Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Sein
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót | Haruki Murakami

[Lấy địa chỉ]
91#
Đăng lúc 11-6-2013 16:46:19 | Chỉ xem của tác giả
THÔNG BÁO


Xin chào bạn!

Trước tiên, cám ơn sự đóng góp của bạn dành cho box.

Hiện nay, box đang tiến hành sắp xếp lại để gọn gàng hơn.

Trong quá trình sắp xếp, bọn mình thấy bạn đã ngừng thread hơn 10 ngày và không có bất cứ thông báo nào đến độc giả.

Vậy nên 5 ngày sau thông báo này, nếu vẫn không có chương mới, bọn mình sẽ tiến hành các biện pháp xử lý thích hợp.

Tạm thời bọn mình sẽ tô thread sang màu đen để phân biệt, khi nào thread có chương mới thì bọn mình sẽ tô lại màu xanh.

Mong bạn hiểu và thông cảm!

Thân mến!

Mod

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

92#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 22:55:46 | Chỉ xem của tác giả

Chương 28
Không thể tin tưởng một căn nhà được
(Quan điểm của Kasahara May: 5)




Chào Chim vặn dây cót! Anh có khỏe không?

Cuối thư trước em có viết, những gì muốn nói với anh thì hầu như em đã nói hết rồi, em đã nói nhiều quá rồi thành thử thôi đi là vừa. Anh nhớ không? Tuy vậy sau đó nghĩ lại một chút thì em lại có cảm giác mình phải viết thêm chút nữa. Thế là nửa đêm em mò dậy như con gián, ngồi bên bàn và lại viết cho anh đây.

Chẳng biết tại sao mấy hôm nay em cứ nghĩ mãi về gia đình Miyawaki, cái gia đình tội nghiệp xưa vẫn sống ở căn nhà không người ở ấy, thế rồi các con nợ đòi riết quá, họ mới bỏ đi và tự sát, cả nhà. Em nhớ có đọc ở đâu đó rằng chỉ mình cô con gái cả là sống sót, nhưng nay không ai biết cô ta ở đâu... Dù em đang làm việc, đang ở trong nhà ăn, đang ngồi trong phòng mình nghe nhạc và đọc sách, hình ảnh gia đình đó vẫn không rời khỏi tâm trí em. Nói là em bị ám ảnh thì không phải, nhưng cứ hễ ở đâu có chỗ trống (mà đầu em thì lắm chỗ trống lắm!) thì y như rằng nó bò vào rồi ở riệt đó, kiểu như khói len vào qua cửa sổ. Đã một tuần, có khi hai tuần rồi cứ như vậy hoài.

Từ khi sinh ra em đã sống nơi căn nhà trên cái ngõ ấy. Từ nhỏ đến lớn em luôn nhìn sang nhà đối diện. Cửa sổ phòng em nhìn thẳng qua bên ấy. Khi em đến tuổi đi học, bố mẹ em cho em một phòng riêng thì cũng là lúc nhà Miyawaki vừa xây xong nhà mới và đang ở đó. Lúc nào em cũng thấy người này hoặc người kia trong gia đình họ ở trong nhà hay ngoài sân, hàng đống quần áo phơi sau nhà những hôm trời nắng, hai cô con gái quát gọi tên con chó chăn cừu gốc Đức to đùng, đen thủi đen thui (tên là gì ấy nhỉ?). Còn mỗi khi mặt trời lặn, đèn trong nhà bật lên, trông thật ấm cúng thân tình, rồi sau đó tất cả đèn tắt cùng một lúc. Cô con gái lớn học dương cầm, cô nhỏ thì vĩ cầm (cô chị lớn hơn em, cô em thì nhỏ hơn em). Vào những dịp sinh nhật hay Giáng sinh, họ mở tiệc, bạn bè nườm nượp đến, thật là vui. Ai mà chỉ nhìn thấy căn nhà đó khi đã bị bỏ hoang thì không hình dung được ngày xưa nó thế nào đâu.

Em thường thấy ông Miyawaki tỉa cây ngoài vườn vào những ngày cuối tuần. Hình như ông ấy thích tự làm lấy đủ thứ việc vặt, những việc tốn nhiều thời gian, như dọn ống máng, dắt chó đi dạo hay bôi sáp lên ô-tô. Em chả bao giờ hiểu được tại sao có người thích làm những việc như vậy, mệt lắm, nhưng mỗi người một khác, và gia đình nào cũng nên có ít nhất một người như vậy. Cả gia đình hay đi trượt tuyết, thành thử mỗi mùa đông đến họ lại buộc mấy đôi giày trượt tuyết lên mái chiếc ô-tô to rồi lái đi đâu đó, xem chừng thích thú lắm (em thì ghét trượt tuyết, nhưng chẳng sao).

Thành thử nhà ấy nghe như một gia đình tiêu biểu, bình thường, hạnh phúc. Mà không phải chỉ nghe như, sự thực là vậy: họ đúng là một gia đình tiêu biểu, bình thường, hạnh phúc. Ở họ hoàn toàn chẳng có gì khiến người ta phải nhướn mày lên mà hỏi: Ừ thì bình thường hạnh phúc, rồi thì sao?

Hàng xóm người ta hay xì xầm: "Cái nhà gở ấy, có cho tôi cũng không ở", thế nhưng gia đình Miyawaki sống ở đó thật bình an, cứ như một bức tranh đóng khung không có lấy một hạt bụi. Chả khác gì các gia đình trong truyện cổ tích, "và họ sống bên nhau đời đời hạnh phúc". Ít nhất là so với gia đình em, họ dường như hạnh phúc hơn gấp mười lần. Hai cô con gái nhà ấy cũng thật là dễ mến mỗi khi gặp em. Em cứ ước gì mình có chị em gái như họ. Cả nhà họ - cả con chó nữa - dường như lúc nào cũng cười.

Không bao giờ em có thể hình dung rồi sẽ có ngày chỉ trong nháy mắt là toàn bộ cái thế giới ấy tiêu tan. Nhưng chuyện đó đã xảy ra. Một hôm em nhận ra rằng cả gia đình - kể cả con chó chăn cừu giống Đức - đã biến mất như bị một cơn gió thổi phăng đi, chỉ còn trơ lại căn nhà. Suốt mấy hôm - có khi cả tuần không chừng - hàng xóm chẳng ai nhận ra rằng gia đình Miyawaki đã biến mất. Em thấy lạ rằng ban đêm đèn không bật sáng, nhưng em chỉ nghĩ là họ đang đi chơi xa. Rồi mẹ em nghe người ta nói nhà Miyawaki hình như đã "đào tẩu". Em nhớ mình đã hỏi mẹ từ đó nghĩa là gì. Ngày nay ta chỉ nói là "bỏ trốn", chắc vậy.

Gọi thế nào cũng được, nhưng khi những người vẫn sống ở đó đã biến đi đâu mất thì bộ dạng căn nhà cũng thay đổi hẳn, nó gần như ghê ghê, gở gở. Trước đó em chưa hề thấy căn nhà bỏ hoang nào nên không biết một căn nhà bỏ hoang thực sự thì trông ra sao, nhưng em chắc là nó phải có vẻ u sầu, tồi tội thế nào đó, như con chó bị bỏ rơi hay cái vỏ con ve sầu trút ra bỏ lại ấy. Nhưng cái nhà của gia đình Miyawaki thì hoàn toàn khác. Nó chẳng hề có vẻ "tồi tội" chút nào hết. Ngay khi gia đình Miyawaki đi khỏi, nó liền khoác ngay cái bản mặt tỉnh bơ kiểu "Tôi chưa hề biết Miyawaki là ai". Ít nhất là em có cảm tưởng vậy. Nó cứ như một con chó ngu xuẩn, vô ơn. Ngay khi nhà kia đi khỏi, nó lập tức biến thành một thứ nhà hoang tự thân tự tại, chẳng có liên quan gì đến hạnh phúc của gia đình Miyawaki cả. Thật sự nó làm em phát điên! Em thì cứ nghĩ căn nhà lẽ ra cũng phải hạnh phúc như cả gia đình Miyawaki hồi họ còn sống ở đó. Căn nhà hẳn phải vui khi được gia đình ấy lau chùi, chăm bẵm thế kia, và nói cho cùng, nếu như ông Miyawaki không tử tế xây nó lên thì nó đã không hề tồn tại. Anh có đồng ý không? Không thể nào đi tin cậy một căn nhà.

Chim vặn dây cót à, anh cũng biết chẳng kém gì em rằng từ đó trở đi căn nhà bị bỏ hoang, chẳng ai ở, đâu cũng toàn cứt chim với những gì gì nữa. Đã bao nhiêu năm, ngồi ở bàn để học bài - hay giả bộ học bài - nhìn ra cửa sổ, em chẳng có gì để xem ngoài cái nhà ấy. Trời quang hay trời mưa, tuyết rơi hay vào mùa giông bão, nó vẫn ở nguyên đó, ngoài cửa sổ nhà em, mỗi khi nhìn ra ngoài thì kiểu gì cũng phải thấy nó. Mà cũng lạ, năm này qua năm khác, em dần dần thôi không cố lờ nó đi nữa. Em có thể ngồi hàng giờ, cùi chỏ chống lên bàn, chẳng làm gì khác, chỉ nhìn đăm đăm căn nhà hoang. Thật sự là em rất hay làm vậy. Lạ thật, chỉ mới đây thôi nơi này còn tràn ngập tiếng cười, quần áo mới giặt trắng tinh bay phấp phới trong gió như một đoạn phim quảng cáo bột giặt (em không nói là bà Miyawaki hơi "bất thường" hay gì gì, nhưng quả thật bà ấy cực kỳ thích giặt giũ, hơn hầu hết người bình thường). Thế mà tất cả biến mất chỉ trong nháy mắt, sân vườn lút trong cỏ dại, không ai còn nhớ tới những ngày hạnh phúc của gia đình Miyawaki nữa. Với em điều đó thật lạ, lạ quá chừng!

Có điều này em muốn nói ngay: em không phải là thân với gia đình Miyawaki lắm. Thật ra, có mấy khi em nói chuyện với họ đâu, trừ lúc gặp nhau ngoài phố thì "Chào" một tiếng rồi đường ai nấy đi. Nhưng bởi ngày nào em cũng dành bao nhiêu thời gian công sức quan sát họ từ cửa sổ nhà em nên em có cảm tưởng cuộc sống hạnh phúc của họ cũng là một phần của bản thân em. Cũng như trên bức ảnh gia đình vậy, ở một góc bao giờ mình cũng thoáng thấy một người chẳng có liên quan gì với những người trong ảnh cả. Vì vậy đôi khi em có cảm giác một phần của mình cũng đang "đào tẩu" cùng gia đình Miyawaki và đã biến mất. Cũng lạ phải không anh, khi cứ cảm thấy một phần của mình đã biến mất vì "đào tẩu" cùng những người mình hầu như không quen biết!

Đã kể với anh một chuyện lạ rồi thì em cũng có thể kể thêm một chuyện lạ nữa. Cái này mới thực là lạ đây.

Gần đây, đôi khi em có cảm giác mình đã biến thành Kumiko. Em thật sự là bà Chim vặn dây cót, em đã bỏ anh mà đi vì lý do nào đó và hiện nay đang náu mình trên vùng núi, làm việc trong một xưởng chế tóc giả. Vì đủ loại lí do phức tạp, em buộc phải dùng cái bí danh "Kasahara May" và vờ như mình không phải là Kumiko. Còn anh cứ ngồi mãi ở cái hàng hiên nhỏ buồn thiu kia mà đợi em trở về. Em không biết... em cảm thấy thế thôi.

Nói em nghe này Chim vặn dây cót, có khi nào anh bị mấy ảo giác kiểu ấy nó ám ảnh chưa? Không phải nói khoác đâu, em thì có. Lúc nào cũng có, thỉnh thoảng, những khi ảo giác quá nặng thì em suốt ngày làm việc mà cứ như đang đi trong sương mù. Dĩ nhiên, công việc chỉ có mấy động tác đơn giản nên em làm thì vẫn cứ làm, không bị ảnh hưởng gì, nhưng đôi khi các cô khác nhìn em có vẻ là lạ. Hay là em đang nói to lên một mình điều gì đó chăng. Em không thích thế, nhưng nó cũng chẳng hại gì để phải cố bỏ. Mỗi khi ảo giác muốn đến là nó đến, như là kinh nguyệt vậy. Mình đâu có thể ra gặp nó ngoài cửa mà nói: "Xin lỗi nhé, hôm nay tôi bận. Khi khác nhé". Dù sao, nếu đôi khi em giả vờ là Kumiko thì anh không giận chứ hở Chim vặn dây cót? Em không cố ý làm vậy đâu mà.

Chao ôi, em mệt quá là mệt. Em đi ngủ chừng ba bốn tiếng đây, ngủ tít thò lò ấy, rồi lại dậy mà làm miết từ sáng đến tối. Em sẽ lại dành suốt một ngày vừa làm tóc giả với các cô gái khác vừa nghe mấy bản nhạc vô hại. Đừng lo cho em. Dù trong cơn ảo giác em vẫn cứ làm việc ngon lành. Và bằng cách riêng của em, em cầu nguyện cho anh, mong rằng mọi điều sẽ tốt đẹp với anh, rằng Kumiko sẽ trở về và anh chị sẽ lại sống với nhau hạnh phúc, bình an như trước.

Tạm biệt.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

93#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 22:57:38 | Chỉ xem của tác giả

Chương 29
Một căn nhà hoang mới ra đời


Sáng hôm sau, đã 9 giờ sáng, rồi 10 giờ, vẫn không thấy Quế đâu. Chuyện này trước đây chưa hề có. Anh ta chẳng bao giờ bỏ sót ngày nào kể từ khi tôi "làm việc" ở chỗ này. Sáng nào cũng vậy, đúng 9 giờ, cổng sẽ mở và ánh loang loáng của mũi trước chiếc Mercedes sẽ hiện ra. Sự xuất hiện đều đều thường nhật song cũng có gì hơi kịch đó của Quế lại là mốc đánh dấu khởi đầu mỗi ngày mới đối với tôi. Tôi đã quen với cái thủ tục hàng ngày đó, kiểu như người ta quen với trọng lực hay áp suất không khí. Trong cái nhịp đều đặn không chạy sai của Quế có gì đó nhiều hơn chứ không chỉ là sự chính xác máy móc, có cái gì đó an ủi, khích lệ và sưởi ấm tôi. Chính vì vậy một buổi sáng không có Quế cũng như bức tranh phong cảnh vẽ khéo nhưng không có một tiêu điểm.

Tôi đành thôi không đợi Quế nữa. Tôi rời khỏi cửa sổ đi gọt một quả táo để ăn sáng. Đoạn tôi ghé vào phòng làm việc của Quế nhìn xem liệu có thông điệp nào trên máy tính không, nhưng màn hình vẫn câm lặng. Tôi chẳng biết làm gì khác ngoài noi gương Quế, vừa nghe một đĩa nhạc Baroque vừa quét dọn, hút bụi sàn nhà, chùi cửa sổ. Để giết thì giờ, tôi làm mọi việc thật chậm rãi, thật cẩn trọng, đến nỗi lau cả từng cánh của cái quạt thông gió dưới bếp. Nhưng thời gian vẫn ì ạch trôi.

Đến 11 giờ thì tôi chẳng còn gì làm nữa, thế là tôi nằm dài trên chiếc sofa trong "phòng chỉnh lý", buông mình theo dòng thời gian uể oải. Tôi cố tự bảo mình rằng Quế đến muộn chỉ vì lí do vặt vãnh nào đó. Có thể xe bị hỏng, hoặc anh ta bị kẹt xe. Nhưng tôi biết không thể có chuyện ấy. Cược bao nhiêu tôi cũng chịu. Xe của Quế không bao giờ hỏng, và mỗi khi ra khỏi nhà anh ta luôn tính toán xem đi đường nào không bị kẹt xe. Thêm nữa, trên xe có điện thoại, thành thử nếu có chuyện gì bất trắc anh ta sẽ gọi cho tôi ngay. Không, Quế không đến đây vì anh ta đã quyết định không đến.

° ° °


Khoảng gần 1 giờ trưa tôi thử gọi điện đến văn phòng của Akasaka Nhục đậu khấu, nhưng không ai trả lời. Tôi thử gọi lại, gọi lại nữa..., vẫn thế. Rồi tôi thử gọi văn phòng của Ushikawa, nhưng chỉ nhận được thông điệp rằng số điện thoại này đã bị ngắt. Lạ thật. Mới cách đây hai ngày tôi còn gọi vào số này cho y. Tôi đành chịu thua, lại quay về chiếc sofa trong "phòng chỉnh lý". Trong hai ngày qua, cứ như thể tất cả mọi người đã cùng thông đồng cắt đứt liên lạc với tôi.

Tôi lại ra chỗ cửa sổ ghé nhìn qua bức rèm. Hai con chim mùa đông bé nhỏ trông hoạt bát bay đến đậu trên một cành cây trong vườn, tròn mắt nhìn quanh. Rồi, như bỗng dưng chán ngấy những gì nhìn thấy ở đây, chúng vụt bay mất. Ngoài ra, dường như không một cái gì khác chuyển động. Có cảm giác như cái Dinh này là một căn nhà vừa bị bỏ hoang.

° ° °


Suốt năm ngày sau tôi không trở lại căn nhà đó. Chẳng hiểu vì sao, tôi như không còn muốn chui xuống giếng chút nào nữa. Chẳng bao lâu sau tôi sẽ mất ngay bản thân cái giếng. Nếu khách hàng không đến nữa thì tôi chỉ còn đủ tiền để nán lại Dinh này thêm tối đa hai tháng, nên tôi sẽ phải sử dụng cái giếng này càng nhiều càng tốt chừng nào nó vẫn còn là của tôi. Tôi thấy ngạt thở. Đột nhiên cái nơi này trở nên sai lạc, phi tự nhiên.

Tôi lang thang vơ vẩn đây đó mà không đến chỗ Dinh. Chiều chiều tôi lại đến quảng trường ở cổng phía Tây, ngồi trên băng ghế quen thuộc, ngồi đó chẳng làm gì, chỉ để giết thời giờ. Nhưng Nhục đậu khấu không xuất hiện. Có lần tôi đến chỗ văn phòng của bà ở khu Akasaka, nhấn chuông trong buồng thang máy rồi nhìn chằm chằm vào ống kính camera, nhưng không có tiếng trả lời. Thôi, thế là không mong gì nữa. Rõ ràng Nhục đậu khấu và Quế đã quyết định cắt đứt mọi liên hệ với tôi. Hai mẹ con kỳ lạ này đã từ bỏ con tàu đắm để đến nơi an toàn hơn. Tôi không ngờ điều đó lại khiến lòng tôi buồn da diết đến vậy. Tôi cảm thấy như rốt cuộc đã bị chính gia đình mình phản bội.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

94#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:06:14 | Chỉ xem của tác giả


Chương 30
Cái đuôi của Kano Malta

Boris Lột da


Trong mơ (dù tôi không biết đó là mơ), tôi ngồi uống trà với Kano Malta, mỗi người một bên bàn. Căn phòng hình chữ nhật quá dài và quá rộng đến nỗi ngồi đầu này không thấy đầu kia. Xếp ngay hàng thẳng lối trong phòng là hàng trăm cái bàn vuông - khoảng năm trăm cái, có khi nhiều hơn. Hai chúng tôi ngồi ở một trong những cái bàn ở giữa, ngoài ra không còn ai khác. Dọc suốt trên trần nhà cao vút như trong một ngôi chùa Phật giáo chạy dài vô số những xà gỗ dày nặng, khắp các dầm gỗ đó treo lủng lẳng cái gì hình như là những loại cây trồng trong chậu, nom như những bộ tóc giả. Nhìn kỹ, tôi nhận ra đó là những mảng da đầu người còn nguyên tóc. Nhìn thấy máu đen sịt bên dưới chúng tôi mới biết. Những mảng da này người ta chỉ mới lột ra xong, đem treo trên xà nhà cho khô. Tôi sợ những giọt máu vẫn còn tươi có thể rỏ vào trà. Máu vẫn còn rỏ tong tong quanh chúng tôi như những giọt mưa, tiếng tí tách vang vọng khắp căn phòng mênh mông hun hút nghe to khác thường. Chỉ những mảng da đầu ngay trên bàn chúng tôi xem ra đã đủ khô để không phải sợ có giọt nào rỏ xuống.

Trà nóng rẫy như nước sôi. Đặt bên thìa uống trà trong đĩa đựng tách của mỗi chúng tôi là ba thỏi đường màu xanh lơ tươi. Kano Malta thả hai thỏi vào tách trà của mình rồi khuấy, nhưng đường không tan. Một con chó chẳng hiểu từ đâu ló ra, ngồi xuống cạnh bàn chúng tôi. Bộ mặt nó là mặt của Ushikawa. Thân thì thân chó, to đùng, chắc nịch, đen trũi, nhưng từ cổ trở lên là Ushikawa, chỉ có điều lớp lông đen bù xù phủ khắp mình kia cũng mọc cả trên mặt và đầu. "Xin chào, xin chào, ông Okada phải không?" - Ushikawa trong bộ dạng chó nói. - "Ông nhìn xem này: cả một cái đầu toàn là lông, ngay khi tôi biến thành chó là mọc ngay tức thì. Giờ hai hòn dái của tôi to hơn, bao tử lại không đau nữa. Lại còn không phải đeo kính! Không phải quần áo gì sất! Vui cha chả là vui! Làm sao mà trước đây tôi không nghĩ tới chuyện này nhỉ? Lẽ ra tôi phải thành chó từ lâu rồi mới đúng. Còn ông Okada thì sao? Sao ông không thử xem?".

Kano Malta nhặt thỏi đường xanh lơ còn lại ném con chó. Thỏi đường đập vào trán Ushikawa, máu đen như mực chảy từ vết thương xuống đầy mặt y. Nhưng dường như Ushikawa chẳng đau gì cả. Vẫn cười toe toét, con chó dựng đuôi lên, chẳng nói chẳng rằng chạy mất. Thật vậy: cặp tinh hoàn của y to khủng khiếp.

Kano Malta mặc áo choàng kiểu áo mưa có thắt lưng. Hai vạt áo khép chặt ở phía trước, nhưng qua mùi hương tinh tế của da thịt đàn bà tôi biết cô ta hoàn toàn không mặc gì ở bên trong. Dĩ nhiên, cô ta vẫn đội chiếc mũ bằng vải vinyl màu đỏ. Tôi nâng tách lên nhấp một ngụm trà, nhưng trà chẳng có vị gì. Chỉ nóng mà thôi, không gì hơn.

- Tôi rất mừng là ông đã tới, - Kano Malta nói, giọng có vẻ nhẹ nhõm thật tình. Đã lâu không nghe giọng cô, tôi cảm thấy nó như có phần vui vẻ hơn trước. - Tôi gọi cho ông suốt mấy ngày song hình như ông đi ra ngoài. Tôi đã bắt đầu lo nhỡ có chuyện gì xảy ra cho ông. Nhờ trời, ông vẫn bình an. Thật nhẹ cả người khi nghe thấy giọng ông! Dù sao đi nữa, tôi phải xin lỗi đã vắng mặt lâu đến như vậy. Tôi không thể kể chi tiết tất cả những gì đã xảy ra với tôi trong thời gian đó, nhất là trên điện thoại thế này, nên tôi sẽ chỉ tóm tắt những điểm quan trọng. Cái chính là thời gian qua tôi đi đây đi đó suốt. Tôi vừa về cách đây một tuần. Alô! Ông Okada! Ông có nghe tôi nói không?

- Có, tôi đang nghe cô đây, - tôi đáp, chỉ khi đó tôi mới nhận ra mình đang áp ống nghe điện thoại lên tai. Ở đầu bàn bên kia, Kano Malta cũng cầm ống nghe. Giọng cô ta nghe như trong cuộc gọi từ nước ngoài mà kết nối không tốt lắm.

- Suốt thời gian qua tôi không ở Nhật mà ở đảo Malta trên Địa Trung Hải. Một ngày nọ bỗng nhiên tôi tự nhủ: "Ừ phải! Mình phải quay lại Malta, đem thân mình đến bên nguồn nước của Malta. Đã đến lúc rồi!". Chuyện đó xảy ra ngay sau khi tôi nói chuyện với ông, ông Okada ạ. Ông có nhớ lần nói chuyện đó không? Lúc đó tôi đang tìm Creta. Thật ra tôi không định đi lâu đến như vậy. Tôi cứ nghĩ đi chừng hai tuần thôi. Vì vậy tôi mới không liên lạc với ông. Hầu như tôi không nói với ai rằng mình sắp đi, cứ thế lên máy bay, hầu như chẳng mang theo gì ngoài bộ đồ trên người. Tuy nhiên, khi đến nơi, tôi thấy mình không thể ra đi được. Ông Okada đã bao giờ đến Malta chưa?

Tôi đáp là không mà nhớ rằng đã nói chuyện này với cô ta từ mấy năm trước rồi.

- Alô? Ông Okada?

- Vâng, tôi đây.

Hình như tôi đã định nói gì đó với Kano Malta nhưng không nhớ ra được cái gì. Vắt óc một hồi thì tôi chợt nhớ ra. Tôi chuyển ống nghe sang tai kia rồi nói:

- À đúng rồi, có chuyện này tôi đã định nói với cô từ lâu: con mèo đã về.

Malta im lặng chừng bốn năm giây rồi mới nói:

- Con mèo đã về à?

- Phải. Cô và tôi quen nhau trước hết là do chuyện tìm mèo, thành thử tôi nghĩ việc này thì phải cho cô biết.

- Con mèo trở về khi nào?

- Hồi đầu xuân năm nay, từ đó đến giờ nó vẫn ở với tôi.

- Bề ngoài nó có gì thay đổi không? Có gì khác so với trước khi nó bỏ đi không?

- Thay đổi á? Nghĩ kỹ thì tôi thấy dường như hình dáng cái đuôi có hơi khác, - tôi nói. - Khi vuốt đuôi nó đúng hôm nó về, tôi thấy cái đuôi dường như quặp hơn trước. Tuy nhiên, cũng có thể tôi lầm... Dù gì nó cũng bỏ nhà đi gần một năm trời kia mà.

- Ông tin chắc đúng là con mèo đó chứ?

- Hoàn toàn chắc. Tôi nuôi nó từ lâu lắm rồi. Đúng là nó hay không thì tôi phải biết chứ.

- Tôi hiểu, - Kano Malta nói. - Tuy vậy, chả giấu gì ông, tôi có cái đuôi thật của con mèo đây.

Kano Malta đặt ống nghe xuống bàn rồi đứng dậy cởi phắt áo choàng ra. Đúng như tôi đã ngờ, ở bên trong cô ta hoàn toàn không mặc gì. Kính thước cặp vú và hình dáng âm mao của cô ta rất giống của Kano Creta. Chiếc mũ bằng vải vinyl màu đỏ thì cô không bỏ ra. Cô quay lại chìa lưng cho tôi xem. Thật vậy, gắn vào cặp mông cô ta là một cái đuôi mèo. Cái đuôi lớn hơn nhiều so với đuôi mèo thường - để tương xứng với kích thước của thân hình Malta, nhưng hình dáng thì rõ ràng là đuôi của Cá thu. Nó cũng quặp ngay ở chóp đuôi, nhưng cái chỗ quặp này so với của Cá thu thì giống hơn nhiều.

- Xin ông hãy nhìn kỹ, - Kano Malta nói. - Đây là đuôi thật của con mèo đã bỏ nhà đi. Còn cái đuôi của nó bây giờ là đuôi giả. Trông thì giống, nhưng nếu kiểm tra kỹ, ông sẽ thấy ngay là khác.

Tôi chìa tay ra định sờ cái đuôi, nhưng cô ta đã lôi phắt nó khỏi tay tôi. Thế rồi, vẫn trần truồng, cô ta nhảy lên một trong những cái bàn. Một giọt máu từ trên trần rỏ xuống lòng bàn tay đang chìa ra của tôi. Nó cũng đỏ thắm như chiếc mũ bằng vải vinyl của Kano Malta.

- Ông Okada à, con của Kano Creta tên là Corsica, - Kano Malta đứng trên bàn, vừa vẫy tít đuôi vừa nói.

- Corsica?

- Không ai là một hòn đảo giữa biển khơi... Ấy Corsica, - giọng của con chó mực Ushikawa chẳng hiểu từ đâu vẳng tới.

- Con của Kano Creta?

Tôi thức dậy, mồ hôi đầm đìa như tắm.

° ° °

Đã lâu lắm tôi không gặp giấc mơ nào vừa dài vừa sống động và nhất quán như vậy. Lại kỳ lạ nữa. Thức giấc hồi lâu rồi mà tim tôi vẫn đập thình thịch. Tôi đi tắm nước nóng rồi thay bộ pijama mới. Mới sau 1 giờ sáng một chút nhưng tôi không buồn ngủ nữa. Để trấn tĩnh, tôi lấy từ trong chạn bếp ra một chai brandy cũ, rót một cốc uống cạn.

Đoạn tôi vào phòng ngủ tìm Cá thu. Con mèo đang cuộc tròn dưới chăn, ngủ như chết. Tôi khẽ kéo tấm chăn ra, cầm cái đuôi con mèo trong tay, nghiên cứu hình dạng của nó. Tôi miết ngón tay dọc theo cái đuôi, đang cố nhớ lại chính xác cái góc quặp của nó trước kia thì con mèo duỗi mình tỏ vẻ bực bội rồi lại ngủ. Giờ thì tôi không còn dám chắc đây đúng là cái đuôi mà con mèo từng có hồi nó còn mang tên Wataya Noboru. Không hiểu sao cái đuôi đằng sau mông Kano Malta dường như lại giống cái đuôi thật của mèo Wataya Noboru hơn nhiều. Hình dáng và mầu sắc của cái đuôi đó trong giấc mơ, tôi vẫn nhớ như in.

Con của Kano Creta tên là Corsica, Kano Malta đã nói vậy trong giấc mơ của tôi.

Vnutrennikh Del, tạm dịch là Bộ Dân ủy Nội vụ - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

95#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:09:48 | Chỉ xem của tác giả


Ngày hôm sau tôi không đi đâu xa khỏi nhà. Buổi sáng, tôi mua thức ăn ở siêu thị cạnh nhà ga rồi làm bữa trưa. Tôi cho con mèo mấy con cá sardine lớn còn tươi. Buổi chiều tôi đi bơi ở hồ bơi gần nhà. Người đi bơi không đông, hẳn thiên hạ còn bận chuẩn bị đón Năm mới. Loa trên trần phát nhạc Giáng sinh. Tôi thong thả bơi được khoảng nghìn mét thì bị chuột rút ở chân, liền thôi. Bức tường trông ra hồ bơi treo một món đồ trang trí Giáng sinh to.

Về nhà, tôi ngạc nhiên thấy có thư gửi cho mình, một bức thư dày. Không nhìn địa chỉ người gửi, tôi đã biết đó là ai. Người duy nhất viết thư cho tôi bằng những con chữ viết tay nắn nót tuyệt đẹp đó chỉ có thể là trung úy Mamiya.

Đầu thư, ông hết lời xin lỗi về việc đã im hơi lặng tiếng quá lâu kể từ bức thư lần trước. Ông dùng những cách diễn đạt cực kỳ lễ phép đến nỗi tôi hầu như cảm thấy chính mình mới là người phải xin lỗi.

Lâu nay tôi vẫn muốn kể cho ông một phần khác trong câu chuyện của tôi, hàng mấy tháng trời tôi cứ định sẽ viết thư cho ông, nhưng có nhiều việc xảy ra khiến tôi không thể ngồi vào bàn cầm lấy bút. Nay, ngoảnh đi ngoảnh lại thấm thoắt đã gần hết năm. Thế mà tôi ngày một già hơn, chẳng biết chết khi nào. Tôi không thể nấn ná việc ấy mãi. E rằng thư này dài, mong rằng không quá dài đối với ông, thưa ông Okada.

Khi đưa kỷ vật của ông Honda cho ông hồi mùa hè năm ngoái, tôi đã kể cho ông nghe một câu chuyện dài về thời gian tôi ở Mông Cổ, nhưng thật ra chuyện còn nhiều nữa, còn có "phần tiếp theo", có thể nói vậy. Có một vài lí do vì sao tôi không kể luôn phần đó cho ông hồi năm ngoái. Trước tiên, nếu kể hết ra thì sẽ quá dài. Ông chắc còn nhớ, khi đó tôi có vài việc gấp nên không có thì giờ kể hết mọi chuyện với ông. Nhưng có lẽ quan trọng hơn là lúc đó tôi vẫn chưa sẵn sàng về mặt cảm xúc để kể hết phần còn lại của câu chuyện cho bất cứ ai, để kể lại câu chuyện một cách trọn vẹn và trung thực.

Tuy nhiên, sau khi rời khỏi nhà ông, tôi nhận ra rằng lẽ ra không nên để những vấn đề thực tế trước mắt ngăn cản tôi. Lẽ ra tôi phải kể cho ông đến cuối cùng, không che dấu.

Tôi bị dính một viên đạn súng máy trong trận đánh ác liệt vào ngày 13 tháng Tám năm 1945 ở vùng ngoại ô Hailar, và trong khi nằm trên mặt đất, bánh xích một chiếc tăng T34 của Liên Xô đã đè nát bàn tay trái tôi. Họ chuyển tôi lúc đó đã mê man bất tỉnh đến quân y viện Xô Viết ở Chita, ở đó các bác sĩ phẫu thuật đã cứu sống tôi. Như tôi đã nói trước đây, tôi được điều động vào cục Bản đồ quân sự thuộc Bộ tổng tư lệnh quân đội Quan Đông tại Tân Kinh, đơn vị này được chỉ thị ngay khi Liên Xô tuyên chiến với Nhật thì phải lập tức lui về hậu phương. Tuy nhiên, vì đã quyết chết, tôi xin được chuyển sang đơn vị ở Hailar gần biên giới, phơi mình trước pháo, mìn trong tay xông lên tấn công xe tăng Xô Viết. Tuy nhiên, như ông Honda đã tiên đoán lúc ở trên bờ sông Khalkha, tôi không thể chết dễ dàng như vậy. Tôi đã mất một bàn tay nhưng mất mạng thì không. Tất cả những người dưới quyền tôi lúc đó hẳn đều chết. Có thể chúng tôi chỉ làm theo mệnh lệnh, nhưng đó là một cuộc tấn công ngu xuẩn, tự sát. Những quả mìn cầm tay nhỏ xíu của chúng tôi chẳng làm gì nổi một chiếc T34 to lớn.

Lí do duy nhất để người Liên Xô cứu chữa tôi là khi nằm bất tỉnh tôi đã nói điều gì đó bằng tiếng Nga. Đó là về sau họ bảo tôi vậy. Như tôi có kể với ông, tôi đã học tiếng Nga căn bản. Công việc ở sở chỉ huy tại Tân Kinh cho tôi rất nhiều thời gian rảnh, thế là tôi tận dụng thời gian đó để nâng cao trình độ tiếng Nga. Tôi học rất chăm chỉ, nên tới khi chiến tranh sắp kết thúc thì tôi đã có thể nói tiếng Nga lưu loát. Ở Tân Kinh có nhiều người Bạch Nga sinh sống, tôi lại có quen biết vài cô hầu bàn người Nga, thành thử tôi chẳng bao giờ thiếu dịp thực tập. Hẳn là khi bất tỉnh, tôi đã buột miệng tuôn tiếng Nga ra một cách hoàn toàn tự nhiên.

Quân đội Xô Viết ngay từ đầu đã có kế hoạch đưa về Siberia bất cứ tù binh nào bắt được ở Mãn Châu để cưỡng bức lao động, cũng như họ đã làm với tù binh Đức sau khi chiến tranh kết thúc ở Châu Âu. Người Liên Xô có thể là phe thắng trận, nhưng chiến tranh kéo dài đã khiến nền kinh tế của họ lâm vào khủng hoảng sâu sắc: đâu đâu cũng gặp tình trạng thiếu nhân công. Dùng tù nhân để bù đắp cho sự thiếu hụt nhân lực nam giới trưởng thành được họ coi là nhiệm vụ ưu tiên. Muốn vậy họ cần có thông dịch, mà số lượng thông dịch thì cực kỳ ít ỏi. Khi thấy tôi hình như nói được tiếng Nga, họ liền đưa tôi đến quân y viện ở Chita thay vì để mặc tôi chết. Giá tôi không lắp bắp điều gì đó bằng tiếng Nga thì chắc người ta đã để mặc tôi nằm chết trên bờ sông Hailar rồi. Người ta sẽ chôn tôi vào một nấm mồ không mộ chí, và thế là hết. Số mệnh thật lạ lùng làm sao!

Sau đó người ta tiến hành điều tra gắt gao nhân thân tôi và giáo dục tư tưởng tôi trong vòng mấy tháng rồi đưa tôi đến một mỏ than ở Siberia để làm thông dịch viên. Tôi sẽ bỏ qua các chi tiết về thời kỳ đó, duy về việc giáo dục tư tưởng thì xin được nói điều này. Từ hồi sinh viên trước chiến tranh, tôi đã đọc một vài cuốn sách bị cấm của Marx, cố giấu không cho cảnh sát thấy. Tôi không hẳn là hoàn toàn có ác cảm với chủ nghĩa cộng sản, chỉ có điều tôi đã thấy quá nhiều chuyện nên không thể nào nuốt trôi cái chủ nghĩa đó được. Nhờ công việc của nhóm chúng tôi có quan hệ với bên tình báo nên tôi biết rất rõ Stalin và các chế độ độc tài bù nhìn do ông ta dựng nên đã có những hành vi tàn bạo như thế nào ở Mông Cổ. Ngay sau Cách mạng, hàng vạn nhà tu hành, địa chủ và những người chống đối chế độ đã bị đưa vào trại tập trung, ở đó họ bị sát hại một cách tàn bạo. Chuyện như vậy cũng xảy ra ngay tại Liên Xô. Thậm chí dù tôi có thể tin ở ý thức hệ cộng sản, tôi vẫn không thể nào tin ở những con người hay cái hệ thống đang đảm nhận việc biến cải ý thức hệ và các nguyên lý đó thành thực tế. Tôi cũng cảm thấy vậy đối với những gì người Nhật chúng ta đã làm ở Mãn Châu. Tôi tin chắc ông không thể nào hình dung có bao nhiêu công nhân Trung Hoa đã bị giết trong quá trình xây dựng căn cứ bí mật ở Hailar, giết để bịt miệng họ, để giữ bí mật cho kế hoạch xây dựng căn cứ.

Ngoài ra tôi đã chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp khi viên sĩ quan Nga cùng các tay chân người Mông Cổ của y lột da một người sống. Tôi đã bị ném xuống một cái giếng ở Mông Cổ, và trong cái ánh sáng kỳ lạ, mãnh liệt đó tôi đã mất hết niềm ham sống. Làm sao một người như tôi có thể tin vào ý thức hệ và chính trị được?

Tôi làm thông dịch, tức làm trung gian liên lạc giữa các tù binh Nhật làm việc tại mỏ với những người Liên Xô giam giữ họ. Tôi không biết ở những trại tập trung Siberia khác thì sao, nhưng ở mỏ than nơi tôi làm việc, ngày nào cũng có người chết: đói ăn, làm quá sức, sập hầm, chết đuối khi hầm bị ngập nước, điều kiện vệ sinh tồi tệ khiến bệnh dịch tràn lan; cái lạnh mùa đông khủng khiếp đến không thể tin được; những cai tù hung hãn, chỉ một kháng cự nhỏ nhất là đàn áp tàn bạo. Có cả những trường hợp người Nhật bị hành hình tập thể (1) bởi chính người Nhật, đồng bào của mình. Trong hoàn cảnh đó, người ta chỉ có thể thù ghét, nghi kỵ nhau, sợ hãi và tuyệt vọng.

Mỗi khi số người chết tăng đến mức lực lượng lao động sụt giảm, người ta lại đưa đến hàng đoàn tàu chật ních những tù binh chiến tranh mới. Họ ăn mặc rách rưới, kiệt quệ vì đói khát, một phần lớn sẽ chết trong vòng vài tuần đầu vì không chịu nổi điều kiện khắc nghiệt ở mỏ. Những người chết bị ném vào các hầm lò bỏ không. Không thể đào hố chôn tất cả được. Đất đóng băng quanh năm, cứng ngắc, xẻng không làm mẻ được. Vì vậy các hầm lò bỏ không là nơi lí tưởng để thanh lí xác chết. Chúng vừa sâu vừa tối, và do khí hậu lạnh nên không bốc mùi. Lâu lâu chúng tôi lại phủ một lớp than lên đống xác. Khi một hầm lò đã đầy xác, người ta lấy đất đá bịt kín lại rồi chuyển sang hầm khác.

Không chỉ người chết mới bị ném xuống hầm lò. Đôi khi cả người sống cũng bị ném xuống, để dạy những người còn lại một bài học. Bất cứ người lính Nhật nào có dấu hiệu phản kháng đều bị lính canh Liên Xô bắt đi, đánh thừa sống thiếu chết, bẻ chân tay rồi ném xuống đáy hố đen kịt. Đến giờ tai tôi vẫn còn nghe những tiếng thét thảm thiết đó. Thật là địa ngục trần gian.

Mỏ này được coi là một cơ sở có tầm quan trọng chiến lược, do các phái viên Trung ương Đảng cử xuống điều hành, được quân đội canh gác vô cùng cẩn mật. Nhân vật cao cấp nhất nghe nói là đồng hương với Stalin, một cán bộ đảng còn trẻ đầy tham vọng, nghiệt ngã và lạnh lùng. Mối quan tâm duy nhất của y là nâng cao sản lượng. Việc tiêu hao nhân lực chẳng là gì đối với y. Chỉ cần sản lượng tăng, Trung ương Đảng sẽ công nhận mỏ của y là gương mẫu và thưởng bằng cách bổ sung nhân lực cho y nhiều hơn nơi khác. Thành thử bao nhiêu nhân công bỏ mạng là lập tức có bấy nhiêu người thay thế. Để tăng sản lượng, y cho phép đào cả những vỉa mà nếu trong hoàn cảnh bình thường thì sẽ bị coi là quá nguy hiểm. Đương nhiên là số tai nạn ngày càng tăng, nhưng y không quan tâm.

Tay giám đốc không phải là kẻ nhẫn tâm duy nhất cai quản cái mỏ này. Hầu hết cai tù trong mỏ vốn là tội phạm, vô giáo dục, hung bạo và tàn độc khủng khiếp. Ở họ hoàn toàn không thấy có chút gì là cảm thông hay tình thương, dường như vì đã sống bao nhiêu năm ở chốn tận cùng trái đất này, họ đã bị cái lạnh tàn nghiệt vùng Siberia biến thành những sinh vật dưới mức người. Phạm tội phải ngồi tù ở Siberia quá lâu, đến khi mãn hạn họ không còn nhà cửa hay gia đình nào để quay về. Họ lấy người địa phương, sinh con đẻ cái và cắm rễ vào mảnh đất Siberia.

Bị đưa đến mỏ làm việc không chỉ có tù binh Nhật. Còn có nhiều tội phạm người Nga nữa, là các tù nhân chính trị và cựu sĩ quan quân đội, nạn nhân các chiến dịch thanh trừng của Stalin. Không ít người trong số đó có giáo dục cao, rất có phẩm cách. Trong số người Nga có rất ít phụ nữ và trẻ em, hẳn là thành viên còn sót lại của gia đình các chính trị phạm. Người ta buộc họ làm những việc như hót rác, giặt giũ, vân vân. Các phụ nữ trẻ thường bị bắt làm điếm. Ngoài người Nga, các đoàn tàu còn chở tới người Ba Lan, người Hungari và những nước khác, một vài trong số đó có màu da sẫm, chắc là người Armenia hay người Kurd. Trại chia làm ba khu: khu lớn nhất giam các tù binh Nhật, khu dành cho các tội phạm và tù binh khác, và khu dành cho những người không phải tội phạm. Sống ở khu này là các thợ mỏ bình thường và chuyên gia về mỏ, các sĩ quan và cai tù, một số người có gia đình, và các công dân Nga bình thường khác. Còn có một đồn lính lớn gần nhà ga. Các tù binh chiến tranh và tù nhân khác bị cấm không được rời khỏi khu dành cho họ. Các khu ngăn cách với nhau bằng hàng rào kẽm gai, luôn có lính đi tuần, mang súng máy.

Là thông dịch có nhiệm vụ liên lạc, tôi phải đến ban tham mưu hàng ngày nên được phép đi từ khu này sang khu kia nhưng phải trình giấy phép. Gần ban tham mưu là ga xe lửa và một cái gọi là thị trấn nhưng chỉ có một con phố duy nhất, hai bên là dăm ba cửa hàng nhếch nhác, một quán bar, một nhà trọ cho các quan chức và sĩ quan cao cấp đi thị sát. Quảng trường thị trấn bốn phía là những máng nước cho ngựa, chính giữa là một lá cờ đỏ lớn của Liên bang Xô Viết treo trên cột cờ. Dưới lá cờ là một chiếc xe bọc thép, có súng máy, tựa mình lên súng bao giờ cũng có một tay lính trẻ vẻ chán ngán, trang bị tận răng. Quân y viện mới xây nằm ở đầu bên kia quảng trường, trước cổng có một bức tượng Iosip Stalin to tướng.

Có một người mà tôi phải kể với ông. Tôi gặp hắn vào mùa xuân năm 1947, có lẽ vào đầu tháng Năm khi tuyết đã tan hẳn. Một năm rưỡi đã trôi qua kể từ khi tôi được đưa đến mỏ. Khi tôi gặp người đó lần đầu tiên, hắn đang mặc một thứ đồng phục người ta phát cho mọi tù nhân người Nga. Hắn đang cùng một nhóm khoảng mười người Nga làm công việc sửa chữa ở nhà ga. Họ dùng búa tạ đập vỡ đá rồi trải các mảnh đá vừa đập lên mặt đường. Tiếng búa nện chát chúa vào đá cứng vang rền khắp nơi. Tôi vừa đi nộp báo cáo lên ban tham mưu về thì đi ngang qua nhà ga. Viên trung sĩ đang chỉ huy công việc chặn tôi lại yêu cầu xuất trình giấy thông hành. Tôi rút trong túi ra đưa cho y. Tay trung sĩ, người to lớn dềnh dàng, nhìn soi mói tờ giấy thông hành hồi lâu với vẻ nghi hoặc, nhưng rõ ràng y không biết đọc. Y gọi một trong các tù nhân đang làm việc trên mặt đường, bảo người này đọc to tờ giấy lên. Người tù này không như những người khác trong nhóm: ông ta mang dáng dấp người có học. Và đó chính là hắn. Khi nhìn thấy hắn, tôi cảm thấy như mặt mình đã kiệt hết máu. Tôi hầu như không thở được. Tôi có cảm giác mình đang chết đuối. Muốn thở mà không thở được.

Người tù có học này không ai khác hơn là viên sĩ quan Nga đã ra lệnh cho đám lính Mông Cổ lột da sống Yamamoto trên bờ sông Khalkha. Nay thì hắn gầy yếu, gần như hói trụi, mất một răng cửa. Thay vì bộ quân phục sĩ quan sạch như lau như li, hắn vận bộ quần áo tù bẩn thỉu, và thay vì đôi bốt sáng choang, hắn mang đôi giày vải thủng lỗ chỗ. Cặp tròng kính hắn trầy sướt, đầy cáu ghét, gọng kính cong vẹo. Thế nhưng không nghi ngờ gì nữa, đó chính là hắn. Không thể nào tôi lại nhận lầm hắn. Còn hắn, hắn cũng nhìn chòng chọc vào tôi, rõ ràng hắn tò mò không hiểu sao tôi lại đứng đực ra nhìn hắn như thế. Cũng như hắn, tôi đã già đi, đã tiều tụy đi nhiều trong chín năm qua. Thậm chí tóc tôi còn có mấy sợi bạc. Nhưng dẫu sao hình như hắn cũng nhận ra tôi. Một nét sửng sốt lộ ra trên mặt hắn. Hẳn là hắn cứ tưởng tôi đã chết rục xương dưới đáy cái giếng nào đó ở Mông Cổ rồi. Còn tôi, dĩ nhiên tôi cũng không thể nào ngờ sẽ lại gặp hắn vận quần áo tù trong một mỏ than ở Siberia.

Chỉ một thoáng sau hắn đã trấn tĩnh lại, điềm nhiên đọc to cho gã trung sĩ cổ đeo súng máy kia nghe nội dung tờ giấy thông hành của tôi: rằng tên tôi là gì, rằng nghề của tôi là thông dịch, rằng tôi được phép đi lại từ khu này sang khu kia, vân vân. Tay trung sĩ trả lại tờ giấy thông hành và hất cằm ra hiệu bảo tôi đi. Tôi bước tới một đoạn thì ngoái đầu lại. Gã đàn ông kia đang nhìn tôi. Dường như hắn thoáng mỉm cười, nhưng có thể ấy chỉ là tôi tưởng tượng ra. Chân tôi run, mãi một lúc tôi không sao đi thẳng được. Cơn ác mộng khủng khiếp tôi từng nếm trải chín năm về trước chỉ trong nháy mắt bỗng sống lại rõ ràng, sống động trước mắt tôi.

Tôi đoán rằng người đó đã bị thất sủng nên mới bị tống vào trại tù Siberia này. Những chuyện như vậy chẳng hiếm ở Liên Xô vào thời ấy. Trong nội bộ chính phủ, đảng và giới quân sự thường xuyên diễn ra những cuộc đấu đá khốc liệt, và Stalin, vốn đa nghi tới mức bệnh hoạn, truy bức những người thua cuộc một cách không thương tiếc. Những người đó bị tước mọi chức vụ, cấp bậc, bị xét xử chiếu lệ ở những phiên tòa cho có, rồi hoặc bị hành hình hoặc bị đưa vào trại tập trung, đường nào tốt hơn thì chỉ có Chúa mới biết. Bởi thoát chết thì cũng chỉ còn nước lao động khổ sai, nghiệt ngã đến không tưởng tượng nổi. Tù binh Nhật chúng tôi ít nhất cũng còn hy vọng được trở về quê hương nếu như sống sót, nhưng đám người Nga bị lưu đày kia không có niềm hy vọng ấy. Cũng như những kẻ khác, người này rồi cũng sẽ chết rục xương trên đất Siberia thôi.

Duy có một điều khiến tôi lo, đó là hắn biết tên tôi, biết tôi ở đâu. Hồi trước chiến tranh tôi đã vô tình tham gia điệp vụ bí mật cùng với tay điệp viên Yamamoto, vượt sông Khalkha vào lãnh thổ Mông Cổ để hoạt động gián điệp. Nếu hắn tiết lộ thông tin này ra thì tôi sẽ rơi vào hoàn cảnh rất bất lợi. Tuy nhiên, hắn đã không tố giác tôi. Mãi về sau tôi mới biết, lúc ấy hắn đã có những kế hoạch lớn hơn nhiều dành cho tôi.

Một tuần sau tôi lại gặp hắn ngoài nhà ga. Hắn vẫn bị xiềng, vẫn mặc bộ quần áo tù dơ dáy đó, đang dùng búa đập đá. Tôi nhìn hắn, hắn nhìn tôi. Hắn đặt búa xuống đất rồi đứng dậy quay về phía tôi, vươn thẳng người cao lớn như khi hắn còn mặc quân phục. Lần này, không nghi ngờ gì nữa trên mặt hắn nở nụ cười, tuy chỉ khẽ nhếch nhưng vẫn là nụ cười, trong nụ cười có một ánh tàn độc khiến tôi lạnh xương sống. Đó chính là vẻ mặt khi hắn quan sát Yamamoto bị lột da sống. Tôi bước ngang qua, không nói gì.

Trong số các sĩ quan ban tham mưu quân đội Xô Viết ở trại có một người tôi chơi thân. Cũng như tôi, ông này là chuyên gia địa lý, học ở đại học tại Leningrad. Hai chúng tôi cùng tuổi, cùng yêu thích công việc vẽ bản đồ, nên thỉnh thoảng chúng tôi lại tìm cớ này cớ nọ để trao đổi về nghề nghiệp. Cá nhân ông ta rất quan tâm đến các bản đồ chiến lược của vùng Mãn Châu mà đội quân Quan Đông đã thực hiện. Dĩ nhiên, chúng tôi không thể nói những chuyện như vậy khi có mặt cấp trên ông ta. Chỉ những khi họ vắng mặt, chúng tôi mới có thể thoải mái bàn đến vấn đề chuyên môn này. Thỉnh thoảng ông ta lại cho tôi đồ ăn hoặc cho tôi xem ảnh vợ con ông đang sống ở Kiev. Ông là người Nga duy nhất mà tôi có thể kết bạn trong suốt thời gian bị giam giữ ở Liên Xô.

Một lần, làm như tình cờ, tôi hỏi ông ta về những người tù làm việc cạnh nhà ga. Tôi thấy trong số đó có một người không giống người tù binh thường, tôi bảo vậy: hình như người đó từng giữ một vị trí quan trọng. Tôi mô tả ngoại hình người đó. Viên sĩ quan - ông ta tên là Nikolai - liền cau mày nói:

- Chắc đó là Boris Lột da. Tốt nhất là anh đừng dính dáng gì đến hắn.

- Tại sao? - Tôi hỏi.

Nikolai có vẻ ngần ngừ không muốn nói thêm, nhưng ông ta biết tôi còn có thể giúp ích cho ông ta, nên ông miễn cưỡng cho tôi biết vì sao "Boris Lột da" lại bị đưa tới mỏ này.

- Đừng nói với ai là tôi kể với anh đấy, - ông cảnh cáo. - Thằng cha đó nguy hiểm lắm. Tôi không đùa đâu. Có cầm sào đứng cách hắn ba thước tôi cũng không dại gì đụng vào hắn.

Nikolai kể như sau. Tên thật của "Boris Lột da" là Boris Gromov. Đúng như tôi nghĩ, hắn từng là thiếu tá trong NKVD (2). Khi Choybalsan chiếm chính quyền tại Mông Cổ và lên làm thủ tướng vào năm 1938, Gromov được cử đến Ulan Bator làm cố vấn quân sự. Tại đó, hắn tổ chức cơ quan cảnh sát mật của Mông Cổ theo mô hình NKVD của Beria và tỏ ra nổi bật trong việc đàn áp các lực lượng phản cách mạng. Bọn họ tổ chức vây ráp bắt người, ném vào trại tập trung, tra tấn, và chỉ cần một chút nghi ngờ là thủ tiêu lập tức.

Ngay khi trận Nomonhan kết thúc và tình hình khủng hoảng tại Viễn Đông tạm yên, Boris được triệu hồi về Mátxcơva và bổ nhiệm sang miền Đông Ba Lan lúc đó do quận đội Xô Viết chiếm đóng, ở đó hắn đảm nhiệm việc thanh trừng quân đội cũ Ba Lan. Chính ở đó hắn đã có biệt danh "Boris Lột da". Hắn có kiểu tra tấn đặc biệt là lột da người sống. Hắn có một bộ hạ chuyên làm việc này, nghe nói đem từ Mông Cổ sang. Khỏi phải nói, người Ba Lan sợ hắn kỳ chết. Bất cứ ai đã tận mắt chứng kiến kẻ khác bị lột da sống đều sẽ khai tuốt tuột không thiếu một cái gì. Khi quân Đức bất ngờ tràn qua biên giới và chiến tranh Xô - Đức nổ ra, hắn rút lui từ Ba Lan về Mátxcơva. Thời đó rất nhiều người bị bắt vì tình nghi cộng tác với Hitler. Họ bị hành quyết hay tống vào trại giam. Ở đây, một lần nữa Boris nổi lên là cánh tay phải của Beria, chuyên sử dụng đòn tra tấn đặc biệt của mình. Stalin và Beria phải bịa ra thuyết nội gián nhắm lấp liếm trách nhiệm của chính họ là đã không tiên đoán được cuộc tấn công bất ngờ của phát xít Đức và cũng nhằm củng cố quyền lãnh đạo của họ. Nhiều người đã chết chẳng vì bất cứ cái gì trong những cuộc điều tra tàn bạo. Nghe nói Boris và thuộc hạ của hắn đã lột da ít nhất năm người, lại có lời đồn đại rằng hắn rất kiêu hãnh trưng những tấm da người kia lên khắp các bức tường phòng làm việc của mình.

Boris tàn bạo là thế nhưng cũng là người cực kỳ cẩn trọng, chính vì vậy hắn mới sống sót sau bao nhiêu âm mưu và cuộc thanh trừng. Beria yêu hắn như con. Nhưng có lẽ chính vì vậy hắn quá tự tin mà đi lỡ trớn. Sai lầm ấy quả thật là sai lầm chí mạng. Hắn bắt giam chỉ huy một tiểu đoàn thiết giáp do tình nghi người này đã bí mật liên lạc với một trong các tiểu đoàn thiết giáp của Hitler trong một trận đánh ở Ukraina. Hắn tra tấn anh ta bằng cách lấy thanh sắt nung đỏ chọc vào bất cứ chỗ nào có lỗ trên người: tai, lỗ mũi, trực tràng, dương vật vân vân, rồi giết chết người này. Nhưng hóa ra viên sĩ quan này là cháu ruột một quan chức cao cấp của Đảng Cộng sản. Chưa hết, khi ban tham mưu Hồng quân tiến hành điều tra đến nơi đến chốn thì mới phát hiện rằng anh ta hoàn toàn vô tội. Dĩ nhiên là vị quan chức kia nổi trận lôi đình, còn lãnh đạo Hồng quân cũng không thể im lặng khi thanh danh mình đã bị một vết nhơ như vậy. Lần này ngay cả Beria cũng không bảo vệ được Boris. Hắn bị cách chức, đưa ra tòa, cả hắn và tên trợ thủ người Mông Cổ bị kết án tử hình. Tuy nhiên NKVD đã làm mọi cách để can thiệp, kết quả là Boris được giảm án thành lao động khổ sai ở một trại tập trung (mặc dù tên tay chân thì bị treo cổ). Beria gửi vào tù cho Boris một bức mật thư hứa sẽ gây tác động trong quân đội và đảng để Boris chỉ cần ngồi trong trại một năm là sẽ được đưa ra và phục hồi địa vị. Ít nhất thì đấy là những gì Nikolai kể.

- Giờ anh biết rồi đó, - Nikolai hạ giọng nói với tôi, - ai cũng nghĩ rằng Boris lúc nào đó rồi cũng sẽ trở về Mátxcơva, rằng chẳng bao lâu nữa Beria sẽ cứu hắn thôi. Đúng là Beria phải thận trọng, bởi trại này vẫn đang được quân đội và đảng điều hành. Nhưng không ai trong chúng ta có thể yên tâm đâu. Gió có thể đổi chiều bất cứ lúc nào. Mà khi gió đã đổi chiều thì kẻ nào trót rắn tay với hắn ở đây sẽ gặp khốn đấy. Trên đời này không thiếu gì thằng ngu, nhưng không ai ngu tới mức tự ký bản án tử hình cho mình. Thành thử tất cả bọn tôi đi qua hắn đều phải nhón chân. Hắn là khách danh dự ở đây. Dĩ nhiên chúng tôi không thể cho hắn được kẻ hầu người hạ và đối xử với hắn như trong khách sạn. Bề ngoài thì chúng tôi xích chân hắn, cho hắn đập vài hòn đá, nhưng thật ra hắn có phòng riêng, muốn rượu có rượu, muốn thuốc lá có thuốc lá. Nếu anh hỏi hắn là giống gì, tôi sẽ bảo hắn là rắn độc. Để hắn sống chẳng tốt lành cho ai hết. Giá như có ai nửa đêm lén vào cắt cổ hắn đi cho xong.

Mấy hôm sau, khi tôi đi ngang qua nhà ga, tay trung sĩ to xác lại chặn tôi. Tôi dợm đưa giấy thông hành ra, nhưng y lắc đầu và bảo tôi đến văn phòng trưởng ga. Chẳng hiểu chuyện gì, nhưng tôi vẫn đi, đến nơi thì gặp không phải trưởng ga mà là Boris Gromov. Hắn ngồi uống trà ở bàn đợi tôi tới. Tôi chết điếng trên ngưỡng cửa. Hắn không bị cùm chân nữa. Hắn đưa tay ra hiệu cho tôi vào.

- Xin chào trung úy Mamiya! Bao nhiêu năm rồi mới gặp nhau, - hắn vui vẻ nói, miệng cười toe toét. Hắn mời tôi một điếu thuốc, nhưng tôi lắc đầu.

- Chính xác là chín năm, - hắn vừa nói vừa châm thuốc. - Hay là tám năm? Mà thôi, có gì khác nhau. Cái chính là anh vẫn sống và khỏe mạnh. Gặp lại bạn cũ mới hạnh phúc làm sao chứ! Nhất là sau cuộc chiến tranh khủng khiếp nhường đó. Anh đồng ý không? Mà làm cách nào anh thoát ra khỏi cái giếng đó vậy?

Tôi chỉ đứng đó, không nói gì.

- Thôi được, không sao cả. Quan trọng là anh đã thoát ra được. Rồi anh mất một bàn tay ở đâu đó. Rồi lại học nói được tiếng Nga lưu loát thế kia! Tuyệt lắm, cừ lắm. Mất một bàn tay thì đã sao... Cái chính là anh vẫn còn sống.

- Có phải là do ý tôi đâu, - tôi đáp.

Boris cười ha hả.

- Trung úy Mamiya à, anh là người thú vị lắm. Thật ra anh có muốn sống đâu, thế mà anh đang sống sờ sờ ra ở đây. Phải, đúng là thú vị thật. Nhưng không dễ lừa tôi đâu. Người bình thường không ai thoát khỏi cái giếng sâu đó một mình được, đã thoát mà lại còn biết đường vượt sông trở về Mãn Châu. Nhưng đừng lo, tôi không kể với ai đâu.

Thôi, về chuyện anh thế là đủ rồi. Giờ để tôi kể cho anh về tôi. Như anh biết đó, tôi đã mất chức, giờ chỉ là một tù nhân quèn trong trại tập trung. Nhưng tôi không định ở lại trốn khỉ ho cò gáy này mà đập đá suốt đời đâu. Tôi vẫn có thế lực ở Trung ương Đảng như hồi nào đến giờ, và tôi đang dùng thế lực đó để từng ngày một nâng cao vị thế của tôi ở đây. Vì vậy tôi sẽ nói rất chân thành với anh rằng tôi muốn có quan hệ tốt với các tù binh Nhật. Năng suất của mỏ này tùy thuộc vào các anh, vào quân số và sức làm của các anh. Nếu không đếm xỉa đến sức mạnh của các anh, trong đó có cả anh, trung úy Mamiya, chúng tôi sẽ không đạt được gì hết. Tôi muốn anh giúp tôi bằng những gì anh có. Anh từng là sĩ quan tình báo của đội quân Quan Đông, là một người rất can đảm. Anh nói tiếng Nga lưu loát. Nếu anh làm người liên lạc cho tôi, tôi sẽ có thể giúp anh và các đồng bào anh. Đề nghị này không đến nỗi tồi đâu.

- Tôi chưa bao giờ là gián điệp, cũng không bao giờ có ý định làm gián điệp, - tôi tuyên bố.

- Tôi không yêu cầu anh làm gián điệp, - Boris nói như để trấn an tôi. - Tôi chỉ nói rằng tôi có thể giúp cho các anh được dễ thở hơn. Tôi đề nghị cải thiện quan hệ, và anh sẽ là người trung gian giữa hai bên. Nếu hợp sức lại, chúng ta có thể lật đổ cái thằng chó dái người Gruzia "Ủy viên bộ chính trị" kia. Tôi làm vậy được đấy, đừng có tưởng! Mà tôi biết người Nhật các anh cũng căm thù hắn tận xương tủy. Một khi khử được hắn rồi, phía các anh sẽ có thể được tự quản một phần, có thể thành lập các ủy ban này nọ, có thể có tổ chức riêng của mình. Chừng đó thì ít nhất đám lính canh cũng không còn dám đối xử thô bạo với các anh bất cứ lúc nào tùy thích. Đã bao lâu nay các anh chỉ mong được thế thôi, phải không?

Điều đó thì Boris nói đúng. Chúng tôi đã kiến nghị lên ban lãnh đạo trại về những chuyện đó từ lâu nhưng họ luôn luôn bác bỏ thẳng thừng.

- Đổi lại ông muốn tôi làm gì? - Tôi hỏi.

- Hầu như chẳng phải làm gì hết, - hắn cười toe toét, giang rộng hai tay ra. - Tôi chả cần gì hơn là quan hệ thân thiện với tù binh Nhật các anh. Tôi cần loại bỏ một số đồng chí của mình vì không tìm được tiếng nói chung, mà muốn vậy tôi cần các anh hợp tác với tôi. Chúng ta có nhiều lợi ích chung, vậy tại sao chúng ta không hợp sức để hai bên cùng được hưởng? Người Mỹ nói thế nào ấy nhỉ? "Give and take". Có qua có lại. Nếu anh hợp tác với tôi, tôi sẽ không làm gì bất lợi cho anh cả. Tôi sẽ không đâm sau lưng anh đâu. Dĩ nhiên tôi biết, tôi không có quyền yêu cầu anh phải ưa tôi. Giữa chúng ta đã có những chuyện không hay gì, hẳn là vậy rồi. Nhưng tôi trông vậy thôi chứ là người tự trọng. Tôi luôn luôn giữ lời hứa. Chuyện gì đã qua thì cho nó qua đi.

Anh cứ về mà suy nghĩ về đề nghị của tôi đi, mấy hôm nữa hãy trả lời dứt khoát với tôi. Cứ thử xem. Các anh đâu có gì để mất, đúng không nào? Mà này, hãy nhớ rằng chuyện đó chỉ có thể nói với những người anh biết chắc chắn là đủ để tin cậy được. Có vài người trong các anh là chỉ điểm cho tay Ủy viên Bộ chính trị. Đừng để chúng hóng hớt được chuyện này. Nếu lộ ra thì sẽ gay go đấy. Thế lực của tôi ở đây tạm thời chỉ có hạn thôi.

Về lại khu của mình, tôi chọn ra một người để bàn về lời đề nghị của Boris. Người này nguyên là đại tá trong quân đội, một kẻ gan lì và có đầu óc sắc sảo. Là chỉ huy một đơn vị từng cố thủ trong pháo đài trên núi Khingan, cương quyết không giương cờ trắng ngay cả khi Nhật đã đầu hàng, nay ông là thủ lĩnh không chính thức của các tù binh Nhật trong trại, một thế lực mà người Nga cần phải tính tới. Tôi giấu không kể với ông ta về chuyện Yamamoto bị lột da sống trên bờ sông Khalkha, chỉ nói rằng Boris từng là sĩ quan cao cấp trong lực lượng cảnh sát mật và giải thích về đề nghị của hắn. Viên đại tá hình như quan tâm đến ý tưởng thanh toán tay Ủy viên Bộ chính trị cầm đầu trại và giành lấy ít nhiều quyền tự trị cho tù binh Nhật. Tôi nhấn mạnh rằng Boris là một tay có máu lạnh, một kẻ cực kỳ nguy hiểm, tay tổ về những trò lừa đảo và mưu ma chước quỷ, kẻ như vậy thì chớ bao giờ nhắm mắt tin. "Có thể anh nói đúng - đại tá nói - Nhưng thằng Ủy viên Bộ chính trị thì cũng vậy thôi, ta chẳng có gì để mất". Ông có lý. Dù vụ này có vỡ lở đi nữa thì mọi chuyện cũng chẳng thể nào tồi tệ hơn hiện thời, tôi nghĩ. Song tôi đã lầm to! Địa ngục thì chẳng bao giờ có đáy.

Mấy ngày sau tôi thu xếp được một cuộc gặp riêng giữa Boris và ông đại tá tại một nơi kín đáo. Tôi làm thông dịch. Cuộc thảo luận kéo dài ba mươi phút, kết quả là hai bên đạt được một thỏa thuận bí mật và bắt tay nhau. Tôi không có cách nào biết những gì xảy ra sau đó. Hai bên không tiếp xúc trực tiếp để tránh gây chú ý, chỉ trao đổi thư từ viết bằng mật mã thông qua một kênh bí mật nào đó. Vai trò trung gian của tôi đến đó là hết. Thế cũng tốt đối với tôi. Tôi không muốn dính dáng gì tới Boris nữa. Mãi về sau tôi mới hiểu, gì chứ chuyện đó thì không thể.

Như Boris đã hứa, khoảng một tháng sau Trung ương Đảng triệu hồi tay Ủy viên Bộ chính trị người Gruzia, hai ngày sau thì cử tới một ủy viên mới để thay thế. Sau đó hai ngày nữa thì ba tù binh Nhật bị siết cổ chết giữa đêm khuya. Người ta phát hiện được xác họ treo trên xà nhà để trông tuồng như tự sát, nhưng rõ ràng họ đã bị những người Nhật khác thanh toán. Ba người này hẳn là các tay chỉ điểm mà Boris đã nói. Chẳng ai tiến hành điều tra vụ việc. Đến khi đó thì Boris đã nắm toàn bộ trại trong tay mình.


Chú thích:

1.Nguyên văn: hành hình theo kiểu lynch

2.Cơ quan cảnh sát mật của Liên Xô dưới thời Stalin (từ 1934 đến 1946), viết tắt từ tiếng Nga Narodniy Kommissarias Vnutrennikh Del, tạm dịch là Bộ Dân ủy Nội vụ - ND.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

96#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:11:46 | Chỉ xem của tác giả


Chương 31
Gậy biến mất

Chim ác là ăn cắp trở về


Mặc áo len và áo khoác, mũ len kéo sụp gần như tận mắt, tôi trèo qua bức tường sau nhà, nhảy xuống ngõ. Phải một lát nữa trời mới sáng, thiên hạ đang còn ngủ. Tôi nhẹ nhàng đi dọc con ngõ về phía Dinh.

Trong nhà chẳng có gì thay đổi so với khi tôi bỏ đi sáu ngày trước đó. Bát đĩa bẩn vẫn nằm trong chậu rửa. Không thấy mẩu thư viết tay nào, không có tin nhắn nào trong máy trả lời tự động. Màn hình vi tính trong phòng Quế vẫn chết lạnh như trước. Máy điều hòa vẫn giữ không khí ở nhiệt độ bình thường trong nhà. Tôi cởi áo khoác và găng tay rồi đun nước pha trà. Tôi ăn sáng bằng vái cái bánh bích quy, rửa bát trong chậu rồi cất vào chạn. 9 giờ sáng, vẫn không thấy tăm hơi Quế đâu.

° ° °


Tôi ra ngoài sân, giở nắp giếng rồi cúi người nhìn vào bên trong. Vẫn cái bóng tối đặc sệt đó. Tôi biết rõ cái giếng này như một phần mở rộng của chính thân thể mình: bóng tối của nó, cái mùi và sự câm lặng của nó là một phần của tôi. Theo nghĩa nào đó, tôi biết rõ cái giếng này hơn là biết Kumiko. Dĩ nhiên ký ức về nàng hãy còn sống nguyên, tươi rói. Nhắm mắt lại là tôi có thể hồi tưởng từng chi tiết của giọng nói nàng, khuôn mặt, thân thể nàng, từng cử chỉ của nàng. Dù gì tôi cũng đã sống chung một mái nhà với nàng suốt sáu năm trời. Nhưng bây giờ tôi nhận ra rằng có một cái gì đó ở nàng mà tôi không hồi tưởng được rõ rệt như vậy. Mà cũng có thể đó chỉ là do tôi không dám chắc những gì mình nhớ lại là chính xác, cũng như tôi không thể hình dung lại chắc chắn cái khúc quặp ở đuôi con mèo khi nó mới trở về.

Tôi ngồi bên thành giếng, tay thọc vào túi áo khoác, nhìn bốn bề chung quanh lần nữa. Có cảm giác như trời có thể đổ cơn mưa lạnh hay tuyết rơi bất cứ lúc nào. Lặng gió, nhưng không khí lạnh tê tái. Một bầy chim nhỏ bay tới bay lui trên bầu trời vẽ thành những họa tiết phức tạp như thể đang viết chữ, rồi đột ngột vù đi mất. Lát sau tôi nghe thấy tiếng u u trầm trầm của một chiếc phản lực khuất trên những đám mây dày. Vào một ngày u ám tối trời như thế này, tôi có thể chui xuống giếng mà không sợ mặt trời làm hỏng mắt khi trở lên.

Nhưng tôi vẫn ngồi đó một hồi, không làm gì cả. Chẳng việc gì phải làm vội. Ngày chỉ vừa chớm bắt đầu, còn lâu mới đến trưa. Tôi ngồi trên thành giếng, mặc cho đầu óc nghĩ lan man chuyện này chuyện khác không theo thứ tự gì. Con chim đá từng ở trong vườn này, người ta mang nó đi đâu? Phải chăng nó đang trang trí cho một khu vườn khác, vẫn đau đáu niềm khao khát vĩnh cửu và vô nghĩa là cất cánh lên bầu trời? Hay nó đã bị quẳng làm đồng nát khi người ta phá dỡ căn nhà của gia đình Miyawaki mùa hè năm ngoái? Tôi bùi ngùi nhớ lại bức tượng chim. Không có nó, dường như khu vườn mất đi sự cân bằng tinh diệu nào đó.

Khi không còn gì để nghĩ nữa, tôi theo chiếc thang bằng thép trèo xuống giếng. Đặt chân lên đáy giếng, tôi hít mấy hơi dài để kiểm tra xem không khí có bình thường không, cũng như mọi khi. Nó vẫn vậy, sực mùi rêu, nhưng thở được. Tôi sờ soạng tìm cây gậy lần trước đã tựa vào vách giếng. Không có ở đó. Gậy chẳng thấy đâu cả. Nó đã biến mất. Hoàn toàn biến mất. Không dấu vết.

° ° °


Tôi ngồi xuống nền giếng, tựa lưng vào tường mà thở dài.

Ai đã lấy cái gậy đi chứ? Chỉ có thể là Quế. Anh ta là người duy nhất biết có nó, cũng là người duy nhất có thể nghĩ đến chuyện chui xuống giếng. Nhưng cớ sao phải lấy cây gậy đi? Điều đó thì tôi không hiểu nổi - một trong những điều tôi không hiểu nổi.

Tôi đành phải dấn tới mà không có cây gậy, chẳng còn cách nào khác. Cũng không sao. Xét cho cùng, cây gậy chỉ là một thứ bùa hộ mệnh. Không có thì cũng chẳng phải là gì ghê gớm. Chẳng phải dù không có nó tôi vẫn từng lọt được vào căn phòng kia sao? Đưa ra cho chính mình những lập luận đó rồi, tôi liền giật dây thùng để đóng nắp giếng. Tôi đặt tay lên đầu gối rồi nhắm mắt lại trong bóng tối.

Cũng như lần trước, tôi không thể nào tập trung tư tưởng. Mọi thứ ý nghĩ linh tinh chen chúc trong đầu, không còn chỗ để tập trung. Để thoát khỏi chúng, tôi cố nghĩ về hồ bơi, cái hồ bơi trong nhà dài hai mươi lăm mét mà tôi thường đến để bơi. Tôi hình dung mình làm vài vòng bơi sải ở đó. Không việc gì phải bơi nhanh, chỉ cần lặp đi lặp lại từng đó động tác một cách êm ru, đều đặn. Khuỳnh hai cùi chỏ ra sao cho không gây tiếng ồn, không bắn nước tung tóe, rồi dùng hai tay nhẹ nhàng xẻ nước, đầu tiên là ngón tay. Tôi hớp nước vào mồm rồi chầm chậm tuôn ra, như là thở dưới nước vậy. Sau một hồi, tôi cảm thấy thân mình trôi tự nhiên qua nước, như cưỡi trên làn gió nhẹ. Âm thanh duy nhất nghe được là tiếng thở đều đều của chính tôi. Tôi lướt trên gió như chim trên bầu trời nhìn xuống mặt đất ở bên dưới. Tôi thấy những thành thị xa xôi, những con người bé tí, những dòng sông trôi. Một nỗi bình an tràn ngập trong tôi, một cảm giác gần như ngây ngất. Bơi là một trong những điều đẹp đẽ nhất trong đời tôi. Nó chưa hề giải quyết được vấn đề gì, nhưng cũng không hề có hại, cũng chưa có gì làm hỏng niềm vui đó đối với tôi.

Đúng lúc đó, tôi nghe thấy một cái gì.

Quả thật tôi đang nghe thấy một tiếng u u trầm trầm, đơn điệu trong bóng tối, giống như tiếng vù vù của đôi cánh côn trùng. Nhưng cái âm thanh này nhân tạo quá, cơ khí quá, không thể là cánh côn trùng được. Tần số của nó có những biến đổi cao thấp tinh tế, như khi ta chuyển kênh ở máy thu thanh sóng ngắn. Tôi nín thở lắng nghe, cố nắm bắt xem âm thanh từ đâu. Dường như nó phát ra từ một điểm cố định trong bóng tối song đồng thời lại như từ chính trong đầu tôi. Trong bóng tối thăm thẳm, ranh giới giữa hai bên hầu như không thể nào xác định được.

Tập trung hết tâm trí vào âm thanh đó, tôi ngủ lúc nào không biết. Thậm chí tôi không kịp cảm thấy buồn ngủ trước khi thiếp đi. Hoàn toàn bất ngờ, tôi thiếp đi, như thể tôi đang đi dọc theo một hành lang mà trong đầu chẳng có ý định gì cụ thể thì bỗng dưng bị ai đó kéo vào một căn phòng chưa hề biết. Tôi chìm vào cơn nửa tỉnh nửa mê đặc sệt như bùn đó trong bao lâu? Tôi không biết. Hẳn là không quá lâu. Có thể chỉ trong một khoảnh khắc. Nhưng khi có một cái gì đó làm cho ý thức trở lại thì tôi biết mình đã ở trong một bóng tối khác. Không khí khác, nhiệt độ khác, tính chất và chiều sâu của bóng tối khác. Cái bóng tối này nhuốm một thứ ánh sáng yếu ớt đùng đục. Và một mùi phấn hoa găn gắt quen thuộc xộc vào mũi tôi. Tôi đang ở trong căn phòng khách sạn kỳ lạ đó.

Tôi ngẩng đầu lên, nhìn quanh, nín thở.

Tôi đã đi xuyên qua tường.


Tôi đang ngồi trên sàn trải thảm, lưng tựa vào bức tường bọc vải. Tay tôi vẫn đang xếp trên đầu gối. Cơn ngủ của tôi một khoảnh khắc trước đó đáng sợ và sâu hun hút bao nhiêu thì cơn tỉnh của tôi lúc này trọn vẹn và rõ rệt bấy nhiêu. Sự tương phản giữa mơ và tỉnh, nó cùng cực đến mức phải mất một hồi tôi mới quen được với cái tỉnh này. Tiếng tim tôi đập nghe cũng rõ mồn một. Không nghi ngờ gì nữa. Tôi đang ở đây. Rốt cuộc tôi đã vào được trong căn phòng.

° ° °


Trong bóng tối dường như dệt bằng nhiều lớp lưới mắt nhỏ, căn phòng giống hệt như tôi nhớ từ lần trước. Tuy nhiên, khi mắt đã quen với bóng tối, tôi bắt đầu nhận ra những khác biệt nhỏ. Đầu tiên là cái điện thoại giờ nằm ở chỗ khác. Trước nó ở trên bàn ngủ, nay thì nằm trên một cái gối và dường như lọt thỏm vào trong gối. Kế đó tôi thấy lượng whisky trong chai đã vơi đi, gần như cạn đến đáy. Đá trong xô đã tan hết, chỉ còn lại một thứ nước cũ, đùng đục. Chất lỏng trong cốc đã khô, sờ tay vào tôi thấy lòng cốc phủ một lớp bụi trắng. Tôi lại gần giường, nhấc chiếc điện thoại lên, áp ống nghe lên tai. Đường dây không hoạt động. Căn phòng có vẻ đã bị bỏ rơi, bị lãng quên từ lâu lắm. Không có dấu vết sự hiện diện của con người. Duy có mấy bông hoa trong lọ còn giữ nguyên vẻ tươi tắn đến kỳ lạ.

Có dấu hiệu cho thấy ai đó đã nằm trên giường: ga trải giường, chăn, gối đều hơi bị xô lệch. Tôi kéo thẳng ga trải giường rồi sờ xem có hơi ấm không, nhưng không có. Cũng không còn mùi nước hoa. Vậy từ khi người này rời giường đến giờ cũng đã khá lâu. Tôi ngồi nép ở mép giường, nhìn khắp phòng một lần nữa, lắng nghe. Nhưng chẳng có âm thanh nào. Nơi này giống như ngôi mộ cổ đã bị những tên đào mộ lấy trộm thi hài trong đó mang đi.

° ° °


Đột nhiên điện thoại reo. Tim tôi co rúm lại như một con mèo sợ sệt. Những tiếng vang lảnh lót làm rung động những hạt phấn hoa lơ lửng trong không khí; các cánh hoa khẽ chuyển mình, ngẩng lên trong bóng tối. Làm thế nào điện thoại lại reo được? Mới vài phút trước nó còn câm lặng như tảng đá trong lòng đất. Tôi cố thở đều, giữ yên nhịp tim, rồi kiểm tra xem, liệu mình có vẫn ở trong căn phòng đó không. Tôi vươn tay chạm vào ống nghe, chần chừ một chút rồi mới nhấc lên. Cho tới khi đó điện thoại đã reo ba, bốn lần.

"Alô". Điện thoại chết lặng ngay khi tôi nhấc ống nghe lên. Sức nặng bất khả cưỡng của cái chết đè nặng trong tay tôi như một cái bao cát. "Alô", tôi lại nói, nhưng giọng khô khốc của tôi dội trở lại không chút thay đổi, như thể bật lại từ một bức tường dày. Tôi đặt máy xuống, rồi lại nhấc lên nghe. Không có âm thanh nào. Tôi ngồi trên mép giường, cố thở đều trong khi chờ điện thoại reo lại. Nó không reo. Tôi nhìn những hạt bụi phấn trong không khí lại trở về với vô thức và chìm vào bóng tối. Tôi thử khôi phục lại tiếng điện thoại reo trong đầu mình. Tôi không còn dám tin chắc là điện thoại đã reo thật nữa. Nhưng nếu tôi để những nỗi ngờ vực kiểu đó len lỏi vào thì sẽ cứ ngờ vực mãi không bao giờ dứt. Tôi phải vạch ranh giới ở đâu đó. Nếu không thì tôi sẽ phải nghi ngờ ngay chính sự tồn tại của mình ở nơi này. Điện thoại đã reo. Điều đó là chắc chắn, không thể lầm được. Rồi một khoảnh khắc sau nó đã chết lặng. Tôi hắng giọng, nhưng cả cái âm thanh đó cũng lập tức tan biến trong không khí.

Tôi đứng dậy đi một vòng quanh phòng. Tôi săm soi sàn nhà, nhìn chằm chặp lên trần, ngồi lên bàn, tựa vào tường, xoay nhanh quả đấm cửa, bật lên bật xuống công tắc cây đèn chân đế. Quả đấm hiển nhiên không xoay, đèn không sáng. Cửa sổ bị phong kín từ bên ngoài. Tôi căng tai nghe xem có tiếng gì không, nhưng sự im lặng giống như bức tường cao ngất, nhẵn thín. Thế nhưng tôi vẫn cảm thấy có một cái gì đó đang cố đánh lừa tôi, dường như có những kẻ khác đang nín thở, ép sát người vào tường, xóa màu da để tôi không biết rằng có họ ở đó. Cho nên tôi cũng vờ không nhận thấy. Cả hai bên chúng tôi rất giỏi lừa nhau. Tôi lại hắng giọng và sờ tay lên môi.

Tôi quyết định kiểm tra căn phòng một lần nữa. Tôi lại thử cây đèn chân đế, nhưng đèn không sáng. Tôi mở nút chai whisky, ngửi chỗ rượu còn sót lại. Mùi vẫn không thay đổi. Cutty Sark. Tôi đậy nút lại rồi đặt lại chai lên bàn. Tôi kê ống nghe lên tai một lần nữa, nhưng câm lặng vẫn hoàn câm lặng. Tôi bước chậm mấy bước để cảm nhận tấm thảm bên dưới giày. Tôi áp tai vào tường, tập trung chú ý, cố nghe xem có âm thanh nào lọt qua không, nhưng dĩ nhiên là không. Tôi đi lại phía cửa, xoay quả đấm, dù biết làm thế là vô nghĩa. Quả đấm xoay dễ dàng về bên phải. Tôi ngớ ra một lúc, không hiểu thế nào. Mới đó quả đấm cửa còn cứng ngắc như gắn bằng xi-măng. Tôi lặp lại từ đầu, buông quả đấm ra rồi lại chìa tay nắm lấy, xoay sang phải, xoay sang trái. Nó xoay ngon lành trong tay tôi. Một cảm giác kỳ quặc nảy ra trong tôi, như thể lưỡi tôi đang sưng phù lên trong mồm.

Cửa mở.

Tôi đẩy quả đấm cho đến khi cửa mở ra vừa đủ cho một làn ánh sáng chói lòa tuôn vào phòng. Cây gậy. Giá như có cây gậy, tôi sẽ thấy tự tin hơn. Mà thôi, quên cây gậy đi! Tôi đẩy rộng cửa ra. Tôi nhìn bên phải rồi bên trái, thấy không có ai, tôi mới bước ra ngoài. Đó là một hành lang dài, trải thảm. Cách không xa là một chiếc bình lớn có cắm hoa. Đó chính là chiếc bình hoa mà tôi đã nấp đằng sau, khi gã bồi huýt sáo luôn mồm kia gõ cửa. Trong ký ức của tôi hành lang này dài, có nhiều chỗ ngoặt và nhánh rẽ. Tôi đã tình cờ chạm trán gã bồi huýt sáo kia và đi theo gã. Tấm biển trên cửa ghi rõ Phòng 208.

Bước thật cẩn thận, tôi đến gần bình hoa. Tôi hy vọng có thể tìm được đường ra chỗ tiền sảnh, nơi lần trước Wataya Noboru đã xuất hiện trên truyền hình. Tôi mong sẽ có thể tìm ra vài manh mối ở đó. Nhưng đi lang thang trong cái khách sạn này chẳng khác gì liều mạng đi trong sa mạc mênh mông mà không có la bàn. Nếu không tìm được chỗ tiền sảnh rồi tiếp tục không tìm được đường trở lại Phòng 208 thì ắt tôi sẽ bị cầm tù trong chốn mê cung này, không thể quay về thế giới thực nữa.

Nhưng không có thời gian chần chừ thêm. Đây có thể là cơ hội cuối cùng của tôi. Tôi đã đợi dưới đáy giếng từng ngày một, trong sáu tháng trời, nay thì cửa đã mở trước mặt tôi. Hơn nữa, chẳng mấy chốc người ta sẽ tước đi cái giếng khỏi tôi. Nếu tôi lùi bước lần này thì bao nhiêu thời gian công sức của tôi sẽ hóa thành công cốc.

Tôi rẽ mấy lần. Đôi giày tennis bẩn thỉu của tôi bước êm ru trên thảm. Tôi chẳng nghe thấy gì, không giọng người, không tiếng nhạc, không tiếng tivi, không có cả tiếng cánh quạt hay thang máy. Khách sạn lặng ngắt như một công trình đổ nát bị thời gian bỏ quên. Tôi rẽ nhiều lần, đi qua nhiều cánh cửa. Hành lang phân nhánh liên tục, cứ mỗi lần như vậy tôi đều rẽ phải, ý là để nếu muốn quay về, tôi chỉ cần toàn rẽ trái là sẽ tìm được phòng nơi xuất phát. Nhưng rồi tôi mất phương hướng. Đi, đi mãi mà không hề cảm thấy mình đang đến gần bất cứ cái gì. Các phòng đánh số không theo thứ tự nào, lại cứ nối nhau không biết bao giờ mới hết nên có số cũng bằng không. Các con số chưa kịp ghi vào trí nhớ thì đã trôi tuột mất khỏi đầu tôi. Thỉnh thoảng tôi lại có cảm giác mình đã đi qua số này số nọ rồi. Đến giữa hành lang tôi dừng lại thở. Có phải tôi đang đi vòng vòng cùng một chỗ như khi người ta lạc lối trong rừng?

° ° °


Đang đứng đó tự hỏi sẽ làm gì thì tôi nghe một âm thanh quen thuộc ở đằng xa. Đó là gã bồi luôn mồm huýt sáo. Hắn huýt quả là cừ khôi, thật chẳng ai sánh bằng. Cũng như lần trước, hắn đang huýt bản overtune trong vở Chim ác là ăn cắp của Rossini, giai điệu này huýt sáo không dễ, nhưng xem ra hắn làm được chẳng khó khăn gì. Tôi tiến dọc theo hành lang về phía có tiếng huýt sáo mà lúc này nghe đã to hơn, rõ hơn. Hình như hắn đang đi về phía tôi. Tôi nhìn thấy một cái cột khá to, liền nấp đằng sau.

Gã bồi vẫn bưng một chiếc khay bằng bạc, trên đó vẫn là chai Cutty Sark, xô nước đá và hai chiếc cốc. Hắn đi vội ngang qua tôi, hướng thẳng về phía trước, vẻ mặt chừng như hắn đang bị mê hoặc bởi tiếng huýt sáo của chính mình. Hắn không nhìn về phía tôi, hắn đang vội đến nỗi không thể phí phạm dù chỉ một giây cho một động tác thừa. Mọi cái y như lần trước, tôi nghĩ. Dường như thể xác tôi đang được đưa về quá khứ.

Ngay khi gã bồi đi qua rồi, tôi liền theo chân hắn. Chiếc khay bạc của hắn bập bềnh lên xuống nhịp nhàng theo giai điệu mà hắn đang huýt sáo, thỉnh thoảng lại phản chiếu ánh đèn chùm trên trần. Hắn lặp đi lặp lại giai điệu Chim ác là ăn cắp như một lời thần chú. Chẳng biết vở opera này nói về cái gì nhỉ? Tôi chẳng biết gì hơn về nó ngoài giai điệu có phần buồn tẻ của khúc overtune và cái tên kỳ bí. Hồi tôi còn nhỏ, nhà tôi có một đĩa thu bản overtune này do Toscanini điều khiển dàn nhạc. So với cách diễn tấu trẻ trung, khinh khoái, hiện đại của Claudio Abbado thì cách của Toscanini có gì đó khốc liệt khuấy động máu trong người, như khi sau trận chiến sống mái với một kẻ thù hùng mạnh, ta đánh bại được đối phương và khoan thai bóp cổ y cho đến chết. Nhưng thật ra Chim ác là ăn cắp có phải là câu chuyện về một con chim dính vào trò ăn cắp không? Nếu mọi việc giải quyết êm xuôi, hẳn tôi phải đến thư viện tìm trong từ điển bách khoa âm nhạc xem sao. Thậm chí tôi cần mua một đĩa thu toàn bộ vở opera nếu có. Hay là không cần? Có khi đến lúc đó, tôi lại chẳng buồn biết lời đáp cho các câu hỏi kia là gì nữa.

Gã bồi chuyên huýt sáo vẫn tiếp tục đi thẳng, bước đều tăm tắp như người máy, tôi thì theo sau, cách một quãng cố định. Không cần nghĩ tôi cũng biết hắn đang đi đâu. Hắn đang mang chai Cutty Sark, nước đá và ly đến Phòng 208. Thật vậy, hắn dừng lại trước Phòng 208. Hắn chuyển khay sang tay trái, kiểm tra số phòng, sửa lại tư thế rồi gõ cửa cho có lệ. Gõ ba lần, rồi ba lần nữa.

Tôi không biết liệu có tiếng trả lời từ bên trong không. Tôi nấp sau bình hoa quan sát gã bồi. Thời gian trôi qua, nhưng gã bồi vẫn đứng nguyên đó, như đang cố thử xem giới hạn sức chịu đựng của mình đến đâu. Hắn không gõ thêm, chỉ lẳng lặng chờ cửa mở. Cuối cùng, như đáp lại một lời cầu nguyện, cửa bắt đầu mở vào trong.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

97#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:14:15 | Chỉ xem của tác giả


Chương 32

Buộc người khác dùng trí tưởng tượng
(Chuyện Boris Lột da, tiếp theo)


Boris đã giữ lời hứa. Tù binh Nhật chúng tôi được tự trị một phần, được phép lập ban đại diện. Viên đại tá làm trưởng ban. Từ đó trở đi, các cai tù Nga, cả dân sự và quân sự, đều được lệnh không được bạo hành nữa, và ban đại diện tù binh chịu trách nhiệm giữ gìn trật tự trong trại. Chừng nào chúng tôi không gây chuyện và hoàn thành chỉ tiêu sản xuất thì còn được yên thân. Bề ngoài thì đó là chính sách của tay Ủy viên Bộ chính trị mới, song thực chất là của Boris. Những cái cách thoạt trông có vẻ dân chủ này lẽ ra phải là tin vui cho bọn tù binh chúng tôi.

Nhưng hóa ra mọi chuyện không đơn giản như vậy. Quá say sưa chào đón những cải cách mới, chúng tôi đã quá ngu ngốc không nhìn thấy cái bẫy thâm độc mà Boris đã giăng ra cho chúng tôi.

Được sự hỗ trợ của cảnh sát mật, Boris trở nên có thế lực hơn nhiều so với tay Ủy viên Bộ chính trị mới bổ nhiệm, thế là y tiến hành biến cải trại tù và trị trấn mỏ theo cách của y. Lừa đảo, lật lọng và khủng bố trở thành chuyện bình thường như cơm bữa. Boris chọn ra trong số tù nhân và cai tù những kẻ khỏe mạnh nhất và hung ác nhất (loại này thì không thiếu), đào tạo rồi biến chúng thành đội vệ sĩ riêng của hắn. Vũ trang bằng súng, dao, dùi cui, đám vệ sĩ đặc tuyển này săn sóc tận tình bất cứ kẻ nào dám cự lại Boris, đeo dọa và hành hung họ, đôi khi còn đánh chết họ theo lệnh của hắn. Không ai dám đụng đến chúng. Đám lính được quân đội cứ đến canh gác mỏ thường vờ không thấy những gì diễn ra ngay trước mũi họ. Tới khi đó thì ngay cả quân đội cũng không làm gì được Boris. Lính tráng ngồi đằng xa, chỉ canh chừng ga xe lửa và doanh trại của chính mình, còn những gì xảy ra trong mỏ và trong trại thì coi như chẳng liên quan gì đến họ.

Kẻ mà Boris ưa nhất trong số các cận vệ đặc tuyển của hắn là một tù nhân mệnh danh là "Thằng Tác-ta", đâu như là cựu vô địch vật Mông Cổ. Boris đi đâu hắn cũng kè kè một bên như hình với bóng. Hắn có một vết sẹo bỏng lớn trên má phải, nghe nói do bị tra tấn. Boris không mặc quần áo tù nữa và chuyển vào sống trong một căn nhà nhỏ tươm tất do một nữ tù đảm trách quét dọn.

Theo Nikolai (ông ta ngày càng miễn cưỡng nói chuyện với tôi), một số người Nga mà ông ta biết đã biến mất như bốc hơi giữa đêm khuya. Hồ sơ chính thức ghi rằng họ mất tích hoặc chết vì tai nạn, nhưng chẳng nghi ngờ gì nữa, họ đã được đám lâu la của Boris "săn sóc". Chỉ cần không tuân lệnh Boris hay thậm chí chỉ không làm hắn hài lòng, là đủ để nguy đến tính mạng. Dăm ba người tìm cách khiếu nại trực tiếp lên Trung ương Đảng về tình trạng bạo hành trong trại, thế là sau đó chẳng ai nhìn thấy họ nữa. "Tôi nghe kể chúng giết cả một đứa trẻ mới bảy tuổi để bắt cha mẹ nó phải khuất phục. Chúng đánh thằng bé đến chết trước mặt cha mẹ nó," Nikolai kể, mặt tái mét.

Ban đầu Boris không làm gì quá đáng như vậy trong khu người Nhật. Hắn còn bận tập trung sức lực nhằm kiểm soát hoàn toàn đám cai tù Nga và củng cố vị thế của hắn ở đó, nên tạm thời để người Nhật tự giải quyết lấy việc của mình. Thành thử trong mấy tháng đầu chúng tôi được hưởng một khoảng bình an ngắn ngủi. Đó là những ngày bình lặng, thật sự là êm ả của chúng tôi. Ủy ban của chúng tôi đã đấu tranh thắng lợi để chế độ lao động bớt hà khắc hơn dù chỉ một chút. Lần đầu tiên từ khi đến đây, chúng tôi mới có được cảm giác gì đó gần như là hy vọng. Tất cả đều tin mọi việc đang trở nên tốt đẹp hơn.

Chẳng phải Boris không để mắt đến chúng tôi trong "tuần trăng mật" đó đâu. Đơn giản là hắn đang âm thầm sắp xếp các quân cờ để giành lợi thế chiến lược. Hắn tác động lên các thành viên ủy ban đại diện tù binh Nhật, từng người một, rất kín đáo, người thì hắn mua chuộc, kẻ thì hắn đe dọa, để dần dần khống chế họ. Hắn tránh dùng bạo lực lộ liễu mà tiến hành một cách vô cùng thận trọng, vì vậy chẳng ai nhận thấy hắn đang làm gì. Khi rốt cuộc chúng tôi cũng nhận ra thì đã quá muộn. Dưới cái vỏ bọc dành cho chúng tôi quyền tự trị, hắn làm chúng tôi mất cảnh giác, đồng thời tạo ra một hệ thống kiểm soát mới còn hữu hiệu hơn. Những tính toán của hắn chính xác một cách lạnh tanh và ác quỷ. Quả là hắn đã chấm dứt tình trạng bạo lực tự phát và vô nghĩa mà chúng tôi phải chịu, nhưng thay vào đó hắn tạo ra một thứ bạo lực mới được tính toán lạnh lùng.

Sáu tháng sau, củng cố xong cơ cấu kiểm soát của mình, hắn bèn chuyển hướng, bắt đầu gây áp lực lên chúng tôi. Nạn nhân đầu tiên của hắn là thành viên quan trọng nhất của ủy ban - viên đại tá. Ông đã mấy lần thay mặt tù binh Nhật đối đầu trực diện với Boris về một số vụ việc, hậu quả là ông bị thanh toán. Cho tới khi đó chỉ còn ông và vài người nữa trong ủy ban là không phục tùng Boris. Một đêm nọ chúng đè ông xuống, siết khăn mặt ướt lên mặt ông cho đến khi ông tắc thở chết. Dĩ nhiên đó là theo lệnh của Boris, nhưng hắn chẳng bao giờ nhúng vào cho bẩn tay trong trường hợp giết người Nhật. Hắn chỉ việc ra lệnh cho ủy ban, để chính người Nhật làm việc đó. Cái chết của viên đại tá được ghi là chết vì bệnh. Bọn chúng tôi ai cũng biết kẻ đã giết ông, nhưng chẳng ai dám nói. Chúng tôi biết nội bộ mình có tay trong của Boris, thành thử khi có mặt người khác thì phải giữ mồm giữ miệng. Sau khi đại tá bị ám sát, ủy ban liền bầu cho một ứng viên do chính Boris chọn làm chủ tịch thay ông.

Ngay sau khi có sự thay người trong ủy ban, môi trường làm việc của tù binh Nhật ngày càng xấu đi, cho đến khi trở thành tồi tệ chưa từng thấy. Để đổi lại quyền tự trị, chúng tôi đã có thỏa thuận với Boris về chỉ tiêu sản xuất, ấy thế là chỉ tiêu ngày một nặng nề. Chỉ tiêu không ngừng tăng lên vì cớ này hay cớ khác, cho tới khi công việc trở nên nặng nhọc hơn bao giờ hết. Số tai nạn cũng gia tăng, nhiều người lính Nhật phải bỏ xương nơi đất lạ quê người, nạn nhân của tình trạng khai thác mỏ vô tội vạ. "Tự trị" chỉ có nghĩa là người Nhật giờ tự giám sát lấy công việc của mình thay cho người Nga như trước kia.

Dĩ nhiên, các tù binh ngày một bất mãn. Trại chúng tôi trước kia là một xã hội nho nhỏ nơi chúng tôi chia đều nhau phần lao khổ, nay chỉ còn là sự bất công, rồi cùng với nó là thù hận và nghi kỵ sâu sắc. Những ai phục vụ Boris thì được giao việc nhẹ nhàng hơn, được đặc quyền đặc lợi, những ai không làm cho hắn thì phải chịu cảnh sống thê thảm - ấy là nếu còn được phép sống. Không ai dám mở mồm kêu ca, bởi vì phản đối công khai có nghĩa là chết. Người ta có thể bị ném vào một cái nhà hoang lạnh buốt để chết vì đói rét, hoặc bị siết khăn tắm ướt lên mặt khi đang ngủ, hoặc bị một cái cuốc chim bổ toác sọ từ đằng sau trong khi làm việc ở mỏ, hay bị ném xuống đáy hầm lò. Dưới mỏ tối om, ai biết chuyện gì đang xảy ra? Người ta biến mất, đơn giản là thế.

Tôi không khỏi cảm thấy mình có lỗi trong việc làm trung gian cho Boris và đại tá gặp nhau. Dĩ nhiên, dù tôi không dính tới thì thể nào Boris cũng sẽ chui được vào giữa chúng tôi bằng cách này hay cách khác, không sớm thì muộn, hậu quả vẫn y như vậy. Nhưng ý nghĩ đó không làm nguôi được nỗi đau của tôi. Tôi đã phạm một sai lầm khủng khiếp.

Một hôm tôi được gọi đến tòa nhà nơi Boris dùng làm văn phòng. Đã lâu lắm tôi không gặp hắn. Hắn ngồi uống trà nơi bàn, giống như lần tôi gặp hắn ở phòng trưởng ga. Đứng nghiêm đằng sau hắn là Thằng Tác-ta, bên hông đeo một khẩu súng lục to nòng. Khi tôi vào phòng, Boris ngoái lại tên Mông Cổ, ra hiệu bảo hắn đi ra ngoài. Chỉ còn lại Boris và tôi.

- Thế nào hở Trung úy Mamiya? Anh thấy đó, tôi đã giữ lời hứa.

Đúng là hắn đã giữ lời, tôi đáp. Bất hạnh thay, hắn nói đúng. Mọi điều đã hứa với tôi, hắn đều thực hiện. Tôi như đã ký một giao kèo với quỷ dữ.

- Các anh được quyền tự trị, tôi thì được quyền lực, - hắn vừa nói vừa cười, hai tay giang rộng. - Cả hai ta muốn gì là được nấy. Sản lượng than tăng, ở thủ đô người ta hài lòng. Còn đòi gì hơn nữa? Tôi rất biết ơn anh đã làm người môi giới cho tôi, nên giờ tôi muốn làm gì đó để trả ơn anh.

- Không cần phải thế đâu, - tôi đáp.

- Anh không cần phải xa cách như vậy, Trung úy ạ. Hai ta trở lại vấn đề nhé. Tôi muốn anh làm việc ở đây với tôi. Tôi muốn anh làm trợ lý cho tôi. Đáng tiếc là chốn này quá thiếu những người có khả năng nghĩ bằng cái đầu. Anh có thể thiếu một bàn tay, nhưng bù lại trí óc anh thừa sắc bén. Nếu anh làm thư ký cho tôi, tôi sẽ biết ơn lắm; tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để bảo đảm cho anh thấy dễ chịu ở đây. Chừng đó thì nhất định anh sẽ sống, có khi còn được trở về Nhật nữa. Cứ thân cận với tôi đi, chỉ có lợi cho anh thôi.

Bình thường thì tôi sẽ cự tuyệt thẳng thừng một đề nghị như vậy. Tôi không có ý định làm hầu cận cho Boris, bán rẻ anh em đồng bào để mong yên ổn cái thân mình. Mà nếu khước từ thì hắn sẽ giết tôi, vậy cũng tốt. Nhưng ngay lúc hắn đưa ra đề nghị, một kế hoạch chợt hình thành trong đầu tôi.

- Ông muốn tôi làm những việc gì? - Tôi hỏi.

Công việc mà Boris muốn tôi làm không phải là dễ dàng. Số lượng các sự vụ mà tôi cần đảm nhiệm vô cùng lớn, trong đó quan trọng nhất là quản lý tài sản riêng của Boris. Boris thường xuyên ém lại chừng bốn mươi phần trăm số thực phẩm, quần áo, thuốc men mà Mátxcơva và Hội Chữ thập đỏ Quốc tế gửi tới trại, cất vào kho bí mật rồi bán cho con buôn. Hắn cũng thường hay bán cả một đoàn xe lửa chở than ra chợ đen. Nhiên liệu thiếu trầm trọng, có bao nhiêu cũng không đủ. Hắn đút lót các công nhân đường sắt và trưởng ga để họ cho hắn tùy ý bố trí các đoàn tàu, nhớ đó hắn tha hồ vớ bẫm. Đám lính canh gác nhà ga được đắm mõm thức ăn và tiền nên nhắm mắt làm ngơ mọi chuyện. Nhờ những phương thức "kinh doanh" đó mà Boris đã tích cóp được một tài sản kếch xù. Hắn giải thích với tôi rằng tiền đó thật ra là để làm vốn hoạt động cho cảnh sát mật. "Hoạt động của chúng tôi", như hắn gọi, đòi hỏi chi những khoản rất lớn mà lại không thể ghi vào chứng từ hợp pháp, nên ở đây hắn phải làm nhiệm vụ "huy động" các quỹ bí mật kia. Nhưng đó là dối trá. Có thể một phần tiền được gửi về Mátxcơva thật, nhưng tôi tin chắc rằng hơn một nửa số tiền kia lọt vào túi riêng của Boris. Theo tôi biết, chỗ tiền đó hắn gửi nhà băng nước ngoài hay dùng để mua vàng.

Vì lý do khó hiểu nào đó, Boris hoàn toàn tin cậy tôi. Hình như hắn chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ rằng, tôi có thể tiết lộ những bí mật của hắn cho người ngoài, điều đó giờ đây tôi cảm thấy thật lạ. Hắn luôn luôn cực kỳ đa nghi đối với người Nga và những người da trắng khác, nhưng với người Mông Cổ và người Nhật thì hắn lại tuyệt đối tín nhiệm. Có lẽ hắn cho rằng tôi không thể hại gì hắn được dù tôi có hở ra về bí mật của hắn. Trước hết, tôi hở ra với ai mới được chứ? Quanh tôi toàn những kẻ cộng tác với hắn hoặc tay chân hắn, mỗi người đều được hưởng một phần con con trong khoản lợi nhuận khổng lồ của Boris. Còn những kẻ duy nhất đang khổ sở và chết dần mòn vì Boris đem bán những thức ăn, quần áo, thuốc men mà lẽ ra họ được hưởng để mưu lợi cho riêng hắn, thảy đều là đám tù bất lực trong trại. Hơn nữa, mọi thư từ đều bị kiểm duyệt, mọi tiếp xúc với người ngoài đều bị cấm.

Thế là tôi trở thành thư ký riêng của Boris, một thư ký riêng năng nổ, trung thành. Tôi cải tiến lại hoàn toàn hệ thống sổ kế toán và theo dõi hàng tồn của hắn mà xưa nay là cả một mớ bòng bong. Tôi tiến hành hệ thống hóa và làm rõ luồng chu chuyển hàng hóa, vòng quay tiền mặt. Tôi tạo những cuốn sổ riêng biệt mà chỉ cần liếc vào là có thể biết ngay số lượng, vị trí của bất cứ món hàng nào, giá cả đang dao động ra sao. Tôi lập một danh sách dài những người nhận hối lộ và những "phí tổn cần thiết" cho mỗi người. Tôi làm quần quật cho Boris từ sáng đến tối, hậu quả là tôi mất hết dăm người bạn ít ỏi mà tôi có. Người ta nghĩ về tôi (không thể nào không nghĩ) như một tên đê tiện đáng khinh đã bán mình làm kẻ liếm gót trung thành cho Boris. Và buồn thay, hẳn là mãi đến giờ họ vẫn còn nghĩ về tôi như vậy. Nikolai không nói năng gì với tôi nữa. Hai ba tù binh Nhật mà tôi vẫn chơi thân, nay hễ thấy tôi đến là ngoảnh đi nơi khác. Mặt khác, lại có những kẻ cố làm thân vì thấy tôi đã thành người thân tín của Boris, nhưng tôi không muốn dính dáng gì tới bọn họ. Thế là tôi trở thành kẻ bị cô lập trong trại. Người ta không giết tôi chỉ vì đằng sau tôi có Boris. Kẻ nào dám ám sát vật sở hữu quý nhất của Boris mà lại yên thân được. Ai cũng biết Boris tàn bạo đến mức nào; tiếng tăm "lột da" của hắn đạt đến tầm cỡ huyền thoại ngay cả ở đây.

Tôi càng bị cô lập thì Boris càng tín nhiệm tôi hơn. Hắn hài lòng với thói quen làm việc hữu hiệu và có hệ thống của tôi, và về lời khen thì hắn rất hào phóng.

- Trung úy Mamiya ạ, anh cừ lắm. Chừng nào nước Nhật còn có những người như anh, thì Nhật Bản chắc chắn sẽ phục hồi được sau cơn hỗn loạn thời hậu chiến. Nước tôi thì vô vọng rồi. Có khi thời Sa hoàng còn khá hơn. Ít nhất là Sa hoàng không phải nát óc vì một mớ lý thuyết. Lenin hiểu được dăm ba thứ từ lý thuyết của Marx rồi cứ thế áp dụng sao cho được việc mình, Stalin hiểu dăm ba thứ (có được bao lâu đâu) từ lý thuyết của Lenin rồi cứ thế áp dụng sao cho được việc ông ta. Trí óc càng hạn hẹp thì người ta lại càng có nhiều quyền lực ở cái xứ này. Trung úy ạ, tôi bảo anh thế này: ở đây chỉ có một cách duy nhất để sống sót mà thôi. Đó là không tưởng tượng gì hết. Gã người Nga nào dùng trí tưởng tượng của hắn là tới số. Tôi chả bao giờ dùng trí tưởng tượng của tôi cả. Việc của tôi là làm cho người khác dùng trí tưởng tượng của họ. Đó là miếng bánh của tôi. Hãy nhớ lấy điều đó cho kỹ. Và chừng nào anh còn ở đây thì ít nhất mỗi khi bắt đầu tưởng tượng cái gì đó, hãy hình dung khuôn mặt tôi và tự nhủ: không, đừng làm vậy. Tưởng tượng là mất mạng như chơi. Lời khuyên vàng ngọc của tôi đấy. Gì chứ tưởng tượng thì hãy dành cho kẻ khác.

Nửa năm trôi qua như vậy. Nay đã gần cuối thu năm 1947, tôi đã trở thành người không thể thiếu được đối với Boris. Tôi chịu trách nhiệm về khía cạnh kinh doanh trong hoạt động của hắn, còn Thằng Tác-ta đảm nhận phần bạo lực. Lực lượng cảnh sát mật vẫn chưa triệu hồi Boris về Mátxcơva, nhưng đến khi đó dường như hắn cũng không còn muốn về thủ đô nữa. Hắn đã ít nhiều biến trại tù và mỏ than thành lãnh địa riêng bất khả xâm phạm của mình, ở đó hắn có đầy đủ tiện nghi, đều đều hốt bạc, lại được cả một đội quân của chính mình bảo vệ. Mà có khi ngay cả giới lãnh đạo thủ đô cũng không muốn gọi hắn về mà cứ để hắn ở đó nhằm củng cố chỗ đứng của họ ở Siberia. Giữa Mátxcơva và Boris vẫn thường xuyên trao đổi thư từ, dĩ nhiên không phải bằng bưu điện mà theo đường xe lửa, qua tay các sứ giả bí mật. Đó luôn luôn là những gã cao lớn có cặp mắt lạnh băng. Mỗi khi một tên như vậy bước vào, nhiệt độ trong phòng dường như tụt ngay xuống.

Trong khi đó, tù nhân làm trong mỏ vẫn tiếp tục chết như rạ, xác vẫn tiếp tục bị vứt vào hầm lò. Boris tiến hành đánh giá toàn diện khả năng của từng tù nhân, kẻ nào ốm yếu thì hắn vắt kiệt lực đồng thời giảm khẩu phần ăn để giết họ dần dần và giảm số miệng ăn. Chỗ thức ăn cắt giảm từ khẩu phần của người yếu được bổ sung cho người mạnh để nâng cao năng suất. Ở trại này hiệu quả là tất cả: đó là thứ luật rừng, mạnh được yếu thua. Mỗi khi số nhân lực bắt đầu giảm, hàng đoàn xe tải chật ních tù nhân mới như những đoàn tàu chở gia súc lại đến. Đôi khi có tới hai mươi phần trăm "chuyến hàng" chết trên đường đi, nhưng chuyện đó chẳng ai quan tâm. Hầu hết tù mới là người Nga và Đông Âu từ phía Tây mang về. Thật may cho Boris rằng chính sách bạo lực của Stalin vẫn tiếp tục thịnh hành ở đó.

Kế hoạch của tôi là giết Boris. Dĩ nhiên tôi biết, dù khử kẻ này thì cũng không có gì bảo đảm tình thế của chúng tôi sẽ khá hơn lên. Đằng nào cũng vẫn là địa ngục, không dạng này thì dạng khác. Nhưng đơn giản là tôi không thể để con người như thế tiếp tục tồn tại trên đời này. Như Nikolai đã nói, hắn như con rắn độc. Ai đó sẽ phải chặt đầu nó.

Tôi không sợ chết. Có chăng là tôi sẵn sàng để Boris giết tôi như tôi giết hắn. Nhưng tôi không thể phạm sai lầm. Tôi phải đợi cho đến đúng cái khoảnh khắc khi tôi có thể tin tưởng tuyệt đối rằng sẽ chắc chắn kết liễu được mạng hắn chỉ bằng một phát súng. Tôi vẫn đóng vai người thư ký trung thành của hắn trong khi chờ cơ hội vồ mồi. Nhưng như tôi đã nói, hắn là kẻ cực kỳ thận trọng. Thằng Tác-ta kè kè bên cạnh hắn cả ngày lẫn đêm. Mà cho dù nếu hắn cho tôi cơ hội chỉ gặp mình hắn thì làm sao tôi giết hắn khi chỉ có một bàn tay, lại còn không có súng nữa? Nhưng tôi vẫn nhẫn nại chờ thời cơ. Nếu trên thế giới này quả thật có ông trời, thì lúc nào đó ngài ắt phải ban cơ hội cho tôi.

° ° °

Đầu năm 1948, có một tin đồn loan ra trong trại, rằng các tù binh Nhật cuối cùng cũng được phép trở về tổ quốc, rằng vào mùa xuân sẽ có một con tàu sang đây để đưa chúng tôi hồi hương. Tôi hỏi Boris về chuyện đó.

- Đúng là vậy, Trung úy Mamiya ạ, - hắn nói. - Tin đồn đúng đấy. Các anh sẽ được về nước, không lâu nữa đâu. Một phần do dư luận quốc tế, chúng tôi không thể giữ các anh lâu hơn nữa. Nhưng tôi có một đề nghị cho anh, Trung úy. Liệu anh có muốn ở lại đất nước này, không phải như tù binh chiến tranh mà như một công dân Xô Viết tự do không? Anh đã phục vụ tôi rất tốt, tôi tìm đâu ra người thay thế anh chứ? Về phần đây, nếu ở lại đây với tôi, anh cũng sẽ sống tươi hơn nhiều so với trở về Nhật mà chịu cực chịu nghèo. Nghe nói ở Nhật bây giờ cái ăn cũng chẳng có, người ta đang chết đói. Ở đây thì anh có tiền, có đàn bà, có quyền lực, gì cũng có.

Boris đưa ra đề nghị đó hoàn toàn nghiêm túc. Hắn biết để tôi ra đi thì có thể sẽ nguy hiểm bởi tôi biết bí mật của hắn. Nếu tôi từ chối, hắn có thể khử tôi để diệt khẩu. Nhưng tôi không sợ. Tôi cảm ơn lời mời của hắn nhưng nói rằng, tôi muốn về Nhật vì lo cho cha mẹ và chị gái. Boris nhún vai và không nói gì nữa.

Cơ hội tuyệt vời để giết Boris tự đến với tôi vào một đêm tháng Ba, khi ngày hồi hương đã đến gần. Lúc gần chín giờ tối, Thằng Tác-ta ra ngoài, để lại mình tôi với Boris. Tôi đang làm sổ sách kế toán như mọi khi, Boris ngồi viết thư nơi bàn. Ít khi chúng tôi ở lại văn phòng muộn như vậy. Thỉnh thoảng hắn nhấp một ngụm brandy trong khi ngoáy bút trên giấy. Trên giá mắc áo, bên cạnh áo da và mũ của Boris là khẩu súng lục đút trong bao da. Không phải loại súng lục to đùng do quân đội Liên Xô sản xuất mà là súng Walther PPK của Đức, hình như Boris lấy của một thiếu tá SS bị bắt làm tù binh tại trận chiến trên sông Danube. Súng luôn sạch như lau như ly, bóng loáng, trên báng súng có huy hiệu SS giống như hai lằn sét. Tôi vẫn thường quan sát Boris lau súng, và tôi biết trong băng đạn luôn luôn có đạn - tám viên đạn.

Hắn treo súng nơi giá mắc áo thì thật không bình thường. Vốn cực kỳ cẩn thận, mỗi khi làm việc ở bàn hắn luôn luôn cất súng trong ngăn kéo bên phải. Tuy nhiên, đêm ấy vì lý do nào đó hắn đang trong tâm trạng vui vẻ, nói nhiều nên không thận trọng như mọi khi. Cơ hội này thật không thể có đến lần thứ hai! Đã bao nhiêu lần tôi ôn đi ôn lại trong trí cái cảnh tôi dùng bàn tay duy nhất của mình mở khóa an toàn và đẩy viên đạn đầu tiên vào ổ đạn. Cuối cùng, quyết định hành động, tôi đứng dậy đi ngang qua giá mắc áo, vờ đi lấy một biểu mẫu. Boris cắm cúi viết thư, không nhìn về phía tôi. Ngang qua mắc áo, không dừng lại, tôi rút súng khỏi vỏ. Khẩu súng nhỏ nhắn nằm vừa khớp trong lòng bàn tay tôi. Gọn, nhẹ, rõ là thứ vũ khí tuyệt hảo. Tôi đứng trước mặt Boris và mở chốt an toàn. Đoạn, kẹp súng giữa hai đầu gối, tôi dùng tay phải kéo khóa nòng, đẩy một viên đạn vào ổ đạn. Tôi dùng ngón cái kéo kim hỏa, làm phát ra một âm thanh nhỏ, khô khốc. Nghe cái tiếng ấy, Boris ngẩng đầu lên, thấy tôi đang chĩa súng vào mặt hắn.

Hắn lắc đầu thở dài.

- Đáng buồn cho anh là súng không có đạn, Trung úy ạ, - hắn đậy nắp bút lại rồi nói. - Cầm súng lên nghe nặng nhẹ thì biết có đạn hay không. Thử lắc lắc xem. Tám viên đạn cỡ 7,65 ly, tổng cộng tám mươi gam.

Tôi không tin. Không trù trừ, tôi chĩa họng súng vào trán hắn rồi bóp cò. Chỉ nghe một tiếng tách khô khốc. Hắn nói đúng: súng không có đạn. Tôi đặt súng xuống cắn môi, không nghĩ được gì cả. Boris mở ngăn kéo lấy ra một nắm đạn, đặt vào lòng bàn tay chìa cho tôi xem. Hắn đã lừa tôi. Hắn đã dàn dựng tất cả từ đầu đến cuối để lừa tôi.

- Lâu nay tôi đã biết anh muốn giết tôi, - hắn nhẹ nhàng nói. - Anh đã tưởng tượng, đã hình dung trong đầu chuyện đó hàng bao nhiêu lần, tôi nói có đúng không nhỉ? Tôi đã bảo anh lâu rồi: đừng bao giờ dùng trí tưởng tượng mà mất mạng như chơi. Mà thôi, chẳng sao. Đơn giản là chẳng có cách nào anh giết được tôi hết.

Boris lấy hai viên từ đạn trên lòng bàn tay mình mà ném xuống dưới chân tôi. Chúng kêu lanh canh khi chạm sàn nhà chỗ tôi đứng.

- Đạn thật đấy, - hắn nói. - Tôi không đùa đâu. Nạp vào súng rồi bắn tôi đi. Cơ hội cuối cùng cho anh ấy. Nếu thực sự muốn giết tôi thì hãy ngắm cẩn thận. Nhưng nếu bắn trượt, anh phải hứa không bao giờ tiết lộ bí mật của tôi. Anh không được nói với bất cứ ai trên đời này về những gì tôi đang làm ở đây. Thỏa thuận thế nhé.

Tôi gật đầu. Tôi đã giữ lời.

Lại kẹp súng giữa hai đầu gối, tôi bấm nút tháo băng đạn ra rồi nạp hai viên đạn. Làm việc đó bằng một tay thật không dễ, ấy là chưa nói bàn tay ấy cứ run bần bật. Boris quan sát từng cử động của tôi, vẻ mặt bình thản. Thậm chí môi hắn còn thoảng cười. Gắn băng đạn vào chỗ cũ xong, tôi nhắm vào giữa hai mắt hắn, cố buộc tay mình thôi run rồi bóp cò. Căn phòng rung chuyển vì tiếng gầm của khẩu súng, nhưng viên đạn chệch qua tai Boris mà đập vào tường. Bụi vữa trắng xóa bay tứ tung. Tôi đã bắn trượt dù chỉ đứng cách hai mét. Tôi đâu phải xạ thủ tồi. Lúc còn đóng quân ở Tân Kinh, tôi vẫn thường hăm hở tập bắn. Và dù tôi chỉ còn bàn tay phải, nhưng bàn tay đó mạnh hơn của hầu hết người khác, hơn nữa khẩu Walther là loại súng có cấu trúc cực chuẩn, giúp ta nhắm chính xác, chắc chắn. Tôi không tin được rằng mình đã bắn lầm. Tôi lại kéo kim hỏa rồi nhắm lần nữa. Tôi hít một hơi dài rồi tự nhủ: "Mày phải giết kẻ này". Giết được hắn thì đời tôi mới có chút ý nghĩa.

- Lần này thì nhắm cho chắc, Trung úy Mamiya ạ. Viên đạn cuối cùng của anh đấy, - Boris vẫn cười cười.

Ngay lúc đó Thằng Tác-ta chạy bổ vào phòng, lăm lăm khẩu súng lục to tướng.

- Đừng xen vào, - Boris quát hắn. - Cứ để Mamiya giết tao. Nếu hắn giết được tao thì mày làm gì cứ làm.

Thằng Tác-ta gật rồi chĩa họng súng vào tôi.

Siết chặt khẩu Walther trong bàn tay phải, tôi chĩa thẳng ra, nhắm vào chính giữa cái nụ cười khinh mạn, tự tin của Boris rồi bình tĩnh bóp cò. Súng hơi nảy, nhưng tôi giữ chắc. Phát bắn không chê vào đâu được. Nhưng viên đạn lại sượt qua đầu Boris, lần này thì đập nát chiếc đồng hồ treo tường sau lưng Boris thành từng mảnh. Boris thậm chí không động cả lông mày. Hắn tựa lưng vào ghế, vẫn nhìn tôi chằm chằm bằng cặp mắt như của loài rắn. Khẩu súng rơi đánh choang xuống sàn.

Trong một lát không ai nói gì, không ai động đậy. Nhưng rồi Boris rời ghế, cúi xuống nhặt khẩu Walther lên. Hắn nhìn khẩu súng trong tay mình hồi lâu với vẻ đăm chiêu rồi đút lại vào bao súng trên giá mắc áo. Đoạn hắn vỗ vỗ tay tôi hai lần như để an ủi tôi.

- Tôi đã bảo là anh không giết được tôi mà, phải không? - Boris nói. Hắn lấy trong túi áo ra một gói Camel, rút một điếu cho vào mồm rồi châm lửa. - Không phải vì anh bắn tồi. Chỉ có điều anh không thể giết tôi được. Anh không đủ tư cách để giết tôi. Đó là lý do duy nhất khiến anh bỏ lỡ cơ hội. Giờ thì, thật đáng tiếc, anh sẽ phải mang lời nguyền của tôi mà trở về quê hương. Nghe đây: dù anh có ở đâu, anh sẽ không bao giờ hạnh phúc. Anh sẽ không yêu bất cứ ai, cũng không được bất cứ ai yêu. Lời nguyền của tôi đấy. Tôi sẽ không giết anh đâu. Nhưng tôi tha cho anh không phải vì lòng tốt. Bao năm nay tôi đã giết nhiều người rồi, và tôi sẽ còn giết nhiều người nữa. Nhưng tôi không bao giờ giết nếu không cần giết. Vĩnh biệt, Trung úy Mamiya. Một tuần nữa anh sẽ rời khỏi đây đến cảng Nakhodka. Bon voyage (1). Hai chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa.

Đó là lần cuối cùng tôi gặp Boris Lột da. Một tuần sau tôi rời trại tập trung, đi tàu thủy đến Nakhodka. Sau nhiều nỗi gian truân, rốt cuộc tôi cũng về đến Nhật Bản vào mùa xuân năm 1949.

Nói thật với ông, thưa ông Okada, tôi không hề biết liệu câu chuyện dông dài kỳ lạ này có ý nghĩa nào với ông không. Có khi đó chẳng qua chỉ là những lời lảm nhảm của một ông già. Nhưng tôi muốn, và phải kể cho ông nghe câu chuyện của tôi. Đọc xong thư, chắc ông đã hiểu rằng đời tôi hoàn toàn thất bại. Tôi đã mất tất cả. Tôi chẳng còn là gì cả. Tôi không làm được bất cứ cái gì. Bởi sức mạnh của lời nguyền đó, tôi không yêu ai mà không được ai yêu. Tôi chỉ còn là cái bóng biết đi, cứ thế biến vào bóng tối. Tuy nhiên, đã ký thác được câu chuyện của mình cho ông, thưa ông Okada, tôi cũng được chút vui lòng mà ra đi.

Mong sao ông sẽ sống một cuộc đời tốt đẹp, không phải ân hận về bất cứ điều gì.


Chú thích:

1.Tiếng Pháp, tạm dịch "Chúc đi đường bình an" - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

98#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:16:08 | Chỉ xem của tác giả

Chương 33

Một nơi nguy hiểm

Những người xem truyền hình

Người rỗng


Cửa bắt đầu mở. Bê chiếc khay bằng cả hai tay, gã bồi khẽ cúi chào rồi bước vào trong phòng. Tôi đứng trong bóng chiếc bình hoa, đợi gã bồi đi ra và tự hỏi khi hắn ra thì mình sẽ làm gì. Khi hắn ra, tôi sẽ có thể vào. Chắc chắn phải có người trong Phòng 208. Nếu mọi việc tiếp tục tiến triển như lần trước (mà quả thật là như vậy), thì cửa phải không khóa. Nhưng mặt khác tôi cũng có thể tạm thời quên cái phòng đi, hẵng theo chân gã bồi trước đã. Khi đó có thể tôi sẽ đến được nơi y xuất phát.

Tôi phân vân một lát không biết chọn đường nào, cuối cùng tôi quyết định đi theo gã bồi. Có cái gì đó nguy hiểm đang lẩn lút trong Phòng 208, cái gì đó có thể gây hậu quả chết người. Tôi vẫn nhớ như in cái tiếng gõ sắc gọn trong bóng tối, ánh lóe màu trắng đầy bạo lực của vật gì đó giống như con dao. Tôi phải thật thận trọng. Trước hết hãy cứ xem gã bồi sẽ dẫn tôi đi đâu. Sau đó tôi có thể quay lại phòng này. Chỉ có điều bằng cách nào? Tôi thọc hai tay vào túi quần, trong đó ngoài chiếc ví, ít tiền lẻ và chiếc khăn mùi soa còn có một cây bút bi nhỏ. Tôi rút cây bút ra, vạch một đường lên tay xem có còn mực không. Tôi có thể dùng bút này đánh dấu lên tường trong khi đi theo gã bồi. Sau đó tôi khả dĩ lần theo dấu mà trở về. Sẽ tìm được thôi.

Cửa mở, tên bồi bước ra tay không. Hắn đã để lại mọi thứ trong phòng kể cả chiếc khay. Đóng cửa phòng lại xong, hắn ưỡn thẳng người rồi vừa huýt sáo Chim ác là ăn cắp vừa tất tả đi ngược lại đường mà hắn đã đến đây. Tôi bước ra khỏi chỗ nấp sau chiếc bình hoa lớn mà theo gót y. Mỗi khi hành lang tẽ làm hai, tôi lại đánh một dấu X nhỏ màu xanh lơ trên bức tường màu kem. Gã bồi không hề ngoái lại. Cách hắn đi có cái gì đó thật đặc biệt. Hắn có thể ứng thí vào Cuộc thi Vô địch về Phong cách Đi đứng dành cho các Bồi Khách sạn Toàn Thế giới. Dáng đi của hắn như thể hùng hồn tuyên bố: "Đã là bồi khách sạn thì phải đi thế này này: đầu ngẩng cao, hàm chìa ra đằng trước, lưng thẳng, tay đung đưa đều đặn theo nhịp của Chim ác là ăn cắp, sải từng bước dài dọc hành lang". Hắn rẽ nhiều góc quanh, đi lên đi xuống nhiều đoạn cầu thang, đi dọc theo những quãng hành lang ánh sáng khi mờ khi tỏ, ngang qua những hốc thụt trên tường làm tạo ra nhiều loại bóng đen. Tôi giữ một khoảng cách hợp lý phía sau hắn nhằm tránh bị phát hiện, nhưng bám theo hắn cũng chẳng lấy gì làm khó. Mỗi khi gặp một góc quanh thì hắn cũng biến mất trong khoảnh khắc, nhưng chẳng việc gì phải lo mất dấu bởi hắn không ngừng huýt sáo vang lừng.

Như con cá hồi di cư ngược dòng sông rốt cuộc cũng tìm đến được một cái hồ yên tĩnh, gã bồi ra khỏi hành lang cuối cùng để bước vào một gian tiền sảnh khách sạn, chính là gian tiền sảnh lắm người nơi tôi đã thấy Wataya Noboru trên màn ảnh truyền hình. Tuy nhiên lần này gian tiền sảnh vắng lặng, chỉ có dăm người ngồi trước một chiếc tivi lớn xem chương trình tin tức của NHK. Gã bồi đã thôi huýt sáo từ khi sắp ra tới chỗ tiền sảnh để không làm phiền mọi người. Giờ thì hắn đang băng qua gian tiền sảnh rồi biến mất sau một cánh cửa có chữ đề "Chỉ dành cho nhân viên".

Giả vờ giết thì giờ, tôi đi tha thẩn quanh gian tiền sảnh, ngồi lên hết sofa này lại tới sofa khác, nhìn lên trần nhà, kiểm tra độ dày của tấm thảm dưới chân. Đoạn tôi đi lại chỗ một quầy điện thoại trả tiền, đút một đồng xu vào, nhưng cái điện thoại này cũng chết câm như điện thoại trong căn buồng kia. Tôi bèn nhấc ống nghe một điện thoại nội bộ khách sạn rồi bấm số "208", nhưng cả điện thoại này cũng chết.

Thế rồi tôi ngồi xuống một chiếc ghế cách xa chỗ đám người kia đang ngồi xem tivi để có thể kín đáo quan sát họ. Nhóm kia gồm có mười hai người, chín đàn ông và ba đàn bà, hầu hết trạc ba mươi, bốn mươi tuổi, có hai người trạc ngoài năm mươi. Toàn bộ đám đàn ông đều mặc com-lê hay áo khoác thể thao, cà-vạt chỉnh tề, đi giày da. Họ chỉ khác nhau chút ít về chiều cao và cân nặng, còn thì chẳng ai có nét gì đặc biệt. Ba người đàn bà đều khoảng ngoài ba mươi tuổi, ăn mặc tươm tất, trang điểm cẩn thận. Thoạt trông có thể ngỡ rằng họ vừa đi dự họp mặt bạn học cũ về, chỉ có điều họ lại ngồi riêng rẽ và chẳng tỏ dấu hiệu gì là quen biết nhau. Thật ra nhóm này hẳn đều là những người xa lạ, chỉ tình cờ gặp nhau ở chỗ cùng quan tâm đến những gì đang chiếu trên màn hình tivi. Họ không hề trao đổi ý kiến, không nhìn nhau cũng chẳng gật đầu với nhau.

Ngồi trên chiếc ghế ở đằng xa, tôi cũng theo dõi tin tức. Các bản tin chẳng có gì đặc biệt lý thú đối với tôi - một ông thống đốc cắt băng khánh thành con đường mới, một lô bút chì dành cho trẻ con bị phát hiện là có chứa độc tố, một tài xế xe tải tử nạn vì đâm phải chiếc xe buýt chở khách du lịch ở Asahikawa do đường đóng băng trơn trượt và bão tuyết lớn nên tầm nhìn kém, vài khách du lịch bị thương, đó là một nhóm khách đang trên đường đến khu nghỉ có suối nước nóng. Phát ngôn viên đọc lần lượt từng mẩu tin bằng giọng bình thản, như đang bày các quân bài ra trước mặt. Tôi nghĩ đến chiếc tivi trong nhà ông Honda, nhà chiêm tinh. Tivi của ông lúc nào cũng bật kênh NHK.

Hình ảnh các tin tức truyền qua không khí này vừa thực lại vừa không đối với tôi. Tôi thấy thương cảm cho tay tài xế xe tải ba mươi bảy tuổi chết trong vụ tai nạn. Không ai muốn chết như thế cả - quằn quại chết dần vì nội tạng bị giập nát giữa một cơn bão tuyết ở Asahikawa. Nhưng tôi không quen biết tay tài xế đó, anh ta cũng chẳng biết tôi. Thành thử mối cảm thông của tôi đối với anh ta chẳng hề mang tính cá nhân. Tôi chỉ có thể cảm thấy một mối cảm thông chung chung đối với một con người chẳng may gặp phải cái chết bất ngờ, đau đớn. Cái cảm xúc chung chung đó có thể rất thực với tôi, nhưng đồng thời cũng không thực chút nào. Tôi rời mắt khỏi màn hình tivi mà nhìn quanh gian tiền sảnh rộng lớn, vắng tanh một lần nữa. Cũng chẳng có gì để chú mục vào. Không thấy nhân viên khách sạn, quầy bar nhỏ thì chưa mở. Vậy duy nhất trên tường là bức tranh sơn dầu lớn vẽ một ngọn núi.

Khi lại quay sang màn hình tivi, tôi nhìn thấy cận cảnh một gương mặt quen thuộc - Wataya Noboru. Tôi ngồi thẳng dậy, chú ý lắng nghe lời của phóng viên. Có chuyện gì đó đã xảy ra với Wataya Noboru. Tôi đã bỏ mất đoạn đầu của bản tin. Chẳng mấy chốc sau, bức ảnh biến mất và phóng viên xuất hiện trên màn hình. Anh ta đeo cà vạt, mặc áo khoác, đứng trước cửa vào một tòa nhà lớn, tay cầm micro.

"... lập tức đưa vào Bệnh viện của Trường Đại học Y khoa Phụ nữ Tokyo và hiện đang được chăm sóc đặc biệt, nhưng cho đến giờ chúng ta chỉ biết rằng ông vẫn chưa hồi tỉnh vì bị một kẻ tấn công lạ mặt đánh nứt sọ. Các bác sĩ từ chối bình luận, liệu vết thương có nguy hiểm đến tính mạng ông hay không. Tường trình chi tiết về tình trạng của ông sẽ được công bố sau. Tường thuật trực tiếp từ cổng chính Đại học Y khoa Phụ nữ Tokyo..."

Ống kính lại quay về phòng thu. Người dẫn chương trình bắt đầu đọc một mẩu giấy người ta vừa đưa cho. "Theo báo cáo mới nhất. Dân biểu Wataya Noboru đã bị trọng thương ở đầu trong một cuộc hành hung chí mạng. Kẻ hành hung trẻ tuổi đã đột nhập vào văn phòng của ông tại Quận Minata, Tokyo lúc 11 giờ 30 trưa nay và, ngay trước mặt những người đang tiếp kiến Dân biểu Wataya Noboru, đã dùng một cây gậy đánh bóng chày đánh mấy cú mạnh liên tiếp lên đầu dân biểu Wataya gây thương tích nghiêm trọng cho ông."

Màn hình chiếu cảnh ngôi nhà nơi tọa lạc văn phòng của Wataya Noboru.

"Hung thủ giả vờ là khách đến thăm văn phòng của Wataya Noboru, giấu cây gậy bóng chày trong một chiếc ống dài thường dùng để đựng các bản đồ án. Các nhân chứng cho biết, y đã lôi gậy ra khỏi ống rồi tấn công mà chẳng nói chẳng rằng."

Màn hình chiếu cảnh văn phòng nơi xảy ra tội ác. Ghế nằm lăn lóc trên sàn, gần đó là một vũng máu đen kịt.

"Vụ hành hung diễn ra bất ngờ đến nỗi cả Dân biểu Wataya lẫn những người đang ở trong phòng cùng ông đều không kịp trở tay. Sau khi kiểm tra xem có chắc là Dân biểu Wataya đã bất tỉnh chưa, hung thủ mới rời khỏi hiện trường, tay vẫn nắm cây gậy bóng chày. Các nhân chứng cho biết hung thủ trạc ba mươi tuổi, mặc áo khoác màu xanh lính thủy, đội mũ len trượt tuyết cũng màu xanh lính thủy, đeo kính sẫm màu. Hắn cao xấp xỉ 1,75 mét, có một vết trông như vết bầm trên má phải. Cảnh sát đang truy lùng hung thủ, dường như hắn đã kịp trà trộn vào đám đông mà biến mất không dấu vết."

Màn hình cho thấy cảnh sát đang ở hiện trường nơi xảy ra tội ác, sau đó là cảnh đường phố nhộn nhịp ở khu Akasaka.

Gậy bóng chày? Vết bầm trên mặt? Tôi cắn môi.

"Wataya Noboru là một ngôi sao đang lên trong giới kinh tế gia và các nhà bình luận chính trị. Mùa xuân năm nay ông đã được bầu vào Hạ viện, nối bước bác mình là Wataya Yoshiraka, thành viên lâu năm của Nghị viện. Từ đó ông đã được công chúng rộng rãi thừa nhận là một nhà chính trị và nhà luận chiến có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Người ta đặt rất nhiều kỳ vọng vào ông. Hiện cảnh sát đang tiến hành điều tra theo hai hướng: một, đây có thể là vụ hành hung có động cơ chính trị, hai, có thể là trả thù cá nhân. Chúng tôi xin lặp lại một lần nữa tin mới nhất: sáng nay, Dân biểu Wataya Noboru, một thành viên lừng tiếng của Hạ viện, đã bị một kẻ lạ mặt hành hung gây thương tích nghiêm trọng ở đầu, được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Hiện vẫn chưa có thông tin chi tiết nào về tình trạng của ông. Còn bây giờ là các tin tức khác..."

Đến đó thì hình như có người tắt tivi. Giọng phát ngôn viên bị cắt ngang nửa chừng, im lặng trùm xuống gian tiền sảnh. Mọi người nãy giờ căng thẳng bắt đầu đổi tư thế cho thoải mái. Rõ ràng là họ tụ tập lại trước màn hình tivi chỉ vì mục đích duy nhất là nghe bản tin về Wataya Noboru. Sau ki tivi đã tắt, không ai cử động. Không ai phát ra một tiếng nào.

Ai đã dùng gậy bóng chày mà đánh Wataya Noboru? Theo người ta mô tả, hung thủ có ngoại hình giống hệt tôi - áo khoác và mũ màu xanh lính thủy, kính râm, vết bầm trên má, chiều cao, độ tuổi - và cây gậy bóng chày. Tôi đã để cây gậy bóng chày dưới đáy giếng hàng mấy tháng trời, nhưng nó vừa biến mất. Nếu đó cũng là cây gậy được dùng để đánh vỡ sọ Wataya Noboru thì ắt hẳn ai đó đã mang nó ra khỏi giếng nhằm chính mục đích này.

Ngay lúc đó cái nhìn của một trong những phụ nữ ở nhóm người kia hướng vào tôi - đó là một phụ nữ gày nhẳng, xương hàm bạnh trông như con cá. Cô ta đeo bông tai màu trắng ngay chính giữa cặp dái tai dài. Cô ta đã xoay người trên ghế rồi cứ giữ nguyên tư thế đó mà nhìn tôi không rời mắt, không thay đổi sắc mặt. Kế đó người đàn ông hói đằng sau cô ta cũng đưa mắt theo hướng nhìn của cô mà ngoái lại nhìn tôi. Về chiều cao và vóc dáng, ông ta trông giống tay chủ hiệu giặt là cạnh nhà ga. Từng người một, những người khác cũng ngoái về phía tôi, như thể đến giờ họ mới biết rằng tôi đang có mặt ở đó cùng họ. Trước cái nhìn chòng chọc của họ, tôi không thể không hiểu ra rằng mình đang mặc áo khoác vào đội mũ màu xanh lính thủy, rằng tôi cao xấp xỉ 1,75 mét, rằng tôi ba mươi tuổi, rằng tôi có vết bầm trên má phải. Những người đó hình như cũng biết tôi là em rể của Wataya Noboru, và tôi không chỉ ghét hắn mà còn căm thù hắn. Tôi thấy điều đó trong mắt họ. Tôi bấu chặt hai tay ghế, phân vân không biết phải làm gì. Tôi không dùng gậy bóng chày để đánh Wataya Noboru. Tôi không phải loại người đó, hơn nữa tôi không còn cây gậy. Nhưng chắc chắn họ sẽ chẳng đời nào tin tôi. Họ chỉ tin những gì đã thấy trên truyền hình.

Tôi chầm chậm đứng dậy khỏi ghế, đi về phía hành lang đã dẫn tôi đến gian tiền sảnh. Tôi phải rời khỏi nơi này càng nhanh càng tốt. Chẳng ai hân hoan chào đón tôi ở đây. Vừa đi được vài bước, tôi ngoảnh lại thì thấy có mấy người đã đứng dậy đi theo tôi. Tôi rảo bước, cắt ngang qua gian tiền sảnh về phía hành lang nọ. Tôi phải tìm đường về lại Phòng 208. Trong mồm tôi khô khốc.

Tôi mới băng qua được gian tiền sảnh và giẫm bước đầu tiên vào hành lang thì đột nhiên tất cả đèn đóm trong khách sạn vụt tắt không một tiếng động. Một bức màn đen nặng trịch từ đâu rơi phập xuống nhanh như một lưỡi rìu. Ai đó thét lên sau lưng tôi, gần hơn tôi tưởng rất nhiều, tận trong lõi giọng thét đó có một nỗi căm thù rắn như đá.

Tôi vẫn dấn bước trong bóng tối, vừa đi vừa cẩn thận dò dẫm hai tay theo mặt tường. Tôi phải thoát khỏi bọn họ. Nhưng bỗng tôi chạm phải một cái bàn nhỏ, đánh đổ một cái gì trong bóng tối, hẳn là bình lọ gì đó. Nó vừa lăn tròn vừa kêu lanh canh trên sàn. Cú va chạm khiến tôi ngã dúi dụi xuống mặt thảm. Tôi lồm cồm bò dậy, lại mò mẫm đi dọc theo hành lang. Ngay khi đó vạt áo khoác của tôi bị giật mạnh lại như vướng phải đinh. Phải một thoáng sau tôi mới hiểu chuyện gì đã xảy ra. Ai đó đang túm áo khoác tôi mà lôi lại. Không chần chừ, tôi cởi phắt áo khoác rồi lại sấn tới trong bóng tối. Tôi rẽ một góc quanh, lên nhầm một cầu thang, lại rẽ một góc quanh nữa, đầu và vai tôi cứ va vào hết vật này đến vật khác. Có lúc tôi vấp một bước chân, ngã dập mặt vào tường. Thế nhưng tôi không thấy đau, chỉ hơi ê ẩm phía sau mắt. Không thể để họ tóm được tôi ở đây.

Hoàn toàn không có ánh sáng nào, không có cả đèn báo hiệu khẩn cấp mà đáng lẽ phải bật lên trong trường hợp khách sạn mất điện. Sau một hồi cuống cuồng tháo chạy không biết trời đất là gì nữa trong bóng tối như mực đó, tôi dừng lại lấy hơi, lắng nghe những tiếng động sau lưng mình. Nhưng tôi chẳng nghe thấy gì khác ngoài tiếng tim mình đập như điên. Tôi quỳ xuống nghỉ một chút. Hẳn đám người kia đã bỏ cuộc không đuổi theo tôi nữa. Nếu còn tiến tới thêm một chút trong bóng tối, có khi tôi sẽ lạc đường trong cái mê cung hun hút này. Tôi quyết định cứ ở lại đây, tựa lưng vào tường, cố trấn tĩnh lại.

Ai đã tắt đèn đi vậy? Tôi không thể tin đó là ngẫu nhiên. Điều đó đã xảy ra đúng lúc tôi bước vào hành lang trong khi người ta đang cố bắt kịp tôi. Rất có thể ai đó đã làm vậy để cứu nguy cho tôi. Tôi cởi mũ len ra, dùng khăn tay lau mồ hôi trên mặt rồi lại đội mũ vào. Tôi bắt đầu nhận thấy cái đau ở những phần khác trên cơ thể, nhưng hình như tôi không bị thương tích nào đáng kể. Tôi nhìn những cây kim lân tinh của đồng hồ đeo tay trong bóng tối, rồi lại nhớ ra rằng đồng hồ đã đứng từ lúc 11 giờ 30. Đó là lúc tôi trèo xuống giếng, cũng là lúc ai đó đã dùng gậy bóng chày đánh Wataya Noboru tại văn phòng của hắn.

Liệu có phải chính tôi đã làm việc đó không?

Trong bóng tối nhường này, điều ấy đâm ra có thể là một khả năng lý thuyết. Có thể là, ở trên kia, trong thế giới thực, tôi đã đánh hắn bằng gậy bóng chày và làm hắn trọng thương, nhưng tôi là người duy nhất không biết điều đó. Có lẽ nỗi thâm thù bên trong tôi đã tự ý đi đến hành động đó mà chính tôi không biết, để nện hắn một đòn chí tử. Nhưng tôi nói là đi ư? Muốn vậy tôi phải đáp tàu điện tuyến Odakyu đến Shinjuku rồi đổi sang tàu điện ngầm đến Akasaka. Liệu tôi có thể làm từng ấy chuyện mà chính mình không biết không? Không, nhất định là không, trừ phi còn có một cái tôi khác.

"Ông Okada", ai đó nói cạnh tôi trong bóng tối.

Tim tôi như muốn bật ra khỏi họng. Tôi chịu không hiểu nổi giọng nói đó phát ra từ đâu. Bắp thịt tôi căng cứng trong khi tôi căng mắt nhìn vào bóng tối, nhưng dĩ nhiên chẳng nhìn thấy gì.

"Ông Okada", giọng nói lại vang lên. Một giọng đàn ông khe khẽ. "Ông Okada đừng lo. Tôi cùng phe với ông. Chúng ta đã gặp nhau ở đây một lần. Ông có nhớ không?"

Tôi nhớ. Tôi biết giọng nói này. Đó là giọng của gã đàn ông không mặt. Nhưng tôi cần phải thận trọng. Tôi không sẵn sàng trả lời.

- Ông phải rời khỏi nơi này càng nhanh càng tốt, ông Okada ạ. Đèn sáng là họ sẽ tìm thấy ông ngay. Theo tôi, tôi biết một lối tắt.

Gã đàn ông bật một cây đèn bút. Nó hắt ra một tia sáng nhỏ xíu, song vừa đủ để cho tôi nhìn bước chân. "Lối này", gã giục. Tôi lồm cồm đứng dậy hấp tấp theo sau gã.

- Chắc hẳn ông là người đã tắt đèn cho tôi phải không? - Tôi hỏi gã từ đằng sau.

Gã không đáp, nhưng cũng không phủ nhận.

- Cám ơn, - tôi nói. - Suýt chút nữa thì...

- Mấy người đó nguy hiểm lắm, - gã nói. - Nguy hiểm hơn ông tưởng nhiều.

Tôi hỏi gã:

- Có thật là Wataya Noboru bị đánh trọng thương không?

- Trên tivi người ta nói thế, - gã đáp, cẩn thận lựa lời.

- Nhưng tôi không làm việc ấy, - tôi nói. - Lúc đó tôi đang ngồi dưới giếng, một mình.

- Nếu ông bảo vậy, tôi tin ông nói đúng, - gã đáp với vẻ thản nhiên. Gã mở cánh cửa rồi vừa rọi đèn xuống dưới chân vừa bước lên một cầu thang ở phía bên kia cửa. Đó là một cầu thang dài đến nỗi đi được nửa chừng thì tôi không còn biết hai chúng tôi đang lên hay đang xuống nữa. Thậm chí tôi không chắc đây có phải là cầu thang không.

- Liệu có người nào khả dĩ làm chứng rằng lúc đó ông đang ở dưới giếng không? - Gã hỏi mà không ngoái lại.

Tôi không nói gì. Chẳng có người nào như vậy cả.

- Trong trường hợp đó, việc khôn ngoan nhất ông nên làm là chạy trốn. Họ đã tự xác định rằng ông là thủ phạm.

- "Họ" là ai?

Lên đến cầu thang, gã đàn ông rẽ phải, đi một quãng ngắn, mở một cánh cửa rồi bước ra hành lang. Đến đây gã dừng lại nghe ngóng động tĩnh. "Ta phải nhanh lên. Nắm lấy áo tôi".

Tôi nắm lấy vạt dưới áo khoác của gã theo lời gã.

Gã đàn ông không mặt nói:

- Những người đó luôn luôn dán chặt vào chiếc tivi. Chính vì lẽ đó ông mới bị người ta căm ghét đến vậy ở đây. Họ rất thích ông anh vợ của ông.

- Ông biết tôi là ai à? - Tôi hỏi.

- Dĩ nhiên tôi biết.

- Vậy thì ông có biết, Kumiko giờ đang ở đâu không?

Gã đàn ông không nói gì. Tôi nắm chặt đuôi áo khoác gã, như thể hai chúng tôi đang chơi một trò chơi nào đó trong bóng tối, hối hả rẽ một góc quanh nữa, xuống một cầu thang ngắn, băng qua cánh cửa nhỏ bí mật, qua một lối đi kín đáo trần thấp lè tè, lại vào một hành lang nữa. Cái lộ trình kỳ lạ lắt léo này của gã đàn ông không mặt chả khác gì một hành trình vô tận băng qua lòng ruột của một bức tượng đồng khổng lồ.

- Cho tôi nói điều này, ông Okada. Tôi không biết được mọi điều ở đây đâu. Nơi này rất rộng lớn, phạm vi trách nhiệm của tôi chủ yếu là ở gian tiền sảnh. Có nhiều chuyện mà tôi không biết lắm.

- Ông có biết tay bồi hay huýt sáo không?

- Không, tôi không biết. Ở đây chẳng có bồi nào cả, huýt sáo hay không huýt sáo cũng vậy. Nếu ông có thấy một gã bồi đâu đó ở đây thì thật ra hắn không phải là bồi đâu: ấy là một cái gì đó cải dạng thành gã bồi. Mà tôi quên hỏi ông, ông muốn đến Phòng 208 đúng không?

- Đúng. Tôi cần gặp một người đàn bà ở đó.

Nghe vậy, gã đàn ông chẳng nói gì. Gã không gặng hỏi chi tiết về người đàn bà, cũng chẳng hỏi xem tôi có chuyện gì cần gặp cô ta. Gã vẫn tiếp tục đi dọc hành lang với những sải bước đầy tự tin của một người biết rõ nơi này, lôi tôi lẵng nhẵng theo sau như chiếc xà lan, qua một lộ trình phức tạp.

Rốt cuộc, không báo trước, gã đứng khựng lại trước một cánh cửa. Tôi đâm sầm vào gã từ đằng sau, gần như làm gã ngã bổ chửng. Lúc va chạm, tôi cảm thấy da thịt gã nhẹ bẫng, dường như tôi mới va vào một cái vỏ ve sầu rỗng. Gã nhanh chóng gượng thẳng người dậy rồi dùng đèn pin bỏ túi soi lên biển số phòng: 208.

- Cửa này không khóa, - gã nói. - Ông cầm đèn theo mà dùng. Tôi có thể quay về trong bóng tối được. Vào xong thì khóa cửa lại, đừng mở ra cho bất cứ ai. Dù có việc gì đi nữa, hãy cố giải quyết cho nhanh rồi quay về nơi ông xuất phát. Nơi này nguy hiểm lắm. Ông là kẻ đột nhập không ai mời mà đến, và tôi là người duy nhất đứng về phía ông. Đừng quên điều đó.

- Ông là ai? - Tôi hỏi.

Gã đàn ông trao cây đèn pin cho tôi như trao gậy tiếp sức. "Tôi là người rỗng", gã nói. Hướng khuôn mặt không có mặt về phía tôi, gã đứng trong bóng tối đợi tôi trả lời, nhưng tôi không tìm được lời nào cho đúng. Cuối cùng, chẳng nói chẳng rằng, gã biến mất. Mới giây trước gã còn đứng ngay trước mặt tôi, giây sau gã đã bị nuốt chửng vào bóng tối. Tôi rọi đèn về phía gã, nhưng chỉ có một mảng tường trắng xỉn hiện ra từ bóng tối.

° ° °


Như gã đàn ông đã nói, cửa Phòng 208 không khóa. Quả đấm cửa xoay trong tay tôi không một tiếng động. Tôi cẩn thận tắt đèn pin rồi cố bước vào càng êm càng tốt. Cũng như trước, phòng im lặng như tờ, tuyệt không động tĩnh. Có tiếng những viên đá đang tan kêu răng rắc khe khẽ trong xô đựng đá. Tôi bật đèn pin rồi quay lưng lại khóa cửa. Then cửa cài vang lên một tiếng cạch kim khí khô khốc, nghe to một cách bất thường trong phòng này. Trên chiếc bàn ở giữa phòng là chai Cutty Sark vẫn chưa mở, hai chiếc ly sạch, xô đựng đầy nước đá còn mới nguyên. Chiếc khay màu bạc cạnh bình hoa phản chiếu đèn pin hắt ra một ánh lóe đầy nhục cảm, như thể nó đã đợi tôi từ lâu lắm. Dường như để đáp lại, mùi phấn hoa trở nên gắt hơn trong một khoảnh khắc. Không khí quanh tôi đặc quánh lại, trọng lực dường như tăng lên. Tựa lưng vào cánh cửa, tôi quan sát chuyển động quanh tôi trong ánh đèn pin.

Nơi này nguy hiểm lắm. Ông là kẻ đột nhập không ai mời mà đến, và tôi là người duy nhất đứng về phía ông. Đừng quên điều đó.

- Đừng rọi ánh sáng ấy lên tôi, - một giọng phụ nữ vang lên từ phòng trong. - Ông có hứa là sẽ không rọi ánh sáng ấy lên tôi không?

- Tôi hứa, - tôi nói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

99#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:18:59 | Chỉ xem của tác giả


Chương 34

Ánh sáng đom đóm

Phá bỏ lời nguyền

Thế giới nơi đồng hồ báo thức reo vào buổi sáng


- Tôi hứa, - tôi nói, nhưng giọng tôi có vẻ giả tạo thế nào đó, như khi ta nghe thu băng giọng nói của chính mình vậy.

- Tôi muốn nghe ông nói điều này: rằng ông sẽ không rọi ánh sáng đó lên tôi.

- Tôi sẽ không rọi ánh sáng đó lên cô, tôi hứa.

- Ông có hứa thật không? Ông nói thật với tôi chứ?

- Tôi nói thật với cô mà. Tôi không nuốt lời hứa đâu.

- Thế thì tôi chỉ muốn là, nếu ông không phiền, xin hãy rót hai ly whisky có đá rồi mang vào đây. Nhớ cho nhiều đá nhé.

Cô ta nói bằng giọng ngọng ngịu chả chớt nghe như trẻ con, mặc dù giọng nói thuộc về một phụ nữ trưởng thành, nhạy cảm. Tôi đặt cây đèn pin xuống bàn theo chiều dọc, rồi đi pha whisky. Tôi cho đá vào hai ly rồi rót whisky lên. Tôi phải hình dung rõ ràng tường tận trong đầu về từng động tác mà hai bàn tay tôi đang làm. Những bóng đen lớn chập chờn trên tường theo từng cử động của tay tôi.

Tôi đi vào phòng trong, tay phải cầm hai ly whisky, tay trái cầm đèn pin rọi lên sàn để soi đường. Không khí có vẻ lạnh hơn trước. Hẳn là khi tháo chạy trong bóng tối tôi đã vã mồ hôi khắp người mà không biết, giờ mồ hôi ráo đi mới thấy lạnh. Tôi nhớ mình đã cởi áo khoác bỏ lại trên đường chạy.

Như đã hứa, tôi tắt đèn nhét vào túi quần. Rồi tôi mò mẫm đặt một ly whisky lên bàn, đoạn cầm ly còn lại đến ngồi ở chiếc ghế có tay dựa bên cạnh giường. Tối như mực, nhưng tôi vẫn nhớ cách bố trí đồ đạc trong phòng.

Tôi như nghe tiếng những tấm ga trải giường cọ vào nhau sột soạt. Cô ta đang nhổm dậy trên đệm, tựa lưng vào tấm ván đầu đệm, ly rượu cầm trong tay. Cô ta khẽ lắc ly, khuấy đá rồi nhấp một ngụm whisky. Trong bóng tối, tất cả những âm thanh đó nghe như tiếng động nền trong một vở kịch truyền thanh. Tôi ngửi mùi thơm rượu whisky trong tay, nhưng không uống.

- Lâu lắm rồi mới gặp nhau nhỉ, - tôi nói. Giọng tôi giờ nghe có vẻ đúng là giọng tôi hơn ban nãy.

- Thế kia à? - cô ta nói. - Em không hiểu nói vậy là sao, "lâu" hay "lâu lắm"?

- Theo tôi nhớ thì chính xác là một năm và năm tháng, - tôi nói.

- Ừ thì thế, - cô ta đáp, vẻ thờ ơ. - Em không nhớ chính xác.

Tôi đặt ly của mình xuống sàn rồi bắt tréo chân.

- Lần trước tôi đến đây thì cô không có mặt phải không?

- Đương nhiên là em có mặt. Ngay ở đây. Trên giường. Em luôn luôn ở đây mà.

- Nhưng tôi biết chắc là lần đó tôi vào Phòng 208. Đây là Phòng 208 đấy chứ?

Cô xoay xoay viên đá trong ly rồi vừa nói vừa cười:

- Em thì em biết chắc là anh không biết chắc. Lần trước anh vào Phòng 208 khác, cái đó thì chắc chắn.

Có cái gì đó bất an trong giọng cô ta khiến tôi bứt rứt khó chịu. Có lẽ rượu tác động đến cô ta chăng. Tôi tháo mũ len đặt lên đầu gối.

Tôi bảo cô ta:

- Điện thoại không gọi được mà, cô biết đấy.

- Vâng, em biết, - cô ta nói, giọng có vẻ cam chịu. - Người ta cắt rồi. Người ta biết em rất hay gọi điện thoại mà.

- Họ là những người đang giữ cô ở đây phải không?

- Nói thế nào nhỉ. Em chả biết nữa. - Cô ta vừa nói vừa cười khẽ. Không khí xáo động làm nụ cười cô run lên.

Quay mặt về phía cô, tôi nói:

- Tôi nghĩ mãi về cô suốt bấy lâu nay. Ngay từ lần đầu tôi đến đây. Nghĩ về việc cô là ai, cô làm gì ở đây.

- Nghe thú nhỉ, - cô nói.

- Tôi đã tưởng tượng ra đủ thứ khả năng, nhưng chưa thể chắc điều gì cả. Tôi chỉ mới ở giai đoạn tưởng tượng thôi.

- Được rồi, được rồi, - cô nói, như thể cảm kích. - Vậy là anh chưa thể chắc điều gì cả, anh vẫn đang ở giai đoạn tưởng tượng.

- Đúng vậy, - tôi nói. - Mà tôi cũng có thể nói thế này nữa: tôi nghĩ em là Kumiko. Ban đầu tôi chưa nhận ra, nhưng giờ thì tôi càng lúc càng tin chắc thế.

- Ồ, anh tin chắc thế à? - Cô im lặng một chút rồi nói, có vẻ thích thú. - Vậy em là Kumiko?

Trong một khoảnh khắc tôi mất hết cảm giác về phương hướng, như thể tất cả những gì tôi đang làm đều trái khoáy: tôi đã đến nhầm nơi, nói nhầm lời với nhầm người. Chỉ tổ mất thì giờ, một con đường vòng vô nghĩa. Nhưng tôi cố giữ thẳng người trong bóng tối. Tôi bấu chặt cả hai tay vào chiếc mũ đặt trên lòng mình như để kiểm tra tính xác thực.

- Phải, tôi nghĩ em là Kumiko. Bởi vì mọi chuyện đều từ đó mà ra cả. Em đã từ đây mà gọi điện thoại cho tôi không biết bao nhiêu lần. Em cố truyền đạt cho tôi một thông điệp bí mật nào đó. Một bí mật về Kumiko. Một bí mật mà Kumiko thật trong đời thực không đủ sức nói cho tôi biết. Thế nên em phải làm việc đó thay cô ấy, bằng những lời như một thứ ám hiệu.

Cô ta không nói gì một lát. Cô nâng ly lên nhấp một ngụm whisky nữa, rồi bảo:

- Em không biết. Nhưng nếu anh đã nghĩ vậy thì chắc là đúng. Có thể em đúng là Kumiko thật. Nhưng em không chắc lắm. Thành thử... nếu quả thật... em đúng là Kumiko thực... thì hẳn em có thể nói với anh bằng giọng của Kumiko... Đúng không? Nếu vậy thì sẽ hơi rối một chút. Không sao chứ?

- Không sao cả, - tôi nói. Lại một lần nữa, giọng tôi như mất đi phần nào bình tĩnh và một cảm thức về thực tại.

Cô hắng giọng trong bóng tối.

- Thì đây, thử xem. Em không biết liệu có được không. - Cô lại bật cười khẽ. - Có dễ đâu mà. Anh có vội không? Anh nán lại ở đây một chút được không?

- Tôi không biết nữa, - tôi nói.

- Đợi một chút thôi. Xin lỗi. E hèm... Em xong ngay đây, bây giờ thôi.

Tôi đợi.

- Vậy là, anh đến đây để tìm em. Anh muốn gặp em, phải không? - giọng nghiêm trang của Kumiko vang lên trong bóng tối.

Đã lâu, từ buổi sáng mùa hè kia, khi tôi kéo khóa áo cho Kumiko, tôi không được nghe giọng nói của nàng. Lúc ấy nàng xức một thứ nước hoa mới ở sau tai, nước hoa của kẻ nào khác tặng. Hôm ấy nàng bỏ nhà đi và không bao giờ trở về. Dù cái giọng vang lên trong bóng tối kia là giọng thực hay giọng giả, nó đưa tôi quay lại buổi sáng đó trong một khoảnh khắc. Tôi ngửi thấy được mùi nước hoa, thấy được làn da trắng của lưng Kumiko. Khoảnh khắc đó đặc sệt và nặng trĩu trong bóng tối - có lẽ đặc và nặng hơn là trong thực tại. Tôi siết chặt chiếc mũ trong hai bàn tay.

- Nói đúng ra, anh không đến đây để gặp em. Anh đến là để đưa em về, - tôi nói.

Cô khẽ thở dài trong bóng tối.

- Sao anh lại tha thiết muốn đưa em về như vậy chứ?

- Bởi vì anh yêu em, - tôi nói. - Và anh biết em cũng yêu anh, em cần anh.

- Anh có vẻ tự tin quá nhỉ, - Kumiko - hay giọng của Kumiko - nói. Không có vẻ gì là chế giễu trong giọng của nàng. Nhưng trong giọng đó cũng chẳng có gì là ấm áp.

Tôi nghe thấy tiếng những viên nước đá trong phòng bên đổi chỗ cho nhau.

- Nhưng muốn đưa được em về, anh còn phải giải một vài câu đố, - tôi nói.

- Bây giờ mới bắt đầu thì liệu có hơi muộn không? Em sợ anh không có nhiều thời gian lắm đâu.

Nàng nói đúng. Thời gian không còn nhiều mà lại có quá nhiều thứ cần phải nghĩ. Tôi lấy lưng bàn tay lau mồ hôi đọng trên lông mày. Đây có lẽ là cơ hội cuối cùng của tôi, tôi tự nhủ. Tôi cần phải nghĩ.

- Anh cần em giúp, - tôi nói.

- Giúp thế nào? - Giọng Kumiko hỏi. - Vị tất em đã giúp anh được. Nhưng em sẽ cố.

- Câu hỏi đầu tiên là tại sao em bỏ anh. Anh muốn biết lý do thật. Anh biết trong thư em nói gì - rằng em đã dan díu với người khác. Dĩ nhiên anh đã đọc thư. Đọc đi đọc lại, đọc mãi. Thật ra nó cũng giải thích được một phần nào đó. Nhưng anh không tin ấy là lý do thật. Nghe nó không thật lắm. Anh không bảo đó là nói dối, nhưng anh không khỏi cảm thấy đó chẳng qua chỉ là một thứ ẩn dụ thôi.

- Ẩn dụ?! - Nghe giọng cô ta thật sự sửng sốt. - Em không hiểu... Nếu ngủ với người đàn ông là ẩn dụ cho một cái gì đó thì em muốn biết đó là cái gì?

- Ý anh muốn nói là anh cảm thấy giải thích như thế chỉ để mà giải thích thôi. Nó chẳng dẫn tới đâu hết. Nó chỉ lướt trên bề mặt. Càng đọc thư em, anh càng cảm thấy thế. Chắc hẳn phải có một lý do nào khác cơ bản hơn - thật hơn. Mà lý do đó nhất định là có liên quan đến Wataya Noboru.

Tôi cảm thấy cặp mắt nàng nhìn chằm chằm vào tôi trong bóng tối và chợt nghĩ, biết đâu nàng có thể nhìn thấy tôi.

- Liên quan đến Wataya Noboru? Như thế nào? - Giọng Kumiko hỏi.

- Thì... tất cả những sự kiện mà anh trải qua đều hết sức phức tạp. Đủ loại nhân vật xuất hiện trên sân khấu, rồi những sự lạ xảy ra cái này tiếp cái kia, đến độ cứ hễ cố suy nghĩ lại cho có trình tự lớp lang là y như rằng anh rối tung lên. Tuy nhiên, nếu lùi lại một chút mà quan sát thì sẽ thấy sợi chỉ xuyên suốt mọi chuyện là hết sức rõ ràng. Tất cả cơ sự là do em đã rời khỏi thế giới của anh để chuyển sang thế giới của Wataya Noboru. Bước chuyển ấy mới là cái quan trọng hơn cả. Còn dù trên thực tế em có ngủ với người này hay người nọ đi nữa thì cũng chỉ là chuyện thứ yếu. Chỉ là bề nổi thôi. Anh muốn nói là nói như vậy.

Cô ta nghiêng ly rượu trong bóng tối. Căng mắt về phía nguồn phát ra tiếng động, tôi cảm giác như có thể nhìn thấy lờ mờ những chuyển động của cô, nhưng hiển nhiên đó chỉ là ảo giác.

- Không phải bao giờ người ta cũng gửi thông điệp để truyền đạt sự thực đâu, ông Okada ạ, - cô nói. Lần này không còn là giọng Kumiko nữa. Cũng không phải giọng nhí nhảnh con gái như ban đầu. Đây là một giọng khác, thuộc về một người khác. Nó có vẻ điềm tĩnh, thông minh. - ... Cũng như không phải bao giờ người ta cũng gặp nhau để bộc lộ cái tôi thực của mình. Ông Okada có hiểu ý tôi không?

- Nhưng dù thế nào đi nữa, Kumiko đang cố gắng truyền đạt một điều gì đó cho tôi. Dù đó có là sự thực hay không, cô ấy cũng tìm tôi để truyền đạt nó. Chính đó là sự thực đối với tôi.

Tôi cảm thấy bóng tối quanh mình càng lúc càng đậm đặc hơn, như thủy triều buổi đêm dâng lên đầy tràn không tiếng động. Tôi cần phải nhanh lên. Tôi không còn nhiều thời gian nữa. Nếu đèn sáng trở lại, bọn họ có thể tới đây lùng tôi. Tôi quyết định liều nói ra lời những ý nghĩ đã chầm chậm hình thành trong trí tôi.

- Những gì anh nói sau đây hoàn toàn là sản phẩm của trí tưởng tượng của anh. Anh đoán rằng, trong dòng máu nhà Wataya có một khuynh hướng di truyền nào đó. Khuynh hướng đó là gì anh không rõ, nhưng nó là một thứ khuynh hướng. Nó là một thứ mà em sợ. Chính vì vậy em luôn sợ có con. Khi có thai, em đã hoảng loạn vì em lo cái khuynh hướng đó sẽ lộ ra ở con của chính mình. Nhưng em đã không thể tiết lộ điều bí mật đó với anh. Toàn bộ câu chuyện bắt đầu từ đó.

Cô ta không nói gì nhưng lẳng lặng đặt cốc lên bàn ngủ. Tôi nói tiếp:

- Còn chị của em, anh tin chắc rằng chị ấy chết không phải vì ngộ độc thức ăn. Không, nguyên nhân bất thường hơn thế nhiều. Kẻ chịu trách nhiệm về cái chết của chị ấy là Wataya Noboru, và chuyện đó em biết. Chị của em hẳn đã nói điều gì với em về chuyện đó trước khi chị chết, đã cảnh báo một điều gì cho em. Wataya Noboru có một thứ năng lực đặc biệt nào đó, hắn biết cách tìm ra những người chịu khuất phục cái năng lực ấy rồi bòn rút một cái gì đó từ họ. Hắn ắt hẳn đã dùng cái năng lực đó theo một cách đặc biệt tàn bạo với Kano Creta. Cô ấy đã có thể hồi phục bằng cách này hay cách khác, nhưng chị của em thì không. Dù gì chị ấy cũng sống chung nhà với hắn nên chẳng biết chạy đi đâu. Chị ấy không chịu nổi nữa nên chọn cái chết. Ba mẹ em đã luôn luôn giữ kín chuyện chị ấy tự sát. Có đúng vậy không?

Không có câu trả lời. Người đàn bà như muốn xóa đi sự hiện diện của mình trong bóng tối.

Tôi nói tiếp:

- Anh không biết bằng cách nào và trong hoàn cảnh nào, nhưng cho đến một thời điểm, Wataya Noboru đã tăng cường cái năng lực tàn bạo đó của hắn một cách nhảy vọt. Thông qua truyền hình và các phương tiện khác, hắn trở nên có khả năng hướng cái năng lực đã được khuếch đại này ra ngoài xã hội. Giờ hắn đang cố gắng lôi ra ngoài một cái gì đó mà đa số thiên hạ vẫn giữ kín trong bóng tối vô thức của họ. Hắn muốn lợi dụng cái đó cho ý đồ chính trị của mình. Đó là một cái gì hết sức nguy hiểm. Cái mà hắn muốn lôi ra ngoài đó, nó bị vấy bẩn đến chết người bởi bạo lực và máu, nó có liên quan trực tiếp với những vực sâu đen tối nhất của lịch sử, bởi hiệu quả cuối cùng của nó là hủy diệt và xóa bỏ con người trên quy mô lớn.

Cô thở dài trong bóng tối.

- Ông có thể làm ơn pha cho tôi một ly whisky nữa được không? - Cô nhẹ nhàng hỏi.

Tôi đi lại chỗ bàn ngủ cầm lấy chiếc ly mà cô vừa uống cạn. Trong bóng tối tôi chỉ có thể làm được ngần ấy động tác thôi. Tôi cầm đèn pin sang phòng bên pha một cốc whisky mới có đá.

- Những điều ông vừa nói chỉ là do ông tưởng tượng ra thôi phải không? - Cô hỏi.

- Đúng. Tôi chỉ xâu chuỗi vài ý nghĩ lại với nhau thôi, - tôi nói. - Tôi chẳng có cách nào chứng minh được. Tôi không có cơ sở nào để bảo rằng những gì tôi vừa nói là đúng.

- Dẫu sao tôi vẫn muốn nghe phần còn lại, nếu như ông vẫn còn gì để nói thêm.

Tôi quay lại phòng trong đặt ly rượu lên bàn ngủ. Đoạn tôi tắt đèn pin và trở lại ngồi xuống ghế. Tôi tập trung chú ý kể tiếp câu chuyện của mình.

- Em không biết đích xác chuyện gì đã xảy ra cho chị gái em, trừ mỗi việc chị ấy đã cảnh báo cho em một điều gì trước khi chị mất. Khi đó em còn quá nhỏ lên chưa hiểu được cảnh báo có ý nghĩa gì. Nhưng em vẫn thấy được dù một cách lờ mờ. Em biết rằng Wataya Noboru đã làm chị em bị ô uế và tổn thương bằng cách nào đó. Và em cảm thấy trong huyết quản mình có một thứ bí mật đen tối, một cái gì đó mà em không thể nào tránh được. Thế nên, trong ngôi nhà ấy, em đã luôn luôn cô độc, luôn luôn căng thẳng, phải đấu tranh với nỗi bất an âm ỉ không thể xác định là gì, như một trong những con sứa mà chúng ta đã thấy ở công viên thủy sinh.

Sau khi em tốt nghiệp đại học, và sau bao nhiêu rắc rối với gia đình em, em đã lấy anh và rời khỏi nhà Wataya. Rồi hai chúng mình sống một cuộc đời êm ả, từng ngày ngày qua, em cũng dần dần quên đi cái nỗi bất an đen tối đó. Em bước vào xã hội như một con người mới, em dần dần hồi phục. Đã có một thời tưởng như mọi cái đều êm đẹp với em. Nhưng thật không may, chuyện chẳng đơn giản như vậy. Đến một lúc nào đó, em nhận ra rằng mình đang bị lôi kéo ngoài ý muốn về phía cái sức mạnh đen tối mà em cứ nghĩ mình đã bỏ lại đằng sau. Và khi nhận ra điều gì đang xảy ra với mình, em đâm bấn loạn. Em không biết phải làm gì. Chính vì vậy em đi nói chuyện với Wataya Noboru, hy vọng có thể biết được sự thật. Và em tìm Kano Malta, những mong cô ta có thể giúp mình. Chỉ có anh, là em không thể bộc bạch thôi.

Anh đoán mọi chuyện đã khởi đầu từ sau khi em có thai. Anh tin chắc đó là bước ngoặt. Có lẽ vì vậy mà anh đã nhận được lời cảnh báo đầu tiên từ tay nhạc công ghita ở Sapporo vào đúng cái đêm em phá thai. Việc có thai hẳn đã kích thích và đánh thức cái gì đó đang tiềm ẩn trong em. Wataya Noboru chỉ chờ có chừng ấy. Đó chính là cách duy nhất để hắn có quan hệ tính giao với đàn bà. Chính vì vậy hắn mới cương quyết giằng em ra khỏi anh mà lôi về phía hắn, một khi cái khuynh hướng đó đã lộ ra ở em. Hắn phải có được em. Wataya Noboru cần em để đóng cái vai mà chị gái em từng đóng cho hắn.

Khi tôi nói xong, im lặng sâu thẳm lấp đầy khoảng trống. Tôi đã nói thành lời tất cả những gì trí tưởng tượng đã mách bảo tôi về Kumiko. Một phần là những suy nghĩ mơ hồ tôi từng có từ trước, phần còn lại thì hình thành trong trí tôi ngay lúc tôi đang nói trong bóng tối. Có lẽ sức mạnh của bóng tối đã lấp đầy những khoảng trống trong tưởng tượng của tôi. Hoặc có thể sự hiện diện của người đàn bà này đã giúp vào đó. Nhưng đằng nào đi nữa, những gì tôi tưởng tượng chẳng dựa trên cơ sở chắc chắn nào.

- Hay quá, hay quá, - người đàn bà nói. Một lần nữa giọng cô lại là giọng nhí nhảnh trẻ con. Hình như cô đổi giọng càng lúc càng nhanh. - Thế đấy, thế đấy. Vậy là em đã bỏ anh đặng lánh mình không cho ai thấy tấm thân ô uế của em. Nghe như là Cầu Waterloo trong sương mù ấy nhỉ, Auld Lang Sync , Robert Taylor và Vivien Leigh...

- Anh sẽ đưa em ra khỏi đây, tôi ngắt lời cô. - Anh sẽ đưa em về nhà, về thế giới của em, thế giới có những con mèo đuôi quặp, có những mảnh vườn nho nhỏ, có những chiếc đồng hồ báo thức vào buổi sáng.

- Bằng cách nào cơ? - người đàn bà hỏi. - Làm sao anh Okada có thể đưa em ra khỏi đây được?

- Như trong truyện cổ tích ấy, - tôi đáp. - Bằng cách phá bỏ lời nguyền.

- Ồ, em hiểu. Nhưng anh Okada đợi một chút. Có vẻ như anh nghĩ em là Kumiko. Anh muốn đưa em về nhà như là đưa Kumiko về. Nhưng nếu em không phải là Kumiko thì sao? Chừng đó anh sẽ làm gì? Có khi anh sắp đưa về nhà một kẻ hoàn toàn khác đấy. Anh có tin chắc mình đang làm gì không? Liệu anh có nên nghĩ kỹ một lần nữa không?

Tôi thò tay nắm chặt chiếc đèn pin trong túi. Đây không thể là ai khác ngoài Kumiko, tôi nghĩ. Nhưng tôi không chứng minh được. Rốt cuộc đó cũng chỉ là giả thuyết, không hơn. Mồ hôi túa ra từ bàn tay tôi đang thọc trong túi.

- Anh sẽ đưa em về nhà, - tôi lại nói, giọng khô khốc. - Anh đến đây là để đưa em về.

Tôi nghe tiếng chăn đệm sột soạt. Cô vừa đổi tư thế trên giường.

- Anh nói thế nhưng có dám chắc không? Không nghi ngờ gì chứ? - Cô hỏi, ép tôi phải xác nhận.

- Phải, anh dám chắc. Anh sẽ đưa em về.

- Anh không nghĩ lại chứ?

- Không nghĩ lại. Ý anh đã quyết, - tôi nói.

Nghe xong cô im lặng hồi lâu, như để kiểm tra sự xác thực của một cái gì đó. Rồi, như để đánh dấu đoạn kết của cuộc đối thoại này, cô thở một hơi dài.

- Em sẽ cho anh một món quà, - cô nói. - Quà chẳng lấy gì làm ghê gớm cả, nhưng có khi sẽ được việc đấy. Đừng bật đèn, cứ lại đây, chậm, thật chậm, lại gần bàn ngủ này.

Tôi rời ghế, chìa tay phải ra trong bóng tối, như để đo bề sâu của sự rỗng không. Tôi cảm thấy những cái gai sắc nhọn của không khí chọc vào đầu ngón tay mình. Rồi tôi chạm vào vật đó. Khi tôi nhận ra nó là gì, không khí dường như nghẹt lại trong cuống họng. "Quà" là một cây gậy bóng chày.

Tôi nắm chặt chỗ tay cầm, giơ thẳng gậy lên. Hầu như chắc chắn đó là cây gậy mà tôi đã lấy của gã đàn ông xách hộp đàn ghita. Tay cầm và trọng lượng y hệt. Ắt là nó rồi. Nhưng, sờ kỹ hơn, tôi thấy có cái gì đó dính vào gậy ngay phía trên chỗ nhãn hiệu. Nghe như là một sợi tóc. Tôi miết nó giữa mấy đầu ngón tay. Xét theo độ dày và độ cứng, nó chắc chắn phải là một sợi tóc người. Có mấy sợi như vậy dính vào gậy, còn thêm cái gì đó như là máu đông. Ai đó đã dùng cây gậy này để đánh vào đầu một người khác, có thể là Wataya Noboru. - Phải cố lắm tôi mới hắt chỗ không khí nghẽn trong họng ra ngoài được.

- Đây là gậy của anh phải không? - Cô hỏi.

- Chắc vậy, - tôi nói, cố giữ bình tĩnh. Giọng tôi bắt đầu có một âm sắc khác hẳn trong bóng tối dày đặc, như thể có ai đó nãy giờ lẩn lút đâu đây đang nói thay tôi. Tôi hắng giọng, kiểm chứng cho chắc xem có phải người đang nói vẫn là tôi không, rồi mới tiếp lời:

- Nhưng hình như ai đó đã dùng cây gậy này để đánh một người khác.

Người đàn bà nín thinh. Tôi ngồi xuống ghế, hạ cây gậy xuống kẹp giữa hai chân.

- Hẳn là em biết có chuyện gì... - tôi nói. - Có ai đó đã dùng cây gậy này để đánh vỡ sọ Wataya Noboru. Tin tức anh nghe được trên tivi là đúng. Wataya Noboru đang nằm ở bệnh viện trong tình trạng nguy kịch. Hắn có thể chết.

- Hắn sẽ không chết, - giọng Kumiko nói, hoàn toàn vô cảm. Nàng nói như thể đang tường thuật một sự kiện lịch sử từ trong một cuốn sách. - Tuy nhiên hắn sẽ không phục hồi ý thức được. Hắn có thể vẫn tiếp tục lang thang trong bóng tối, nhưng đó là loại bóng tối nào thì không ai biết.

Tôi sờ soạng tìm ly rượu dưới chân, nhấc lên. Tôi trút hết chỗ rượu trong ly vào miệng, rồi chẳng nghĩ ngợi gì, nuốt ực. Thứ chất lỏng không có vị gì đi qua họng, trôi xuống thực quản tôi. Chẳng hiểu vì sao tôi thấy ớn lạnh, kế đó là một cảm giác khó chịu như thể có cái gì đó từ xa đang chầm chậm dịch chuyển về phía tôi qua một bóng tối dằng dặc. Tim tôi đập mạnh lên như đã dự cảm được từ trước.

- Chúng ta không còn nhiều thời gian, - tôi nói. - Nếu có thể thì hãy cho anh biết chúng ta đang ở đâu?

- Anh từng đến đây rồi, anh đã biết cách đến đây sao cho vẫn sống và bình an vô sự. Anh ắt phải biết đây là nơi nào chứ. Nhưng bây giờ đó cũng chẳng phải vấn đề quan trọng nữa. Cái chính là...

Ngay khi đó có tiếng gõ cửa - một âm thanh nặng trịch, khô khốc, như ai đó đang đóng đinh vào tường. Hai tiếng, rồi hai tiếng nữa. Chính là tiếng gõ cửa tôi đã nghe lần trước. Người đàn bà thở hổn hển.

- Anh phải đi khỏi đây ngay. - Cô nói, lần này là giọng của Kumiko, không thể lầm được. - Nếu anh đi ngay bây giờ thì vẫn còn kịp xuyên qua tường.

Tôi không rõ mình đang nghĩ đúng hay sai, nhưng tôi biết chừng nào còn ở đây, tôi còn phải đánh bại cái thứ này. Đây là cuộc chiến của tôi, và tôi phải chiến đấu đến cùng.

- Lần này anh không bỏ chạy đâu, - tôi nói với Kumiko. - Anh sẽ đưa em về.

Tôi đặt ly xuống sàn, đội mũ len lên, rồi cầm lấy cây gậy đang kẹp giữa hai đầu gối. Đoạn tôi từ từ tiến lại phía cửa.



1.Tên một bài hát rất phổ biến dựa theo lời thơ của thi hào Scotland Robert Burns (1759 - 1796) - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

100#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:21:47 | Chỉ xem của tác giả


Chương 35

Chẳng qua là một con dao thực

Điều đã được tiên báo


Dùng đèn soi đường, cố bước thật êm, tôi đi về phía cửa. Cây gậy nằm trong tay phải tôi. Tôi vẫn đang đi thì tiếng gõ cửa lại vang lên: hai tiếng, rồi hai tiếng nữa. Lần này mạnh hơn, hung hãn hơn. Tôi nép mình vào tường bên để khi cửa mở thì tôi sẽ được cánh cửa che khuất. Tôi đứng đó đợi, nín thở.

Khi tiếng gõ cửa đã lắng đi, im lặng sâu thẳm lại chìm xuống mọi vật như thể không có chuyện gì xảy ra. Nhưng tôi cảm nhận được sự hiện diện của ai đó phía bên kia cửa. Cái kẻ nào đó này cũng đang đứng đấy như tôi, cũng đang nín thở, lắng tai, cố nghe ra tiếng thở hay tiếng tim đập, hay để đọc ra những vận động của một ý nghĩ. Tôi cố kìm không cho hơi thở mình khuấy động không khí xung quanh. Mình không có mặt ở đây, tôi tự nhủ. Tôi không ở đây. Tôi chẳng ở đâu hết.

Chìa khóa xoay trong ổ khóa. Hắn thực hiện từng cử chỉ một cách cực kỳ cẩn trọng, kéo dài thời gian từng động tác sao cho những âm thanh phát ra bị chẻ thành mỗi mảnh nhỏ không còn liên hệ với nhau, mất hết ý nghĩa. Quả đấm cửa xoay, theo sau là tiếng bản lề xoay hầu như không thể nhận ra. Tim tôi bắt đầu co bóp nhanh hơn. Tôi cố át đi sự nhiễu loạn này, nhưng không được.

Ai đó đã đi vào phòng, gây ra vài nhiễu loạn trong không khí. Tôi tập trung tinh thần mài sắc ngũ quan và bắt được cái mùi thoang thoảng của kẻ lạ: một hỗn hợp kỳ quặc giữa quần áo dày, hơi thở dồn nén và thần kinh kích động hết mức dìm trong im lặng. Hắn có cầm dao trong tay không? Phải coi như là hắn có. Tôi vẫn nhớ cái ánh lóa trắng bạc của nó. Tôi nín thở, xóa bỏ sự tồn tại của mình, siết chặt cây gậy trong cả hai tay.

Vào phòng xong, kẻ đó đóng cửa rồi khóa lại. Đoạn hắn đứng đó, lưng áp vào cửa, quan sát và chờ đợi. Hai bàn tay siết chặt gậy của tôi mướt mồ hôi. Tôi đã toan chùi lòng bàn tay vào quần, nhưng mọi cử động dù nhỏ nhất cũng có thể gây hậu quả chết người. Tôi cố nhớ lại bức tượng chim trong vườn căn nhà bỏ hoang của gia đình Miyawaki. Để xóa bỏ sự hiện hữu của mình ở đây, tôi tự đồng hóa mình thành nhất thể với hình ảnh một con chim. Nơi đó, trong khu vườn mùa hè ngợp nắng, tôi là bức tượng chim, đóng băng tại chỗ, nhìn chăm chắm lên bầu trời.

Kẻ đó mang theo đèn pin. Hắn bật đèn pin, tia sáng thẳng, hẹp của nó cắt xuyên qua bóng tối. Ánh sáng không mạnh. Đó là ánh sáng của một cây đèn bút cùng loại với cây tôi đang mang. Tôi đợi tia sáng đó quét qua tôi khi hắn bước vào phòng, nhưng hắn không nghĩ đến chuyện dời khỏi chỗ. Ánh sáng bắt đầu nhận diện từng vật một ở trong phòng - những đóa hoa trong bình, chiếc khay bạc nằm trên bàn (hắt ra ánh lóe đầy nhục cảm), ghế sofa, đèn trang trí... Nó lướt qua ngay trước mũi tôi rồi dừng lại trên sàn chỉ cách đầu mũi giầy tôi vài xăng-ti-mét, liếm từng góc phòng như cái lưỡi rắn. Tôi đợi, chừng như phải đợi đến vĩnh viễn. Sợ hãi và căng thẳng khoan vào ý thức tôi đau nhói.

Đừng nghĩ ngợi. Mày không được phép nghĩ. Tôi tự nhủ. Mày không được phép dùng trí tưởng tượng. Trung úy Mamiya đã viết thế trong thư. Ở nơi này mà tưởng tượng là mất mạng như chơi.

Cuối cùng, ánh đèn pin bắt đầu chuyển động về phía trước, chậm, thật chậm. Gã đàn ông hình như đang tiến về phía phòng trong. Tôi siết chặt gậy trong tay. Chính khi đó tôi mới nhận ra mồ hôi trên tay tôi đã sạch ráo. Tay tôi bây giờ quá khô là đằng khác.

Gã đàn ông chầm chậm tiến tới một bước, dừng lại. Rồi một bước nữa. Hắn như đang kiểm tra từng bước chân của mình. Hắn đang gần tôi hơn bao giờ hết. Tôi hít một hơi rồi nén lại. Chỉ cần hai bước nữa là hắn sẽ đến đúng chỗ tôi muốn. Chỉ hai bước nữa là tôi có thể kết liễu cái cơn ác mộng biết đi này. Nhưng rồi đúng lúc đó, hoàn toàn bất ngờ, ánh sáng biến mất. Bóng tối như mực lại nuốt chửng mọi vật. Hắn đã tắt đèn pin. Tôi cố buộc đầu mình làm việc nhanh hơn trong bóng tối, nhưng nó hoàn toàn không chịu làm việc. Một luồng khí lạnh tôi chưa từng biết chạy khắp người tôi. Hắn đã nhận ra tôi đang ở đây.

Cử động đi, tôi tự nhủ. Đừng đứng đực ra thế. Tôi cố lạng người sang trái, nhưng chân tôi không nhúc nhích. Chân tôi như đã gắn chặt xuống sàn nhà, giống như chân con chim đá. Tôi cúi về phía trước, cố nghiêng phần thân trên tê dại của tôi sang trái. Đúng lúc ấy cái gì đó đập vào vai phải của tôi, rồi một cái gì cứng và lạnh như mưa đá thọc vào thấu xương tôi.

Cú sốc như làm tôi bừng tỉnh, chứng tê liệt biến mất khỏi chân tôi. Tôi nhảy bật về bên trái rồi phục trong bóng tối, mò mẫm tìm đối thủ. Máu chạy rần rật trong cơ thể tôi, mỗi bắp thịt, mỗi tế bào căng lên đòi dưỡng khí. Vai phải tôi tê dại dần, nhưng tôi không thấy đau. Mãi sau mới đau. Tôi đứng im không động đậy, hắn cũng thế. Hai chúng tôi đối diện nhau trong bóng tối, cùng nín thở. Chẳng nhìn thấy gì, chẳng nghe thấy gì.

Một lần nữa, không hề báo trước, dao xỉa tới. Nó sượt qua mặt tôi như một con ong chích, điểm nhọn vừa vặn bén vào má phải tôi, chỗ có vết bầm. Tôi cảm thấy da bị toạc ra. Không, hắn cũng không nhìn thấy tôi. Nếu thấy tôi thì hắn đã cho tôi rồi đời từ lâu rồi. Tôi vung gậy trong bóng tối, nhắm vào hướng xuất phát của con dao, nhưng gậy chỉ vụt qua không khí, chẳng đập vào cái gì sất. Tuy nhiên cú vung khá đạt, và tiếng vụt sắc gọn kia giúp tôi phần nào bớt căng thẳng. Tạm thời chúng tôi ngang sức nhau. Tôi đã dính dao hai lần, nhưng cả hai lần đều không nặng. Hai chúng tôi chẳng ai nhìn thấy nhau. Hắn có dao, nhưng tôi có gậy.

Một lần nữa, cùng mù như nhau, hai chúng tôi kìm hơi thở, cố cảm nhận ra đối thủ, chờ từng động tĩnh nhỏ nhất. Tôi cảm thấy máu rỉ xuống mặt mình, nhưng tôi chẳng mảy may sợ hãi. Chỉ là con dao thôi mà, tôi tự nhủ. Chỉ là một vết rạch thôi. Tôi đợi. Tôi đợi con dao lại xỉa về phía tôi lần nữa. Đâm đi! Tôi bảo hắn trong đầu mình. Nhúc nhích đi! Tao đang đợi mày động thủ đây. Muốn thì cứ đâm tao đi. Tao không sợ đâu.

Con dao lại tới. Nó rạch toang cổ áo len của tôi. Tôi cảm thấy được mũi dao sạt qua họng tôi nhưng không chạm tới da tôi. Tôi xoay người nhảy sang một bên, rồi, hầu như hấp tấp quá chẳng kịp thẳng người lên nữa, tôi vung gậy vào không trung. Gậy đập vào đâu đó gần xương quai xanh hắn. Không đủ mạnh để quật ngã hắn hay làm gãy xương, nhưng tôi biết mình vừa nện hắn một cú ra trò. Tôi cảm thấy hắn rụt hẳn lại vì cú đánh, nghe tiếng hắn há miệng đớp không khí. Tôi lùi gậy lại một quãng ngắn rồi lại vung lên giáng vào hắn, cũng về hướng đó nhưng cao hơn một chút, nơi tôi nghe tiếng hắn thở.

Cú đánh quá hoàn hảo. Tôi đã nện vào hắn ở đâu đó trên cổ. Có tiếng xương gãy răng rắc nghe lợm giọng. Một cú giáng thứ ba đúng phóc - ngay vào sọ, quật hắn văng sang một bên. Hắn hộc ra một âm thanh kỳ lạ rồi đổ phịch xuống sàn. Hắn nằm đó, ngáp ngáp khe khẽ, nhưng tiếng ngáp chẳng mấy chốc ngừng. Tôi nhắm mắt, rồi, chẳng suy nghĩ gì, nhắm một cú đánh cuối cùng về phía âm thanh kia. Tôi không muốn làm vậy, nhưng tôi không có cách nào khác. Tôi phải kết liễu hắn: không phải vì hận thù, thậm chí cũng chẳng phải vì sợ, ấy chẳng qua là một việc tôi phải làm. Tôi nghe tiếng cái gì đó vỡ toác trong bóng tối như một quả dưa. Rồi tôi nhận thấy mình đang run bắn lên. Toàn thân. Chẳng cách nào ngăn được. Tôi lùi lại một bước, rút đèn pin ra khỏi túi.

- Đừng! - Một giọng thét lên trong bóng tối. - Đừng nhìn nó! - Giọng Kumiko đang gọi tôi từ phòng trong, cố ngăn không cho tôi nhìn, nhưng tôi phải nhìn. Tôi phải thấy nó. Tôi phải biết nó là cái gì, cái vật nằm ở trung tâm bóng tối mà tôi đã đánh cho nhừ tử kia. Một phần của tôi hiểu Kumiko đang cấm tôi làm gì. Nàng nói đúng: tôi không nên nhìn nó. Nhưng lúc này tôi đang có đèn pin trong tay, và bàn tay đang tự nó chìa ra phía trước.

- Xin đừng, em xin anh hãy dừng lại! - Nàng thét lên. - Nếu anh còn muốn đưa em về nhà thì chớ nhìn nó!

Tôi nghiến răng, im lặng đẩy không khí nãy giờ giam trong phổi ra ngoài. Nhưng cơn run vẫn không giảm. Một mùi tởm lợm nồng nặc trong không khí - mùi óc, mùi bạo lực và chết chóc. Tôi đã làm việc này: chính tôi là kẻ đã làm cho không khí có cái mùi này. Tôi tìm thấy chiếc sofa, liền đổ vật xuống. Trong chốc lát tôi cố chống cự với cơn buồn nôn đang dậy lên trong dạ dày, nhưng rồi cơn buồn nôn thắng. Tôi nôn xuống thảm tất cả những gì có trong dạ dày, đến khi chẳng còn gì nữa thì tôi nôn ra dịch vị, rồi không khí và nước dãi. Trong khi nôn, tôi buông gậy xuống sàn. Tôi nghe tiếng nó lăn lông lốc trong bóng tối.

Khi những cơn co thắt dạ dày bắt đầu dịu xuống, tôi muốn rút khăn mùi soa lau miệng nhưng không cử động nổi tay. Tôi không đứng dậy nổi khỏi sofa. - Mình về nhà đi, - tôi nói về phía bóng tối ở buồng trong. - Xong cả rồi. Ta đi thôi.

Nàng không trả lời.

Không còn ai ở trong đó nữa. Tôi lại vùi mình vào sofa, nhắm mắt lại.

Tôi cảm thấy sức lực đang trút ra khỏi mình - từ đầu ngón tay tôi, từ vai tôi, cổ tôi, chân tôi... Cái đau từ những vết thương của tôi cũng dần dần biến mất. Thân thể tôi đang mất mọi cảm giác về khối lượng và vật chất. Nhưng điều đó không làm tôi bất an hay sợ hãi, hoàn toàn không. Tôi không chống cự mà buông mình - phó thác nhục thể mình - cho một vật to lớn, ấm mềm nào đó đang đến để bao bọc lấy tôi. Điều đó thật tự nhiên. Khi đó tôi nhận ra, mình đang băng qua bức tường sứa. Tôi chỉ có mỗi việc là buông mình cho dòng chảy. Mình sẽ không bao giờ quay lại đây nữa, tôi tự nhủ trong khi di chuyển qua tường. Mọi chuyện đã chấm dứt. Nhưng Kumiko đâu? Nàng đi đâu rồi? Lẽ ra tôi phải mang nàng ra khỏi căn phòng đó mà đưa nàng về nhà. Chính vì lẽ đó tôi mới giết tên kia. Chính vì lẽ đó tôi mới đánh cho sọ hắn vỡ toác ra như quả dưa. Chính vì lẽ đó tôi... Nhưng tôi không thể nghĩ gì được nữa. Ý thức tôi bị hút vào cái hồ sâu hoắm của hư không.

° ° °


Khi hồi tỉnh, tôi thấy mình lại đang ngồi trong bóng tối. Lưng tôi đang dựa vào tường như mọi khi. Tôi đã trở lại đáy giếng.

Nhưng đó không phải cái đáy giếng như khi trước. Có cái gì đó mới ở đây, cái gì đó lạ lẫm. Tôi cố tập trung các giác quan để hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Cái gì khác biệt đến vậy? Nhưng các giác quan tôi vẫn đang trong một tình trạng tê liệt gần như hoàn toàn. Tôi chỉ có cảm nhận một phần, đứt đoạn về môi trường xung quanh. Tôi cảm thấy như thể, vì sai lầm nào đó mà tôi đã bị đặt vào nhầm vỏ chứa. Tuy nhiên, sau một lát, tôi bắt đầu nhận ra ấy là chuyện gì.

Nước. Quanh tôi toàn nước.

Giếng không còn khô nữa. Tôi đang ngồi trong nước lên tới thắt lưng. Tôi hít vào mấy hơi để trấn tĩnh. Làm sao có chuyện này được? Giếng đang có nước, tuy không phải nước lạnh. Đúng hơn là nước âm ấm, như thể tôi đang dầm mình trong bể bơi có sưởi. Bỗng tôi sực nghĩ cần phải kiểm tra trong túi. Tôi muốn biết cây đèn pin có còn đó không. Liệu tôi có mang theo cây đèn đó từ thế giới kia về đây không? Liệu có mối liên hệ nào giữa những gì xảy ra ở đó với cái thực tại này không? Nhưng tay tôi không động đậy được. Ngay cả ngón tay tôi cũng không nhúc nhích được. Bao nhiêu sức lực đã mất hết khỏi tay chân tôi. Thậm chí đứng dậy tôi cũng không đứng nổi.

Tôi bắt đầu nhận định một cách tỉnh táo hoàn cảnh của mình. Trước hết, nước chỉ mới tới thắt lưng, nên tôi không phải lo chết đuối. Đúng là tôi không nhúc nhích được, nhưng có lẽ ấy là do tôi đã vắt kiệt sức. Chỉ cần có đủ thời gian là sức lực sẽ hồi phục lại thôi. Vết thương vì dao đâm xem chừng không sâu lắm, và toàn thân tê dại thế này lại hóa hay - ít nhất cũng nhờ vậy mà tôi không thấy đau. Máu nơi má hình như không chảy nữa.

Tôi tựa đầu vào tường tự nhủ: Không sao, đừng lo. Mọi chuyện xong rồi. Bây giờ tôi chỉ còn có mỗi một việc là cho thân thể mình được nghỉ ngơi, sau đó trở về thế giới ban đầu của mình, thế giới ở trên mặt đất kia, nơi chan hòa ánh nắng... Nhưng tại sao cái giếng này tự dưng có nước hoàn toàn đột ngột như vậy? Nó đã khô cạn, đã chết từ quá lâu rồi, thế nhưng giờ nó đã phục hồi sự sống. Liệu điều này có mối liên hệ nào với những gì tôi đã làm ở kia không? Có, hẳn là có. Cái gì đó bấy lâu vẫn làm tắc nghẽn mạch nước nay đã bị tháo tung ra.

° ° °


Chẳng mấy chốc sau tôi chạm trán với một thực tế đen tối. Thoạt tiên tôi cố khước từ không chịu thừa nhận nó là thực tế. Trí óc tôi nghĩ ra hàng loạt khả năng may thì có thể giúp tôi phủ nhận nó. Tôi cố tự thuyết phục mình ấy chỉ là một ảo giác nảy sinh do kết hợp giữa bóng tối và kiệt sức. Nhưng rốt cục, tôi phải công nhận sự thực. Dù ra sức tự lừa mình đến đâu đi nữa, thực tế vẫn sờ sờ ra đó.

Mực nước đang dâng lên.

Nước ban nãy còn ngang thắt lưng, giờ đã lên đến phía dưới cặp đầu gối đang co lại của tôi. Nước dâng từ từ thôi, nhưng nó đang dâng. Tôi lại cố động đậy thân thể. Tôi tập trung toàn bộ tinh thần, cố rặn hết chút sức lực cuối cùng còn lại, nhưng vô ích. Cùng lắm tôi chỉ xoay cổ được chút ít. Tôi nhìn lên trên đầu. Nắp giếng vẫn đậy kín bưng. Tôi cố xem đồng hồ trên cổ tay trái nhưng đành chịu.

Nước đang chảy ra từ một khe mở nào đó, mà hình như càng lúc càng nhanh. Ban đầu chỉ ri rỉ, nhưng giờ thì tuôn xối xả. Tôi nghe được tiếng nước tuôn. Chẳng mấy chốc đã lên đến ngực. Nước sẽ còn dâng đến đâu chứ?

Nhớ cẩn thận với nước, ông Honda đã bảo tôi thế. Hồi đó cũng vậy, sau này cũng vậy, tôi đã chẳng hề tin lời tiên tri của ông. Quên thì tôi không quên (một điều kỳ quặc như thế thì không thể quên được), nhưng tôi cũng chưa bao giờ coi nó là nghiêm túc cả. Ông Honda chẳng qua chỉ là một tình tiết vô hại đối với tôi và Kumiko mà thôi. Thỉnh thoảng nhân chuyện gì đó, tôi lại nhắc lời ông "Nhớ cẩn thận với nước" để đùa. Thế là chúng tôi cười ha hả. Chúng tôi còn trẻ, đâu cần tới những lời tiên với tri. Bản thân việc sống đã là một hành vi tiên tri rồi. Nhưng ông Honda nói đúng. Tôi hầu như muốn cười phá lên. Nước đang dâng, và tôi đang gặp khốn.

Tôi nghĩ tới Kasahara May. Tôi dùng trí tưởng tượng để hình dung cô đang mở nắp giếng - hoàn toàn rõ ràng, sống động như thực. Bức tranh thực và rõ mồn một đến nỗi dường như tôi có thể bước thẳng vào. Tôi không cử động được thân mình, nhưng trí tưởng tượng của tôi vẫn hoạt động. Tôi còn được làm gì khác nữa?

- Này Chim vặn dây cót, - Kasahara May nói. Giọng cô dội xuống vọng lên thành giếng. Tôi chưa hề biết rằng giếng có nước thì tạo tiếng vang tốt hơn giếng không có nước. - Anh làm gì dưới kia thế? Lại suy nghĩ à?

- Chẳng phải anh đang làm gì cả, - tôi ngẩng mặt lên nói. - Giải thích bây giờ thì lâu lắm. Anh không cử động được thân mình, nước lại đang dâng lên dưới này. Đây không còn là giếng cạn nữa. Chắc anh chết đuối mất.

- Tội nghiệp Chim vặn dây cót! - Kasahara May nói. - Anh đã vắt kiệt hết mình, cố hết sức bình sinh để cứu Kumiko. Và có lẽ anh đã cứu được chị ấy thật. Đúng không? Và trong khi làm vậy, anh cũng đã cứu nhiều người. Nhưng bản thân mình thì anh lại không cứu được. Mà cũng chẳng ai khác cứu được anh cả. Anh đã dốc cạn sức mình, đem cả tính mạng mình ra để cứu người khác. Hạt giống của anh thảy đã gieo chỗ khác hết rồi, giờ túi anh rỗng không. Sao lại bất công đến thế được chứ! Em thông cảm với anh, Chim vặn dây cót à, tự đáy lòng em. Thật đấy. Nhưng nói gì thì nói, đó là tự anh lựa chọn mà. Anh có hiểu ý em không?

- Anh hiểu, - tôi nói.

Vai phải tôi nghe đau dần dật. Vậy là chuyện đó thực đã xảy ra, tôi tự nhủ. Con dao quả thực đã đâm tôi. Nó đã xé thịt tôi như một con dao thực.

- Anh có sợ chết không, hở Chim vặn dây cót? - Kasahara May hỏi.

- Có chứ, - tôi nói. Tôi nghe giọng mình vang vọng trong giếng. Nó là giọng tôi, đồng thời cũng không phải giọng tôi. - Nghĩ đến chuyện mình phải chết dưới đáy giếng tối om này thì dĩ nhiên anh sợ.

- Thế thì tạm biệt anh, Chim vặn dây cót tội nghiệp. Tiếc là em chẳng làm gì cho anh được. Em đang ở xa, xa lắm.

- Tạm biệt, Kasahara May, - tôi nói. - Em mặc bikini trông xinh lắm.

Giọng Kasahara May hết sức bình thản khi cô nói:

- Tạm biệt, Chim vặn dây cót tội nghiệp.

Nắp giếng lại đóng chặt. Hình ảnh tan biến. Như chẳng có gì xảy ra cả. Hình ảnh ấy không gắn liền với bất cứ cái gì. Tôi thét về phía miệng giếng: "Kasahara May ơi, lúc này anh cần em thì em ở đâu?"

° ° °


Nước đã lên đến họng tôi. Giờ nó đã quấn quanh cổ tôi như cái thòng lọng. Bằng dự cảm, tôi bắt đầu thấy khó thở. Tim tôi, giờ nằm trong nước, ra sức điểm quãng thời gian còn lại của nó. Cứ thế này tôi còn khoảng năm phút nữa cho tới khi nước lấp đầy mũi miệng tôi và bắt đầu tràn ngập phổi tôi. Chẳng có cách nào tôi thắng được. Tôi đã hồi sinh cho cái giếng này thì giờ đây tôi chết giữa lúc hồi sinh của nó. Chết cách này cũng không tồi, tôi tự nhủ. Trên đời có lắm cách chết kinh khủng hơn thế nhiều.

Tôi nhắm mắt lại, cố chấp nhận cái chết đang đến gần một cách càng bình thản càng tốt. Tôi cố vượt qua sợ hãi. Ít nhất thì sau khi chết, tôi cũng để lại được vài thứ. Chẳng nhiều nhặn gì cho cam, nhưng dẫu sao vẫn là một tin lành. Tôi cố mỉm cười, nhưng chẳng đạt lắm. "Dẫu sao mình vẫn sợ chết," tôi tự nhủ. Hóa ra đó là lời cuối của tôi. Nghe chẳng ấn tượng lắm, nhưng không thay đổi được nữa, muộn quá rồi. Nước giờ đã dâng cao hơn miệng tôi. Rồi cao hơn mũi tôi. Tôi ngừng thở. Phổi tôi nằng nặc đòi hít không khí mới. Nhưng chẳng còn không khí nữa. Chỉ có nước âm ấm thôi.

Tôi đang chết. Như tất cả những ai sống ở trên đời.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách