thể không làm vậy.

- Vậy là Kumiko dan díu với gã kia đã khá lâu rồi?

- Khoảng hai tháng rưỡi gì đó, tôi nghĩ vậy.

- Hai tháng rưỡi, - tôi nói. - Làm sao chuyện đó diễn ra suốt hai tháng rưỡi trời mà tôi không nhận thấy gì hết cơ chứ?

- Bởi vì ông chẳng mảy may nghi ngờ vợ mình, ông Okada ạ, - Kano Malta nói.

Tôi gật đầu.

- Đúng vậy. Chưa bao giờ trong đầu tôi có ý nghĩ đó. Tôi chưa bao giờ hình dung Kumiko có thể nói dối tôi như vậy, đến giờ tôi vẫn không tin được.

- Nếu không kể đến hậu quả, thì khả năng tin tưởng người khác một cách trọn vẹn là một trong những phẩm chất cao đẹp nhất của con người, - Kano Malta nhận xét.

- Và không dễ gì có được, - Waraya Noboru nói.

Bồi bàn đến rót thêm vào tách cà phê của tôi. Một phụ nữ bàn bên cạnh phá lên cười.

- Vậy thì rốt cuộc mục đích để hôm nay chúng ta gặp nhau là gì? - tôi nói với Wataya Noboru. - Tại sao ba chúng ta ngồi đây? Để tôi phải đồng ý ly dị Kumiko chăng? Hay còn mục đích nào khác sâu xa hơn? Những gì anh vừa nói tuồng như cũng có thứ lôgic nào đó, nhưng tất cả những phần quan trọng thì lại mơ hồ. Anh nói Kumiko có tình nhân và bỏ nhà đi. Vậy cô ấy đi tới đâu? Cô ấy đang làm gì ở đó? Cô ấy ở đó một mình hay ở với gã kia? Tại sao Kumiko không liên lạc với tôi? Nếu đúng là cô ấy có tình nhân thì đành chịu, thế là hết. Nhưng tôi chỉ tin đó là sự thật chừng nào chính Kumiko nói ra với tôi. Anh có hiểu không? Nói gì thì nói, chuyện chỉ liên quan đến hai người thôi, là Kumiko và tôi. Chỉ có chúng tôi mới phải nói chuyện với nhau và quyết định mọi chuyện. Anh chẳng dính dáng gì ở đây hết.

Wataya Noboru đẩy cốc trà đá chưa đụng tới sang một bên.

- Chúng tôi tới đây để thông báo tình hình cho cậu, - hắn nói. - Tôi đã nhờ cô Kano đi cùng tôi, bởi tôi cho rằng có mặt bên thứ ba nữa thì hơn. Tôi không biết tình nhân của Kumiko là ai, tôi cũng không biết hiện giờ nó ở đâu. Kumiko là người lớn. Nó muốn làm gì là việc của nó. Nhưng dù có biết nó đang ở đâu, nhất định tôi cũng không nói cho cậu hay. Nó không liên lạc với cậu bởi vì nó không muốn nói chuyện với cậu.

- Nhưng cô ấy đã nói chuyện với anh! Cô ấy có thể nói những gì với anh nhỉ? Theo tôi hiểu, anh với cô ấy có thân thiết với nhau lắm đâu.

- Nếu cậu với nó thân thiết với nhau đến thế thì cớ sao nó ngủ với thằng khác? - Wataya Noboru nói.

Kano Malta khẽ ho.

Wataya Noboru nói tiếp:

- Kumiko bảo tôi nó đang có quan hệ với một người đàn ông khác. Nó bảo nó muốn giải quyết dứt điểm mọi chuyện một lần cho xong. Tôi đã khuyên nó ly dị cậu. Nó bảo nó sẽ suy nghĩ về chuyện đó.

- Chỉ thế thôi à? - tôi hỏi.

- Chứ cậu còn muốn gì nữa?

- Tôi không hiểu nổi, - tôi nói. - Tôi không tin chuyện quan trọng như thế mà Kumiko lại đi nói với anh. Chuyện như vậy cô ấy sẽ tâm sự với ai chứ anh thì không đời nào. Cô ấy hoặc sẽ tự suy nghĩ lấy hoặc sẽ nói thẳng với tôi. Chắc hẳn cô ấy nói với anh là nói gì khác cơ. Nếu cô ấy đã gặp anh để nói chuyện thì hẳn phải là chuyện gì khác rồi.

Trên môi Wataya Noboru thoáng qua nụ cười mơ hồ nhất có thể có - một nụ cười mỏng dính, lạnh tanh như mảnh trăng treo trên bầu trời khi bình minh.

- Người ta bảo vu vạ là ý nói vậy đó, - hắn nói bằng giọng khẽ nhưng nghe rõ.

- Vu vạ, - tôi nhắc lại, để thử tự mình nói ra cái từ ấy.

- Chắc cậu hiểu ý tôi chứ, - hắn nói. - Vợ cậu ngủ với tình nhân. Cô ta bỏ cậu. Thế rồi cậu đổ lỗi lên người khác. Tôi chưa bao giờ nghe ai nói năng ngu xuẩn như vậy. Này, tôi đến đây có phải vì thích đến đâu. Tôi đến là vì việc cần phải đến. Với tôi, thế này chỉ tổ phí thời gian. Cầm bằng như tôi ném thời gian vào máng xối ấy.

Khi hắn nói xong, cả bàn lặng ngắt.

- Anh có biết chuyện lũ khỉ trên đảo ********** không? - tôi hỏi Wataya Noboru.

Hắn lắc đầu, vẻ không hề quan tâm.

- Chưa bao giờ nghe.

- Ở nơi kia, xa, xa lắm, có một hòn đảo **********. Một hòn đảo không tên. Một hòn đảo không đáng được đặt tên. Một hòn đảo **********, hình thù như **********. Trên hòn đảo ********** đó mọc những cây dừa hình thù cũng như **********. Những cây dừa đó cho những quả dừa có mùi **********. Có những lũ khỉ như ********** sống trên những cây dừa đó, chúng thích ăn những quả dừa có mùi ********** đó, ăn xong chúng ị ra thứ ********** kinh tởm nhất trên đời. ********** đó rơi xuống đất, lâu ngày thành cả ụ **********, làm những cây dừa ********** mọc trên đó đã ********** lại càng **********. Đó là một chu trình vô tận.

Tôi uống nốt chỗ cà phê còn lại.

- Ngồi đây nhìn anh, - tôi tiếp -, bỗng tôi nhớ lại cậu chuyện về hòn đảo ********** nọ. Điều tôi muốn nói là thế này. Một thứ **********, một thứ thối tha, một thứ bóng tối nào đó đang tự phát tán ra hoài hoài bằng tự lực nó, theo chu trình tự thân của nó. Và một khi nó đã vượt qua một điểm nhất định thì không ai ngăn nó lại được, cho dù chính đương sự muốn ngăn nó lại đi nữa.

Mặt Wataya Noboru không biểu lộ bất cứ cảm xúc gì. Nụ cười đã biến mất, nhưng cũng chẳng có dấu hiệu gì là bực tức. Tôi chỉ thấy mỗi một nếp nhăn nhỏ giữa hai lông mày hắn, nhưng tôi không nhớ có phải nếp nhăn đó đã có từ trước không.

- Anh hiểu tôi chưa, Wataya Noboru? - tôi nói tiếp. - Tôi biết đích xác anh là loại nguời nào. Anh bảo tôi là đá cục, là rác rưởi. Anh nghĩ anh có thể nghiền tôi thành cám bất cứ lúc nào anh muốn. Nhưng không đơn giản như vậy đâu. Với anh, xét theo những giá trị của anh thì tôi có thể đúng là rác rưởi và đá cục. Nhưng tôi không ngu như anh nghĩ đâu. Tôi biết anh rõ anh là hạng nào bên dưới cái mặt nạ trơn tru dành riêng cho truyền hình kia của anh. Tôi biết bí mật của anh. Kumiko biết, tôi biết, cả hai chúng tôi biết dưới đó là cái gì. Nếu muốn, tôi có thể nói hết với thiên hạ. Tôi có thể đưa nó ra giữa thanh thiên bạch nhật. Có thể mất thời gian, nhưng tôi làm được. Tôi có thể chẳng là cái thá gì, nhưng ít nhất tôi không phải là cái bao cát. Tôi là một con người đang sống, đang hít thở. Kẻ nào đá tôi, tôi đá lại. Hãy nhớ điều đó cho kỹ.

Wataya Noboru tiếp tục nhìn tôi chằm chằm với bộ mặt vô cảm kia, bộ mặt giống như một cục đá trôi trong không trung. Những gì tôi vừa nói với hắn hầu như toàn là bịp bợm mà thôi. Tôi không biết bí mật của Wataya Noboru. Trong con người hắn có cái gì đó méo mó ghê gớm, điều đó nhận ra không khó. Nhưng tôi không cách nào đoán được chính xác đó là cái gì. Tuy nhiên, lời của tôi dường như đã chọc đúng cái gì đó ở bên trong. Tôi đọc được điều đó trên mặt hắn. Hắn không phản ứng lại tôi theo kiểu hắn thường làm với các đối thủ khi thảo luận trên truyền hình: hắn không chế nhạo lời của tôi, không nói khích để bẫy tôi, không tìm cách khéo léo nói chệch đi. Hắn ngồi đó im lìm, không động đậy một cơ nào.

Thế rồi một cái gì đó thật kỳ quặc diễn ra trên mặt Wataya Noboru. Từng chút một, mặt hắn chuyển sang màu đỏ. Nhưng nó chuyển sang màu đỏ theo một cách hết sức lạ lùng. Trong khi một số mảng đã đỏ tía lên rồi thì vài mảng khác chỉ mới ương ương đỏ đỏ, phần còn lại thì xám ngoét ra một cách quái dị. Nó khiến tôi nghĩ đến một cánh rừng thu lổ đổ những đốm màu khác nhau bởi các tán cậy quanh năm và tán cây rụng lá xen lẫn nhau.

Cuối cùng, chẳng nói chẳng rằng, Wataya Noboru đứng dậy, rút kính râm ra khỏi túi, đeo vào. Những đốm màu loang lổ kỳ quái kia vẫn bao phủ mặt hắn. Xem ra từ nay chúng sẽ nằm đó mãi mãi. Kano Malta vẫn ngồi yên như tượng, không nói gì. Tôi thì ra vẻ hoàn toàn thờ ơ. Wataya Noboru toan nói gì đó với tôi nhưng hình như rốt cuộc hắn kìm lại. Hắn đi khỏi bàn, biến mất vào đám đông.


° ° °


Wataya Noboru đi khỏi một hồi, Kano Malta và tôi vẫn không nói gì với nhau. Tôi thấy kiệt sức. Bồi bàn đến đề nghị rót thêm cà phê, nhưng tôi xua anh ta đi. Kano Malta nhặt cái mũ đỏ lên, nhìn chăm chăm vào nó trong vài phút rồi đặt lên chiếc ghế bên cạnh cô.

Tôi nghe vị đắng trong miệng. Tôi thử chiêu ít nước cho trôi cái vị đó đi, nhưng không ăn thua.

Im lặng thêm một lát nữa, Kano Malta nói:

- Đôi khi cảm xúc cần được bộc lộ ra ngoài. Nếu không, dòng chảy có thể bị ngưng trệ ở bên trong. Giờ ông đã nói ra những điều muốn nói rồi, hẳn ông thấy dễ chịu hơn chứ?

- Một chút thôi, - tôi nói. - Nhưng chẳng giải quyết được gì. Chẳng kết thúc được vấn đề gì sất.

- Ông không thích ông Wataya phải không, thưa ông Okada?

- Mỗi lần nói chuyện với thằng cha đó, tôi lại có cảm giác trông rỗng khủng khiếp. Mọi vật trong phòng đâm ra như không có thực chất nào hết. Mọi vật dường như rỗng tuếch. Tại sao lại như vậy, tôi không thể nào giải thích chính xác với cô được. Chính vì cái cảm giác đó mà rốt cuộc tôi nói và làm những điều vốn không thuộc bản tính tôi. Sau đó thì tôi thấy thật ghê sợ. Giá như tôi không bao giờ phải gặp lại hắn nữa thì hạnh phúc biết bao nhiêu!

Kano Malta lắc đầu.

- Thật đáng tiếc, ông sẽ còn phải gặp ông Wataya rất nhiều lần nữa. Chuyện đó ông không tránh được đâu.

Rất có thể cô ta có lý. Tôi không thể gạt hắn ra khỏi đời tôi dễ dàng như vậy.

Tôi cầm cốc lên nhấp thêm ngụm nước. Cái vị kinh khủng này ở đâu ra kia chứ?

- Có một điều tôi muốn hỏi cô, - tôi nói. - Cô đứng về bên nào? Wataya Noboru hay tôi?

Kano Malta chống cùi chỏ lên bàn, chìa hai lòng bàn tay ra trước mặt.

- Không bên nào cả, - cô nói. - Chẳng có bên nào hết trong trường hợp này. Đơn giản là chẳng có bên nào cả. Ở đây không hề có trên hay dưới, phải hay trái, trước hay sau, ông Okada ạ.

- Nghe như Thiền ấy, - tôi nói. - Với tư cách hệ tư tưởng thì tự thân nó cũng thú vị, nhưng nó chẳng lý giải được bao lăm về sự vật.

Cô ta gật đầu. Cô giãn hai lòng bàn tay nãy giờ khép vào nhau trước mặt ra xa nhau chừng năm phân, làm thành một góc hơi chênh chếch hướng về phía tôi. Hai lòng bàn tay cô nhỏ nhắn, xinh xẻo.

- Tôi biết những điều tôi đang nói đây không có ý nghĩa gì lắm. Và tôi không trách ông đã nổi giận. Nhưng dù tôi nói gì với ông lúc này đi nữa, nó sẽ không có lợi ích thiết thực nào cả. Thậm chí còn có hại cũng nên. Ông sẽ phải vượt qua tất cả bằng chính sức của mình. Bằng chính đôi tay mình.

- Như người tiền sử ấy nhỉ, - tôi vừa nói vừa mỉm cười. - Ai đánh ta, ta đánh lại.

- Chính thế, - Kano Malta nói. - Đúng vậy. - Thế rồi, một cách cẩn trọng như thể đang thu nhặt di vật của một người vừa quá cố, cô nhặt cái xắc, đội lên đầu chiếc mũ vải vinyl đỏ. Một khi Kano Malta đội chiếc mũ đó lên, cô mang lại một ấn tượng kỳ lạ nhưng rõ rệt rằng một đơn vị thời gian vừa mới kết thúc.


° ° °


Kano Malta đi rồi, tôi vẫn ngồi lại một mình, trong đầu chẳng nghĩ gì. Tôi chẳng biết nếu đứng dậy khỏi bàn thì nên đi đâu, nên làm gì đây. Nhưng dĩ nhiên tôi không thể ngồi đó mãi được. Sau khi ngồi như vậy được hai mươi phút, tôi trả tiền cho cả ba người rồi rời khỏi trà quán. Hai người kia không ai trả tiền.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2012 20:57:07 | Xem tất


Chương 4
Ân Sủng Đánh Mất

Điếm Tinh Thần


Về đến nhà, tôi thấy trong thùng thư có một bức thư dày. Đó là thư của Trung úy Mamiya. Họ tên và địa chỉ của tôi được viết ngoài phong bì bằng thứ Hán tự đậm nét, chân phương quen thuộc. Thay đồ, rửa mặt xong, tôi xuống bếp uống hai cốc nước lạnh. Nghỉ một chút lấy lại hơi, tôi mới rọc phong bì.

Trung úy Mamiya dùng bút lông viết kín đặc mười trang giấy mỏng bằng thứ chữ li ti. Tôi lật qua các trang giấy rồi nhét lại vào phong bì. Tôi mệt quá không đọc nổi một bức thư dài như vậy. Tôi không có sức đâu để tập trung vào lúc đó. Lướt mắt qua những hàng chữ viết tay, tôi thấy chúng như một bầy lúc nhúc những con bọ kỳ dị màu xanh nước biển. Bên cạnh đó, giọng của Wataya Noboru vẫn còn văng vẳng trong trí tôi.

Tôi nằm dài trên ghế sofa, nhắm mắt hồi lâu, không nghĩ gì cả. Với tâm trạng của tôi lúc này thì không nghĩ gì cả chẳng phải là việc khó. Để không nghĩ gì cả, tôi chỉ việc nghĩ về nhiều chuyện, mỗi chuyện một tí: nghĩ về cái gì đó một chút rồi lại quẳng ngay ra khỏi đầu.

Mãi gần 5 giờ chiều tôi mới quyết định đọc thư của Trung úy Mamiya. Tôi ra ngoài hiên, ngồi tựa lưng vào một cây cột rồi rút các trang giấy ra khỏi phong bì.

Trang đầu toàn những câu giao đãi theo nghi thức: chào hỏi dông dài, cám ơn tôi đã mời ông đến nhà hôm nọ, và vô cùng xin lỗi đã làm tôi chán ngấy với những câu chuyện dài lê thê của ông. Trung úy Mamiya nhất định là người rất am hiểu lễ nghi giao tiếp. Ông là một kẻ còn sống sót từ thời những lễ nghi đó chiếm một phần quan trọng trong đời sống hàng ngày. Tôi lướt nhanh qua những dòng đó rồi giở sang trang thứ hai.

Xin ông thứ lỗi cho tôi đã mào đầu một cách dài dòng đến vậy. Mục đích duy nhất của tôi khi viết như vậy - dẫu biết khi mạo muội làm vậy là tôi đang buộc ông phải gánh một nhiệm vụ không mong muốn - là để thông báo với ông rằng những sự kiện tôi kể với ông hôm trước hoàn toàn không phải do tôi bịa đặt ra, cũng chẳng phải là những hồi ức đáng ngờ của một lão già, mà là một sự thật hoàn toàn, trọng đại, sự thật đến từng chi tiết nhỏ. Như ông cũng biết, chiến tranh đã chấm dứt từ rất lâu rồi, hiển nhiên là ký ức thoái hoá dần cùng với thời gian. Ký ức và ý nghĩ cũng già đi như con người ta già đi vậy. Nhưng một số ý nghĩ không bao giờ có thể già đi, một số ký ức không bao giờ có thể già đi.

Mãi đến ngày hôm nay tôi vẫn chưa bao giờ kể những chuyện này với bất cứ ai ngoại trừ ông. Đối với hầu hết mọi người, những câu chuyện đó của tôi nghe như toàn bịa đặt không thể tin được. Phần đông thiên hạ coi những gì nằm ngoài phạm vi hiểu biết của họ là vớ vẩn, không đáng bận tâm. Ngay chính tôi cũng chỉ ước ao rằng những câu chuyện của mình quả thật không là gì khác ngoài bịa đặt. Tôi đã sống qua ngần ấy năm trời chỉ bám víu vào niềm hy vọng mong manh rằng những ký ức đó của tôi chẳng qua chỉ là giấc mộng hoặc cơn mê sảng. Tôi đã ra sức thuyết phục chính mình rằng những chuyện đó chưa hề xảy ra. Nhưng mỗi khi tôi cố đẩy chúng vào bóng tối, những ký ức đó lại quay về, càng mãnh liệt hơn, càng sống động hơn bao giờ hết. Như tế bào ung thư, những ký ức đó đã cắm rễ trong tâm trí tôi, ăn dần vào trong thể xác tôi.

Mãi đến giờ tôi vẫn nhớ như in từng chi tiết nhỏ nhất một cách rõ ràng đến đáng sợ. Tôi nhớ như thể những sự kiện đó chỉ mới xảy ra hôm qua. Tôi có thể vốc cát và cầm ngọn cỏ trong tay, thậm chí nghe được mùi của chúng. Tôi thấy rõ hình dáng những đám mây trên bầu trời. Tôi cảm thấy ngọn gió khô lẫn đầy cát thốc vào hai má tôi. So ra thì chính những sự kiện sau này trong đời tôi mới có vẻ là ảo ảnh trên đường ranh giữa mộng mị và thực tại.

Cội rễ cuộc đời tôi - những gì tôi có thể nói rằng từng có lúc thực sự là chính bản thân tôi - đã bị chết cóng hay thiêu rụi ở đó, giữa thảo nguyên Ngoại Mông nơi mà xa ngút mắt cũng không có một cái gì cản trở tầm nhìn. Sau đó tôi mất một bàn tay trong trận kịch chiến với đơn vị xe tăng Xô Viết tấn công qua biên giới; tôi đã nếm mùi khổ ải không thể hình dung nổi nơi trại lao động Siberia trong cái lạnh chết người của mùa đông; tôi được hồi hương, làm thầy dạy môn xã hội ở một trường trung học vùng quê suốt ba mươi năm trời yên ả, rồi từ đó tới giờ tôi sống đơn độc, canh tác trên mảnh đất của mình. Thế nhưng từng ấy năm tháng về sau trong đời mình tôi thấy chỉ như là ảo ảnh. Dường như chưa hề có những năm tháng đó vậy. Chỉ trong khoảnh khắc, ký ức tôi đã nhảy qua cái vỏ rỗng thời gian đó mà về lại thảo nguyên Hulunbuir hoang vu.

Cuộc đời tôi mai một như thế đó, bị biến thành vỏ rỗng như thế đó hẳn là do một cái gì kia trong làn ánh sáng tôi đã nhìn thấy nơi đáy giếng, làn ánh sáng mặt trời mãnh liệt xuyên thấu vào đáy giếng chỉ trong vòng mười đến hai mươi lăm giây. Nó ập xuống bất ngờ và biến đi cũng đột ngột như vậy. Nhưng trong làn ánh sáng kéo dài ngắn ngủi kia tôi đã thấy một cái gì đó - cái gì đó mà suốt đời tôi sẽ không bao giờ thấy lại được nữa. Và một khi đã thấy rồi, tôi không còn là con người như xưa nữa.

Điều gì đã xảy ra dưới đó? Có ý nghĩa gì? Mãi đến giờ, hơn bốn mươi năm sau, tôi vẫn không trả lời được chính xác những câu hỏi đó. Chính vì vậy những gì tôi sắp nói sau đây chỉ là một giả thuyết, không hơn, một cách giải thích tạm thời tôi nghĩ ra cho chính mình mà không dựa trên một cơ sở logic nào. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng trong lúc này giả thuyết của tôi là gần gũi nhất với ý nghĩa đích thực của những gì tôi đã trải qua.

Quân Mông Cổ đã ném tôi xuống một cái giếng sâu đen kịt giữa thảo nguyên, chân và vai tôi bị gãy, tôi chẳng có đồ ăn lẫn nước uống, chỉ còn chờ chết. Trước đó tôi đã thấy một người bị lột da sống. Tôi cho rằng trong hoàn cảnh đặc biệt đó, ý thức của tôi đã đạt tới sự tập trung đậm đặc đến mức khi làn ánh sáng cường liệt đó rọi xuống trong vài giây ngắn ngủi kia, tôi đã xuống được đến nơi có thể gọi là phần cốt lõi của ý thức tôi. Dù thế nào đi nữa, tôi đã thấy hình dáng của một cái gì đó. Ông cứ tưởng tượng xem. Mọi vật quanh tôi đều tắm trong ánh sáng. Tôi đang ở ngay chính giữa một dòng thác ánh sáng. Mắt tôi chẳng nhìn thấy gì. Đơn giản là tôi được bọc trong ánh sáng. Nhưng rồi có cái gì đó bắt đầu xuất hiện. Trong lòng sự mù lòa thoáng chốc của tôi, một cái gì đó đang cố gắng thành hình. Một vật gì đó. Một vật gì đó có sự sống. Như cái bóng nhật thực, nó bắt đầu trỗi dậy, màu đen, trong ánh sáng. Nhưng tôi không thể nào nhận rõ hình thù của nó. Nó đang cố đến với tôi, đang cố ban cho tôi một cái gì đó như là ân sủng của trời. Tôi run rẩy chờ nó. Nhưng rồi, hoặc vì nó đã đổi ý hoặc vì không đủ thời gian, nó chẳng bao giờ đến với tôi. Chỉ một khoảnh khắc trước khi thành hình trọn vẹn, nó đã lại tan biến đi và hòa lẫn vào ánh sáng. Thế rồi bản thân ánh sáng cũng tắt. Thời hạn cho ánh sáng đó chiếu vào đáy giếng đã hết.

Điều đó xảy ra cứ hai ngày một lần. Cũng chính một điều đó. Một cái gì đó khởi sự hình thành trong làn ánh sáng tràn trề, rồi chưa kịp nên hình thù trọn vẹn thì đã biến mất. Dưới đáy giếng, tôi đói khát đến khủng khiếp. Nhưng rốt cuộc thì đó không phải là vấn đề quan trọng nhất. Điều khiến tôi khổ sở nhất khi còn ở dưới giếng là nỗi giày vò vì không sao nhìn rõ được hình dạng cái vật gì đó kia trong ánh sáng: đói vì không thể nhìn thấy cái cần phải thấy, khát vì không thể biết cái cần phải biết. Giá như nhìn rõ được nó thì dù có chết ngay ở đó tôi cũng cam lòng. Tôi thật sự cảm thấy vậy đó! Tôi sẵn sàng hy sinh bất cứ cái gì để nhìn trọn vẹn được hình dạng của nó.

Nhưng rồi rốt cuộc cái hình thể đó vuột khỏi tôi mãi mãi. Ân sủng chưa được ban cho tôi thì đã hết rồi. Và như tôi đã nói, từ khi thoát được cái hố kia mà leo lên mặt đất, cuộc đời tôi chỉ còn là một cái vỏ rỗng, trống hơ trống hoác. Chính vì vậy mà khi quân đội Xô Viết xâm chiếm Mãn Châu ngay trước khi chiến tranh kết thúc, tôi đã tình nguyện lên tuyến đầu. Trong trại lao động ở Siberia cũng vậy, tôi cố tình làm sao cho người ta đưa tôi đến những nơi khắc nghiệt nhất. Thế nhưng, dẫu có làm gì đi nữa, tôi vẫn không chết. Đúng như hạ sĩ Honda đã tiên đoán đêm ấy, số tôi là quay về Nhật để sống một cuộc đời dài đến lạ lùng. Tôi nhớ lần đầu tiên nghe lời tiên đoán đó tôi đã sung sướng biết bao. Nhưng lời tiên đoán đó hoá ra là một lời nguyền. Không phải tôi không chết, mà là tôi không thể chết. Hạ sĩ Honda nói đúng cả về điều đó nữa: lẽ ra tôi đừng biết thì hơn.

Khi sự khải thị và ân sủng đó đã mất thì cuộc đời tôi cũng mất. Những gì trước kia từng sống ở trong tôi, những gì chính vì vậy mà có giá trị gì đó, nay đều đã chết. Không còn lại gì nữa cả. Tất cả đã bị thiêu cháy thành tro trong luồng sáng khốc liệt kia rồi. Sức nóng tỏa ra từ sự khải thị hay ân sủng đó đã đốt rụi vào tận trong cốt lõi cái sinh mệnh của kẻ vốn là tôi. Hiển nhiên tôi không đủ sức cưỡng lại sức nóng đó. Thế nên tôi không hề sợ chết. Có chăng thì cái chết của thể xác sẽ là một dạng cứu thoát cho tôi. Nó sẽ vĩnh viễn giải thoát tôi khỏi cái nhà tù vô vọng này, khỏi cái nỗi đau khi tôi phải là tôi.

Một lần nữa tôi lại làm ông phát chán vì câu chuyện dài lê thê này. Tôi xin ông thứ lỗi. Nhưng điều tôi muốn nói với ông là thế này, ông Okada ạ: tôi đã lỡ đánh mất cuộc đời mình vào một thời điểm nhất định, từ đó trở đi tôi sống thêm hơn bốn mươi năm nhưng cuộc đời thì đã mất. Là kẻ ở trong địa vị đó, tôi đâm ra nghĩ rằng sự sống của ta hạn hẹp hơn nhiều so với những ai đang rơi vào vòng xoáy của đời vẫn tưởng. Ánh sáng chỉ rọi vào hành vi sự sống trong một khoảnh khắc tột cùng ngắn ngủi, có lẽ chỉ vài giây. Một khi ánh sáng đã ra đi mà ta chưa ngộ được điều khải thị nó mang lại cho ta thì sẽ không còn cơ hội thứ hai nữa. Có khi kẻ đó sẽ phải sống nốt quãng đời còn lại trong nỗi cô đơn và sám hối sâu thẳm và vô vọng. Trong cái thế giới xế chiều đó, ta không thể trông mong bất cứ điều gì nữa. Tất cả những gì kẻ đó nắm trong tay chỉ là cái xác khô còn lại của cái lẽ ra đã có.

Dù có thế nào, tôi cũng lấy làm vui đã có cơ duyên gặp ông Okada và kể cho ông nghe câu chuyện của tôi. Liệu nó có giúp ích gì được cho ông, tôi không biết. Nhưng kể ra với ông rồi, tôi như được giải thoát. Dẫu mong manh yếu ớt đi chăng nữa, sự giải thoát nào đối với tôi cũng quý báu vô cùng. Tôi cũng không thể không cảm thấy trong việc ông Honda đã dẫn lối tôi đến việc này có những mối dây vi tế nào đó của số phận. Xin ông hãy nhớ, nơi đây có người cầu chúc cho ông sống một cuộc đời hạnh phúc mai sau.


Tôi đọc lại bức thư một lần nữa, đọc cẩn thận, rồi nhét lại vào phong bì.

Thư của Trung úy Mamiya lay động tâm hồn tôi đến kỳ lạ, nhưng với trí óc tôi, nó chỉ mang lại những hình ảnh mơ hồ xa xăm. Trung úy Mamiya là người tôi có thể tin cậy và chấp nhận, và tôi cũng có thể chấp nhận là sự thật những gì ông tuyên bố là sự thật. Song bản thân khái niệm sự thật hay thực tại không còn đủ sức thuyết phục tôi nữa. Điều khiến tôi xúc động nhất là nỗi ấm ức trong từng lời của viên trung úy: ấm ức vì không bao giờ có thể miêu tả hay lý giải một điều gì cho hoàn toàn ưng ý được.

Tôi xuống bếp uống cốc nước. Rồi tôi đi lòng vòng quanh nhà. Trong phòng ngủ, tôi ngồi trên giường nhìn những bộ áo váy của Kumiko xếp hàng trong tủ. Và tôi nghĩ: mục đích của đời tôi cho đến giờ là gì? Giờ thì tôi hiểu những gì Wataya Noboru nói. Phản ứng đầu tiên của tôi trước lời lẽ của hắn là giận dữ, nhưng tôi phải nhận rằng hắn nói đúng. "Cậu đã cưới em tôi được sáu năm, trong suốt thời gian đó cậu làm được cái gì? Không gì hết, đúng không? Suốt sáu năm qua cậu chỉ làm được mỗi một việc là bỏ việc và hủy hoại cuộc đời Kumiko. Nay cậu đang thất nghiệp và chả có dự định nào cho tương lai hết. Trong cái đầu cậu chả có gì khác ngoài cục đá và rác rưởi". Tôi chỉ còn cách thừa nhận rằng hắn nhận xét chính xác. Khách quan mà nói, tôi đã chẳng làm được cái gì ra hồn trong sáu năm qua, và những gì có trong đầu tôi quả thật rất giống rác rưởi và đá cục. Tôi là con số không. Đúng như hắn nói.

Nhưng có đúng là tôi đã hủy hoại đời Kumiko không?

Mãi một hồi lâu tôi ngồi nhìn những áo váy, áo cánh và váy của Kumiko. Chúng là những cái bóng mà Kumiko để lại. Vắng chủ, những cái bóng đó chỉ còn có thể treo nguyên đó, vật vờ ẻo lả. Tôi xuống buồng tắm lấy chai nước hoa Christian Dior ai đó đã tặng Kumiko. Tôi mở chai ra ngửi. Nó là cái mùi hương tôi ngửi thấy sau tai Kumiko vào cái buổi sáng nàng bỏ nhà đi. Tôi chầm chậm đổ hết nước hoa trong chai xuống bồn rửa mặt. Trong khi chỗ nước hoa kia trôi xuống ống thải, một mùi hoa nồng gắt (tên là hoa gì tôi cố nhớ nhưng không được) xộc lên trong bồn, khuấy động ký ức một cách tàn nhẫn. Giữa cái mùi hương mãnh liệt ấy, tôi rửa mặt, đánh răng. Sau đó tôi quyết định sang nhà Kasahara May.
° ° °
Cũng như mọi khi, tôi đứng nơi ngõ chỗ phía sau nhà Miyawaki, đợi Kasahara May xuất hiện, nhưng lần này đợi mãi không thấy. Tôi tựa vào hàng rào, mút kẹo chanh, ngắm bức tượng chim và miên man nghĩ đến bức thư của Trung úy Mamiya. Tuy nhiên, chỉ lát sau trời bắt đầu sẩm tối. Đợi được gần nửa tiếng đồng hồ, tôi đành chịu thua. Kasahara May chắc đang ở ngoài, không có nhà.

Tôi đi dọc theo con ngõ đến phía sau nhà mình qua rồi trèo qua tường. Trong nhà, tôi nhìn thấy bóng nhá nhem thanh tĩnh của buổi tối mùa hè. Và Kano Creta đang ở trong nhà. Trong một khoảnh khắc như ảo giác, tôi ngỡ mình đang mơ. Nhưng không, đây vẫn là thực tại đang tiếp diễn. Chút mùi nước hoa mà tôi đã đổ đi vẫn còn vương vất trong không khí. Kano Creta ngồi trên ghế sofa, hai tay đặt trên đầu gối. Tôi lại gần cô, song như thể chính thời gian đã ngưng lại trong cô, cô không hề cử động. Tôi bật đèn rồi ngồi xuống ghế trước mặt cô.

- Cửa không khóa nên tôi tự vào, - rốt cuộc cô nói.

- Không sao, mỗi khi ra ngoài tôi đều để cửa không khóa mà, - tôi nói.

Cô mặc áo cánh trắng thêu ren, váy bồng màu hoa cà, đeo một cặp hoa tai lớn. Trên cổ tay trái cô đeo một cặp vòng to. Nhìn thấy cặp vòng, tôi như giật nảy mình. Chúng giống in hệt cặp vòng tôi đã thấy cô đeo trong giấc mơ của tôi. Đầu tóc và cách trang điểm của cô đều theo phong cách quen thuộc. Cũng như mọi lần, keo xịt giữ cho tóc ở nguyên vị trí, như thể Kano Creta vừa từ thẩm mỹ viện ra là đến thẳng đây.

- Không có nhiều thì giờ đâu, - Kano Creta nói. - Tôi cần phải về nhà ngay. Nhưng nhất định tôi cần nói chuyện với ông, thưa ông Okada. Hôm nay hình như ông đã gặp chị tôi và ông Wataya thì phải.

- Tôi có gặp. Phải nói ngay, cuộc gặp chẳng vui vẻ gì lắm.

- Ông không có gì để hỏi tôi liên quan đến cuộc gặp đó hay sao? - cô hỏi.

Ai đến gặp tôi cũng đều chất vấn tôi đủ điều thế này sao!

- Tôi muốn biết thêm về Wataya Noboru, - tôi nói. - Tôi không khỏi nghĩ rằng tôi cần phải biết nhiều hơn về hắn.

Cô gật đầu.

- Chính tôi cũng muốn biết nhiều hơn về Wataya Noboru. Tôi tin rằng chị tôi đã cho ông biết hắn từng làm nhục tôi, từ rất lâu rồi. Hôm nay tôi không có thì giờ kể sâu về chuyện đó, nhưng vào một dịp nào đó sau này tôi sẽ kể. Trong mọi trường hợp, việc đó đã xảy ra ngoài ý muốn của tôi. Đầu tiên, người ta thu xếp cho tôi quan hệ với hắn. Chính vì vậy nên đây không phải là hãm hiếp theo nghĩa thường của từ này. Nhưng hắn đã làm nhục tôi, và điều đó đã làm con người tôi thay đổi rất nhiều. Rốt cuộc tôi cũng đã phục hồi được sau sự cố đó. Thật ra, nó đã giúp tôi (dĩ nhiên còn nhờ chị Kano Malta giúp nữa) tự nâng mình lên một tầm mới, cao hơn. Song dù hệ quả thế nào đi nữa, sự thật vẫn là khi đó Wataya Noboru đã cưỡng dâm và làm nhục tôi ngoài ý muốn của tôi. Việc hắn làm với tôi là sai quấy và nguy hiểm. Lẽ ra tôi còn có thể mất đi mãi mãi nữa kia. Ông hiểu ý tôi chứ?

Tôi thật không hiểu ý cô ta.

- Dĩ nhiên, tôi cũng đã quan hệ với ông Okada, nhưng chúng ta đã làm việc đó một cách đúng đắn, với mục đích đúng đắn. Làm như vậy thì tôi không thể nào bị làm nhục cả.

Tôi nhìn thẳng vào cô trong mấy giây, như nhìn một bức tường lốm đốm nhiều màu.

- Cô đã quan hệ với tôi à?

- Vâng, - cô nói. - Lần đầu tôi chỉ dùng miệng, nhưng lần thứ hai chúng ta đã quan hệ với nhau. Cả hai lần đều trong cùng một căn phòng. Hẳn ông nhớ chứ? Lần đầu chúng ta có rất ít thời gian nên cứ phải vội vã. Nhưng đến lần thứ hai ta có nhiều thì giờ hơn.

Tôi chịu không biết trả lời ra sao nữa.

- Lần thứ hai thì tôi mặc áo váy của vợ ông. Chiếc màu xanh dương ấy mà. Tay trái tôi thì đeo vòng như thế này. Có đúng không? - Cô chìa cổ tay trái mang cặp vòng ra trước mặt tôi.

Tôi gật đầu.

- Dĩ nhiên chúng ta đã không quan hệ với nhau trong thực tại, - Kano Creta nói. - Khi ông xuất tinh, đấy không phải xuất tinh vào tôi theo nghĩa vật chất mà là vào ý thức của ông. Ông có hiểu không? Đó là một ý thức được tạo tác. Tuy nhiên, hai chúng ta cùng chung ý thức rằng mình đã quan hệ với nhau.

- Làm như vậy là để làm gì?

- Để biết, - cô nói. - Để biết nhiều hơn, biết sâu hơn.

Tôi thở dài. Điên quá đi mất. Nhưng cô ta đã mô tả tuyệt đối chính xác khung cảnh trong giấc mơ của tôi. Tôi xoa xoa ngón tay quanh mồm, nhìn trân trân vào cặp vòng trên cổ tay trái cô.

- Có thể tôi không được sáng dạ lắm, - tôi nói, giọng khô khan, - nhưng tôi thật không dám bảo là đã hiểu tất cả những gì cô nói.

- Trong giấc mơ thứ hai của ông, khi tôi đang quan hệ với ông, một người đàn bà khác đã thế chỗ tôi. Có đúng không? Tôi không biết cô ta là ai. Nhưng có lẽ sự kiện đó là nhằm gợi lên một điều gì đó với ông, ông Okada ạ. Đó là điều tôi muốn nói với ông.

Tôi không nói gì.

- Ông không nên cảm thấy mình có lỗi về chuyện đã quan hệ với tôi, - Kano Creta nói. - Ông Okada biết tôi là gái điếm cơ mà. Tôi từng là điếm về xác thịt, nhưng nay tôi là điếm tinh thần. Mọi sự đều đi qua tôi.

Nói đến đây Kano Creta rời chỗ ngồi quỳ xuống cạnh tôi, ấp tay tôi trong hai bàn tay cô. Bàn tay cô ấm, mềm, thật nhỏ bé.

- Ôm tôi đi, ông Okada. Ngay ở đây, ngay bây giờ.

Chúng tôi đứng dậy, tôi vòng tay ôm quanh người cô. Tôi thật tình không biết mình có nên làm vậy không. Nhưng hình như ôm lấy Kano Creta ngay khi đó, ngay ở đó không phải là một sai lầm. Tôi không giải thích được, chỉ cảm thấy như vậy thôi. Tôi choàng tay qua tấm thân mảnh dẻ của cô như thể đang học bài đầu tiên trong lớp dạy khiêu vũ. Cô là một phụ nữ nhỏ nhắn. Đỉnh đầu cô chỉ quá chót cằm tôi một chút. Cặp vú cô ép vào dạ dày tôi. Cô áp má vào ngực tôi. Và mặc dù suốt khoảng thời gian đó cô không phát ra tiếng nào, nhưng cô khóc. Tôi cảm thấy những giọt nước mắt âm ấm qua lần áo phông. Tôi nhìn xuống thấy mái tóc làm khéo không chê vào đâu được của cô đang rung rung. Tôi thấy như mình đang mơ một giấc mơ thực sự. Nhưng đây không phải là mơ.

Sau khi chúng tôi giữ nguyên tư thế đó một hồi rất lâu không động đậy, cô ngãng ra khỏi tôi như vừa sực nhớ điều gì. Duy trì một khoảng cách, cô nhìn tôi.

- Cám ơn ông Okada rất nhiều, - cô nói. - Giờ tôi sẽ về nhà. - Cô vừa mới khóc ràn rụa, thế nhưng son phấn của cô hầu như không bị hề hấn gì. Cảm giác thực tại giờ lại biến mất một cách kỳ lạ.

- Có khi nào cô sẽ lại đến trong giấc mơ của tôi không? - tôi hỏi.

- Tôi không biết, - cô vừa nói vừa khẽ lắc đầu. - Chính tôi cũng không biết nữa. Nhưng xin ông hãy tin tôi. Dù gì xảy ra đi nữa, xin đừng sợ tôi hay đừng cảm thấy cần phải cảnh giác về tôi. Ông Okada hứa với tôi như thế chứ?

Tôi gật đầu để trả lời.

Ngay sau đó Kano Creta về nhà.

Bóng đêm càng dày đặc hơn bao giờ hết. Mặt trước áo phông của tôi ướt đẫm. Tôi thức đến tận bình minh, không ngủ được. Một phần tôi không buồn ngủ, mặt khác tôi sợ ngủ. Tôi có cảm giác rằng nếu đi ngủ, tôi sẽ bị bao bọc trong một dòng cát chảy đưa tôi đến một thế giới khác mà từ đó tôi sẽ không bao giờ trở về được nữa. Tôi ngồi nơi sofa cho đến sáng, vừa uống brandy vừa nghĩ về câu chuyện của Kano Creta. Thậm chí khi trời đã sáng, cái thần khí của Kano Creta cùng mùi nước hoa Christian Dior vẫn còn vương vất trong nhà như những cái bóng bị cầm tù.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2012 20:58:27 | Xem tất

Chương 5
Cảnh Quan Những Thành Phố Xa Xôi

Vầng Bán Nguyệt Vĩnh Cửu

Thang Đặt Vào Đúng Chỗ



Hầu như đúng lúc tôi thiếp đi thì điện thoại reo. Tôi cố lờ đi, nhưng dường như đọc được ý nghĩ của tôi, nó cứ bướng bỉnh reo mãi: mười lần, hai mươi lần, không chịu dừng. Cuối cùng tôi mở một mắt nhìn đồng hồ. Mới hơn 6 giờ một chút. Ngoài cửa sổ trời đã sáng bạch. Có thể là Kumiko gọi. Tôi ra khỏi giường, ra phòng khách, nhấc ống nghe.

- Alô, - tôi nói, nhưng người gọi chẳng thưa. Rõ ràng là có ai đó ở đầu dây bên kia, nhưng người đó chẳng nói gì. Tôi cũng im lặng. Tập trung hết sức, tôi mới nhận ra được tiếng thở trong ống nghe.

- Ai đấy? - tôi hỏi, nhưng đầu bên kia vẫn im lặng.

- Nếu là người suốt ngày vẫn gọi cho tôi thì làm ơn gọi lại sau nhé, - tôi nói. - Trước bữa điểm tâm thì xin đừng nói chuyện về sex.

- Người suốt ngày gọi? - bỗng giọng Kasahara May bật ra. - Hay nhỉ, anh nói chuyện về sex với ai đấy?

- Chả ai cả, - tôi đáp.

- Có phải người đàn bà anh ôm trong tay hồi đêm qua không? Anh hay nói chuyện về sex qua điện thoại với cô ta à?

- Không, không phải cô ấy đâu.

- Này Chim vặn dây cót, nói em nghe đi, có bao nhiêu đàn bà lượn lờ quanh anh nào, ngoài vợ anh ra?

- Nói ra thì dài lắm, - tôi nói. - Dù gì thì cũng chỉ mới 6 giờ sáng, anh chưa ngủ được bao nhiêu cả. Vậy là tối qua em sang nhà anh à?

- Rồi em thấy anh với cô kia đang ôm nhau.

- Cái ấy chẳng có nghĩa gì hết. Nói sao nhỉ? Kiểu như một nghi thức nho nhỏ mà thôi.

- Anh không phải phân bua gì với em, - Kasahara May nói. - Em có phải vợ anh đâu. Chả liên quan gì đến em hết, nhưng cho em nói điều này: anh dính vào chuyện rắc rối rồi đấy.

- Có thể em nói đúng, - tôi nói.

- Em biết anh đang gặp lúc gay go. Nhưng em không khỏi nghĩ rằng ấy là anh tự chuốc vào mình. Anh chỉ gặp một vấn đề duy nhất thật sự cơ bản, thế rồi nó hút mọi phiền phức vào mình như cục nam châm ấy. Bất cứ phụ nữ nào biết suy xét một chút mà gặp anh thì chắc chạy mất dép cả.

- Có thể em nói đúng, - tôi lại nói.

Kasahara May im lặng một chút ở đầu dây bên kia. Đoạn cô hắng giọng rồi nói:

- Tối qua anh đi trên ngõ phải không? Anh đứng hồi lâu phía sau nhà em như thằng ăn trộm nghiệp dư ấy... Đừng lo, em nhìn thấy anh mà.

- Thế sao em không ra?

- Con gái có phải bao giờ cũng cần chạy ra đâu, anh biết mà. Đôi khi cũng muốn chảnh một tí chứ, cứ mặc cho anh chàng đợi - đã muốn đợi thì cho tha hồ đợi.

Tôi ậm ừ.

- Nhưng em vẫn áy náy, - cô nói tiếp, - nên sau đó em mới lại vác xác đến nhà anh như con ngốc ấy.

- Và anh đang ôm cô kia.

- Phải, nhưng cô ấy hơi dở người phải không? Thời buổi này ai còn ăn mặc như thế. Lại còn trang với điểm nữa chứ! Cứ như tự đời nảo đời nào chui ra ấy. Cô ta phải tới bác sĩ kiểm tra cái đầu đi là vừa.

- Đừng lo, cô ấy không dở người đâu. Mỗi người có một thị hiếu riêng.

- Thì vâng. Thị hiếu gì chả được. Nhưng người bình thường chẳng ai lại có cái thị hiếu quái chiêu như thế cả. Cô ta - nói sao nhỉ? - như là từ trong cuốn tạp chí cũ bước thẳng ra ấy: cái gì ở cô ta cũng vậy, từ đầu đến chân.

Tôi không trả lời.

- Này Chim vặn dây cót, nói em nghe, anh đã ngủ với cô ta chưa?

Tôi ngần ngừ một chút rồi nói: - Chưa.

- Thật không?

- Thật. Anh không quan hệ với cô ấy theo nghĩa thân xác.

- Thế tại sao anh ôm cô ta?

- Đôi khi phụ nữ muốn vậy, họ cần ai đó ôm họ.

- Có thể, - Kasahara May nói, - nhưng cái ý tưởng đó có thể hơi nguy hiểm đấy.

- Đúng vậy, - tôi nói.

- Tên cô ta là gì?

- Kano Creta.

Kasahara May lại im lặng ở đầu dây bên kia.

- Anh đùa đấy chứ? - rốt cuộc cô nói.

- Không đùa tí nào. Còn chị cô ấy tên là Kano Malta.

- Malta?! Đó không thể là tên thật của cô ta.

- Ừ, không phải. Đó là tên dùng trong nghề nghiệp thôi.

- Thế họ là ai, một cặp diễn viên hài à? Hay họ có liên hệ gì với Địa Trung Hải?

- Đúng đấy, họ có mối liên hệ nào đó với Địa Trung Hải.

- Cô chị có ăn mặc như người bình thường không?

- Nói chung là có. Cô ta ăn mặc bình thường, ít nhất là bình thường hơn Creta nhiều. Trừ mỗi chuyện lúc nào cô ta cũng đội cái mũ bằng vải vinyl màu đỏ.

- Nghe vậy là em biết cô ta cũng không hẳn bình thường đâu. Tại sao anh cứ giao du với những hạng người hơi bị chập mạch ấy nhỉ?

- Chuyện ấy thì dài lắm. Để khi nào mọi chuyện ôn ổn một chút anh sẽ kể cho em nghe. Nhưng giờ thì không. Đầu anh đang rối tung lên đây. Mọi chuyện lại càng rối bời hơn nữa đây.

- Thôi được, - cô nói, giọng có vẻ ngờ vực. - Mà này, vợ anh vẫn chưa về à?

- Chưa.

- Nghe này Chim vặn dây cót! Anh là người lớn rồi. Sao anh không vận dụng cái đầu anh một chút đi? Nếu tối qua vợ anh đổi ý mà quay về, chị ấy có thể nhìn thấy anh đang choàng tay ôm cái cô kia. Khi đó thì sao hở?

- Ừ, cũng có khả năng đó.

- Và nếu đúng là chị ấy gọi điện chứ không phải em mà anh lại đi nói về chuyện xếch xiếc này nọ thì chị ấy sẽ nghĩ gì?

- Em có lý, - tôi nói.

- Em đã nói mà, anh đang gặp rắc rối to đấy, - cô vừa nói vừa thở dài.

- Đúng vậy, anh đang gặp rắc rối.

- Anh thôi cái trò em nói gì cũng ừ ừ phải phải đi! Cứ như chỉ cần nhận mình sai là chuyện gì cũng giải quyết được ấy. Anh có nhận hay không thì sai vẫn là sai.

- Ừ, đúng vậy, - tôi nói. Quả là đúng thật.

- Thôi đủ rồi, em không chịu nổi nữa! - Kasahara May nói. - Nào, nói em nghe, đêm qua anh muốn gì? Anh đến nhà em để tìm cái gì đó phải không?

- Ồ thôi. Đừng để ý làm gì.

- Đừng để ý làm gì?

- Ờ. Rốt cuộc thì... Đừng để ý làm gì.

- Nói cách khác, cô ta cho anh ôm, thế là anh không cần em nữa.

- Không, không phải thế. Chỉ là anh cảm thấy...

Đến đây Kasahara May gác máy. Kasahara May, Kano Malta, Kano Creta, người đàn bà trên điện thoại, và Kumiko. Kasahara May nói đúng: mấy ngày hôm nay tôi có hơi nhiều phụ nữ quanh mình. Mỗi người đến lại mang theo một vấn đề bí hiểm của riêng mình.

Nhưng tôi mệt quá không nghĩ gì được nữa. Tôi cần phải ngủ một chút. Ngủ xong thức dậy tôi còn có việc phải làm.

Tôi trở lại giường ngủ thiếp đi.


° ° °


Khi thức dậy, tôi lấy một cái ba lô trong tủ. Ba lô này chúng tôi để dành phòng khi động đất hay những tình huống khẩn cấp khác cần phải di tản. Trong ba lô có một chai nước, bánh quy, một đèn pin, một cái bật lửa. Kumiko mua cái ba lô này từ khi chúng tôi mới chuyển về nhà này, phòng trường hợp xảy ra động đất lớn. Tuy nhiên chai nước rỗng không, bánh quy ỉu xìu, pin thì chết. Rồi tôi đến cửa hàng vật dụng gần nhà mua một chiếc thang dây, loại dùng dể thoát hiểm trong trường hợp hỏa hoạn. Tôi ngẫm nghĩ xem có cần gì nữa không nhưng chẳng nghĩ ra gì khác ngoài kẹo chanh. Tôi đi một vòng khắp nhà, đóng hết cửa sổ, tắt hết đèn. Tôi đã toan khóa cửa ngoài, nhưng lại thôi. Có thể sẽ có người đến tìm tôi trong khi tôi đi vắng. Có thể Kumiko sẽ về. Vả lại, nhà này chẳng có gì đáng trộm cả. Tôi để lại một mẩu thư ngắn trên bàn bếp: "Đi vắng ít lâu. Sẽ trở về. T."

Tôi tự hỏi liệu Kumiko sẽ ra sao khi thấy mẩu thư này. Nàng sẽ nghĩ gì? Tôi vò nát mẩu thư rồi viết một cái khác: "Phải ra ngoài ít lâu vì có chuyện quan trọng. Sẽ về ngay. Hãy đợi. T."

Tôi mặc quần bằng vải bông thô, áo phông ngắn tay, khoác ba lô. Tôi bước từ hàng hiên xuống vườn. Quanh tôi là những dấu hiệu không thể nhầm lẫn của mùa hè - đích thực là mùa hè, không dè xẻn, không điều kiện. Ánh nắng trời, mùi gió, màu xanh của bầu trời, hình dáng những đám mây, tiếng ve sầu râm ran: tất cả đều thông báo rằng mùa hè thực sự đã đến. Và tôi đây, ba lô trên lưng, trèo qua bức tường cuối vườn rồi thả mình xuống ngõ.

Hồi nhỏ có lần tôi đã bỏ nhà đi vào một sáng mùa hè đẹp trời giống như thế này. Tôi không nhớ lý do gì đã khiến tôi quyết định ra đi. Chắc do tôi giận cha mẹ. Tôi bỏ nhà ba lô khoác trên vai, trong túi là toàn bộ số tiền tôi dành dụm được. Tôi bảo mẹ rằng tôi đi dã ngoại với mấy đứa bạn và nhờ mẹ chuẩn bị sẵn bữa trưa. Ngay phía trên nhà chúng tôi có mấy ngọn đồi leo rất thích, bọn trẻ con thường leo lên đó không có người lớn trông chừng. Ra khỏi nhà, tôi lên xe buýt đi đến tận trạm dừng cuối. Với tôi, đó là một thị trấn lạ lẫm, xa xôi. Ở đó tôi chuyển sang xe buýt khác và lại đi đến một thị trấn lạ lẫm và xa xôi khác - còn xa xôi hơn nữa. Thậm chí tôi chẳng biết chỗ đó tên gì, cứ thế xuống xe buýt rồi tha thẩn qua các phố. Thị trấn này chẳng có gì đặc biệt, náo nhiệt hơn khu tôi ở một chút nhưng cũng nhếch nhác hơn một chút. Nó có một con phố hai bên là quán xá, một ga xe lửa, dăm nhà máy nhỏ. Có một dòng suối chảy ngang qua thị trấn, đối diện dòng suối là một rạp chiếu phim. Bảng bên ngoài thông báo đang chiếu một bộ phim phương Tây. Đến trưa tôi ngồi trên ghế đá công viên, giở cơm trưa ra ăn. Tôi nán lại thị trấn đó đến chiều, nhưng khi mặt trời bắt đầu xế, tôi đâm ra ngã lòng. Đây là cơ hội cuối cùng để mày trở về, tôi tự nhủ. Khi trời đã tối hẳn, mày sẽ không bao giờ đi khỏi chỗ này được đâu. Tôi về nhà cũng trên mấy chiếc xe buýt đã đưa tôi đến đó. Tôi về tới lúc 7 giờ tối, không ai nhận ra tôi đã bỏ nhà ra đi. Cha mẹ tôi hẳn cho rằng tôi đã ở suốt trên đồi với bọn trẻ khác.

Chuyện đó tôi đã quên hẳn rồi. Nhưng ngay lúc trèo qua bức tường sau vườn, lưng khoác ba lô, cảm giác đó liền trở lại với tôi - nỗi cô đơn khôn tả xiết khi ta đứng một mình giữa những phố phường xa lạ, những con người xa lạ, những ngôi nhà xa lạ, ngắm mặt trời chiều mất dần ánh sáng, từng tí một. Rồi tôi nghĩ đến Kumiko: Kumiko, nàng đã biến mất nơi nào đó, chỉ mang theo chiếc túi đeo vai duy nhất, thêm chiếc áo khoác và váy lấy ở hiệu giặt. Nàng đã bỏ lỡ cơ hội cuối cùng để quay về. Giờ đây có lẽ nàng đang đứng một mình ở thị trấn lạ lẫm xa xôi nào đó. Nghĩ về nàng như vậy tôi thật khó mà chịu nổi.

Nhưng không, nàng không thể chỉ một mình được. Nàng phải ở bên một người đàn ông. Chỉ có cách đó thì chuyện này mới có ý nghĩa.

Tôi không nghĩ tới Kumiko nữa.

° ° °

Tôi đi dọc theo con ngõ.

Cỏ dưới chân đã mất màu xanh sống động như đang thở phập phồng khi còn đón những cơn mưa xuân, giờ đây nó có cái vẻ xin xỉn điển hình của cỏ mùa hè. Giữa những lá cỏ kia thi thoảng một con cào cào xanh nhảy tanh tách đây đó khi tôi đi ngang qua. Đôi lúc thậm chí một con ếch cũng nhảy ra. Con ngõ đã biến thành thế giới của các sinh vật nhỏ đó, còn tôi chẳng qua là kẻ ngoài đột nhập vào quấy nhiễu cái trật tự hiện hành.

Đến căn nhà bỏ không của nhà Miyawaki, tôi mở cổng rồi cương quyết bước vào. Tôi giẫm qua đám cỏ cao tiến về phía giữa sân, ngang qua con chim đá nhem nhuốc vẫn đang nhìn đăm đắm lên trời, đi vòng qua bên hông nhà, bụng thầm mong Kasahara May không nhìn thấy tôi vào đây.

Việc đầu tiên tôi làm khi đến chỗ cái giếng là dẹp những tảng đá dằn nắp giếng, sau đó giở một trong hai nửa nắp giếng bằng gỗ hình bán nguyệt ra. Để kiểm tra xem có phải dưới đáy vẫn không có nước hay không, tôi ném một hòn sỏi xuống như lần trước. Và cũng như lần trước, hòn sỏi chạm đáy phát ra một tiếng đùng đục. Không có nước. Tôi đặt ba lô xuống, lấy thang dây ra, buộc một đầu vào thân cây bên cạnh. Tôi siết chặt hết sức để đảm bảo rằng nó sẽ giữ chắc. Gì chứ chuyện này thì cẩn thận mấy cũng không thừa. Nếu chẳng may thang dây bị lỏng hay tuột ra thì có khi tôi sẽ không bao giờ leo lên được nữa.

Ôm đống thừng trong tay, tôi bắt đầu thả thang xuống giếng. Toàn bộ cuộn dây đã đưa vào trong giếng rồi mà tôi vẫn không cảm thấy nó chạm đáy. Không thể có chuyện thang quá ngắn được, tôi đã mua thứ thang dài nhất người ta có kia mà. Nhưng cái giếng này sâu thật. Tôi rọi đèn pin thẳng xuống mà vẫn không thấy thang đã chạm đáy chưa. Ánh đèn pin chỉ xuyên xuống đến độ sâu nào đó rồi cũng bị bóng tối nuốt chửng.

Tôi ngồi trên thành giếng, lắng nghe. Vài con ve sầu kêu ran ran trên cây như thể thi nhau xem con nào có tiếng to nhất hay dung tích phổi lớn nhất. Tuy nhiên chẳng nghe thấy tiếng con chim nào. Tôi nhớ lại con Chim vặn dây cót một cách trìu mến. Có lẽ nó không thích ganh đua với lũ ve sầu nên đã bay tránh đi chỗ khác.

Tôi lật lòng bàn tay lên về phía ánh nắng. Chỉ trong khoảnh khắc bàn tay tôi đã thấy ấm lên, như thể ánh sáng đã xuyên suốt vào da, ngấm vào tận từng đường vân tay tôi. Nơi đây ánh sáng ngự trị trên tất cả. Tắm mình trong ánh sáng, vạn vật bừng lên sắc màu rực rỡ của mùa hè. Ngay những sự vật vô hình như thời gian hay ký ức cũng được hưởng ân sủng của ánh sáng mùa hè. Tôi ném tọt một viên kẹo chanh vào mồm rồi vẫn ngồi đó cho tới khi kẹo tan hết. Rồi tôi giật mạnh cái thang lần nữa để xem nó đã buộc thật chắc chưa.

Leo thang dây xuống giếng là việc khó hơn tôi tưởng nhiều. Thang được bện bằng sợi bông và sợi nylon nên rất chắc, song khi tôi đặt chân lên thì nó lại tròng trành không vững. Đôi giày tennis của tôi có đế cao su, mỗi khi tôi thử chuyển sức nặng thân mình từ chân này sang chân kia là đế giày cứ muốn trượt ra. Hai tay tôi phải bấu chặt dây thừng đến nỗi lòng bàn tay bắt đầu đau. Tôi xuống thật chậm, thật cẩn thận, từng nấc một. Nhưng xuống sâu lắm rồi mà vẫn không thấy đáy. Chừng như tôi sẽ phải xuống thế này mãi không bao giờ dứt. Tôi tự nhắc mình nhớ lại tiếng hòn sỏi chạm đáy giếng. Giếng này phải có đáy chứ! Vấn đề là ở cái thang khỉ gió này, dùng nó để leo xuống mất nhiều thời gian quá.

