Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Sein
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót | Haruki Murakami

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2012 19:58:44 | Xem tất


Chương 11
Trung Úy Mamiya Xuất Hiện

Từ Bùn Ấm Sinh Ra Cái Gì

Nước Hoa


Ba ngày sau, Mamiya Tokutaro gọi điện lúc 7 giờ rưỡi sáng. Khi đó tôi đang ăn sáng với Kumiko.

- Tôi thật vô cùng xin lỗi mới sáng sớm thế này đã gọi cho ông. Mong là tôi đã không phá giấc ngủ của ông, - ông Mamiya nói, vẻ hối lỗi rất thành thật.

Tôi trấn an ông rằng không sao cả, sáng nào cũng vậy, 6 giờ hơn một chút là tôi đã dậy rồi.

Ông ta cảm ơn tôi về tấm bưu thiếp và giải thích rằng ông muốn gặp tôi trước khi tôi đi làm sáng nay, lại nói rằng ông sẽ biết ơn lắm nếu tôi có thể gặp ông một lát ngay trong giờ nghỉ trưa hôm nay. Ông ta hy vọng có thể lấy ngay vé cho chuyến tàu tối về lại Hiroshima. Ông bảo ban đầu ông định nán lại ở Tokyo lâu hơn, nhưng vì có chuyện gì đó nên ông phải quay về nhà càng sớm càng tốt.

Tôi bèn nói rõ rằng hiện tôi đang thất nghiệp, rằng tôi rảnh suốt ngày, rằng tôi có thể gặp ông bất cứ lúc nào, sáng, trưa, chiều, tối, tùy ông.

- Nhưng ắt hẳn ông cũng có ý định làm một việc gì đó trong ngày hôm nay chứ ạ? - ông ta hỏi một cách vô cùng lịch thiệp.

Tôi đáp rằng tôi hoàn toàn chẳng có ý định gì hết.

- Nếu vậy liệu tôi có thể ghé qua nhà ông lúc 10 giờ sáng nay không?

- Thế thì tốt quá.

Chỉ sau khi gác máy tôi mới nhớ ra mình đã quên chỉ cho Mamiya biết làm cách nào tìm ra nhà của chúng tôi nếu đi từ nhà ga. Mà cũng không sao, đằng nào ông ấy cũng có địa chỉ; hễ đã muốn thì thể nào cũng tìm tới được.

- Ai vậy? - Kumiko hỏi.

- Cái ông phân phát di vật của ông Honda ấy mà. Độ gần trưa ông ấy sẽ mang đến cho anh.

- Thật à? - nàng nhấp một ngụm cà phê rồi phết bơ lên bánh mì. - Ông ấy tử tế quá.

- Ừ, tử tế thật.

- Nhân thể, liệu anh với em - hay ít nhất là anh - có nên đi viếng ông Honda, thắp một nén nhang không nhỉ?

- Ý hay đấy. Anh sẽ hỏi Mamiya xem sao.

Khi sửa soạn đi làm, Kumiko nhờ tôi cài hộ khóa kéo sau lưng chiếc áo váy nàng mặc. Áo rất bó nên trầy trật mãi mới cài được. Nàng xức một thứ nước hoa rất dễ chịu ở phía sau tai, một mùi hương thật tuyệt, thích hợp vô cùng với một buổi sáng mùa hè. - Nước hoa mới à? - tôi hỏi. Thay vì trả lời, nàng liếc đồng hồ rồi đưa tay sửa tóc.

- Em muộn giờ rồi, - nàng nói rồi cầm lấy túi xách đang đặt trên bàn.
° ° °
Tôi vừa dọn dẹp căn phòng nhỏ mà Kumiko dùng để làm việc và đang mang sọt rác đi đổ thì phát hiện một dải ruy băng màu vàng mà Kumiko đã vứt đi. Nó thòi ra từ dưới một tờ giấy bị vo tròn dúm dó và mấy chiếc phong bì quảng cáo. Màu vàng bóng lưỡng của nó đập ngay vào mắt tôi. Nó là loại ruy băng dùng để gói quà thắt nơ hình bông hoa. Tôi nhặt nó ra khỏi sọt rác mà xem xét. Cái ruy băng bị vứt bỏ cùng một tờ giấy gói quà của siêu thị Matsuya. Bên dưới tờ giấy là một chiếc hộp có nhãn hiệu Christian Dior. Lót bên trong hộp có chỗ lõm hình cái chai. Cứ theo chiếc hộp mà suy, đó hẳn là một món quà khá đắt tiền. Tôi mang nó vào phòng tắm rồi mở tủ đựng mỹ phẩm của Kumiko ra. Quả nhiên trong tủ có một chai nước hoa Christian Dior chưa dùng, hình dáng đúng như chỗ lõm trong hộp. Tôi mở nắp chai mạ vàng ra ngửi thử. Đúng là mùi hương tôi đã nghe đằng sau tai Kumiko.

Tôi ngồi trên ghế sofa, vừa uống chỗ cà phê còn lại từ ban sáng vừa tập trung tư tưởng. Rõ ràng ai đó đã tặng quà cho Kumiko. Một món quà đắt tiền. Mua ở siêu thị Matsuya, gói quà và thắt ruy băng. Đàn ông chẳng ai lại tặng quà cho phụ nữ (nhất là phụ nữ có chồng) nếu quan hệ giữa họ với cô ta không phải là thân thiết. Nếu một bạn gái tặng cho Kumiko thì sao... Nhưng liệu phụ nữ có tặng nước hoa cho phụ nữ không? Tôi không rõ. Tuy nhiên, có một điều tôi dám chắc là chẳng có lý do đặc biệt nào để Kumiko được ai đó tặng quà vào dịp này trong năm. Sinh nhật nàng là vào tháng Năm. Kỷ niệm ngày cưới của hai vợ chồng cũng vậy. Cũng có thể nàng đã tự mua cho mình một chai nước hoa rồi bảo người ta gói lại bằng ruy băng. Nhưng vì sao?

Tôi thở dài nhìn lên trần nhà.

Liệu tôi có nên hỏi nàng không? "Có phải ai đó mua cho em chai nước hoa này không?". Nàng có thể trả lời: "À, chai này ấy à. Có một cô bé chỗ cơ quan em gặp mấy vấn đề riêng tư, em giúp nó giải quyết thôi mà. Kể thì dài lắm. Nó tặng em để trả ơn thôi. Mùi thật tuyệt phải không? Của này đắt lắm đấy!"

Nghe cũng hợp lý lắm. Không còn gì hỏi nữa. Chả cần băn khoăn làm gì cả.

Nhưng tôi cứ băn khoăn mãi. Lẽ ra nàng phải nói gì với tôi chứ. Nếu nàng đã có thì giờ đi về phòng, tháo ruy băng, xé giấy gói, mở hộp ra, ném cả ba thứ vào sọt rác rồi đặt chai nước hoa vào tủ mỹ phẩm thì hẳn nàng cũng có thể đến chỗ tôi mà nói: "Xem này, quà của con bé ở cơ quan tặng em đấy". Nhưng không, nàng chẳng nói gì hết. Có lẽ nàng cho rằng chuyện đó không đáng nhắc tới chăng. Cứ cho là vậy thì mọi chuyện đã phủ một lớp màn bí mật. Chính điều đó mới làm tôi băn khoăn.

Tôi nhìn lên trần nhà một hồi lâu. Tôi cố nghĩ một chuyện gì khác, nhưng không được, đầu óc cứ trơ ra. Tôi vẫn miên man nghĩ về cái lúc tôi cài khóa kéo cho nàng, tấm lưng mịn màng trắng nuột của nàng, mùi hương sau tai nàng. Lần đầu tiên sau nhiều tháng, tôi thèm hút thuốc. Tôi muốn cho một điếu xì gà lên môi. Châm lửa rồi hít khói vào phổi. Được vậy thì tôi sẽ trấn tĩnh một chút. Nhưng tôi chẳng có điếu nào. Không còn cách nào khác, tôi đành lấy một viên kẹo chanh mà mút.

Lúc 10 giờ kém điện thoại reo. Tôi đồ rằng là Trung úy Mamiya. Nhà này vốn không dễ tìm. Ngay cả những người từng đến đây một lần đôi khi vẫn đi lạc là chuyện thường. Nhưng không phải Trung úy Mamiya gọi. Trong ống nghe là giọng người đàn bà bí ẩn mà hôm nọ đã gọi điện cho tôi.

- Chào cưng! Lâu lắm mới gặp nhau, - cô ta nói. - Anh có thích lần trước không? Em có làm anh nhúc nhích chút nào không? Sao tự dưng anh lại gác máy? Mà lại ngay giữa lúc thú vị nhất kia chứ!

Trong một khoảnh khắc tôi cứ nghĩ cô ta đang nói về giấc mơ của tôi gần đây trong đó tôi làm tình với Kano Creta. Nhưng hóa ra là chuyện khác. Cô ta đang nói về cái hôm cô ta gọi điện trong khi tôi đang nấu spaghetti.

- Xin lỗi, - tôi nói. - Hiện giờ tôi đang bận. Mười phút nữa tôi có khách nên phải dọn dẹp nhà cửa một chút.

- Đang thất nghiệp mà sao lúc nào anh cũng bận rộn lắm thế, - cô ta nói, giọng mỉa mai. Lần trước cũng vậy, giọng điệu cô ta cứ đổi xoành xoạch. - Lúc thì bận nấu spaghetti, khi thì bận tiếp khách. Nhưng không sao. Em chỉ cần mười phút thôi. Ta nói chuyện mười phút đi nào, chỉ anh với em thôi. Khi nào khách đến anh cúp máy là được mà.

Tôi muốn cúp máy ngay không nói năng gì, nhưng không làm vậy được. Có lẽ vì tôi vẫn còn đang rối bời về chuyện chai nước hoa của Kumiko nên cảm thấy muốn nói chuyện với một người nào đó, ai cũng được.

- Nào nào, tôi không hề biết cô là ai cả, - tôi nói. Tôi nhặt cây bút chì nằm cạnh chiếc điện thoại, vừa nói vừa xoay xoay trên mấy ngón tay. - Cô có chắc là tôi biết cô không?

- Dĩ nhiên là anh biết em. Lần trước em đã bảo mà. Em biết anh, anh cũng biết em. Gì chứ chuyện đó thì em không nói dối đâu. Em không có thì giờ gọi điện cho những kẻ hoàn toàn xa lạ. Trí nhớ anh có điểm mù hay sao vậy?

- Tôi thật không hiểu. Thật ra thì...

- Đủ rồi, - cô ta cắt ngang. - Nghĩ ngợi gì cho lắm. Anh biết em và em biết anh. Điều quan trong là, ờ, thôi cứ xem thế này đi: em sẽ rất là dễ thương với anh. Còn anh không phải làm gì cả. Thế chẳng tuyệt quá hay sao? Anh không phải làm gì cả, không chịu trách nhiệm gì hết. Mọi thứ đã có em làm. Mọi thứ. Thế là hay quá còn gì phải không? Đừng cả nghĩ làm gì. Đừng làm mọi chuyện phức tạp lên. Vứt mọi thứ ra khỏi đầu đi. Hãy hình dung anh đang nằm trên một lớp bùn thật êm, thật dễ chịu vào một chiều xuân ấm áp.

Tôi im lặng.

- Anh ngủ. Anh đang mơ. Anh đang nằm trên một lớp bùn ấm áp. Quên vợ anh đi. Quên đi chuyện mình đang thất nghiệp. Quên tương lai đi. Quên mọi thứ đi. Tất cả chúng ta đều trồi lên từ bùn ấm rồi tất cả lại quay về đó. Cuối cùng... Ồ, mà này, anh Okada! Lần cuối cùng anh làm tình với vợ anh là khi nào vậy? Anh có nhớ không? Lâu rồi phải không? Chắc cũng phải hai tuần rồi.

- Xin lỗi, khách của tôi đến rồi, - tôi nói.

- Hơn hai tuần phải không? Nghe giọng anh em biết. Hay là ba tuần?

Tôi không nói gì.

- Thôi được rồi, - cô ta nói, giọng cô nghe như nước nhỏ rửa trôi bụi bám trên các lá sách rèm cửa sổ. - Đó là chuyện giữa anh với vợ anh. Nhưng em sẽ cho anh tất cả những gì anh muốn. Đổi lại thì anh, anh Okada, anh không phải có bất cứ trách nhiệm gì. Chỉ cần rẽ qua góc quanh là sẽ thấy cả một thế giới mà anh chưa hế thấy. Em đã nói anh có điểm mù, đúng không? Anh vẫn chưa hiểu à?

Siết chặt ống nghe, tôi vẫn im lặng.

- Nhìn quanh đi, - cô ta nói. - Nhìn quanh rồi bảo em xem, anh thấy gì nào?

Ngay khi đó chuông cửa reo. Cảm thấy nhẹ cả người, tôi gác máy.
° ° °
Trung úy Mamiya là một ông già cao lênh khênh, đầu hói, mang kính gọng vàng. Ông có nước da rám nắng, khí sắc khỏe mạnh của người quen lao động tay chân, không một tí thịt thừa. Hai bên khóe mắt hằn những nếp nhăn sâu, mỗi bên ba nếp cực kỳ cân đối, như thể ông sắp nheo mắt vì ánh sáng quá gắt. Khó đoán được tuổi ông, nhưng ít nhất cũng phải trên bảy mươi. Thời trai trẻ hẳn ông là một anh chàng có sức khỏe hơn người. Có thể thấy rõ điều đó qua dáng đi thẳng tắp và nhưng động tác dứt khoát, đâu ra đó. Thái độ và lời lẽ của ông toát lên vẻ cực kì lễ phép, nhưng không phải kiểu hình thức khách sáo mà gây ấn tượng một sự chính xác giản dị, không tô vẽ. Viên trung úy tỏ ra là một người quen tự mình quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Ông mặc bộ com lê màu xám sáng bình thường, sơ mi trắng, cà vạt xám sọc đen. Bộ com-lê đơn sơ có vẻ làm bằng chất liệu quá dày so với một buổi sáng tháng Sáu oi bức, nhưng ông chẳng rỏ lấy một giọt mồ hôi. Bàn tay trái của ông là tay giả, đeo chiếc găng xám nhạt cùng màu với bộ com lê. Bọc kín trong chiếc găng màu xám đó, bàn tay nhân tạo trông càng lạnh lẽo và vô tri so với tay kia rám nắng và lông lá đang xách lủng lẳng một bọc vải buộc túm lại ở đầu.

Tôi mời ông vào phòng khách rồi mời ông một chén trà xanh.

Ông xin lỗi vì không có danh thiếp.

- Trước kia tôi dạy khoa xã hội tại một trường trung học ở miền quê tỉnh Hiroshima, nhưng từ khi về hưu tôi không làm gì cả. Tôi trồng ít rau, cho vui là chính, làm nghề nông đơn giản thôi. Thành thử tôi không mang danh thiếp, giờ tôi mới thấy như vậy thì thật thất lễ.

Tôi cũng không có danh thiếp.

- Thưa ông Okada, xin cho tôi được hỏi ông bao nhiêu tuổi?

- Tôi ba mươi, - tôi nói.

Ông gật đầu. Rồi ông nhấp một ngụm trà. Tôi chịu không biết ông có cảm tưởng gì về chuyện tôi ba mươi tuổi.

- Nhà ông ở thích thật, yên tĩnh quá, - ông ta nói, như để đổi đề tài.

Tôi kể với ông chuyện tôi thuê lại căn nhà này của ông cậu với giá gần như cho không. Tôi nói thêm rằng bình thường ra, với thu nhập của chúng tôi thì không đủ tiền để sống trong một căn nhà rộng như thế này. Ông vừa gật gù vừa nhìn quanh nhà với vẻ ngại ngùng. Tôi cũng theo ông nhìn quanh nhà. Hãy nhìn quanh anh, giọng người đàn bà kia đã bảo tôi. Nhìn ra xung quanh với cái nhìn mới mẻ đầy ý thức này, tôi nhận ra bầu không khí lan tỏa nơi đây có một sự lạnh lẽo nào đó.

- Lần đi này tôi đã ở Tokyo hai tuần, - Trung úy Mamiya nói. - Ông là người cuối cùng mà tôi gặp để trao kỷ vật của ông Honda. Giờ thì tôi có thể quay về Hiroshima rồi.

- Tôi mong sẽ có thể đến thăm nhà ông Honda thắp cho ông ấy nén nhang, - tôi nói.

- Ý định ấy thật quý hóa, nhưng nhà ông Honda - nay là phần mộ ông ấy - là ở Asahikawa, Hokkaido. Gia đình ông ấy đã từ Asahikawa đến để thu xếp những gì ông còn để lại trong nhà ông ở Meguro, giờ thì họ quay về rồi. Không còn lại gì nữa.

- Tôi hiểu, - tôi nói. - Vậy là lâu nay ông Honda không ở với gia đình mà sống một mình ở Tokyo.

- Đúng vậy. Người con trai trưởng hiện sống ở Asahikawa rất áy náy về việc để cha già sống một mình ở thủ đô, người ngoài họ nhìn vào thì không hay lắm. Hình như anh ta từng thuyết phục cha về sống với mình, nhưng ông Honda từ chối.

- Ông ấy có có trai à? - tôi hỏi, hơi sửng sốt. Lâu nay tôi cứ tưởng ông Honda chỉ có một thân một mình trên đời này. - Vậy thì hẳn vợ ông ấy qua đời khá lâu rồi.

- Chuyện đó thì khá phức tạp. Sau chiến tranh bà Honda dang díu với một người đàn ông khác, rồi cả hai người tự sát. Hình như vào năm 1950 hay 1951 gì đó. Chi tiết thì tôi không được biết. Ông Honda chẳng bao giờ nói nhiều về chuyện đó, còn tôi nếu gặng hỏi thì dĩ nhiên không tiện.

Tôi gật đầu.

Sau đó ông Honda một mình nuôi con, một trai một gái. Khi con cái đủ lớn để tự lập, ông chuyển đến Tokyo ở một mình làm nghề bói toán, như ông biết đó.

- Hồi ở Asahikawa ông ấy làm gì?

- Ông ấy hùn vốn làm ăn với người anh trai trong ngành in ấn.

Tôi cố hình dung ông Honda mặc quần áo bảo hộ lao động đứng trước máy in mà đọc bản in thử, nhưng trong ký ức tôi ông Honda là một ông già có phần lôi thôi bẩn thỉu mặc bộ kimono cũ mèm bẩn thỉu lôi thôi, đeo cái khăn quàng lẽ ra chỉ hợp với áo ngủ, đông cũng như hè luôn ngồi dưới sàn nhà, thõng chân xuống hố sưởi, tay nghịch đôi que bói trên chiếc bàn thấp.

Trung úy Mamiya dùng bàn tay lành lặn khéo léo mở cái túi vải mang theo, lôi ra gói đồ hình thù giống như hộp kẹo nhỏ gói trong giấy thô buộc chặt mấy vòng dây. Trung úy đặt nó lên bàn rồi đẩy về phía tôi.

- Đây là kỷ vật mà ông Honda nhờ tôi chuyển cho ông.

Tôi cầm lên. Nó hầu như nhẹ bẫng. Nhìn bên ngoài tôi không đoán được bên trong là cái gì.

- Tôi mở được không? - tôi hỏi.

Trung úy Mamiya lắc đầu.

- Tôi xin lỗi, nhưng ông Honda đã nói rõ, ông ấy muốn rằng chỉ khi nào có một mình ông mới mở.

Tôi gật đầu, đặt lên bàn.

- Thật ra tôi nhận được thư ông Honda đúng một ngày trước khi ông ấy qua đời. Thư viết thế này: "Tôi sắp chết. Tôi hoàn toàn không sợ chết. Ý trời đã định tôi chỉ sống được chừng ấy thôi. Đã là thiên mệnh thì làm sao cưỡng được. Tuy nhiên, còn một việc tôi chưa làm xong. Trong tủ tôi có mấy vật, những vật ấy tôi muốn chuyển cho một số người. Nay thì chắc tôi không tự mình làm việc ấy được nữa. Chính vì vậy tôi sẽ rất biết ơn nếu anh có thể giúp tôi phân phát chỗ kỷ vậy này theo danh sách đính kèm. Tôi biết mình yêu cầu như thế là quá đáng, nhưng tôi hy vọng anh sẽ coi đây là ý nguyện cuối cùng của tôi trước khi nhắm mắt mà gắng lòng thực hiện vì tôi." Phải nói rằng tôi đã thật sự bị chấn động khi nhận được bức thư như thế của ông Honda. Đã nhiều năm nay - dễ đến sáu, bảy năm - tôi mất liên lạc với ông ấy, không hề viết thư cho nhau một chữ. Tôi viết thư hồi âm ngay, nhưng thư tôi bị trả về kèm theo giấy thông báo của con trai ông Honda rằng ông ấy đã qua đời.

Ông nhấp một ngụm trà xanh.

- Ông Honda biết rõ mình sắp chết, - Trung úy Mamiya nói tiếp. - Ông ấy đã đạt tới một trạng thái tâm thức mà những kẻ như tôi chẳng bao giờ mong có được. Như ông đã nói trong bưu thiếp, ở ông ấy có gì đó làm người khác bị xáo động sâu xa. Tôi cảm thấy điều đó ngay từ lần đầu gặp ông ấy, vào mùa hè năm 1938.

- Ồ, có phải ông ở cùng đơn vị với ông Honda vào thời điểm trận Nomonhan không?

- Không, - Trung úy Mamiya vừa nói vừa cắn môi. - Chúng tôi ở hai đơn vị khác nhau, thậm chí hai sư đoàn khác nhau. Chúng tôi tình cờ cùng tham gia một chiến dịch quân sự nhỏ ngay trước trân Nomonhan. Về sau hạ sĩ Honda bị thương ở Nomonhan và được đưa về Nhật. Tôi thì không có mặt ở Nomonhan. Tôi bị mất bàn tay - tới đây Trung úy Mamiya chìa bàn tay trái mang găng ra - trong trận tiến công của quân Xô Viết vào tháng Tám năm 1945, tháng cuối cùng của cuộc chiến. Tôi bị dính đạn súng máy hạng nặng vào vai trong trận đánh chống một đơn vị xe tăng, đang nằm bất tỉnh trên mặt đất thì một chiếc xe tăng Xô Viết cán lên tay tôi. Tôi bị bắt làm tù binh, được chữa trị ở quân viện tại Chita, sau đó bị đưa đến trại tù ở Siberia. Họ giam tôi cho tới năm 1949. Tính từ khi người ta cử tôi sang Mãn Châu từ năm 1937 thì tôi đã ở Trung Hoa đại lục tổng cộng mười hai năm. Suốt thời gian đó tôi không một lần đặt chân lên đất Nhật. Gia đình tôi cứ tưởng tôi đã chết trong khi đánh nhau với người Nga. Họ đã xây mộ cho tôi trong nghĩa địa làng. Trước khi rời Nhật tôi đã gần như là tỏ tình với một cô gái, nhưng khi tôi về thì cô ấy đã lấy người khác. Biết làm sao được. Mười hai năm chứ đâu có ít.

Tôi gật đầu.

- Tôi xin lỗi, thưa ông Okada, - ông nói. - người trẻ như ông mà nghe mấy chuyện ngày xưa này thì hẳn thấy chán lắm. Tuy nhiên, tôi muốn nói thêm một điều nữa. Đó là hồi ấy chúng tôi cũng là những chàng trai bình thường như ông vậy. Tôi chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện đi lính. Tôi muốn làm thầy giáo kia. Tuy nhiên, ngay khi tôi rời trường, người ta gửi giấy gọi nhập ngũ, tống tôi vào trường huấn luyện sĩ quan, thế là rốt cuộc tôi nằm ở Trung Hoa đại lục suốt mười hai năm trời. Đời tôi cứ như một giấc mơ vậy, - nói xong câu này, Trung úy Mamiya nín lặng.

- Nếu không có gì bất tiện, tôi rất muốn được biết ông và ông Honda đã quen biết nhau như thế nào, - lát sau tôi nói. Tôi thực tình muốn biết ông Honda từng là người như thế nào trước khi gặp Trung úy Mamiya.

Trung úy Mamiya ngồi ngẫm nghĩ điều gì, hai bàn tay đặt đúng trên đầu gối. Chẳng phải là ông không biết nên làm gì. Chỉ là ông đang suy nghĩ.

- Chuyện có thể dài đấy, - ông nói.

- Không sao cả.

- Chuyện này tôi chưa hề kể với ai. Mà tôi tin chắc rằng cả ông Honda cũng không hề kể với ai. Lý do là hai chúng tôi... đã có một thỏa thuận... là giữa bí mật chuyện này. Nhưng ông Honda đã mất. Tôi là người duy nhất còn lại. Nếu tôi kể thì cũng chẳng làm hại ai. Thế là Trung úy Mamiya bắt đầu kể cho tôi nghe chuyện của ông.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2012 20:04:23 | Xem tất

Chương 12
Chuyện Dài Của Trung úy Mamiya: Phần 1

Trung úy Mamiya bắt đầu kể.

Tôi được đưa tới Mãn Châu bằng tàu thủy vào đầu năm 1937. Lúc ấy tôi là một thiếu úy mới toe. Người ta bổ nhiệm tôi tới Bộ Tổng Tham mưu đạo quân Quan Đông ở Tân Kinh. Hồi ở đại học tôi theo chuyên ngành địa lý nên rốt cuộc tôi được điều về Cục bản đồ quân sự, chuyên trách vẽ bản đồ. Điều đó thật lý tưởng đối với tôi vì rằng, nói thật, công việc tôi được giao là một trong những việc nhẹ nhàng nhất người ta có thể mong được làm trong quân đội.

Ngoài ra, tình hình ở Mãn Châu tương đối bình yên, hay ít nhất là ổn định. Sự cố Trung Hoa 1 vừa xảy ra đã đẩy vũ đài quân sự Mãn Châu vào lãnh thổ Trung Hoa. Lực lượng viễn chinh Trung Hoa mới là lực lượng đang tham chiến, còn đạo quân Quan Đông thì đang thảnh thơi. Thật ra vẫn có những chiến dịch lẻ tẻ nhằm vào các đơn vị du kích kháng Nhật nhưng chỉ diễn ra ở những vùng sâu, nói chung là giai đoạn xấu nhất đã qua. Nhiệm vụ duy nhất của đội quân Quan Đông lúc này là duy trì trật tự ở nước Mãn Châu bù nhìn "độc lập" vừa thành lập, đồng thời để mắt canh chừng phía Bắc.

Nhưng dù tình hình có vẻ bình an đi nữa thì vẫn đang là thời chiến, nên vẫn phải thường xuyên luyện tập. Cũng may, tôi không phải tham gia những buổi tập như vậy. Người ta phải luyện tập trong những hoàn cảnh thật kinh khủng. Nhiệt độ tụt xuống đến bốn mươi, năm mươi độ dưới không. Bước nhầm một bước trong những buổi tập kiểu đó là có thể mất mạng. Mỗi khi có buổi tập như vậy là y như rằng hàng trăm người phải vào bệnh viện vì tê cóng hoặc được đưa đến suối nước nóng để điều trị. Tân Kinh không phải là một thành phố lớn nhưng vẫn là một chốn lạ xứ người, thành thử nếu anh muốn vui chơi thì chẳng thiếu gì trò tiêu khiển. Cánh sĩ quan trẻ độc thân như tôi không sống trong doanh trại mà ở một thứ kiểu như nhà nghỉ. Nó như là kéo dài quãng đời sinh viên vậy. Tôi chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, cứ đinh ninh rằng chẳng có gì phải than phiền nếu thời gian quân dịch của tôi cứ đều đều như vậy, bình an, ngày này qua ngày khác.

Dĩ nhiên, thì đó chỉ là bình an giả tạo. Ngay ngoài rìa cái vòng tròn ánh nắng nhỏ nhoi của chúng tôi, một cuộc chiến khốc liệt vẫn đang diễn ra. Hầu hết người Nhật đều hiểu rằng cuộc chiến với Trung Hoa có thể biến thành một vũng lầy mà chúng ta sẽ không bao giờ thoát ra được. Ít nhất là người Nhật nào có cái đầu đều nhận ra điều đó. Dù chúng ta có thắng bao nhiêu trận thì cũng thế: Nhật Bản không có cách gì để tiếp tục chiếm đóng và cai trị một đất nước khổng lồ như vậy. Điều đó thật hiển nhiên, chỉ cần nghĩ cho tỉnh táo là thấy ngay. Mà rõ ràng là vậy, chiến sự càng tiếp diễn, số người chết và bị thương càng nhân lên. Quan hệ với Hoa Kỳ đã tệ càng tồi tệ. Bóng ma chiến tranh cứ ngày một u ám ngay cả tại quê nhà Nhật Bản. Đó là những năm đen tối, 1937, 1938. Thế nhưng khi sống cuộc đời sĩ quan vô lo ở Tân Kinh, hầu như ta chỉ muốn tự hỏi: "Chiến tranh? Chiến tranh nào kia?" Tối nào chúng tôi cũng kéo nhau đi chè chén và bù khú, lại hay đến những quán cà phê có các cô gái người Bạch Nga.

Thế rồi, một ngày cuối năm 1938, một sĩ quan cấp cao ở Bộ Tổng Tham mưu gọi tôi lên giới thiệu tôi với một người mặc thường phục tên là Yamamoto. Y cắt tóc ngắn, để ria mép. Y không cao lớn lắm, trạc ba tư, ba lăm tuổi, có vết sẹo trên cổ trông như vì một thứ lưỡi bén nào đó. Viên sĩ quan nói với tôi:

- Ông Yamamoto là thường dân. Ông ấy được quân đội thuê tiến hành khảo sát đời sống và tập tục của người Mông Cổ sống ở Mãn Châu. Lần này ông ấy sẽ đến thảo nguyên Hulunbuir gần biên giới Ngoại Mông, chúng tôi sẽ cử một đội vũ trang tháp tùng theo ông ấy. Anh sẽ là một thành viên trong nhóm này.

Tôi không tin một lời nào ông ta nói. Gã Yamamoto này mặc thường phục thật đấy, nhưng chỉ cần liếc qua ai cũng biết y là một quân nhân chuyên nghiệp. Cái nhìn trong mắt y, cách y nói, kiểu dáng đi đứng của y, lầm sao được. Tôi cho rằng y là một sĩ quan cao cấp có quan hệ với tình báo, đang thi hành một điệp vụ bí mật nên phải giấu nhẹm việc mình là nhà binh. Có cái gì đó có vẻ chẳng lành trong toàn bộ chuyện này.

Được phân công đi theo Yamamoto có ba người, kể cả tôi. Để có một đội hộ tống vũ trang hữu hiệu thì thế là quá ít, tuy rằng nếu đông người hơn thì có thể gây chú ý cho các đơn vị quân đội Ngoại Mông đang triển khai dọc biên giới. Người ta cũng có thể coi đây là trường hợp giao phó một nhiệm vụ bí mật cho một nhóm người đặc tuyển, nhưng sự thật thì hoàn toàn khác. Trong nhóm chỉ có mình tôi là sĩ quan, mà tôi thì kinh nghiệm chiến đấu chẳng có gì. Người duy nhất mà cả nhóm có thể trông cậy nếu xảy ra chạm súng là một viên trung sĩ tên Hamano. Tôi biết rõ anh ta vì anh này được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho bộ tổng tham mưu. Anh ta là một tay gan lì, đã từ những cấp bậc thấp nhất leo lên đến hàm hạ sĩ quan, từng tỏ ra xuất sắc trong các trận đánh ở Trung Hoa. Anh ta cao lớn, rắn rỏi, không biết sợ là gì, nói gọn là, tôi tin chắc chúng tôi có thể trông cậy vào anh ta trong những lúc dầu sôi lửa bỏng. Nhưng sao người ta lại đưa cả hạ sĩ Honda vào nhóm thì tôi chịu không hiểu được. Cũng như tôi, anh ta mới chân ướt chân ráo từ Nhật sang và dĩ nhiên là chưa hề biết mùi đánh đấm. Anh ta là một tay mềm mỏng, ít nói, xem ra lúc lâm trận thì sẽ chẳng được tích sự gì. Đã vậy anh ta vốn là người của Sư đoàn Bảy, nghĩ là Bộ Tổng Tham mưu đã phải cất công sang bên đó điều động anh ta về chỉ để tham gia sứ mệnh này. Vậy ra anh ta là một người lính có giá trị lắm, nhưng mãi về sau chúng tôi mới thấy rõ tại sao.

Tôi được chọn làm trưởng nhóm hộ tống bởi nhiệm vụ chính của tôi là nghiên cứu địa hình biên giới phía Tây của Mãn Châu quốc trong lưu vực sông Khalkha. Việc của tôi là kiểm tra xem các bản đồ chúng tôi hiện có về khu vực này hoàn chỉnh đến đâu. Thậm chí tôi từng đến vùng này mấy lần bằng máy bay. Hẳn rằng tôi có mặt là để sứ mạng được hoàn thành êm đẹp. Nhiệm vụ thứ hai của tôi là thu thập thêm thông tin chi tiết về địa hình khu vực này nhằm nâng độ chính xác của bản đồ. Một hòn đá trúng hai con chim, như người ta đã nói. Thành thật mà nói, những bản đồ chúng tôi có hồi đó về Thảo nguyên Hulunbuir giáp giới với Nội Mông chỉ là những thứ bản thô, chẳng hoàn thiện hơn là mấy so với các bản đồ cổ từ thời nhà Thanh. Đạo quân Quan Đông đã tiến hành mấy đợt vẽ bản đồ từ sau khi Mãn Châu quốc được thành lập. Họ muốn vẽ những bản đồ chính xác hơn, nhưng khu vực mà họ muốn bao quát lại quá rộng, miền Tây Mãn Châu thì chỉ là một sa mạc vô tận. Ở những vùng hoang địa mênh mông thế kia thì biên giới quốc gia chẳng có ý nghĩa gì lắm. Những người du mục Mông Cổ đã sinh sống ở đó hàng trăm năm chẳng cần tới biên giới, thậm chí không hề có ý niệm biên giới là gì.

Tình hình chính trị cũng gây cản trở cho việc vẽ bản đồ chính xác hơn. Có nghĩa là, nếu chúng tôi vội đơn phuơng đưa ra một bản đồ chính thức trình bày đường biên giới quốc gia theo ý của riêng mình thì có thể sẽ nổ ra xung đột toàn diện cấp quốc tế. Cả Liên Xô và Ngoại Mông, những nước có chung biên giới với Mãn Châu quốc, cực kỳ nhạy cảm về vấn đề xâm phạm biên giới, đã từng có mấy trường hợp giao tranh đẫm máu vì chuyện này. Vào thời điểm đó quân đội chúng ta không có ý định đánh nhau với Liên Xô. Toàn bộ lực lượng của chúng ta đã dồn vào cuộc chiến với Trung Hoa, chẳng còn lại gì để có thể giáp chiến trên quy mô lớn với Liên Xô. Chúng tôi không có đủ sư đoàn, không đủ xe tăng, pháo binh lẫn máy bay. Ưu tiên hàng đầu là bảo đảm an ninh của Mãn Châu quốc vốn vẫn là một thực thể chính trị tương đối mới. Việc xác định biên giới phía Bắc và Tây Bắc có thể để sau, ý của phía quân đội là vậy. Họ muốn câu thời gian bằng cách cứ để mọi chuyện không rõ ràng. Ngay cả đạo quân Quan Đông hùng mạnh cũng theo quan điểm này và giữ thái độ "chờ để xem". Hệ quả là người ta để mặc mọi chuyện bị bao trùm trong một sự mơ hồ.

Tuy nhiên, nếu dù lãnh đạo có tính toàn kỹ đến đâu đi nữa mà vẫn có sự kiện bất ngờ nào đó làm chiến tranh nổ ra (trên thực tế đã diễn ra như vậy ở Nomonhan một năm sau đó) thì phải có bản đồ mới đánh nhau được. Không phải loại bản đồ dân sự thông thường mà là bản đồ tác chiến thứ thiệt kia. Trong chiến tranh ta cần có những bản đồ chỉ rõ phải đóng quân ở đâu, chỗ nào bố trí hỏa lực hữu hiệu nhất, bộ binh phải mất bao nhiêu ngày để đi đến chỗ kia, nguồn nước ở đâu, cần bao nhiêu thức ăn cho lũ ngựa: bao nhiêu là thông tin chi tiết cần phải có. Không có bản đồ như vậy thì không thể tiến hành chiến tranh hiện đại được. Chính vì vậy công việc của chúng tôi phần nhiều lại chồng chéo với công việc của bên tình báo, chúng tôi vẫn thường xuyên trao đổi thông tin với với bộ phận tình báo của đạo quân Quan Đông hay đơn vị đặc nhiệm của quân đội ở Hailar. Hai bên ai cũng biết nhau, nhưng tay Yamamoto này thì tôi chưa gặp bao giờ.

Sau năm ngày chuẩn bị, chúng tôi rời Tân Kinh đến Hailar bằng xe lửa. Từ đó chúng tôi chuyển sang xe tải, qua khu vực chùa phật giáo Tây Tạng Khan-buo thì đến trạm quan sát biên giới của đạo quân Quan Đông gần sông Khalkha. Tôi không nhớ chính xác chúng tôi đã đi bao xa, khoảng hơn ba trăm cây số gì đó. Ấy là một vùng cực hoang vu, hoàn toàn trơ trụi, nhìn ngút mắt cũng không thấy bất kỳ một cái gì. Công việc của tôi đòi hỏi phải thường xuyên đối chiếu bản đồ với địa hình thực, nhưng không có gì để tôi đối chiếu cả, chẳng có cái gì là địa thế đặc biệt may ra có thể dùng làm mốc định hướng. Đâu đâu cũng toàn những đồi gò nham nhở đầy cỏ dại kéo dài mãi không hết, đường chân trời bất tận, những đám mây trôi trên bầu trời. Tôi chịu chẳng cách nào xác định được mình đang ở đâu trên bản đồ. Chỉ có thể đoán chừng dựa trên quãng thời gian mình đã đi mà thôi.

Đôi lúc, những khi lặng lẽ đi qua một vùng đất bao la hoang vắng đến nhường đó, ta có thể bị một ảo giác choán ngợp rằng bản thân ta, một con người riêng lẻ, đang dần dần bị tiêu biến đi. Không gian xung quanh rộng lớn đến nỗi càng lúc càng khó giữ cho cân bằng bản thân sự tồn tại của ta. Ông có hiểu ý tôi không? Ý thức trương nở ra để lấp đầy toàn bộ cảnh quan, bị tan hòa đến độ ta không còn khả năng gắn kết nó vào nhục thể của ta. Tôi đã cảm nhận chính mình như vậy giữa lòng thảo nguyên Mông Cổ. Mênh mông quá! Giống đại dương hơn là giống cảnh sa mạc. Mặt trời mọc ở chân trời phía Đông, chậm rãi băng qua bầu trời rồi lặn xuống chân trời phía Tây. Đó là sự thay đổi duy nhất nhìn thấy được xung quanh chúng tôi. Và trong sự chuyển động đó của mặt trời tôi cảm nhận được một cái gì khó gọi tên, một tình yêu lớn lao, có tính vũ trụ.

Ở chốt biên giới của quân đội Mãn Châu quốc, chúng tôi chuyển từ xe tải sang cưỡi ngựa. Người ta đã chuẩn bị cho chúng tôi đủ mọi thứ: bốn con ngựa để cưỡi, thêm hai con ngựa thồ mang sẵn thức ăn, nước uống và vũ khí. Chúng tôi trang bị vũ khí nhẹ. Tôi và gã tên Yamamoto chỉ mang súng lục. Hamano và Honda thì mỗi người ngoài súng lục còn mang một khẩu súng trường bộ binh M38 và hai quả lựu đạn.

Trên thực tế chỉ huy nhóm của chúng tôi là Yamamoto. Y quyết định mọi chuyện, cũng y là người ra lệnh. Bởi bề ngoài y được coi là dân thường nên theo luật nhà binh thì tôi là sĩ quan chỉ huy, song trên thực tế chẳng ai nghi ngờ rằng chính hắn mới có quyền ra lệnh. Một mặt, hắn là loại người sinh ra để làm chuyện đó, mặt khác, dù tôi mang lon trung úy nhưng kỳ thực tôi chỉ là một cây cạo giấy chưa hề biết thế nào là trận mạc. Cánh quân nhân nhìn ra ngay ai thực sự là kẻ có năng lực, và chỉ kẻ đó họ mới vâng lời mà thôi. Ngoài ra, cấp trên đã lệnh cho tôi phải tuân theo chỉ thị của Yamamoto mà không thắc mắc gì hết. Việc tôi tuân lời hắn là một điều gì đó vượt ngoài lề luật và phép tắc thông thường.

Chúng tôi đi về phía sông Khalkha rồi men theo dòng sông về phía Nam. Dòng sông dềnh lên vì tuyết mới tan. Chúng tôi nhìn thấy những con cá lớn trong dòng nước. Đôi khi ở đằng xa thấp thoáng những con sói. Có lẽ đó không phải là sói thuần chủng mà một phần lai chó rừng, nhưng dù sao vẫn nguy hiểm. Chúng tôi phải cắt người canh gác hàng đêm để bảo vệ lũ ngựa trước bầy sói. Chúng tôi thấy nhiều chim, hầu hết là chim di trú trên đường trở về Siberia. Yamamoto và tôi thường thảo luận với nhau về các đặc điểm địa hình. Chúng tôi đối chiếu bản đồ với con đường đang đi, ghi chép cẩn thận vào sổ mọi chi tiết nhỏ mình nhận thấy. Tuy nhiên, ngoài những cuộc trao đổi chuyên môn đó, Yamamoto hầu như không nói chuyện với tôi. Y lặng lẽ thúc ngựa đi, ăn một mình chứ không ăn cùng chúng tôi, đêm thì đi ngủ mà không nói một lời. Tôi có cảm giác đây không phải là lần đầu tiên y đến vùng này. Y am hiểu địa hình, phương hướng, vân vân... một cách chính xác đến kỳ lạ.

Sau khi tiến về phương Nam được hai ngày không xảy ra sự cố gì, Yamamoto gọi riêng tôi ra bảo rằng sáng hôm sau chúng tôi sẽ vượt sông Khalkha. Tôi nghe mà sững sờ. Bờ bên kia đã là lãnh thổ Ngoại Mông. Ngay cả bờ sông nơi chúng tôi đang đứng cũng là khu vực nguy hiểm bởi vấn đề tranh chấp biên giới. Người Mông Cổ khăng khăng rằng đấy là đất của họ. Mãn Châu quốc cũng tuyên bố đây là lãnh thổ của mình, vì vậy mà hai bên thường xuyên xung đột vũ trang. Nếu chúng tôi bị quân đội Ngoại Mông bắt ở bờ bên này thì ít ra sự bất đồng ý kiến kia giữa hai bên còn là một cái cớ để du di cho chúng tôi. Thực ra thì ít có nguy cơ chạm trán quân đội Ngoại Mông ở đây vào mùa này, bởi tuyết đang tan nên rất khó vượt sông. Nhưng bờ bên kia thì khác hẳn. Nhất định là bên kia có quân tuần tra Mông Cổ. Nếu chúng tôi bị bắt ở bên kia thì chẳng có cớ gì thanh minh được. Rõ ràng đây sẽ là một vụ xâm phạm biên giới, có thể dấy lên đủ thứ rắc rối về chính trị. Chúng tôi có thể bị bắn ngay tại chỗ, chính phủ cũng chẳng bảo vệ được. Ngoài ra, sĩ quan cấp trên không hề nói rằng chúng tôi có thể vượt qua biên giới. Dĩ nhiên người ta đã bảo tôi phải tuân lệnh Yamamoto, nhưng tôi không cách nào biết được liệu có cần phải tuân lệnh y ngay cả trong một việc nghiêm trọng như là xâm phạm biên giới không. Thứ hai, như tôi đã nói ban nãy, sông Khalkha đang tràn bờ, dòng chảy quá mạnh khó lòng vượt qua, ấy là chưa nói nước lạnh cắt da cắt thịt. Ngay cả các bộ lạc du mục cũng chẳng vượt sông vào mùa này trong năm. Họ thường chỉ vượt sông trong mùa đông khi sông đã đóng băng, hoặc vào mùa hè khi dòng chảy êm, nước ấm.

Khi tôi nói hết những điều đó với Yamamoto, y nhìn tôi chằm chằm một lát. Đoạn y gật gật đầu mấy cái. - Tôi hiểu nỗi lo của anh về việc xâm phạm biên giới, - y nói, vẻ có phần kẻ cả. - Với một sĩ quan có những người cấp dưới trong tay thì cân nhắc vấn đề trách nhiệm trong những chuyện như thế là điều tự nhiên. Anh không bao giờ muốn cho thuộc cấp của mình phải nguy hiểm đến tính mạng nếu không có lý do chính đáng. Nhưng anh cứ để chuyện ấy cho tôi. Tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trong việc này. Tôi không thể giải thích nhiều với anh, nhưng việc này đã được thông qua ở cấp cao nhất của quân đội. Về chuyện vượt sông thì anh đừng lo, chúng ta chẳng bị trở ngại gì về mặt kỹ thuật cả. Có một chỗ kín đáo, ít người biết, ở đó ta có thể vượt sông. Quân đội Ngoại Mông đã xây dựng một số điểm như vậy. Chuyện đó thì hẳn anh cũng biết rõ. Bản thân tôi đã vượt sông mấy lần tại điểm đó vào mùa này. Năm ngoái tôi đã vào lãnh thổ Ngoại Mông cũng vào mùa này, chính tại chỗ đó. Anh chẳng việc gì phải lo.

Y nói đúng ở một điểm. Quân đội Ngoại Mông, vốn biết rõ khu vực này như lòng bàn tay, từng cử các đơn vị chiến đấu - tuy không nhiều lắm - đến phía bên này sông trong mùa tuyết tan. Đã vậy thì họ cũng có thể đưa sang hàng đạo quân nếu muốn. Và một khi họ đã có thể vượt sông thì gã Yamamoto này cũng vượt được, và chẳng có lý nào những kẻ còn lại trong bọn tôi thì không.

Hiện chúng tôi đang đứng tại một trong những điểm vượt sông bí mật mà quân đội Ngoại Mông đã xây dựng. Nó được ngụy trang khéo léo, thoạt nhìn khó nhận ra. Một cây cầu bằng ván ghép chìm dưới nước, hai đầu buộc chắt bằng thừng để trụ lại giữa dòng nước xiết, nối liền hai chỗ cạn ở hai bên bờ sông. Xe chở lính, xe thiết giáp, xe tăng chỉ cần ngập bánh dưới nước một chút là có thể vượt sông bằng cây cầu này. Do cầu được phủ kín dưới nước nên máy bay thám thính không bao giờ phát hiện được. Chúng tôi băng qua dòng nước xiết bằng cách bám theo dây thừng. Yamamoto đi đầu để kiểm tra xem có lính tuần canh của Ngoại Mông hay không, chúng tôi theo sau y. Chân chúng tôi tê dại trong nước lạnh cắt da, nhưng người ngựa vẫn cố sang tới được bờ bên kia sông Khalkha. Bờ bên kia cao hơn nhiều, đứng ở đó chúng tôi có thể trông xa hàng nhiều dặm về sa mạc bao la phía bên này sông. Đây là một lý do khiến quân đội Xô Viết đã luôn luôn có lợi thế hơn khi trận Nomonhan nổ ra. Sự khác biệt về cao độ cũng ảnh hưởng đến độ chính xác của hỏa lực. Dù thế nào đi nữa, tôi nhớ mình đã thật sửng sốt thấy cảnh quan hai bên bờ khác nhau đến vậy. Tôi cũng nhớ, mất một hồi lâu lắm mới lại có cảm giác ở đôi chân phải ngâm quá lâu trong làn nước băng giá. Thậm chí mãi một hồi tôi mới lên tiếng lại được. Nhưng, tình thật, duy sự căng thẳng khi nhớ ra mình đang ở trên lãnh địa kẻ thù cũng đủ khiến chúng tôi quên phắt cái lạnh.

Chúng tôi men theo dòng sông về phía Nam. Như con rắn ngoằn ngoéo uốn khúc, dòng Khalkha chảy phía dưới chúng tôi, về bên trái. Ngay sau khi vượt sông, Yamamoto khuyên chúng tôi lột bỏ hết quân hàm, chúng tôi liền làm theo. Hẳn là vì những thứ này sẽ chỉ gây thêm rắc rối nếu chúng tôi bị địch bắt. Vì lý do đó, tôi tháo đôi ủng sĩ quan và chuyển sang đi ghệt.

Tối hôm đó chúng tôi đang cắm trại thì một người đàn ông từ xa cưỡi ngựa đến gần chúng tôi. Y là người Mông Cổ. Người Mông Cổ dùng thứ yên ngựa cao khác thường cho nên dễ nhận ra họ từ xa. Vừa nhác thấy kẻ đang lại gần, trung sĩ Hamano liền chộp ngay khẩu súng trường, nhưng Yamamoto bảo anh ta đừng bắn. Hamano chầm chậm hạ súng xuống, chẳng nói chẳng rằng. Bốn chúng tôi đứng đó, đợi người kia lại gần. Y đeo ngang lưng một khẩu súng trường của Liên Xô, một khẩu súng Mauser giắt ở lưng. Mặt y râu quai nón xồm xoàm, đầu đội mũ có che tai. Bộ quần áo bẩn thỉu của y giống của dân du mục, nhưng nhìn phong thái của y có thể biết ngay rằng y là quân nhân chuyên nghiệp.

Gã đàn ông xuống ngựa nói với Yamamoto bằng một thứ tiếng tôi cho là tiếng Mông Cổ. Tôi biết chút ít cả tiếng Nga lẫn tiếng Trung Hoa, nhưng đây không phải tiếng này cũng chẳng phải tiếng kia, vậy ắt là tiếng Mông Cổ. Yamamoto trả lời người kia cũng bằng thứ tiếng đó. Điều này càng khiến tôi tin chắc Yamamoto là sĩ quan tình báo.

Yamamoto bảo tôi:

- Này Trung úy Mamiya, tôi sẽ đi cùng người này. Tôi không biết sẽ đi bao lâu, nhưng tôi muốn các anh chờ ở đây, dĩ nhiên là phải luôn luôn cảnh giác. Nếu trong vòng ba mươi sáu giờ mà tôi chưa trở về, các anh phải báo cáo với bộ tham mưu. Hãy cử một người vượt sông trở về chốt quan sát của quân đội Mãn Châu quốc.

Nói xong, y lên ngựa cùng với người Mông Cổ ruổi về phía Tây.

Dựng trại xong, ba chúng tôi dùng bữa tối đạm bạc. Chúng tôi không thể nấu nướng hay đốt lửa. Thảo nguyên mênh mông này nhìn đâu cũng chỉ thấy rặt những gò cát thấp, không có một cái gì che chắn chúng tôi, nên chỉ cần một làn khói nhỏ cũng đủ để chúng tôi bị tóm cổ lập tức. Chúng tôi dựng lều thấp dưới các đụn cát, chỉ ăn bánh quy khô và thịt hộp nguội. Khi mặt trời đã lặng dưới chân trời, bóng tối nhanh chóng trùm lên chúng tôi, bầu trời nhiều sao đến mức khó tin. Xa xa có tiếng sói tru lẫn trong tiếng gầm gào của dòng sông Khalkha. Chúng tôi nằm dài trên cát nghỉ ngơi sau một ngày kiệt lực.

Trung sĩ Hamano bảo tôi:

- Xem ra chúng ta đặt chân vào hiểm địa rồi đây, trung úy à.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2012 20:06:52 | Xem tất


Tôi đành phải đồng ý với anh ta. Cho tới khi đó, ba chúng tôi - trung sĩ Hamano, hạ sĩ Honda và tôi - đã khá hiểu nhau. Thói thường, một hạ sĩ quan dày dạn súng đạn như hạ sĩ Hamano sẽ giữ thái độ xa cách và khinh khỉnh đối với một sĩ quan trẻ non nớt như tôi, nhưng trường hợp chúng tôi thì khác. Anh ta tôn trọng tôi vì tôi có học vấn, đã tốt nghiệp một trường không phải là trường nhà binh, tôi thì thực lòng quan tâm đến kinh nghiệm trận mạc và óc phán xét đầy thực tiễn của anh ta mà không coi trọng chuyện cấp bậc. Chúng tôi còn dễ nói chuyện với nhau bởi anh ta quê ở Yamaguchi còn tôi ở Hiroshima, không xa Yamaguchi. Anh ta kể tôi nghe về cuộc chiến ở Trung Hoa. Anh ta là người lính từ đầu đến chân, học vấn võ vẽ hết cấp tiểu học, nhưng anh ta cũng có nỗi hoài nghi về cái cuộc chiến trần ai tưởng như không bao giờ dứt này ở đại lục. Anh ta bộc bạch với tôi.

- Tôi không nề hà chuyện đánh nhau. Tôi là người lính. Tôi sẵn sàng chết trên chiến trường vì tổ quốc, bởi vì đó là việc của tôi. Nhưng cái cuộc chiến mà chúng ta đang lâm vào ấy, trung úy à, nó không chính đáng đâu. Nó không phải là cuộc chiến thật, không có chiến tuyến nơi ta giáp mặt quân địch mà đánh tới nơi tới chốn. Chúng ta tiến, còn địch thì rút lui không đánh. Rồi lính Trung Hoa họ cởi hết quân phục mà trà trộn vào dân thường, thế là chúng ta chẳng còn biết kẻ thù là ai nữa. Vậy nên chúng ta giết nhiều người vô tội với cái cớ là tiêu diệt "bọn nổi loạn" hay "đám tàn quân" và tịch thu thực phẩm. Chúng ta buộc phải cướp đồ ăn của họ vì chiến tuyến di chuyển quá nhanh nên hậu cần của ta không theo kịp. Và ta buộc phải giết tù binh vì không biết giam chúng ở đâu hay lấy gì cho chúng ăn. Thế là sai, trung úy ạ. Chúng ta đã làm những chuyện kinh khủng ở Nam Kinh. Chính đơn vị tôi làm. Chúng tôi quẳng hàng tá người xuống giếng rồi ném lựu đạn xuống theo. Có những chuyện chính mình đã làm mà bây giờ không sao mở miệng nói ra được. Trung úy ạ, tôi nói với anh rằng đây là một cuộc chiến hoàn toàn không có Lý do Chính đáng nào hết. Chỉ là hai bên giết nhau thôi. Những người chịu chết chóc đau thương hóa ra toàn là đám nông dân nghèo khổ, họ thì có biết chính trị hay ý thức hệ là cái gì đâu. Với họ thì chả có Quốc dân đảng, chả có Thống chế Trương2, chả có Bát lộ quân nào hết. Có cái ăn là họ hạnh phúc rồi. Tôi biết cảm nghĩ họ ra sao, vì chính tôi là con một ngư dân nghèo. Những người thấp cổ bé họng làm quần quật từ sáng đến tối cũng chỉ vừa đủ cầm xác. Tôi không tin, giết những người như vậy mà hoàn toàn không có lý do gì hết thì liệu có tốt lành gì cho nước Nhật.

Khác với trung sĩ Hamano, hạ sĩ Honda chẳng có gì nhiều để nói về mình. Nói chung, anh ta là một tay ít nói. Anh ta thường im lặng nghe chúng tôi nói chuyện mà không chêm nhận xét của mình vào. Nhưng bảo rằng anh ta "ít nói" vậy thôi, chứ thật ra anh ta không phải là loại người bản tính lầm lì khó chịu hay rầu rĩ. Chỉ là anh ta ít khi tự mở miệng. Thực sự là điều đó khiến tôi thỉnh thoảng lại tò mò không biết anh ta đang nghĩ gì, nhưng anh ta hoàn toàn không phải là kẻ khó gần. Thậm chí, chính phong thái bình thản của anh ta nhiều khi lại làm người khác thấy nhẹ lòng. Anh ta quả thật là điềm tĩnh. Dù chuyện gì xảy ra đi nữa, anh ta không hề đổi sắc mặt. Tôi được biết anh ta quê ở Asahikawa, ở đó cha anh ta có một nhà in nhỏ. Anh ta kém tôi hai tuổi. Sau khi học xong, anh ta cùng các anh trai làm việc cho nhà in của cha. Anh ta là em út trong ba anh em, người anh cả thì đã bị giết ở Trung Hoa hai năm về trước. Anh ta thích đọc sách, hễ rảnh được phút nào là y như rằng tôi thấy anh ta cuộn tròn một góc mà đọc cuốn sách nào đó về đề tài Phật giáo.

Như tôi đã nói, Honda hoàn toàn không có kinh nghiệm chiến đấu thực tế, nhưng dù chỉ mới được huấn luyện một năm, anh ta đã là một người lính kiệt xuất. Trong mỗi trung đội luôn luôn có một hai người như vậy, những người luôn luôn nhẫn nại, bền gan, thực hiện đến cùng nghĩa vụ của mình không một lời ta thán. Thể chất khỏe mạnh, phản xạ tuyệt hảo, họ hiểu ngay lập tức những gì được chỉ bảo và áp dụng chính xác vào thực tế. Honda là một người như vậy. Và do được đào tạo về kỵ binh nên anh ta là người biết rõ nhất về loài ngựa; anh ta lãnh phần chăm sóc cả sáu con mà chúng tôi mang theo. Đôi khi chúng tôi cảm thấy dường như anh ta hiểu tâm trạng lũ ngựa đến từng chân tơ kẻ tóc. Trung sĩ Hamano thừa nhận ngay khả năng của hạ sĩ Honda và giao phó cho anh ta ngần ấy việc mà không chút băn khoăn.

Vậy nên tuy đơn vị chúng tôi khác thường, chắp vá là vậy nhưng chúng tôi hết sức hiểu nhau. Và chính bởi không phải là một đơn vị bình thường nên chúng tôi không hề câu nệ những thứ quy tắc nhà binh theo sách vở. Chúng tôi rất thoải mái, cởi mở với nhau, gần như là Nghiệp quả đã đưa chúng tôi đến với nhau vậy. Chính vì thế trung sĩ Hamano mới có thể nói thẳng với tôi những gì vượt ngoài cái khuôn phép bất di bất dịch giữa sĩ quan với hạ sĩ.

- Trung úy này, - có lần anh ta hỏi, - ông nghĩ thế nào về tay Yamamoto kia?

- Tôi dám đánh cuộc là mật vụ, - tôi nói. - Nếu không phải chuyên gia thì làm sao nói tiếng Mông Cổ như thế được. Lại còn thông thạo vùng này như lòng bàn tay nữa.

- Tôi cũng nghĩ như vậy. Ban đầu tôi cứ nghĩ hắn là một trong những bọn đạo tặc chuyên cưỡi ngựa thông đồng với đám sĩ quan chóp bu, nhưng hóa ra không phải. Lũ ấy tôi còn lạ gì. Chúng nó đã mở mồm là nói rạc tai, mười phần hết năm phần là bịa. Rút súng thì nhanh như chớp. Nhưng tay Yamamoto này thì không phải hạng xoàng. Hắn là tay tổ đấy. Sĩ quan cao cấp, rất cao nữa là khác. Chuyện ấy thì đứng xa một dặm tôi cũng ngửi ra. Tôi nghe nói quân ta muốn kết hợp đơn vị tác chiến bí mật nào đó với những người Mông Cổ thuộc quân đội do Liên Xô đào tạo, và người ta đã đưa sang một số chuyên viên mật vụ để lo chiến dịch này. Có thể Yamamoto có liên quan đến vụ này.

Hạ sĩ Honda đang cầm súng đứng canh ở cách chúng tôi một quãng. Tôi đặt khẩu Browning ngay bên cạnh để có thể chộp lấy bất cứ lúc nào. Trung sĩ Hamano đã tháo ghệt ra và đang xoa bó chân.

- Dĩ nhiên là tôi chỉ đoán thế thôi, - anh ta nói thêm. - Gã Mông Cổ mà chúng ta gặp có thể là một sĩ quan quân đội Mông Cổ đang chống người Liên Xô và cố tiếp xúc bí mật với quân đội Nhật.

- Cũng có thể, - tôi nói. - Nhưng anh nhớ giữ mồm giữ miệng, kẻo người ta chặt đầu đấy.

- Nào, nào, trung úy, tôi đâu có ngu thế. Chuyện này chỉ giữa hai chúng ta thôi, - anh ta nhe răng cười với tôi, rồi trở nên nghiêm trang. - Nhưng nếu đúng vậy thật thì nguy hiểm lắm. Khéo mà chiến tranh như chơi.

Tôi gật đầu đồng tình. Ngoại Mông về hình thức là một nước độc lập, nhưng thực chất là một xứ vệ tinh của Liên Xô. Theo nghĩa đó thì nó chẳng khác là bao so với Mãn Châu quốc, nơi quyền hành thực sự nằm trong tay người Nhật. Nhưng ai cũng biết, ở Ngoại Mông có một nhóm chống Liên Xô, nhóm này đã bí mật liên hệ với quân đội Nhật ở Mãn Châu quốc, các thành viên nhóm này đã dấy lên nhiều cuộc nổi loạn. Hạt nhân của thành phần nổi loạn này là các quân nhân Mông Cổ bất mãn với sự chuyên quyền của quân đội Xô Viết, tầng lớp địa chủ chống lại chính sách tập trung hóa cưỡng bức trong nông nghiệp và các tu sĩ Phật giáo Tây Tạng - số này có tới hàng trăm người. Thế lực nước ngoài duy nhất mà nhóm chống Liên Xô này có thể xin trợ giúp là quân đội Nhật đang đóng quân tại Mãn Châu quốc. Vả lại so với người Nga thì rõ ràng người Nhật chúng ta gần gũi họ hơn bởi đều là người châu Á, đồng chủng da vàng. Một năm trước đó, 1937, một kế hoạch nổi dậy quy mô lớn ở thủ đô Ulan Bator đã bị lộ, hậu quả là xảy ra những cuộc thanh trừng quy mô lớn. Hàng ngàn quân nhân và tu sĩ Phật giáo bị hành hình như những phần tử phản cách mạng cấu kết với quân đội Nhật, nhưng tâm trạng chống Nhật vẫn cứ âm ỉ nơi này nơi khác. Thành thử nếu có một sĩ quan tình báo Nhật vượt sông Khalkha để bắt liên lạc với một sĩ quan chống Liên Xô thuộc quân đội Ngoại Mông thì cũng chẳng có gì lạ. Để ngăn chặn việc đó, quân đội Ngoại Mông đã cử các đơn vị tuần tra thường xuyên đi tuần và tuyên bố toàn bộ dải lãnh thổ cách biên giới Mãn Châu quốc từ mười tới mười hai cây số là vùng cấm. Tuy nhiên vùng này quá rộng nên dẫu có tuần tra cũng không thể nào để mắt tới từng li từng tí một.

Cho dù cuộc nổi dậy của họ có thành công đi nữa, chắc chắn quân đội Liên Xô sẽ lập tức can thiệp để bóp chết hoạt động phản cách mạng của họ. Nếu điều đó xảy ra, những người nổi dậy sẽ yêu cầu quân đội Nhật giúp đỡ, đó sẽ là cái cớ để đạo quân Quan Đông của Nhật can thiệp. Chiếm Ngoại Mông thì chẳng khác nào thọc dao vào mạng sườn của Liên Xô ở Siberia. Bộ tổng tham mưu ở Tokyo hẳn sẽ cố kiềm chế cơn hăng đó, nhưng đây là một cơ hội mà bộ tham mưu đạo quân Quan Đông vốn đầy tham vọng chẳng dễ gì bỏ qua. Hậu quả sẽ không chỉ là xung đột biên giới mà là chiến tranh tổng lực giữa Liên Xô và Nhật. Nếu một cuộc chiến như vậy xảy ra trên vùng biên giới Mãn Châu - Liên Xô, Hitler có thể đáp trả bằng cách chiếm Ba Lan hay Tiệp Khắc. Đó chính là tình huống mà hạ sĩ Hamano đã nói khi nhận xét về khả năng xảy ra chiến tranh.

Sáng hôm sau, mặt trời đã mọc mà Yamamoto vẫn chưa trở về. Tôi là người cuối cùng canh gác. Tôi mượn súng trường của trung sĩ Hamano, ngồi trên một đụn cát có phần cao hơn mà ngắm bầu trời phía Đông. Bình minh ở Mông Cổ là một điều kỳ diệu. Chỉ trong khoảnh khắc, chân trời trở thành một dải sáng mờ treo trong bóng tối, rồi cái dải sáng ấy dâng lên, mỗi lúc một cao hơn. Dường như có một bàn tay vĩ đại tự trên trời vươn xuống chầm chậm kéo tấm màn đêm ra khỏi mặt đất. Cảnh tượng đó thật kỳ vĩ, một cảnh tượng mà, như tôi đã nói, lớn lao hơn rất nhiều so với tất cả những gì tôi có thể lĩnh hội được với những giác quan hạn hẹp của con người. Tôi ngồi đó ngắm nhìn, trong tôi bỗng dâng lên một cảm giác rằng chính sự sống của tôi đang dần dần tiêu biến thành hư vô. Ở cõi hư vô đó không có dấu vết gì của những thứ vô nghĩa như những việc làm nhỏ nhặt của con người. Cũng một cảnh tượng này từng xảy ra hàng triệu lần, hàng trăm triệu lần, từ thời thái cổ, từ rất lâu trước khi tồn tại bất cứ thứ gì gọi là sự sống trên trái đất. Quên khuấy rằng mình đang đứng gác, tôi như bị thôi miên, ngắm mãi cảnh bình minh của một ngày mới.

Sau khi mặt trời đã hiện rõ phía trên chân trời, tôi châm điếu thuốc, nhấp một ngụm nước trong biđông và đi tiểu. Rồi tôi nghĩ về nước Nhật. Tôi hình dung thành phố quê hương vào đầu tháng Năm - hương hoa, tiếng rì rào của dòng sông, những đám mây trên bầu trời. Bạn cũ. Gia đình. Vị ngọt của chiếc bánh gạo nong nóng gói trong lá sồi. Tôi vốn không ưa của ngọt, nhưng sao sáng hôm đó tôi thèm một cái bánh mochi đến chết được. Giá như khi đó có thể trả nửa năm lương sĩ quan để mua một cái thì tôi cũng mua. Và khi nghĩ đến nước Nhật, tôi đâm ra cảm thấy mình đã bị bỏ rơi ở bên lề thế giới. Tại sao chúng tôi phải liều mạng chiến đấu cho cái mảnh đất trơ trụi không có chút giá trị về quân sự hay công nghiệp này, cái vùng đất nơi không gì sống được ngoài cỏ dại và trùng độc này? Tôi, tôi cũng sẵn sàng chiến đấu và chết để bảo vệ quê hương. Nhưng hy sinh mạng sống chỉ có một này cho cái rẻo đất hoang vu nơi không thứ hạt nào có thể nảy mầm thì thật quá vô nghĩa.

° ° °


Sáng tinh mơ ngày hôm sau thì Yamamoto trở về. Lúc ấy tôi cũng là người cuối cùng đứng gác. Tôi đang đứng xoay lưng lại dòng sông, mắt dõi về phía Tây thì nghe một âm thanh như tiếng ngựa hí ở đằng sau. Tôi quay lại nhưng chẳng thấy gì. Tôi nhìn chăm chăm về phía âm thanh đó phát ra, trong tư thế sẵng sàng nổ súng. Tôi nuốt nước bọt, cái âm thanh từ trong chính cổ họng mình to đến nỗi tôi rùng mình. Ngón tay đặt lên cò súng của tôi run run. Từ trước đến nay tôi chưa từng phải bắn ai cả.

Chỉ mấy giây sau, một con ngựa lảo đảo đi qua triền cong một đụn cát, trên lưng nó là Yamamoto. Tôi nhìn quanh, ngón tay đặt trên cò súng, nhưng không còn ai khác xuất hiện - gã Mông Cổ không, quân địch cũng không. Vầng trăng to tướng trắng bệch treo trên nền trời phía Đông như một tảng đá mang điềm gở. Tay trái của Yamamoto hình như bị thương. Chiếc khăn mùi xoa hắn dùng buộc quanh cánh tay bê bết máu. Tôi đánh thức hạ sĩ Honda dậy trông nom con ngựa. Rõ ràng con vật đã phải phi nước đại suốt một quãng đường dài, nó thở hổn hển, toàn thân đầm đìa mồ hôi. Hamano gác thay tôi, còn tôi lo sơ cứu vết thương cho Yamamoto.

- Đạn chỉ sượt qua thôi, máu ngừng chảy rồi, - Yamamoto bảo. Y nói đúng: viên đạn chỉ xé rách thịt mà không phạm vào xương. Tôi tháo chiếc khăn mùi xoa ra, dùng cồn sát trùng miệng vết thương rồi băng lại. Trong suốt thời gian đó Yamamoto thậm chí không nhíu mày, duy có môi trên y đọng một lớp mồ hôi mỏng. Y uống ừng ực nước trong biđông, đốt một điếu thuốc và rít với vẻ khoan khoái ra mặt. Đoạn y rút khẩu Browning ra, kẹp dưới nách, tháo băng đạn và khéo léo dùng một tay nạp ba viên đạn vào.

- Này, Trung úy Mamiya, chúng ta rời khỏi đây ngay. Vượt sông đi về phía chốt quan sát của quân đội Mãn Châu quốc.

Chúng tôi nhanh chóng dỡ trại, hầu như không nói một lời, lên ngựa ruổi về phía chỗ vượt sông. Tôi không hỏi Yamamoto xem chuyện gì đã xảy ra với y, ai đã bắn y. Vị trí của tôi không cho phép, nhưng thậm chí dù tôi có quyền hỏi đi nữa, vị tất y đã trả lời. Ý nghĩ duy nhất của tôi lúc đó là làm sao đi khỏi lãnh địa của kẻ thù càng sớm càng tốt, vượt sông Khalkha sang bờ bên kia nơi tương đối an toàn.

Chúng tôi lầm lũi đi, thúc ngựa qua bình nguyên đầy cỏ. Không ai nói năng gì, nhưng tất cả đều nghĩ cùng một điều: liệu chúng tôi có thể vượt sông hay không? Nếu một toán tuần tiễu Mông Cổ đã tới chỗ cây cầu trước chúng tôi thì mạng chúng tôi coi như xong. Nếu đánh nhau thì chẳng có cách nào chúng tôi thắng được. Tôi nhớ khi đó mồ hôi chảy ròng ròng dưới hai cánh tay tôi, mãi không khô.

- Này Trung úy Mamiya, anh đã bắn bao giờ chưa? - Sau một hồi im lặng, Yamamoto hỏi tôi.

- Chưa bao giờ, - tôi đáp.

- Anh đã bắn ai bao giờ chưa?

- Chưa bao giờ, - tôi lại đáp.

Tôi chịu không biết những câu trả lời của tôi gây ấn tượng thế nào với y, cũng không biết y hỏi vậy có mục đích gì.

- Trong này có một tài liệu cần chuyển cho ban tham mưu, - y vừa nói vừa đặt tay lên túi yên ngựa. - Nếu không chuyển được thì phải hủy đi - đốt cũng được, chôn cũng được, nhưng dù trong hoàn cảnh nào cũng không được phép rơi vào tay địch. Không được phép, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đó là ưu tiên số một của chúng ta. Tôi muốn anh hiểu rõ điều đó. Quan trọng lắm, hết sức quan trọng.

- Tôi hiểu, - tôi nói.

Yamamoto nhìn thẳng vào mắt tôi.

- Nếu rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo, việc đầu tiên anh phải làm là bắn tôi. Không được chần chừ. Nếu tự làm được thì tôi đã làm. Nhưng tay tôi bị thế này thì tôi không làm được. Trong trường hợp đó, anh phải bắn tôi. Mà đã bắn là phải chắc chết.

Tôi lẳng lặng gật đầu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2012 20:09:46 | Xem tất


Khi chúng tôi đến chỗ vượt sông ngay trước khi mặt trời mọc, nỗi sợ đã dày vò tôi trên suốt đường đi tỏ ra hoàn toàn có cơ sở. Một toán nhỏ quân Mông Cổ đã triển khai ở đó. Yamamoto và tôi leo lên một đụn cát cao, chuyền nhau ông nhòm để quan sát bọn họ. Có tám người tất cả, không đông lắm, nhưng so với một toán tuần tra biên giới thì nhóm này được trang bị quá nhiều. Một người mang súng máy nhẹ, lại còn một súng máy hạng nặng đặt trên một mô đất cao, chung quanh chất bao cát, nòng hướng về phía đông. Hiển nhiên là họ bố trí ở đây để ngăn không cho chúng tôi băng sang bờ bên kia. Họ đã neo lều bên bờ sông và buộc mười con ngựa ở gần đó. Xem ra họ sẽ lưu lại đây cho tới khi nào tóm được chúng tôi mới thôi.

- Liệu ta có thể dùng chỗ cạn nào khác để vượt không? - tôi hỏi.

Yamamoto rời mắt khỏi ống nhòm nhìn tôi mà lắc đầu.

- Có, nhưng rất xa. Đi ngựa phải mất hai ngày. Ta không có nhiều thời gian như thế đâu. Ta chỉ có thể vượt sông ở đây, bằng bất cứ giá nào.

- Nghĩa là ta sẽ vượt sông vào ban đêm?

- Đúng. Đó là cách duy nhất. Ta để ngựa lại đây. Ta sẽ thanh toán tên lính gác, bọn còn lại thì hẳn đang ngủ say. Đừng lo, dòng sông sẽ ỉm đi hầu hết tiếng động. Tôi sẽ lo phần tên gác. Từ giờ đến đó ta chẳng có gì làm cả, nên tốt nhất là đi ngủ, tranh thủ chút cơ hội mà nghỉ ngơi.

Chúng tôi ấn định chiến dịch vượt sông sẽ diễn ra lúc ba giờ sáng. Hạ sĩ Honda dỡ hết hành trang khỏi lưng ngựa, dẫn ngựa đến một chỗ xa rồi thả chúng ra. Chúng tôi đào một cái hố sâu, chôn xuống đó chỗ đạn dược và thức ăn thừa. Mỗi người chỉ còn mang một biđông nước, phần ăn đủ một ngày, một khẩu súng, vài viên đạn. Nếu trạm trán quân Mông Cổ thì với hỏa lực vượt trội của bọn họ chúng tôi không cách gì thắng được dù có nhiều đạn đến mấy. Tạm thời thì chúng tôi cố ngủ được chút nào hay chút ấy, bởi khi đã vượt sông thì chắc hẳn sẽ không còn thì giờ đâu mà ngủ nữa. Hạ sĩ Honda gác đầu tiên, kế đó trung sĩ Hamano sẽ thay.

Duỗi dài trong lều, Yamamoto thiếp đi ngay lập tức. Xem ra đã suốt một thời gian dài y không hề chợp mắt. Cạnh gối y là một chiếc vali da, y đã cất tài liệu bí mật vào trong đó. Chúng tôi ai cũng kiệt sức, nhưng tôi căng thẳng quá nên không ngủ được. Tôi nằm đó hồi lâu, buồn ngủ đến chết được nhưng vẫn thức chong chong, trong đầu cứ hình dung cảnh chúng tôi giết tên lính gác và bị khẩu súng máy nã đạn như vãi trấu khi vượt sông. Hai lòng bàn tay tôi nhớp nháp mồ hôi, thái dương tôi giần giật. Tôi chẳng biết liệu đến khi đó mình có khả năng hành xử cho đáng mặt sĩ quan không. Tôi bò ra khỏi lều, đến ngồi cạnh hạ sĩ Honda đang ngồi gác.

- Honda này, anh biết đó, chúng ta đến chết cả nút ở đây thôi.

- Khó mà nói được, - anh ta đáp.

Chúng tôi ngồi một lát, không ai nói gì. Nhưng có cái gì đó trong câu trả lời của anh ta khiến tôi băn khoăn - có một giọng điệu nào đó hàm ý biết chắc chắn. Linh cảm vốn không phải là thế mạnh của tôi, nhưng tôi biết câu nhận xét mơ hồ của anh ta có ý che giấu điều gì đó. Tôi quyết định gặng hỏi anh ta.

- Nếu anh có gì để nói với tôi thì đừng giữa kín nữa, - tôi bảo. - Đây có thể là lần cuối cùng chúng ta trò chuyện với nhau, có thể nói vậy.

Honda cắn môi, vuốt vuốt lên chỗ cát dưới chân. Tôi biết anh ta đang vật lộn với những tình cảm mâu thuẫn nhau.

- Trung úy ạ, - lát sau anh ta nói. Anh ta nhìn thẳng vào mắt tôi, - Trong bốn chúng ta, trung úy sẽ là người sống lâu nhất, lâu hơn trung úy tưởng nhiều. Trung úy sẽ chết ở Nhật.

Giờ đến lượt tôi nhìn anh ta. Anh ta nói tiếp:

- Hẳn trung úy đang tự hỏi làm sao tôi biết, nhưng điều đó thì chính tôi cũng không giải thích được. Tôi biết, thế thôi.

- Anh có khả năng ngoại cảm à?

- Có thể, có điều cái ấy không chính xác lắm với những gì tôi cảm nhận được. Nó hơi quá to tát. Như tôi vừa nói, tôi biết, chỉ có thế thôi.

- Xưa nay anh có luôn cảm thấy như thế không?

- Luôn luôn, - anh ta đáp rành mạch. - Nhưng tôi giấu mãi không cho ai biết, cho tới khi đủ lớn để hiểu đó là cái gì. Nhưng đây là chuyện sinh tử, trung úy ạ, và bởi tự trung úy hỏi nên tôi mới kể thật với trung úy.

- Còn những người khác thì sao? Anh có biết những người khác thì chuyện gì sẽ xảy ra với họ không?

Anh ta lắc đầu.

- Có điều tôi biết, có điều không. Nhưng có lẽ trung úy không biết thì hơn, trung úy ạ. Kẻ như tôi mà lại đi nói chuyện to tát thế này với người có học như trung úy thì có lẽ hơi hồ đồ, nhưng vận mệnh con người, ta chỉ có thể ngoái nhìn khi nó đã đi qua chứ không thể nhìn trước được. Tôi có ít nhiều kinh nghiệm về những chuyện như vậy, còn trung úy thì không.

- Dù sao thì, như anh nói, tôi sẽ không chết ở đây sao?

Anh ta vốc đầy cát vào bàn tay rồi để cát trôi đi qua những kẽ ngón tay.

- Chuyện đó thì tôi nói được, trung úy ạ. Trung úy sẽ không chết trên đại lục này đâu.

Tôi còn muốn hỏi nữa về chuyện đó, nhưng hạ sĩ Honda không chịu tiết lộ thêm. Dường như anh ta đắm vào những suy tư hay chiêm nghiệm của mình. Súng cầm tay, anh ta nhìn đăm đăm ra thảo nguyên mênh mông. Anh ta như không nghe thấy những gì tôi nói nữa.

Tôi trở lại chỗ cái lều buộc thấp dưới bóng một đụn cát, nằm xuống cạnh trung sĩ Hamano, nhắm mắt lại. Lần này giấc ngủ đến ngay lập tức, một giấc ngủ sâu hoắm như thể nắm gót chân tôi mà lôi tuột xuống đáy biển.

--------------------------------
1.Hay "sự cố Lư Cầu Kiều", cuộc đụng độ vũ trang xảy ra ngày 7/7/1937 giữa quân đội Nhật và quân đội Trung Hoa gần Bắc Kinh, dẫn đến chiến tranh giữa hai nước - BTN.

2.Tức Trương Học Lương, nhân vật lịch sử Trung Quốc, thuộc tướng của Tưởng Giới Thạch, từng là sứ quân cát cứ tại Mãn Châu nhưng về sau để mất vùng này vào tay Nhật. Tháng 12 năm 1936, Trương cùng tướng Dương Hổ Thành tiến hành vụ "bắt cóc" Tưởng Giới Thạch nhằm gây áp lực buộc Tưởng phải hợp tác với lực lượng của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nhật.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2012 20:12:42 | Xem tất


Chương 13
Chuyện Dài Của Trung Úy Mamiya: Phần 2


Tôi bị đánh thức bởi tiếng lách cách kim khí khi người ta mở khóa an toàn súng. Không một người lính tác chiến nào có thể bỏ qua cái âm thanh đó dù đang ngủ say đi nữa. Nó là một âm thanh... nói sao nhỉ, một âm thanh đặc biệt, lạnh lẽo và nặng nề như bản thân cái chết. Hầu như theo bản năng, tôi thò tay tìm khẩu Browning để cạnh gối, thì ngay khi đó một chiếc giày đạp vào thái dương tôi làm tôi tối tăm mặt mũi mất một lát. Cố kìm nhịp thở lại, tôi hé mở mắt thì thấy gã đàn ông chắc hẳn vừa đá tôi. Hắn đang quỳ xuống nhặt khẩu Browning của tôi lên. Tôi chầm chậm nhấc đầu lên thì kìa, đầu ruồi của hai khẩu súng trường đang chĩa ngay vào mặt tôi. Đằng sau mũi súng là hai tên lính Mông Cổ.

Vừa ban nãy tôi ngủ trong lều, nhưng lúc này lều đã biến mất, trên đầu là bầu trời chi chít sao. Một tên lính Mông Cổ khác đang chĩa súng máy vào đầu Yamamoto nằm cạnh tôi. Y nằm im như để giữ sức vì biết kháng cự là vô ích. Toàn bộ đám lính Mông Cổ mặc áo khoác dài và đội mũ sắt chiến đấu. Hai người cầm đèn pin cỡ lớn rọi vào Yamamoto và tôi. Thoạt tiên tôi không hiểu nổi chuyện gì vừa xảy ra, hẳn vì tôi ngủ quá sâu và bị cú sốc quá lớn. Nhưng nhìn đám lính Mông Cổ và bộ mặt của Yamamoto thì rốt cuộc tôi hiểu: không nghi ngờ gì nữa, lều của chúng tôi đã bị phát hiện trước khi chúng tôi kịp băng qua sông.

Sau đó tôi chợt tự hỏi không biết chuyện gì đã xảy ra với Honda và Hamano. Tôi ngoái đầu thật chậm rãi để quan sát xung quanh. Nhưng ngoài ra không thấy ai nữa. Hoặc quân Mông Cổ đã giết họ rồi, hoặc họ đã trốn thoát được.

Đây hẳn là đám lính tuần mà chúng tôi đã thấy lúc trước ở chỗ vượt sông. Họ quân số ít, trang bị súng máy hạng nhẹ và súng trường. Chỉ huy bọn họ là một tay hạ sĩ quan dáng gân guốc, người duy nhất mang giày nhà binh đúng nghĩa là giày. Đó chính là kẻ đã đá tôi. Hắn cúi xuống nhặt chiếc vali da mà Yamamoto đặt bên cạnh đầu. Hắn mở vali ra dòm vào bên trong, rồi lật úp xuống mà lắc lắc. Vài điếu thuốc lá rơi xuống đất, ngoài ra chẳng còn gì nữa. Tôi không thể tin được. Chính mắt tôi đã thấy Yamamoto đút tài liệu vào trong vali. Hắn đã lấy tài liệu từ trong túi yên ngựa, cho vào trong vali rồi để vali bên cạnh gối. Yamamoto cố giữ vẻ bình thản, nhưng tôi vẫn thấy y đổi sắc mặt trong một khoảnh khắc. Song dù tài liệu biến mất vì lý do nào đi nữa thì Yamamoto cũng chỉ mong có thế. Như y đã nói với tôi, ưu tiên số một của chúng tôi là phải đảm bảo rằng tài liệu đó không bao giờ được rơi vào tay kẻ thù.

Đám lính trút hết đồ đạc của chúng tôi xuống đất rồi kiểm tra kỹ lưỡng từng cái một nhưng chẳng tìm thấy gì quan trọng. Sau đó họ lột hết quần áo của chúng tôi mà lục lọi các túi. Họ lấy lưỡi lê chọc thủng quần áo và balô nhưng không ai thấy tài liệu gì. Họ thu hết thuốc lá, bút, ví, sổ tay, đồng hồ của chúng tôi mà nhét vào túi. Rồi họ lần lượt đi thử giày của chúng tôi, ai vừa chân là lấy. Đám lính cãi nhau càng lúc càng găng về chuyện ai được cái gì, nhưng viên hạ sĩ quan tỏ ra thờ ơ. Tôi đồ rằng tước sạch đồ dùng cá nhân của tù binh và lính địch chết là việc bình thường ở Mông Cổ. Viên hạ sĩ quan chỉ lấy đồng hồ của Yamamoto, những thứ khác thì mặc cho đám lính dành nhau. Những trang bị còn lại của chúng tôi - súng lục, đạn dược, đồng hồ, la bàn, ống nhòm - thì họ cho vào một cái bao lớn, hẳn là để gửi về tổng hành dinh ở Ulan Bator.

Sau đó họ trói hai chúng tôi - trần truồng - bằng thứ dây thừng mỏng, chắc. Khi lại gần, đám lính Mông Cổ có mùi như một cái chuồng gia súc đã lâu không được cọ rửa. Quân phục của họ bẩn thỉu, bê bết bùn đất, bụi bặm và vết bẩn thức ăn đến nỗi không thể nào biết màu nguyên thủy là gì. Giày của họ thủng lỗ chỗ như chỉ chực bục ra khỏi chân. Chẳng lạ là họ thèm giày của chúng tôi. Khuôn mặt họ hầu như dã man, đầu bù tóc rối, răng đen đúa. Họ giống đám cướp đường chuyên cưỡi ngựa hay phường lục lâm thảo khấu hơn là lính tráng, song những vũ khí do Liên Xô sản xuất và quân hàm hình ngôi sao cho thấy họ là một đơn vị quân chính quy của nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ. Theo tôi, tính kỷ luật và tinh thần chiến đấu của đám lính này dĩ nhiên là không cao lắm. Người Mông Cổ vốn là những chiến binh gan lì, chịu đựng giỏi, nhưng họ không thích hợp lắm với chiến tranh hiện đại.

Đêm lạnh thấu xương. Nhìn những đám mây trắng từ hơi thở của đám lính Mông Cổ đều đều hiện ra rồi tan biến vào bóng tối, tôi ngỡ như vì một sai lầm kỳ lạ nào đó mà tôi đã bị ném vào cơn ác mộng của một kẻ nào khác. Tôi không thể tin những gì đang diễn ra đây là có thực. Đây quả thực là một cơn ác mộng, nhưng chỉ về sau tôi mới hiểu ra, đây chỉ là phần đầu của một cơn ác mộng khủng khiếp.

Chỉ một lát sau, một trong các tên lính Mông Cổ từ trong bóng tối nhô ra, kéo lê đằng sau một vật gì nặng. Miệng cười toe toét, hắn ném phịch cái vật đó xuống đất bên cạnh chúng tôi. Đó là xác của Hamano. Hai bàn chân cái xác phơi trần ra, ai đó đã lột giày của viên trung sĩ rồi. Đám lính liền xoay ra lột quần áo anh ta mà lục lọi hết các túi. Những bàn tay thò ra giật lấy đồng hồ, ví và thuốc lá của Hamano. Họ chia nhau chỗ thuốc lá rồi vừa hút vừa kiểm tra các ví. Chỉ có ít giấy bạc Mãn Châu quốc và bức ảnh một phụ nữ. Có lẽ là mẹ của Hamano. Viên hạ sĩ quan nói gì đó rồi quơ lấy số tiền. Bức ảnh bị ném xuống đất.

Một trong các tay lính Mông Cổ hẳn đã rón rén đến sau lưng Hamano rồi cắt họng anh ta trong lúc anh đang đứng gác. Họ đã làm với chúng tôi chính cái việc mà chúng tôi định làm với họ. Máu đỏ tươi vẫn đang túa ra từ vết thương há hoác của cái xác, nhưng so với một vết thương lớn như vậy thì máu không nhiều lắm, hẳn là từ nãy đến giờ hầu hết máu đã chảy ra ngoài. Một trong các tên lính rút một con dao ra khỏi vỏ giắt nơi thắt lưng, mũi dao cong dài khoảng mười lăm phân. Hắn khua dao ngay trước mặt tôi. Con dao hình thù kỳ quặc như vậy tôi chưa thấy bao giờ. Hình như nó được làm ra nhằm mục đích đặc biệt nào đó. Tên lính cầm con dao làm động tác cắt cổ họng rồi huýt sáo qua kẽ răng. Vài tên lính khác cười rộ. Có vẻ đây không phải trang bị chung của quân đội mà là vật sở hữu riêng của tên lính. Mỗi tên lính đều có một lưỡi lê giắt ngang hông, duy chỉ tên này giắt con dao cong và có lẽ hắn đã dùng chính con dao này để cắt họng Hamano. Sau khi xoay xoay lưỡi dao mấy vòng một cách thiện nghệ, hắn đút dao vào vỏ.

Không nói một lời, chỉ cử động cặp mắt, Yamamoto liếc về phía tôi. Cái liếc chỉ kéo dài một khoảnh khắc, nhưng tôi hiểu ngay y mốn nói gì: Anh có nghĩ là hạ sĩ Honda đã thoát được không? Dù hết sức bối rối và sợ hãi, tôi cũng đã nghĩ như vậy: hạ sĩ Honda đâu? Nếu Honda đã thoát được trong cuộc tấn công chớp nhoáng này của toán quân Mông Cổ thì có thể vẫn còn chút cơ hội cho chúng tôi, dù là mong manh. Nhưng một mình Honda liệu có thể làm gì được? Nghĩ vậy là lại thấy nản lòng, nhưng dẫu sao một tí cơ hội thì vẫn hơn hoàn toàn không có cơ hội nào.

Chúng tôi bị trói nằm đó trên cát cho đến sáng. Hai tên lính được cắt đặt để canh chừng chúng tôi, một tên mang súng máy, tên kia ôm súng trường. Đám còn lại ngồi cách một quãng, hút thuốc, cười nói, ra chiều hả hê vì đã bắt được chúng tôi. Yamamoto và tôi không ai nói một lời. Dù đang giữa tháng Năm, nhiệt độ lúc về sáng ở vùng này tút xuống dưới mức đóng băng. Tôi cứ sợ chúng tôi nằm đó trần truồng thì sẽ chết cóng mất. Nhưng cái lạnh chẳng là gì so với nỗi khiếp sợ ở trong tôi. Số phận chúng tôi rồi sẽ ra sao? Đám người này chỉ là một đơn vị tuần tiễu, hẳn là họ không có quyền quyết định sẽ làm gì với chúng tôi. Họ sẽ phải đợi lệnh. Nghĩa là có lẽ chúng tôi sẽ không bị giết ngay lập tức. Tuy nhiên, sau đó thì thế nào? Chịu không biết được. Yamamoto là gián điệp thì đã quá rõ, còn tôi bị bắt cùng với y nên hiển nhiên sẽ bị coi là tòng phạm. Dù thế nào đi nữa, chúng tôi sẽ không dễ dàng thoát khỏi vụ này đâu.

Mặt trời vừa mọc ít lâu thì từ xa trên bầu trời có một âm thanh như tiếng vù vù của động cơ trực thăng. Cuối cùng, thân máy bay màu bạc hiện ra trong tầm nhìn của tôi. Đó là một chiếc máy bay do thám của Liên Xô, trên thân có huy hiệu của Ngoại Mông. Chiếc máy bay lượn trên đầu chúng tôi mấy vòng. Đám lính vẫy tay, chiếc máy bay chao cánh để đáp lại. Sau đó nó đỗ xuống một khoảng đất trống gần đó làm bụi bay lên mù mịt. Ở đây đất cứng lại không có nhà cửa gì nên có thể cất hạ cánh tương đối dễ dàng không cần đường băng. Nếu tôi không lầm, họ đã nhiều lần dùng chính địa điểm này làm bãi đáp máy bay. Một người trong đám lính lên ngựa phi nước kiệu về phía chiếc máy bay, theo sau là hai con ngựa thắng yên sẵn.

Khi quay lại, hai con ngựa đó mang trên lưng hai người hẳn là sĩ quan cao cấp. Một là người Nga, kẻ kia là người Mông Cổ. Tôi đồ rằng đám lính tuần đã liên lạc bằng radio với tổng hành dinh về việc bắt được chúng tôi, và hai viên sĩ quan này đã từ Ulan Bator bay đến để hỏi cung chúng tôi. Nhất định họ là sĩ quan tình báo. Tôi nghe nói chính GPU 1 đứng đằng sau vụ bắt bớ quy mô lớn và thanh trừng các phần tử chống chính phủ hồi năm ngoái.

Cả hai viên sĩ quan mặc đồng phục mới tinh tươm. Râu ria nhẵn nhụi. Tay người Nga mặc áo khoác dày có thắt lưng. Đôi ủng của y bóng lộn không có một hạt bụi. Y gầy gò, không cao lắm so với người Nga, trạc từ ba mươi đến ba mươi lăm tuổi. Trán rộng, mũi hẹp, nước da hồng tai tái, mang kính gọng kim loại. Nhìn chung, đây là một khuôn mặt không gây ấn tượng gì đặc biệt. Đứng cạnh y, viên sĩ quan người Mông Cổ lùn tịt, đậm chắc, đen đúa trông cứ như con gấu con.

Gã Mông Cổ gọi viên hạ sĩ quan ra một bên, ba người bàn bạc một hồi. Tôi đoán rằng các viên sĩ quan đang yêu cầu báo cáo chi tiết. Viên hạ sĩ quan đưa cho những người kia cái túi to những vật đã tịch thu của chúng tôi. Gã người Nga xem xét từng món một rất cẩn thận rồi lại cho tất cả vào túi. Y nói gì đó với gã Mông Cổ, gã này lại nói điều gì đó với viên hạ sĩ quan. Rồi gã người Nga lấy trong túi áo ngực ra một gói thuốc lá, mở ra mời hai người kia. Cả ba vừa hút thuốc vừa tiếp tục trò chuyện. Trong khi nói, mấy lần tay người Nga đấm nắm tay phải vào lòng bàn tay trái. Y có vẻ giận dữ. Viên sĩ quan Mông Cổ khoanh tay, vẻ mặt u ám, viên hạ sĩ quan thì thỉnh thoảng lại lắc đầu.

Cuối cùng, viên sĩ quan Nga thong thả đi lại chỗ chúng tôi đang nằm trên mặt đất.

- Có muốn hút thuốc không? - y hỏi bằng tiếng Nga. Như tôi đã nói, thời sinh viên tôi từng học tiếng Nga và có thể nghe hiểu khá tốt, nhưng để tránh rắc rối tôi giả vờ không hiểu gì.

- Cám ơn, không cần, - Yamamoto nói bằng tiếng Nga. Y cừ thật.

- Tốt lắm, - viên sĩ quan Xô Viết nói, - Nếu ta nói chuyện bằng tiếng Nga thì đỡ mất thời gian hơn.

Y tháo găng tay đút vào túi áo khoác. Một chiếc nhẫn nhỏ bằng vàng ánh lên trên bàn tay trái y.

- Chắc chúng mày biết rõ, chúng tao đang tìm một thứ. Tìm đỏ mắt ra. Và chúng tao biết cái thứ đó nằm trong tay chúng mày. Đừng hỏi vì sao chúng tao biết; chúng tao biết, có thế thôi. Nhưng hiện giờ nó không ở chỗ chúng mày. Nghĩa là, nếu suy luận lôgic, chúng mày hẳn đã giấu nó ở đâu đó trước khi bị bắt. Chúng mày chưa kịp chuyển nó sang bên kia, - y chỉ về phía sông Khalkha. - Chưa một ai trong chúng mày vượt được sông. Vậy là bức thư phải còn nằm ở bên này, giấu ở đâu đó. Tao nói nãy giờ chúng mày có hiểu không?

Yamamoto gật đầu.

- Tôi hiểu, - y nói. - Nhưng chúng tôi chẳng biết thư từ nào hết.

- Tốt lắm, - tay người Nga nói, nét mặt vô cảm. - Trong trường hợp đó tao có một câu hỏi nhỏ cho chúng mày. Lũ chúng mày làm gì ở đây? Chúng mày biết đây là lãnh thổ Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ kia mà. Chúng mày đột nhập vào lãnh thổ của người khác là nhằm mục đích gì? Mày trình bày lý do tao nghe xem.

- Chúng tôi vẽ bản đồ, - Yamamoto giải thích. - Tôi là thường dân làm việc cho một công ty bản đồ, còn anh này và người vừa bị đám lính kia giết tháp tùng để bảo vệ tôi. Chúng tôi cũng biết bên kia sông là lãnh thổ của các ông. Chúng tôi lấy làm tiếc đã vượt qua biên giới, nhưng thật sự chúng tôi không nghĩ mình đang xâm phạm lãnh thổ. Chúng tôi chỉ muốn quan sát địa hình từ điểm cao bên này bờ sông thôi.

Viên sĩ quan bĩu môi lên thành nụ cười, như thể điều y vừa nghe hoàn toàn không đáng cười.

- Chúng tôi rất tiếc? - y dài giọng. - Ừ, dĩ nhiên. Chúng mày chỉ muốn quan sát địa hình từ chỗ cao. Ừ, dĩ nhiên. Từ trên cao thì bao giờ tầm nhìn cũng tốt hơn. Nghe hợp lý lắm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2012 20:16:39 | Xem tất


Y không nói gì một hồi, chỉ nhìn chăm chăm lên những đám mây trên trời. Đoạn y lại chuyển cái nhìn sang Yamamoto, chầm chậm lắc đầu và thở dài.

- Giá như tao có thể tin lời mày nhỉ! Được vậy thì tốt quá, tốt cho cả chúng tao lẫn chúng mày! Giá như tao có thể vỗ vai mày mà nói: "Phải, phải, tôi hiểu, giờ thì anh băng qua sông mà về đi, lần sau thì phải cẩn thận nhé". Tao muốn làm vậy lắm, thực đấy. Nhưng đáng tiếc là tao không thể. Bởi tao biết chúng mày là ai. Và tao biết chúng mày làm gì ở đây. Chúng tao cũng có bạn bè ở Ulan Bator vậy.

Y rút găng tay ra khỏi túi, gấp lại, rồi lại cho vào túi.

- Nói thật, hành hạ hay giết chúng mày thì cá nhân tao chẳng lợi lộc gì. Nếu chúng mày đưa thư cho tao, tao cũng sẽ chẳng có gì dính dáng tới chúng mày nữa. Chúng mày sẽ được thả ra khỏi đây ngay lập tức theo lệnh tao. Chúng mày có thể vượt sông mà về. Tao hứa với chúng mày như vậy, lời hứa danh dự đấy. Còn sau đó chuyện gì xảy ra là việc nội bộ của chúng tao. Chẳng liên quan gì tới chúng mày.

Ánh mặt trời ở phía Đông rốt cuộc cũng bắt đầu sưởi ấm làn da tôi. Không có gió, vài đám mây trắng lửng lơ trên bầu trời.

Im lặng kéo dài. Không ai nói một lời. Viên sĩ quan người Nga, viên sĩ quan Mông Cổ, đám lính tuần, Yamamoto: tất cả im lặng. Dường như ngay từ lúc bị bắt Yamamoto đã sẵn sàng chết; gương mặt y hoàn toàn không biểu lộ cảm xúc gì.

- Nếu không thì chúng mày... cả hai... gần như chắc chắn... sẽ chết ở đây, - viên sĩ quan người Nga chậm rãi nói tiếp, từng tiếng một, như đang nói với trẻ con. - Và đó sẽ là một cái chết khủng khiếp. Bọn kia... - Đến đây viên sĩ quan người Nga liếc về phía đoàn lính Mông Cổ. Gã to lớn cầm súng máy nhìn tôi cười nhăn nhở phô hàm răng vàng khè. - Chúng thích giết người, bằng những cách đòi hỏi phải hết sức công phu và giàu tưởng tượng. Phải nói chúng là bậc thầy trong lĩnh vực này. Ngay từ thời Thành Cát Tư Hãn, người Mông Cổ đã thích bày ra những cách giết người đặc biệt tàn bạo. Gì chứ chuyện đó thì người Nga chúng tao thấm thía lắm. Chúng tao được học chuyện đó từ khi học phổ thông, môn sử ấy mà. Người ta dạy cho chúng tao biết người Mông Cổ đã làm gì khi xâm lăng nước Nga. Họ đã giết hàng triệu người. Chẳng vì cớ gì hết. Họ bắt hàng trăm quý tộc Nga ở Kiev rồi giết tất cả cùng một lúc. Chúng mày có biết bằng cách nào không? Họ cưa những tấm ván thật to, thật nặng, cho đám người Nga nằm dưới các tấm ván đó, rồi thì họ bày tiệc bên trên các tấm ván đó. Những người Nga chết chẹt dưới cái sức nặng kia. Người bình thường ai mà nghĩ ra được trò như vậy, phải không nào? Mất bao nhiêu thời gian, bao nhiêu là công sức chuẩn bị! Có ai trên đời này đi cất công làm chuyện đó chứ? Thế mà họ làm đấy. Sao lại làm? Bởi đấy là một thứ trò vui của họ mà. Đến cả bây giờ họ vẫn làm những việc như thế. Tao có lần tận mắt thấy họ làm thế. Tao cứ nghĩ đời mình đã chứng kiến lắm chuyện khủng khiếp rồi, nhưng tối hôm đó, chúng mày hình dung được không, tao ăn mất ngon. Tao nói chúng mày có hiểu không? Tao nói có nhanh quá không?

Yamamoto lắc đầu.

- Tốt lắm, - tay người Nga nói. Y ngừng nói, hắng giọng. - Dĩ nhiên, đây sẽ là lần thứ hai. Có lẽ đến bữa tối thì tao sẽ lại ăn ngon. Tuy nhiên, tao vẫn muốn không phải giết người nếu không cần thiết.

Hai tay chắp sau lưng, y nhìn trời một hồi. Đoạn y rút găng tay ra và liếc về phía máy bay.

- Thời tiết thật đẹp, - y nói. - Mùa xuân. Vẫn còn se lạnh, nhưng vậy là tốt. Nóng hơn một chút là sẽ có muỗi. Muỗi thì kinh khủng. Phải, mùa xuân tốt hơn mùa hè nhiều.

Y lại rút gói thuốc ra, cho một điếu lên miệng, quẹt diêm châm lửa. Chầm chậm, y hít khói vào phổi rồi phà ra.

- Tao hỏi lần nữa: có phải chúng mày vẫn khăng khăng mình không biết về lá thư không?

Yamamoto chỉ nói một tiếng: "Phải".

- Tốt, - tay người Nga nói. - Tốt lắm. - Đoạn y nói gì đó bằng tiếng Mông Cổ với viên sĩ quan Mông Cổ. Người này gật đầu rồi quát lệnh gì đó với đám lính. Họ liền mang đến mấy súc gỗ thô, lấy lưỡi lê vạt nhọn thành bốn cây cọc. Họ dùng bước chân đo khoảng cách rồi cắm bốn cây cọc xuống đất, lèn đá cho chắc, sao cho bốn cây cọc làm thành bốn góc của một hình vuông. Toàn bộ công việc chuẩn bị này mất khoảng hai mươi phút là xong, nhưng tôi không biết để làm gì.

Viên sĩ quan người Nga nói:

- Với bọn họ, giết người là một cách ngon lành cũng như ăn một bữa ngon vậy. Chuẩn bị càng lâu, khoái cảm càng tăng. Chứ đơn giản là giết thì dễ quá: đòm một phát là xong. Nhưng ở đây thì không đâu, - tới đây y đưa đầu ngón tay thong thả xoa cái cằm nhẵn thín, - thú vị lắm.

Đám lính cởi trói Yamamoto rồi dẫn y đến chỗ cắm cọc. Ở đó chúng buộc tay chân Yamamoto vào bốn cây cọc. Y nằm ngửa, giạng chân tay ra bốn phía, trên cơ thể trần trụi của y có mấy vết thương còn mới.

- Mày biết đó, - người Mông Cổ chuyên chăn cừu, - viên sĩ quan Nga nói. - Dân chăn cừu có nhiều cách để tận dụng lũ cừu: ăn thịt, xén lông, lột da. Với họ, cừu là con vật lý tưởng. Suốt ngày họ ở bên lũ cừu, cả đời họ sống với cừu. Họ biết lột da chúng cực kỳ khéo léo. Da cừu họ dùng làm lều và quần áo. Mày đã bao giờ thấy họ lột da cừu chưa?

- Cứ giết quách tôi đi cho xong, - Yamamoto nói.

Tay người Nga chạm hai bàn tay vào nhau, vừa chầm chậm xát tay vừa gật đầu với Yamamoto.

- Đừng lo. Nhất định là chúng tao sẽ giết chúng mày. Bảo đảm với mày thế. Sẽ mất chút thời gian đấy, nhưng mày sẽ chết. Chuyện ấy thì mày khỏi lo. Chúng ta vội gì nào. Ở đây toàn là thảo nguyên vô tận, nhìn mỏi mắt cũng có thấy gì đâu. Chỉ có thời gian. Thời gian thì ta có khối. Tao còn nhiều chuyện muốn nói với mày mà. Giờ ta nói về quy trình lột da nhé: mỗi nhóm Mông Cổ đều có ít nhất một chuyên gia, một bậc thầy am hiểu tường tận từng li từng tí về việc lột da, một người có kỹ năng lột da tột cùng điêu luyện. Tài nghệ lột da của anh ta là cả một nghệ thuật. Chỉ nháy mắt là anh ta lột da xong rồi, cực nhanh, cực khéo, đến nỗi thậm chí ta cứ tưởng cái sinh vật đang bị lột da sống kia không biết mình đang bị lột da nữa kìa. Nhưng dĩ nhiên, - y lại rút gói thuốc là trong ngực áo ra, chuyển sang tay trái rồi búng búng bằng mấy ngón tay phải, - bị lột da thế kia thì làm sao không nhận ra được. Kẻ bị lột da sống sẽ phải đau đớn khủng khiếp. Đau không tưởng tượng được. Nhưng đau thế kia mà vẫn chưa chết. Rốt cuộc thì cũng chết vì chảy hết máu, nhưng tới khi đó thì còn lâu, lâu lắm.

Y búng ngón tay. Viên sĩ quan Mông Cổ bước lên. Y rút trong túi áo khoác ra một con dao có vỏ bọc, hình thù giống như con dao mà tên lính kia đã cầm làm động tác cắt cổ. Y rút dao ra khỏi vỏ rồi giơ cao lên. Trong ánh nắng buổi sáng, lưỡi dao lóe lên ánh trắng đùng đục.

- Gã này là một trong các chuyên gia tao vừa kể, - viên sĩ quan Nga nói. - Nhìn con dao xem. Nhìn kỹ vào. Dao này đặc biệt lắm, chuyên dùng để lột da, được chế tác tuyệt hảo! Lưỡi mỏng tang mà sắc như dao cạo. Kỹ thuật của các chuyện gia này thì cao vô cùng. Họ dã lột da thú vật từ hàng ngàn năm nay rồi, còn phải nói. Họ lột da người cũng như mày lột vỏ quả lê vậy. Thật đẹp, thật khéo, không có lấy một vết xước! Mà này, tao nói có nhanh quá không?

Yamamoto không nói gì.

- Họ lột từng mảng nhỏ một, - viên sĩ quan Nga nói. - Phải làm chậm thì lột mới sạch, không bị trầy xước. Nếu giữa chừng chúng mày muốn nói gì thì cho tao biết. Chừng đó mày sẽ không chết. Người của tao ở đây làm chuyện này mấy lần rồi, chưa ma nào chịu đến cùng được đâu, tuôn ra hết. Cứ nhớ kỹ thế. Dừng lại càng sớm thì càng tốt cho cả hai ta.

Tay cầm dao, viên sĩ quan Mông Cổ trông như con gấu nhìn Yamamoto mà nhe răng cười. Tận bây giờ tôi vẫn nhớ cái nụ cười đó. Nằm mơ cũng thấy. Chưa bao giờ tôi quên được cái cười đó. Cười xong, hắn bắt tay vào việc ngay. Đám lính giữ chặt hai bàn tay và đầu gối Yamamoto trong khi hắn bắt đầu hết sức cẩn thận lột da Yamamoto. Đúng là giống gọt vỏ quả lê thật. Tôi không nhìn nổi. Tôi nhắm mắt lại. Tôi vừa nhắm mắt lại thì một tên lính quật báng súng vào tôi. Hắn quật mãi kỳ đến khi tôi mở mắt mới thôi. Nhưng nhắm mắt hay mở mắt thì cũng thế: đằng nào tôi cũng nghe giọng của Yamamoto. Ban đầu y cố chịu đau không kêu. Nhưng chẳng mấy chốc y bắt đầu gào thét. Tôi chưa bao giờ nghe cái tiếng gào thét đó, nó như không thuộc về thế giới này. Gã kia rạch một đường xẻ đôi vai phải của Yamamoto rồi bắt đầu lột da cánh tay phải từ trên xuống dưới, một cách từ từ, cẩn trọng, gần như là âu yếm. Đúng như gã người Nga nói, kỹ năng của y là cả một nghệ thuật. Nếu không có tiếng gào thét thì ta có thể tưởng tượng như hoàn toàn không đau gì cả. Nhưng tiếng gào thét kia cho ta biết, đi kèm theo công trình nghệ thuật ấy là một cái đau khủng khiếp.

Chẳng mấy chốc toàn bộ da cánh tay phải của Yamamoto đã bị lột ra thành một miếng mỏng duy nhất. Gã lột da đưa miếng da cho người đứng cạnh, gã này đỡ lấy bằng mấy đầu ngón tay, căng rộng chìa ra cho những người khác xem. Máu vẫn đang nhỏ giọt từ miếng da xuống. Đoạn viên sĩ quan quay qua tay trái của Yamamoto, lặp lại quy trình. Sau đó y lột da hai chân, cắt dương vật và tinh hoàn, rồi cắt tai. Kế đó hắn lột da đầu, mặt và mọi chỗ khác. Yamamoto bất tỉnh, hồi tỉnh, rồi lại bất tỉnh. Mỗi khi y ngất đi, tiếng gào thét ngưng, khi y tỉnh thì tiếng gào thét lại tiếp tục. Nhưng giọng y yếu dần, cuối cùng tắt hẳn. Suốt thời gian đó, viên sĩ quan Nga lấy gót giày vẽ vẽ những hình vô nghĩa trên cát. Đám lính Mông Cổ im lặng quan sát cảnh lột da. Mặt bọn họ vô cảm, không kinh tởm, không hào hứng, không khiếp hãi. Họ quan sát Yamamoto bị lột từng mảng da với vẻ mặt như khi ta đang tản bộ thì dừng lại ngắm một công trình xây dựng vậy.

Suốt thời gian đó tôi toàn nôn mửa. Nôn thốc nôn tháo. Ngay cả khi tưởng chừng không còn gì để nôn ra nũa, tôi vẫn cứ nôn mãi. Cuối cùng, viên sĩ quan Mông Cổ giống con gấu giơ lên cao tấm da thân của Yamamoto mà hắn vừa lột tuyệt khéo. Thậm chí hai núm vú còn y nguyên. Cho đến giờ tôi vẫn không nhìn thấy một cái gì ghê rợn đến vậy. Ai đó nhận miếng da từ tay hắn rồi trải ra cho khô như ta phơi ga trải giường. Còn lại trên mặt đất kia là cái xác của Yamamoto, một đống thịt máu me đỏ lòm, không còn một tí da nào. Khủng khiếp nhất là khuôn mặt. Từ trong vũng thịt đỏ thon thót thòi ra hai nhãn cầu to tướng trắng ớn. Miệng há hoác phô hết răng như đang thét lên. Ở chỗ vốn là cái mũi nay là hai cái lỗ nhỏ. Mặt đất chung quanh là cả một biển máu.

Viên sĩ quan Nga nhổ xuống đất rồi nhìn tôi. Rồi hắn rút cái khăn mùi soa ra khỏi túi mà lau mồm.

- Thằng này thật sự không biết gì phải không? - hắn vừa nói vừa đút mùi xoa vào túi. Giọng hắn bây giờ nghe khô khan hơn lúc nãy. - Nếu biết thì nó đã nói rồi. Cũng tội. Dù gì thì nó cũng là một tay chuyên nghiệp. Đằng nào nó cũng sẽ chết đau đớn thôi, không sớm thì muộn. Chả làm sao được. Mà nếu nó đã không biết gì thì làm sao mày lại biết cái gì.

Hắn cho một điếu thuốc lên miệng rồi quẹt diêm.

- Nghĩa là chúng tao không cần mày nữa. Tra tấn mày để moi thông tin thì bằng thừa. Để cho sống làm tù binh cũng vô ích. Chúng tao muốn dứt điểm vụ này một cách tuyệt đối bí mật. Nếu đưa mày về Ulan Bator, chúng tao có thể sẽ gặp rắc rối. Dĩ nhiên, cách tốt nhất là cho một viên đạn vào đầu mày ngay bây giờ, ngay tại đây, rồi chôn hoặc thiêu xác mày và ném tro xuống sông Khalkha. Giải quyết vậy là đơn giản nhất. Mày đồng ý không? - Chắc mày không hiểu tiếng Nga thật. Nói với mày chỉ tổ phí thời gian. Thôi được rồi. Coi như tao nói cho tao vậy. Nghe đây nhé. Tao có tin vui cho mày đây. Tao đã quyết định không giết mày. Coi như đấy là tao bày tỏ chút ân hận vì đã giết thằng bạn mày một cách vô ích. Sáng nay, chúng tao giết vừa rồi. Mỗi ngày một mạng là đủ. Cho nên tao sẽ không giết mày. Thay vào đó tao sẽ cho mày một cơ hội sống. Nếu gặp may có khi mày sẽ sống không chừng. Dĩ nhiên cơ hội không nhiều đâu. Phải nói là hầu như không có. Nhưng cơ hội vẫn là cơ hội. Ít nhất cũng còn tốt hơn nhiều so với bị lột da sống. Đồng ý chứ?

Hắn giơ tay lên gọi tay sĩ quan Mông Cổ. Gã này vừa hết sức cẩn thận rửa dao bằng nước trong biđông và liếc cho sắc bằng đá mài. Đám lính đã trải các tấm da của Yamamoto ra rồi đứng bên cạnh mà thảo luận gì đó. Hình như họ đang trao đổi ý kiến về những điểm tinh tế của kỹ thuật lột da. Gã sĩ quan Mông Cổ đút dao vào vỏ rồi cho vào túi áo khoác, sau đó mới lại gần chúng tôi. Hắn nhìn vào mặt tôi một thoáng rồi quay sang viên sĩ quan Nga. Người này nói với hắn mấy câu bằng tiếng Mông Cổ, hắn gật đầu, vẻ vô cảm. Một tên lính mang lại hai con ngựa cho họ.

- Chúng tao sẽ quay về Ulan Bator ngay bây gời, - viên sĩ quan Nga bảo tôi. - Tao ghét phải về tay không, nhưng đành chịu, làm thế nào được. Có lúc được thì cũng có lúc mất. Tao hy vọng tới bữa tối thì sẽ ăn ngon miệng, nhưng cũng chưa chắc.

Họ leo lên ngựa đi. Máy bay cất cánh, trở thành một tấm bạc trên bầu trời phía Tây rồi biến mất hẳn, để lại một mình tôi với đám lính Mông Cổ và bầy ngựa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2012 20:19:50 | Xem tất


Đám lính đặt tôi lên một con ngựa, trói chặt tôi vào yên. Sau đó tất cả dàn thành đội hình đi về phía Bắc. Gã lính đi ngay phía trước tôi hát mãi một giai điệu đều đều bằng giọng khẽ gần như không ai nghe được. Ngoài ra, không còn âm thanh nào khác ngoài tiếng móng ngựa khô khốc gõ lên mặt cát. Tôi không biết họ dẫn tôi đi đâu hay sẽ làm gì tôi. Tôi chỉ biết mỗi một điều: với họ tôi là một sinh vật thừa, hoàn toàn vô giá trị. Những lời của viên sĩ quan Nga cứ vang vang trong đầu tôi. Hắn đã nói sẽ không giết tôi. Hắn sẽ không giết tôi, nhưng cơ hội cho tôi sống thì hầu như không có. Thế nghĩa là thế nào? Mơ hồ quá, tôi không thể nào hiểu cụ thể được. Có lẽ chúng sẽ dùng tôi trong một kiểu trò chơi ghê rợn nào đó. Chúng sẽ không dễ dàng thả tôi ra đâu, chúng còn phải vui thú với trò chơi kinh khủng của chúng trước đã.

Nhưng ít ra thì chúng đã không giết tôi. Ít nhất chúng đã không lột da sống tôi như đã làm với Yamamoto. Cũng có thể cuối cùng tôi vẫn sẽ không thoát chết, nhưng ít nhất là không chết như thế. Tạm thời tôi vẫn còn sống; tôi vẫn còn hít thở. Và nếu những gì viên sĩ quan Nga nói là đúng thì tôi sẽ không bị giết ngay. Thời gian giữa tôi bây giờ và cái chết càng nhiều, tôi càng có nhiều cơ hội sống. Cơ hội đó có thể vô cùng nhỏ nhoi, nhưng tôi chỉ còn cách bám lấy nó.

Thế rồi, hoàn toàn đột ngột, lời của hạ sĩ Honda lại lóe lên trong đầu tôi: lời tiên báo kỳ lạ của anh ta rằng tôi sẽ không chết ở đại lục. Dẫu tôi đang ngồi đây, bị trói chặt vào yên ngựa, tấm lưng trần của tôi bị mặt trời sa mạc thiêu đốt, tôi vẫn ôn đi ôn lại từng chữ anh ta nói. Tôi miên man nhớ lại vẻ mặt anh ta, ngữ điệu của anh ta, âm thanh từng chữ của anh ta. Và tôi quyết định phải tin lời anh ta, tin tự đáy lòng tôi. Không, không. Tôi sẽ không nằm xuống mà chết ở một nơi như thế này! Tôi sẽ sống mà thoát khỏi nơi này?! Tôi sẽ còn sống để đặt chân lên mảnh đất quê hương lần nữa!

Chúng tôi đi về phía Bắc trong khoảng hai tiếng đồng hồ hay hơn, cuối cùng dừng lại gần một cái gò bằng đá do các tu sĩ Phật giáo Tây Tạng xây nên. Các gò đá này, gọi là oboo, vừa là thần hộ mệnh cho khách lữ hành vừa là một dấu hiệu chỉ đường quý báu trong sa mạc. Ở đây đám lính xuống ngựa và cởi trói cho tôi. Hai người xốc hai bên nách dẫn tôi ra một quãng ngắn. Ra là tôi sẽ bị giết ở chỗ này đây. Có một cái giếng đào xuống đất. Bao quanh miệng giếng là một bức tường đá cao khoảng một mét. Họ buộc tôi quỳ bên giếng, túm cổ tôi từ đằng sau bắt tôi nhìn xuống giếng. Tôi không thấy gì trong bóng tối dày đặc. Viên hạ sĩ quan đi ủng tìm đâu ra một hòn đá to cỡ nắm tay, thả xuống giếng. Lát sau hòn đá chạm mặt cát vang lên một tiếng khô khốc. Vậy là chắc giếng này cạn. Đã có thời nó là giếng nước trong sa mạc, nhưng hẳn đã bị cạn khô từ lâu vì mạch nước ngầm dưới đất dịch chuyển. Xét theo khoảng thời gian mà hòn đá phải rơi để xuống tận đáy thì giếng khá sâu.

Viên hạ sĩ quan nhìn tôi nhe răng cười. Rồi hắn rút một khẩu súng lục tự động to tướng ra khỏi bao da nơi thắt lưng. Hắn mở chốt an toàn rồi nạp một viên đạn vào buồng đạn kêu đánh cách một tiếng lớn. Đoạn hắn chĩa nòng súng vào đầu tôi.

Hắn giữ nguyên vậy một hồi lâu nhưng không bóp cò. Đoạn hắn từ từ hạ súng xuống và giơ tay trái chỉ về phía cái giếng. Liếm đôi môi khô nẻ, tôi nhìn trân trân vào khẩu súng trong tay hắn. Điều hắn muốn bảo tôi là thế này: tôi có quyền lựa chọn một trong hai số phận. Hoặc tôi để hắn bắn tôi chết ngay bây giờ - chết là hết. Hoặc tôi có thể nhảy xuống giếng. Vì giếng rất sâu nên nếu không gặp may khi tiếp đất, tôi có thể sẽ chết. Bằng không, tôi sẽ chết từ từ dưới đáy cái lỗ đen ngòm này. Rốt cuộc tôi cũng hiểu ra đây chính là cái cơ hội mà viên sĩ quan Nga đã nói. Viên hạ sĩ quan chỉ vào chiếc đồng hồ tước của Yamamoto đếm đến ba, tôi bước lên thành giếng rồi nhảy xuống. Tôi không có cách nào khác. Tôi đã mong có thể bám theo thành giếng mà tụt xuống, nhưng hắn không cho tôi có thì giờ làm việc đó. Hai bàn tay tôi trượt khỏi thành giếng, tôi lao thẳng xuống.

Dường như phải rất lâu tôi mới chạm tới đáy. Thực ra thì chắc hẳn không quá mấy giậy, nhưng trong khoảng thời gian rơi xuống đó tôi đã kịp nhớ lại rất nhiều thứ. Tôi nghĩ về thị trấn quê nhà sao mà xa quá đỗi. Tôi nghĩ về người con gái tôi đã ngủ cùng chỉ một lần duy nhất trước khi xuống tàu ra đi. Tôi nghĩ về bố mẹ tôi. Tôi nhớ mình đã cám ơn trời đã cho tôi một đứa em gái chứ không phải em trai: nhờ vậy thì dù tôi chết bố mẹ tôi vẫn còn có nó và không phải lo rằng đến lượt nó phải đi lính. Tôi nhớ những chiếc bánh bột gạo gói trong lá sồi. Thế rồi tôi đâm sầm xuống mặt đất khô cứng và bất tỉnh một lát. Dường như toàn bộ không khí bên trong tôi đã phụt cả ra ngoài qua lớp vỏ thân thể tôi. Tôi đã rơi phịt xuống đáy giếng như cái bao cát.

Hẳn tôi đã ngất đi chỉ một thoáng vì cú ngã. Khi tỉnh dậy, tôi cảm thấy có dòng nước nào đó đang rưới lên mình. Ban đầu tôi ngỡ là mưa, nhưng tôi nhầm. Đó là nước tiểu. Đám lính Mông Cổ đang ********* lên tôi trong khi tôi nằm dưới đáy giếng. Tôi nhìn lên thấy bóng dáng lờ mờ của họ xa mãi trên kia, từng người một đến bên miệng giếng tròn để *********. Quang cảnh đó có gì đó phi thực một cách khủng khiếp, như một cơn ảo giác vì ma túy vậy. Nhưng đó là thực tại. Quả thực tôi đang ở dưới đáy giếng, và người ta đang ********* lên tôi bằng nước ********* thật. Sau khi cả bọn đã ********* xong, một người rọi đèn pin lên tôi. Tôi nghe họ cười rộ. Rồi họ biến mất khỏi mép giếng. Sau đó, mọi sự chìm vào im lặng thăm thẳm.

Tôi nghĩ tốt nhất là nằm sấp một lát, chờ xem họ có quay lại không. Nhưng hai mươi phút trôi qua, rồi ba mươi phút (tôi chỉ đoán vậy vì không có đồng hồ), họ vẫn không quay lại. Dường như họ đã đi, bỏ tôi ở đây. Tôi đã bị bỏ lại ở dưới đáy một cái giếng giữa sa mạc. Khi đã chắc là đám lính không quay lại nữa, tôi quyết định kiểm tra xem mình có bị thương không. Làm việc đó trong bóng tối thật không dễ. Tôi không nhìn thấy chính cơ thể mình. Tôi không thể dùng mắt để xác định xem cơ thể mình có ổn không. Tôi chỉ có thể dùng tay sờ, nhưng không dám chắc những cảm nhận của mình trong bóng tối là chính xác. Tôi cảm thấy mình đang bị dối gạt, bị đánh lừa. Đó là một cảm giác thật kỳ lạ.

Tuy vậy, từng tí một, và bằng cách hết sức chú ý tới từng chi tiết, tôi bắt đầu nhận thức được hoàn cảnh của mình. Điều đầu tiên tôi nhận thấy là tôi đã hết sức gặp may. Đáy giếng tương đối mềm, toàn cát. Nếu không thì khi rơi xuống từ trên cao đến thế chắc tôi đã gãy hết xương. Tôi hít một hơi dài, sâu rồi cố cử động. Trước hết tôi thử cử động các ngón tay. Ngón tay động đậy được, dù yếu ớt. Sau đó tôi thử ngồi dậy, nhưng không được. Cơ thể tôi như đã mất hết cảm giác. Ý thức vẫn còn, nhưng có cái gì đó không ổn trong sự liên lạc giữ ý thức với cơ thể. Tâm trí tôi quyết định làm cái gì đó, nhưng không truyền tải được ý nghĩ đó đến hoạt động các cơ. Tôi đành chịu thua, chỉ nằm im một lát trong bóng tối.

Tôi đã nằm như thế trong bao lâu, tôi không biết. Nhưng rồi, dần dần, cảm giác bắt đầu trở lại. Và cùng với sự phục hồi là - cũng tự nhiên thôi - cái đau xuất hiện. Đau ghê gớm. Chắc tôi gãy chân mất rồi. Và tôi hẳn đã bị trật khớp, có khi còn gãy không chừng.

Tôi nằm đó ráng chịu đau. Không biết tự lúc nào nước mắt tuôn ràn rụa xuống hai má tôi - khóc vì đau, nhưng còn hơn cả đau là khóc vì tuyệt vọng. Chắc ông sẽ không bao giờ hiểu nổi cảm giác ấy đâu - nỗi cô đơn tột cùng, nỗi tuyệt vọng cùng cực khi bị bỏ mặc trong một cái giếng sâu giữa sa mạc ở bên rìa thế giới, người đau như dần trong bóng tối như mực. Thậm chí tôi hối tiếc phải chi tên hạ sĩ quan Mông Cổ bắn quách tôi cho rồi thì có hay hơn không. Nếu tôi bị giết bằng cách đó thì chí ít bọn họ cũng biết về cái chết của tôi. Chứ nếu tôi chết ở đây, đó sẽ là một cái chết thực sự cô độc, một cái chết chẳng ai buồn quan tâm, một cái chết câm lặng.

Thi thoảng tôi nghe tiếng gió. Mỗi khi lùa qua mặt đất, gió lại gây ra một âm thanh kỳ lạ nơi miệng giếng, âm thanh như một người đàn bà than khóc ở một thế giới xa xôi nào. Thế giới đó và thế giới này nối với nhau bằng một đường thông hẹp qua đó giọng của người đàn bà vọng đến tôi, dù chỉ từng chặp cách quãng không đều. Tôi đã bị bỏ mặc một mình trong im lặng sâu thẳm và trong bóng tối còn thăm thẳm hơn thế.

Cố nén đau, tôi vươn tay sờ nền đất quanh mình. Đáy giếng phẳng, không rộng lắm, đường kính khoảng từ mét rưỡi tới mét bảy. Trong khi sờ soạng mặt đất, tay tôi bỗng chạm phải một vật cứng, sắc. Tôi sợ hãi rụt tay về, nhưng rồi lại chầm chậm, cẩn thận chìa tay về phía vật đó. Các ngón tay tôi lại tiếp xúc với cái vật sắc đó. Ban đầu tôi nghĩ đó là một cành cây, nhưng chẳng mấy chốc tôi nhận ra mình đang chạm phải xương. Không phải xương người mà là xương của một con vật nhỏ. Xương vung vãi tứ tung, có thể vài lâu ngày, cũng có thể vì cú ngã của tôi. Chẳng còn gì khác dưới đáy giếng nữa, chỉ toàn cát, mịn và khô.

Kế đó tôi miết lòng bàn tay lên vách giếng. Dường như vách được làm bằng những viên đá mỏng, nhẵn. Bề mặt sa mạc vào ban này nóng như thiêu, nhưng cái nóng đó không xuyên thấu nổi đến thế giới dưới lòng đất này. Các viên đá lạnh toát như băng. Tôi lại sờ soạn lên vách giếng để kiểm tra khoảng hở giữa các viên đá. Nếu đủ chỗ tì chân thì tôi sẽ có thể leo lên được. Nhưng khoảng hở giữa các viên đá quá hẹp không thể tì chân được, đã vậy cái thân tôi bầm dập thế này thì leo lên là chuyện hầu như không tưởng.

Cố hết sức bình sinh, tôi lếch về phía vách giếng, gượng dậy ngồi tựa vào vách. Mỗi cử động lại khiến chân và vai tôi đau thon thót như bị châm hàng trăm mũi kim dày. Sau đó thì từng hơi thở đều khiến tôi có cảm giác toàn thân tôi sắp rời ra từng mạnh. Tôi sờ vai thì thấy nó nóng hầm hập, sưng tấy lên.


° ° °


Bao nhiêu thời gian trôi qua như vậy, tôi không biết. Nhưng rồi, đến một lúc, xảy ra một điều mà tôi không thể tưởng tượng nổi. Ánh nắng mặt trời rọi xuống qua miệng giếng như một thứ mặc khải. Trong khoảnh khắc đó, tôi thấy rõ mọi vật quanh mình. Giếng ngập trong ánh sáng rực rỡ. Cả một dòng thác ánh sáng. Cái chói chang đó hầu như làm tôi nghẹt thở. Bóng tối và cái lạnh bị quét sạch trong một khoảnh khắc, ánh mặt trời ấm áp, dịu dàng bao bọc tầm thân trần trụi của tôi. Ngay cả cái đau của tôi dường như cũng được ban phúc trong ánh sáng của mặt trời, cái ánh sáng giờ đây đang rọi chiếu lên mớ xương trắng của con vật nhỏ bên cạnh tôi. Nắm xương đó vốn lẽ ra đã là điềm gở cho cái chết mười mươi của tôi, nhưng trong ánh nắng mặt trời dường như nó lại là một người bạn thân thiết đồng cam cộng khổ. Tôi thấy rõ những tảng đá xây vách giếng bao quanh tôi. Chừng nào còn ở trong ánh sáng, tôi có thể quên hết nỗi sợ, cái đau, cơn tuyệt vọng. Sững sờ, tôi ngồi ngây ra trong ánh sáng chói lòa. Thế rồi ánh sáng biến mất cũng đột ngột như khi nó đến. Bóng tối dày đặc lại trùm lên mọi vật. Khoảnh khắc vừa rồi hết sức ngắn ngủi. Nếu nói theo đồng hồ, nó kéo dài khoảng mười giây, cùng lắm là mười lăm giây. Rõ ràng là do góc độ nên ánh sáng mặt trời chỉ có thể rọi thẳng vào đáy giếng trong ngần ấy thời gian, chỉ một lần duy nhất mỗi ngày. Dòng ánh sáng đã ra đi trước khi tôi kịp hiểu ra ý nghĩa của nó.

Sau khi ánh sáng đã tàn, tôi lại chìm trong bóng tối còn dày đặc hơn trước. Tôi gần như không cử động được. Tôi không có nước, không có thức ăn, không một mảnh vải che thân. Buổi chiều dài dằng dặc trôi qua, rồi đêm đến, nhiệt độ tụt xuống thấp nhất. Tôi gần như không ngủ được. Cơ thể tôi thèm được ngủ, nhưng cái lạnh chọc vào da tôi như hàng ngàn cái gai nhỏ xíu. Tôi cảm thấy như phần cốt tủy của sinh mệnh tôi đang cứng lại, đang chết dần. Trên đầu, tôi thấy những vì sao lạnh giá trên bầu trời. Sao nhiều đến hãi hùng. Tôi ngắm nhìn chúng, quan sát chúng di động chầm chậm. Chuyển động của chúng giúp tôi yên lòng rằng thời gian vẫn đang trôi. Tôi ngủ một chút, sực tỉnh vì lạnh và đau, ngủ thêm chút nữa rồi lại sực tỉnh vì đau.

Cuối cùng trời cũng sáng. Từ miệng giếng tròn, những điểm sáng li ti sắc nhọn của ánh sao dần dần nhạt đi. Thế nhưng, ngay cả khi bình minh đã rạng, các vì sao vẫn không biến mất hoàn toàn. Dù đã mờ nhạt đến hầu như không thấy được, chúng vẫn còn đó. Để cho đỡ khát, tôi liếm những giọt sương buổi sáng đọng trên vách giếng. Dĩ nhiên là chẳng được bao nhiêu, nhưng với tôi chỗ nước đó ngon như một hồng phúc trời cho. Tôi chợt nhớ ra rằng đã suốt một ngày tôi không ăn, không uống. Thế nhưng tôi không thấy đói chút nào.

Tôi cứ ở đó, ngồi yên, dưới đáy lỗ. Tôi không làm gì khác được. Thậm chí tôi không thể suy nghĩ, cảm giác cô đơn và tuyệt vọng của tôi quá to lớn. Tôi ngồi đó chẳng làm gì, chẳng nghĩ gì. Tuy nhiên, một cách vô thức, tôi chờ tia sáng đó, cái dòng ánh sáng chói lòa tuôn thẳng xuống đáy giếng chỉ trong một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi mỗi ngày. Ắt hẳn đó là một hiện tượng xảy ra lúc rất gần giữa trưa, khi mặt trời nằm ở thiên đỉnh và ánh sáng của nó chiếu vuông góc xuống mặt đất. Tôi đợi ánh sáng đó, ngoài ra tôi không chờ đợi gì nữa. Tôi chẳng còn có thể đợi cái gì khác nữa.

Dường như rất nhiều thời gian đã trôi qua. Đến một lúc, tôi thiếp đi mà không hay. Ngay lúc tôi cảm thấy sự hiện diện của cái gì đó và sực tỉnh thì ánh sáng đã ở đó rồi. Tôi nhận ra mình lại đang ngập trong ánh sáng chan hòa đó. Một cách vô thức, tôi dang rộng hai tay, ngửa lòng bàn tay ra đón nhận mặt trời. Lần này ánh sáng mạnh hơn nhiều so với lần đầu. Nó cũng ở lại với tôi lâu hơn lần trước nhiều. Ít nhất là tôi cảm thấy như vậy. Trong ánh sáng đó, lệ trào khỏi mắt tôi. Tôi cảm thấy như toàn bộ chất lỏng trong cơ thể tôi có thể biến thành nước mắt rồi trào ra khỏi mắt tôi, rằng chính cơ thể cũng có thể tan đi mất. Nếu như điều đó xảy ra trong niềm phúc lạc tột cùng của ánh sáng kỳ vĩ đó thì ngay cái chết cũng không còn đáng sợ nữa. Thực sự tôi cảm thấy muốn chết. Tôi có một cảm giác kỳ diệu về nhất thể, một cảm thức vô cùng lớn lao về sự hợp nhất. Phải, nó đấy: ý nghĩa đích thực của cuộc nhân sinh nằm trong cái ánh sáng chỉ kéo dài mấy giây kia, và tôi cảm thấy thật sự mình cần phải chết ngay lúc đó, ngay ở đó.

Nhưng dĩ nhiên, chưa có chuyện gì kịp xảy ra thì ánh sáng đã biến mất. Tôi vẫn đang ngồi dưới đáy cái giếng khốn khổ kia. Bóng tối và cái lạnh lại siết chặt lấy tôi như thể tuyên bố rằng ánh sáng kia chưa bao giờ tồn tại cả. Tôi cứ ngồi co ro đó mãi một hồi lâu, mặt mũi đầm đìa nước mắt. Như bị một sức mạnh to lớn nào đó giã cho tơi bời, tôi không thể làm gì, không thể nghĩ về bất cứ cái gì, thậm chí không còn cảm thấy sự tồn tại của thân thể mình nữa. Tôi như một bộ xương khô, cái vỏ rỗng bị một con côn trùng bỏ lại. Nhưng rồi, trong tâm trí tôi, như một căn phòng trống, lại hiện về lời tiên tri của hạ sĩ Honda: rằng tôi sẽ không chết ở Trung Hoa đại lục. Giờ đây, khi ánh sáng đó đã đến và đã đi qua, tôi thấy mình có thể tin lời của anh ta. Giờ đây tôi có thể tin lời của anh ta bởi vì, ở nơi mà đáng lẽ ra tôi đã chết, vào thời điểm mà đáng lẽ ra tôi đã chết, tôi đã không thể chết. Không phải tôi không chết, mà là tôi không thể chết. Ông Okada có hiểu tôi đang nói gì không? Bao nhiêu ân huệ mà tôi đã được trời ban cho tôi lúc đó, tôi đã mất cả rồi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2012 20:26:32 | Xem tất


Kể đến đây, Trung úy Mamiya nhìn đồng hồ.

- Và như ông thấy đó, tôi đang ngồi đây. - Ông lắc đầu như cố xua đi những sợi tơ vô hình của ký ức. - Đúng như ông Honda đã nói, tôi không chết ở Trung Hoa đại lục. Và trong số bốn người chúng tôi khi đó, tôi là người sống lâu nhất.

Tôi im lặng gật đầu.

- Xin ông thứ lỗi cho, chuyện tôi kể dài quá. Phải nghe một lão già vô dụng lảm nhảm liên tục bất tận về những ngày xa xưa thế này hẳn là ông thấy chán lắm. - Trung úy Mamiya đổi thế ngồi trên ghế sofa. - Trời ạ, nếu tôi nán lại thêm nữa thì sẽ nhỡ tàu mất.

Tôi vội tìm cách giữ ông lại.

- Xin ông đừng ngưng câu chuyện như thế, - tôi nói. - Sau đó thì thế nào? Tôi muốn nghe nốt phần còn lại.

Ông nhìn tôi một lát.

- Thế này vậy. Thật sự là tôi muộn tàu mất rồi, hay ông đi bộ với tôi đến trạm xe buýt nhé? Trong khi đi tôi có thể kể vắn tắt cho ông.

Tôi ra khỏi nhà, cùng ông đi bộ đến trạm xe buýt.

- Đến sáng ngày thứ ba, tôi được hạ sĩ Honda cứu thoát. Ông ấy đã cảm thấy rằng đêm hôm đó đám lính Mông Cổ sẽ tấn công chúng tôi, nên đã lẻn ra khỏi lều và nấp kỹ suốt thời gian đó. Ông ấy đã lấy bản tài liệu trong túi của Yamamoto mà mang theo mình. Ông ấy làm vậy bởi vì ưu tiên số một của chúng tôi là phải làm sao cho tài liệu đó không rơi vào tay thù, dù có phải hy sinh đến đâu. Hẳn ông đang tự hỏi, nếu hạ sĩ Honda đã đoán được quân Mông Cổ sẽ đến thì tại sao ông ấy bỏ chạy một mình mà không đánh thức mọi người để tất cả cùng thoát. Vấn đề đơn giản là chúng tôi không hề có hy vọng thắng trong hoàn cảnh đó. Quân Mông Cổ biết chúng tôi đang ở đâu. Bọn họ quân số đông hơn, súng ống nhiều hơn. Và họ, tìm ra chúng tôi, bắn chết chúng tôi và lấy tài liệu đi là việc dễ như bỡn. Tình huống đã vậy thì hạ sĩ Honda không có cách nào hơn là trốn thoát một mình. Trên chiến trường, hành vi của ông ta có thể là một trường hợp đào ngũ rõ ràng, nhưng với một nhóm đặc nhiệm như chúng tôi thì điều quan trọng nhất là khả năng tùy cơ ứng biến.

Ông ấy đã chứng kiến mọi việc. Ông ấy đã quan sát chúng lột da Yamamoto. Ông ấy đã thấy đám lính Mông Cổ điệu tôi đi. Nhưng ông ấy không còn ngựa nên không thể đi theo ngay lúc đó được. Ông ấy chỉ còn cách cuốc bộ. Ông ấy đào chỗ thức ăn thừa mà chúng tôi đã chôn trong sa mạc lên rồi chôn dấu bản tài liệu cũng ở đó. Sau đó ông ấy đi tìm tôi. Tuy nhiên, để tìm ra được tôi dưới cái giếng kia, ông ấy phải mất nhiều công sức lắm. Thậm chí ông ấy không biết đám lính dẫn tôi về hướng nào kia mà.

- Làm sao ông ấy phát hiện ra cái giếng? - tôi hỏi.

- Tôi không biết, - Trung úy Mamiya nói. - Ông ấy không nói gì nhiều về chuyện đó. Chắc chỉ có thể nói là ông ấy biết, vậy thôi. Khi tìm thấy tôi, ông ấy xé quần áo thành từng mảnh làm thành một sợi dây dài. Đến khi đó tôi hầu như đã bất tỉnh, khiến ông ấy lại càng vất vả hơn mới kéo được tôi lên. Thế rồi ông ấy tìm đâu được con ngựa, liền đặt tôi lên lưng nó. Ông ấy đưa tôi qua các đụn cát, vượt sông về chốt tiền tiêu của quân đội Mãn Châu quốc. Ở đó người ta chữa các vết thương cho tôi rồi cho tôi lên một chiếc xe tải do bộ tham mưu cử đến. Tôi được đưa tới bệnh viện Hailar.

- Còn cái tài liệu, bức thư hay cái gì gì đó thì sao?

- Chắc hẳn nó vẫn còn nằm đâu đó trong lòng đất, gần sông Khalkha. Đối với hạ sĩ Honda và tôi, quay trở lại suốt quãng đường đó để đào nó lên là một việc thậm vô lý, mà chúng tôi cũng chẳng tìm được lý do nào để phải nhọc công làm vậy. Chúng tôi đi đến kết luận rằng truớc hết một vật như vậy lẽ ra không bao giờ nên tồn tại. Chúng tôi quyết định sẽ thống nhất lời khai khi bị quân đội tiến hành điều tra. Cả hai chúng tôi sẽ khăng khăng rằng chưa bao giờ nghe nói đến tài liệu tài liếc gì hết. Nếu không, người ta sẽ buộc tội chúng tôi đã không đem tài liệu đó từ sa mạc về. Người ta bắt chúng tôi ở hai phòng riêng biệt được canh phòng cẩn mật viện cớ để chữa trị, rồi ngày nào cũng thẩm vấn chúng tôi. Các sĩ quan cao cấp ngày nào cũng đến, buộc chúng tôi kể đi kể lại mãi chuyện đã xảy ra. Họ hỏi những câu rất tỉ mỉ và rất thông minh. Nhưng dường như họ tin chúng tôi. Tôi kể cho họ đến từng chi tiết nhỏ những gì tôi đã trải qua, nhưng cẩn thận lược bỏ bất cứ điều gì tôi biết về bản tài liệu. Họ ghi lại tất cả, sau đó thì cảnh cáo tôi rằng đây là chuyện tối mật không được phép ghi vào hồ sơ chính thức của quân đội, và tôi không bao giờ được kể cho bất cứ ai, bằng không tôi sẽ bị nghiêm trị. Hai tuần sau tôi được đưa về vị trí ban đầu, còn hạ sĩ Honda chắc cũng được quay về đơn vị cũ.

- Có điều này tôi vẫn chưa rõ, - tôi nói. - Sao họ lại phải cất công đưa ông Honda từ đơn vị của ông ấy sang nhóm đặc nhiệm này?

- Ông ấy chẳng bao giờ nói nhiều với tôi về chuyện đó. Có lẽ người ta cấm ông ấy kể, và tôi ngờ rằng ông ấy cũng nghĩ tôi không biết thì hơn. Tuy nhiên, xét theo những lần nói chuyện với ông ấy, tôi có thể đoán rằng có một mối quan hệ cá nhân nào đó giữa ông ấy với người tên Yamamoto, mối quan hệ đó có liên quan tới năng lực đặc biệt của ông ấy. Tôi thường nghe nói quân đội có một đơn vị riêng chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí như vậy. Nghe bảo người ta tập hợp những người có khả năng tâm linh hay ngoại cảm đó từ mọi miền đất nước lại rồi tiến hành thí nghiệm trên họ. Tôi ngờ rằng ông Honda đã gặp Yamamoto trong hoàn cảnh đó. Dù thế nào đi nữa, nếu không có những năng lực đó thì ông Honda hẳn đã không bao giờ tìm được tôi ở dưới giếng và đưa tôi đến đúng vị trí tiền đồn của quân đội Mãn Châu quốc. Bản đồ không, la bàn cũng không, thế mà ông ấy biết chính xác hướng đi không một chút phân vân. Cứ suy theo lối thường thì không thể có chuyện đó được. Tôi là chuyên gia vẽ bản đồ thật đấy, tôi khá rành địa dư vùng đó, nhưng tôi chẳng bao giờ làm được như ông ấy. Có lẽ chính vì năng lực đó mà Yamamoto mới phải tìm đến ông Honda.

Chúng tôi đã tới trạm xe buýt và dừng lại đợi xe.

- Dĩ nhiên, có những điều không rõ đến bây giờ vẫn hoàn toàn không rõ, - Trung úy Mamiya nói. - Có những chuyện đến giờ tôi vẫn không hiểu. Tôi vẫn tự hỏi gã sĩ quan Mông Cổ đi một mình mà chúng tôi đã gặp trong sa mạc là ai. Tôi lại tự hỏi nếu chúng tôi mang bản tài liệu đó về bộ tham mưu thì sự thể sẽ ra sao. Tại sao Yamamoto không để chúng tôi lại trên hữu ngạn sông Khalkha rồi vượt sông một mình? Nếu làm vậy hắn sẽ có thể đi lại tự do hơn nhiều chứ. Có lẽ hắn có ý định dùng chúng tôi làm mồi nhử quân Mông Cổ để hắn có thể thoát một mình. Chuyện ấy có thể lắm. Có lẽ Honda nhận ra điều đó ngay từ đầu nên ông ấy chỉ đứng nhìn khi người Mông Cổ giết Yamamoto.

Dù thế nào đi nữa, mãi rất lâu sau đó tôi với hạ sĩ Honda mới có cơ hội gặp lại nhau. Ngay từ khi đến Hailar chúng tôi đã bị cách ly, người ta cấm chúng tôi nói chuyện với nhau, gặp nhau cũng không được. Thậm chí tôi muốn gặp để cám ơn một lần cuối, người ta cũng không cho. Ông ấy bị thương trong trận Nomonhan và được đưa về nước, còn tôi ở lại Mãn Châu đến hết chiến tranh, sau đó thì bị đưa đi Siberia. Mãi mấy năm sau khi được thả khỏi trại tù ở Siberia và hồi hương, tôi mới tìm lại được ông ấy. Sau đó chúng tôi gặp nhau vài lần nữa, còn lại thì viết thư. Nhưng hình như ông ấy tránh nói về những gì đã xảy ra với chúng tôi bên bờ sông Khalkha, chính tôi cũng chẳng hào hứng nhắc lại chuyện đó lắm. Với cả hai chúng tôi, những gì đã trải qua đó thật lớn lao quá sức, chúng tôi cùng chia sẻ nó bằng cách không nói gì về nó hết. Ông hiểu tôi chứ?

Chuyện hóa ra rất dài như vậy đó, song điều tôi muốn truyền đạt cho ông là, tôi cảm thấy cuộc sống thật của mình đã chấm dứt dưới cái giếng sâu trong sa mạc Ngoại Mông kia. Tôi cảm thấy như thể, trong cái ánh sáng cường liệt mỗi ngày chỉ rọi vào đáy giếng trong mười đến mười lăm giây đó, tôi đã đốt cháy cốt lõi của sinh mệnh mình cho đến khi chẳng còn lại gì nữa. Với tôi cái ánh sáng kia huyền bí đến như vậy đó! Tôi không giải thích được rõ lắm, nhưng nếu cố nói một cách thật trung thực và giản dị, thì từ đó trở đi, dù tôi có gặp chuyện gì, dù tôi có trải nghiệm gì đi nữa, tôi cũng không còn cảm xúc nào trong đáy lòng tôi. Ngay cả khi đối diện với những đơn vị xe tăng Xô Viết khổng lồ kia, ngay cả khi mất bàn tay trái, ngay cả những trại tù Siberia chẳng khác gì địa ngục, trong tôi chỉ có sự vô cảm. Nói thì nghe lạ, nhưng tất cả những chuyện đó chẳng quan trọng chút nào hết. Một cái gì đó bên trong tôi đã chết rồi. Khi ấy tôi nghĩ, lẽ ra tôi nên chết trong ánh sáng đó thì hơn, cứ tan biến đi trong ánh sáng đó thì hơn. Đấy mới là giờ chết của tôi. Song, như ông Honda tiên đoán, tôi đã không chết ở đó. Hay có lẽ phải nói rằng tôi đã không thể chết ở đó.

Tôi trở về Nhật khi đã mất một bàn tay và mất đứt mười hai năm quý báu. Khi tôi về tới Hiroshima thì cha mẹ và em gái tôi đã chết từ lâu. Người ta điều động cô em gái nhỏ của tôi vào làm việc ở một nhà máy, khi bom nguyên tử rơi thì cô ấy đang ở đó. Cha tôi lúc đó đang trên đường tới thăm cô ấy nên cũng mất mạng. Cú sốc khiến mẹ tôi nằm liệt giường, rốt cuộc bà cũng từ trần năm 1947. Như tôi đã kể với ông, cô gái mà xưa kia tôi bí mật cầu hôn đã lấy người khác và có hai đứa con. Ở nghĩa trang, tôi tìm thấy mộ của chính mình. Tôi chẳng còn gì hết. Tôi cảm thấy thực sự trống rỗng, biết rằng mình lẽ ra không nên trở về đây. Từ đó đến nay tôi sống như thế nào, thật khó mà nhớ được. Tôi trở thành thầy giáo dạy môn xã hội, dạy sử địa ở trường trung học, nhưng tôi không sống theo đúng nghĩa của từ này. Tôi chỉ đơn thuần thực hiện những nhiệm vụ đời thường người ta giao cho, hết cái này đến cái khác. Tôi không có ai thực sự là bạn, không hề có mối quan hệ bình thường như giữa con người đối với các học sinh mà mình phụ trách. Tôi không hề yêu bất cứ ai. Tôi không còn biết yêu một người khác là như thế nào nữa. Hễ nhắm mắt lại là tôi thấy Yamamoto đang bị lột da sống. Tôi nằm mơ thấy cảnh đó hàng bao nhiêu lần. Mơ đi mơ lại. Tôi thấy người ta lột da sống anh ta, biến anh ta thành một đống thịt. Tôi nghe rõ tiếng thét xé ruột xé gan của anh ta. Tôi cũng thường mơ thấy mình mục ruỗng dần dần, khi vẫn còn sống, ở dười đáy giếng. Đôi khi tôi cảm thấy dường như đó mới là những gì đã xảy ra trong thực tại, còn cuộc sống của tôi hiện giờ chỉ là giấc mơ mà thôi.

Lúc ông Honda bảo tôi trên bờ sông Khalkha rằng tôi sẽ không chết ở Trung Hoa đại lục, tôi đã mừng khôn xiết. Vấn đề không phải là tin hay không tin - đơn giản là khi đó tôi cần bám víu vào một cái gì đó, gì cũng được. Hẳn ông Honda biết vậy nên nói thế chỉ là để an ủi tôi. Nhưng hóa ra chẳng có gì đáng để tôi vui. Trở về Nhật rồi, tôi sống như một cái vỏ rỗng. Sống như cái vỏ rỗng thì không phải là sống, dù kéo dài bao nhiêu năm đi nữa. Con tim và xác thịt của một cái vỏ rỗng chẳng sinh ra gì khác hơn là cuộc sống của một cái vỏ rỗng. Đó mới là điều tôi hy vọng làm ông hiểu, thưa ông Okada.

- Vậy có phải là sau khi về Nhật ông không hề lấy vợ? - tôi đánh bạo hỏi.

- Dĩ nhiên là không, - Trung úy Mamiya đáp. - Tôi không vợ, không cha mẹ, không anh chị em. Tôi hoàn toàn cô độc.

Lưỡng lự một hồi, tôi hỏi:

- Ông có lấy làm tiếc đã nghe lời tiên báo của ông Honda không?

Lần này đến lượt Trung úy Mamiya lưỡng lự. Im lặng một chút, ông nhìn thẳng vào mặt tôi.

- Có thể, - ông nói. - Cũng có thể rằng lẽ ra ông ấy không nên nói những lời đó. Có thể rằng lẽ ra tôi đừng bao giờ nghe những lời đó. Như ông Honda đã nói khi ấy, vận mệnh con người thì chỉ có thể về sau nhìn lại chứ không thể nhìn trước được. Tuy nhiên, nay thì tôi nghĩ: đằng nào cũng vậy thôi. Giờ đây tôi chỉ đang thi hành nghĩa vụ của mình, ấy là tiếp tục sống.

Xe buýt đến, Trung úy Mamiya cúi chào tôi thật thấp. Rồi ông xin lỗi đã lấy mất của tôi nhiều thời gian quý báu.

- Thôi tôi đi đây, - ông nói. - Xin cảm ơn ông về mọi chuyện. Tôi rất vui vì đã trao được cho ông gói quà của ông Honda. Thế nghĩa là rốt cuộc việc của tôi đã làm xong, tôi có thể yên tâm trở về nhà rồi.

Bằng cả bàn tay phải lẫn bàn tay giả, ông khéo léo rút mấy đồng lẻ thả vào hộp thu tiền vé.

Tôi đứng nhìn cho tới khi chiếc xe buýt khuất dạng sau góc phố. Khi xe đi rồi, tôi thấy một cảm giác trống rỗng kỳ lạ trong lòng, cảm giác vô vọng như đứa trẻ bị bỏ rơi một mình ở một nơi xa lạ.

Về nhà, tôi ngồi trên sofa trong phòng khách mở gói quà đựng kỷ vật của ông Honda. Tôi phải toát mồ hôi mới mở được hết lớp giấy gói này đến lớp giấy gói khác đến khi lộ ra một hộp các tông vuông vức. Đó là một hộp whisky Cutty Sark dùng làm quà tặng, nhưng sao nhẹ bỗng, như không hề đựng chai rượu nào. Tôi mở ra thì thấy bên trong chẳng có gì hết. Hộp trống trơn. Tất cả những gì ông Honda để lại cho tôi là một cái hộp rỗng.

--------------------------------
1.GPU: cơ quan mật vụ Liên Xô trong thời kỳ 1922-1923, viết tắt từ tiếng Nga Gosudarstvennoe politich eskoe upravlenie, tạm dịch Vụ Chính trị Quốc gia, tiền thân của Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD) và Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB) sau này - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2012 20:21:26 | Xem tất


Quyển II
Chim Tiên Tri

Chương 1
Càng Cụ Thể Càng Tốt

Đề Tài Ăn Ngon Miệng Trong Văn Học



Tháng 7 đến tháng 10 năm 1984

Đêm đó Kumiko không về. Tôi thức đến nửa đêm, lúc đọc sách khi nghe nhạc để đợi nàng về, nhưng rốt cuộc tôi chịu thua, đành đi ngủ. Tôi thiếp đi không tắt đèn. Khi tôi dậy thì đã 6 giờ. Ngoài cửa sổ trời sáng bạch. Bên ngoài tấm rèm mỏng chim hót líu lo. Không thấy bóng dáng vợ tôi đâu. Chiếc gối trắng bên cạnh tôi vẫn phẳng phiu, phồng lên. Vậy là suốt đêm chẳng có ai đặt đầu lên đó. Bộ pijama mới giặt, gấp lại gọn gàng của Kumiko vẫn nằm nguyên trên bàn ngủ. Chính tôi đã giặt bộ đó. Chính tôi gấp nó. Tôi tắt cây đèn bên cạnh gối mình rồi hít một hơi dài, như để điều chỉnh lại dòng thời gian.

Tôi cứ mặc nguyên pijama mà đi một vòng quanh nhà. Đầu tiên tôi xuống bếp, sau đó kiểm tra phòng khách rồi phòng của Kumiko. Tôi kiểm tra buồng tắm, thử nhòm cả vào trong tủ quần áo cho chắc. Chẳng thấy tăm hơi nàng đâu. Nhà có vẻ im ắng hơn mọi ngày. Tôi cảm thấy cứ đi tới đi lui thế này là tôi đã mang tội phá vỡ sự hài hòa tĩnh lặng của chốn này mà chẳng có lý do nào chính đáng.

Tôi chẳng còn gì khác để làm. Tôi xuống bếp, lấy đầy ấm nuớc rồi bật bếp gas. Khi nước sôi, tôi pha cà phê rồi ngồi nơi bàn bếp nhấp một ngụm. Rồi tôi nướng bánh mì và ăn ít salad khoai tây còn trong tủ lạnh. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm qua tôi ăn sáng một mình. Thử nghĩ mà xem, ngoài một chuyến công tác xa duy nhất, còn thì kể từ ngày cưới vợ chồng tôi chưa lần nào bỏ một bữa ăn sáng cùng nhau. Bữa trưa chúng tôi hay ăn riêng, đôi khi bữa tối cũng không ăn cùng, nhưng bữa sáng thì không bao giờ vắng nhau. Có một thứ thỏa thuận ngầm, gần như là một nghi thức giữa hai chúng tôi về việc cùng ăn bữa sáng. Dù muộn giờ đến mấy đi nữa, chúng tôi vẫn luôn cố dành thời gian đủ để làm một bữa sáng đâu ra đó và thư thả ăn cùng nhau.

Nhưng sáng hôm đó vắng Kumiko. Tôi uống cà phê và ăn bánh mì nướng một mình, lặng lẽ. Tôi nhìn mãi chiếc ghế trống trước mặt. Tôi vừa ăn vừa nhìn chiếc ghế mà miên man nghĩ tới thứ nước hoa nàng đã xức sáng hôm qua. Tôi nghĩ đến người đàn ông ắt hẳn đã tặng món nước hoa đó cho nàng. Tôi hình dung nàng nằm trên giường với hắn, hai vòng tay quấn lấy nhau. Tôi thấy hai bàn tay hắn ve vuốt tấm thân trần truồng của nàng. Tôi thấy tấm lưng trắng ngần trơn láng như bằng sứ của nàng mà tôi đã thấy sáng qua, làn da mịn màng của nàng dưới chiếc khóa tôi đang kéo.

Hình như cà phê có vị xà phòng. Tôi thật không tin được. Ngay khi nhấp ngụm đầu tiên tôi đã cảm thấy dư vị khó chịu. Tôi tự hỏi phải chăng cảm giác của tôi đang đánh lừa tôi, nhưng ngụm thứ hai cũng có cái vị đó. Tôi đổ hết cốc cà phê uống dở vào chậu rửa rồi rót thêm cà phê vào một cốc sạch. Lại vẫn mùi xà phòng. Thật không hiểu nổi tại sao. Ấm đun cà phê tôi đã rửa sạch, nuớc cũng không có vấn đề gì. Nhưng cái vị - hay mùi - thì không lầm được: chỉ có thể là xà phòng, cũng có thể là mỹ phẩm chống khô da. Tôi đổ cà phê đi rồi toan đun thêm ít nước, nhưng lại thấy chẳng bõ công. Tôi rót đầy một cốc nước
máy rồi uống. Thật ra tôi cũng chẳng thèm cà phê đến như vậy.

° ° °

Tôi đợi đến 9 giờ rưỡi rồi gọi đến cơ quan của Kumiko. Một phụ nữ trả lời điện thoại.

- Cho tôi nói chuyện với Okada Kumiko được không ạ? - tôi hỏi.

- Xin lỗi, chị ấy chưa đến.

Tôi cám ơn rồi gác máy. Sau đó tôi đi là sơ mi như tôi vẫn làm mỗi khi bứt rứt không yên. Là hết sơ mi rồi, tôi quay sang bó báo và tạp chí cũ thành từng bó, lau chùi chậu rửa bát và các kệ tủ, rửa sạch phòng vệ sinh và buồng tắm. Tôi đánh bóng các tấm gương và cửa kính. Tôi tháo hết đèn trần ra rồi lau sạch những tấm kính mờ. Tôi tháo ga trải giường bẩn ném vào máy giặt rồi thay ga mới.

Đến 11 giờ tôi lại gọi lên cơ quan của Kumiko. Cũng người phụ nữ đó trả lời, và một lần nữa cô ta nói Kumiko chưa đến.

- Cô ấy có định nghỉ làm hôm nay không? - tôi hỏi.

- Tôi không biết ạ, - cô ta nói, giọng hoàn toàn vô cảm. Cô ta chỉ đơn thuần thông báo sự việc.

Nếu 11 giờ mà Kumiko chưa đến cơ quan thì có gì không ổn rồi. Hầu hết các nhà xuất bản đều làm việc theo giờ giấc không bình thường, nhưng chỗ Kumiko thì không. Do tạp chí này đề cập đến lối sống lành mạnh và thức ăn thiên nhiên, nên cộng tác viên của họ - các nhà sản xuất thực phẩm, nông dân, bác sĩ - đều là những người thường xuyên đi sớm về muộn. Để thích ứng với giờ giấc của cộng tác viên, Kumiko và các đồng nghiệp phải đến cơ quan đúng 9 giờ sáng và rời cơ quan lúc 5 giờ chiều, trừ phi có lý do đặc biệt phải ở lại muộn hơn.

Tôi gác máy rồi vào phòng ngủ, xem kỹ tủ quần áo của nàng. Nếu Kumiko bỏ nhà đi, hẳn nàng phải mang theo quần áo. Tôi kiểm tra các áo dài, áo cánh và váy treo trong tủ. Dĩ nhiên không phải bất cứ cái gì nàng mặc tôi cũng biết - ngay quần áo của chính mình tôi cũng có biết hết từng cái đâu -, nhưng bởi tôi thường mang quần áo của nàng đến hiệu giặt là rồi mang về nên tôi biết khá rõ nàng hay mặc những chiếc áo nào nhất, những chiếc áo nào quan trọng nhất đối với nàng, và xét theo chỗ tôi biết, tất cả đều đang nằm trong tủ.

Ngoài ra, nàng cũng đâu có cơ hội mang theo nhiều quần áo. Tôi cố nhớ lại càng chính xác càng tốt lúc nàng rời khỏi nhà ngày hôm trước - quần áo nàng mặc, túi xách nàng đeo. Nàng chỉ mang chiếc túi xách đeo vai vẫn thường mang để đi làm, trong đó chỉ có sổ sách, mỹ phẩm, chiếc ví, bút, khăn mùi xoa, khăn giấy. Làm gì còn chỗ để đựng quần áo thay.

Tôi kiểm tra các ngăn kéo của nàng. Những đồ lặt vặt như túi xách, thắt lưng, tất dài, kính râm, quần lót, may ô thể thao, tất cả đều yên vị, xếp hàng ngay ngắn. Nếu có cái gì biến mất, tôi cũng không thể biết được. Dĩ nhiên, tất dài và quần lót thì nàng có thể cho vào túi đeo vai, nhưng thử nghĩ mà xem, tội gì phải thế chứ? Những thứ đó mua đâu chẳng được.

Tôi lại xuống phòng tắm kiểm tra lần nữa. Ở đó cũng chẳng thấy có gì thay đổi: chỉ rất nhiều hộp mỹ phẩm và đồ lỉnh kỉnh khác của Kumiko. Tôi mở chai nước hoa Christian Dior ngửi một lần nữa. Cũng cái mùi như trước: hương thơm của một bông hoa trắng thơm ngát vào buổi sáng mùa hè. Tôi lại nhớ đến đôi vai và tấm lưng trắng muốt của nàng.

Tôi lên phòng khách duỗi dài trên ghế sofa. Tôi nhắm mắt lắng nghe. Gần như âm thanh duy nhất tôi nghe được là tiếng đồng hồ tích tắc đếm thời gian. Không có tiếng ồn xe hơi, không có tiếng chim. Tôi không biết làm gì bây giờ. Tôi quyết định lại gọi điện đến cơ quan của nàng, đã nhấc ống nghe lên và quay mấy chữ số đầu tiên, nhưng nghĩ đến chuyện phải nói chuyện cũng với người đàn bà kia là tôi lại ngán ngẩm, đành đặt ống nghe xuống. Tôi chẳng còn gì làm nữa. Tôi chỉ có thể chờ. Có thể Kumiko đã bỏ tôi, vì lý do gì tôi không biết, nhưng ít nhất chuyện đó cũng có thể. Tuy nhên, dù đúng vậy đi nữa, Kumiko cũng không phải loại nguời bỏ đi mà không nói một lời. Nàng hẳn sẽ nói thật lý do mình ra đi, nói càng chính xác, càng rõ ràng càng tốt. Gì chứ điều đó thì tôi tin chắc trăm phần trăm.

Mà cũng có thể nàng bị tai nạn. Có thể nàng bị một chiếc xe hơi chẹt, người ta phải đưa nàng đến bệnh viện. Nàng có thể mê man bất tỉnh, người ta tiếp máu cho nàng. Ý nghĩ đó khiến tim tôi đập thình thịch, nhưng tôi biết nàng có mang theo bằng lái, thẻ tín dụng và sổ địa chỉ. Bệnh viện hay cảnh sát hẳn phải liên lạc với tôi rồi chứ.

Tôi ra ngồi ngoài hiên nhìn khu vườn, nhưng kỳ thực tôi chẳng nhìn gì hết. Tôi cố suy nghĩ, nhưng không thể tập trung tư tưởng vào bất cứ cái gì. Trong đầu tôi cứ trở đi trở lại hình ảnh tấm lưng Kumiko khi tôi kéo khóa áo cho nàng - tấm lưng, và mùi nước hoa sau đôi tai nàng.

Ngay sau 1 giờ trưa, điện thoại reo. Tôi đứng dậy nhấc ống nghe.

- Xin lỗi, đây có phải là nhà của ông Okada không ạ? - một giọng phụ nữ hỏi. Ấy là Kano Malta.

- Đúng, - tôi nói.

- Tên tôi là Kano Malta. Tôi gọi điện là về việc con mèo.

- Con mèo? - tôi nói, trong dạ hơi bối rối. Tôi đã quên bẵng mất chuyện đó. Giờ thì dĩ nhiên tôi nhớ ra, nhưng có cảm giác như chuyện đó là từ thuở xa xưa nào kia.

- Con mèo mà bà Okada đang tìm đấy ạ, - Kano Malta giải thích.

- Phải, phải, tôi biết, - tôi nói.

Kano Malta im lặng, như đang cân nhắc điều gì. Âm sắc giọng nói của tôi hẳn đã làm cô ta cảnh giác. Tôi hắng giọng rồi chuyển ống nghe sang tay kia.

Ngừng một chút, Kano Malta nói:

- Ông Okada ạ, tôi phải nói rằng theo tôi, hầu như chắc chắn ông sẽ không bao giờ tìm thấy con mèo. Nói ra điều này thật tôi không muốn, nhưng có lẽ tốt nhất là ông nên chấp nhận thực tế. Nó đã đi vĩnh viễn rồi. Trừ phi có một thay đổi lớn nào đó, bằng không con mèo sẽ không trở về nữa.

- Một thay đổi lớn nào đó? - tôi hỏi. Nhưng cô ta không trả lời.

Kano Malta im lặng một hồi lâu. Tôi chờ cô ta nói gì đó, nhưng cố lắm tôi cũng không nghe thấy dù chỉ một hơi thở nhẹ ở đầu dây bên kia. Ngay lúc tôi bắt đầu ngờ rằng điện thoại hỏng thì cô ta nói tiếp.

- Ông Okada ạ, tôi biết nói ra điều này thì thật thất lễ, nhưng ngoài chuyện con mèo, liệu có việc gì khác mà tôi có thể giúp ông không?

Tôi không thể trả lời ngay. Cầm ống nghe trong tay, tôi tựa lưng vào tường. Phải mất một lúc mới tìm ra lời.

- Mọi chuyện vẫn chưa rõ lắm đối với tôi, - tôi nói. - Tôi không biết chắc điều gì cả. Tôi đang cố nghĩ cho rành mạch. Nhưng có lẽ vợ tôi đã bỏ tôi. - Tôi giải thích với cô ta rằng đêm hôm trước Kumiko không về nhà, sáng nay cũng không đến cơ quan làm việc.

Dường như cô ta ngẫm nghĩ về điều tôi nói.

- Hẳn là ông đang bối rối lắm, - cô nói. - Ngay lúc này tôi chưa thể nói gì, nhưng chẳng bao lâu nữa mọi chuyện sẽ rõ. Giờ ông chỉ còn cách đợi thôi. Hẳn là việc ấy chẳng dễ dàng gì với ông, nhưng cái gì cũng có lúc của nó. Như triều lên triều xuống vậy. Không ai có thể làm gì để thay đổi chúng. Khi nào cần đợi thì phải đợi.

- Nào, nào, cô Kano! Tôi rất cám ơn cô đã vất vả vì con mèo của nhà tôi, nhưng ngay lúc này tôi chả có bụng dạ nào để nghe những lý luận chung chung kiểu đó. Tôi đang rối bời đây. Rối tinh rối mù đây. Tôi có dự cảm sẽ xảy ra một điều gì đó kinh khủng. Nhưng tôi không biết phải làm gì cả. Tôi hoàn toàn không biết mình phải làm gì. Nói thế rõ không? Tôi thậm chí không biết sau cuộc gọi này mình sẽ làm gì nữa. Tôi cần bây giờ là cần những gì cụ thể. Những sự việc cụ thể. Vặt vãnh cũng được, ngớ ngẩn cũng được, tôi nhận hết, tôi nói thế đã rõ chưa? Tôi cần một cái gì đó có thể nhìn bằng mắt, sờ bằng tay.

Ở đầu dây bên kia tôi nghe vật gì đó rơi xuống sàn nhà - cái gì đó không nặng lắm, có lẽ một hạt ngọc trai rơi xuống sàn gỗ. Sau đó có tiếng sột soạt, như thể ai đó cầm một tờ giấy can bằng mấy đầu ngón tay mà giật mạnh. Những chuyển động đó hình như diễn ra không gần cũng không xa chiếc điện thoại lắm, nhưng xem chừng Kano Malta chẳng buồn để ý.

- Tôi hiểu, - cô ta nói bằng giọng bình thản, vô cảm. - Một cái gì đó cụ thể.

- Đúng rồi. Càng cụ thể càng tốt.

- Ông hãy đợi một cú điện thoại.

- Ngoài đợi điện thoại ra tôi còn biết làm gì nữa.

- Sắp tới sẽ có một người tên bắt đầu bằng chữ "O" gọi cho ông.

- Người đó có biết gì về Kumiko không?

- Cái đó thì tôi không rõ. Tôi nói vậy vì ông đã bảo ông muốn một trong những sự việc cụ thể, sự việc nào cũng được. Đây là một sự việc nữa: sắp tới đây, một vầng bán nguyệt sẽ kéo dài trong vài ngày.

- Bán nguyệt? - tôi hỏi. - Ý cô là trăng trên trời phải không?

- Vâng, trăng trên trời, thưa ông Okada. Dù thế nào đi nữa, việc ông cần làm là chờ đợi. Chờ đợi là tất cả. Tạm biệt ông. Tôi sẽ hầu chuyện ông sau, sớm thôi. - Đoạn cô ta gác máy.

° ° °


Tôi đi lấy cuốn sổ điện thoại trên bàn làm việc, giở ra vần O. Ở đó có 4 mục tên O, được Kumiko ghi bằng nét chữ nắn nót. Mục đầu là Okada Takao, cha tôi. Sau đó là một bạn học cũ của tôi tên Onoda, một nha sĩ tên Otsuka, và Omura, chủ cửa hàng rượu bia gần nhà.

Chỗ cửa hàng rượu bia thì tôi có thể loại ngay. Nó ngay gần nhà tôi, đi bộ mười phút là tới, và trừ năm thì mười họa chúng tôi gọi điện đặt một két bia mang tới nhà, còn thì vợ chồng tôi chẳng có việc gì dính tới họ. Ông nha sĩ cũng chẳng liên quan gì. Cách đây hai năm tôi có tới chỗ ông ta để chữa cái răng hàm, nhưng Kumiko thì chưa đến đó bao giờ. Thực sự là từ khi cưới tôi Kumiko không đến nha sĩ lần nào cả. Bạn cũ Onoda thì đã nhiều năm rồi tôi không gặp. Sau khi tốt nghiệp đại học cậu ta đi làm cho một ngân hàng, đến năm thứ hai thì được thuyên chuyển về chi nhánh ở Sapporo, từ đó cậu ta sống hẳn ở Hokkaido. Hiện nay cậu ta chỉ là một trong những người hàng năm trao đổi thiệp chúc mừng Năm Mới với tôi. Tôi không nhớ nổi cậu ta đã gặp Kumiko bao giờ chưa.

Chỉ còn lại cha tôi, nhưng không thể có chuyện Kumiko có mối quan hệ đặc biệt nào đó với ông. Sau khi mẹ tôi mất cha tôi đã tục huyền, từ đó đến nay đã nhiều năm tôi không gặp ông, không thư từ cũng chẳng nói chuyện qua điện thoại với ông. Thậm chí Kumiko chưa bao giờ gặp ông nữa là.

Lật cuồn sổ địa chỉ, tôi mới nhận ra hai vợ chồng tôi ít giao du với người khác thế nào. Ngoại trừ dăm ba cuộc tụ tập cần thiết với đồng nghiệp, suốt sáu năm kể từ ngày cưới chúng tôi hầu như không có quan hệ với người ngoài mà khép mình vào cuộc sống riêng tư, chỉ có Kumiko và tôi.

Tôi quyết định làm lại món spaghetti để ăn trưa. Đói thì tôi chẳng đói một chút nào. Nhưng tôi không thể ngồi chết dí trên sofa chờ điện thoại reo được. Tôi phải vận động thân thể, phải làm cái gì đó, hướng đến mục đích nào đó. Tôi lấy nước đầy ấm đun, bật bếp gas, rồi trong khi đợi nước sôi tôi vừa làm sốt cà chua vừa nghe đài FM. Đài đang phát một bản xô-nát cho violon không nhạc đệm của Bach. Diễn tấu thì xuất sắc, nhưng có cái gì đó làm tôi khó chịu. Chẳng biết là do lỗi của nhạc công hay vì tâm trạng của chính tôi, nhưng tôi tắt nhạc đi rồi tiếp tục nấu nướng trong im lặng. Tôi đun dầu ôliu, ném vào ít tỏi và hành xắt nhỏ. Khi dầu bắt đầu sôi, tôi cho vào chỗ cà chua mà tôi đã xắt lát, thái nhỏ. Cắt, thái, chiên xào các thứ như thế này thật thích. Nó cho tôi cảm giác mình đang hoàn thành một công việc cụ thể, có thể cảm nhận được trong tay mình. Tôi thích những âm thanh, những mùi xào nấu.

Khi nước sôi, tôi cho muối và một nắm spaghetti vào. Tôi hẹn giờ là mười phút rồi rửa các thứ trong chậu rửa. Tuy nhiên, ngay cả khi đĩa spaghetti nóng sốt đã đặt ngay trước mắt, tôi vẫn không muốn ăn chút nào. Cố lắm tôi mới ăn hết một nửa, chỗ còn lại thì đổ đi. Chỗ xốt còn thừa tôi trút vào lọ rồi cất trong tủ lạnh. Cái chính là không muốn ăn thì biết làm thế nào?

Tôi nhớ đã lâu rồi tôi có đọc câu chuyện một người đàn ông cứ ăn liên tục trong khi đợi một điều gì đó xảy ra. Nghĩ hồi lâu tôi mới nhớ ra, đó là truyện Giã từ vũ khí của Hemingway. Nhân vật chính (tôi quên tên anh ta rồi) tìm cách trốn từ Ý sang Thụy Sĩ bằng thuyền và nán lại ở thị trấn Thụy Sĩ bé nhỏ đó để chờ vợ sinh, suốt thời gian đó anh ta thường xuyên sang quán cà phê bên kia đường để ăn uống. Tôi hầu như chẳng nhớ cốt truyện thế nào nữa. Trong kí ức tôi chỉ in đậm mỗi một đoạn gần cuối truyện trong đó nhân vật chính đi ăn hết bữa này đến bữa khác trong khi đợi vợ sinh ở xứ người. Lý do khiến tôi nhớ rõ đoạn đó đến vậy là vì tính hiện thực mãnh liệt của nó. Tôi cảm thấy, xét về mặt văn chương, việc nhân vật chính càng lo lại càng ăn ngon có vẻ thật hơn nhiều so với nếu anh ta vì lo mà ăn mất ngon.

Tuy nhiên, trái ngược với Giã từ vũ khí, tôi hoàn toàn mất cảm giác ăn ngon trong khi dõi theo những chiếc kim đồng hồ trong căn nhà câm lặng này, chờ một điều gì đó xảy ra. Đột nhiên tôi nảy ra ý nghĩ rằng tôi ăn mất ngon là bởi trong tôi thiếu cái cảm thức về thực tại văn chương đó. Tôi cảm thấy hình như mình đã trở thành một phần của một cuốn tiểu thuyết viết tồi, và ai đó đang chỉ trích rằng tôi đây hoàn toàn không có tính hiện thực. Có lẽ đúng vậy thật.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2012 20:25:59 | Xem tất


Cuối cùng, ngay trước 2 giờ trưa điện thoại cũng reo.

- Đây có phải là nhà của ông Okada không ạ? - một giọng đàn ông lạ hỏi. Giọng một thanh niên, trầm và khá dễ nghe.

- Phải, - tôi đáp, giọng hơi căng thẳng.

- Khu số 2, nhà số 26?

- Đúng vậy.

- Cửa hàng rượu bia Omura gọi đây ạ. Chúng tôi rất cám ơn ông đã là khách hàng thường xuyên của chúng tôi. Tôi sắp đi thu tiền, nên tôi gọi để xem liệu lúc này có tiện cho ông không.

- Thu tiền ấy à?

- Vâng ạ, ông còn phải thanh toán hai két bia và một két nước quả.

- Ờ, được. Tôi còn ở nhà thêm một lát nữa, - tôi nói cho xong chuyện.

Gác máy xong, tôi tự hỏi liệu cuộc trò chuyện vừa rồi có hàm chứa thông tin gì về Kumiko không. Nhưng xét từ mọi góc độ, nó chẳng qua chỉ là cuộc trao đổi ngắn gọn và thực tế của một cửa hàng rượu bia về việc thu tiền. Tôi đã đặt mua của họ bia và nước quả, họ đã giao hàng cho tôi, điều đó thì đúng. Nửa giờ sau anh chàng kia đến, tôi liền trả tiền hai két bia và một két nước quả cho anh ta.

Anh chàng dễ mến vừa mỉm cười vừa ghi biên lai.

- Ông Okada này, nhân thể, ông có nghe nói về vụ tai nạn gần nhà ga sáng nay không? Lúc khoảng chín rưỡi ấy.

- Tai nạn à? - tôi hỏi, sững cả người. - Ai bị vậy?

- Một con bé con, - anh ta đáp. - Nó bị một chiếc xe tải nhỏ đang lùi chẹt phải. Nghe nói bị thương khá nặng. Tôi đi ngang đó thì tai nạn vừa xảy ra xong. Mới sáng sớm mà đã thấy cảnh đó thì sợ thật. Cái lũ lau nhau ấy thì tôi sợ chết khiếp, vì chúng bé quá, mình nhìn kính chiếu hậu có thấy chúng đâu. Ông biết ông chủ hiệu giặt là ở gần nhà ga chứ? Tai nạn xảy ra ngay trước hiệu ấy. Người ta dựng xe đạp cả ở đó, bao nhiêu là hộp chất đống lên, nhìn chả thấy gì hết.

Anh ta đi rồi, tôi cảm thấy không thể nấn ná ở nhà thêm một phút nào nữa. Bỗng dưng nơi này trở nên nóng bức, ngột ngạt, ẩm thấp, chật chội. Tôi mang giày rồi hấp tấp ra khỏi nhà. Thậm chí tôi không khóa cửa. Tôi để cửa sổ mở, không tắt đèn dưới bếp. Tôi đi lang thang quanh khu nhà mình, miệng mút kẹo chanh. Khi ôn đi ôn lại trong đầu những lời của tay nhân viên cửa hàng rượu bia, dần dần tôi mới nhớ ra mình có gửi mấy món đồ nơi hiệu giặt gần nhà ga, vẫn chưa lấy. Áo cánh và váy của Kumiko. Biên nhận đang nằm ở nhà, nhưng nếu tôi cứ tới hỏi thì chắc ông chủ cũng đưa cho tôi thôi.

Khu nhà tôi ở trông khang khác. Những người tôi đi ngang qua trên phố đều có cái nhìn không tự nhiên, thậm chí giả tạo nữa. Đi ngang qua ai, tôi đều quan sát kỹ gương mặt họ mà tự hỏi họ là loại người nào. Họ sống trong những loại nhà nào? Họ có gia đình như thế nào? Họ sống theo lối nào? Họ có ngủ với những người đàn bà khác ngoài vợ mình hay những người đàn ông khác ngoài chồng mình không? Họ có hạnh phúc không? Họ có biết trông bộ dạng họ phi tự nhiên và giả tạo đến nhường nào không?

Bên ngoài hiệu giặt là vẫn còn thấy rõ dấu vết vụ tai nạn lúc sáng: trên mặt đất là vệt phấn của cảnh sát; gần đó môt chủ cửa hiệu vẫn đang bàn tán về vụ tai nạn, vẻ mặt nghiêm trọng. Nhưng bên trong hiệu giặt thì vẫn như mọi khi. Vẫn chiếc máy nghe nhạc màu đen phát cũng loai nhạc êm dịu đó, vẫn chiếc máy điều hòa nhiệt độ kiểu cũ kêu ro ro ở đằng sau, vẫn những làn mây hơi nước bay nghi ngút từ bàn là lên tới trần nhà. Bài hát đang phát là bài Triều xuống. Robert Maxwell, chơi thụ cầm. Tôi chợt nghĩ giá bây giờ được ra biển thì tuyệt biết mấy! Tôi hình dung mùi bãi biển và tiếng sóng vỗ bờ. Những con hải âu. Lon bia lạnh như đá.

Tôi chỉ nói với chủ hiệu rằng tôi quên biên nhận.

- Tôi mang tới cho ông đâu như thứ Năm hay thứ Sáu tuần trước. Một áo cánh, một váy.

- Okada... Okada... - anh ta vừa nói vừa lật một các trang cuốn vở học sinh. - Ừ, đây rồi. Một áo cánh, một váy. Nhưng bà Okada lấy rồi.

- Lấy rồi? - tôi sững sờ.

- Sáng hôm qua. Tôi nhớ rõ chính tôi đã đưa cho bà ấy mà. Bà ấy đang trên đường đi làm thì ghé qua. Mang theo cả biên lai nữa.

Tôi không biết trả lời anh ta như thế nào nữa. Tôi chỉ còn biết trân trối nhìn anh ta.

- Ông về hỏi bà nhà xem. Bà ấy lấy rồi mà, chắc chắn.

Anh ta rút một điếu trong hộp thuốc lá trên quầy, cho lên môi rồi bật lửa châm.

- Sáng hôm qua? - tôi hỏi. - Không phải chiều chứ?

- Buổi sáng, chắc chắn mà. Lúc tám giờ đúng. Hôm đó vợ ông là người mở hàng cho tôi. Chuyện như vậy tôi không quên đâu. Khi mà khách hàng đầu tiên của mình là một thiếu phụ trẻ thì mình thấy dễ chịu lắm chứ, phải không nào?

Tôi không rặn nổi một nụ cười để đáp lại anh ta, giọng nói tôi phát ra nghe như không phải giọng tôi.

- Ồ thôi, vậy là được rồi. Xin lỗi, tôi không biết cô ấy đã lấy rồi.

Anh ta gật đầu, liếc tôi rồi dụi tắt điều thuốc chỉ mới phì phèo hai ba hơi, lại đi là quần áo. Hình như anh ta bắt đầu thấy quan tâm đến tôi, muốn nói với tôi điều gì đó như rốt cuộc lại quyết định không nói gì hết. Tôi cũng có những điều muốn hỏi anh ta. Khi Kumiko đến lấy đồ giặt trông nàng như thế nào? Nàng mang theo cái gì? Nhưng tâm trí tôi rối bời, lại còn khát cháy cổ. Điều tôi muốn nhất bây giờ là ngồi xuống đâu đó uống một cái gì mát lạnh. Tôi cảm thấy đó là cách duy nhất để may ra tôi lại có thể nghĩ ngợi về một điều gì.

Tôi đi thẳng từ hiệu giặt là tới quán cà phê cách đó mấy căn rồi gọi một cốc trà đá. Trong quán khá mát mẻ, tôi lại là người khách duy nhất. Những chiếc loa nhỏ gắn trên tường đang phát bản Tám ngày một tuần của Beattle biên soạn lại cho dàn nhạc. Tôi lại nghĩ đến biển. Tôi hình dung mình chân trần bước men theo mép bãi biển. Cát nóng rẫy, gió mang nặng mùi thủy triều. Tôi hít sâu vào ngực rồi nhìn lên bầu trời. Duỗi hai bàn tay ra, lòng bàn tay ngửa lên trời, tôi cảm thấy nắng hè nóng bỏng tuôn vào đó. Một làn sóng lạnh giá vỗ vào chân tôi.

Xét theo cách nào đi nữa, việc Kumiko ghé lấy đồ giặt trên đường đi làm thật là lạ. Một mặt nàng sẽ phải chen lên tàu điện chật ních người trong khi tay cầm mấy chiếc áo váy vừa là xong, còn treo nguyên trên móc. Rồi nàng còn phải lặp lại như thế một lần nữa trên đường về nhà. Làm thế nàng không chỉ thêm bận tay mà công phu là ủi thẳng thớm của người ta sẽ hóa thành vô ích, áo váy sẽ nhàu hết. Gì chớ những chuyện ấy thì Kumiko kỹ tính lắm, tôi khó lòng hình dung nàng sẽ làm một việc vô ích như vậy. Nàng có thể ghé lấy trên đường đi làm về cơ mà. Hoặc nếu về muộn, nàng có thể nhờ tôi lấy. Chỉ có thể có một lý do thôi: nàng đã biết trước là nàng sẽ không về nhà. Cầm áo cánh và váy trong tay, nàng có thể đi bất cứ đâu. Bằng cách đó nàng sẽ có ít nhất một bộ đồ để thay, những thứ còn lại nếu cần thì đều có thể mua được. Nàng có thẻ tín dụng, thẻ rút tiền, lại có tài khoản ngân hàng riêng. Nàng có thể muốn đi đâu cũng được.

Và nàng đi với một người nào đó - một người đàn ông. Không có lý do nào khác để nàng bỏ nhà đi cả.

Thế này thì nghiêm trọng đây. Kumiko biến mất, để lại toàn bộ quần áo, giày dép. Nàng xưa nay vẫn thích mua sắm quần áo, nàng dành cho việc đó bao nhiêu là tâm trí và công sức. Bỏ nhà ra đi mà hầu như không mang theo một thứ gì, nàng ắt hẳn phải có một quyết tâm dứt khoát lắm. Đã vậy còn hầu như chẳng chút do dự - ít nhất là tôi cảm thấy vậy -, nàng đi khỏi nhà chỉ mang theo mỗi một chiếc áo cánh và một chiếc váy. Không, hẳn là lúc ra đi, quần áo là thứ nàng ít nghĩ tới hơn cả.

Tựa mình vào ghế, lơ đãng nghe thứ nhạc nền sạch sẽ đến khó chịu, tôi hình dung Kumiko đi trên tàu điện chật ních người, tay ôm áo váy vẫn còn nguyên móc áo gói trong túi nhựa của hiệu giặt. Tôi nhớ lại màu chiếc áo váy nàng mặc, mùi nước hoa sau tai nàng, tấm lưng mịn màng trắng muốt của nàng. Hẳn là tôi kiệt sức rồi. Tôi cảm thấy nếu nhắm mắt lại, tôi sẽ trôi đến nơi nào khác; tôi sẽ rơi vào một chỗ hoàn toàn khác.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách