|
Tác giả |
Đăng lúc 15-9-2011 12:37:29
|
Xem tất
Tâm sự người chủ quán
465.Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: "Ông quán cười ai?"
Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ."
Cười người Tôn Tẫn không lừa,
470.Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên.
Trực rằng: "Lời nói hữu duyên,
Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?"
Quán rằng: "Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
475.Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương."
Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?"
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào,
480.Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt, Trụ, mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
485.Ghét đời Ngũ Bá phân vân,
Chuộng bề dối trá, làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời Thúc Quý phân băng,
Sớm đầu, tối đánh, lằng nhằng rối dân.
Thương là thương đức thánh nhân,
490.Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuôn
"Thương thầy Nhan Tử dở dang,"
Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
495.Thương thầy Ðổng Tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước, lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
500.Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm, Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương."
Chú thích:
468. Ðồ thơ: tức đồ thư, sách vở câu này nói: con người chẳng có tài gì về sách vở (chẳng biết sách vở gì cả, vô học). Có người giải: Ðồ thơ tức đồ thi: bôi thơ, nói không biết làm thơ, như người bôi vẽ ra giấy, nhưng theo văm phạm chữ Hán, chưa thấy lối đặt như thế.
469, 470. Tôn Tẫn, Bàng Quyên: hai tướng tài thời Chiến quốc. Hai người cùng học Quy Cốc tử, kết nghĩa với nhau, nhưng về sau Bàng Quyên làm tướng nước Ngụy, lập mưu cắt xương đầu gối của Tôn Tẫn (có sách chép là cắt chân). Không lừa: không chọn lọc, nói không biết chọn bạn. Trước đà thấy máy: máy là máy trời; nói Quỉ Cốc tử đã bảo trước Tôn Tẫn nên phòng ngừa Bàng Quyên, nhưng Tôn Tẫn vẫn hững hờ không lưu , nên bị Bàng Quyên lừa hại. Hai câu này nói: chơi bạn nên để ý tới tình bạn, kẻo xảy ra ta nạn như việc Tôn Tẫn, Bàng Quyên.
472. Tuyền: toàn: trọn vẹn. nói những việc trong kinh sử, có hay có dở, không thể nào toàn được.
479. Tầm phào: không có nghĩa lý, vu vơ, hão huyền, tiếng thường dùng ở miền Nam.
481. Kiệt, Trụ: Vua Kiệt đời Hạ, vua Trụ đời Thương. Hai vua tàn ác có tiếng, bị nhân dân oán ghét mà mất ngôi. Mê dâm: mê là trong lòng mê ám, dâm là việc tà dâm (càn bậy).
483. U, Lệ: U vương và Lệ vương hai vua đời nhà Chu, làm nhiều việc bạo ngược vô đạo; Ða đoan: nhiều mối, lôi thôi, nhiều việc.
485. Ngũ Bá: năm vua Bá. Cuối đời nhà Chu (đời Xuân thu), năm vua chư hầu mạnh lớn, tức Tề Hoàn công. Tấn Văn công, Tống Tương công, Trần Mục công, Sở Trang vương, kế tiếp nhau nổi lên làm bá chủ nhất thời, gọi là "Ngũ bá". Ngũ bá đều dựa trên uy lực, giả dối nhân nghĩa, kéo bè nước này đánh nước kia, gây chiến tranh hại dân.
487. Thúc Quý: đời suy loạn nói chung. Bài phú "Bạch lộc động" của Chu Hi đời Tống, trong có chữ "Thúc quý", tuy tác giả dùng chỉ chung đời suy loạn, nhưng cái thời gian xảy ra mà tác giả thuật đó, vẫn là thời gian "Ngũ quý", vậy 'Thúc quý" cũng có thể giải là đời suy loạn "Ngũ quý" được "Ngũ quý" tức "Ngũ đại", năm triều đại khởi lên cuối đời Ðường, hồi ấy nước Trung Quốc bị chia cắt nghiêng đổ (phân băng), dân rất khổ vì chiến tranh liên miên.
488. Ðầu: đầu hàng.
489. Ðức thánh nhân: Tức Khổng Tử, ông đi khắp các nước Tống, Vệ, Trần, Khuôn, để tìm cách đạo hành của mình mà không được.
491. Nhan Tử: tức Nhan Uyên, học trò Khổng Tử thông minh và hiếu học, đức hạnh vào bậc nhất, nhưng chết sớm, năm chết mới 32 tuổi (đây nói 31 tuổi, có lẽ chép nhầm), thầy và bạn rất thương tiếc.
493. Gia Cát: chữ này chính âm là Chư Cát (họ hai chữ), Chư Cát Lượng tên tự Khổng Minh, người đời Tam quốc, có tài chính trị, nhất là binh pháp làm quân sư cho Lưu Bị, chỉ muốn khôi phục cơ nghiệp nhà Hán, nhưng khi Khổng Minh chết, nước vẫn còn bị chia ba.
494. Hán mạt: cuối đời Hán, tức đời Tam quốc (Thục, Ngụy, Ngô, ba nước phân tranh).
495. Ðổng Tử: Ðổng Trọng Thư, một nhà đại nho đời Hán, có tài đức hơn người vua Hán cử làm Giang Ðô tướng, nhưng rồi lại giáng chức và có lần bị bắt giam, sau ông cáo quan về.
497. Nguyên Lượng: Ðào Tiêm, tên tự là Nguyên Lượng, một nhà cao ẩn đời Tấn. Trước có làm quan Lệnh (tri huyện), huyện Bành Trạch, vì không chịu quỵ lụy quan trên, ông treo ấn bỏ quan về ở ẩn, có làm bài thơ "Quy khứ lai từ" (Về đi thôi) để tỏ chí mình.
499. Hàn Dũ: Người đời Ðường, đỗ tiến sĩ, làm đến chức Lại Bộ Thị Lang. Vì làm biểu can vua Ðường đừng mê tín đạo Phật (vua rước xương Phật vào trong cung để cúng lễ), nên bị giáng chức và đày đi xa. Ông là người đạo đức văn chương nổi tiếng, có nhiều tác phẩm hay truyền lại, các học giả coi ông như Thái Sơn (ngọn núi cao hơn các núi khác) Bắc đẩu (chòm sao sáng hơn các sao).
501. Liêm, Lạc: Chu Ðôn Di ở Liêm Khê và học trò là hai anh em Trinh Hiệu, Trinh Di ở Lạc Dương, ba người là nhà triết học nổi tiếng đời Tống, có ra làm quan nhưng không đắc dụng, lại trở về dạy học.
502. Giáo dân: dạy dỗ chúng dân. |
|