Đếm được hai mươi nấc thì một nỗi kinh sợ xâm chiếm lấy tôi. Nó ập đến đột ngột, như cơn sốc điện, làm tôi chết cứng tại chỗ. Cơ bắp tôi hóa đá. Từng lỗ chân lông trên người tôi túa mồ hôi, chân tôi run lên. Làm gì có cái giếng nào lại sâu đến như vậy. Ngay giữa lòng Tokyo kia mà! Nó ở ngay sau cái nhà tôi ở. Tôi nín thở lắng tai, nhưng chẳng nghe thấy gì. Tiếng tim tôi đập thình thịch dội lại trong tai tôi to đến nỗi thậm chí không còn nghe thấy tiếng ve sầu ran ran ở trên kia. Tôi hít một hơi thật sâu. Tôi cứ ở nguyên đó, trên nấc thang thứ hai mươi, chẳng biết nên xuống nữa hay leo trở lên. Không khí dưới giếng mát lạnh, sực mùi đất. Dưới đây là một thế giới riêng biệt, bị cắt lìa khỏi mặt đất trên kia, nơi ánh mặt trời soi chiếu một cách hào phóng đến nhường nào. Tôi nhìn lên miệng giếng trên đầu, giờ đây chỉ còn là một mảnh bé xíu. Miệng giếng tròn vành vạnh được chia đúng thành hai nửa bằng nhau bởi phân nửa nắp giếng mà tôi đã giở ra. Từ dưới nhìn lên, nó trông như vầng bán nguyệt trôi trên nền trời đêm. "Một vầng bán nguyệt sẽ kéo dài trong vòng hai ngày", Kano Malta đã nói vậy. Cô đã tiên đoán như vậy qua điện thoại.

Giỏi lắm. Và khi ý nghĩ đó thoáng qua đầu tôi, tôi cảm thấy phần nào sức lực rời bỏ mình. Cơ bắp tôi chùng xuống, khối hơi thở chắc nịch trong tôi như thoát cả ra ngoài.

Vận chút sức lực cuối cùng, tôi lại bắt đầu leo xuống. Chỉ thêm chút nữa thôi. Một chút nữa thôi. Đừng lo, thế nào cũng có đáy mà. Và đến nấc thang thứ hai mươi ba, tôi chạm đáy. Chân tôi tiếp xúc với nền đất nơi đáy giếng.


° ° °


Việc đầu tiên tôi làm trong bóng tối là lấy mũi giày dò dẫm bề mặt đáy giếng quanh mình, tay vẫn bám lấy thang, phòng khi có cái gì đó mà tôi cần phải tránh xa. Sau khi đã yên tâm rằng không có nước và không có vật gì khả nghi, tôi mới bước xuống nền đất. Tôi hạ ba lô xuống, mở khóa kéo lấy đèn pin ra. Ánh đèn pin cho tôi nhìn rõ lần đầu tiên quang cảnh nơi đáy giếng. Nền đất không quá rắn cũng không quá mềm. Và may thay, đất khô ráo. Rải rác đây đó vài hòn đá, hẳn do người ta thả xuống. Vật duy nhất rơi xuống đáy giếng là một vỏ bao khoai tây chiên. Đáy giếng được soi bằng ánh đèn pin làm tôi nhớ tới bề mặt Mặt trăng mà tôi đã xem trên truyền hình từ lâu lắm rồi.

Vách giếng hình trụ bằng bê tông phẳng phiu, trơn nhẵn, gần như chỗ nào cũng giống chỗ nào, trừ đây đó có vài ba cụm giống như rêu. Vách giếng đâm thằng lên trời như ống khói, với lỗ thoát là khoảng sáng hình bán nguyệt mãi trên kia. Nhìn thẳng lên, giờ tôi mới hình dung được giếng sâu đến cỡ nào. Tôi lại kéo mạnh chiếc thang dây. Trong tay tôi, nó vẫn chắc chắn, cho tôi cảm giác yên lòng. Chừng nào nó còn ở nguyên đó, tôi sẽ có thể leo lên mặt đất bất cứ lúc nào tôi muốn. Sau đó tôi hít một hơi dài. Ngoại trừ chút mùi rêu, nhìn chung không khí khá ổn. Cái tôi lo nhất là không khí. Không khí dưới đáy giếng thường bị tù hãm, giếng khô lại hay có khí độc từ trong đất thoát ra. Đã lâu rồi tôi có đọc bài báo nói về một người đào giếng hít phải khí mêtan dưới đáy giếng mà mất mạng.

Hít một hơi dài, tôi ngồi trên nền giếng, lưng tựa vào vách giếng. Tôi nhắm mắt lại, để cho thân thể mình quen dần với nơi này. Thế đấy, tôi nghĩ, giờ thì tôi ở dưới đáy giếng rồi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-8-2012 19:50:34 | Xem tất


Chương 6
Thừa Kế Tài Sản

Vấn Hỏi Về Loài Sứa

Cái Gì Đó Như Là Cảm Giác Xa Cách



Tôi ngồi trong bóng tối. Mãi xa phía trên kia, vầng sáng hình bán nguyệt trôi trên miệng giếng như dấu hiệu của một cái gì đó. Thế nhưng không chút ánh sáng nào trên kia lọt xuống được đáy giếng này.

Sau một thời gian, mắt tôi quen dần với bóng tối. Chẳng mấy chốc tôi đã có thể nhận ra hình dáng bàn tay mình nếu đưa lên gần mặt. Những vật khác quanh tôi bắt đầu lờ mờ hiện ra, rất từ từ, như những con vật nhỏ buông lỏng dần cảnh giác, từng tí từng tí một. Tuy nhiên, dù mắt đã quen đi nữa, bóng tối không bao giờ thôi là bóng tối. Mỗi khi tôi tập trung cố nhìn rõ vật gì thì hình dáng của nó lại mờ đi, im lìm hòa lẫn vào bóng tối. Hẳn có thể gọi đây là "bóng tối nhạt", nhưng dù "nhạt" đi nữa, nó vẫn có sự dày đặc riêng của nó, sự dày đặc mà trong một số trường hợp còn hàm chứa một bóng tối nhiều ý nghĩa hơn cả bóng tối như mực. Trong thứ bóng tối này ta có thể thấy cái gì đó. Nhưng đồng thời ta cũng hoàn toàn chẳng thấy gì.

Trong cái bóng tối đầy ẩn nghĩa đến kỳ lạ đó, ký ức tôi bỗng trỗi dậy với một sức mạnh chưa từng có. Những hình ảnh rời rạc mà ký ức khơi dậy trong tôi sinh động lạ lùng, rõ rệt đến từng chi tiết nhỏ, chừng như tôi có thể nắm bắt được trong tay. Tôi nhắm mắt, hồi tưởng lại lần đầu tiên gặp Kumiko tám năm về trước.

° ° °

Chuyện xảy ra trong phòng đợi dành cho người nhà bệnh nhân tại bệnh viện trường đại học ở Kanda. Dạo đó gần như ngày nào tôi cũng phải tới bệnh viện gặp một khách hàng giàu có đặng lo chuyện thừa kế tài sản cho ông ta. Kumiko thì đến bệnh viện mỗi ngày giữa hai buổi học để chăm sóc mẹ đang điều trị loét tá tràng. Nàng hay mặc quần bò hay quần soóc, áo len chui cổ, tóc buộc đuôi ngựa. Có khi nàng mặc áo khoác có khi không tùy thời tiết đầu tháng Mười một. Nàng mang túi đeo vai trong đó luôn có vài cuốn sách trông như là giáo trình đại học, ngoài ra còn thêm vài cuốn mẫu vẽ.

Ngay chiều hôm đầu tiên tôi đến bệnh viện, Kumiko đang ngồi trên ghế sofa, bắt tréo đôi chân mang giày đen gót thấp, say sưa đọc sách. Tôi ngồi đối diện nàng, cứ năm phút lại xem đồng hồ để đợi đến giờ phỏng vấn ông khách hàng - ông ta đi khỏi trước đó một tiếng rưỡi đồng hồ vì lý do gì tôi không rõ. Kumiko không hề rời mắt khỏi sách. Nàng có đôi chân rất đẹp. Nhìn nàng, tâm trạng tôi mới phấn chấn lên được ít nhiều. Bỗng dưng tôi tự hỏi nếu là người có khuôn mặt đẹp (hay ít nhất là cực kỳ thông minh) và đôi chân tuyệt mỹ thế kia thì mình sẽ thấy thế nào nhỉ?

Sau khi gặp nhau vài lần trong phòng đợi, tôi và Kumiko bắt đầu chuyện gẫu với nhau - cho nhau mượn những cuốn tạp chí đã đọc xong hoặc cùng ăn chỗ hoa quả trong túi quà ai đó đem tới biếu mẹ nàng. Dù gì thì ở đó chúng tôi thấy chán kinh khủng nên cần có người trạc tuổi mình để nói chuyện.

Ngay từ đầu tôi và Kumiko đã tìm thấy một cái gì đó ở nhau. Đó không phải là loại cảm xúc mạnh mẽ, bản năng khiến hai con người như bị sốc điện ngay từ lần đầu gặp gỡ, mà là một cái gì thầm lặng hơn, êm ả hơn, như hai tia sáng nhỏ nhoi cùng trôi trong bóng tối mênh mông, ngày một tiến lại gần nhau mà chính mình không biết. Càng hay gặp nhau, tôi càng cảm thấy không phải mình vừa làm quen với một người lạ mà mới tình cờ gặp lại một người bạn thân.

Chẳng bao lâu tôi không còn thỏa mãn với những cuộc chuyện trò ngắn ngủi với Kumiko trong bệnh viện xen giữa việc này việc khác. Tôi vẫn mong có dịp gặp nàng ở nơi khác để có thể trò chuyện thoải mái với nàng. Cuối cùng, một ngày kia tôi quyết định hẹn gặp nàng.

- Anh nghĩ em và anh cần thay đổi không khí một chút, - tôi nói. - Ta hãy ra khỏi đây, đến chỗ nào không có bệnh nhân hay khách hàng gì hết ấy.

Kumiko nghĩ một chút rồi đề nghị:

- Đến công viên thủy sinh nhé?

Thế là công viên thủy sinh trở thành nơi hẹn hò đầu tiên của chúng tôi. Sáng hôm đó Kumiko mang quần áo đến bệnh viện cho mẹ thay và gặp tôi ở phòng đợi của bệnh viện. Hôm đó trời quang, ấm áp, Kumiko mặc áo váy đơn sơ màu trắng, áo khoác len đan màu xanh dương nhạt. Ngay từ hồi đó tôi đã luôn kinh ngạc thấy nàng sành ăn mặc đến nhường nào. Ngay cả khi mặc cái quần, cái áo đơn giản nhất, nàng chỉ cần xắn tay áo hay bẻ cổ áo lên là đủ để biến nó thành một cái gì đó thật khác thường, ngoạn mục. Đó là một thứ tài khéo mà nàng có. Tôi thấy nàng chăm chút cho quần áo của mình với nỗi trìu mến gần như là tình yêu. Mỗi khi ở bên nàng, mỗi khi đi cạnh nàng, tôi luôn ngắm nàng đầy thán phục. Áo cánh của nàng không khi nào có một nếp nhăn. Các đường gấp trên quần áo nàng ngay tăm tắp không chê vào đâu được. Cái gì màu trắng nàng mặc trông cũng như mới tinh. Giày của nàng chẳng bao giờ mòn vẹt hay lấm bẩn. Nhìn những gì nàng mặc, tôi có thể hình dung những áo cánh, áo len của nàng gấp cẩn thận, xếp ngay hàng trong tủ hay ngăn kéo, những chiếc váy và áo dài của nàng bọc nylon treo trong tủ (sau này khi đã lấy nhau, tôi sẽ tận mắt thấy là đúng như vậy).

Buổi chiều đầu tiên bên nhau, hai chúng tôi đến công viên thủy sinh ở Vườn thú Ueno. Hôm ấy trời thật đẹp. Tôi thì cho rằng tản bộ loanh quanh vườn thú thích hơn nhiều, nên bèn gợi ý như vậy với Kumiko trong khi đi xe điện đến Ueno, nhưng rõ ràng nàng đã nhất quyết đến công viên thủy sinh. Nếu nàng đã muốn vậy thì chẳng sao, với tôi thế nào cũng được. Ở công viên thủy sinh có một chỗ đặc biệt chuyên trưng bày sứa, hai chúng tôi đi từ đầu đến cuối khu ấy để ngắm các loài sứa quý hiếm từ khắp nơi trên thế giới tề tựu về. Chúng vừa bơi vừa lắc lư trong bể, từ con bé tí như túm bông cỡ đầu ngón tay đến những gã khổng lồ đường kính xấp xỉ một mét. Tuy là Chủ nhật nhưng khu công viên thủy sinh không đông người lắm. Có khi hơi thưa thớt là khác. Vào một hôm đẹp trời như vậy, người ta thích xem voi và hươu cao cổ hơn là xem sứa.

Tôi không nói gì với Kumiko, nhưng thật ra tôi ghét cay ghét đắng cái giống sứa. Hồi nhỏ đi bơi ngoài biển tôi bị sứa cắn luôn. Có lần bơi một mình ra hơi xa, tôi lạc vào giữa cả một đàn sứa. Khi tôi nhận ra thì đã muộn, bị sứa vây quanh tứ bề. Suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên cái cảm giác nhơn nhớt, lành lạnh khi lũ sứa chạm vào tôi. Giữa cái mê cung toàn là sứa ấy, một nỗi kinh hoàng khủng khiếp tràn ngập trong tôi, như thể tôi đã bị lôi tuột vào một vực thẳm đen ngòm không đáy. Chẳng hiểu sao tôi không bị cắn, nhưng vì hãi quá tôi đã uống no nê một bụng nước biển. Chính vì vậy tôi chỉ mong sao đi qua khu trưng bày sứa càng nhanh càng tốt, thà đi xem mấy loài cá bình thường như cá hồi hay cá bơn còn hơn.

Nhưng Kumiko thì lại mê lắm. Đến bể nào nàng cũng dừng lại, tựa vào tay vịn, đứng ngây ra như bị thôi miên, chẳng còn biết thời gian là gì nữa. - Nhìn xem, - nàng nói. - Em chả bao giờ ngờ trên đời lại có giống sứa hồng đẹp tuyệt đến thế. Xem nó bơi đẹp chưa kìa! Chúng cứ lắc lư như thế mà chu du khắp các đại dương trên thế giới kia đấy. Chúng thật là tuyệt phải không?

- Ừ, tuyệt, - tôi nói. Nhưng càng bắt mình ra điều nghiên lũ sứa cùng với Kumiko, càng lúc tôi càng thấy tức ngực. Tự lúc nào chẳng biết tôi không trả lời nàng nữa, chỉ chăm chú đếm tiền trong túi hoặc lau mép bằng khăn tay. Tôi cứ cầu trời sao cho chóng đến bể sứa cuối cùng, nhưng mãi không thấy hết. Trên các đại dương của trái đất này có cơ man nào là loài sứa cơ mà. Tôi cố chịu được chừng nửa tiếng, nhưng rồi cơn căng thẳng khiến đầu tôi như vữa ra. Cuối cùng, đứng tựa vào tay vịn cũng không nổi nữa, tôi đành phải rời Kumiko mà đổ vật xuống một ghế dài gần đó. Nàng đến cạnh tôi, vẻ rất lo lắng hỏi xem tôi có bị ốm không. Tôi thành thực trả lời rằng nhìn lũ sứa mãi tôi bị chóng mặt.

Nàng nhìn đăm đăm vào mắt tôi với vẻ mặt nghiêm trang.

- Đúng vậy thật, - nàng nói. - Nhìn mắt anh em hiểu. Mắt anh lơ láo thất thần thế nào ấy. Nghĩ cũng lạ, chỉ vì nhìn sứa không thôi mà ra vậy. - Kumiko nắm tay tôi dẫn tôi rời khỏi khu trưng bày thủy sinh tối tăm, ẩm ướt để ra ngoài nắng.

Ngồi ở công viên gần đó trong mười phút, hít thở chậm, dần dần tôi mới lấy lại được trạng thái tâm lý bình thường. Mặt trời mùa thu tuôn ánh sáng dịu dàng xuống khắp nơi, lá cây ngân hạnh khô đến tận gân khẽ rung rung khi gió nhẹ thổi.

- Anh đỡ chưa? - vài phút sau Kumiko hỏi. - Anh lạ thật đấy. Nếu anh ghét sứa đến vậy thì phải nói ngay từ đầu chứ, ai lại đợi tới khi nó làm mình phát ốm thế này?

Bầu trời cao vòi vọi, không mây, gió thổi dễ chịu, thiên hạ thong dong tận hưởng ngày Chủ nhật trong công viên nom thật hạnh phúc. Một cô gái mảnh dẻ, xinh xắn dắt con chó lớn lông dài. Một ông lớn tuổi đợi mũ phớt không rời mắt khỏi đứa cháu gái đang chơi bập bênh. Vài cặp ngồi trên ghế dài cũng như chúng tôi. Đằng xa có người đang tập chạy nốt kèn saxophone.

- Sao em thích sứa quá vậy? - tôi hỏi.

- Em chả biết nữa. Chắc là vì chúng dễ thương, - nàng nói. - Nhưng khi nhìn kỹ chúng, em bỗng nảy ra ý nghĩ này. Cái mà ta thường thấy trước mắt mình chỉ là một phần nhỏ nhoi của thế giới mà thôi. Ta vẫn quen nghĩ: Thế giới của ta là thế này đây, nhưng hoàn toàn không phải vậy. Thế giới thực nằm ở một nơi tối và sâu hơn thế giới này nhiều, ở đó gần như toàn là bọn sứa hay những loài tương tự thôi. Chỉ là chúng ta quên mất điều đó. Anh có đồng ý không? Hai phần ba bề mặt trái đất là đại dương, bằng mắt trần ta chỉ thấy mỗi bề mặt trên cùng, mỗi lớp da mà thôi. Chúng ta hầu như chẳng biết gì về những cái nằm bên dưới lớp da ấy.

Sau đó chúng tôi đi dạo hồi lâu. Đến 5 giờ chiều, Kumiko báo nàng phải quay lại bệnh viện, thế là tôi đưa nàng về đó. "Cám ơn anh, hôm nay rất vui," nàng nói khi chia tay. Trong nụ cười của nàng có một ánh sáng dịu dàng thầm lặng trước đây không có. Nhìn thấy ánh sáng ấy, tôi hiểu ngày hôm đó mình đã nhích gần nàng được hơn một chút, chuyện đó nhất định là nhờ lũ sứa.


° ° °


Kumiko và tôi tiếp tục hẹn hò nhau. Mẹ nàng đã được xuất viện, tôi cũng không phải đến bệnh viện lo thủ tục di chúc cho khách hàng nữa, nhưng tuần nào chúng tôi cũng gặp nhau một lần, đi xem phim, nghe hòa nhạc hay đi dạo. Càng gặp chúng tôi càng gần gũi nhau hơn. Tôi rất thích được ở bên nàng, và mỗi khi chúng tôi tình cờ chạm nhau, tôi nghe ngực mình đánh trống. Càng sắp đến kỳ nghỉ cuối tuần tôi càng khó tập trung làm việc. Tôi tin chắc rằng nàng cũng như tôi. Nếu không nàng đã chẳng cuối tuần nào cũng gặp tôi.

Dẫu vậy tôi không vội vàng tiến xa hơn trong quan hệ với Kumiko. Tôi cảm thấy có gì đó không chắc chắn ở nàng. Chính xác là gì thì tôi không biết, nhưng thi thoảng nó lại thoáng hiện ra trong lời lẽ hay hành vi của nàng. Tôi hỏi nàng gì đó thì cách khoảng một hơi thở sau nàng mới trả lời - chỉ một thoáng do dự thôi, nhưng trong cái khoảnh khắc chưa đầy một giây kia tôi đã nhận thấy có một bóng đen nào đó.

Mùa đông đến, rồi thì năm mới. Chúng tôi vẫn gặp nhau mỗi cuối tuần. Tôi chẳng bao giờ hỏi nàng về điều đó, nàng cũng không bao giờ nói. Chúng tôi chỉ gặp nhau, đi đâu đó, đi ăn, nói toàn những chuyện bình thường vô hại.

Một hôm tôi đánh bạo nói:

- Chắc em phải có bạn trai chứ phải không?

Kumiko nhìn tôi một chút rồi hỏi:

- Sao anh nghĩ vậy?

- Chỉ là linh cảm thôi, - tôi nói. Lúc đó chúng tôi đang đi qua Vườn thượng uyển Shinjuku vắng vẻ giữa mùa đông.

- Linh cảm gì kia?

- Anh không biết. Anh có cảm tưởng em có gì đó muốn nói với anh. Nếu nói được thì em nên nói.

Trên mặt Kumiko thoáng một chút dao động, gần như không thấy được. Có thể có một khoảnh khắc phân vân nào đó, thế nhưng kết luận của nàng thì ngay từ đầu đã rõ ràng.

- Cám ơn anh đã hỏi, - nàng nói. - Nhưng em không có chuyện gì đặc biệt định nói với anh đâu.

- Em vẫn chưa trả lời câu hỏi của anh.

- Về chuyện em có bạn trai không ấy à?

- Ờ.

Kumiko dừng lại. Đoạn nàng tháo găng tay cho vào túi áo khoác. Rồi nàng nắm lấy bàn tay để trần của tôi. Khi nắm chặt tay nàng để đáp lại, tôi cảm thấy như hơi thở nàng trở nên nhỏ hơn, trắng hơn.

- Ta về nhà anh bây giờ được không? - nàng hỏi.

- Được chứ, - tôi đáp, hơi lúng túng. - Chỉ có điều chỗ anh ở không được đàng hoàng lắm đâu.

Lúc đó tôi đang sống ở khu Asagaya trong một căn hộ một buồng, có gian bếp nhỏ tí, phòng vệ sinh và phòng tắm cỡ bằng cái buồng điện thoại công cộng. Nó nằm trên tầng hai, quay về hướng Nam, nhìn xuống sân kho một công ty xây dựng. Căn hộ được mỗi cái ấy thôi - nhờ quay về hướng Nam nên nhiều nắng. Kumiko và tôi ngồi bên nhau hồi lâu trong dòng nắng đó, lưng tựa vào tường.

Hôm đó tôi làm tình lần đầu tiên với Kumiko. Chính nàng muốn vậy, điều đó tôi tin chắc. Theo nghĩa nào đó thì chính nàng đã quyến rũ tôi. Không phải nàng đã nói hay làm gì đó lộ ra là muốn quyến rũ. Nhưng khi vòng tay ôm thân thể trần truồng của nàng, tôi biết chắc nàng đã có ý muốn việc này xảy ra. Tấm thân nàng mềm mại, không hề kháng cự.

Đó là lần đầu tiên Kumiko biết đến chuyện ái ân. Sau đó nàng không nói gì một hồi lâu. Mấy lần tôi cố bắt chuyện với nàng, nhưng nàng không trả lời. Nàng đi tắm, mặc quần áo rồi lại ngồi dưới nắng. Tôi chẳng biết nói gì. Tôi chỉ đến ngồi bên nàng trong vạt nắng mà im lặng. Ánh nắng chuyển dịch dần, chúng tôi cũng xê dịch dọc bờ tường. Khi trời sẩm tối, Kumiko nói nàng phải về. Tôi tiễn nàng về nhà.

- Em chắc là không có điều gì muốn nói với anh chứ? - tôi lại hỏi nàng khi ở trên xe điện.

Nàng lắc đầu.

- Không cần bận tâm đâu, - nàng nói thật khẽ.

Tôi không bao giờ nhắc chuyện đó nữa. Kumiko đã tự mình lựa chọn ngủ với tôi, vậy nếu quả thật nàng giữ trong lòng chuyện gì đó không thể kể với tôi, hẳn chuyện đó sẽ có thể giải quyết được theo thời gian.

Sau đó chúng tôi vẫn gặp nhau mỗi cuối tuần, từ nay trở đi thường có thêm mục về căn hộ của tôi để làm tình. Trong khi chúng tôi nằm ôm ấp sờ soạng nhau, nàng bắt đầu kể về mình mỗi ngày thêm một chút, về những gì nàng đã trải qua, về những ý nghĩ và cảm xúc mà những điều đó mang lại cho nàng. Và tôi bắt đầu hiểu cách nàng nhìn nhận về thế giới. Tôi bỗng thấy mình cũng có thể kể với Kumiko về cách nhìn thế giới của tôi. Tôi trở nên yêu nàng sâu đậm, nàng cũng nói nàng không bao giờ muốn xa tôi. Chúng tôi đợi đến khi nàng tốt nghiệp đại học là làm đám cưới.

Cuộc sống vợ chồng của chúng tôi hạnh phúc, không có vấn đề gì đáng nói. Thế nhưng vẫn có những lúc tôi không khỏi cảm thấy bên trong Kumiko có một vùng nào đó tôi không được phép vào. Ngay giữa chừng cuộc đối thoại bình thường nhất hay thậm chí sôi nổi nhất, hoàn toàn không có dấu hiệu nhỏ nào báo trước, đột nhiên Kumiko chìm vào im lặng. Việc đó có thể xảy ra hoàn toàn bất ngờ, chẳng có nguyên nhân gì cả (hay ít nhất là không có nguyên nhân nào mà tôi có thể đoán ra). Nó giống như đang đi trên đường thì bất thình lình sụp hố vậy. Sự im lặng của nàng không bao giờ kéo dài quá lâu, nhưng mãi một lúc sau đó nàng có vẻ như đang ở nơi nào khác.

Lần đầu tiên đi vào trong Kumiko, tôi cảm thấy có một nỗi ngập ngừng kỳ lạ nào đó. Hẳn khi ân ái lần đầu tiên Kumiko chỉ cảm thấy đau, mà thật, toàn thân nàng cứng đờ ra vì cái đau ấy, nhưng đó không phải là lý do duy nhất của nỗi ngập ngừng mà tôi cảm thấy kia. Ở nàng còn có một cái gì đó dễ nhận ra đến lạ lùng, một cảm giác phân ly, xa cách, mặc dù tôi không biết gọi thế nào cho chính xác. Tôi không xua được cái ý nghĩ kỳ quặc rằng cái thân thể tôi đang ôm trong tay kia không phải là thân thể người đàn bà mới cách đây ít phút còn má kề tay ấp thủ thỉ tâm tình với tôi, dường như đã có sự đánh tráo mà tôi không hay biết, da thịt của kẻ nào khác đã thế vào chỗ của nàng. Mỗi khi ôm nàng, hai tay tôi không ngớt vuốt ve lưng nàng. Sự động chạm vào tấm lưng nhỏ thon trơn nhẵn của nàng có một hiệu quả gần như là thôi miên đối với tôi, thế nhưng cùng một lúc tấm lưng Kumiko dường như lại ở nơi nào xa tôi lắm. Suốt khoảng thời gian Kumiko nằm trong tay tôi, tôi có thể thề rằng Kumiko đang ở một nơi khác, nghĩ về người khác, và cái thân thể tôi ôm trong tay chỉ là một tấm thân thế chỗ tạm thời thôi. Đó hẳn là lý do vì sao mặc dù tôi lên rất mạnh nhưng phải rất lâu mới dứt điểm được.

Tôi cảm thấy như vậy ngay từ lần đầu gần gũi với Kumiko. Sau đó, tôi cảm thấy nàng gần gũi tôi hơn nhiều, những phản ứng nhục thể của nàng nhạy bén hơn nhiều. Tôi tự thuyết phục mình rằng cái cảm giác xa cách ban đầu đó chẳng qua là bởi lần đầu tiên nàng ân ái với đàn ông.

° ° °


Trong khi ôn lại từng ký ức, chốc chốc tôi lại chìa tay về phía cái thang dây treo sát tường mà giật mạnh để kiểm tra xem có bị lỏng không. Dường như tôi không thể nào rũ được nỗi sợ nó sẽ tuột ra bất kỳ lúc nào. Mỗi khi ý nghĩ đó hiện lên trong tôi, dưới đáy giếng kia trong bóng tối, nó lại khiến tôi bứt rứt không yên. Thậm chí tôi nghe tiếng tim mình đập thình thịch. Sau khi đã kiểm tra nhiều lần - chắc phải tới hai, ba chục lần - tôi mới bình tâm lại. Dù gì tôi cũng đã buộc thang vào gốc cây kỹ đến thế kia mà. Không dễ gì tuột ra như vậy được.

Tôi nhìn đồng hồ. Kim đồng hồ lân tinh cho thấy chưa tới 3 giờ. Ba giờ chiều. Tôi ngước lên trên. Mảnh sáng hình bán nguyệt vẫn đang treo đó. Mặt đất đang tràn ngập nắng hè chói chang. Tôi hình dung một dòng suối lấp lánh trong ánh nắng, những chiếc lá xanh rờn rung rinh trong gió nhẹ. Ánh sáng trên kia bao trùm vạn vật, thế mà ngay bên dưới, nơi đáy giếng này, chỉ hiện hữu toàn bóng tối. Chỉ cần tụt xuống lòng đất một chút theo một chiếc thang dây là có thể tới được vùng tối thăm thẳm đến nhường này.

Tôi lại giật chiếc thang dây lần nữa để tin chắc là nó vẫn trụ vững. Đoạn tôi tựa đầu vào vách giếng, nhắm mắt lại. Cuối cùng, giấc ngủ trùm lấy tôi như làn thủy triều chầm chậm dâng lên.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-8-2012 19:54:10 | Xem tất


Chương 7
Hồi Ức Và Đối Thoại Về Việc Có Thai

Trí Thức Thực Nghiệm Về Cái Đau



Khi tôi thức dậy, miệng giếng hình bán nguyệt đã mang màu xanh thẫm buổi chiều tối. Kim đồng hồ chỉ 7 giờ rưỡi. Bảy giờ ba mươi tối. Nghĩa là tôi đã ngủ ở đây trong vòng bốn tiếng rưỡi đồng hồ.

Không khí dưới đáy giếng mát lạnh. Khi tụt xuống đây tôi đã quá hồi hộp nên không còn tâm trí đâu nghĩ đến nhiệt độ không khí. Nhưng giờ thì da tôi bắt đầu phản ứng lại với khí lạnh. Tôi vừa chà xát hai cánh tay trần cho ấm vừa nghĩ lẽ ra tôi nên mang theo trong ba lô cái gì đó âm ấm để khoác ra ngoài áo phông. Tôi không hề nghĩ tới chuyện không khí dưới đáy giếng có thể khác với không khí trên mặt đất.

Giờ thì bao quanh tôi là bóng tối hoàn toàn. Dù cố đến mấy mắt tôi cũng không nhìn thấy gì nữa. Thậm chí tôi không biết tay mình ở đâu. Tôi mò mẫm dọc vách giếng tìm cái thang dây rồi kéo mạnh. Nó vẫn buộc chắc trên mặt đất. Chuyển động của bàn tay tôi dường như làm bản thân bóng tối dịch chuyển, nhưng đó có thể chỉ là ảo giác.

Thật lạ rằng tôi không thể nào nhìn thấy thân thể của chính mình bằng mắt mình tuy biết rõ thân thể mình đang có đó. Càng ngồi im lặng trong bóng tối, tôi càng bớt tin tưởng rằng bản thân tôi đang hiện hữu. Để cưỡng lại điều đó, chốc chốc tôi lại hắng giọng hoặc xoa tay lên mặt. Bằng cách đó tai tôi có thể kiểm chứng xem giọng tôi có hiện hữu không, tay tôi có thể kiểm chứng xem mặt tôi có hiện hữu không, còn mặt tôi có thể kiểm chứng xem tay tôi có hiện hữu không.

Nhưng dù tôi cố gắng bao nhiêu đi nữa, thân thể tôi bắt đầu mất trọng lượng và mật độ, như cát từ từ bị nước rửa trôi vậy. Dường như bên trong tôi đang diễn ra một cuộc kéo co dữ dội và câm lặng mà trong đó ý thức tôi đang thắng thế, đang dần dần lôi thể xác tôi vào lãnh địa của nó. Cái bóng tối này đang phá vỡ thế cân bằng vốn có giữa hai thế lực kia. Tôi chợt nghĩ rằng thể xác tôi chẳng qua chỉ là một cái vỏ bọc được làm ra để ý thức tôi có thể sắp xếp các ký hiệu gọi là nhiễm sắc thể. Chỉ cần các ký hiệu kia được sắp xếp lại là tôi sẽ thấy mình nằm trong một cơ thể hoàn toàn khác. "Điếm tinh thần", Kano Creta tự gọi mình vậy. Giờ thì tôi có thể hiểu lời của cô không khó khăn gì. Vâng, chúng tôi hoàn toàn có thể làm tình trong tâm trí và xuất tinh trong thực tại. Trong bóng tối thật sự dày đặc, mọi chuyện lạ lùng đều có thể xảy ra.

Tôi lắc đầu, cố đẩy ý thức tôi vào trở lại trong cơ thể.

Trong bóng tối, tôi chập các ngón bàn tay này lên các ngón bàn tay kia - ngón cái chập vào ngón cái, ngón trỏ chập vào ngón trỏ. Các ngón tay phải tôi kiểm chứng sự hiện hữu của các ngón tay trái tôi, các ngón tay trái tôi kiểm chứng sự hiện hữu của các ngón tay phải tôi. Đoạn tôi từ từ hít thở sâu mấy hơi liền. Thôi, nghĩ về ý thức thế là đủ. Nghĩ về thực tại đi nào. Hãy nghĩ về thế giới thực. Thế giới của nhục thể. Chính vì thế giới đó mà tôi mới ở đây. Ở đây là để nghĩ về thực tại. Và cách tốt nhất để nghĩ về thực tại là hãy tránh xa nó, càng xa càng tốt, như chui xuống đáy giếng chẳng hạn. "Khi cần đi xuống, hãy tìm cái giếng sâu nhất mà chui xuống đáy," ông Honda đã nói vậy. Tựa lưng vào vách giếng, tôi chầm chậm hít vào phổi bầu không khí sực mùi rêu.

° ° °


Tôi và Kumiko không làm lễ cưới. Cái chính là bởi chúng tôi không có tiền, mà xin cha mẹ thì chẳng ai muốn cả. Quyết định chung sống với nhau dù bằng cách nào đi nữa, điều đó quan trọng hơn nhiều so với tổ chức lễ này đám nọ. Chúng tôi đến phòng đăng ký hộ tịch vào một sáng sớm Chủ nhật, rung chiếc chuông nơi cửa sổ tiếp khách để dựng nhân viên trực dậy rồi nộp tờ đăng ký kết hôn. Sau đó chúng tôi đến một nhà hàng Pháp cao cấp mà bình thường ra chẳng ai trong chúng tôi có đủ hầu bao để vào, kêu một chai rượu vang và ăn một bữa tối đủ ba món. Với chúng tôi vậy là đủ.

Lúc đó chúng tôi gần như không có tiền tiết kiệm (mẹ tôi khi qua đời có để lại cho tôi một ít tiền, nhưng tôi đã quyết định sẽ không bao giờ đụng đến trừ phi trong những trường hợp thật sự cấp bách), đồ đạc lại càng không. Triển vọng tương lai của chúng tôi cũng mù mịt. Mặc dù làm ở hãng luật nhưng tôi không có bằng luật sư nên tiền đồ chẳng có gì, còn Kumiko làm cho một nhà xuất bản bé tí chẳng ai biết tới. Giá như Kumiko muốn thì sau khi tốt nghiệp nàng đã có thể tìm được một vị trí tốt hơn nhiều nhờ các mối quan hệ của cha, nhưng nàng không thích nhờ cậy cha nên đã tự tìm việc lấy. Tuy nhiên cả hai chúng tôi chẳng có gì bất mãn. Chỉ cần sống được mà không phải nhờ vả ai là chúng tôi thấy vui rồi.

Dẫu sao xây dựng cuộc sống từ con số không là việc chẳng dễ dàng. Là con một, tôi có thiên hướng thích cô đơn, khép kín. Mỗi khi muốn làm việc gì đó quan trọng, tôi chỉ thích làm một mình. Tôi thấy phải giải thích, thuyết minh với người khác cho họ hiểu thì mất thì giờ công sức quá, chẳng thà mình cứ lẳng lặng làm một mình còn hơn. Kumiko cũng vậy, từ khi người chị qua đời, nàng đóng chặt cõi lòng đối với gia đình, cứ thế lớn lên như thể nàng chỉ có một mình. Dù có chuyện gì nàng cũng chẳng bao giờ đến gặp gia đình xin một lời khuyên nhủ. Theo nghĩa đó thì tôi và nàng rất giống nhau.

Dẫu sao, từng tí một, chúng tôi học cách đồng hóa thân thể và tâm hồn mình vào cái sinh thể vừa mới tạo lập này mà chúng tôi gọi là "tổ ấm của mình". Chúng tôi tập cách cùng nghĩ và cùng cảm về mọi sự. Những gì xảy ra với một trong hai người, chúng tôi đều cố gắng giải quyết như thể nó liên quan đến cả hai. Có khi làm vậy được, có khi không. Nhưng chúng tôi rất thích cái quá trình thử và sai đầy mới mẻ này. Và những cuộc va chạm dù có nảy lửa đi chăng nữa, chúng tôi cũng quên mất ngay khi ôm chặt lấy nhau.


° ° °


Lấy nhau được ba năm thì Kumiko có mang. Chuyện đó chẳng khác nào sét đánh ngang tai đối với chúng tôi - ít nhất là đối với tôi - bởi chúng tôi đã dùng thuốc tránh thai cực kỳ cẩn thận. Ắt chỉ vì một khoảnh khắc bất cẩn mà ra nông nỗi: chẳng phải là chúng tôi có thể biết chính xác cái thai đã đậu vào lúc nào, nhưng không có cách giải thích nào khác. Dù thế nào đi nữa, chúng tôi cũng không đủ tiền để nuôi con. Kumiko vừa mới vững chân ở nhà xuất bản kia, nên nàng muốn giữ chỗ làm đó nếu có thể. Một công ty nhỏ như công ty nàng không có khả năng ban phát những trò xa xỉ như nghỉ thai sản. Phụ nữ làm việc ở đó mà muốn có con thì chỉ còn cách thôi việc. Nếu Kumiko làm vậy thì cả nhà chỉ còn cách trông vào đồng lương của một mình tôi ít nhất là trong một thời gian, nhưng điều đó rõ ràng là không thể.

- Chắc mình phải bỏ đứa này thôi, - Kumiko nói với tôi bằng giọng vô cảm hôm bác sĩ thông báo cho nàng kết quả xét nghiệm.

Có lẽ nàng có lý. Dù xét vấn đề theo cách nào đi nữa, đó vẫn là giải pháp hợp lý nhất. Chúng tôi còn quá trẻ, chưa chuẩn bị đầy đủ để làm cha mẹ. Cả Kumiko lẫn tôi đều cần thời gian cho bản thân mình. Chúng tôi phải tạo lập cuộc sống cho chính mình đã, đó là ưu tiên số một. Chúng tôi còn thiếu gì cơ hội để có con trong tương lai.

° ° °


Thế nhưng thực ra, tôi không muốn Kumiko phá thai. Có lần, vào năm thứ hai đại học, tôi trót làm một cô gái có mang - tôi quen cô ấy khi đi làm thêm ngoài giờ. Cô là một cô bé dễ thương, kém tôi một tuổi, hai chúng tôi rất hợp nhau. Dĩ nhiên là chúng tôi thích nhau, nhưng giữa chúng tôi chẳng có gì nghiêm túc, mà cũng không thể nào có chuyện nghiêm túc được. Chúng tôi chẳng qua chỉ là hai người trẻ tuổi cô đơn cần ai đó để tựa vào.

Lý do làm cô ta có thai thì chẳng có gì khó hiểu. Tôi luôn luôn dùng bao cao su mỗi khi quan hệ với cô ta, nhưng một hôm tôi quên mang sẵn một chiếc. Chẳng còn cái nào cả. Tôi nói thật với cô ta vậy, cô ta ngần ngừ vài giây rồi nói: "Ồ, chẳng sao, hôm nay chắc không dính đâu". Chỉ một lần ấy là đủ.

Tôi vẫn không tin hẳn được là mình đã "làm một cô gái có mang", nhưng tôi biết rõ rằng phá thai là giải pháp duy nhất. Tôi ráng gom góp tiền rồi đi cùng cô đến bệnh viện. Chúng tôi đáp xe lửa đến một thị trấn nhỏ ở Chiba tại đó một người bạn của cô đã giới thiệu cô với bác sĩ. Chúng tôi xuống xe ở một nhà ga tôi chưa hề nghe tới và thấy hàng ngàn căn nhà bé tí, tất cả đều rập cùng một khuôn, xúm xít vào nhau mà trải dài trên các ngọn đồi thoai thoải đến tận chân trời. Đó là những khu dân cư mới xây dựng trong những năm gần đây dành cho những người trẻ tuổi làm công sở không đủ tiền mua nhà ở Tokyo. Bản thân nhà ga thì lại mới tinh, ngay trước cửa ga là những cánh đồng lúa nước bạt ngàn, rộng hơn bất cứ cánh đồng nào tôi từng thấy. San sát hai bên phố là bảng hiệu các hãng chuyên buôn bất động sản.

Phòng đợi của bệnh viện chật cứng các bà trẻ tuổi bụng chửa vượt mặt, hầu hết trong số đó hẳn đã lấy chồng được bốn, năm năm, nhờ vay tín dụng ngân hàng mà mua được nhà ở ngoại ô, an cư rồi mới quyết định sinh con. Gã trai duy nhất ở đó là tôi. Các bà bầu nhìn tôi với vẻ tò mò không giấu giếm đồng thời chẳng tỏ ra chút thiện ý nào. Chỉ cần liếc qua ai cũng biết tỏng tôi là một thằng lỏi sinh viên chẳng may làm bạn gái có bầu, giờ phải đưa cô ả đi nạo thai.

Sau khi giải quyết xong, tôi và cô gái đáp xe lửa về lại Tokyo. Chuyến tàu lúc chập tối về thành phố hầu như vắng ngắt. Tôi xin lỗi cô ta. Vì tôi bất cẩn mà cô phải khổ sở thế này, tôi nói.

- Đừng cả nghĩ thế, - cô bảo. - Ít nhất thì anh cũng đã đi với em tới bệnh viện và trả tiền viện.

Chẳng bao lâu sau đó tôi và cô ấy thôi gặp nhau, nên tôi chẳng bao giờ biết cô ấy giờ ra sao, nhưng suốt một thời gian rất dài sau vụ phá thai - thậm chí cả sau khi chúng tôi đã chia tay - tâm trạng tôi vẫn rối bời. Mỗi khi nhớ lại cái ngày đó, trong tâm trí tôi lại hiện lên hình ảnh những thiếu phụ mang thai ngồi chật cứng phòng đợi trong bệnh viện, ánh mắt đầy lo âu. Và tôi không khỏi nảy ra ý nghĩ lẽ ra mình không bao giờ nên làm cô ấy có mang.

Trên chuyến tàu về nhà, để an ủi tôi - vâng, an ủi chính tôi -, cô gái kể tôi nghe mọi chi tiết việc đó diễn ra khá nhẹ nhàng. - Thật ra không kinh khủng như anh nghĩ đâu. Chẳng lâu lắm, mà cũng không đau. Mình chỉ việc cởi quần áo rồi nằm đó. Ừ thì cũng mắc cỡ chứ, nhưng bác sĩ dễ thương lắm, y tá cũng vậy. Dĩ nhiên là họ giảng cho một hồi, nào là từ nay trở đi phải cẩn thận hơn nữa. Thành thử anh đừng khổ sở thế. Một phần là lỗi của em mà. Em mới là người đã nói không sao đâu. Đúng không? Vui lên đi nào.

Tuy nhiên, suốt quãng đường dài trên xe lửa đến thị trấn nhỏ ở Chiba rồi suốt quãng đường về, tôi cảm thấy mình đã trở thành một con người khác. Cả sau khi tôi đã tiễn cô gái về nhà rồi trở về phòng, nằm trên giường nhìn chong chong lên trần nhà, tôi cảm thấy sự thay đổi ấy. Tôi đã là một tôi khác, và tôi không bao giờ có thể trở lại là tôi như trước nữa. Sở dĩ thành ra vậy là vì tôi biết mình không còn trong trắng nữa. Đây không phải cái cảm nghĩ nhuốm mùi đạo đức rằng mình đã làm điều quấy, hay sự giày vò bởi ý thức về tội lỗi. Tôi biết mình đã phạm sai lầm khủng khiếp, nhưng tôi không tự trừng phạt mình vì chuyện đó. Đó là một sự kiện vật lý mà tôi phải đương đầu một cách lạnh lùng và hợp logic, nằm ngoài chuyện trừng phạt hay không trừng phạt.

° ° °


Điều đầu tiên nảy ra trong đầu tôi khi biết Kumiko có mang là hình ảnh các thiếu phụ mang bầu ngồi chật cứng phòng đợi bệnh viện. Hay đúng hơn là cái mùi đặc biệt trong không khí ở nơi đó. Tôi không biết đó là mùi gì - nếu như quả thật đó là mùi của một cái gì. Có khi chỉ là cái gì đó giống như mùi thôi. Khi y tá gọi tên cô gái, cô chầm chậm đứng dậy khỏi chiếc ghế nhựa cứng rồi đi thẳng về phía cửa. Ngay trước khi dừng lại, cô liếc tôi, trên môi cô thoáng nụ cười - hoặc cái còn lại của nụ cười mà cô đã đổi ý thôi không nhoẻn nữa.

Tôi biết đối với vợ chồng tôi việc có con là không thực tế, nhưng tôi cũng không muốn Kumiko phá thai. Khi tôi nói với nàng vậy, nàng trả lời:

- Chuyện đó mình đã nói rồi mà. Nếu bây giờ có con thì em sẽ mất việc, còn anh sẽ phải tìm công việc nào lương cao để có tiền nuôi em và con. Mình sẽ không còn dư tiền cho bất cứ chuyện gì khác. Có muốn làm gì cũng chẳng được. Từ nay trở đi khả năng thực tế cho chúng mình sẽ thu hẹp đến chẳng còn gì nữa. Anh có chịu được như vậy không?

- Được, - tôi nói. - Anh nghĩ là anh chịu được.

- Thật á?

- Nghĩ kỹ anh thấy anh có thể tìm việc được chứ, ông cậu anh chẳng hạn, ông ấy sẽ tìm giúp. Ông ấy đang muốn mở một chỗ mới nhưng không tìm ra người tin cẩn để quản lý. Anh tin chắc nếu làm cho ông ấy thì sẽ kiếm được khá hơn nhiều so với hiện nay. Đó không phải là công ty luật, thì đã sao? Công việc đang làm hiện giờ anh có thích lắm đâu.

- Vậy là anh sẽ quản lý nhà hàng?

- Anh tin nếu thử làm thì chắc là được. Với lại, trong trường hợp bức bách, anh còn ít tiền mẹ để lại kia mà. Chúng mình không chết đói đâu.

Kumiko im lặng, trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu, khóe mắt nheo nheo tạo thành nhiều nếp nhăn nhỏ xíu. Nàng có những cách biểu cảm nho nhỏ như vậy mà tôi rất thích.

- Nghĩa là anh muốn có con sao? - nàng hỏi.

- Anh không biết, - tôi đáp. - Anh biết em đang có mang, nhưng anh vẫn chưa thật sự hiểu ra rằng mình có thể sẽ làm cha. Anh cũng không thật sự biết nếu có con thì cuộc sống của chúng mình sẽ thay đổi ra sao. Em thích công việc của mình, thành thử để em phải mất việc thì hẳn là một sai lầm. Mặt khác, anh nghĩ hai chúng ta cần nhiều thời gian hơn cho nhau, nhưng anh cũng lại nghĩ có đứa con thì thế giới của chúng mình sẽ rộng mở hơn. Anh không biết đằng nào đúng. Anh chỉ cảm thấy anh không muốn em phá thai. Anh không thể bảo đảm điều gì hết. Anh không dám chắc trăm phần trăm bất cứ chuyện gì, cũng không có giải pháp nào hay ho cả. Anh chỉ có cái cảm giác như vậy thôi.

Kumiko nghĩ một lát, chốc chốc lại xoa xoa chỗ dạ dày.

- Này, nói em nghe, sao em lại có bầu nhỉ? Theo anh thì vì sao?

Tôi lắc đầu.

- Anh không biết nữa. Chúng mình lúc nào cũng cẩn thận cơ mà. Những phiền phức kiểu này thì anh luôn muốn tránh. Thành thử anh không biết thế nào lại xảy ra như vậy được.

- Anh không nghĩ là em có thể có tình nhân à? Anh không nghĩ đến khả năng đó sao?

- Không bao giờ.

- Sao lại không?

- Anh không biết. Anh không dám nói là nhờ trực giác hay gì gì, nhưng chuyện đó thì anh tin chắc.

Chúng tôi đang ngồi ở bàn bếp, uống rượu vang. Đêm đã khuya, chung quanh yên lặng. Kumiko nheo mắt nhìn đăm đăm vào chút rượu cuối cùng còn lại nơi đáy cốc của nàng. Nàng hầu như không bao giờ uống rượu, chỉ đôi khi không ngủ được nàng mới uống một cốc. Chỉ cần một cốc là hiệu nghiệm ngay. Tôi chỉ uống với nàng cho có bạn. Chúng tôi chẳng làm gì có những món xa xỉ như cốc thứ thiệt dành riêng cho rượu vang. Chúng tôi chỉ uốn bằng những cốc nhỏ đựng bia mà cửa hàng rượu bia gần nhà biếu không.

- Em có dan díu với người khác à? - tôi hỏi, chợt cảm thấy quan tâm đến chuyện đó.

Kumiko mỉm cười lắc đầu.

- Cái anh này, hỏi gì ngốc vậy. Anh biết là em không bao giờ làm những chuyện như thế mà. Em chỉ nêu chuyện đó ra như một khả năng về lý thuyết thôi. - Rồi nàng trở nên nghiêm trang, tì cùi chỏ lên bàn. - Nhưng đôi khi em cũng không biết nhiều điều... Em không biết điều gì thật, điều gì không thật... điều gì thực sự đã xảy ra, điều gì không... Chỉ đôi khi thôi...

- Đây có phải là một trong những cái đôi khi ấy không?

- Vâng, kiểu như thế. Anh thì có bao giờ cảm thấy như vậy không?

Tôi nghĩ một chút.

- Không, anh không nhớ có khi nào như thế cả, - tôi nói.

- Nói thế nào nhỉ? Có một thứ khoảng cách nào đó giữa những gì em cho là thực với những gì quả đúng là thực. Em có cảm giác như có một cái gì đó nho nhỏ, nằm ở bên trong em... như tên trộm ở trong nhà mình, nấp trong tủ quần áo... chốc chốc nó lại xộ ra ngoài một lát làm xáo tung cái trật tự hay logic mà em đã thiết lập cho mình. Kiểu như cục nam châm làm cho cỗ máy như phát rồ lên ấy.

- Một cái gì gì đó nho nhỏ? Một tên trộm? - tôi nói. - Em nói toàn chuyện mơ hồ quá!

- Ờ, đúng là mơ hồ thật, - Kumiko nói rồi uống nốt chỗ rượu vang còn lại.

Tôi nhìn nàng một lát.

- Em cho là có mối liên hệ nào đó giữa cái gì gì đó nho nhỏ với chuyện em có mang sao?

Nàng lắc đầu.

- Không, em không nói là hai cái đó có liên quan hay không liên quan với nhau. Chỉ là đôi khi em không còn tin chắc lắm vào trật tự của sự vật. Em chỉ muốn nói như vậy thôi.

Có một nét nóng nảy càng lúc càng tăng trong lời nói của nàng. Đã đến lúc chấm dứt câu chuyện này. Đã quá 1 giờ sáng rồi. Tôi vươn tay qua bàn để nắm tay nàng.

- Anh biết đó, - Kumiko nói, - em muốn anh để em tự quyết định chuyện này. Em hiểu đây là vấn đề hệ trọng đối với cả hai chúng ta. Em hiểu vậy mà. Nhưng riêng chuyện này em muốn anh hãy để em quyết định. Em rất áy náy rằng không thể giải thích được rõ ràng những gì em đang nghĩ và đang cảm.

- Anh nghĩ, về cơ bản thì quyền quyết định là của em, - tôi nói. - Anh tôn trọng quyền đó.

- Chúng mình vẫn còn chừng một tháng để quyết định. Chúng mình đã bàn bạc chuyện này mãi rồi, em cũng hiểu khá rõ ý anh ra sao rồi. Giờ hãy cho em suy nghĩ. Mình tạm thời thôi nói đến chuyện này đi nhé.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-8-2012 19:58:51 | Xem tất


Tôi đang ở Hokkaido thì Kumiko phá thai. Xưa nay công ty chả bao giờ cử những tay loong toong đi công tác xa, nhưng riêng lần này chẳng còn ai khác nên rốt cuộc họ phải cho tôi đi lên miền Bắc. Nhiệm vụ của tôi là giao nhận một va li đầy ắp hồ sơ, giải thích ngắn gọn với bên đối tác, nhận lại hồ sơ của họ giao rồi về ngay. Hồ sơ quá quan trọng nên công ty không thể gửi bưu điện cũng không tín nhiệm các hãng chuyển phát chuyên nghiệp được. Vì tất cả các chuyến bay về Tokyo đều kín chỗ nên tôi phải ở lại một đêm tại khác sạn dành cho doanh nhân ở Sapporo. Ngày hôm đó Kumiko đi phá thai, một mình. Nàng gọi điện đến khách sạn cho tôi sau 10 giờ đêm mà nói: "Chiều nay em đã làm thủ thuật. Em xin lỗi vì chuyện xong rồi mới gọi cho anh, nhưng người ta đã hẹn mà thời hạn gấp quá, hơn nữa em nghĩ chuyện này nếu em tự quyết định và tự lo lấy khi anh đi vắng thì sẽ tốt hơn cho cả hai người."

- Đừng lo nghĩ làm gì, - tôi nói. - Em quyết định thế nào thì cứ thế là tốt nhất.

- Em còn muốn kể với anh nữa, nhưng bây giờ thì không được. Lúc nào đó em sẽ phải kể với anh.

- Anh về rồi mình sẽ nói chuyện.

Sau cuộc gọi, tôi mắc áo khoác rồi ra ngoài lang thang khắp phố xá Sapporo. Mới đầu tháng Ba, hai bên vệ đường san sát những đống tuyết cao ngất ngưởng. Không khí lạnh cắt da, mỗi hơi thở ra đều hóa thành những đám mây trắng xóa rồi biến mất trong nháy mắt. Thiên hạ mặc áo khoác nặng trịch, đi găng, khăn choàng kéo tận cằm, cẩn thận dò từng bước một trên vỉa hè đóng băng. Những chiếc taxi dòng qua dòng lại, lốp xe có đinh chống trượt nghiến rào rạo xuống mặt đường. Khi không chịu nổi cái lạnh nữa, tôi vào một quán bar uống vài ly rồi lại ra ngoài đi bộ thêm lát nữa.

Tôi lang thang rất lâu. Tuyết chốc chốc ào xuống rồi lại dừng, nhưng chỉ là tuyết mỏng, như một ký ức mờ dần vào khoảng xa xôi. Quán bar thứ hai tôi ghé vào nằm thấp hơn mặt đất. Trông cửa vào cứ nghĩ là quán nhỏ, nhưng vào rồi mới thấy hóa ra rộng hơn nhiều. Có một sân khấu nhỏ gần quầy bar, trên sân khấu là một tay gầy gò đeo kính đang vừa đệm ghita vừa hát. Anh ta ngồi trên một chiếc ghế bằng kim loại, bắt tréo chân, hộp đựng đàn đặt cạnh chân.

Tôi ngồi nơi quầy bar, vừa uống vừa lơ đãng nghe nhạc. Giữa hai bài hát, người đàn ông cho biết các bài này đều là của anh ta. Anh ta khoảng gần ba mươi tuổi, gương mặt chẳng có nét gì đặc sắc, đeo kính gọng nhựa màu đen. Anh ta mặc quần jean, đi giày cao cổ buộc dây, áo sơ-mi bằng vải nỉ kẻ ô bỏ ngoài quần. Nhạc của anh ta thuộc loại nào thì khó xác định, có lẽ gọi là nhạc "dân gian" ngày xưa cũng được, tuy là một dạng nhạc dân gian của Nhật. Hợp âm đơn giản, giai điệu đơn giản, ca từ chả có gì đặc biệt. Không phải loại nhạc tôi sẵn sàng ra khỏi nhà để đi nghe.

Nếu trong hoàn cảnh bình thường thì tôi đã chẳng chú ý đến thứ nhạc này. Chắc tôi sẽ chỉ uống bia, xong thì trả tiền rồi rời quán. Nhưng đêm đó tôi thấy lạnh thấu xương, nên chừng nào chưa ấm người lên thì tôi chẳng có ý định đi đâu hết. Tôi uống một cốc rồi lại gọi cốc nữa. Tôi không cởi áo khoác cũng chẳng cởi khăn quàng. Khi người phục vụ hỏi tôi có muốn ăn gì không, tôi gọi ít phó-mát nhưng chỉ ăn một miếng. Tôi cố suy nghĩ nhưng cái đầu tôi không nghĩ gì được. Thậm chí tôi không biết mình đang muốn nghĩ về cái gì nữa. Tôi là một căn phòng trống. Trong căn phòng đó, âm nhạc kia chỉ làm phát lên một tiếng vang khô khan, trống rỗng.

Khi người đàn ông ngừng hát, có tiếng vỗ tay lác đác, không nồng nhiệt cũng không hẳn là chiếu lệ. Trong quán chỉ có chừng mươi, mười lăm khách, không hơn. Anh chàng đứng dậy cúi chào. Hình như anh ta đưa ra một nhận xét hóm hỉnh nào đó khiến vài vị khách bật cười. Tôi gọi người phục vụ gọi cốc whisky thứ ba. Sau đó rốt cuộc tôi cũng cởi áo khoác và khăn quàng.

- Chương trình của tôi tới đây là hết, - tay ca sĩ thông báo. Anh ta dừng một chút, nhìn quanh phòng. - Nhưng chắc hẳn có vài vị ở đây đêm nay không thích những bài hát của tôi. Với các vị đó, tôi có thêm một tiết mục nho nhỏ. Tôi không hay trình diễn tiết mục này đâu, nên quý vị có thể coi như mình rất gặp may.

Anh ta đặt đàn ghita xuống sàn rồi lấy từ trong hộp đựng đàn ra một cây nến dày màu trắng. Anh ta quẹt diên châm nến, nhỏ vài giọt sáp xuống một cái đĩa rồi dựng đứng cây nến lên. Sau đó, với dáng vẻ như một triết gia Hy Lạp, anh ta giơ cao cái đĩa lên. - Có thể giảm ánh sáng xuống một chút được không? - Một trong các nhân viên vặn đèn nhỏ lại, chỉ để mờ mờ. - Làm ơn tối hơn chút nữa. - Giờ thì trong quán tối hơn nhiều, ngọn lửa nến trong tay anh ta nổi bật hẳn lên. Ấp lòng bàn tay quanh cốc whisky để sưởi ấm, tôi không rời mắt hỏi người đàn ông và ngọn nến của anh ta.

- Như quý vị đều biết, - người đàn ông nói tiếp, giọng anh ta nhỏ nhẹ nhưng nghe rõ, - trong cuộc đời con người ta phải nếm trải nhiều loại đau. Cái đau thể xác và cái đau tâm hồn. Tôi biết tôi đã nếm trải cái đau dưới nhiều hình thức khác nhau, và tôi tin quý vị cũng vậy. Tuy nhiên, trong hầu hết trường hợp, tôi cho rằng quý vị thảy đều thấy rất khó truyền đạt sự thực của cái đau đó cho người khác, rất khó giải thích nó bằng lời. Người ta thường nói chỉ có chính họ mới thấu hiểu cái đau họ đang cảm thấy mà thôi. Nhưng có đúng vậy không? Riêng tôi, tôi không tin như vậy. Nếu như ngay trước mắt mình chúng ta thấy ai đó đang thực sự đau đớn, đôi khi chúng ta cũng cảm thấy nỗi thống khổ và cái đau của người đó như của chính mình vậy. Đó là sức mạnh của sự đồng cảm. Tôi nói thế có rõ không?

Anh ta dừng lời, nhìn quanh phòng lần nữa.

- Sở dĩ người ta cất tiếng hát cho người khác là vì họ muốn có cái sức mạnh khơi gợi sự đồng cảm ấy, muốn bứt khỏi cái vỏ chật hẹp của cái tôi đặng chia sẻ nỗi đau và niềm vui của mình với người khác. Nhưng dĩ nhiên, đây không phải việc dễ làm. Vậy nên tối nay, như một các thử nghiệm, tôi muốn quý vị nếm trải một loại đồng cảm khác đơn giản hơn, có tính vật chất hơn. Xin mời vặn sáng đèn lên.

Mọi người trong quán lúc này im phăng phắc, mọi cặp mắt đều dán lên sân khấu. Trong im lặng hoàn toàn, người đàn ông nhìn mông lung vào khoảng không, như để ngừng một chút hoặc để đạt tới trạng thái tập trung tư tưởng. Từng tí một, anh ta đưa lòng bàn tay mỗi lúc một gần hơn đến ngọn lửa. Ai đó trong số khán giả thốt lên một tiếng nghe như tiếng thở dài hoặc tiếng rên. Ta có thể thấy đầu ngọn lửa thiêu đốt lòng bàn tay người đàn ông. Ta hầu như nghe được tiếng thịt cháy xèo xèo. Một phụ nữ bật ra tiếng thét nho nhỏ nhưng chói lói. Những người còn lại ngây ra nhìn cảnh đó. Như bị hóa đá vì khiếp sợ. Người đàn ông cố chịu đựng, mặt anh ta méo xệch vì đau đớn. Cái trò quái quỷ gì vậy? Sao anh ta lại phải làm cái việc ngu xuẩn, vô nghĩa này? Tôi cảm thấy miệng mình khô khốc. Sau chừng năm, sáu giây, anh ta chầm chậm rút tay ra khỏi ngọn lửa rồi đặt chiếc đĩa cắm cây nến xuống sàn nhà. Đoạn anh ta úp hai bàn tay vào nhau, lòng bàn tay phải và lòng bàn tay trái ép chặt vào nhau.

- Thưa quý ông quý và, như quý vị đã thấy đêm nay, cái đau thực, sự có thể thiêu đốt thịt người, - anh ta nói. Giọng anh ta nghe vẫn như trước: nhỏ nhẹ, đều đều, bình thản. Không còn dấu vết đau đớn nào trên mặt anh ta. Thay vào đó là một nụ cười yếu ớt. - Và cái đau ắt hẳn vừa xảy ra ở đây, quý vị đã có thể cảm thấy như là cái đau của chính mình. Đó là sức mạnh của sự đồng cảm.

Người đàn ông tách hai bàn tay ra. Từ giữa hai bàn tay anh ta rút ra một chiếc khăn choàng mỏng màu đỏ, mở rộng ra cho mọi người đều thấy. Đoạn anh ta chìa hai lòng bàn tay về phía khán giả. Không có vết bỏng nào hết. Căn phòng lặng đi một lát, rồi mọi người bày tỏ sự nhẹ nhõm bằng một tràng vỗ tay cuồng nhiệt. Đèn bật lên, tiếng lao xao trò chuyện thay cho sự căng thẳng mới đây còn đầy ắp căn phòng. Như thể không có chuyện gì xảy ra, người đàn ông xếp đàn vào hộp, bước khỏi sân khấu rồi biến mất.

Khi trả tiền, tôi hỏi cô gái đứng nơi quầy bar xem người đàn ông nọ có thường hát ở đây không, anh ta có hay biểu diễn trò vừa rồi không.

- Em không rõ, - cô ta nói. - Theo em biết thì đây là lần đầu tiên anh ta tới đây. Trước nay em chưa hề nghe tới anh ta. Chẳng ai bảo em rằng anh ta biết diễn ảo thuật. Mà hay quá phải không anh? Chẳng biết anh ta làm thế nào nhỉ. Em dám cá anh ta sẽ là nhân vật ăn khách trên ti-vi đấy.

- Đúng vậy, - tôi nói. - Trông cứ như anh ta đang đốt tay mình thật.

Tôi đi bộ về khách sạn, ngay lúc tôi leo lên giường thì lập tức giấc ngủ ập tới như thể nãy giờ chỉ đợi có thế. Trong lúc chập chờn, tôi nghĩ đến Kumiko, nhưng nàng ở xa lắm, sau đó thì tôi không nghĩ gì được nữa. Trong trí tôi hiện lên hình ảnh khuôn mặt người đàn ông đang đốt tay mình. Đúng là cứ như anh ta đang đốt tay mình thật, tôi nghĩ. Rồi tôi chìm vào giấc ngủ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-8-2012 20:07:01 | Xem tất


Chương 8
Cội Rễ Của Dục Vọng

Trong Phòng 208

Đi Qua Trường


Trước lúc bình minh, dưới đáy giếng sâu, tôi nằm mơ. Nhưng đó không phải là mơ. Đó là một cái gì đó mang hình thức của giấc mơ.

Tôi đang đi một mình. Bộ mặt của Wataya Noboru chường ra trên màn hình ti-vi lớn đặt giữa một gian tiền sảnh rộng. Bài nói của hắn chỉ mới bắt đầu. Hắn mặc bộ com-lê bằng vải tuýt, sơ-mi kẻ sọc, cà vạt màu xanh nước biển. Tay hắn xếp vào nhau đặt trên chiếc bàn trước mặt, hắn đang nói vào máy quay. Một tấm bản đồ thế giới to đùng treo trên tường sau lưng hắn. Trong gian tiền sảnh chắc phải có tới mấy trăm người, ai nấy đang làm gì đều nhất nhất dừng cả lại để nghe hắn, vẻ mặt nghiêm trọng. Wataya Noboru sắp tuyên bố một điều gì đó sẽ quyết định vận mệnh của tất cả.

Tôi cũng dừng lại nhìn lên màn hình ti-vi. Bằng cách nói lão luyện nhưng cũng rõ là rất chân thành, Wataya Noboru đang nói với hàng triệu con người mà hắn không nhìn thấy. Cái gì đó không thể nào chịu nổi mà tôi luôn cảm thấy mỗi khi gặp hắn trực tiếp giờ đây được giấu ở nơi nào đó sâu kín, vô hình. Hắn nói bằng phong thái đầy thuyết phục có một không hai của hắn - những khoảng lặng cực chính xác, không thừa không thiếu, giọng sang sảng, vẻ mặt phong phú đầy biểu cảm, tất cả đều làm tăng cảm giác chân thực. Wataya Noboru dường như đang ngày một trở thành một diễn giả tài ba. Dù căm ghét hắn đến mấy, tôi vẫn phải thừa nhận điều đó.

- Thưa các bạn, như các bạn đã thấy, mọi chuyện vừa phức tạp vừa đơn giản. Đó là quy luật nền tảng chi phối thế giới này. Chúng ta không bao giờ được quên quy luật đó. Những sự vậy có vẻ như phức tạp - mà quả thật là phức tạp - thật ra rất đơn giản nếu ta xét đến những động cơ. Vấn đề chỉ là ta đang tìm kiếm cái gì. Động cơ là gốc rễ của dục vọng, có thể nói vậy. Điều quan trọng là tìm cho ra gốc rễ. Nếu các bạn làm như vậy, - đến đây hắn phác một cử chỉ về phía tấm bản đồ, - mọi chuyện rốt cuộc sẽ trở nên rõ ràng. Thế giới vận hành như vậy đó. Những kẻ ngu muội chẳng bao giờ có thể thoát khỏi sự phức tạp bề ngoài. Họ mò mẫm trong bóng tối tìm lối thoát, chết mà vẫn chưa hiểu nổi một điều gì về cách thức của thế gian này. Họ đã mất mọi cảm thức về phương hướng. Họ chẳng khác gì đang ở trong rừng sâu hay dưới đáy giếng. Và sở dĩ họ đánh mất mọi cảm thức về phương hướng là vì họ không hiểu nổi những nguyên lý nền tảng. Họ chẳng có gì trong đâu ngoại trừ đá và rác rưởi. Họ không hiểu gì hết. Tuyệt đối không. Thậm chí họ không biết đâu là trước đâu là sau, đâu trên đâu dưới, đâu Nam đâu Bắc. Chính vì vậy họ chẳng bao giờ thoát khỏi bóng tối được.

Nói đến đây Wataya Noboru ngừng lại để lời lẽ của hắn có thì giờ ngấm vào tâm trí người nghe.

- Nhưng ta hãy quên những kẻ đó đi, - hắn nói tiếp. - Nếu người ta đã muốn đánh mất mọi cảm thức về phương hướng, thì điều tốt nhất các bạn và tôi có thể làm là cứ để họ mất. Chúng ta có những việc quan trọng đáng làm hơn.

Càng nghe tôi càng giận điên lên, giận đến mức gần như nghẹt thở. Hắn đang vờ nói với cả thế giới, nhưng kỳ thực hắn chỉ nói với mình tôi. Và ắt hắn phải có một thứ động cơ lệch lạc, méo mó để làm vậy. Nhưng chẳng ai khác nhận ra điều đó. Chính vì vậy Wataya Noboru mới có thể lợi dụng cái hệ thống truyền hình khổng lồ này để gửi những thông điệp bí mật cho tôi. Tôi siết chặt hai nắm tay trong túi, nhưng không cách gì xả cơn giận được. Và vì không thể chia sẻ cơn giận này với bất cứ ai trong gian tiền sảnh, tôi cảm thấy mình thật cô đơn.

Gian tiền sảnh đông nghẹt những người đang căng tai ra uống từng lời Wataya Noboru nói. Tôi đi ngang qua, tiếng thẳng về phía hành lang nối với các phòng dành cho khách. Gã đàn ông không mặt đang đứng đó. Khi tôi lại gần, hắn nhìn tôi bằng bộ mặt không có mặt. Rồi, không nói một lời, hắn dịch ra chắn lối tôi.

- Đây không phải lúc, - hắn nói. - Ông không nên ở đây lúc này.

Nhưng cái đau sâu thẳm, như xé ruột xé gan mà Wataya Noboru gây ra cho tôi giục tôi dấn tới. Tôi vươn tay đẩy gã đàn ông không mặt sang một bên. Gã lảo đảo như cái bóng rồi ngã xuống.

- Tôi nói thế chỉ là vì ông thôi, - hắn gọi với từ đằng sau, mỗi lời của hắn găm vào lưng tôi như một mảnh đạn. - Nếu đi tới nữa, ông sẽ không quay lại được đâu. Ông có hiểu không?

Tôi không buồn để ý, vẫn rảo bước về phía trước. Giờ thì tôi không sợ gì nữa. Tôi phải biết. Tôi đã mất mọi cảm thức về phương hướng, nhưng tôi không thể cứ như vậy mãi mãi.

Tôi đi dọc theo cái hành lang có vẻ quen quen. Tôi cứ nghĩ gã đàn ông không mặt sẽ đuổi theo cố ngăn tôi lại, nhưng khi ngoái lại đằng sau tôi thấy chẳng có ai. Hành lang dài, ngoằn ngoèo, hai bên là những cánh cửa giống nhau như đúc. Mỗi cửa đều có số, nhưng tôi không nhớ được số của căn phòng người ta đã đưa tôi tới lần trước. Lần đó tôi cứ đinh ninh mình đã nhớ số, nhưng lúc này rặn óc nhớ lại mà không sao nhớ nổi. Mở lần lượt từng cánh cửa một thì không được.

Tôi cứ loanh quanh lui tới khắp hành lang cho tới khi đi ngang qua một người phục vụ buồng đang bê một chiếc khay. Trên khay là một chai Cutty Sark mới, một xô đá và hai chiếc cốc. Tôi để người bồi đi qua rồi bám theo gã. Chốc chốc, chiếc khay bóng loáng lại lóe lên khi bắt ánh đèn trần. Tay bồi không ngoái lại. Cằm ngẩng cao có chủ ý, gã đi thẳng về phía trước, bước theo một nhịp đều đặn. Lâu lâu gã lại huýt sáo vài câu nhạc. Đó là bản overtune trong vở Chim ác là ăn cắp, đoạn mở đầu có đánh trống. Gã huýt thật cừ khôi.

Hành lang rất dài, nhưng suốt thời gian bám theo gã bồi tôi không gặp ai cả. Cuối cùng, gã dừng lại trước một cánh cửa rồi gõ nhẹ ba tiếng. Sau vài giây, có người mở cửa, gã bồi bưng khay vào. Tôi nép mình vào tường, núp sau một bình hoa lớn kiểu Tàu, đợi gã bồi trở ra. Số phòng là 208. Dĩ nhiên rồi! Sao mãi bây giờ tôi mới nhớ được nhỉ?

Gã bồi vào trong phòng rất lâu. Tôi nhìn đồng hồ. Tuy nhiên kim đồng hồ đã đứng tự lúc nào không biết. Tôi nghiên cứu những bông hoa cắm trong bình, ngửi từng bông một. Những bông hoa trông như vừa cắt ở ngoài vườn cách đây ít phút, còn tươi quá, vẫn nguyên vẹn màu sắc và mùi hương. Gần như chúng không hề nhận biết mình đã bị cắt lìa khỏi gốc rễ. Một con côn trùng bé tí có cánh đã chui vào trong lòng một đóa hồng đỏ với những cánh hoa dày, đầy đặn.

Năm phút hay hơn nữa trôi qua, gã bồi mới ra khỏi phòng, tay không. Cằm vẫn nhô ra như trước, gã đi khỏi cũng theo lối gã đến đây. Ngay khi gã biến mất sau một góc quanh, tôi liền đi đến chỗ cửa. Tôi nín thở lắng tai, chờ nghe thấy một cái gì. Nhưng chẳng có âm thanh nào, không có dấu hiệu nào cho thấy trong phòng có người. Tôi đánh liều gõ cửa. Ba lần. Nhè nhẹ. Như gã bồi đã làm. Nhưng không ai đáp lại. Tôi đợi vài giây rồi lại gõ, lần này mạnh hơn trước một chút. Vẫn không ai thưa.

Kế đó tôi xoay quả đấm. Nó xoay, cửa mở ra không một tiếng động. Thoạt tiên phòng hình như tối om, nhưng rồi có một tia sáng lọt vào qua khe hở giữa những tấm rèm dày. Cố lắm tôi cũng chỉ thấy được cửa sổ, chiếc bàn, ghế sofa. Đây chính là căn phòng nơi tôi đã ân ái với Kano Creta. Nó là phòng suite: đây là phòng khách, đằng sau là phòng ngủ. Trên bàn là bóng dáng mờ mờ của chai Cutty Sark, hai chiếc cốc, xô đá. Khi tôi mở cửa, chiếc xô đựng đá bằng thép không gỉ bắt ánh sáng ngoài hành lang, lóe lên một ánh sắc như dao. Tôi bước vào bóng tối, nhẹ nhàng khép cửa lại sau lưng. Không khí trong phòng ấm áp, nặng mùi hoa đặc quánh. Tôi nín thở lắng nghe, bàn tay trái vẫn đặt trên quả đấm để có thể mở ra bất cứ lúc nào. Chỗ này phải có người, ở đâu đó. Ai đó đã gọi whisky, đá và cốc từ chỗ phục vụ buồng, đã mở cửa cho gã bồi vào.

° ° °

- Đừng bật đèn, - một giọng nữ nói. Giọng vang lên từ trong phòng ngủ. Tôi nhận ra ngay lập tức. Đó là giọng người đàn bà bí ẩn đã có những cuộc trò chuyện lạ lùng với tôi qua điện thoại. Tôi buông quả đấm cửa rồi dò dẫm tiến về phía giọng nói. Bóng tối ở phòng trong dường như còn dày đặc hơn ở phòng ngoài. Tôi đứng lại nơi cửa thông giữa hai phòng, căng mắt cố nhìn trong bóng tối.

Tôi nghe thấy tiếng ga trải giường sột soạt. Một bóng đen đang chuyển động trong bóng tối.

- Cứ để tối, - giọng người đàn bà nói.

- Đừng lo, - tôi nói. - Tôi không bật đèn đâu.

Tôi bấu chặt tay vào thanh dọc cửa.

- Anh đến đây một mình à? - người đàn bà hỏi, giọng có vẻ mệt mỏi.

- Dĩ nhiên, - tôi đáp. - Tôi vẫn nghĩ là sẽ gặp cô ở đây. Cô hoặc Kano Creta. Tôi phải biết Kumiko đang ở đâu. Bởi mọi chuyện đều bắt đầu từ cú điện thoại đầu tiên của cô. Cô đã mở chiếc hộp Pandora. Từ đó trở đi xảy ra hết chuyện lạ lùng này đến chuyện lạ lùng khác, cuối cùng là Kumiko biến mất. Chính vì vậy tôi mới đến đây. Một mình. Tôi không biết cô là ai, nhưng cô nắm giữ một mấu chốt nào đó. Tôi nói đúng không?

- Kano Creta? - người đàn bà hỏi bằng giọng cảnh giác. - Tôi chưa hề nghe nói tới cô ta. Cô ta cũng ở đây sao?

- Tôi không biết cô ta ở đâu. Nhưng tôi đã gặp cô ấy ở đây không chỉ một lần.

Mỗi lần hít vào tôi đền hít cả mùi hoa rất gắt. Không khí dày đặc, nặng trĩu. Đâu đó trong căn phòng này có một bình đầy hoa. Đâu đó cũng trong bóng tối này, chúng đang thở, đang lay động. Trong bóng tối ngập đầy mùi hương mãnh liệt của chúng, tôi dần dần đánh mất cảm giác về thể xác của mình. Tôi cảm thấy như mình đã biến thành một con côn trùng nhỏ xíu. Giờ tôi đang len lỏi giữa những cánh cửa một bông hoa khổng lồ. Mật hoa dinh dính, phấn hoa và những sợi lông mềm đang chờ đợi tôi. Chúng cần sự xâm nhập và hiện diện của tôi.

- Nhưng trước hết tôi muốn biết cô là ai, - tôi nói. - Cô bảo rằng tôi biết cô, nhưng tôi đã cố hết sức nhớ ra cô mà không được. Cô là ai vậy?

- Tôi là ai ư? - người đàn bà nhại lại, nhưng không có vẻ gì là châm chọc. - Tôi muốn uống. Anh cho vào hai viên đá nhé? Anh uống với tôi chứ?

Tôi ra ngoài phòng khách, mở chai whisky mới, cho đá vào hai cốc rồi rót rượu. Trong bóng tối, việc này mất khá nhiều thời gian. Tôi mang hai cốc rượu vào phòng ngủ. Người đàn bà bảo tôi đặt một cốc lên bàn ngủ. - Còn anh thì ngồi xuống ghế nơi chân giường ấy.

Tôi làm như cô ta bảo, đặt một cốc rượu lên bàn ngủ rồi ngồi xuống một chiếc ghế bành không bọc da cách đó một quãng, rượu cầm tay. Mắt tôi có lẽ đã quen hơn với bóng tối. Tôi có thể nhìn thấy những bóng đen dịch chuyển đằng kia. Người đàn bà hình như đã ngồi dậy trên giường. Đoạn có tiếng những viên nước đá kêu lanh canh khi cô ta uống. Tôi, tôi cũng nhấp một hớp whisky.

Cô ta im lặng hồi lâu không nói gì. Im lặng càng kéo dài thì dường như mùi hoa lại càng gay gắt.

- Anh có thực sự muốn biết tôi là ai không? - người đàn bà hỏi.

- Chính vì vậy tôi mới tới đây, - tôi nói, nhưng giọng tôi có vẻ lúng túng trong bóng tối.

- Anh đến đây chỉ để biết tên tôi là gì thôi phải không?

Thay vì đáp, tôi hắng giọng, nhưng việc đó nữa cũng làm bật lên một tiếng vang kỳ lạ.

Người đàn bà lắc lắc cốc làm những viên đá kêu lanh canh mấy lần.

- Anh muốn biết tên tôi. Nhưng tiếc thay, tôi không thể cho anh biết tên tôi là gì. Tôi biết anh rất rõ. Anh biết tôi rất rõ. Nhưng chính tôi không biết tôi là ai.

Tôi lắc đầu trong bóng tối.

- Tôi không hiểu, - tôi nói. - Tôi ngấy đến tận cổ những câu đố rồi. Tôi cần một cái gì đó cụ thể mà tôi có thể nắm bắt bằng đôi tay. Tôi cần sự thực cụ thể, cần cái gì đó mà tôi có thể dùng làm đòn bẩy nạy cửa ra. Tôi cần là cần cái đó.

Người đàn bà hình như trút một hơi dài từ sâu trong cơ thể.

- Okada Toru này, tôi muốn anh khám phá tên tôi. Mà không, anh không cần phải khám phá nó. Anh đã biết nó rồi. Anh chỉ cần phải nhớ lại thôi. Nếu anh tìm được tên tôi, tôi sẽ ra khỏi nơi này được. Thậm chí tôi có thể giúp anh tìm được vợ, giúp anh tìm được Kumiko Okada. Nếu muốn tìm ra vợ mình, hãy khám phá cho bằng được tên tôi, bằng mọi cách. Đó là cái đòn bẩy mà anh cần. Anh không có thì giờ để mãi loay hoay không biết phải làm gì. Mỗi ngày qua mà anh chưa tìm được Okada Kumiko, cô ấy sẽ càng rời xa anh hơn nữa.

Tôi đặt cốc rượu vang xuống sàn.

- Nói tôi nghe, đây là nơi nào vậy? Cô ở đây bao lâu rồi? Cô làm gì ở đây?

- Anh phải đi ngay bây giờ, - người đàn bà nói, như thể vừa sực nhớ mình đang làm chuyện gì. - Nếu hắn phát hiện được anh ở đây thì nguy to. Hắn còn nguy hiểm hơn anh tưởng. Hắn có thể giết anh. Gì chứ chuyện ấy hắn dám làm đấy.

- "Hắn" là ai?

Người đàn bà không trả lời, tôi cũng không biết nói gì nữa. Tôi thấy bối rối. Không một cái gì động đậy trong phòng. Nỗi im lặng sâu thẳm, dày đặc làm tôi nghẹ thở. Đầu tôi bừng bừng. Hẳn là tại phấn hoa. Trộn lẫn với không khí, những hạt phấn li ti đang xuyên suốt vào đầu tôi, khiến dây thần kinh tôi bị xáo tung lên.

- Này Okada Toru, - người đàn bà nói, giọng cô ta đột ngột đổi khác. Chất giọng cô ta thay đổi trong tích tắc. Giờ nó đã trở thành một với bầu không khí đặc sệt, nặng trĩu trong phòng. - Có bao giờ anh muốn ôm em lần nữa không? Có bao giờ anh muốn đi vào trong em? Muốn hôn khắp người em? Anh có thể làm gì em cũng được, anh biết mà. Em sẽ làm bất cứ cái gì anh muốn... bất cứ cái gì... những gì mà vợ anh, Okada Kumiko... chẳng bao giờ làm cho anh cả. Em sẽ làm anh sung sướng đến suốt đời không quên. Nếu như anh...

Đột ngột có tiếng gõ cửa. Nó có cái âm thanh sắc gọn, dứt khoát của cây đinh bị đóng thẳng vào, một âm thanh đầy điềm gở trong bóng tối.

Bàn tay người đàn bà từ trong bóng tối chìa ra, nắm lấy cánh tay tôi. - Đi lối này, - cô ta thì thầm. - Nhanh lên. - Giọng cô lúc này không còn vẻ mơ hồ phi thực nữa. Tiếng gõ lại vang lên: hai tiếng gõ cùng với cái sức mạnh đó. Tôi chợt nhớ ra mình đã không khóa cửa.

- Nhanh lên, - cô nói. - Anh phải rời khỏi đây ngay. Chỉ có một lối duy nhất.

Tôi mò mẫm qua bóng tối theo tay người đàn bà dẫn. Tôi nghe tiếng quả đấm cửa xoay chầm chậm. Âm thanh đó làm tôi lạnh sống lưng. Đúng lúc ánh sáng từ hành lang rạch một dải xuyên qua bóng tối, hai chúng tôi đã lọt qua tường. Bức tường có độ đậm đặc như một khối thạch khổng lồ lành lạnh: tôi nghiến chặt răng không cho cái chất ấy lọt vào mồm. tôi chợt nghĩ ra: mình đang đi xuyên tường! Để đi từ chỗ này đến chỗ kia, tôi đang đi xuyên qua một bức tường. Thế nhưng, dù chuyện đó đang xảy ra thật đi nữa, tôi vẫn thấy đó là việc tự nhiên nhất trên đời.

Tôi cảm thấy lưỡi của người đàn bà lọt vào trong miệng tôi. Vừa ấm vừa mềm, nó thám hiểm từng ngóc ngách một rồi quấn quanh lưỡi tôi. Hương hoa nặng trĩu mơn man vách phổi tôi. Nơi bụng dưới tôi cảm thấy âm ỉ muốn xuất. Nhắm nghiền mắt, tôi cố cưỡng lại. Một khoảnh khắc sau tôi nghe nơi má phải nóng ran lên. Đó là một cảm giác thật kỳ lạ. Tôi không thấy đau, chỉ cảm nhận cái nóng. Tôi không biết cái nóng đó đến từ bên ngoài hay đang sôi sục từ bên trong tôi. Chẳng mấy chốc tất cả đều biến mất: lưỡi của người đàn bà, mùi hoa, nhu cầu muốn xuất, cái nóng ở trên má. Và tôi qua hết bức tường. Khi mở mắt, tôi đã ở phía bên kia tường - dưới đáy giếng sâu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-8-2012 20:15:58 | Xem tất


Chương 9
Giếng Và Sao

Thang Biến Mất



Mới hơn 5 giờ sáng trời đã rạng, thế nhưng tôi vẫn thấy trên đầu mình cơ man nào là sao. Trung uý Mamiya đã nói với tôi như vậy: từ đáy giếng nhìn lên, ta có thể thấy sao ngay giữa ban ngày. Những vì sao le lói xếp gọn trong mảnh trời vành vạnh hình bán nguyệt như những tiêu bản khoáng vật quý.

Có lần, khi cắm trại trên đỉnh núi với vài người bạn năm tôi lên mười, mười một tuổi, tôi đã thấy nhiều sao, thật nhiều sao, ngập cả bầu trời. Cảm giác như bầu trời sẽ bục vỡ dưới sức nặng của ngần ấy sao mà sụp xuống. Tôi chưa bao giờ thấy trời đầy sao đến nỗi làm ta sửng sốt thế kia. Khi mọi người đã ngủ tôi vẫn không sao chợp mắt được, bèn chui ra khỏi lều, nằm trên mặt đất ngắm trời sao. Chốc chốc một vì sao băng lại vẽ một vòng cung sáng láng xuyên qua vòm trời. Tuy nhiên, càng ngắm tôi càng thấy bồn chồn. Nhiều sao quá, bầu trời rộng và sâu quá. Một dị vật quá to lớn, áp đảo, nó bao quanh tôi, bủa vây tôi, khiến tôi gần như choáng váng. Trước đó tôi vẫn luôn cho rằng trái đất nơi mình đang đứng là một vật vững chắc và tồn tại mãi mãi. Hay đúng hơn, tôi chẳng bao giờ nghĩ đến điều đó. Tôi coi đó là chuyện đương nhiên. Nhưng trên thực tế, trái đất chẳng qua chỉ là một dúm đá trôi lửng lơ trong một góc nhỏ nhoi của vũ trụ này: một chỗ đứng chân tạm thời trong cái khoảng không vô cùng tận của vũ trụ. Nó - và - tất cả chúng ta cùng với nó - có thể ngay ngày mai thôi sẽ bị thổi bay vô trung tích vì một tia bùng loé bất thần hay một thăng giáng cỏn con trong năng lượng vũ trụ. Dưới bầu trời đen dày sao đến nghẹt thở kia, tôi bàng hoàng nhận ra sự nhỏ nhoi vô nghĩa của sự tồn tại của chính mình (mà dĩ nhiên không cần phải mất nhiều lời như vậy). Đó là một khám phá thật lớn lao đối với một đứa trẻ.

Từ đáy giếng nhìn lên những ngôi sao lúc bình minh là một trải nghiệm đặc biệt rất khác với từ trên đỉnh núi nhìn lên bầu trời ngợp sao, như thể ý thức tôi - bản thân sự hiện hữu của tôi - thông qua khung cửa sổ hẹp kia được ràng buộc chặt với mỗi một vì sao kia trên bầu trời. Tôi cảm thấy một niềm thân thiết sâu xa với những vì sao đó: chúng là những vì sao của tôi, không ai khác nhìn thấy chúng ngoài tôi, nơi đáy giếng tối tăm này. Tôi coi chúng như của chính mình, và đến lượt mình chúng gội lên tôi năng lượng và hơi ấm.

Thời gian trôi qua, bầu trời càng lúc càng chịu tác động của vầng mặt trời sáng rỡ mùa hè, từng vì sao một tự xoá mình khỏi tầm nhìn của tôi. Chúng tự xoá mình một cách hoàn toàn lặng lẽ, và tôi mở to mắt quan sát quá trình tự xóa mình đi ấy. Tuy nhiên, mặt trời mùa hè không xoá sạch tất cả các vì sao khỏi bầu trời. Một vài vì sao mạnh mẽ nhất vẫn còn lại. Dù mặt trời lên cao đến mấy, chúng vẫn bướng bỉnh không chịu biến mất. Điều này khiến tôi thật hoan hỉ: trừ vài đám mây thỉnh thoảng bay qua, các vì sao kia là những gì duy nhất tôi thấy được từ dưới đó.

Tôi đã đổ mồ hôi trong khi ngủ, lúc này mồ hôi đâm ra lạnh dần, làm tôi ớn lạnh. Tôi rùng mình mấy lần. Mồ hôi khiến tôi nghĩ tới căn buồng khách sạn tối om và người đàn bà trên điện thoại ở đó. Vẫn còn vang trong tai tôi những lời cô ta nói - từng lời một - và tiếng gõ cửa. Lỗ mũi tôi vẫn giữ nguyên mùi nước hoa nặng trĩu. Và Wataya Noboru vẫn đang phát biểu từ phần bên kia màn hình ti vi. Ký ức về những cảm nhận đó vẫn còn lại, không hề phai nhạt dù thời gian đã qua. Và sở dĩ như vậy là do đó không phải giấc mơ, ký ức tôi bảo thế.

Thậm chí cả khi đã tỉnh hẳn, tôi vẫn tiếp tục thấy nong nóng nơi má phải. Quyện với cái nong nóng đó là một chút đau, như thể da vừa bị xát giấy nhám. Tôi ấn lòng bàn tay lên chỗ đó qua lớp râu một ngày không cạo, nhưng làm thế cũng chẳng bớt nóng hay dịu đau. Dưới đáy giếng tối như mực này, không có kính, tôi thật không thể kiểm tra xem má mình đã bị cái gì.

Tôi giơ tay chạm vào cái vách giếng, dùng đầu ngón tay miết trên bề mặt rồi ấn lòng bàn tay lên một lát, nhưng không thấy có gì bất thường: vẫn là vách bê tông bình thường. Tôi nắm tay lại gõ gõ vài cái. Tường cứng, vô cảm, hơi nhớp nháp. Tôi vẫn còn ấn tượng rõ ràng về cái cảm giác kỳ lạ, dinh dính của bức tường lúc tôi đi xuyên qua nó - như đi qua một khối thạch vậy.

Tôi mò mẫm tìm cái ba lô, lấy bi đông ra uống một ngụm nước. Tôi đã đi suốt một ngày mà chẳng ăn gì. Nghĩ đến chuyện đó là tôi đã thấy đói cồn cào, nhưng cơn đói chẳng mấy chốc đã biến mất, bị thẩm thấu vào một trạng thái vô cảm như là lơ lửng. Tôi lại đưa tay sờ mặt, thử đo xem râu mình mọc đến đâu. Hàm tôi đã mọc râu lún phún một ngày không cạo. Đúng một ngày đã trôi qua. Nhưng sự vắng mặt của tôi suốt một ngày hẳn không ảnh hưởng đến ai. Biết đâu chẳng có lấy một ai nhận thấy rằng tôi đã đi đâu đó. Tôi có thể biến mất khỏi trái đất này mà thế giới vẫn xoay vần chẳng hỏng hóc mảy may. Mọi sự vô cùng phức tạp, cái đó thì chắc chắn, nhưng có một điều duy nhất rõ ràng: chẳng ai cần đến tôi cả.

Tôi lại ngước lên những vì sao. Nhìn thấy những vì sao, nhịp tim tôi dần dần dịu lại. Rồi bỗng sực nhớ ra, tôi mò mẫm dọc theo vách giếng tìm chiếc thang. Ở nơi lẽ ra phải có chiếc thang, tay tôi chẳng gặp gì hết. Tôi sờ soạng cả một vùng rộng, kiểm tra thật kỹ, nhưng không thấy thang đâu. Không có cái thang ở chỗ lẽ ra phải có. Tôi hít một hơi dài, lấy đèn pin ra khỏi ba lô, bật lên. Nhưng chẳng thấy tăm hơi cái thang. Tôi rọi đèn pin xuống mặt đất, rồi rọi lên vách giếng trên đầu tôi, xa hết sức đèn. Không thấy thang đâu hết. Mồ hôi lạnh vã ra hai bên sườn tôi như một thứ sinh vật sống. Đèn pin tuột khỏi tay tôi, rơi xuống đất, tắt ngầm. Đó là dấu hiệu của cái gì đó. Trong khoảnh khắc đó tâm trí tôi đổ sụp: nó là một hạt cát, bị đồng hoá vào thế giới xung quanh. Cơ thể tôi ngưng vận hành, như thể nguồn điện cho nó đã bị ngắt. Hư không trọn vẹn trùm lên tôi.

Điều đó kéo dài có lẽ vài giây, chơ tới khi tôi hồi tỉnh. Các chức năng vật lý của tôi dần dần trở lại. Tôi cúi xuống nhặt chiếc đèn pin nằm dưới chân, gõ gõ mấy cái rồi bật lên. Đèn lại sáng. Tôi cần phải trấn tĩnh, phải sắp xếp ý nghĩ cho thứ tự lớp lang. Sợ hãi, hoảng loạn chẳng giải quyết được gì. Lần cuối tôi kiểm tra cái thang là khi nào? Hôm qua, hồi đêm, ngay trước khi tôi thiếp đi. Tôi đã kiểm tra xem nó vẫn ở đó hay không, sau đó mới cho phép mình ngủ. Không thể nhầm được. Cái thang đã biến mất trong khi tôi ngủ. Nó bị ai đó rút lên. Lấy mất.

Tôi tắt đèn pin, tựa lưng vào vách giếng. Rồi tôi nhắm mắt lại. Điều đầu tiên tôi cảm thấy là cái đói. Nó quét qua tôi từ xa, như con sóng, dập lên tôi rồi rút đi. Khi nó đã đi qua, tôi đứng đó, rỗng không, như con vật bị moi hết lòng ruột. Sau khi cơn hoảng loạn ban đầu đã qua, tôi không còn thấy khiếp sợ hay tuyệt vọng nữa. Lạ thay, trong khoảnh khắc đó điều tôi duy nhất cảm thấy là cái gì đó gần như cam chịu.

° ° °

Từ Sapporo về tôi ôm Kumiko trong vòng tay mà an ủi nàng. Nàng đang lúng túng và rối trí. Hôm ấy nàng đã xin nghỉ làm một ngày. "Suốt đêm qua em không chợp mắt được tí nào," nàng nói. "Bệnh viện họ xếp lịch cho em đúng vào lúc đó, thế là em quyết định luôn", kể vậy xong nàng khóc thút thít.

- Giờ thì chuyện ấy qua rồi, - tôi nói. - Chẳng cần nghĩ tới làm gì nữa. Chúng mình cứ nói về chuyện đó mãi, giờ thì kết cục là vậy. Nếu em còn muốn nói gì thêm thì tốt nhất hãy nói ngay bây bây giờ. Sau đó ta hãy gạt chuyện đó ra khỏi đầu đi. Quên đi. Em đã nói trên điện thoại là có chuyện muốn nói với anh.

Kumiko lắc đầu.

- Không, không có gì đâu, - nàng nói. - Anh nói đúng. Mình hãy quên chuyện này đi.

Chúng tôi tiếp tục sống mà cố tránh nhắc đến chuyện phá thai của Kumiko. Nhưng làm vậy không dễ. Nhiều khi chúng tôi đang nói về một chuyện hoàn toàn khác thì tự dưng cả hai đều im lặng. Cuối tuần chúng tôi hay đi xem phim. Trong bóng tối, chúng tôi có thể tập trung vào bộ phim, nhưng cũng rất có thể chúng tôi lại nghĩ về một cái gì đó hoàn toàn chẳng liên quan gì đến bộ phim, hoặc cho đầu óc nghỉ ngơi bằng cách không nghĩ gì hết. Thường thì tôi biết, khi ngồi cạnh tôi, Kumiko đang nghĩ tới điều gì đó hoàn toàn khác điều tôi đang nghĩ. Tôi cảm nhận được điều đó.

Xem phim xong chúng tôi thường đi ăn uống ở đâu đó. Đôi lúc chúng tôi không biết nói chuyện gì. Cứ thế trong khoảng sáu tuần - sáu tuần dài đằng đẵng cuối cùng Kumiko bảo tôi:

- Hay mai mình đi chơi đi, đi nghỉ đâu đó thật xa, chỉ có anh với em thôi? Mai là thứ Sáu, mình có thể nghỉ đến Chủ nhật. Thỉnh thoảng người ta cũng cần phải nghỉ như vậy chứ.

- Anh hiểu ý em rồi, - tôi mỉm cười đáp. - Nhưng anh không chắc ở cơ quan anh người ta liệu có biết nghỉ phép có nghĩa là gì không.

- Thì anh gọi điện bảo ốm. Cứ nói là bị cúm hay gì đó. Em cũng sẽ làm vậy.

Chúng tôi đáp xe lửa đến Karuizawa. Tôi chọn chỗ ấy vì Kumiko nói nàng muốn đến một nơi yên tĩnh ở trên núi, sao cho chúng tôi muốn đi dạo bao nhiêu tuỳ thích. Đang tháng Tư nên không phải mùa cao điểm du lịch; khách sạn thưa khách, hầu hết quán xá đóng cửa, nhưng đó chính là điều chúng tôi cần. Chúng tôi chẳng làm gì, chỉ đi dạo suốt ngày, từ sáng đến tối. Phải mất một ngày rưỡi Kumiko mới xả được hết cảm xúc. Và khi xả được rồi, nàng ngồi trong buồng khách sạn khóc gần hai tiếng đồng hồ. Suốt thời gian đó tôi chẳng làm gì, chỉ ngồi ôm nàng, để nàng khóc.

Thế rồi, từng chút một, đứt đoạn, nàng bắt đầu kể mọi chuyện cho tôi nghe. Về vụ phá thai. Về cảm xúc của nàng khi đó. Về cảm giác mất mát tột cùng của nàng. Về việc nàng đã thấy cô đơn đến nhường nào khi tôi đang ở Hokkaido, và về chuyện chính vì thấy cô đơn đến vậy nàng mới có thể làm những gì như nàng đã làm.

- Anh đừng hiểu lầm em, - nàng nói. - Em không hối tiếc việc mình đã làm. Đó là cách duy nhất. Điều đó thì em biết rõ. Tuy nhiên, điều làm em đau lòng là em muốn kể với anh tất cả, kể tất, không thiếu một cái gì, nhưng em không thể. Em không thể kể chính xác với anh về cảm xúc của em.

Kumiko đánh bồng tóc lên, để lộ một chiếc tai nhỏ nhắn xinh xẻo, rồi lắc đầu.

- Em không giấu giếm anh đâu. Em định lúc nào đó sẽ kể với anh. Anh là người duy nhất em có thể kể. Nhưng bây giờ thì em không kể được. Em không nói thành lời được.

- Một chuyện gì trong quá khứ sao?

- Không, không phải.

- Bao lâu nữa cũng được, tuỳ em, - tôi nói. - Khi nào em kể được thì hẵng kể. Thời gian là thứ duy nhất mình có thừa. Anh sẽ ở bên em. Đừng lo gì cả. Anh chỉ muốn em ghi nhớ điều này: bất cứ chuyện gì của em, bất cứ chuyện gì, miễn là thuộc về em, anh sẽ coi như là của chính mình vậy. Chuyện ấy thì em không bao giờ phải lo.

- Cám ơn anh. - nàng nói. - Em rất vui vì đã lấy anh.

Nhưng chúng tôi đã không có nhiều thời gian như tôi tưởng. Điều gì mà Kumiko đã không thể nói thành lời? Liệu nó có liên quan đến việc nàng biến mất không? Giá như tôi cố gặng hỏi nàng lúc đó thì có lẽ đã không phải mất nàng như bây giờ. Nhưng không, tôi kết luận sau một hồi suy nghĩ: tôi không bao giờ dồn ép nàng. Nàng đã bảo nàng không nói thành lời được. Dẫu là gì đi nữa, nó vẫn vượt quá sức nàng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách