|
Sau những lời chúc tụng đầu tiên, bá tước nhận ra Bertuccio từ nãy đến giờ cứ bận bịu ở phía gian dọn ăn cạnh bếp đang bị giày vò bởi một trạng thái kích động lạ thường. Anh đến với ông ta.
- Có chuyện gì thế ông Bertuccio?
- A! Trời ơi! Hắn đấy! ông ta vừa thì thào vừa chỉ tay vào Villefort. Vậy ra tôi vẫn chưa giết chết được hắn!
- Phải tin là không, ông Bertuccio.
- Và người đàn bà này!... Người đàn bà này!...
Bà Danglars! Nhưng chính là cô ta, thưa ông, chính là cô ta! Người thiếu phụ trong vườn!
Người thiếu phụ bụng chửa! Người thiếu phụ đi dạo...
Bertuccio đứng lặng người miệng há hốc, tái nhợt và tóc tai dựng ngược. Nhưng lúc trông.thấy Andrea Cavalcanti ông ta lại còn bối rối hơn.
- Benedetto! ông lẩm bẩm thật khẽ: Định mệnh!
- Đấy chuông điểm sáu giờ rưỡi rồi, ông Ber-tuccio, bá tước nói nghiêm khắc, đến giờ mà tôi đã có lệnh phải sẵn sàng cho mọi người ngồi vào bàn ăn; ông biết rằng tôi không thích chờ đợi chút nào.
Và Monte Cristo vào phòng khách, ở đó khách khứa đang đợi anh, trong khi ấy Bertuccio đi vào phòng ăn mà cứ phải vịn vào tường.
Bữa tiệc thật xa hoa; Monte Cristo cố làm đảo ngược hoàn toàn tính cân đối của bữa tiệc kiểu Paris, và làm cho sự lạ miệng còn nổi trội nhiều hơn sự ngon miệng của đám thực khách đầy tính hiếu kỳ mong muốn ở món ăn. Đó là một bữa tiệc phương Đông xứng đáng với Nghìn lẻ một đêm. Những loài chim hiếm, những thứ cá quái lạ, mọi loại vang Archipel và của vùng tiểu á lần lượt diễu qua trước mặt các quan khách đang lạ lùng thán phục.
- Tất cả những cái đó đều rất dễ thương, Château-Renaud nói, tuy nhiên tôi xin thú thực, điều làm tôi cảm phục nhất là việc phục vụ bàn tiệc nhanh nhẹn đến mức đáng khâm phục. Phải chăng, thưa bá tước, ông tậu ngôi nhà này vừa mới được có năm hay sáu ngày?
- Quả vậy, không hơn. Monte Cristo nói.
- Này tôi dám chắc rằng trong vòng tám ngày nữa ngôi nhà này đã biến đổi hoàn toàn. Đúng là ít nhất đã mười năm nhà bỏ trống không có người ở, Château-Renaud nói. Thực ra nếu nó không phải là của nhạc phụ một biện lý hoàng gia thì người ta đã coi nó là một trong những ngôi nhà bị nguyền rủa là nơi đã xảy ra một tội đại ác gì đó.
Cho đến lúc này, Villefort vẫn chưa đụng tý nào đến ba hay bốn ly rượu vang lạ thường bày trước mặt hắn, bỗng vơ đại lấy một ly và uống cạn một hơi.
- Ông không nghĩ rằng mình đã nói trúng đến thế đâu, bá tước nói giữa khoảng im lặng tiếp sau lời nói của Château-Renaud. Xin hãy hình dung rằng để làm trẻ lại các cây cối già cỗi trong vườn, tôi đã cho đào hố để đổ đất mùn.
Thế là những người lao động của tôi, trong lúc đào đất, đã moi lên được một cái hòm hay đúng hơn là cái đai sắt của hòm, ở giữa có một bộ xương trẻ sơ sinh.
Bà Danglars gần như ngất xỉu trong cánh tay de Villefort, còn chính hắn thì tái mặt đi một cách đáng sợ.
- Trời ơi! Thưa bà, Debray kêu lên, bà làm sao thế? Sao bà tái nhợt thế?.Monte Cristo tỏ vẻ buồn phiền.
- Thực ra, thưa bá tước, bà Danglars nói, tôi thật xấu hổ mà thú nhận sự yếu đuối của mình, nhưng những chuyện kinh khủng này đã làm tôi bàng hoàng.
Monte Cristo thấy là đã hết mức khả dĩ chịu đựng được đối với hai người mà cảnh này được ông chuẩn bị dành cho họ. Ông quyết định đi ra.
Viên biện lý hoàng gia kín đáo rỉ tai bà Dan-glars:
- Tôi cần nói chuyện với bà. Ngày mai ở phòng làm việc của tôi.
Buổi tối về khuya. Bà Villefort ngỏ ý muốn trở về Paris. Cho nên ông de Villefort là người đầu tiên ra hiệu lên đường. Hắn dành một chỗ trong chiếc xe ngựa bốn bánh của hắn cho bà Danglars, còn ông Danglars mải mê một câu chuyện kỹ nghệ thuộc loại hấp dẫn nhất với ông Cavalcanti nên chẳng mảy may để ý gì đến mọi chuyện đang xảy ra.
Ngày hôm sau, sau khi đã giải quyết xong các công việc thường ngày, Danglars đến nhà Monte Cristo.
- Lạy Chúa! Bá tước nói, ông sao vậy? ông có vẻ rất lo âu.
- Tôi bị, thưa quý ông, Danglars nói, vận hẩm cứ rơi vào tôi từ mấy hôm nay, và tôi cứ chỉ nhận được những tin dữ.
- Ôi! Lạy Chúa! Monte Cristo nói, có phải là ngài lại bị đổ bể ở phòng giao dịch chứng khoán không?
- Không, tôi đã hồi phục, ít ra cũng được mấy ngày. Nói cho thật đúng ra là tôi đã bị vỡ nợ Ở Triestẹ Đây là một tai ương chưa từng thấy bao giờ. Tôi phát hành sáu trăm ngàn livrơ cho một người mà tôi đã cùng với họ tiến hành nhiều vụ giao dịch tốt đẹp; nhưng rồi chúng trở lại với tôi mà không được chi trả, thêm vào đấy tôi còn cầm số phiếu bốn trăm ngàn frăng mà không bao giờ có thể thu hồi được. Với cái tin nhảm về Tây Ban Nha két bạc của tôi lại bị hụt đi bảy trăm ngàn frăng nữa, việc này đưa đến cho tôi một bản quyết toán đẹp đẽ vào cuối tháng, với tôi thật là họa vô đơn chí, thật đấy.
- Quỷ thần ơi, Monte Cristo nói, mất một triệu bảy trăm ngàn frăng trong một tháng! Ngoài hãng ông ra, bất kỳ hãng nào khác đều phải ngắc ngoải.
- Ồ! Danglars nói với một nụ cười tê tái.
Nhưng lúc này đây, tiền lại đổ vào hòm tôi do những cuộc đầu cơ thắng lợi khác. Nhưng vì chúng ta đang bàn việc, vậy hãy cho tôi biết đôi chút xem ông nghĩ về thiếu tá Cavalcanti như thế nào..- Nghe đây, tôi chỉ biết sơ qua về ông ta, cả đời tôi mới gặp ông ta ba lần. Những gì tôi biết về ông ta là qua tu sĩ Busoni, một người bạn của tôi, và chính ông ta kể với tôi. Sáng nay ông ta có cho tôi biết về những dự định về con trai mình, và hé lộ cho tôi biết rằng đã chán thấy cảnh vốn liếng to lớn của mình ngủ yên ở Italia, một xứ sở chết cứng, nên muốn tìm cách làm cho nó sinh sôi nảy nở hoặc ở Pháp hoặc ở Anh.
Nhưng xin ông vẫn cứ lưu ý rằng dù cho tôi có tin tu sĩ Busoni đến đâu thì riêng cá nhân tôi, tôi không hề đảm bảo điều gì hết.
- Và chàng trai? - Danglars hỏi.
- ái chà! Chắc ông muốn gả con cho Andrea, ông Danglars thân mến, cho nên ông mới hỏi tôi tất cả những câu hỏi ấy?
- Quả vậy, Danglars nói, tôi thấy việc đó hình như không phải là một vụ đầu tư tồi. Xem ra chàng trai này hoàn toàn phù hợp.
- Ông đã cho điều tra về hắn chưa? - Monte Cristo hỏi.
- Có cần làm thế không, và ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, người ta lại không biết là đang giao dịch với người như thế nào ư? Trước hết anh ta giàu, sau đó anh ta có một học vấn đặc biệt.
- Tôi không dám chắc điều đó.
- Này bá tước, ông chẳng công bằng đối với chàng trai này.
Vào lúc mười hai giờ rưỡi bà Danglars đã đòi lấy ngựa để đi đến tòa án. Người mõ tòa dẫn bà ta đi theo một hành lang riêng vào phòng làm việc của ông de Villefort.
- Cám ơn bà, hắn nói, cám ơn bà đã đến đúng hẹn.
Villefort mỉm cười cay đắng.
- Sao mà cái quá khứ khủng khiếp ấy lại sống lại thế? Hắn kêu lên; chẳng có gì là ngẫu nhiên đâu.
- Nhưng có chứ, chẳng phải là sự ngẫu nhiên đã làm nên tất cả chuyện này ư? Chẳng phải ngẫu nhiên mà bá tước Monte Cristo đã mua ngôi nhà ấy ư? Chẳng phải ngẫu nhiên mà ông ấy đã cho đào đất ư?
- Này, không đâu thưa bà, đây là cái điều khủng khiếp mà tôi phải nói với bà, Villefort trả lời với một giọng trầm đục: Không, không hề có di hài nào tìm thấy dưới những bông hoa.
- Ông định nói gì thế? - Bà Danglars kêu lên, toàn thân run lập cập.
- Tôi định nói rằng, ông Monte Cristo trong khi đào những gốc cây chẳng thể tìm thấy cả bộ xương trẻ con lẫn đai hòm, bởi vì dưới các gốc cây này không hề có cả hai thứ ấy..- Lạy Chúa tôi! ông làm tôi sợ quá!
- Bà biết cái đêm đau lòng ấy diễn ra như thế nào không, cái đêm mà bà thì nằm ngắc ngoải trên giường ở cái buồng trên gác, trong khi tôi chờ đợi bà sinh nở? Khi đứa trẻ ra, chúng ta tưởng rằng nó đã chết. Tôi đặt nó vào trong một chiếc hòm rồi xuống vườn, tôi đào một cái huyệt rồi vội vàng chôn nó xuống. Vừa mới lấp đất xong thì cánh tay thằng nhỏ Corse đã phóng vào tôi. Tôi ngã xuống hấp hối, và tôi tưởng mình đã bị giết chết. Bà đã có can đảm để bà vú dìu trở về nhà. Một cuộc quyết đấu được dùng làm cái cớ gây thương tích cho tôi. Họ chở tôi đi Versailles. Tôi chiến đấu với cái chết suốt ba tháng ròng.
Thời kỳ hồi phục của tôi kéo dài sáu tháng; tôi không còn nghe nói gì về bà, tôi không dám dò hỏi tin tức về chuyện bà đã ra sao. Khi tôi trở lại Paris thì biết tin bà là quả phụ của ông de Nargonne và đã thành hôn với ông Danglars.
Nhưng suốt thời kỳ dưỡng bệnh của tôi, cái thi hài đứa trẻ ám ảnh tôi đến phát điên. Lúc vừa bình phục, tôi quyết định phải làm cho lòng mình thanh thản về chuyện này. Một đêm tôi lần mò vào khu vườn ở Auteuil và tôi đào chính chỗ đất ấy lên. Cái hòm không có ở đấy.
- Chiếc hòm không có ở đấy! - Bà Danglars thì thào, nghẹn ngào vì lo sợ. - Tại sao con người ấy lại mang cái thi hài ấy đi?
- Bởi có cái gì đó ghê gớm hơn, nguy hại hơn, đáng sợ hơn cho chúng ta: đó là đứa trẻ còn sống, và kẻ giết người đã cứu nó.
Bà Danglars thét lên một tiếng kinh khủng.
- Nếu đứa trẻ ấy sống, Villefort nói tiếp, và có ai đó biết nó còn sống, có ai đó nắm được bí mật của chúng ta; và cái bí mật này Monte Cristo đã nắm được, vì hắn nói trước mặt chúng ta về một đứa trẻ được moi lên từ cái chỗ mà đứa trẻ kia không còn ở đó nữa.
- Nhưng tại sao?
- Đó là điều tôi sẽ phải tìm ra. Villefort nói với một ngữ điệu mà nếu bá tước có nghe thấy ắt phải rùng mình. |
|