|
Lang băm đẩy Vân Tiên cho tên thầy bói
705.Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm,
Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao.
Quỷ thần người ở trên cao,
E khi đường sá lẽ nào biết đâu?
Tiểu đồng ngươi khá qua cầu,
710.Cùng ông thầy bói ở đầu Tây Viên.
Tiểu đồng nghe nói đi liền,
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi,
Bói hay đã dậy, người coi đã đầy.
715.Ta đây nào phải các thầy
Bá vơ, bá vất, nói nhây không nhằm.
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm,
Sáu mươi bốn quẻ, ba trăm dư hào.
Huỳnh kim, Dã hạc sách cao,
720.Lục nhâm, Lục giáp chỗ nào chẳng hay.
Can, chi đều ở trong tay,
Đã thông trời đất, lại hay việc người.
Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
Khay trầu, chén rượu cho tươi mới thành.
725.Thầy bèn gieo đặng quẻ lành,
Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi?
Ứng vào rùa với cỏ thi,
Rồi thầy coi quẻ, một khi mới tường."
Đồng rằng: "Người ở đông phương,
730.Nhân đi buôn bán giữa đường chẳng an.
Con nhà họ Lục là chàng,
Tuổi vừa hai tám, còn đàng thơ ngây."
Bói rằng: "Đinh Mão năm nay,
Hèn chi Giáp tý ngày rày chẳng an.
735.Mạng kim lại ở cung càn,
Tuổi này là tuổi giầu sang trong đời.
Cầu tài quẻ ấy xa vời,
Khen ngươi khéo nói những lời phỉnh ta."
Cầm tiền gieo xuống xem qua,
740.Một Giao, hai Sách, lại ba hào trùng.
Trang thành là quẻ lục xung,
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.
Hóa ra làm quẻ du hồn,
Lại thêm thế động khắc dồn hào quang.
745.Cứ trong quẻ ấy mà bàn:
"Tuổi nầy mới chịu mẫu tang trong mình.
Xui nên phát bệnh thình lình,
Vì chưng ma quỷ lộ trình rất thiêng."
Chú thích:
709. Cầu: nhờ làm một việc gì đó. Qua cầu: đến nhờ giúp việc.
714. Bói hay đã dậy: "dậy" là nổi tiếng.
716. Nói nhây: nói dai dẳng, nói dai như đỉa, như rẻ rách.
717. Ôn nhuần: xem đi xem lại cho thấm. Châu Diệc: Chu Dịch đọc chệnh. Kinh dịch đời nhà Chu, sách triết học rất cổ của Trung Quốc. Sách có tám quẻ chính (bát quái), mỗi quẻ nguyên có ba hào (ba vạch), sau chồng lên thành sáu hào. Tám quẻ có sáu hào này, lại giao đổi với nhau, thành 64 quẻ, 384 hào. Thể hiện sự biến chuyển của vũ trụ và xã hội loài người.
719. Huỳnh kim, Dã hạc: hai sách nói về thuật bói toán.
720. Lục nhâm, Lục giáp: hai môn thuật số bói toán. Lục nhâm có sách "Lục nhâm đại toàn" nói về cách xem "nhâm". Lục giáp có sách "Kỳ môn độn giáp" nói về cách xem "độn".
721. Can, chi: can là thập can (mười can), tức: giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quí; chi là thập nhị chi (mười hai chi), tức: tí, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Thập can là mười dấu hiệu thuộc về trời (thiên can) hợp với thập nhị chi là mười dấu hiệu thuộc về đất (địa chi) để chỉ ngày giờ tháng năm. Ví dụ năm giáp tí, năm đầu tiên của can chi, rồi lại đến ất sửu... cứ như thế luân chuyển trong 60 năm lại quay trở lại. Can chi còn phối hợp với "ngũ hành": thủy, hỏa, thổ, mộc, kim, theo tính chất của nó. Ðây nói: trong tay nắm vững qui luật can chi, tính toán được ngày giờ và ngũ hành sinh khắc, nên việc trời đất, việc người đều tỏ cả.
726. Chiêm: bói xem; Lộ trình: khoảng đường đi, trong lúc đi đường.
727. Rùa, thi: mai rùa và cỏ thi, hai thứ dùng để bói toán.
733. Ðinh Mão: năm vận hạn của Vân Tiên, gặp ngày Giáp tý là ngày xung nên mắc bệnh (nguyên tắc về bói toán).
735. Mạng kim: bản mệnh thuộc kim (vàng), một trong ngũ hành. Cung càn: cung thuộc quẻ (kiền, khảm, cấn, chấn, tốn, li, khôn, đoái), thuộc về kim. Mệnh kim ở cung là đắc địa (ở được chỗ hay), nên số sẽ giàu sang.
737. Cầu tài quẻ ấy xa vời: nói quẻ này không phải ứng vào người đi buôn bán (cầu tài).
738. Phỉnh: lừa dối (theo nghĩa miền Nam).
740. Giao, Sách, trùng: cách bói Dã bạc (bói Dịch), cầm ba đồng tiền gieo xuống cái đĩa, một đồng sấp là "sách", ba đồng sấp là "trùng", ba đồng cùng ngửa là "giao". Mỗi lần gieo tiền sấp ngửa như thế, ghi làm một hào, gieo đủ sáu lần là sáu hào thành một quẻ, sẽ theo tính chất mỗi hào trong một quẻ mà đoán sự việc. Quẻ bói ở đây, lần thứ nhất gieo được hào giao (ba ngửa), lần thứ hai hào sách, lần thứ ba hào trùng...
741. Trang: sắp đặt ra, trình bày ra. "Trang quẻ, trang lá số": trình bày nội dung cái quẻ, lá số; Lục xung: sáu hào trong quẻ bói đều xung khắc với nhau.
742. Phụ mẫu, tử tôn: theo sách bói Dã hạc: sáu hào trong quẻ bói, mỗi hào chủ về một sự việc, nên có nhưng tên hào: phụ mẫu (cha mẹ), huynh đệ (anh em), thê tài (vợ và tiền của - gọi tắt là hào "tài"), tử tôn (con cái), quan quỳ (quan sự và quỳ thần - gọi tắt là hào "quan"), trong đó lại có một hào đại biểu cho bản thân gọi là "thế", một hào đại biểu cho người hay việc bên ngoài trực tiếp quan hệ đến bản thân gọi là "ứng". Những hào này, theo ngũ hành, có tính chất tương sinh hay tương khắc nhau. Ở đây, hào phụ mẫu khắc hào tử tôn, ứng vào việc cha mẹ gặp nạn mà con cháu đau thương.
743. Du hồn: tên quẻ bói (hồn đi chơi vẩn vơ). Quẻ bói hóa ra quẻ du hồn, chỉ việc Vân Tiên bị long đong bệnh hoạn nơi đường xa đất khách.
744. Thế động: hào"thế" tức hào bản thân bị xung động. Hào quan: tức hào "quan quy" gọi tắt, quan chỉ chung những sự việc: thi cử, công danh, văn thư, kiện tụng. Thế động khắc hào quan, chỉ cuộc đời của mình bị biến chuyển mà công danh trắc trở.
746. Mẫu tang: tang mẹ. |
|