Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: love_milk_tea9
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Thơ] Lục Vân Tiên | Nguyễn Đình Chiểu

[Lấy địa chỉ]
71#
 Tác giả| Đăng lúc 29-9-2011 18:08:12 | Chỉ xem của tác giả
Mẹ con Thể Loan đổ thừa cho Võ Công



2025.Võ Công từ xuống suối vàng,
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu.
    Mẹ con những mảng lo âu,
Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh.
    Cùng ta xưa có ân tình,
2030.Phải ra đón rước lộ trình họa may.
    Loan rằng: "Mình ở chẳng hay,
E người còn nhớ những ngày trong hang."
    Trang rằng: "Con có hồng nhan,
Cho chàng thấy mặt thời chàng cũng ưa."
2035.Ví dầu còn nhớ tích xưa,
"Mẹ con ta lại đổ thừa Võ Công,"
    Cùng nhau bàn luận đã xong.
Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên.


Chú thích:

2033. Hồng nhan: sắc đẹp.
2036. Ðổ thừa Võ Công: đổ cả việc hãm hại Vân Tiên cho Võ Công.
2038. Ra phòng rước duyên: phòng là chờ, hòng nói Thể Loan trang điểm xong, ra nơi lộ trình của Vân Tiên để hòng đón rước mối duyên.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

72#
 Tác giả| Đăng lúc 29-9-2011 18:50:34 | Chỉ xem của tác giả
Mẹ con Thể Loan trơ trẽn đón Vân Tiên



    Nay đà tới thứ trạng nguyên,
2040.Hàn Giang đã tới bỗng liền đóng quân.
    Bạc vàng, châu báu, áo quần,
Trạng nguyên đem tạ đáp ơn ngư, tiều,
    Ngư, tiều nay đặng danh biêu,
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
2045.Trạng nguyên chưa kịp trở về,
Thấy Quỳnh Trang đã đứng kề trong quân.
    Trang rằng: "Tưởng chữ hôn nhân,
Mẹ con tôi đến lễ mừng Trạng nguyên.
    Võ Công đã xuống huỳnh tuyền,
2050.Xin thương lấy chút thuyền quyên phận nầy."
    Trạng rằng: "Bưng bát nước đầy,
Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong.
    Oan gia nợ ấy trả xong.
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi."
2055.Hớn Minh, Tử Trực đứng coi,
Cười rằng: "Hoa khéo làm mồi trêu ong.
    Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,
Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi?
    Ca ca sao chẳng chịu đi.
2060.Về cho tẩu tẩu để khi xách giày."


Chú thích:

2043. Biêu: do chữ "tiêu" là nêu đọc chệch đi. Có bản chép là "bêu", cũng do chữ "tiêu" mà ra, nhưng tác giả dùng tiếng miền Nam với nghĩa tốt của nó (nêu), chứ không dùng theo nghĩa xấu (bày ra một cách nhơ nhuốc) ở miền Bắc, như nói: bêu đầu, bêu xấu, bán bêu.
2049. Huỳnh tuyền: chín suối, chỉ dưới đất sâu, tức cõi chết, cũng như nói "hoàng tuyền" (suối vàng).
2051, 2052. Bưng bát nước đầy, Ðổ ngay... : nói tình duyên đã dứt, không thể nối lại, cũng như bát nước đã đổ xuống đất, không thể hốt lại đầy được nữa. Dùng tích vợ Chu Mãi Thần.
2053. Oan gia: chính chữ là "oán gia", tục (tiếng tục Trung Quốc), gọi trại là oan gia, chỉ kẻ oán thù với mình hay sự oán thù nói chung. Vân Tiên cho việc mình bị nhà Võ Công hãm hại là cái nợ oan gia, nên bảo rằng: oan gia nợ ấy tôi đã giả xong rồi, sao lại còn tới đòi hỏi?
2059. Ca ca: anh (chữ này ta thường đọc là kha, nhưng chính âm là ca). Chịu đi: ưng thuận đi.
2060. Tẩu tẩu: chỉ Nguyệt Nga. Hớn Minh và Tử Trực bảo Vân Tiên sao không ưng thuận, cho Thể Loan về để xách giày cho Nguyệt Nga.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

73#
 Tác giả| Đăng lúc 29-9-2011 20:39:13 | Chỉ xem của tác giả
Gieo nhân gặp quả



    Mẹ con đứng thẹn thuồng thay,
Vội vàng cúi lạy chân rày trở ra.
    Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp chạy ra đón đàng.
2065.Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem vào lại bỏ trong hang Thương Tòng.
    Bốn bề đá lấp bịt bùng,
Mẹ con than khóc khôn trông ra rồi.
    Trời kia quả báo mấy hồi,
2070.Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
    Làm người cho biết ngãi sâu,
Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn.
    Đừng đừng theo thói mẹ con,
Thác đà mất kiếp, tiếng còn bia danh.


Chú thích:

2066. Thương Tòng: cái hang mà Võ Công đã bỏ Vân Tiên trước đây.
2069. Quả báo: tiếng nhà Phật, chỉ cái kết quả đền lại, giả lại những việc mình đã làm (nói chung cả việc thiện lẫn việc ác).
2074. Tiếng còn bia danh: tiếng xấu còn lưu lại như tạc bia, để cho người đời chê cười mỉa mai.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

74#
 Tác giả| Đăng lúc 29-9-2011 20:52:54 | Chỉ xem của tác giả
Ca khúc khải hoàn



2075.Trạng nguyên về đến Đông Thành,
Lục ông trước đã xây dinh đầu làng.
    Bày ra sáu lễ sẵn sàng,
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.
    Sui gia đã xứng sui gia,
2080.Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
    Trăm năm biết mấy tinh thần,
Sinh con sau nối gót lân đời đời.


Chú thích:

2077. Sáu lễ: sáu lễ trong việc cưới xin thời xưa, tức: nạp thái (đưa lễ kén chọn), vấn danh (hỏi tên tuổi), nạp cát (đưa điềm tốt), nạp trương (đưa sính lễ), thỉnh kỳ (xin ngày cưới), thân nghinh (đón dâu).
2082. Gót lân: do chữ Hán "lân chi" là chân con kỳ lân, một loài thú tượng trưng cho đức tính nhân hậu (người xưa bảo con kỳ lân không dẫm chân lên các sinh vật bé nhỏ và làn cỏ xanh tươi). Thơ "Lân chi" ở Kinh thi khen ngơi con cháu và họ hàng của Văn vương (vua tổ nhà Chu) là những người sang cả mà có đức tốt, nhân lấy con lân ví với cha mẹ (Văn vương) và chân của nó ví với con cái. Do đó, người ta gọi người con hiền, con quí là "lân chi". Ðây nói Vân Tiên lại sinh được con hay, lập nên công danh, nối dõi nghiệp cha lâu dài.

HẾT
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách