Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Lịch Sử - Xuất Bản] Dàn Nhạc Đỏ | Leopold Trepper (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
41#
 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 19:19:46 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16
Sáu thất bại của Karl Giering

Giering bị sáu thất bại liên tiếp khiến cho Leopold càng kiên trì đấu tranh. Giering yêu cầu Leopold làm thế nào để không cho Cục trưởng biết anh đã bị bắt. Ngay lúc đó, Leopold đề xuất điện thoại cho ông chủ quán cà phê ở quảng trường Madeleine, rồi để ở đó một lá thư gửi “Andre” (Hillel Katz) nội dung: “Mọi việc rất tốt, tôi sẽ trở về trong vài ngày”. Đối với Giering, thư đó là lôgich. Hắn không biết trong DNĐ chỉ dùng điện thoại trong hoàn cảnh đặc biệt và dùng lời văn ngược lại: “Mọi việc đều tốt” có nghĩa là “Mọi việc đều xấu”. Katz sẽ hiểu rằng “tình hình rất xấu, tôi sẽ không trở về”, vậy Katz sẽ nhận được lời khẳng định nữa về việc Leopold bị bắt.

Thất bại thứ nhì: Vẫn qua điện đài của Kent, Đội Đặc nhiệm gửi một bức điện cho Cục trưởng đề nghị song song với quan hệ qua Leopold, Cục cho phép quan hệ thẳng với Đảng cộng sản Pháp. Giering giải thích thêm rằng lí do là “Leopold không chắc chắn” cho nên cần lập thêm một mối quan hệ nữa. Cục trưởng trả lời dứt khoát không cho phép. Cục trưởng nhấn mạnh rằng nếu các toán không an toàn thì không có lí do gì làm cho đảng bạn bị nguy hiểm.

Thất bại thứ ba: vẫn qua điện đài của Kent, Đội Đặc nhiệm lấy danh nghĩa của Leopold xin Cục trưởng báo trước cho lãnh đạo Đảng cộng sản Pháp cho biết nơi, ngày và giờ gặp Michel, là đại diện lãnh đạo đảng. Cục trưởng trả lời đồng ý và cho những ý kiến và tọa độ rõ ràng của cuộc hẹn.

Đội Đặc nhiệm vô cùng khoái trí. Chúng họp ngay hội đồng chiến tranh, ra quyết định chưa nên bắt ngay Michel; ngược lại người liên hệ với Michel sẽ đề nghị Michel báo cho Cục trưởng rằng mặc dù Gestapo bắt bớ, nhưng Simex, Otto và DNĐ tại Paris vẫn bình yên.

Bọn đặc nhiệm lạc quan quá sớm. Michel không đến nơi hẹn. Vì Giering và bè lũ không nắm được thủ thuật do Leopold quy ước với Michel trước khi bị bắt: hai người không đến điểm hẹn theo chỉ dẫn của Trung tâm, mà chỉ gặp theo hẹn ước của chính hai người vào hai ngày và hai giờ trước giờ hẹn.

Vì thế Giering đâm ra hoang mang, y hỏi Leopold tại sao Trung tâm chỉ thị điểm hẹn mà Michel không đến? Leopold giải thích rằng vì Michel là người sống tại chỗ, nắm được tình hình chắc hơn trung tâm cách xa hàng ba nghìn kimôlet, cho nên ông ta cảm thấy có chuyện gì xảy ra với Leopold.

Thất bại thứ tư: Giering gửi tiếp một bức điện qua đài của Kent, nội dung nói rằng Leopold gặp khó khăn khi dùng điện đài Marseilles, rằng đài của Đảng cộng sản Pháp không hoạt động nữa mà không có lí do. Hắn đề nghị bố trí cho gặp Pauriol (Duval) là người phụ trách đường liên lạc này. Cũng như với Michel, đề nghị Trung tâm ấn định địa điểm, ngày giờ gặp. Đội Đặc nhiệm lại một lần nữa hi vọng đạt mục đích, nhưng lại một lần nữa vỡ mộng vì Leopold cũng giao ước với Pauriol cách liên lạc như cách với Michel. Ngoài ra chỉ có Grossvogel được liên hệ với Pauriol. Đồng chí này có đến nơi hẹn như quy ước, nhưng không thấy ai, Grossvogel đã bị bắt trước đó rồi. Việc đó khiến cho Pauriol xác định những nghi vấn của đồng chí về việc Trung tâm bị đầu độc.

Giering ngày càng lúng túng: y đã đánh lừa được Trung tâm, nhưng chẳng có tác dụng gì bởi tại chỗ cấp dưới không chịu thi hành lệnh của Cục trưởng!

Thất bại thú năm của Giering... Từ năm 1941, hiệu kẹo Jacquin ở phố Pernelle, gần quảng trường Chatelet là hộp thư của DNĐ nhờ Đảng cộng sản Pháp chuyển giao, ở đây có một bà già rất đáng tôn trọng tên là Juliette Moussier; lãnh đạo cũng như nhân viên đều rất quý trọng bà. Bà tham gia Đảng cộng sản từ lâu. Noi đây khách khứa ra vào nhiều, nên Pauriol và Leopold dùng làm nơi trao đổi tài liệu trong khi mua vài thứ hàng hóa. Hộp thư này được dùng để truyền những báo cáo quan trọng nhất và trong một năm sáu tháng vẫn chạy đều. Ngoài Hillel Katz là bạn của bà Juliette, chỉ hai ba đồng chí trong đó có Raichmann (sau khi tổ Atrebates bị vỡ) làm liên lạc với bà.

Bị bắt, bị tra tấn dã man, Raichmann đã khai cho Đội Đặc nhiệm về bà Juliette. Giering quyết định sử dụng hộp thư này... Một hôm Raichmann đến hiệu kẹo nhờ bà Juliette chuyển một bức thư cho “ông già” tức Leopold. Bà Juliette lạnh lùng từ chối vì đây là một sự hiểu lầm: bà không biết Raichmann cũng như “ông già”.

Giering lại bế tắc: tại sao bà Juliette từ chối “công nhận” một người mà trước đây bà đã từng quan hệ? Vì Giering không biết rằng sau khi Efremov bị bắt, Leopold đã nghi Raichmann cho nên đã chỉ thị DNĐ cắt mọi quan hệ với y; chỉ có ai đưa ra ám hiệu một chiếc khuy đỏ thì mới bắt liên lạc (trừ Katz và Leopold). Raichmann không biết được biện pháp an ninh mới này.

Giering lúc này cũng lúng túng về đối sách với bà Juliette: có nên bắt không? Giải pháp này chưa hay, vì bắt bà ta tức là hoàn toàn cắt mất đường liên lạc với Đảng cộng sản Pháp. Ngoài ra còn có nghĩa là thừa nhận “ông già” đã bị bắt và Raichmann làm việc cho phát xít Đức. Vậy là hắn lại “bế tắc”.

Thất bại thứ sáu thật là đau đớn cho Giering: giáo sư Wenzel vượt tù được...

Bọn Đức đã thu được sáu điện đài nhưng chưa biết tầm quan trọng của từng đài. Cái đài bị bắt vào mùa thu 1942 tại nhà các điệp viên từ Moscow phái tới bằng cách nhảy dù và làm việc tại nhóm Berlin là phương tiện đầu tiên của dàn nhạc dỏm. Đài của Efremov sau khi bị bắt vào tháng bảy bị khống chế và phát huy tác dụng nhất. Ngoài ra còn điện đài của Sesee và ở Hà Lan là đài của Winterink. Tại Pháp có đài Eiffel của Kent, và đài thứ hai mang tên là Eiffel 2 mà bọn Đức dùng theo tên chung là Marte Eiffel. Nhưng trong dàn nhạc dởm này, thiếu đài phát của Wenzel.

Ngay sau khi bị bắt, Wenzel bị tống giam vào Pháo đài Breendonk và bị tra tấn ở đây. Đến tháng 11, Đội Đặc nhiệm thấy sự cần thiết phải có Wenzel, thiếu mất cây đàn này không lừa được Moscow. Mà không thể thay Wenzel bằng người của Đội Đặc nhiệm, bởi vì “ông giáo sư” này là một đại kì tài, có “lối viết” rất riêng, lại chỉ Trung tâm quen “lối viết” đó mà thôi. Bọn Đức rất hài lòng khi thấy Wenzel nhận hợp tác với chúng.

Mặc dù bị giám sát rất chặt, nhưng Wenzel ngay từ buổi phát sóng đầu tiên đã phát được tín hiệu báo động như quy ước. Trung tâm thế là được biết nội dung các điện gửi tới đều là do kẻ thù viết ra.

Wenzel tham gia “hợp tác” với Đức thảo và điện đi hai bức điện mang tên “Germans” (bí danh của Wenzel) mà Leopold được biết nội dung qua nguồn của Liên Xô:

“Kính gửi Cục trưởng. Khẩn. Đường liên lạc quen thuộc với Sếp Lớn bị giám sát. Cho chỉ thị về việc hẹn gặp mới với Sếp Lớn. Tôi thấy gặp Sếp Lớn rất quan trọng. Germans”.

Và đây là bức điện thứ nhì:

“Kính gửi Cục trưởng. Thượng khẩn. Theo chúng tôi biết qua nguồn tin của Đức, quyển sách mật mã đã bị khám phá. Tôi chưa được báo trước việc gặp Sếp Lớn. Quan hệ của tôi với Cục trưởng vẫn thông suốt. Không có dấu hiệu bị giám sát. Tổ chức lien lạc với Trung tâm như thế nào? Xin Cục trưởng trả lời gấp. Germans”.

Hai bức điện này báo động cho Trung tâm, vì DNĐ chưa hề dùng khái niệm Sếp Lớn. Dần dần Wenzel lấy được lòng tin của Đội Đặc nhiệm (viết tắt là ĐĐN) nên anh được chúng cho trú ngụ trong một phòng tại phố Bình Minh (Aurore) ở Brussels cùng với điện đài. Đầu tháng giêng năm 1943, vị “giáo sư” đã đập chết tên lính gác khi nó lúi húi chất củi vào lò sưởi, lưng quay ra. Wenzel tống xác chết trong buồng rồi chuồn mất.

Đó là một tai họa đối với Giering. Wenzel có thể báo động cho Moscow mọi diễn biến của DNĐ ở Bỉ từ tháng bảy 1942. Sự thực anh trốn sang Hà Lan rồi dùng một điện đài chưa bị bắt để báo cáo với Trung tâm các sự kiện.

Tuy vậy, ĐĐN đã đạt được những kết quả rất quan trọng từ vụ phá vỡ tổ ở phố Atrebates: chúng đã phá được nửa tá điện đài đặt ỏ năm nước truyền hàng trăm bức điện về Trung tâm. Xét đoán qua trả lời của Trung tâm, Cục trưởng không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng Giering cũng bị sáu đòn thất bại đau đớn, liên tiếp trong chỉ vài tuần: những chỉ thị của Trung tâm không được thực hiện, vậy là bộ máy bị trục trặc ở đâu đó. Lâu đài bằng cát y đắp nên có nguy cơ sụp đổ lúc nào không biết.

Vậy trong tay đội trưởng ĐĐN chỉ còn mỗi con chủ hài: làm sao giành được Sếp Lớn hợp tác để làm Trung tâm yên lòng bằng cách sử dụng đường liên lạc của Đảng cộng sản Pháp. Mạo hiểm là lớn đối với Giering, nhưng y không còn cách nào khác.

Đến cuối tháng 12, những cuộc trao đổi giữa hắn, cùng tên phụ tá của hắn là Willy Berg với Leopold thay đổi giọng điệu. Không khí cũng thay đổi. Leopold đã chờ thời vận: nó đã đến...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

42#
 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 20:02:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 17
Chuỗi tin đau lòng

Tuy “chơi” đấu trí căng thẳng với Giering, nhưng Leopold vẫn lo cho những đồng chí chưa bị bắt. Anh lo nhất là Grossvogel và Katz. Anh vững tin vào hai người đồng chí vì như Katz, anh đã bố trí cho về Antony là nơi trú ẩn rất chắc chắn, lại dự kiến sau đó chạy về Marseilles là vùng chưa bị Đức chiếm đóng.

Chính tên phó của Giering là Berg thông báo cho Leopold tin dữ:

- Ông có biết Katz của ông đã bị chúng tôi bắt rồi không?

- Bị bắt từ lúc nào?

- Khoảng ba tuần...

Thế là đến lượt Katz bị sa vào tay giặc. Chỉ mãi sau này Leopold mới được giải đáp vì sao bạn anh là người được bố trí bao nhiêu biện pháp an toàn mà vẫn bị nạn.

Bối rối sau khi Leopold bị bắt, Katz mất vài ngày chuẩn bị ra đi. Ngày 19-12, Cecile, vợ anh sinh con, anh không dám ra đi khi chưa bố trí cho vợ con được an toàn. Con trai cả của anh là Jean Claude đã về ở với em gái Maximovich ở lâu đài Billeron.

Năm 1943, Cecile Katz cho Leopold biết về chồng chị: ngày 28-11-1942 Katz cùng Grossvogel đến nhà hộ sinh thăm chị. Cả hai đều biết tin Leopold bị bắt và rất lo lắng. Ngày 1-12, Katz quay lại nhà hộ sinh để hôm sau đón vộ con về. Nhưng cái ngày mai đó không có nữa. Hôm đó anh ở Paris quá muộn, không trở về Antony lúc đã giới nghiêm, nên anh đến nhà cô bạn quen là Modeste Ehrlich, vộ một giáo viên Do Thái, cựu thành viên Lữ đoàn quốc tế.

Từ khi chiến tranh bùng nổ, nhà của Ehrlich trở thành hộp thư và nơi gặp gỡ. Chính nơi đây Raichmann đã gặp Katz đầu 1942. Sau khi Raichmann bị bắt và khai báo, ngôi nhà Ehrlich bị Gestapo giám sát chặt chẽ. Katz đã không tôn trọng chỉ thị của Leopold (không được dùng nhà này nữa) vì nghĩ rằng có thể trú ở đây vài giờ để sáng mai đi sớm. Bọn nhân viên Gestapo canh ngôi nhà này đã báo cho Reiser là trưởng ĐĐN Paris và bắt luôn Katz và Ehrlich. Leopold thuyết phục được Giering rằng Modeste không tham gia DNĐ vì DNĐ chỉ dùng nhà của bà đó nhưng không cho bà biết tính chất hoạt động của Đảng cộng sản; song bà vẫn bị đưa vào trại tập trung và chết tại đó.

Grossvogel cũng bị bắt vì DĐN đã dùng thủ đoạn khống chế thô bỉ. Cũng là sự trùng hợp đặc biệt, Jeanne Pesant, vợ Grossvogel, cũng ở cữ. Leopold vẫn đinh ninh rằng Grossvogel đã sang Thụy Sỹ là rất an toàn rồi, nhưng không ngờ Jeanne Pesant không chịu tránh ở một nơi thật an toàn, chị thuê một ngôi nhà ở ngoại ô Brussels, nên ngày 26-11 ĐĐN phát hiện được và bắt chị. Chúng đe nếu bà không viết thư hẹn Grossvogel cho gặp thì sẽ giết chết đứa con ngay trước mặt chị. Grossvogel cảm thấy có thể bị lừa, nhưng vì anh quá muốn gặp vợ con trước khi đi vào hoàn toàn bí mật, nên anh đã đến nơi hẹn là Uccle, phố Brunard và bị bắt tại đó ngày 16-12.

Bốn ngày trước, Berg đã ung dung báo cho Leopold:

- Hôm nay chúng tôi sẽ bắt Robinson...

Khá ba hoa như thường lệ, Berg khoe kế hoạch của ĐĐN. Sau này Leopold lợi dụng được kiểu nửa tình cảm này để ứng phó.

- Chúng tôi đã phát hiện được nó từ mấy tháng nay - Berg nói - Nhưng chúng tôi quyết định tóm cổ nó khi nó hẹn hò với một đối tượng mà chúng tôi đã biết. Reiser liền tổ chức bao vây quy mô lớn. Hàng chục mật vụ rải quanh điểm hẹn, ảnh đối tượng trong tay để nhận diện cho đúng. Tôi xin báo để ông biết rằng Reiser sẽ đề nghị ông đi theo chỉ nhằm thử phản ứng của ông. Bởi vì Reiser không có phép đưa ông ra đó; nếu không thì Trò Cao thủ sẽ hoàn toàn bị nguy hại, Nếu ông từ chối, ông ta sẽ kết luận và nói cho mọi người biết rằng ông từ chối hợp tác...

- Này ông Berg ơi, nếu tôi hiểu đúng thì Reiser đồng thời còn thăm dò và giương bẫy tôi nữa đấy...

- Ông suy luận ý đồ của ông ta thế nào tùy ông...

Được, tôi được báo trước. Leopold tự nghĩ như thế.

Đến trưa, họ dẫn Leopold đến gặp Reiser. Tay này cũng nhai lại điệp khúc như Berg:

- Này, Otto, hôm nay chúng tôi sẽ bắt Robinson!

Để bóp nhỏ vai trò của đồng chí, theo chiến thuật cổ điển, Leopold nói:

- Ông Reiser ơi, ông nhầm rồi, đó chỉ là một kẻ quấy rầy thôi. Hắn chẳng biết gì đâu!

- Cũng có thể - Reiser trả lời - Nhưng ông hãy để cho chúng tôi nhận định về giá trị của hắn ta. Dù thế nào ông cũng đi theo chúng tôi.

- Tùy các ông.

Reiser ngồi cứng trên ghế vì ngạc nhiên khi thấy thái độ của Leopold lại vui vẻ hồn nhiên và hòa nhã đến như thế.

Dù sao thì Berg cũng không nói dối.

Trên xe đi đến điểm hẹn, Leopold suy nghĩ cách biểu lộ thái độ và kết luận cách giúp Robinson là Leopold phải làm ầm ĩ sự có mặt của anh: Vả lại nếu bọn ĐĐN đã quyết định trưng bày Leopold tay bị còng nghĩa là chúng đã kết thúc Trò Cao Thủ bởi vì những bảo vệ viên của Robinson ắt trông thấy Leopold bị bắt. Nhưng xe đậu cách điểm hẹn 200m, Leopold bất lực dự vào cảnh tượng Robinson bị bắt.

Từ khi Franz Schneider bị bắt tại Bỉ vào tháng tám, Gestapo đã phát hiện dấu vết của Robinson. Người vợ cũ của anh thuộc toán Berlin và đứa con trai anh đang ở trong quân đội Đức đều bị bắt. Tại sao Gestapo không bắt anh ngay? Bởi vì bọn mật thám cho rằng anh này chỉ huy một toán cán bộ quan trọng cũ của Đảng cộng sản Pháp như Jules Humbert-Droz, cựu thư ký Đảng cộng sản Pháp, và Willy Munzenberg, cựu lãnh tụ Đảng cộng sản Đức.

Đó là do Gestapo hoang tưởng chứ làm gì có đơn vị mạnh đó. Humbert-Droz khi đó đã bị khai trừ khỏi Đảng cộng sản. Munzenberg cũng đã bị xóa tên trong Đảng cộng sản và trong Quốc tế Cộng sản từ năm 1937, năm 1940 anh này đã bị chính phủ Daladier tống giam trong trại người ngoại quốc. Tại nhà tù, hai nhân viên của Beria cùng bị giam với anh đã phụ trách việc thủ tiêu anh. Hai nhân viên này đã rủ anh cùng họ vượt ngục. Quá tin, anh đồng ý: người ta tìm thấy anh bị treo cổ ở cách trại giam hai trăm mét. Bọn Đức định tổ chức một phiên tòa ầm ĩ mà diễn viên chính sẽ là Robinson nhằm bôi xấu chủ nghĩa Bolshevik quốc tế trước con mắt của “châu Âu mới”.

Đến tháng 12, khi biết Robinson chỉ có một mình, nên ĐĐN quyết định bắt anh. Leopold gặp Robinson hai ngày trước khi các đồng chí Simex bị bắt. Leopold đã phân tích tình hình của DNĐ và hai đồng chí quyết định ngừng quan hệ. Trong cuộc gặp này Robinson cũng đã biết Schneider đã bị bắt. Anh không biết ngôi nhà ở Passy của anh đã bị giám sát.

Còn Maximovich cũng bị theo dõi từ lâu. Trong lễ “đính hôn” của anh với cô Hoffman-Scholz, nữ thư ký của Otto, Gestapo đã nghiên cứu hồ sơ ngoại kiều trong tàng thư cảnh sát Pháp. DNĐ biết tin này nhưng quá muộn, không còn thời gian để giấu hồ sơ của Maximovich đi. Gestapo nắm được rằng Maximovich có cảm tình với chủ nghĩa cộng sản. Anh bị tước giấy thông hành ra vào khách sạn Majestic. Nguy hơn nữa là qua phát hiện các điện mật của DNĐ, hành động của Maximovich bị lộ hết. Như qua báo cáo về các thành phố Đức bị tàn phá, tin do “người yêu” của Maximovich là cô Hoffman-Scholz cung cấp sau chuyến về Đức thăm gia đình của cô, Gestapo tìm ra được nguồn cung cấp tin chính là Hoffman.

Maximovich bị theo dõi từ tháng 10. ĐĐN đã đến lâu dài Billeron tuyên bố cho cô Anna rằng chúng đã phát hiện anh em cô tham gia một lưới gián điệp chống lại Đế chế Đức... Chúng nói với Anna:
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

43#
 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 20:03:55 | Chỉ xem của tác giả
- Cô có thể giúp chúng tôi bằng cách tạo thuận lợi cho thủ trưởng của cô gặp một nhân vật Đức, có thể tại vùng tự do, cô đừng sợ, vì đây là một vụ có tầm quan trọng về chính trị...

Anna báo cáo ngay với Leopold về đề nghị của Giering. Lúc đó Leopold chỉ có thể diễn dịch yêu cầu hẹn hò của Giering là một thủ đoạn thô thiển nhằm bắt cóc Leopold. Có lẽ hắn định xây dựng cơ sở... cho sự hợp tác trong tương lai của DNĐ.

Tất cả những dấu hiệu đó cho thấy Maximovich bị đe dọa nghiêm trọng. Leopold đề xuất giúp anh trốn...

- Tôi không thể trốn - Anh trả lời - Vì tôi còn mẹ già và cô em gái nữa... Anh nghĩ xem, không có tôi thì họ sẽ sống nổi không? Nếu tôi bị bắt, tôi sẽ tự tử!

- Không, phải diệt hết bọn chó đó đi!

Anh giữ nguyên các thói quen, tiếp tục công việc như trước... Ngày 12 anh bị bắt trong phòng giấy của “người yêu”.

Springer hy sinh oanh liệt.

Anh rút về Lyon từ tháng 12-1941 và tiếp tục hăng hái hoạt động. Anh quan hệ với Balthazar, cựu bộ trưởng Bỉ, và viên lãnh sự Hoa Kì, và phát hiện nhiều nguồn tin tình báo mới. Đó là một chiến sĩ không biết mệt mỏi, hy sinh anh dũng sau khi dùng vũ khí chống lại bọn Gestapo.

Leopold đã gặp Springer vào tháng tư và khuyên anh nên thận trọng. Anh không muốn nghe và yêu cầu Leopold cho mật mã và Leopold đã cho. Khi Leopold hỏi anh có cần điện đài không, thì anh trả lời đã xin được Hoa Kì một điện đài nhỏ rất tốt.

Đến tháng 10, Leopold quay lại Lyon và lại khuyên Springer thận trọng, anh nổi nóng:

- Tôi biết rằng tôi và Flore, vợ tôi, có thể đi Hoa Kì, nhưng tôi không đi và bà ta cũng muốn ở lại với tôi. Thế binh sĩ trước nguy hiểm cũng lùi bước hay sao? Không, chúng tôi cũng phải chiến đấu như họ!.. Tôi là chiến sĩ trên tuyến đầu, tôi sẽ công tác đến ngày cuối cùng và, nếu chúng đến, tôi sẽ có cách tiếp chúng!

Springer đặt điện đài ỏ một làng cách Lyon 17km, anh nối đài đó với dây cáp cao tần ở gần đó...

- Nếu chúng đến - Anh nói - Tôi sẽ cho nổ tung hết!

Nhưng anh không kịp cho nổ. Một đêm, Springer trở về phòng vợ chồng anh thuê ở Lyon... Hai người quy ước với nhau mật hiệu để báo động khi nguy hiểm, nhưng đêm đó tối mò, anh không nhìn thấy ám hiệu, khi bước vào cổng tay lăm lăm súng lục: liệu Gestapo có chờ mình ở trên gác không? Chẳng cần, anh bất chấp nguy hiểm... Khi mở cửa: Chúng đã có mặt ỏ đây, tên đứng, đứa ngồi, bâu lại như đàn nhặng. Anh bắn vào chúng làm hai tên bị thương, rồi anh định uống thuốc độc mà anh lúc nào cũng mang sẵn trong người...

Bị giam tại Lyon, Springer lại bị chuyển vào nhà tù Fresnes hôm sau. Trong bốn ngày anh bị tra tấn liên tiếp. Để tránh khai báo anh vượt qua lan can nhà cầu trên tầng bốn lao vào không trung. Hôm đó là ngày lễ Noel...

Em trai và Yvonne, em gái họ của Springer, sau chiến tranh mới biết rõ về hoàn cảnh người anh của họ hy sinh thế nào khi họ xem tác phẩm của đại tá Remy nhan đề “Cuốn sách của lòng dũng cảm và của nỗi lo sợ” (Livre du courage et de peur). Ở trang 27 tập 2 có ghi như thế này: “Ngày lễ giáng sinh bắt đầu bằng một vụ tự sát. Một người chán đời đã lao qua ban công nhà cầu của một tầng nhà cao. Nhiều tù nhân nghe thấy một tiếng đục của thân người đó rơi xuống đất...” Tả như thế đúng cả, chỉ trừ động cơ tự sát của Springer không phải vì chán đời, mà chỉ vì anh không muốn phải khai báo dưới đòn tra tấn. Leopold hiểu rất rõ con người này nên có thể khẳng định Springer đủ can đảm để quyết định như vậy. Anh đã đón bọn Gestapo bằng tràng súng lục, anh đã định uống nhân ngôn: hành vi cuối cùng của anh tại nhà tù Fresnes hoàn toàn thuộc về phong thái của những người chiến sĩ gương mẫu hy sinh trong khi chiến đấu với quân thù. Sau này gia đình đã cải táng cho anh và đưa di cốt của anh về nghĩa trang quê hương. Chính phủ Bỉ đã truy tặng huân chương cho Springer.

Kaethe Voelkner biết mình cũng bị lộ vì địch đã dịch được mật điện của DNĐ. Tháng 12 cô về Đức thăm gia đình. Ba mươi năm sau, người chú của cô kể lại việc cô bị bắt cùng đồng đội là anh Podsialdo khi cô trở về nhà vào đầu tháng giêng.

Bọn Gestapo ở Lyon do tên Barbie nổi tiếng cầm đầu đã bát Joseph Katz và Schreiber, họ không phải là thành viên của Dàn Nhạc Đỏ. Joseph là em của Katz, có lần đã xin gia nhập DNĐ nhưng Leopold không chấp nhận vì không muốn một gia đình mà có hai người cùng làm công tác tình báo, một nghề thật là nguy hiểm. Còn Schreiber quen Leopold ở Palestine, vốn là đảng viên Cộng sản tích cực nhưng không giáo điều, thường hay phê bình khiến cho nhũng người lý luận cố chấp không ưa. Anh tình nguyện xin sang Tây Ban Nha chiến đấu thì bị từ chối bởi họ coi anh là người đi trệch đường lối. Mùa hè 1940, khi Leopold đến Paris, anh cố đi tìm Schreiber. Theo bà vộ Schreiber thì năm 1939 chồng bà đã lập một doanh nghiệp chuyên mua lại xe ôtô cũ. Cục Tình báo Hồng quân chú ý đến doanh nghiệp này nên cử một sĩ quan bí danh là Fritz đóng vai giám đốc kinh doanh cho doanh nghiệp này. Trong một ngày mùa thu năm đó, cảnh sát đến garage này kiểm tra theo lệ thì Fritz sợ quá liền nhảy qua cửa sổ rồi trốn vào sứ quán Xô viết với lý do bị cảnh sát khủng bố. Một cán bộ sứ quán này dại dột ghi tên và địa chỉ của Schreiber trên lịch bàn. Phản gián Pháp theo dõi sứ quán Xô viết đã lục soát garage của Schreiber và tạm giữ ông chủ. Sau khi hiệp ước Xô - Đức ra đời, chính quyền Pháp lại bắt Schreiber rồi đưa vào trại tập trung. Khi quân Đức tiến vào Pháp, ông chủ garage này vẫn nằm trong trại. Leopold định tổ chức cho Schreiber vượt ngục, nhưng tùy viên quân sự Susloparov của sứ quán Liên xô chủ trương dùng phương thức hợp pháp nên đã cho tên Schreiber vào danh sách công dân Xô viết bị bắt nay phải tha. Schreiber được tha nhưng khi Đức đánh Liên Xô, anh đang sống tại Marseilles trong khi vợ con anh đã chạy sang Moscow rồi. Anh rút vào bí mật, nhưng rồi anh bị bắt và hy sinh.

Joseph Katz cũng mất tích khi bị đi tập trung... Theo Leopold hai chiến sĩ này bị chết do Otto Schumacher tố cáo với Đức. Otto là loại nội gián của mật thám Đức cài vào Dàn Nhạc Đỏ. Chính hắn đi thuê nhà nơi Wenzel bị bắt. Sau khi toán DNĐ Bỉ bị khủng bố, hắn về Paris cư ngụ tại nhà Arlette Humbert-Laroche, liên lạc viên giữa Robinson và Leopold Trepper. Tháng 11-1942, mặc dù Leopold cấm nhưng hắn vẫn xuống Lyon liên hệ với Springer và Germaine Schneider. Tháng 12, hắn quay lại nhà Arlette và nhờ cô này liên lạc với Robinson. Arlette lúc đầu lưỡng lự nhưng sau lại nhận lời. Cả Arlette cũng như Springer và Robinson đều bị bắt và hi sinh...

Arlette Humbert-Laroche là thành viên của Dàn Nhạc Đỏ, say mê tên chỉ điểm của Gestapo mà không biết... Cô là một thanh nữ đáng yêu, tế nhị, đã để lại nhiều bài thơ hay (Năm 1946 nhà xuất bản Sự thật (Editions Realites) cho ra mắt bạn đọc tập thơ này do Charles Vildrac đề tựa với những ý chính như sau: Ngay vào mùa hè 1941 cô đã cho Vildrac đọc thơ của cô để xin ý kiến... Đến cuối 1942 cô để cho người gác nhà của Vildrac mnột phong bì to đựng tất cả những bài thơ của cô để Vildrac giữ hộ, mà không nói rõ lí do, cô cứ để cho Vildrac suy đoán. Anh không được gặp lại cô nữa...”).

Có lẽ Arlette cảm thấy số phận mình như thế nào cho nên mới viết vào mùa xuân năm 1939 những vần thơ như sau:

Moi aussi, je voudrais

Laisser mon parfum

Sur la Terre

Et faire en sorte que les hommes

Mes frères

Se souviennent de moi...


Tạm dịch:

Em cũng muốn để hương lại

Trên thế gian

Để làm sao những con người

Những anh chị em

Mãi mãi nhớ đến em...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

44#
 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 20:05:25 | Chỉ xem của tác giả
Chương 18
Người tù đặc biệt

Ngày 25-11, sau khi hỏi cung Leopold lần đầu, Giering phải lo giam giữ tù nhân ở đâu và như thế nào nhằm đảm bảo yêu cầu kế hoạch của ĐĐN.

Phải giam ở chỗ khá cách biệt không để ai biết người bị bắt, không để nó trốn và thông tin ra ngoài.

Điểm cuối này thật là khó, vì ĐĐN chưa bao giờ bịt hết thông tin, nhất là đối với DNĐ. Trước hết phát xít còn dùng lại một số cai ngục trước chiến tranh. Cho nên số lưu dung này có người thông tin cho kháng ch iến, chuyển hộ thư từ mặc dù họ không tham gia vào một tổ chức. Vì thế mà DNĐ mới nám được tình hình những thành viên bị bắt giam tại nhà tù Saint-Gilles Prison ở Brussels, sau vụ Atrebates.

Ở Pháp, anh em DNĐ bị bắt đều bị tập trung vào một khu đặc biệt của nhà tù Fresnes. Khi phải cho tù nhân di chuyển, chúng bắt tù nhân đội mũ chụp chỉ để hở mắt. Quản trị nhà tù cũng không được biết nhân thân tù nhân. Các cơ quan khác của Đức cũng không được hay biết. Mỗi nhân viên ĐĐN phụ trách một hoặc vài tù nhân và không được thắc mắc về những tù nhân khác. Sau khi bắt được Leopold, các biện pháp phòng ngừa còn được tăng lên nữa.

Từ khi đến đóng tại Paris, đội đặc nhiệm lấy trụ sở của An ninh Pháp ở phố Saussaies làm trụ sở. Ngày 26-10, chúng đưa Leopold xuống tầng trệt là chỗ có những phòng kho bạc của cảnh sát Pháp trước đây. Giering chuyển hai phòng lớn ở đây thành xà lim giam Leopold. Phòng thứ nhất chia làm hai có lưới sắt và một cửa. Một nửa dùng làm nơi canh gác của hai tên SS ngày đêm coi Leopold, nửa kia làm nơi giam tù nhân đặc biệt này, có một giường nhỏ, một bàn và hai ghế. Cửa ra vào bọc thêm một vỏ sắt.

Sau hai ba ngày, Berlin ra lệnh cấm lính gác nói hoặc nghe tù nhân nói.

Sau khi Leopold được đưa xuống tầng trệt, Giering giới thiệu với Leopold: Willy Berg, là người chuyên trách lo toan cho Leopold. Hắn có quyền đến thăm tù nhân bất cứ lúc nào, chuyện trò bất cứ việc gì và ngày ba bữa cơm hắn lấy từ một trại lính gần trụ sở mang vào. Hàng ngày Berg dẫn Leopold đi dạo ở vườn trong.

Willy Berg sẽ giữ một vị trí đặc biệt trong chuyện sau này...

Người nhỏ, lùn, mặt đày và tay chắc đủ để đấm khi cần, trạc năm mươi. Trí thông minh vừa vừa, có trình độ đóng những vai phụ một cách cần mẫn của Giering. Là bạn thân tín của trưởng ĐĐN, hắn là người duy nhất biết những bí mật và tham vọng của Giering, là tên duy nhất nắm được đầy đủ công việc của đội và kế hoạch của Trò Cao thủ. Là cảnh sát nhà nghề, hắn bước vào nghề từ thời Hoàng Đế, tiếp tục làm cảnh sát thời cộng hòa Weimar rồi phục vụ tiếp cho phát xít. Hắn thường được giao những công việc khó khăn và mờ ám: Ví dụ như hắn đã từng đi bảo vệ cho Ribbentrop khi tên ngoại trưởng phát xít này sang Moscow kí hiệp ước Đức - Xô.

Trong một số sách nói về Dàn nhạc đỏ có loan truyền tin Willy Berg là gián điệp đôi đã thông tin cho Leopold mọi chủ trương của ĐĐN Không hề có chuyện như thế.

Điều có thật là ngay từ phút đầu tiên tiếp cận Berg, Leopold đã cảm thấy có thể lợi dụng được tên này vì hắn ta một con người có nhược điểm và rất đau khổ, cá nhân y trải qua những thảm cảnh. Hai đứa con bị chết vì bệnh bạch hầu, đứa thứ ba chết vì bom ném trúng nhà của hắn; vợ hắn đã phát điên đòi tự tử vì những thảm họa gia đình và phải vào nhà thương điên. Vậy về tâm tư hắn rất khổ. Vào cuối 1942 này, cũng như bạn hắn là Giering, hắn cảm thấy Đức khó chiến thắng. Hắn tự xác định trong khuôn khổ ĐĐN đường lối cư xử theo hai phương án: Có thể chiến tranh sẽ kết thúc bằng chiến thắng của Liên Xô và Đồng minh, trong tình thể đó hắn đã đối xử tử tế, đã tạo điều kiện thuận lợi cho Leopold trong Trò Cao thủ: hoặc nếu phát xít chiến thắng, thì hắn cũng sẽ là anh hùng trong cuộc chiến đấu “chống cộng sản lật đổ”. Berg mới vào đảng quốc xã và tuy mồm nói những quan điểm phát xít cực đoan, nhưng bụng rất hoài nghi chính trị. Qua những ý kiến phát biểu của hắn. Leopold có thể tóm gọn quan điểm chính trị của Berg như sau: “Tôi đã từng là cảnh sát thời Hoàng Đế, đã từng là cảnh sát của Cộng hòa Weimar, tôi nay là cớm của Hitler, ngày mai tôi cũng có thể làm đầy tớ cho chế độ của Thaelmann”.

Trong những ngày đầu bị giam, với lí do muốn học tiếng Đức cho tinh thông, Leopold nhờ Berg chuyển nguyện vọng của mình xin cấp trên cho cuốn từ điển, giấy, bút chì, báo chí. Đề nghị trên được chấp nhận. Leopold rất hi vọng - hi vọng hơi hão huyền - sẽ gửi được báo cáo cho Trung tâm. Khi nào và bằng cách nào chuyển háo cáo đó thì chưa biết. Lúc này được những thứ vật liệu như thế đã là một nguồn động viên to lớn đối với một người tù: có giấy bút để viết, biết được tình hình thế giới.

Rõ ràng, anh không thể viết tự do theo ý muốn, vì ngày đêm anh bị giám sát. Lính gác ngày thay nhau hai lần vào lúc 7 giờ và 19 giờ. Thay đổi lính liên tục, không bao giờ có người gác cũ... Chúng theo dõi liên tục hàng mấy tiếng đồng hồ không rời một giây... Muốn đạt được mục đích, Leopold phải tìm cách đòi lính gác chỉ là một số thôi thì mới liên hệ được với chúng.

Anh quyết định nói với Giering...

- Thật ra ông làm trái ý muốn của ông là tuyệt đối giữ bí mật việc bắt giữ tôi. Trong có 15 ngày mà hơn 50 lính gác đã thay nhau canh giữ tôi, chỉ một lính ba hoa rằng trong trụ sở phố Saussaies có một “tù nhân đặc biệt” thì đâu còn là bí mật như ông muốn nữa.

Tên trưởng ĐĐN bị nhận xét của Leopold mở mắt ra cho nên từ đó hắn chỉ bố trí 6 tên thay nhau canh gác Leopold thôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

45#
 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 20:06:47 | Chỉ xem của tác giả
Quan hệ giữa Leopold và Berg dần dần trở nên thân mật hơn. Trong những cuộc dạo chơi ở vườn trong, tí một hắn nhả ra ít tin tức về ĐĐN, nhất là về ý đồ của đơn vị này. Berg thậm chí để lộ ra tình hình của bọn trùm cảnh sát tại thủ đô Berlin nữa.

Có lần Berg khôn khéo nửa nạc nửa mỡ nói đùa:

- Này ông Otto, tôi mong chúng ta sẽ thành công và chiến tranh sớm kết thúc... Nếu chẳng may có toán lính Đức đưa ông ra pháp trường, tôi sẽ đến xiết tay ông để vĩnh biệt ông!

Leopold trả lòi Berg cũng theo lối đó:

- Nếu chẳng may có toán lính Xô viết đưa ông đứng trước cọc hành hình, thì tôi hứa với ông rằng tôi cũng sẽ đến bắt tay để chào vĩnh biệt ông.

Vào nửa cuối tháng 12, nhiêu tù nhân DNĐ định tự sát ở nhà tù Fresnes. Berlin ra lệnh trói giật cánh khuỷu các tù nhân lại. Với Leopold chúng ưu tiên là trói đàng trước. Trong hoàn cảnh như thế không thể viết được... Leopold phàn nàn với Berg. Hắn động lòng nói rằng hắn thông cảm khó ngủ lắm khi tay bị trói, rồi hắn dạy cách lách tay ra khỏi còng. Trong những đêm khuya, lính gác cứ tưởng Leopold không thể hành động gì nên chúng ngủ khì khì, lúc đó Leopold mới viết, viết trên những mẩu giấy để báo cáo.

Leopold xin Berg đổi giường vì hẹp và đệm cứng quá, Berg đồng ý và cho một giường sắt, có đệm tốt. Leopold lợi dụng bốn chân giường sắt rỗng làm nơi giấu giấy tờ.

Sau đó ít lâu, ba sĩ quan quân y SS đến khám nghiệm toàn thân Leopold... Berg giải thích cho Leopold:

- Khám toàn thân ông để nắm chắc tình hình sức khỏe của ông xem ông có thể chịu đựng nổi kiểu hỏi cung “tăng cường” hay không... Bác sĩ đã kết luận sau khi khám toàn thân ông rằng ông không phải là người Do Thái và ông Giering rất vui về chuyện này...

Sau này Leopold mới hiểu vì sao Giering có kết luận như thế: hắn cho rằng kết luận Leopold xuất thân là “một người Aryan quý báu” thì Berlin mới dễ chấp nhận kế hoạch Trò Cao thủ của y. Trong giới lãnh đạo cấp cao làm sao họ có thể duyệt được một kế hoạch có một tên Do Thái hợp tác, làm sao họ tin được lời nói của kẻ thuộc “nòi giống hạ đẳng”.

Giering cần một người Aryan và vì thế những lời giải thích của hắn đượm nhiều hài hước. Có một lần Leopold đã nói với Giering rằng anh sinh trong một gia đình Do Thái, khi mới sinh ra cha mẹ đã cắt bao quy đầu cho anh. Câu trả lời của Giering khiến cho Leopold phải ngạc nhiên:

- Anh làm tôi chết cười... Đó là chứng cứ rằng tình báo Xô viết đã làm thật là giỏi! Anh biết không, khi bắt đầu chiến tranh, cơ quan tình báo quân sự Đức có cử sang Hoa Kì những điệp viên đã hị cắt bao quy đầu để họ công tác thuận lợi. Khi họ bị bắt, thủ đoạn này đã bị phát hiện vì bao quy đầu mới bị cắt!

Giering đã bị ngâm tẩm quá nặng bởi những truyện tình báo đến mức hắn cho rằng Leopold đã được các chuyên gia y tế Nga cắt bao quy đầu.

Sau đó nhiều lần Leopold vẫn cắt nghĩa cho Giering rằng anh là người Do Thái. Do đó mới có suy luận rằng một người rơi vào tay Gestapo mà tuyên bố như thế chỉ là nói dối mà thôi...

Giering quyết định cho đi xác minh. Tại nhà bà Grossvogel ở Brussels họ tìm được một hộ chiếu cũ mà Leopold dùng ở Palestine năm 1924 mang tên thật của Leopold là Leopold Trepper, sinh ngày 23-2-1904 tại Novy-Targ. Tháng 12-1942, nhân viên ĐĐN đã đến Novy-Targ tìm dấu vết của Leopold. Bọn này báo cáo về ĐĐN rằng chúng không phát hiện được một dấu vết gì bởi vì thị tứ này đã “quét sạch loại mối Do Thái và nghĩa trang đã bị cầy xới lên rồi...”.

Sau xác minh, Giering càng tin Leopold không phải là người Do Thái, rằng khi được phái sang Palestine, cơ quan tình háo Xô viết đã tạo ra nhân vật Do Thái, Trepper chỉ là bí danh.

Đối vỏi Leopold, điều quan trọng là Gestapo chưa biết tên chiến đấu của anh: Leiba Domb.

ĐĐN giữ bí mật theo một phương pháp rất lạ: trên cửa xà lim nhốt Leopold, chúng treo một cái bảng “chú ý, tù nhân đặc hiệt, cấm vào”, chỗ này hàng ngày cả chục người qua lại, cho nên sau này Leopold được biết trong ngụy quyền khắp Paris loan tin đồn về “một tù nhân Xô viết đặc biệt”.

Còn số lính gác tuy rất kỉ luật theo lối Đức nhưng vẫn không khống chế được tính tò mò của chúng. Dù bị cấm trao đổi, trò truyện với Leopold, nhưng rồi chúng vẫn không giữ được kỉ luật. Lợi dụng đêm khuya chắc không còn ai bất chợt đến, chúng trò truyện có khi hàng giờ với người tù mà chúng canh giữ, qua đó giúp cho Leopold một số điều bổ ích. Hai trong số lính gác là hai tên ngu dốt, còn những tên khác tuy tham gia SS nhưng không mù quáng nhắm mắt trung thành với chủ nghĩa phát xít. Theo lệnh trên, chúng có thể giết, bắn hạ ngay Leopold, nhung dù sao chúng cũng có ít nhiều cảm tình. Có tên thổ lộ khi khấn trời hắn cầu mong trời giải thoát cho linh hồn Leopold! Anh ta thậm chí còn xin chuyển giúp thư của Leopold gửi cho gia đình...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

46#
 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 20:15:08 | Chỉ xem của tác giả
Chương 19
Sẽ sớm trả thù

Giering hoàn toàn thất bại về việc lập quan hệ với Đảng cộng sản Pháp mà không qua Leopold. Để tránh may rủi khi phải dùng Leopold, hắn phải tìm đến con bài cuối cùng còn lại là Katz hoặc Grossvogel.

Trong suốt tháng 12, ĐĐN ra sức tấn công Grossvogel vì chúng cho rằng Grossvogel là phó của Leopold thì phải biết phương sách quan hệ với lãnh đạo ĐCSP. Còn Grossvogel thì kiên quyết giữ vũng thỏa thuận giữa anh và Leopold là anh chỉ phụ trách buôn bán kinh doanh trong DNĐ chứ không biết gì khác. Giering quyết dịnh dùng đến những thủ đoạn đểu giả, tàn nhẫn của phương sách khống chế...

Chúng tuyên bố hoặc Grossvogel khai báo, hoặc chúng sẽ giết chết vợ con anh trước mặt anh. Anh không dao động, thái độ bình tĩnh và can đảm của anh khiến cho nhiều tên Đúc ác ôn cũng phải kiềng. Anh trả lời ĐĐN:

- Các ông có thể bắt đầu giết chúng tôi từ tôi, vợ tôi hoặc đứa bé, điều đó không có gì là quan trọng. Các ông sẽ không thể biết gì hơn.

Giering và bọn cảnh sát mật biết rằng không thể dọa nạt được Grossvogel cho nên chúng đành phải ngừng tra tấn anh. Về phần Leopold, anh tuyên bố thẳng với Giering rằng nếu còn hành hạ Grossvogel, thì anh sẽ không hợp tác vào Trò Cao thủ bởi vì Grossvogel, là con người tuyệt đối cần thiết cho kế hoạch và trước sau Trung tâm cũng sẽ biết tình hình.

Thất bại với Grossvogel, ĐĐN chuyển sang đánh Katz vì chúng hi vọng dùng anh làm liên lạc viên với Juliette. Sau này vào tháng tư năm 1943, khi gặp nhau tại nhà tù Neuilly, Katz đã kể hết cho Leopold, thật là rùng rợn không kém địa ngục.

Vì Raichmann khai tầm quan trọng của Katz, cho nên ĐĐN ra sức khai thác Katz. Bước đầu chúng tán tỉnh dụ dỗ Katz gặp Juliette mang thư của ĐĐN đưa cho Juliette để bà này chuyển cho lãnh đạo ĐCSP...

- Otto là thủ trưởng của tôi - Katz trả lời bọn đặc nhiệm - Tôi chỉ tuân theo lệnh của ông đó mà thôi...

Dụ không được, ĐĐN lại dùng thù đoạn dọa giết vợ con Katz đang bị Raichmann canh giữ ở lâu dài Billeron. Lại vô vọng, vì Katz bác bỏ yêu cầu của Giering.

Thế là đến giai đoạn tra tấn liên miên. Chủ trương là của Reiser, phụ trách ĐĐN ở Paris. Bọn Đức thay đổi chiến thuật bằng cách đòi Katz khai hết những điều anh biết về DNĐ vì chúng cho rằng anh này biết rất nhiều. Thực tế thì Katz biết hết những bí mật quan trọng. Chúng tra tấn anh liên tiếp đến một chục ngày; rồi tên Eric Jung tên đồ tể của ĐĐN, bắt đầu ra tay. Vì Katz không đầu hàng, nên Berlin phái một toán đặc biệt về hỏi cung mạnh, cao cấp về tra tấn, những tên vô lại tay đầy máu... đến trợ lực. Katz một mực trả lời theo bài bản đã bàn với Leopold:

- Xin hỏi Otto, ông đó sẽ cho các ông biết, còn tôi tôi chỉ là một nhân viên quèn của Simex, tôi không biết bí mật nào cả...
Rồi vì kiệt sức, anh tự sát bằng cách cắt tĩnh mạch, nhưng bọn SS ngăn lại.

Giering từ Berlin về thấy tình trạng của Katz quá tồi tệ, liền tìm cách sửa sai của cấp dưới. Y biết rằng Katz sẽ có ích cho kế hoạch Trò Cao thủ và một khi chưa có lệnh của Leopold, Katz sẽ không khai háo gì.

Y đủ sáng suốt để nhận thức được với một con người chịu được những đòn tra như thế, dám tự sát, sẽ là một con người làm việc được cho y. Y phái Berg đến báo cho Leopold ràng chủ trương tra tấn Katz không phải là của hắn, rồi hắn yêu cầu Leopold bảo Katz phải đến Juliette. Với ý đồ đó, y quyết định cho Katz gặp Leopold, do một mình Berg cùng dự, không có phiên dịch. Vì Katz không nói được tiếng Đức, còn Berg không biết tiếng Pháp, cho nên Leopold đề xuất cho dùng tiếng Yiddish là thứ tiếng pha giữa tieng Hebrew với tiếng Đức. Giering chấp nhận mà không biết rằng y đã tạo cho Leopold một cơ hội quý giá: trong khi trao đổi, Leopold sẽ dùng một số từ hoàn toàn là Hebrew để nói cho Katz biết ý kiến khuyên giải và chỉ thị của mình.

Mấy ngày chưa cho gặp nhau vì Giering muốn để cho những vết thương trên người Katz thành sẹo đã...

Leopold không bao giờ quên được lần gặp Katz. Chúng đưa anh vào căn phòng có Berg và Leopold đang chờ. Mới xa nhau có một tháng thôi mà bây giờ không nhận nổi Katz. Anh đã biến thành con người khác. Anh đến gần rồi ôm chầm lấy cổ Leopold rồi anh khóc. Anh không có kính và quanh mắt anh bị nhiều vết rạch...

- Anh hãy nhìn em đây này, chúng đã hành hạ em: chúng đâm kính vào mắt em. và anh hãy xem hai bàn tay em!

Katz đưa hai bàn tay nhàu nát, mất hết móng, quấn bao nhiêu băng. Anh tiến sát tai Leopold thì thầm vào tai Leopold rất tự hào:

- Em không khai một lời nào!

Berg đứng xa xa quan sát kỹ cảnh tượng, nói xen vào:

- Không phải chúng tôi đâu, chính là tên Jung tàn ác đấy!

Làm cho Katz bình tĩnh, động viên anh, tăng thêm dũng cảm cho Katz trong tình trạng như thế thật là khó biết bao, Leopold nhẹ nhàng nhưng kiên quyết nói với Katz:

- Em hãy bình tĩnh, Katz ạ, sẽ sớm trả được mối thù này!

Hai người ngồi với nhau khoảng hai tiếng. Berg nhiều lần phải ra trả lời điện thoại. Lợi dụng những lúc đó, Leopold căn dặn Katz cung cách khi đến nhà bà Juliette phải nói những gì.

Cuối giờ, mặt Katz rạng rỡ hẳn lên. Hai đồng chí lại có khả năng hành động và họ lấy lại được ý chí giành lấy thắng lợi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

47#
 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 20:19:16 | Chỉ xem của tác giả
Chương 20
Bốn lần gặp Juliette

Bà Juliette Moussier lúc nào cũng trung thành với vị trí của bà. Bà đã trụ vững. Rõ ràng đó là biểu hiện của lòng dũng cảm khác thường. Nằm trong tay quân thù mà không lùi bước đã là một thành tích; không dao động, đối mặt và giữ vị trí khi đã biết mình bị giám sát, khi bắt bớ vây quanh mình thường xuyên, bất cứ lúc nào cũng có thể bị kẻ thù đến bắt, đó mới là một chiến tích phi thường.

Bà Juliette biết rằng người ta còn cần mình, bà sẽ đi đến tận cùng với tư cách đảng viên đích thực. Leopold đã quy ước với bà rằng trong phạm vi phòng ngừa sự biến, bất cứ ai do Leopold cử đến đều phải có ám hiệu là cái khuy đỏ (ta nhớ lại Raichmann thất bại vì không biết ám hiệu này). Leopold không phóng đại sự thật, anh đã nói trước với bà rằng hiệu kẹo chắc chắn bị giám sát nhưng rất cần rằng bà phải ở lại. Ngoài ra Leopold cũng còn dặn bà cắt quan hệ với kháng chiến. Fernand Pauriol tiếp tục quan tâm đến bà.

Theo chủ trương thỏa thuận hôm Katz gặp Leopold có Berg chứng kiến, Katz phải vờ “đi”. Lúc trở về, anh sẽ kể lại rằng Juliette đã tiếp anh, nhưng vì mất quan hệ với ĐCS cho nên bà còn phải đi tìm sau một tuần sẽ trả lời kết quả. Katz đi lần thứ hai mang về sẽ trả lời: quan hệ của Juliette bằng lòng gặp, nhưng họ sợ và đòi phải là Leopold mang thư đến. Tất cả lịch trình đó nhằm buộc Giering phải để Leopold gặp bà Juliette, có như thế Leopold mới đưa được báo cáo về Trung tâm.

Tại sao phải đi đi lại lại như vậy? Để làm cho Giering và các sếp của tên này ở Berlin yên tâm...

Giering lưỡng lự về việc có nên hay không nên để Katz tham gia Trò chơi, hắn tâm sự với Leopold:

- Katz là sứ giả lý tưởng bao nhiêu trước khi hắn chuyển sang tay chúng tôi, thì nay tôi lại ngại hắn chơi xỏ chúng tôi bấy nhiêu... Ai mà có thể vững tâm đối với một người đã từng bị hành hạ quá tệ như thế, rằng hắn sẽ không làm trái lại với điều người ta yêu cầu hắn?

Về bản chất, tính toán của tên này thật là một lôgic hoàn hào. Leopold phải cố gắng giảng giải cho hắn yên tâm:

- Như ông biết, Katz không có tâm địa phản bội đâu, ông ta nhiệt liệt tán thành kế hoạch hòa hình riêng rẽ, chính chỉ điều đó đã hướng ông ta đi theo con đường ấy...

Giering vẫn chưa hết dè dặt, hắn bắt Katz phải kí cam kết nếu trốn, hoặc tìm cách báo cho bà Juliette thì vợ, con và Leopold sẽ bị bắn chết.

Katz kí liền cam đoan.

Nhiều ngày trước khi Katz đến hiệu kẹo, ĐĐN chuẩn bị nhộn nhịp. Reiser tổ chức một kế hoạch khá lớn: quây khu vực lại, các toán Gestapo đi xe đen tuần tra các phố xung quanh.

Kế hoạch diễn ra trôi chảy: Katz có Berg đi kèm đã vào hiệu kẹo; anh ra về có gói kẹo cầm tay và kể lại cho Giering như đã bàn với Leopold: sẽ gặp lại bà Juliette vào thứ bảy sau. Giering rất hài lòng và quyết định lần sau Katz sẽ chuyển đến hiệu kẹo một báo cáo gửi cho Trung tâm những tin tức đáng mừng: mọi việc đều tốt đẹp, lưới DNĐ vẫn toàn vẹn, có thể tiếp tục theo đường đã định.

Leopold thuyết phục được Giering cho anh đề nghị với Cục trưởng cắt mọi liên hệ trong một tháng vì Leopold không hành động khác thế nếu anh còn được tự do. Thời hạn phụ đó nhằm tạo cho bà Juliette có đủ thời giờ để thoát thân (Leopold sẽ chỉ thị cho bà khi anh gặp bà). Việc liên hệ giữa bà với Leopold có thể như hẹn vì Katz lần thứ hai trở về nói rằng điều kiện dứt khoát phải là đích thân Leopold mang báo cáo đưa cho bà.

Bản báo cáo của Leopold đã viết xong. Trong điều kiện không bị tù, viết báo cáo cho Trung tâm chỉ vài giờ là đủ. Nhưng trong tù phải chơi trò ú tim với bọn gác tù thì khác. Anh phải viết ban đêm vì cần phải tránh tên Berg tò mò bất thần xục tới, chứ bọn gác tù thì đã quen với việc anh viết “để học tiếng Đức”. Chắc nhất là viết vào lúc hai ba giờ sáng là lúc bọn gác tù cũng ngủ gục trên bàn (còn anh vì mất ngủ nên bọn gác cho bật đèn suốt đêm để anh đọc sách, báo). Anh viết trên những mẩu báo dùng pha tiếng Yiddish, Hebrew và Ba Lan. Nếu có bị tóm bản báo cáo đó, trong khi địch dịch ra để đọc được, anh đã có đủ thời giờ để ứng phó.

Để thuyết phục Trung tâm, Leopold phải lược lại tình hình theo thời gian từ ngày 13-12-1941. Phải báo cáo về các vụ bắt bớ, kể rõ thời gian, địa điểm, hoàn cảnh. Tình hình, tình thần, khí tiết của những người bị bắt. Phải kể đến các điện đài bị bắt, những điện bị dịch ra, những khóa mật mã bị khám phá. Lại phải báo cáo đầy đủ về kế hoạch Trò Cao Thủ: mục tiêu chính trị, quân sự, phương tiện sử dụng. Cuối cùng là danh sách toàn bộ các đồng chí có thể sẽ bị bắt.

Phần hai báo cáo, Leopold đề xuất hai miếng đánh trả:

Trường hợp 1: Trung tâm xác định cần tiếp tục Trò Cao thủ và chủ động chơi. Cục trưởng gửi vào ngày 23-1-43 một điện chúc mừng lễ Hồng quân và ngày sinh của Leopold.

Trường hợp thứ nhì: Trung tâm thấy không cần tiếp tục Trò Cao thủ. Trung tâm tiếp tục trong 1, 2 tháng gửi điện để đừng tỏ ra phản ứng thô bạo với bản báo cáo của Leopold.

Ngoài ra Leopold gửi một thư riêng cho Jacques Duclos để giải thích về tình trạng nghiêm trọng. Leopold xin đồng chí chuyển hộ bản báo cáo của anh cho Dimitrov, đồng chí này sẽ chuyển báo cáo của Leopold đến lãnh đạo ĐCS LX. Leopold còn nêu danh sách 20 người cần có biện pháp bảo vệ tức thời. Đứng đầu danh sách là Pauriol và Juliette.

Trong thời gian đó, ĐĐN chuẩn bị cho Katz gặp Juliette lần thứ hai. Giering không biết viết báo cáo cho Trung tâm bằng thứ mật mã nào. Kent khai DNĐ khi gửi điện qua trung gian ĐCS phải dùng loại mật mã đặc biệt. Leopold thẳng thừng chối cãi. Cuối cùng Giering quyết định bức điện viết bằng tiếng Nga và dùng mật mã của Kent.

Đây cũng là một dấu hiệu báo động cho trung tâm vì các điện đều dùng trước kia bằng tiếng Đức, viết bằng mực bí mật và ĐCS dùng mật mã riêng của ĐCS.

Cuộc gặp lần thứ hai diễn ra theo bài bản cũ: vây khu vục, giám sát. Giering tin rằng Juliette sẽ chấp nhận tài liệu của Katz. Bà ngạc nhiên khi thấy Katz trở lại với bức điện và một gói kẹo... Với nụ cười hóm hỉnh, Katz kể rằng các đồng chí rất lo lắng về số phận Leopold; những tin đồn về việc anh này bị bắt bắt đầu lan ra. Juliette đã được lệnh đình chỉ nhận những tài liệu do chính Leopold trao cho. Dù thế nào thì Katz đã quy ước việc Juliette gặp Leopold.

Rất lo lắng, Giering hỏi ý kiến Leopold, anh nói:

- Điều này không có gì là lạ. Việc bắt tôi đã xảy ra hai tháng rồi, từ đó đến nay không ai gặp tôi ở đâu, tôi không xuất hiện bất cứ chỗ nào, liên lạc với ĐCS bị cắt đứt. Tôi nhiều lần đã dự báo với ông sẽ xảy ra tình huống như thế. Ông hãy đứng vào vị trí đảng viên cộng sản Pháp. Vào địa vị của họ tất nhiên họ sẽ rất nghi ngờ. Tất cả điều đó đều do lỗi của ông. Ông không chịu cho tôi tham gia Trò Cao thủ, bây giò hỏng hết rồi.

Giering trả lời Leopold với giọng thật thà rằng y đã muốn cho Leopold tham gia từ đầu, nhưng các sếp của y ở Berlin không nghe mặc dù trong nhiều bản báo cáo y đã nhận định Leopold có thiện chí. Berlin ngại ĐCS dùng vũ lực để giải thoát cho Leopold.

Leopold phát biểu:

- Dù thế nào đi nữa, trong một tuần lễ nữa thôi nếu tôi không được gặp Juliette thì Trò Cao thủ sẽ đi tiêu. Phần tôi, tôi xin quay lại nhà tù Fresnes.

Sau lần gặp này, Giering đi máy bay về Berlin. Vài ngày sau y quay lại với sự đồng ý của cấp trên.

Trong thời gian y đi vắng, Leopold đã nói một cách thân mật với Berg là người được Giering trao cho trách nhiệm thăm dò ý đồ thật của Leopold. Qua những lần nói chuyện đó, Leopold nắm được rằng Himmler rất quan tâm đến Trò Cao thủ. Đối với Leopold, anh cho rằng vụ này có vẻ rất xấu.

Kế hoạch Juliette phải thành công. Leopold nhận định rằng nếu kế hoạch thất bại thì tất cả tù nhân trong vụ Dàn Nhạc Đỏ sẽ bị thủ tiêu.

Suốt cuộc đời Leopold bao giờ cũng hết sức bảo vệ sinh mạng con người, nhưng trong canh bạc này, anh tin rằng anh có lí đối với sinh mạng của các đồng đội. Có những lúc tất cả trách nhiệm đổ lên đầu của một người. Anh không mong đợi có thể xin ai cho ý kiến. Anh đã chọn và ba chục năm sau, anh tự hào là đã chọn đúng.

Chiều thứ năm - hai ngày trước khi gặp Juliette - anh đã nói chuyện lâu với Giering. Đối với y, đây là mưu toan cuối cùng như y khẳng định với Leopold. Y thú thật rằng ở Berlin y đã gặp rất nhiều khó khăn khi xin chủ trương về cuộc gặp này và tất cả trách nhiệm sẽ do y phải gánh. Y nói:

- Tôi rất quan tâm đến thành công của cuộc gặp này. Bởi vì nếu chúng ta lấy được lòng tin của đảng, quan hệ với Trung tâm sẽ tốt đẹp hơn. Bàn về các giả thuyết để ông xử lí: Tôi loại trừ khả năng phản phúc của ông. Tuy nhiên nếu ông chưa hoàn toàn tin tưởng vào khả năng có hòa bình riêng rẽ, tôi sợ rằng ông lợi dụng cuộc gặp Juliette để báo trước bằng cách này hay cách khác cho bà ta. Tôi xin nói trước với ông rằng nếu ông trốn, hoặc báo trước cho Juliette thì tất cả tù nhân thuộc DNĐ ở Bỉ và ở Pháp đều sẽ bị tôi cho bắn hết.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

48#
 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 20:20:45 | Chỉ xem của tác giả
Leopold nổi khùng:

- Đe dọa như thế đối với một người mà ông định cộng tác để kiến lập nền hòa bình riêng rẽ khiến tôi phải nghĩ rằng tốt hơn hết là đi ngay đến tình huống mà tôi chờ từ lúc tôi bị bắt. Ông hãy đưa tôi ra bắn đi!

Y không dám dọa Leopold nữa. Y đã thấy rõ ràng, nhưng vì chót huênh hoang với các sếp sẽ giành được thắng lợi to lớn cùng với Leopold, cho nên y đành phải chịu may rủi cho Leopold gặp Juliette. Nhưng y vẫn cảnh giác.

Đêm hôm trước ngày gặp, Leopold không sao ngủ được. Anh dự kiến tất cả tình huống có thể xảy ra. Anh nghĩ ràng Giering không dám khám người anh vì nếu làm như thế, anh sẽ không tham gia kế hoạch của y nữa. Anh sợ “bọn bạn” của Giering khiêu khích. Tên trùm Gestapo Paris là Boemelburg và tên sếp Đội đặc nhiệm Paris đang mong Giering thất bại. Chúng có trách nhiệm bảo vệ an ninh cho chuyến gặp gỡ này. Dễ dàng chúng có thể giả vờ có người chạy trốn rồi bắt Juliette. Berg đã báo cho Leopold rằng nhiều thành viên ĐĐN cho rằng cứ bắt Juliette là giải quyết được vấn đề.

Cuối cùng Leopold quyết định đi gặp nhưng tay không. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, anh sẽ hẹn Juliette gặp lần nữa để chuyển hai tài liệu, của Giering và của Leopold.

Chiều thứ bảy này, trên sân trụ sở phố Saussaies y như có chiến tranh vậy. Bao nhiêu nhân viên Gestapo phải đi vây khu phố và quảng trường Chatelet. Berg phải vào hiệu kẹo cùng với Leopold, nhưng Leopold ngại có thể có những nhân viên khác ở trong cửa hiệu.

Juliette rất sung sướng được gặp lại Leopold. Họ ôm hôn nhau, lợi dụng lúc đó Leopold rỉ tai Juliette rằng anh sẽ quay lại gặp bà vào thứ bảy sau để trao một tài liệu, bà phải chuyển tài liệu đó ngay sau khi Leopold ra khỏi cửa hiệu kẹo. Hai người phải trốn biệt cho đến khi chiến tranh kết thúc. Juliette ghi nhận hết một cách bình tĩnh và tự nhiên và đưa cho Leopold một phong chocolates.

Khi trở về Saussaies, Giering rất hoan hỉ. Hắn ngạc nhiên khi Leopold nói chưa chuyển được tài liệu. Leopold giải thích:

- Juliette cho tôi biết bà không còn phụ trách việc liên lạc nữa, nhưng một đảng viên mà bà không quen biết có mặt ở cửa hiệu và đã kiểm tra thấy không có chuyện gì. Lần hẹn sau, bà có thể nhận tài liệu.

Lập luận này khá lôgic nên làm cho Giering yên tâm, hắn tỏ ra mãn nguyện về ba cuộc gặp Juliette.

Kì gặp cuối cùng và quyết định được ấn định vào thứ bảy cuối tháng giêng năm 1943, ngay sát giờ sắp đóng cửa hiệu. Leopold chọn ngày giờ đó là có ý, bởi anh biết cửa hiệu nghỉ chủ nhật và thứ hai, nữ đồng chí Juliette sẽ có đủ thời giờ để trốn thoát.

Đêm hôm trước, anh lấy bản báo cáo trong “két sắt” và đơn giản giữ nó trong túi, trên có 1 khăn mùi soa. Giering tìm anh để bàn chuyện một lúc, trong khi “quả bom” đặt cách y chỉ gang tấc.

Việc chuyển bản báo cáo diễn ra khá êm ả, giám sát đã giảm và kín đáo hơn... Leopold luồn vào bàn tay Juliette cả hai tài liệu và dặn nữ đồng chí rằng bức điện đã mã là của bọn Đức, còn bản báo cáo lớn là do Leopold viết, nữ đồng chí chuyển cả hai cho Trung tâm. Anh ôm hôn bà và nhắc lại rằng bà cần trốn. Anh không bao giờ gặp lại nữ đồng chí vì những ngày khó khăn sau chiến tranh đã không cho anh điều kiện gặp lại nữ đồng chí đó.

Anh quay về xà lim, lòng thư thái. Anh tin chắc bản báo cáo sẽ đi đến nơi và sẽ làm cho Trung tâm thay đổi hoàn toàn thái độ. Dù Cục trưởng chủ trương thế nào đối với Trò Cao thủ, nhưng có một điều chắc chắn là kẻ thù không còn khả năng khai thác vô tội vạ những điện đài của DNĐ, nguy cơ bị đầu độc đã được giải quyết.

Anh chỉ còn chờ trả lời mà thôi.

Tuy không hoan hỉ lắm, nhưng Giering nhận xét với Leopold rằng y sung sướng đạt kết quả: Juliette đã nhận bức điện, và y tin rằng nhân viên phản gián Xô viết có mặt ở cửa hiệu kẹo nhất định phải công nhận Leopold vẫn còn tự do.

Giering hài lòng, tốt thôi, nhưng Leopold dự kiến khó giải thích cho y về việc Juliette trốn mất: anh tin rằng ĐĐN sẽ giám sát hiệu kẹo Jacquin.

Việc bà Juliette trốn mất, Leopold suy nghĩ anh không có quyền làm cho bà nguy hiểm lâu dài hơn cũng như Pauriol vậy.

Sáng thứ ba là ngày cửa hiệu kẹo mở cửa, Leopold thấy Giering đến xà lim của anh với vẻ mặt lo lắng. Hắn nói:

- Ông Leopold ạ, cái bà đó không đến làm việc...

- Sau những chuyện bắt bớ này - Leopold giải thích - Đây là một phản ứng tự nhiên. Juliette sợ có chuyện xích mích với nhân viên của ông...

Chuyện đến đây kể cũng khó bào chữa: Giering bắt đầu thấy nghi ngờ. Một tuần sau, hắn cử một đội viên ĐĐN đến hiệu kẹo để hỏi về Juliette, phái viên trở về báo cáo rằng bà giám đốc hiệu kẹo cho biết rằng Juliette nhận được điện tín của một bà cô già ốm nên phải về thăm bà cô đó.

Giering ngày càng lo lắng. Hắn nói với Leopold:

- Ông biết đấy, ĐCS có lẽ ngờ vực rằng ông không còn tự do khi ông đến hiệu kẹo gặp Juliette...

- Tôi nghĩ rằng Juliette đã hành động theo sự thôi thúc của phụ nữ, với phụ nữ ai mà đoán được... Chúng ta chờ phàn ứng của Trung tâm, chỉ điều đó mới quan trọng, chỉ điều đó mói là quyết định - Leopold trả lời.

Giering lắc đầu; Leopold chưa phá tan được ngờ vực của hắn... Điều làm Leopold lo lắng hơn chính là phản ứng của Trung tâm. Nhiều đêm anh phân tích rằng nhận khuyết điểm đâu phải là dễ, phải anh dũng lắm mới dám nhận khuyết điểm, mà Trung tâm suốt trong năm 1942 đã phạm biết bao nhiêu khuyết điểm! Có lúc anh nghĩ có lẽ những khuyết điểm đó cũng có thể do một tên nội gián của Đức chui vào Trung tâm rồi xúi giục Cục trưởng phạm phải những khuyết điểm đến như vậy... Trong những đêm dài mất ngủ anh nghĩ liên miên đến quá khứ rồi anh tiếc Berzin không còn để lãnh đạo Cục Tình báo Hồng quân Xô viết nữa.

Ngày 23-2-1943. Một ngày không thể quên được đối với Leopold...

Giering rất vui vẻ vào xà lim của Leopold với vẻ chiến thắng thông báo cho anh rằng đài của Kent vừa mới nhận được hai bức điện của Cục trưởng; hắn khoe với anh và cho anh đọc:

“Ngày kỉ niệm Hồng quân quang vinh, ra đời và ngày sinh của đồng chí (Leopold định reo lên vui sướng, Trung tâm đã nhận được báo cáo rồi) Cục gửi lời chúc nồng nhiệt nhất. Cục biết ơn công lao của đồng chí, quyết định đề xuất lên Chính phủ tặng thưởng huân chương vũ trang cho đồng chí.”

Và bức điện thứ hai:

“Otto, chúng tôi đã nhận được điện của đồng chí gửi qua các bạn của chúng ta. Mong rằng tình hình sẽ tốt đẹp hơn. Nhận định rằng cần phải đảm bảo an toàn cho đồng chí nên tạm ngừng liên lạc cho đến khi có lệnh mới. Hãy liên lạc trực tiếp với chúng tôi. Sẽ có chỉ thị mới và cụ thể về công tác của lưới của đồng chí trong tương lai. Cục trưởng.”

Leopold không giấu giếm sự vui mừng. Mọi sự cố gắng của chúng tôi sẽ được đền bù; sáng kiến Trò Cao thủ chuyển sang tay Quân đội Xô viết. Đây là thời điểm phục thù!

Giering cũng mặt mày rạng rỡ:

- Thật là hoàn hảo, hoàn hảo, chúng ta có bằng chứng là Trung tâm tin chúng ta!

Cũng thời gian đó, vợ Leopold sơ tán sang Siberia với các con, nhận được điện sau đây của Trung tâm:

“Chồng của đồng chí là một vị anh hùng. Đồng chí đó công tác cho chiến thắng của Tổ quốc chúng ta.”

Kí tên: đại tá Epstein, thiếu tá Polakova, thiếu tá Leontiev.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

49#
 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 20:22:30 | Chỉ xem của tác giả
Chương 21
Địa ngục Breendonk

Địa ngục không kể chuyện của mình ra: người ta sống, ngác ngoải sống, thường thường người ta ở nơi đó. Bao giờ người ta cũng đau khổ ở nơi đó. Những ai chưa nếm mùi Gestapo tàn ác thế nào thì không thể hình dung nổi. Nhưng óc tưởng tượng không thể leo lên đến trình độ ghê rợn được nâng lên thành hệ thống. Đối với những chiến sĩ của Dàn Nhạc Đỏ vượt khỏi địa ngục, trong tâm khảm của họ chỉ còn sót lại những kỉ niệm xương thịt đau xé thường làm cho giấc ngủ của họ không thể ngon lành vì chúng hay hiện lại thành ác mộng. Bánh xe lịch sử vẫn tiếp tục cuốn đi tàn sát và tội ác, diệt chủng và tra tấn. Máu khô nhanh hơn mực in trên trang một các nhật báo. Trong tâm khảm của loài người dần dần mờ đi tiếng gầm rú và tính chất ác liệt của chiến tranh. Thậm chí từ nay trở đi người ta còn mô tả địa ngục có dáng vẻ của cuộc đi chơi về nông thôn. Văn chương, truyền hình và điện ảnh biến cái đê tiện thành cái trong trắng. Những tên tội phạm chiến tranh làm giầu bên những bể bơi chạm chén chúc cho “thời đại đẹp đẽ”.

Cố ý hay vô tình, những tên thày cãi cho tàn bạo ngày nay với số lượng khá đông, chúng đang bênh vực cho chủ nghĩa phát xít hung ác.

Sử gia, đạo diễn cởi cho loại Gestapo - Muller, Karl Giering, Pannwitze, Reiser và đồng bọn chiếc tạp dề đầy máu của bọn đồ tể rồi khoác cho bọn đó chiếc áo lễ phục của kẻ quân tử. Những chiếc găng trắng che những bàn tay hộ pháp đã từng đánh đập, cắt xẻo, làm biến dạng con người rơi vào tay chúng nó. Những kẻ ngây thơ gào lên rằng những con người đó, quan chức cao cấp, quân nhân, chuyên gia phản gián, họ làm theo lệnh chứ sao. Những tên đầy tớ trung thành của phát xít Đức mà ngày nay, người ta giới thiệu với chúng ta như những công dân bình thản, tiến hành các nhiệm vụ hàng ngày một cách điềm tĩnh, chính chúng là những kẻ đã tuân theo mười điều dạy gây tội ác. Toàn thể những nhiệm vụ, trừ một nhiệm vụ mà chúng rất giỏi: đồ tể đẫm máu trong những hầm mà những người hi sinh vì lí tưởng hấp hối! Chúng chỉ là những kẻ thừa hành đơn thuần, chúng chỉ đơn giản làm theo lệnh ư? Ngày nay người ta phục hồi cho chúng. Hãy hỏi những chiến sĩ DNĐ còn sống sót, hãy đề nghị họ kể lại những gì họ đã trải qua. Anh mau vượt giòng thời gian đi. Cách đấy có ba chục năm, đấy là thời Trung cổ, và những tên “quân tử” Gestapo thoải mái thao diễn. Đối với những tù nhân, bảy chữ GESTAPO mãi mãi in đậm vào da thịt họ.

Ngày 7-12-1941, Hitler đưa ra sắc lệnh Nacht und Nebel (Đêm và Sương mù) nổi tiếng: “Trên các lãnh thổ bị chiếm đóng, được phép dùng mọi biện pháp đối phó với ai chống lại Đế chế 3 để thu thập tình báo. Có thể bắn bỏ chúng không cần xét xử.”

Cuối năm 1942, Canaris và Himmler kí một chỉ thị tên là “Đường lối Quốc tế cộng sản”, nội dung cho phép dùng mọi thủ đoạn để khai thác lời khai của nhân viên điện đài, mật mã, thông tín viên bị bắt. Còn đối với các trưởng lưới thì không tra tấn mà phải cố hết sức khống chế và sử dụng.

Đội viên Đội đặc nhiệm đã căn cứ vào chỉ thị kể trên để hành động... Trong suốt thời kì bị chiếm đóng, pháo đài quân sự Breendonk ở Bỉ là một trong những địa điểm chọn lựa theo tính chát man rợ của chủ nghĩa phát xít. Chính nơi đây biết bao nhiêu đồng chí chúng ta đã đau khổ hi sinh.

Breendonk được xây dựng năm 1906 ở cạnh con đường tù Brussels đi Antwerp. Trong chiến dịch 1940, nơi đây là đại bản doanh của vua Leopold III. Ngày 29-8 chuyển nó thành “trại đón tiếp” và ngày 20-9 những tù binh đầu tiên được nhốt vào đây. Lượng tù nhân tăng đều đều (11-1940 mới có 50) và đến tháng 6-1941 đã lên đến nấc mới, khi Đức bắt đầu tấn công Liên Xô.

Tù nhân ăn đói, lao động khổ sai, sỉ nhục, đánh và tra tấn hàng ngày. Từ tháng 9-1941 bọn SS Bỉ canh gác trại. Một trong những tên SS này đón tiếp những tù nhân mới bằng câu: “Đây là địa ngục, còn tao là quỷ dữ”.

Tên này không nói ngoa đâu... Phần lớn tù nhân không được xét xử: người bị Gestapo bí mật cho quá cảnh trại này rồi đưa đi giết. Người khác đến đây để bọn SS tra tấn lấy cung. Buồng hỏi cung nguyên là kho thuốc súng cũ. Bị treo bằng palăng lên trần nhà, tù nhân bị cực hình của thế kỉ trung cổ: kẹp ngón tay, kẹp đầu, tra điện, dí sắt nung đỏ, v.v... Khi tên chúa ngục Schmitt chưa bằng lòng về hỏi cung, liền cho chó xé thịt tù nhân. Khi sơ tán trại, bọn đồ tể đã xóa bằng hết dấu vết tội ác của chúng nhưng đâu xóa nổi tâm khảm của những tù nhân khi họ kể lại để mà viết nên cái nhà tù địa ngục này. Schmitt bị đưa trở lại nhà tù này khi y bị đưa ra tòa án tội phạm chiến tranh. Dĩ nhiên nó chẳng xúc động gì, cho rằng thực tế được giữ đúng (trừ những cảnh khủng khiếp) và xác nhận rằng cái nêm gỗ để đâm người rơi từ cái palăng xuống hơi cao!

Từ khi Efremov phản bội, nhiều đồng chí ở DNĐ Bỉ không có tin tức gì. Điện mật vẫn đánh đi mang tên họ, bọn Đức vờ làm người ta tin rằng các đồng chí đó đã phản bội... Thực ra những nhân viên điện đài DNĐ bị giam ở Breendonk không hề tham gia trò chơi. Qua điều tra của Leopold cùng với chính quyền Bỉ sau này đã thu được rất nhiều tin tức lí thú về họ.

Trước hết về Anton Winterinck, trưởng lưới DNĐ tại Hà Lan, bị bắt ngày 16-9-1942 do Efremov khai. Nhiều “sử gia” nhất là ở Tây Đức, đã viết về DNĐ rằng Winterinck quay phản, làm việc cho ĐĐN, rồi trốn thoát theo quân thù năm 1944. Leopold đã xác minh thấy hoàn toàn trái lại. Winterinck trước tiên bị giam trong nhà tù Saint-Gilles Prison ở Brussels, đến ngày 18-11-1942 bị chuyển về Breendonk. Cũng lúc đó điện đài của anh lại phát sóng... Nếu theo các “sử gia” viết về DNĐ thì Winterinck phải phát sóng giữa hai trận đòn tra tấn: đó là số phận của “tên phản bội này” trong hai năm trời... Những tên phản bội thực sự như Efremov được cho nhà ở đủ tiện nghi, khác hẳn với những xà lim trong pháo đài tội ác.

Ngày 6-7-1943, Winterinck bị điệu về nhà tù Saint-Gilles Prison và bị hắn tại Trường bắn quốc gia cùng ngày hôm đó. Để che giấu cái chết của anh, bọn đồ tể theo thói quen viết trên mộ anh “vô danh”.

Tiếp đến là Auguste Sesee , nhân viên điện đài, cũng “phản bội” như bọn phát xít nói: anh bị bắt ngày 28-8-1942, bị giam tại Breendonk đến tháng tư năm 1943, bị án tử hình, bị chuyển về Berlin và bị hành hình vào tháng giêng năm 1944.

Izbutski tức Bob: nhiều bức điện gửi về Moscow mang tên anh... Thực ra, anh bị đưa về Breendonk sau khi bị bắt vào tháng 8-1942, anh bị đối chất với Marcus Lustbader, em rể của Sarah Goldberg (sau khi Izbutski bị bắt, Sarah trốn thoát, tham gia kháng chiến, rồi bị bắt và bị đày vào trại Auschwitz. Izbutski bị tra tấn dã man đến mức không còn ra người nữa (theo lời kể của Lustbader sau khi anh này ra khỏi trại Auschwitz) và bị hành hình ngày 6-7-1944 trong nhà tù Charlottenburg ở Berlin.

Alamo và David Kamy cũng bị giam ở Breendonk tháng sáu 1942. Bị tra tấn rồi bị kết án tử hình bởi tên biện lí quân sự Roeder ngày 18-2-1943. Kamy bị bắn ngày 30-4, nhưng Alamo được Leopold cứu vì Leopold nhớ Alamo làm việc cho Molotov, trong một lần bàn với Giering, Leopold “phát hiện” cho Giering rằng Alamo là cháu của ngoại trưởng Liên Xô. Giering đã báo cáo lên Goering và tên này đã hạ án tử hình cho Alamo, nhưng anh bị đưa đi đày; khi chiến tranh kết thúc anh được tìm thấy ở một trại tập trung gần biên giới giáp Italia, rồi anh được Hoa Kì trao trả Liên Xô.

Sophie Poznanska, nữ mật mã viên ở phố Atrebates, đã treo cổ trong xà lim nhà tù Saint-Gilles Prison, ngày 28-9-1942.

Hersch và Mira Sokol sau khi bị bắt ở Pháp, vài tháng sau cũng bị đưa về Breendonk, ngày 9-6-1942. Một nữ tù nhân đã kể lại rằng: “Mira bị mật thám tìm mọi biện pháp tra tấn để lấy cung, bà Betty Depelsenaire kể: Sau nhiều ngày bị còng tay sau lưng, dỗ dành chị khai cung, bọn SS dùng đến tra tấn..Tên hỏi cung tóm tóc Mira lôi xềnh xệch như một con vật qua một hành lang hẹp và tối đến một cái phòng không cửa sổ, không có thông gió, chỉ có mùi thịt cháy và mùi mốc xộc lên mũi làm thót cả tim. Một cái bàn, một cái ghế đẩu, một dây thừng to treo trên trần bằng một cái ròng rọc, một điện thoại nối thẳng với cơ quan mật thám Brussels. Tên hỏi cung ra lệnh cho Mira qùy xuống và cúi xuống ghế đẩu. Chiếc roi da quật một, hai lần. Bọn mật thám thấy cần đánh mạnh hơn nữa. Tên cai ngục và hai tên SS, những cảnh cẩu, trợ lực. Sau khi tháo còng, Mira phải giơ tay ra đằng trước. Họ cùm, xiết một nấc cùm và định vị chiếc thừng, như vậy thân Mira có thể bị kéo dần lên và phải đứng kiễng bằng ngón chân. Roi da quật tới tấp. Roi này chưa đủ mạnh. Chúng dùng dùi cui để đánh mạnh hơn. Rồi đến thanh gỗ chắc và rắn hơn. Mira kêu để đỡ đau, nhưng không khai.

Tức giận, tên hỏi cung mồ hôi đổ trên trán, quyết định kéo thừng lên cao nữa đến mức thân thể Mira bị lơ lửng trong không trung. Trọng lượng thân thể dồn lên cổ tay, và cạnh chiếc cùm thép cắt thịt cô. Thân thể cô đung đưa, chúng đánh không chính xác, tên chúa ngục ra lệnh cho tên SS lấy tay giữ Mira lại rồi cứ thế nó quật bằng thanh gỗ. Mira không chịu được nữa, cô ngất lịm. Khi cô tỉnh lại, cô thấy hai hàn tay tím ngắt, hoàn toàn biến dạng. Mira lại đứng dậy và cô sẵn sàng đối đầu với quân thù. Tức điên người, bọn chó săn lại tra tấn cô như lần trước.

Mira lại ngất lịm. Hôm nay, tên đồ tể đành bỏ cuộc.

Hersch và Mira còn phải trải qua những đòn tra tấn man rợ như thế hàng mấy tháng trời. Hai vợ chồng nắm được mật mã sáu trăm bức điện mật chuyển qua điện đài của họ nhưng họ giữ bí mật đến cùng. Bọn đồ tể định làm run sợ hai nạn nhân bằng cách cho Mira dự những buổi tra tấn Hersch và ngược lại. Hersch bị ốm, người sút chỉ còn 37 kg. Viên thầy thuốc của trại ngạc nhiên về sức chịu đựng của anh:

- Ủa, hắn chưa chết này. Thật là một tay cứng rắn. Thật là đáng ngạc nhiên thấy con người có thể chịu đựng lâu đến thế...

Nhưng tên chúa ngục muốn kết thúc và nó đạt yêu cầu đó: con quỷ này đã cho đàn chó ngao cắn xé anh cho đến chết (Để che giấu vụ giết người này, tên đồ tể ghi trong hồ sơ Hersch là bị bắn. Mộ anh nằm trong số 300 mộ chiến sĩ ở Trường bắn quốc gia Brussels. Thế mà tên văn sĩ Đức Heinz Hohne dám viết trong cuốn “Khẩu hiệu” rằng: Sokol bị thủ tiêu!)

Còn Mira Sokol hy sinh trong một trại giam của Đức vì suy kiệt.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

50#
 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 20:23:38 | Chỉ xem của tác giả
Jeanne, vợ của Grossvogel, bị giam bốn tháng ở Breendonk và cũng chịu một số phận như các đồng chí của chị. Cũng tại đây hy sinh Maurice Pepper, liên lạc viên với Hà Lan, bị bắn ngày 28-2-1944, Jean Jeusseur, trong nhà có điện đài bị phát hiện, Maurice Beublet, cố vấn pháp luật hãng Simex, đều bị giam tại Breendonk mấy tháng, bị tra tấn và đến năm 1943 thì bị xử bắn tại Berlin. William Kruyt, thành viên toán Hà Lan, nhảy dù khi đã sáu mươi ba tuổi, bị bắt ngay khi vừa xuống đất, định tự sát nhưng không kịp; bọn Gestapo tra tấn để khai thác về người nhảy dù thứ hai cùng anh. Anh không khai, bọn Đức đưa anh đến nhà xác lật vải liệm lên cho anh xem tử thi của đồng đội: đó là đứa con ruột của anh bị bắn chết ngay khi vừa chạm chân xuống đất. Kruyt bị đưa về Breendonk và bị xử tử.

Cũng tại Breendonk, Nazarin Drailly, giám đốc hãng Simexco năm 1942 và bị bắt ngày 6 tháng giêng năm 1943 tại nhà một người bạn gái. Anh bị đưa về pháo đài này rồi bị tra tấn bằng chó ngao, hai chân anh bị chó xé nát thịt, tên chúa ngục cho anh ra nhà thương Antwerp để cưa chân đi. (Một bạn tù của anh kể lại cho bà Germaine Drailly sau chiến tranh rằng ông Nazarin cho tôi biết khi ông bị đưa đến trại Breendonk thì bị bọn mật thám Đức dày xéo một trận nên thân rồi tên thiếu tá Schmitt thả chó ngao xé nát thịt hai chân ông). Khi chúa ngục đưa anh trở lại trại, anh bị lên án tử hình rồi đưa lên Berlin để vào trại tập trung như phần lớn thành viên của Dàn Nhạc Đỏ bị bắt tại Bỉ và Pháp. Germaine, vợ anh, và hai con anh đi cùng chuyến xe lửa: anh đi qua mặt vợ mà vợ anh không nhận ra anh vì anh trắng bệch như một xác chết. Một người nào đó hích vào chị:

- Chồng bà đó!

Chị chỉ còn trông thấy chồng mình có năm phút ở hành lang. Anh hỏi Germaine:

- Em có nhận thấy gì không? Anh có một chân ngắn một chân dài.

Chị không còn được trông thấy anh nữa. Anh bị chém đầu ngày 28-7-1943 tại Berlin. Còn Germaine Drailly sau nhiều năm bị giam ở nhiều nhà tù, đến ngày 19-3-1945 chị hi sinh vì phát xít thả hơi ngạt. Trại tập trung chị bị bom ngày 15. Chị chạy trốn, khi vượt con sông đào chị không biết bơi. Gestapo bắt lại chị và đưa về Sachsenhausen. Chị thuộc nhóm chiến sĩ hi sinh cuối cùng trong những ngày cuối của chiến tranh.

Trong chuyến xe lửa đó, vợ chồng Corbin , vợ chồng Jaspar, Robert Breyer, Suzanne Cointe, Vladimir Keller, Franz và Germaine Schneider, vợ chồng Griotto là những chiến sĩ bị sa vào tay giặc tại Pháp đã gặp lại những đồng chí ở Bỉ: Charles Drailly, em của Nazarin Drailly, Robert Christen, Louis Thevenet sản xuất thuốc lá, Bill Hoorickx, nghệ sĩ họa sĩ, bạn thân của Alamo, Henri Rauch, người Tiệp có họ với Margarete Barcza, làm việc chủ yếu cho Anh, ngại lẫn lộn màng lưới, anh rút khỏi Simex năm 1942, nhưng đến tháng 11 thì bị bắt, anh hi sinh vì suy kiệt ở trại Mauthausen.

Trong 27 chiến sĩ qua trại Breendonk thì 16 chiến sĩ bị tử hình, những chiến sĩ khác của DNĐ bị đưa vào các trại tập trung với dấu hiệu “Nacht und Nebel” (có thể bị giết chết không cần xét xử).

Nhờ lời làm chứng của bà Betty Depelsenaire, chúng ta được biết vào tháng tư năm 1943 trong xà lim tử hình Moabit ở Berlin có Jeanne Grossvogel, Kaethe Voelkner, Suzanne Cointe, Rita Arnould, và Flore Velaerts. Các chị chờ thi hành án một cách rất dũng cảm khiến cho những cai ngục cũng phải khâm phục... Trước ngày bị hành hình, Suzanne Cointe còn hát, và Flore còn khiêu vũ. Khi bị đưa ra pháp trường, Rita Arnould xin lỗi Flore vì Rita đã khai ra Springer là chồng của Flore và được tha thứ. Còn Kaethe khi nghe toà án phát xít tuyên bố án mình tử hình đã giơ quả đấm và thét lên bọn hội đồng xét xử: “Tao sung sướng đã đóng góp cho chủ nghĩa cộng sản một số công tác”. Nàng đã cùng Suzanne, Flore và Rita hi sinh trước nòng súng của quân thù.

Tên Manfred Roeder là tên công tố tham gia tất cả các phiên tòa xử DNĐ. Y có biệt hiệu là “mật thám của Hitler” vì bản chất độc ác. Ngày nay nó đang làm phó thị trưởng một thị trấn nhỏ tại Tây Đức. Ngày 16-9-1948 y tuyên bố trước viên dự thẩm phụ trách vụ án của y (vụ này kết thúc bằng miễn tố!): “Tôi biết rằng số lượng tổng cộng những người của DNĐ bị tuyên án chỉ từ hai chục đến hai mươi lăm người, trong đó có một phần ba bị tử hình... Đầu tháng tư 1945 tôi đã đề xuất lên Goering ân xá cho các phụ nữ bị kết án tử hình và Goering đã đồng ý.”

Roeder còn tuyên bố thêm rằng ở Berlin trong số 74 người bị cáo có 47 người bị hành hình. Nhưng kết quả kiểm tra của Leopold thấy khác.

80 chiến sĩ bị bắt tại Pháp và Bỉ, 32 người bị kết án tử hình, 45 người bị đưa vào trại tập trung trong đó 13 người không bao giờ được trở về. Ở Đức, trong tổng số 130 người bị bắt thì 49 người bị xử bắn, 5 người chết do bị tra tấn và 3 người tự tử.

Đó, sự thật là như thế và cũng chưa phải đã hết... Số phận của Marguerite Marivet, nữ thư kí Simex tại Marseilles, Modeste Ehrlich, Schreiber, Joseph Katz, Harry Robinson, hai người em gái và người anh rể của Germaine Schneider ra sao?

Biết bao nhiêu người trong trắng đã bị bắt bớ vì hoạt động trong DNĐ? Nhiều gia đình bị bắt toàn bộ như gia đình Drailly, Grossvogel, Schneider, Corbin. Leopold đã tìm thấy trong tàng thư của cảnh sát Đức sau vụ Atrebates, thực tế họ không tham gia DNĐ nhưng vẫn bị bắt như Marcel Vranckx, Louis Bourgain, Reginald Goldmaer, Emile Carlos, Boulangier.

Theo lệnh của Berlin, các hồ sơ về DNĐ tại lâu đài Gamburg đều bị đốt cháy vào mùa xuân 1945. Sau chiến tranh chỉ còn sót lại một bản của Muller đề từ tháng 12-1942 và những tài liệu của Cục phản gián quân sự.

Đại úy Piepe là kẻ đã phát hiện ra điện đài của DNĐ ở phố Atrebates sau này kể rằng Cục phản gián quân sự từ mùa hè 1942 bị gạt ra khỏi vụ án DNĐ.

ĐĐN thỉnh thoảng thông báo cho đơn vị đó một số tình hình đã bị cắt xén hoặc không toàn diện.

Sau chiến tranh bọn ĐĐN tìm cách trốn tránh tội lỗi đã thêu dệt nhiều chuyện rất lố lăng: nếu tin vào chúng thì kết quả chúng thu được đều do thành viên kể cả thủ trưởng DNĐ thú nhận, hợp tác mà có. Còn tra tấn ư? Chúng không hề nghe thấy, trông thấy hoặc thực hiện, chúng chỉ là những chiến sĩ, những hiệp sĩ dũng cảm chỉ dùng biện pháp trung thực mà thôi. Than ôi, để xâm phạm chân lí một cách đểu cáng nhất, để che đậy những tội ác trời chu đất diệt của chúng, chúng đã bịa ra những đồng minh, đồng phạm tưởng tượng. Dối trá không thể vĩnh cữu và chân lí bao giờ cũng sáng tỏ...

Ở Pháp, Bỉ và Đức, đối với hàng chục chiến sĩ của Dàn Nhạc Đó cái chết chỉ là nấc thang cuối cùng của chiếc thang to lớn đau khổ rắc trên mỗi bậc thang. Họ chết để tiêu diệt họa phát xít, trong tình trạng đau khổ nhất, họ mang trong lòng niềm hi vọng sắt đá rằng một ngày kia, thế giới đã thay đỗi sẽ chứng minh cho họ và sẽ nhớ đến họ. Ngày mai là hôm nay. Thế giới vận động không ngừng, và sự im lặng ngày càng dầy lên. Những tên chỉ huy Đội đặc nhiệm chuyên án Dàn Nhạc Đỏ ở Berlin hoặc ở Paris có bao nhiêu lí do để xóa sạch thống kê tội lỗi của chúng. Tên của chúng viết trên các thống kê đó. Như tên tư lệnh SS Reiser cầm đầu ĐĐN Paris từ tháng 11 năm 1942 đến tháng bẩy năm 1943. Tay đặt trên ngực trái, hắn tuyên bố: “Tại cơ quan của tôi, không bao giờ dùng đến tra tấn”. Hắn tưởng lương tâm hắn yên tĩnh, tên Reiser. Biết bao nhiêu lần bàn tay của hắn đã kí lệnh cho bọn nhân viên hỏi cung tăng cường tra hỏi những người tù mặc dù tay của Reiser không đánh tù nhân? Ai đã ba lần trong một tháng ra lệnh tra tấn Corbin Alfred? Ai đã ra lệnh hành hạ vợ chồng đồng chí Sokol đến chết? Cơ quan của Reiser không tra tấn... vì thiếu dụng cụ chăng? Chính tên Reiser đã xin Berlin những dụng cụ tối tân cùng nhân viên hỏi cung mạnh đến tăng cường cho cơ quan của hắn.

Heinrich Reiser chỉ là một điển hình. Trong ĐĐN từ ở Berlin đến ở Paris thiếu gì những điển hình như thế, chúng đã được những ông chủ mới che dấu, bao che bằng lá bài hòa giải.

Chúng là những tên nào, khiến chúng ta phải không ngừng đấu tranh? Chắc chắn không phải chúng sinh ra đã có những tính chất man rợ đó, cũng chẳng phải vừa lọt lòng mẹ chúng đã biết hô “Heil Hitler!”.

Ta thấy trong Gestapo số đồ tể không phải đều là những tên phát xít kì cựu, vì nhiều đứa đã từng tham gia phong trào nước cộng hòa Weimar. Heinrich Muller, mà người ta thường gọi là tên Gestapo Muller thuộc vào loại mẫu gốc. Đến năm 1939 hắn mới vào đảng quốc xã, nhưng trước đó hắn đã mang nặng tư tưởng phát xít. Óc đầy tư tưởng chống cộng sản đã biến tên thuộc cánh hữu, ngoan đạo đó trở thành một sản vật tiềm tàng của Gestapo. Dưới thời nước cộng hòa Weimar, nó đã tỏ ra có khiếu làm cớm. Đối với hắn, trời phú cho hắn khiếu làm cớm. Mới 19 tuổi, hắn bước vào đời với chân nhân viên cảnh sát Munich. Mười năm sau, tức là năm 1929, hắn trở thành đội viên chống phong trào cộng sản trong Đội 4 của cảnh sát Munich. Khi bọn quốc xã lên, hắn xin theo Heydrich và được chọn làm phụ tá cho tên này. Năm 1936, Muller được đề bạt làm trùm Gestapo. Sau đó y tham gia đảng quốc xã và năm 1941 được thăng hàm tướng cảnh sát và SS. Trên cương vị thủ trưởng Gestapo, khi đã lên đến tột đỉnh của công danh, y chủ trương kế hoạch Trò Cao Thủ.

Hai phụ tá của Muller là Panzinger, giám đốc Ban 4A cơ quan an ninh quốc gia, và Kopkov, thủ trưởng ban chống cộng sản. Hai tên phó này cầm đầu Đội Đặc nhiệm chống Dàn Nhạc Đỏ, lập ra vào tháng tám năm 1942 để tập trung công tác đấu tranh chống Toán Berlin của DNĐ. Ta cần nhớ tên hai người này vì chúng là thủ phạm của các tội ác đối với Toán Berlin của DNĐ. Lý lịch của hai tên này cũng không khác Muller là bao.

Panzinger bắt đầu vào làm Cảnh sát Munich từ năm 1919 khi mới 16 tuổi. Bắt đầu thế chiến, y vào Đảng quốc xã. Đây là giai đoạn vinh thăng của nhũng tên cớm đồ tể như hắn và bè lũ. Thực ra phương thức và phương pháp hoạt động của Gestapo đều là sự nối tiếp của cảnh sát Weimar được phát triển hơn mà thôi.

Những tên đồ tể kể trên chẳng những chúng gây chết chóc cho DNĐ mà chúng còn gây ra biết bao nhiêu tội ác nữa trên những vùng Đức chiếm đóng khác. Như tên Reiser từ mùa hè 1940 đến tháng 11-1942 là trưởng ban đặc biệt chống các hoạt động cộng sản ở Paris. Eric Jung, thành viên của ĐĐN ở Paris, phụ trách những vụ giết người bẩn thỉu.

Karl Giering là tên cớm điêu luyện về thủ đoạn khiêu khích, 25 tuổi tham gia cảnh sát Berlin chuyên trách chống cộng sản ở Liên Xô cũng như trong QTCS và phong trào xã hội chủ nghĩa trong chính nước Đức. Trước kia y điều tra vụ mưu sát Hitler, sau đó y theo lệnh của Heydrich tổ chức vụ li gián cục trưởng cục cán bộ QTCS Piatnitski, rồi vụ li gián nguyên soái Tukhachevski. Khi phát hiện ra vụ Dàn Nhạc Đỏ, Giering đã được trao trọng trách là đứng đầu ĐĐN Paris và Brussels.

HẾT
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách