|
Mẹ con Thể Loan trơ trẽn đón Vân Tiên
Nay đà tới thứ trạng nguyên,
2040.Hàn Giang đã tới bỗng liền đóng quân.
Bạc vàng, châu báu, áo quần,
Trạng nguyên đem tạ đáp ơn ngư, tiều,
Ngư, tiều nay đặng danh biêu,
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
2045.Trạng nguyên chưa kịp trở về,
Thấy Quỳnh Trang đã đứng kề trong quân.
Trang rằng: "Tưởng chữ hôn nhân,
Mẹ con tôi đến lễ mừng Trạng nguyên.
Võ Công đã xuống huỳnh tuyền,
2050.Xin thương lấy chút thuyền quyên phận nầy."
Trạng rằng: "Bưng bát nước đầy,
Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong.
Oan gia nợ ấy trả xong.
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi."
2055.Hớn Minh, Tử Trực đứng coi,
Cười rằng: "Hoa khéo làm mồi trêu ong.
Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,
Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi?
Ca ca sao chẳng chịu đi.
2060.Về cho tẩu tẩu để khi xách giày."
Chú thích:
2043. Biêu: do chữ "tiêu" là nêu đọc chệch đi. Có bản chép là "bêu", cũng do chữ "tiêu" mà ra, nhưng tác giả dùng tiếng miền Nam với nghĩa tốt của nó (nêu), chứ không dùng theo nghĩa xấu (bày ra một cách nhơ nhuốc) ở miền Bắc, như nói: bêu đầu, bêu xấu, bán bêu.
2049. Huỳnh tuyền: chín suối, chỉ dưới đất sâu, tức cõi chết, cũng như nói "hoàng tuyền" (suối vàng).
2051, 2052. Bưng bát nước đầy, Ðổ ngay... : nói tình duyên đã dứt, không thể nối lại, cũng như bát nước đã đổ xuống đất, không thể hốt lại đầy được nữa. Dùng tích vợ Chu Mãi Thần.
2053. Oan gia: chính chữ là "oán gia", tục (tiếng tục Trung Quốc), gọi trại là oan gia, chỉ kẻ oán thù với mình hay sự oán thù nói chung. Vân Tiên cho việc mình bị nhà Võ Công hãm hại là cái nợ oan gia, nên bảo rằng: oan gia nợ ấy tôi đã giả xong rồi, sao lại còn tới đòi hỏi?
2059. Ca ca: anh (chữ này ta thường đọc là kha, nhưng chính âm là ca). Chịu đi: ưng thuận đi.
2060. Tẩu tẩu: chỉ Nguyệt Nga. Hớn Minh và Tử Trực bảo Vân Tiên sao không ưng thuận, cho Thể Loan về để xách giày cho Nguyệt Nga. |
|