Đây là một chủ đề căng não... Khi một ngày nọ những người nông dân vùng đồng bằng Chín Rồng nói rằng họ nhìn thấy nước sông những năm gần đây đặc biệt khô cạn một cách kỳ lạ. Hệ quả là ko có nước tưới tiêu, cùng với đất đai nứt toạt với diện tích lớn chưa từng thấy. Mùa khô kéo dài quá lâu, nước sông hạ vì thượng nguồn bị chặn bởi hàng chục dự án thủy điện mới tại sông mẹ từ cao nguyên xa xăm đến trung du (và hàng trăm dự án thủy điện sắp xây khác, thật sự là gây cạn kiệt nguồn nước và vấn đề an ninh nguồn nước trở thành vấn đề cực kỳ cấp bách), cùng với trái đất nóng lên làm băng tan diện tích lớn, đều làm cho nước biển dâng lên và xâm lăng gây mặn hàng chục hàng trăm kilomet vào sâu trong đất liền và gây ngập lụt từ triều cường và đất ngày càng lún vì nguồn nước ngầm khô cạn, sạt lở đất vì thiếu phù sa bồi đắp củng cố [trong khi đó thì cát bồi bờ sông bị khai thác quá mức, thậm chí là nạn khai thác lậu mất kiểm soát đang diễn ra tràn lan, làm sạt lở bờ sông càng nghiêm trọng hơn]
Hậu quả là cực kỳ nghiêm trọng, đó ko chỉ là cuộc mưu sinh bị đe dọa nhãn tiền của hàng chục triệu người nông dân, mà nó còn là vấn đề an ninh lương thực gặp thách thức bị đánh sập cả một vùng vựa lúa lớn, kèm theo những bất ổn về kinh tế và xã hội khác khi con người bị dồn vào khốn cùng nghịch cảnh...; trong khi đó, vùng đô thị cũng vướng những hệ lụy khôn kể tương tự, trong đó có cả ngập lụt và đất lún...
Người có tầm nhìn sẽ ko để mình mãi lọt vào tình thế bị động, bị phụ thuộc. Nếu chờ đợi cho lang mặc sức uy hiếp hoặc bố thí cho một vài giọt bằng cách buộc phải tự cắt thịt dâng đổi, thì mãi mãi ko có được sự tự chủ đích thực. Thay vào đó, cần phải tìm giải pháp tự cứu. Và-phải-nhanh!
Một trong những giải pháp hữu hiệu trong tầm tay, có thể kể đến là việc cần thiết xây 2 hồ nhân tạo lớn ở 2 nhánh thượng nguồn Chín Rồng, nhằm để dự trữ nước cho mùa khô và điều tiết nước cho mùa mưa lũ.
Mặt khác, vấn đề nước mặn xâm lấn, có lẽ phải xây các nhà máy lọc mặn (vd lọc bằng màng RO), khi mà xung quanh VN là biển (và nhờ đó cũng có mưa nhiều; và cả nắng cùng gió nhiều, nguồn chế tạo năng lượng sạch dồi dào), thì thay vì xem khó khăn như là vấn đề thì có thể biến hóa nó thành cái có thể tận dụng và thành lợi thế trong tương lai. Vd như biến nước biển đã xử lý trở thành nguồn tưới tiêu và sử dụng trong tương lai - khi đó, đảm bảo quyền sở hữu vùng biển trong tầm tay lại trở thành vấn đề chiến lược (kèm theo đó là xử lý và ngăn chặn vấn đề ô nhiễm nước sông/biển).
Một công nghệ mới gần đây, RWH (Rainwater Harvesting - tức hệ thống Thu gom Nước mưa), có thể sẽ là giải pháp cực kỳ hữu dụng cho vấn nạn hạn hán và ngập lụt trong tương lai. Người ta thu gom nước mưa qua hệ thống mái che lớn và đường ống rồi dẫn và lưu trữ nó vào những bể chứa nước cực lớn ngầm (hoặc dùng hệ thống đường ống nước mưa dẫn về vùng hồ chứa/bể chứa nhân tạo/kênh rạch tự có hoặc đào mới) (thay vì để nước mưa tự chảy xuống đường gây ngập lụt vì hệ thống thoát nước quá tải). Sau đó có thể lấy số nước dự trữ lớn này để sử dụng trong tưới tiêu và sinh hoạt (quy mô nhiều dự án công ở nông thôn và thành thị, và quy hoạch các tòa nhà cao ốc lớn trong tương lai; khó thực hiện ở quy mô hộ gia đình ở thành thị vì diện tích nhà dân đa số quá nhỏ và quá tốn kém khó khăn để thực hiện đào bể ngầm toàn điện - nhưng ở quy mô hộ gia đình nông thôn đất rộng thì hoàn toàn có thể tự chủ trữ nước bằng cách đào thêm ao hồ và xây thêm hồ chứa). Ngoài chức năng chống ngập (nhất là ở đô thị), thì biện pháp này cũng hoàn toàn có thể dùng để tập trung được nguồn nước lớn vào các hồ dự trữ/hồ nhân tạo lớn nhỏ khắp nơi để lưu trữ nước chống hạn hán cho mùa khô (ở nông thôn). Thu thập lượng nước mưa lớn vào ao hồ tự nhiên và nhân tạo (đường nước tích tụ kín, ko chảy ra sông biển) cũng là bổ sung tích cực cho lượng nước ngầm trong tương lai, có thể giảm một phần tiến trình lún đất do thiếu nước ngầm.
Vấn đề sạt lở đất 2 bên bờ sông (và thậm chí bị sạt lở kéo vào đất phía trong sâu dài) vì thiếu phù sa củng cố bồi đắp, có thể dùng biện pháp trồng lớp rừng phòng hộ/kè sinh thái 2 bên bờ sông (và các nơi có nguy cơ sạt lở cao khác như các mũi đất, cửa sông cửa biển, vùng ven biển...), trồng cho vùng đã sạt để giữ đất ko sạt sâu vào thêm nữa và cả vùng chưa sạt lở để phòng hộ trước, nhất là loại cây chịu mặn được (vd như cây tràm, đước, bần, phi lao...) và cùng với một số loại cỏ rễ sâu giúp giữ đất tốt và cải thiện độ ô nhiễm nguồn nước thải (vd cỏ hương lau).
Xoay trục kinh tế?
Tính khả thi và hiệu quả của việc xoay trục từ lúa (nước ngọt) là chính sang nuôi trồng thuỷ sản (lợ/ngọt) thành chính, nó thật sự cần phải được xem xét lại kỹ hơn, nếu ko sẽ rơi vào tình trạng tưởng tránh được hố lửa này nhưng thực tế lại rơi vào hố lửa khác dữ dội hơn. Nói ví dụ, tăng toàn diện lượng thủy sản nuôi trồng sẽ gây cung thuỷ sản vượt quá cầu rất lớn, hậu quả là sẽ làm giá rớt mạnh xuống đáy, thuỷ sản bán ko được mà còn gây thua lỗ nặng mà chính người nông dân phải gánh chịu một cách bị động và cùng quẫn. Một ví dụ khác, khi xâm nhập mặn/độ mặn quá cao lúc nước ngọt trong sông cạn trơ đáy, thì nước lợ sẽ ko còn là nước lợ nữa (độ mặn cao hơn nước lợ thông thường rất nhiều), thì thủy sản nước lợ/ngọt cũng sẽ ko thể tồn tại nổi trong điều kiện độ mặn cao như vậy.
Nói thêm về vấn đề sụt lún. Thực tế là ko ít diện tích rừng phòng hộ hiện đang bị thu hẹp rất nhiều (và cả chất lượng rừng) bởi việc phá rừng để nuôi thuỷ sản. Thế nên lớp chắn sóng trở nên yếu ớt đi rất nhiều, hậu quả nhãn tiền là ko ngăn được sạt lở như nó vốn có thể. Đây là một vòng tuần hoàn chết, sạt lở cũng sẽ càng thêm kịch liệt nếu mở rộng diện tích nuôi thuỷ sản khắp nơi thay vì phục hồi/tăng mạnh diện tích rừng phòng hộ (và bảo vệ chúng triệt để) hay tạo kè sinh thái (chi phí vừa thấp vừa hiệu quả bền vững hơn dùng kè bê tông), và dùng đến các biện pháp hợp lý hơn trong câu chuyện tài nguyên nước.
Khi những vấn nạn ko được tháo gỡ từ gốc thì nó sẽ còn trở lại với một tầm ảnh hưởng kinh khủng hơn.
Nói thêm về tạo mưa giải hạn. Hiện nay rất nhiều nước trên thế giới thường xuyên áp dụng công nghệ gây mưa nhân tạo (vd dùng máy bay tác động vào mây, vd phun các hóa chất hỗ trợ tích tụ gây mưa như muối bạc iot, tinh thể cacbon dioxide...) để giải quyết nạn hạn hán [và giảm cả nguy cơ rừng tự cháy trên diện tích lớn do thời tiết quá nóng]. Trong đó có cả một điều đáng kinh ngạc là xây dựng núi nhân tạo - núi giúp đẩy không khí lên cao, tạo ra những đám mây sinh mưa; chính độ cao của những ngọn núi cũng tạo lực đẩy dòng nước từ trên cao xuống và đi xa tới hạ nguồn.
Về mặt cây trồng (lúa, rau màu, cây ăn trái), có lẽ nên ưu tiên chọn giống cây chịu hạn hơn là nhân rộng giống cây chịu mặn. Bởi vì khi tưới nước mặn cho cây, nguy cơ về lâu dài là sự mặn sẽ thấm dần vào nguồn nước ngầm, nó sẽ là một hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Khi đất chua đất phèn có thể cải tạo bằng vôi, thì đất nhiễm mặn lại trở thành đất nhiễm độc mặn rất khó cải tạo, nhất là trong tình hình toàn thế giới đang thiếu nước ngọt, ko đủ cho tưới tối thiểu huống chi là tẩy mặn trong đất.
Nông nghiệp VN thuộc dạng manh mún nhỏ lẻ và thiếu quy hoạch sản xuất (thường trồng và chặt theo phong trào), ko sử dụng công nghệ tiên tiến theo quy trình (do quy mô nhỏ nên ko chú trọng đầu tư, cũng có thể do vốn hoặc đầu ra ko ổn định). Vì thế nếu muốn áp dụng giải pháp tiên tiến hữu hiệu cho các vấn nạn thì cần phải tổ chức quy hoạch lại cho mạnh và liên kết nhỏ lẻ lại thành nhóm lớn. Vd như vấn đề được mùa mất giá phải giải quyết, vấn đề tự ý trồng/chặt cây hùa theo đám đông mà ko chủ động tìm kiếm chuỗi trồng trọt loại cây/giống tiên tiến năng suất cao theo quy trình chỉ định và ký kết thu mua đầu ra.
Các mô hình như tưới nhỏ giọt, mô hình giảm bốc hơi nước bằng cách che chắn lưới thưa và che gốc cây và mặt đất (vd bằng rơm rạ, lá, bằng trồng cỏ che phủ...), bổ sung cho nước ngầm (vd nhà máy lọc nước biển thành nước ngọt, rồi đưa đường ống lớn đẩy nước vào các mạch ngầm khép kín cho dân như giếng, ao hồ sâu ở từng khu vực - và cả thu gom nước mưa khi có mưa vào hồ khép kín, kín để nước ko chảy hoà vào sông ra thẳng biển vô ích).
Hiện nay, có một mô hình trồng trọt thích hợp có thể suy xét áp dụng để tăng năng lực chịu hạn cho cây là mô hình trồng theo 'hố zai' (zai planting pits). Đây là mô hình từ những người nông dân tại sa mạc Sahara của châu Phi, biến đất khô cằn của vùng sa mạc thành đất xanh cây. Họ đào những cái hố to theo hàng thẳng lối, cho phân chuồng đã hoai mục vào và các lớp rơm/lá/tro của trấu/vỏ xơ dừa tơi/đất vào rồi mới gieo hạt trồng cây. Những cái hố được lấp lõm xuống một chút để giữ được nước tốt hơn. Phân chuồng hoai, nguồn phân hữu cơ này tạo độ tơi xốp cho đất, giúp cải tạo đất khô cằn, cũng phát triển nhiều vi sinh vật hữu ích cho đất. Đồng thời, rơm/tro của vỏ trấu/vỏ dừa xé tơi sẽ giúp bổ sung silic giúp cây cứng cáp hơn, giảm bốc hơi nước, chịu hạn và sâu tốt hơn. Đất bổ sung dinh dưỡng bằng phân chuồng hữu cơ sẽ hấp thu chất và giữ nước tốt hơn đất khô cằn chai sạn (khô chai do hạn, nhưng phân hoá học vô cơ cũng làm đất chai cứng bạc màu dần), đủ dinh dưỡng cho mùa khô hạn và cần ít nước hơn, vì thế đây là một khâu rất quan trọng để cải tạo đất.
Vấn đề sạt lở do khai thác cát cạn kiệt trong sông trong khi phù sa ko về đủ để bù đắp (ngoài nguyên nhân sạt lở do nước ngầm cạn kiệt làm thay đổi và đứt gãy các lớp kết cấu đất). Để ngăn chặn từ gốc, phải có quy chế/pháp lý mở rộng phổ biến việc sử dụng vật liệu thay thế cát tự nhiên trong xây dựng (ví dụ như cát nhân tạo làm từ đá cát kết nghiền, hoặc từ sỉ thải của khai thác than/luyện gang...). Mặt khác, cần có quy chế về kiến trúc nhằm giảm diện tích sử dụng kính trong xây dựng (ví dụ thay vì sử dụng kính 100% các mặt ngoài của cao ốc thì giảm xuống 50% chẳng hạn, nếu không thì dự án phải đóng phí bảo vệ môi trường rất cao để bù đắp cho việc xây dựng kiến trúc ko thân thiện môi trường), phát triển các kiến trúc giảm kính thân thiện môi trường với quy hoạch về cây xanh và ao hồ cần thiết xung quanh nhằm giảm áp lực ngập lụt khi mưa cũng như có hệ thống thu gom nước mưa; giảm thiểu việc sản xuất và sử dụng chai thủy tinh (ví dụ chai bia, chai nước mắm...), song song đó là nghiên cứu và mở rộng việc sử dụng các vật liệu có thể tái chế hoặc tự phân hủy tốt hơn, thân thiện hơn với môi trường hơn (kính và thủy tinh đều làm từ cát, tuy nhiên hiện nay rất ít rác thủy tinh được tái chế mà loại rác đặc biệt này thường chỉ được chôn xuống, trong khi đó chúng cũng rất nguy hiểm khi mất hàng ngàn đến cả triệu năm để phân hủy).