Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: love_milk_tea9
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Thơ] Lục Vân Tiên | Nguyễn Đình Chiểu

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 15:57:11 | Chỉ xem của tác giả
Thầy trò Vân Tiên bị Lang băm lừa



655.Dắt nhau khi ấy hỏi phăng,
Gặp thầy làm thuốc, hiệu là Triệu Ngang.
    Ngang rằng: "Khá tạm nghỉ an,
Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành.
    Gặp ta bệnh ấy ắt lành,
660.Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?"
    Đồng rằng: "Tiền bạc chẳng nhiều,
Xin thầy nghĩ lượng được điều thuốc thang.
    May mà bệnh ấy đặng an,
Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy."
665.Ngang rằng: "Ta ở chốn nầy!
Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba."
    Sách chi cũng đủ trong nhà,
Nội kinh đã sẵn, ngoại khoa thêm mầu.
    Trước xem y học làm đầu,
670.Sau coi Thọ Thế, thứ cầu đông y.
    Gẫm trong Ngân Hải tinh vi,
Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang.
    Gẫm trong Tập nghiệm lương phang,
Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi Xuân.
675.Vị chi sẵn đặt quân thần,
Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan.
    Mạch thời đọc mạch Lư san,
Đặt vào tay bệnh biết đàng tử sinh.
    Lục quân, Tứ vật thanh danh,
680.Thập toàn, Bát vị, sẵn dành nội thương.
    Lại thông bát trận tân phương,
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài.
    Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài!
Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi."
685.Ngang rằng: "Lục bộ đều suy,
Bộ quan bên tả, mạch đi phù hồng.
    Cứ trong kinh lạc mà thông,
Mạng môn tước hoả đã xông lên đầu.
    Tam tiêu tích nhiệt đã lâu,
690.Muốn cho giáng hỏa, phải đầu Tư âm.
    Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm,
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình.
    Ngoài thời cho điểm vạn linh,
Trong thời cho uống hoàn tình mới xong.
695.Khá trao hai lượng bạc ròng,
Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.
    Chẳng qua làm phúc cho chàng,
Nào ai đòi chuộc đòi đàn chi ai."
    Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài,
700.Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.
    Mười ngày chẳng bớt chút nào,
Thêm đau trong dạ, như bào như xoi.
    Đồng rằng: "Vào đó thầy coi,
Bệnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm."


Chú thích:

658. Ðầu thang: cho uống thuốc.
662. Ðiều: 1. Điều hòa: dùng thuốc thang được đúng mức đúng phép. 2. Điều trị: dùng thuốc thang để chữa trị bệnh (điều trị bằng thuốc thang). Hai nghĩa cùng được cả.
668. Nội kinh: một pho sách thuốc cổ nhất, dạy về nguyên lý căn bản và phép châm cứu của Ðông y; Ngoại khoa: những sách thuốc dạy chữa các bệnh ở thân thể bên ngoài.
669. Y học: tức Y học nhập môn, sách thuốc của Ly Duyên đời Minh, những người làm thuốc nước ta trước đây, thường bắt đầu đọc sách này trước.
670. Thọ Thế: Thọ Thế Bảo Nguyên, sách thuốc của Cung Ðình Hiển đời Minh; Ðông y: Ðông y bảo giám, do Hứa Tuấn nước Triều Tiên thâu thái những lý luận và phương pháp của các sách thuốc Trung Quốc mà soạn ra.
671. Ngân Hải tinh vi: tên một sách thuốc nói về chữa bệnh đau mắt của Tôn Tử Mạc đời Ðường. Ngân hải: bể bạc, tức là con mắt.
672. Cang mục: tức Bản thảo cương mục của Lý Thì Trân đời Minh, sách nói về tính chất các vị thuốc (dược tính); Thanh nang: túi xanh. Hoa Ðà đời Hán, có pho sách ghi chép những bí quyết chữa bệnh, thường đựng trong túi xanh, nên gọi là Thanh nang, nhưng sách này khi Hoa Ðà bị Tào Tháo giết, vợ Ðà ở nhà tức giận, đã đem đốt đi mất.
673. Tập nghiệm lương phan: sách tập hợp lại những phương thuốc hay đã kinh nghiệm.
674. Ngự Toản, Hồi Xuân:
1. Ngự toản: tức sách Ngự toản y tông kim giám đời Kiển Long nhà Thanh, do tòa Thái y viện phụng mệnh vua thâu thái các sách thuốc cổ kim và sưu tầm các sách cùng phương thuốc bí truyền của dân gian mà soạn nên (Ngự toản: vua làm, sách này không phải vua làm, nhưng theo lối phong kiến, để tên sách như thế, để tôn sùng và quy công cho vua).
2. Hồi xuân: Vạn bệnh hồi xuân, sách thuốc của Cung Ðình Hiển đời Minh, cũng như Thọ thế bảo nguyên.
675. Vị: vị thuốc; Quân thần: vua tôi. Các vị thuốc theo tính chất và công dụng của nó, chia ra vị và vua, vị là tôi, vị là người giúp việc, vị là người liên lạc (quân, thần, tá, sứ), một đơn thuốc cũng như một tập thể, phải đủ thành phần mới có công dụng.
676. Nỏ nan (nang): nói thuốc khô, không ẩm ướt.
677. Lư san: bài phú Lư san nói về phép xem mạch (Lư san mạch phú).
679. Lục quân, Tứ vật: hai bài thuốc căn bản để chữa khí và huyết. Thanh danh: tên bài thuốc.
680. Thập toàn, bát vị: hai bài thuốc bổ căn bản để chữa bệnh nội thương, nghĩa là bổ tạng phủ suy yếu.
681. Bát trận tân phương: Trương Giới Tân hiệu Cảnh Nhạc, một danh y đời Minh, có lập ra các phương thuốc mới, chia làm tám loại đội ngũ, gọi là "Tân phương bát trận" (tám trận phương mới). Chữ "bát trận" này có nhắc lại "Bát trận đồ" của Khổng Minh. Tác giả cho việc dùng thuốc chữa bệnh cũng như dùng binh đánh giặc.
682. Ngoại cảm: mắc bệnh vì khí hậu thời tiết ở ngoài, như gió, mưa, nóng, lạnh, ẩm thấp. Lúc mới lâm bệnh, nên cho uống thang "ngũ sài" một thang thuốc trong Tân phương bát trận có vị "sát hồ" giải cảm.
685. Lục bộ: sáu bộ mạch. Ðông y nghe mạch ở chỗ cổ tay, chia bên trái và bên phải, mỗi bên có ba bộ "thốn", "quan", "xích", hai bên thành sáu bộ.
686. Bộ quan bên tả: có mạch gan, mật; Phù hồng: mạch đi nổi và bốc lên.
687. Kinh lạc: các đường truyền dẫn khí huyết trong thân người, đường dọc là kinh, đường ngang là lạc.
688. Mạng môn tước hoả: theo thuyết Ðông y thời trước, mạng môn là một điểm ở giữa hai quả thận, cấp dương khi (ôn độ) cho người cả.
689. Tam tiêu: thượng tiêu ở khoảng bụng trên, chủ về phổi, tim; trung tiêu ở khoảng bụng giữa, chủ về tì, vị; hạ tiêu ở khoảng bụng dưới, chủ về gan, thận. Tích nhiệt: chứa chất khí nóng.
690. Giáng hỏa: dẹp hỏa (khí nóng) xuống. Tư âm: làm cho âm (như các chất nước, huyết, tân dịch...) sinh ra nhiều. Cổ phương có bài "tư âm giang hóa" làm cho âm sinh nhiều để dẹp hỏa xuống.
691. Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm: ba vị thuốc mát để chữa nóng. Nói phải dùng gấp bội ba vị này để chữa nóng.
693, 694. Vạn linh, hoàn tình: hai phương thuốc chữa đau mắt: vạn linh để điểm vào mắt, hoàn tình để uống cho sáng mắt.
698. Ðàn: đặt đàn cho thầy thuốc: chủ bệnh đưa trước một số tiền, thầy thuốc cam đoan sẽ hoàn lại nếu không chữa lành. Ðòi chuộc đòi đàn: đòi chủ bệnh phải đặt cuộc đàn với thầy.
699. Thiệt tài: gốc chữ Hán, có nghĩa là thực tài, có tài thực sự.   
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 17:54:29 | Chỉ xem của tác giả
Lang băm đẩy Vân Tiên cho tên thầy bói



705.Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm,
Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao.
    Quỷ thần người ở trên cao,
E khi đường sá lẽ nào biết đâu?
    Tiểu đồng ngươi khá qua cầu,
710.Cùng ông thầy bói ở đầu Tây Viên.
    Tiểu đồng nghe nói đi liền,
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
    Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi,
Bói hay đã dậy, người coi đã đầy.
715.Ta đây nào phải các thầy
    Bá vơ, bá vất, nói nhây không nhằm.
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm,
    Sáu mươi bốn quẻ, ba trăm dư hào.
Huỳnh kim, Dã hạc sách cao,
720.Lục nhâm, Lục giáp chỗ nào chẳng hay.
    Can, chi đều ở trong tay,
Đã thông trời đất, lại hay việc người.
    Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
Khay trầu, chén rượu cho tươi mới thành.
725.Thầy bèn gieo đặng quẻ lành,
Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi?
    Ứng vào rùa với cỏ thi,
Rồi thầy coi quẻ, một khi mới tường."
    Đồng rằng: "Người ở đông phương,
730.Nhân đi buôn bán giữa đường chẳng an.
    Con nhà họ Lục là chàng,
Tuổi vừa hai tám, còn đàng thơ ngây."
    Bói rằng: "Đinh Mão năm nay,
Hèn chi Giáp tý ngày rày chẳng an.
735.Mạng kim lại ở cung càn,
Tuổi này là tuổi giầu sang trong đời.
    Cầu tài quẻ ấy xa vời,
Khen ngươi khéo nói những lời phỉnh ta."
    Cầm tiền gieo xuống xem qua,
740.Một Giao, hai Sách, lại ba hào trùng.
    Trang thành là quẻ lục xung,
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.
    Hóa ra làm quẻ du hồn,
Lại thêm thế động khắc dồn hào quang.
745.Cứ trong quẻ ấy mà bàn:
"Tuổi nầy mới chịu mẫu tang trong mình.
    Xui nên phát bệnh thình lình,
Vì chưng ma quỷ lộ trình rất thiêng."


Chú thích:

709. Cầu: nhờ làm một việc gì đó. Qua cầu: đến nhờ giúp việc.
714. Bói hay đã dậy: "dậy" là nổi tiếng.
716. Nói nhây: nói dai dẳng, nói dai như đỉa, như rẻ rách.
717. Ôn nhuần: xem đi xem lại cho thấm. Châu Diệc: Chu Dịch đọc chệnh. Kinh dịch đời nhà Chu, sách triết học rất cổ của Trung Quốc. Sách có tám quẻ chính (bát quái), mỗi quẻ nguyên có ba hào (ba vạch), sau chồng lên thành sáu hào. Tám quẻ có sáu hào này, lại giao đổi với nhau, thành 64 quẻ, 384 hào. Thể hiện sự biến chuyển của vũ trụ và xã hội loài người.
719. Huỳnh kim, Dã hạc: hai sách nói về thuật bói toán.
720. Lục nhâm, Lục giáp: hai môn thuật số bói toán. Lục nhâm có sách "Lục nhâm đại toàn" nói về cách xem "nhâm". Lục giáp có sách "Kỳ môn độn giáp" nói về cách xem "độn".
721. Can, chi: can là thập can (mười can), tức: giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quí; chi là thập nhị chi (mười hai chi), tức: tí, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Thập can là mười dấu hiệu thuộc về trời (thiên can) hợp với thập nhị chi là mười dấu hiệu thuộc về đất (địa chi) để chỉ ngày giờ tháng năm. Ví dụ năm giáp tí, năm đầu tiên của can chi, rồi lại đến ất sửu... cứ như thế luân chuyển trong 60 năm lại quay trở lại. Can chi còn phối hợp với "ngũ hành": thủy, hỏa, thổ, mộc, kim, theo tính chất của nó. Ðây nói: trong tay nắm vững qui luật can chi, tính toán được ngày giờ và ngũ hành sinh khắc, nên việc trời đất, việc người đều tỏ cả.
726. Chiêm: bói xem; Lộ trình: khoảng đường đi, trong lúc đi đường.
727. Rùa, thi: mai rùa và cỏ thi, hai thứ dùng để bói toán.
733. Ðinh Mão: năm vận hạn của Vân Tiên, gặp ngày Giáp tý là ngày xung nên mắc bệnh (nguyên tắc về bói toán).
735. Mạng kim: bản mệnh thuộc kim (vàng), một trong ngũ hành. Cung càn: cung thuộc quẻ (kiền, khảm, cấn, chấn, tốn, li, khôn, đoái), thuộc về kim. Mệnh kim ở cung là đắc địa (ở được chỗ hay), nên số sẽ giàu sang.
737. Cầu tài quẻ ấy xa vời: nói quẻ này không phải ứng vào người đi buôn bán (cầu tài).
738. Phỉnh: lừa dối (theo nghĩa miền Nam).
740. Giao, Sách, trùng: cách bói Dã bạc (bói Dịch), cầm ba đồng tiền gieo xuống cái đĩa, một đồng sấp là "sách", ba đồng sấp là "trùng", ba đồng cùng ngửa là "giao". Mỗi lần gieo tiền sấp ngửa như thế, ghi làm một hào, gieo đủ sáu lần là sáu hào thành một quẻ, sẽ theo tính chất mỗi hào trong một quẻ mà đoán sự việc. Quẻ bói ở đây, lần thứ nhất gieo được hào giao (ba ngửa), lần thứ hai hào sách, lần thứ ba hào trùng...
741. Trang: sắp đặt ra, trình bày ra. "Trang quẻ, trang lá số": trình bày nội dung cái quẻ, lá số; Lục xung: sáu hào trong quẻ bói đều xung khắc với nhau.
742. Phụ mẫu, tử tôn: theo sách bói Dã hạc: sáu hào trong quẻ bói, mỗi hào chủ về một sự việc, nên có nhưng tên hào: phụ mẫu (cha mẹ), huynh đệ (anh em), thê tài (vợ và tiền của - gọi tắt là hào "tài"), tử tôn (con cái), quan quỳ (quan sự và quỳ thần - gọi tắt là hào "quan"), trong đó lại có một hào đại biểu cho bản thân gọi là "thế", một hào đại biểu cho người hay việc bên ngoài trực tiếp quan hệ đến bản thân gọi là "ứng". Những hào này, theo ngũ hành, có tính chất tương sinh hay tương khắc nhau. Ở đây, hào phụ mẫu khắc hào tử tôn, ứng vào việc cha mẹ gặp nạn mà con cháu đau thương.
743. Du hồn: tên quẻ bói (hồn đi chơi vẩn vơ). Quẻ bói hóa ra quẻ du hồn, chỉ việc Vân Tiên bị long đong bệnh hoạn nơi đường xa đất khách.
744. Thế động: hào"thế" tức hào bản thân bị xung động. Hào quan: tức hào "quan quy" gọi tắt, quan chỉ chung những sự việc: thi cử, công danh, văn thư, kiện tụng. Thế động khắc hào quan, chỉ cuộc đời của mình bị biến chuyển mà công danh trắc trở.
746. Mẫu tang: tang mẹ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 20:43:35 | Chỉ xem của tác giả
Gã thầy bói lại đẩy sang cho thầy pháp



    Muốn cho bệnh ấy đặng yên,
750.Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày."
    Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây?"
Bói rằng: "Cũng ở chốn nầy bước ra.
    Pháp hay tiếng dậy dồn xa,
Tên là đạo sĩ, ở Trà hương thôn".
755.Tiểu đồng mới chạy bôn bôn,
Hỏi thăm đạo sĩ Hương thôn chốn nào?
    Chợ đông buôn bán lao xao,
Người ta liền chỉ nơi nào chẳng xa.
    Ðồng đi một buổi tới nhà,
760.Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay!
    Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây,
Trừ ma yếm quỷ, phép thầy rất hay."
    Pháp rằng: "ấn đã cao tay,
Lại thêm phù, chú xưa nay ai bì.
765.Qua sông cá thấy xếp vi,
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa.
    Pháp hay hú gió kêu mưa,
Sai chim, khiến vượn, đuổi lừa, vật trâu."
    Pháp hay miệng niệm một câu,
770.Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh.
    "Phép hay sái đậu thành binh,"
Bện hình làm tướng phá thành Diêm Vương.
    Phép hay đạo hỏa phó thang,
Ngồi gươm đứng giáo khai đàng thiên hoang.
775.Có ba lượng bạc trao sang,
Đặng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho,"
    Đồng rằng: "Tôi chẳng so đo,
Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.
    Bấy lâu thầy tớ theo nhau,
780.Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng.
    Chữa chuyên bệnh ấy đặng an,
Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy."
    Pháp rằng: "Về lấy sang đây,
Cho thầy toan liệu lập rày đàn ra."
785.Đồng rằng: "Tôi đã lo xa,
Cực vì người bệnh ở nhà chẳng yên.
    Xin thầy gắng sức chịu phiền,
Ra công bùa chú chữa chuyên dường nào."
    Pháp rằng: "Có khó chi sao,
790.Người nằm ta chữa rồi trao phù về."
    Đồng rằng: "Tôi vốn thằng hề,
Bệnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?"


Chú thích:

750. Thầy pháp: pháp sư, thầy phù thủy.
755. Bôn bôn: bon bon.
763. ấn: phù phép của thày pháp để bắt ma, trừ tà.
764. Phù, chú: lá bùa và câu chú.
770. Hồ linh: bầu thiêng liêng.
771. Sái đậu thành binh: rảy hạt đậu thành binh lính đi đánh trận được.
772. Diêm Vương: vua ở âm phủ. Hai câu này nói: sái được âm binh bằng đậu, bằng rơm xuống phá thành vua âm phủ.
773. Ðạo hỏa phó thang: Dẫm chân lên lửa cháy, dấn mình vào nước sôi.
774. Ngồi gươm, đứng giáo: ngồi trên gươm, đứng trên giáo. Khai đàng thiên hoang: mở lối đi ở cõi trời xa vắng chưa có ai tới.
777. So đo: có nghĩa là suy hơn tính thiệt.
791. Hề: người theo hầu, như nói "hề đồng": chú bé theo hầu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 19-9-2011 18:18:48 | Chỉ xem của tác giả
Bày trò bịp gã thầy pháp đuổi hai thầy trò



    Pháp rằng: "Ta biết kinh quyền,
Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài."
795.Tiểu đồng nghe lọt vào tai,
Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên.
    Pháp bèn cất tiếng hét lên:
"Mời ông Bàn Cổ tọa thiền chứng miêng.
    Thỉnh ông Đại Thánh Tề Thiên,
800.Thỉnh bà Võ Hậu đều liền đến đây.
    Thỉnh ông Nguyên soái chinh Tây,
Cùng bà Vương Mẫu sum vầy một khi.
    Thỉnh ông Phật tổ A Di,
Thập phương chư Phật phù trì giúp công.
805.Lại mời công chúa Ngũ Long,
Bình Nam ngũ hổ hội đồng an dinh.
    Thỉnh trong thiên tướng, thiên binh,
Cùng là tam phủ Động Đình Xích Lân.
    Thỉnh trong khắp hết quỷ thần,
810.Cùng đều xuống chốn dương trần vui chơi.
    Cho ngươi ba đạo phù trời,
Uống vào khoẻ mạnh như lời chẳng sai."
    Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời,
Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang.
815.Vào nhà thưa với thầy Ngang.
"Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào?"
    Ngang rằng: "Còn bạc trong bao,
Thời ngươi khá lấy mà trao cho thầy"
    Đồng rằng: "Tôi hãy ở đây,
820.Bệnh kia dầu khá mình nầy bán đi."
    Triệu Ngang biết chẳng còn chi,
Kiếm lời tráo chác đuổi đi khỏi vòng:
    "Ở đây làng xóm khó lòng,
E khi mưa nắng ai cùng đỡ che."


Chú thích:

793. Kinh quyền: hành sự theo lẽ thường là kính, theo lẽ biến là quyền. Hai chữ này thường dùng chung là một danh từ để chỉ sự hành động biết tùy thời, không cố chấp câu nệ.
794. Thuyên: bớt đau, khỏi bệnh.
798. Bàn Cổ: theo truyền thuyết Trung Quốc. Tọa niền chứng miêng (minh): chứng tỏ trước bàn thờ.
799. Ðại Thánh Tề Thiên: tức Tôn Ngộ Không, một nhân vật chính trong chuyện Tây Du Ký. Ngộ Không nguyên là một con khỉ đá tinh quái, đi cầu tiên học đạo, có nhiều phép lạ, từng xuống thủy cung yêu sách Long vương, và xuống âm cung xóa sổ Diêm vương, Trời vời lên làm Bật Mã Ôn (chức coi ngựa nhà Trời), Ngộ Không bất mãn, làm náo động thiên cung rồi bỏ về, mấy tướng nhà Trời xuống bắt, đều bị Ngộ Không đánh bại, Trời phải phong y là Tề thiên đại thánh (thánh to bằng trời). Sau Ngộ Không quy Phật, theo Ðường Tam Tạng sang Tây Trúc lấy kinh. Nhân vật Tề thiên đại thánh ngày nay được coi tượng trưng cho sức mạnh vô địch của nhân dân.
800. Võ Hậu: Võ Chiếu, vợ Ðường Cao Tông, Cao Tông chết, con là Trung Tông lên kế ngôi, được mấy tháng, bà phế con tự lập làm vua, đổi hiệu nhà Ðường là nhà Chu. Sau bọn Trương Giản Chi phù Trung Tông phục lại ngôi vua, tôn hiệu bà là Tắc Thiên đại thánh hoàng đế, người sau nhân gọi là Võ Tắc Thiên.
801. Nguyên soái chinh Tây: theo chính sử, Tiết Nhân Quý, một tướng tài đời Ðường Thái Tông, thường đánh Ðông dẹp Tây, phá được các nước Cao Ly, Khiết Ðan, Ðột khuyết. Người sau đã nhân sự tích này diễn thành tiểu thuyết Chinh Ðông chinh Tây.
802. Vương mẫu: tức Tây Vương mẫu, cũng là gọi là Kim mẫu, một bà tiên lãnh đạo tất cả các nữ tiên, ở cõi Dao Trì (nơi Vương mẫu ở có ao ngọc gọi là Dao Trì), thường có nhiều chuyện giao thiệp với trần gian.
803. A Di: tức A Di Ðà, tên hiệu vị Phật tổ chí tôn ở thế giới cực lạc phương Tây. Di Ðà nguyên là một quốc vương xuất gia, sau khi mãn quả thành phật, do công đức tu hành, Di Ðà đã tạo được một cõi quảng đại trang nghiêm, trong đó chỉ có vui sướng không có khổ sở, gọi là thế giới cực lạc, những chúng sinh ở thập phương, người nào nhất tâm niệm phật, tu phật, đều được Di Ðà tiếp dẫn về thế giới ấy.
805. Công chúa Ngũ Long: tức Thành Long, Hắc Long, Bạch Long, Xích Long, Hoàng Long, năm vị công chúa (năm con gái Long vương) trong truyện "Thuyết Ðường", năm vị này tu tiên ở núi Ngũ Long, có nhiều phép lạ, từng bày ngũ trận "Ngũ hành" giúp nước Tây phiên đánh nhau với quân nhà Ðường.
806. Bình Nam ngũ hổ: năm tướng mạnh như hổ đi đánh phương Nam trong tiểu thuyết "Ngũ Hổ Bình Nam"; An dinh: đóng yên dinh trại, nói đến tụ họp nơi bàn dinh.
808. Tam phủ: Thiên phủ, Ðịa phủ, Thủy phủ. Ðộng Ðình: tên một cái hồ lớn đẹp có tiếng ở tỉnh Hồ Nam - Trung Quốc. Xích lân: không rõ tác giả dùng điển gì. Xích lân nguyên nghĩa là vẩy đỏ, có lẽ chỉ thần "rồng" hay "cá" có vẩy đỏ, một vị thủy thần ở Ðộng Ðình, mà phải thỉnh vị thần gì ở hồ ấy.
810. Dương trần: cõi dương bụi bặm, tức cõi đời.
816. Pháp phù: phép và bùa để chữa bệnh.
822. Tráo chác: trở tráo, đổi chác, tức là lừa dối, trở mặt.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 19-9-2011 18:38:32 | Chỉ xem của tác giả
Vân Tiên Lâm Cảnh Màn Trời Chiếu Đất



825.Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe,
Bởi tin nên mắc, bởi nghe nên lầm.
    Mới lo chạy hết một trăm,
Mình ve khô xép ruột tằm héo don.
    Thương thay tiền mất tật còn,
830.Bơ vơ đất khách thon von thế này.
    Thôi thôi gắng gượng khỏi đây,
Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau".
    Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,
Tiểu đồng dìu dắt qua cầu Lá Buôn.
835.Ðương khi mưa gió luông tuồng,
Người buồn lại gặp kiểng buồn khá thương.
    Xiết bao ăn tuyết nằm sương,
Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao,
    Dầu cho tài trí bực nào,
840.Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ.
    Tiên rằng: "Đi đã ngất ngơ,
Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chưng."
    Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng,
Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi."
845.Non tây vừa khuất mặt trời,
Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại Đề.


Chú thích:

825. Vắng hoe: ở đây là cạn hết tiền.
832. Khuyên giáo: đi quyên tiền, đi xin.
834. Cầu Lá Buôn: buôn (có chỗ viết là buôm) là một thứ cây gồi, cây cọ ở miền Nam, lá dùng làm nón và áo tơi. Trung Quốc thì không có địa danh Lá Buôn, nhưng ở tỉnh Biên Hòa, có cái rạch (sông nhỏ) gọi là rạch Lá Buôn, trên có một cái cầu gọi là cầu Lá Buôn, đường quan lộ từ Huế vào Gia Ðịnh đi qua cái cầu này (theo Gia định Thống chí của Trịnh Hoài Ðức).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 19-9-2011 19:36:35 | Chỉ xem của tác giả
Kiệm, Hâm lừa Vân Tiên, trói Tiểu đồng



    Trường thi một lũ vừa về,
Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm:
    "Anh về nay đã hai rằm,
850.Cớ sao mang bệnh còn nằm nơi đây?"
    Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may,
Chẳng hay chư hữu khoa nầy thế nao?"
    Hâm rằng: "Tử Trực đậu cao,
Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân,
855.Một mình về trước viếng thân,
Hai người trở việc còn lần đi sau.
    Đương cơn hoạn nạn gặp nhau,
Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
    Từ đây tới quận Đông Thành,
860.Trong mình có bệnh, bộ hành sao xong?
    Lần hồi đến chốn Giang Trung,
Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau."
    Tiên rằng:"Tình trước ngãi sau,
Có thương xin khá giúp nhau phen này."
865.Hâm rằng: "Anh tạm ngồi đây,
Tiểu đồng ngươi tới trước nầy cùng ta.
    Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa,
Phòng khi sông biển phong ba bất kỳ."
    Tiểu đồng vội vã ra đi,
870.Muốn cho đặng việc quản gì lao đao.
    Trịnh Hâm trong dạ gươm đao,
Bắt người đồng tử trói vào gốc cây:
    "Trước cho hùm cọp ăn mày,
Hại Tiên phải dụng mưu nầy mới xong."
875.Vân Tiên ngồi những đợi trông,
Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn.


Chú thích:

849. Hai rằm: hai tháng.
852. Chư hữu: các bạn.
855. Viếng thân: thăm cha mẹ.
856. Trở việc: bận việc.
861. Giang trung: giữa sông tức là nơi có sóng nước, nơi bến đò.
862. Tháp tùng: chữ "tháp" chính âm là "đáp", nói đáp thuyền mà đi cùng. Tiếng này rất phổ biến ở Nam Bộ.
871. Trong dạ gươm đao: do câu chữ Hán "Phúc trung hữu kiếm": trong bụng có gươm, nói tâm địa bất nhân, hiểm ác.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 19-9-2011 20:51:58 | Chỉ xem của tác giả
Thầy trò Vân Tiên khóc thương nhau



    Vân Tiên than khóc nằm lăn:
"Có đâu địa hãm thiên băng thình lình.
    Bấy lâu đất khách lưu linh,
880.Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau.
    Nay đà hai ngả phân nhau,
Còn ai nâng đỡ trước sau cho mình!"
    Hâm rằng: "Anh chớ ngại tình,
Tôi xin đưa tới Đông Thành thời thôi."
885.Vân Tiên chi xiết lụy rơi,
Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề.
    Tiểu đồng bị trói khôn về,
Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang.
    "Phận mình đã mắc tai nàn,
890.Cảm thương họ Lục suối vàng bơ vơ.
    Xiết bao những nỗi dật dờ,
Đò giang nào biết, bụi bờ nào hay.
    Vân Tiên hồn có linh rày,
Đem tôi theo với đỡ tay chưng cùng!"
895.Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng,
Đêm khuya ngồi dựa cội tòng ngủ quên.
    Sơn quân ghé lại một bên,
Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng.
    Tiểu đồng thức dậy mơ màng,
900.Xem qua dấu đất ràng ràng mới hay.


Chú thích:

878. Ðịa hãm thiên băng: đất sụp trời sụp. Tai biến rất lớn.
879. Lưu linh: trôi nổi lạc loài, nay đây mai đó.
890. Suối vàng: do chữ Hán "hoàng tuyền", tức cõi chết. Ðây nói tiểu đồng nghĩ thương cho Vân Tiên không ai dìu dắt, nuôi nấng chắc đã chết rồi.
892. Ðò giang nào biết, bụi bờ nào hay: nói hồn Vân Tiên - cái hồn mù mắt - vật vờ không biết lối mà đi.
896. Cội tòng: gốc cây thông.
897. Sơn quân: vua núi, tức là cọp.
900. Ràng ràng: rõ ràng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 12:28:01 | Chỉ xem của tác giả
Tưởng Vân Tiên chết, Tiểu đồng thủ nghĩa


    Nửa mừng nửa lại sợ thay,
Chạy ra chốn cũ kiếm thầy Vân Tiên.
    Mặt trời vừa khỏi mái hiên,
Người buôn, kẻ bán, chợ phiên nhộn nhàng.
905.Hỏi thăm bà quán giữa đàng,
Bữa qua có thấy người tang chăng là?
    Quán rằng thôi đã ra ma,
Khi mai xóm làng người đà đi chôn.
    Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,
910.Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng?"
    Tay lau nước mắt rưng rưng,
Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao.
    Tiểu đồng vội vã bước vào,
Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?"
915.Đồng rằng: "Tớ tới kiếm thầy,
Chẳng hay người thác mả này là ai?"
    Người nầy: "Một gã con trai,
Ở đâu không biết lạc loài đến đây.
    Chưng, tay, mặt, mũi tốt thay,
920.Đau chi nên nỗi nước nầy khá thương."
    Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han,
Nằm lăn bên mả khóc than một hồi.
    Người đều xem thấy thương ôi!
Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.
925.Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,
Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.
    Một mình ở đất Đại Đề,
Sớm đi khuyên giáo, tối về quảy đơm.
    Dốc lòng trả nợ áo cơm,
930.Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền.


Chú thích:

906. Người tang: người mặc quần áo tang, chỉ Vân Tiên.
928. Quảy đơm: cúng lễ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 12:39:40 | Chỉ xem của tác giả
Vân Tiên bị Trịnh Hâm xô xuống sông



    Thứ nầy đến thứ Vân Tiên,
Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than.
    Trong khăn lụy nhỏ chứa chan,
Cảm thương phận tớ mắc nàn khi không.
935.Lênh đênh thuyền giữa biển đông,
Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ.
    Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghênh ngang sao mọc, mịt mờ sương bay.
    Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
940.Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.
    Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha.
    Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục, xót xa tấm lòng.


Chú thích:

932. Be thuyền: mạn thuyền.
934. Mắc nàn khi không: bỗng dưng mắc nạn.
936. Cô bồng: cô: lẻ loi, bồng: mui thuyền. Nói chiếc thuyền lẻ loi một mình.
940. Vời: khoảng nước rộng.
942. Phôi pha: chữ "phôi pha" dùng ở câu này có nghĩa: làm cho nhẹ chuyện đi, che lấp việc đi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 17:24:01 | Chỉ xem của tác giả
Vân Tiên được ngư ông cứu



945.Vân Tiên mình lụy giữa dòng,
Giao long dìu dắt vào trong bực rày.
    May vừa trời đã sang ngày,
Thuyền chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
    Hối con vầy lửa một giờ,
950.Ông hơ bụng dạ, bà hơ mặt mày.
    Vân Tiên vừa ấm chân tay,
Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi.
    Ngỡ than mình phải nước trôi,
Hay đâu mình hãy đặng ngồi dương gian.
955.Ngư ông khi ấy hỏi han,
Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.
    Ngư rằng: "Người ở cùng ta
Sớm mai hẩm hút một nhà cho vui".
    Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi,
960.Thân tôi như thể trái mùi trên cây.
    May đà trôi nổi đến đây,
Không chi báo đáp mình nầy trơ trơ."
    Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn?
965.Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
    Rày doi, mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió, đêm nầy chơi trăng.
    Một mình thong thả làm ăn,
970.Khỏe quơ chày kéo, mệt quăng câu dầm.
    Nghêu ngao nay chích mai đầm.
Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
    Kinh luân đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế vui say trong trời."


Chú thích:

946. Giao long: con rồng nước, rồng bể, có tính hung tợn hay gây sóng gió. Vân Tiên và tiểu đồng đều là người rất tốt, nên giao long hay sơn quân cũng cảm thông mà đến cứu giúp. Sông Cửu Long có nhiều cá sấu, cũng gọi là giao long; Bực rầy: bãi này.
949. Hối: giục vội. Vầy lửa: như nghĩa nhóm lửa.
953. Nước trôi: nói chết bị nước cuốn đi.
958. Hẩm hút: hẩm: hư hỏng, biến chất (gạo hẩm, đường hẩm). Hút: (tiếng miền Nam, nói về gạo) không trắng, không ngon. Danh từ "hẩm hút" dùng để chỉ thứ gạo xấu, thức ăn người nghèo, cũng như nói rau cháo. Câu này nói: tuy nhà nghèo, nhưng thấy mật, vui vẻ.
960. Trái mùi: trái chín lắm. Vân Tiên nói: trái cây chín mùi, tất phải rụng, cũng như thân mình, bệnh hoạn ốm yếu nhiều, tất phải chết, sẽ phụ cả công ơn của ngư ông.
967. Doi: dải đất thòi ra ngoài bể, ngoài sông (doi bể, doi sông).
971. Chích: cái hồ, cái đầm.
973. Kinh luân: ông ngư nói: ông có tài chài lưới, cũng chẳng kém gì người trị nước có tài kinh luân.
974. Dưới thế: dưới đời.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách