Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: sunnyhill2011
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Lãng Mạn - Xuất Bản] Nếu Như Được Làm Lại | Marc Levy (Hoàn + Ebook)

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 11-1-2015 21:19:00 | Chỉ xem của tác giả
19.


Chiếc máy bay mà Andrew đã lên hạ cánh xuống sân bay quốc tế Ezeiza vào chập tối. Anh vô cùng kinh ngạc khi thấy Marisa tới đón anh. Anh đã gửi cho cô rất nhiều email, nhưng cô không để lại cho anh bất cứ dấu hiệu của sự sống nào kể từ sau cuộc trao đổi điện thoại gần đây. Trong chuyến đi trước, họ gặp nhau ở khách sạn, sau hôm anh đến.

Andrew nhận ra rằng thời gian càng trôi, anh càng có cảm giác các sự việc dần rời xa trật tự mà nó diễn ra trước kia.

Anh nhận ra chiếc Coccinelle cũ kỹ có phần cuối thùng xe mòn vẹt mà anh tự hỏi mỗi lần bị xóc nảy liệu cái ghế anh ngồi rốt cuộc có bật khỏi sàn hay không.

- Tôi cứ tưởng là cô cậu đang đi nghỉ vui vẻ với món tiền mà tôi đã gửi rồi chứ, hai người đã hứa sẽ báo cho tôi khi có tin gì mới cơ mà.

- Mọi chuyện phức tạp hơn dự tính, Antonio đang nằm viện.

- Chuyện gì xảy đến với cậu ấy vậy? Andrew hỏi.

- Chúng tôi bị tai nạn ô tô trên đường quay về.

- Có nặng lắm không?

- Cũng đủ để bạn trai tôi giờ đang phải bó bột một tay, sáu chiếc xương sườn bị rạn và chấn thương sọ não. Suýt nữa thì cả hai chúng tôi phải ở lại đó.

- Cậu ấy đi sai à?

- Nếu ta coi trọng chuyện anh ấy không phanh lại ở ngã tư khi gặp đèn đỏ thì đúng là vậy, nhưng vì phanh không ăn nên tôi cho rằng anh ấy không có lỗi.

- Và chiếc xe của cậu ấy cũng được bảo dưỡng tốt như xe của cô chứ?

Andrew lên tiếng hỏi trong lúc không tài nào kéo đai an toàn xuống được.

- Antonio bị ám ảnh với chiếc xe của anh ấy, thi thoảng tôi còn tự hỏi liệu có phải anh ấy yêu xe hơn tôi hay không. Anh ấy không bao giờ lên đường mà không kiểm tra tất cả mọi thứ. Có kẻ đã cố tình phá hỏng phanh xe.

- Cô nghi ngờ ai không?

- Chúng tôi đã tìm được địa chỉ của Ortiz, chúng tôi đã theo dõi ông ta và chụp ảnh. Chúng tôi đã đặt vài câu hỏi về ông ta, có thể đã hơi quá, bạn bè của ông ta đâu phải là những kẻ ngây thơ.

- Chuyện này cũng không khiến việc của tôi được êm đẹp, giờ thì phải thật cẩn thận thôi.

- Antonio đang ở trong tình trạng rất tồi tệ, thế mà anh chỉ nghĩ đến cuộc điều tra của mình. Sự ân cần của anh khiến tôi xúc động dạt dào đó, anh Stilman à.

- Tôi thật thiếu tế nhị, nhưng tôi rất lấy làm tiếc về vụ chồng chưa cưới của cô, anh ấy sẽ qua khỏi thôi, cô cứ an tâm. Đúng, tôi đang lo cho bài báo của mình. Tôi không đến đây để hát hợp xướng. Tai nạn xảy ra khi nào?

- Cách đây ba ngày.

- Sao cô không báo cho tôi biết?

- Bởi Antonio chỉ mới hồi tỉnh vào tối qua và anh là mối bận tâm sau chót của tôi.

- Cô còn giữ số ảnh kia chứ?

- Hộp đựng bị hư hại nặng, chiếc xe đã bị lộn nhiều vòng. Chúng tôi sử dụng một chiếc máy ảnh cũ để không bị chú ý như với một chiếc quá đắt tiền. Phim chụp có thể đã bị cháy, tôi không biết chúng ta có thể in ra được không nữa. Tôi đã gửi chúng ở nhà một anh bạn làm nhiếp ảnh, chúng ta sẽ đến chỗ anh ấy vào ngày mai.

- Mai cô đi một mình nhé, tôi sẽ lên đường đến Córdoba.

- Chắc chắn anh sẽ không làm một điều ngu ngốc đến vậy, anh Stilman. Với tất cả lòng kính trọng mà tôi dành cho anh, nếu việc Antonio và tôi đang ở đây rốt cuộc lại bị lộ thì tôi tin là chỉ trong vòng chưa đầy nửa ngày, người của Ortiz sẽ tóm cổ anh ngay. Và anh cũng chẳng cần đi cả chặng đường bao nhiêu cây số đó đâu. Tuần nào ông ta cũng đến Buenos Aires để gặp khách hàng lớn nhất của mình.

- Bao giờ cuộc gặp tiếp theo diễn ra?

- Thứ Ba tới, nếu ông ta vẫn còn duy trì thói quen đó. Chúng tôi đã biết được điều đó nhờ hỏi han hàng xóm xung quanh, và có thể chính vì thế mà chúng tôi đã gặp tai nạn.

- Tôi rất lấy làm tiếc, Marisa, tôi không nghĩ là cô cậu lại gặp nhiều rủi ro, nếu biết trước thế..., anh nói vẻ rất chân thành.

Andrew không hề nhớ gì về vụ tai nạn này, chẳng còn gì xảy ra giống như trước kia nữa. Trong chuyến đi trước đây, chính anh đã chụp ảnh Ortega và rồi chiếc máy ảnh đã bị giật mất trên một con phố nhỏ ở ngoại ô Buenos Aires trong khi ba gã đàn ông túm chặt lấy anh.

- Anh thực sự nghĩ rằng một gã đàn ông đã mất bao công sức để thay đổi nhân thân nhằm tránh cảnh tù đày lại để bị vạch mặt mà không phản kháng ư? Anh đang ở thời đại nào thế? Marisa tiếp tục.

- Cô hẳn sẽ ngạc nhiên nếu như tôi miêu tả thời đại ấy cho cô, Andrew đáp.

Marisa đỗ xe trước khách sạn Quintana tọa lạc trong một khu phố bình dị ở Recoleta.

- Trước tiên hãy đi thăm bạn cô đã, tôi cất hành lý sau.

- Antonio cần được nghỉ ngơi và giờ thăm bệnh nhân cũng hết rồi. Cảm ơn anh đã quan tâm, mai chúng ta sẽ đến. Anh ấy đang được chăm sóc tích cực ở bệnh viện General de Agudos, rất gần đây thôi. Tôi sẽ đến đón anh lúc 9 giờ nhé.

- Tối nay cô không làm ở quán bar à?

- Không, tối nay thì không.

Andrew chào Marisa, lấy va li của anh đặt ở băng ghế sau rồi tiến thẳng về phía cổng vào khách sạn.

Một chiếc xe hòm nhỏ màu trắng lao tới dưới cổng vào. Ngồi ở hàng ghế trước, một gã đàn ông đưa ống kính ngắm Andrew rồi chụp lia lịa. Cửa xe sau hé mở để một gã khác xuống lặng lẽ bước vào tiền sảnh khách sạn. Chiếc xe tải nhỏ khởi động lại rồi tiếp tục cuộc theo dõi. Gã tài xế chiếc xe này không rời Marisa nửa bước kể từ khi Antonio và cô rời khỏi Córdoba.

Andrew mỉm cười khi cô lễ tân đưa chìa khóa phòng 712 cho anh. Đó cũng là cô lễ tân đã phục vụ anh ở cuộc đời trước.

- Cô có thể bảo bộ phận bảo trì thay pin điều khiển vô tuyến được không? Anh lên tiếng hỏi.

- Bộ phận bảo trì của chúng tôi vẫn kiểm tra chúng hàng ngày, cô nhân viên đáp.

- Ờ thì, cô cứ tin tôi đi, người phụ trách việc này không làm tốt cho lắm công việc được giao.

- Làm sao anh biết điều đó trong khi anh còn chưa lên phòng?

- Tôi có tài tiên tri mà! Andrew vừa nói vừa mở to mắt.

Phòng 712 giống y hệt như trong trí nhớ anh vẫn lưu giữ. Cửa sổ đóng kín, bản lề cửa tủ treo áo kêu kẽo kẹt, vòi hoa sen bị rỉ nước còn tủ lạnh ở quầy bar mini kêu ro ro như tiếng mèo hen.

- Bộ phận bảo trì, đúng là nói dóc, Andrew vừa ném hành lý lên giường vừa làu bàu.

Anh chưa hề ăn gì kể từ khi rời New York, khẩu phần ăn trên máy bay có vẻ quá tệ để anh có thể mạo hiểm nếm thử nên giờ anh đang đói ngấu. Anh nhớ là mình đã ăn tối, trong chuyến đi trước, tại một parrilla [1] nằm ngay đối diện nghĩa trang Recoleta. Khi đóng cửa phòng lại, anh thích thú với ý nghĩ được thưởng thức lại món thịt nướng ấy lần thứ hai.

[1] Một kiểu quán đồ nướng.

Khi Andrew rời khách sạn, gã đàn ông đang ngồi trong sảnh cũng liền rời khỏi ghế bành rồi theo anh bén gót. Hắn ngồi xuống một băng ghế nhỏ đối diện với nhà hàng.

Trong lúc Andrew ăn uống no say thì một nhân viên bộ phận bảo trì của khách sạn Quintana đã nhận một khoản tiền típ hậu hĩnh để đi kiểm tra hành lý của khách ở phòng số 712. Anh ta thực thi nhiệm vụ vô cùng tỉ mẩn, mở chiếc két sắt nhỏ đặt trong phòng bằng mã số của bộ phận bảo trì, chụp ảnh tất cả các trang trong sổ địa chỉ của Andrew, hộ chiếu cũng như trong sổ ghi chép của anh.

Khi đã xong xuôi mọi thứ, anh ta kiểm tra xem điều khiển vô tuyến có hoạt động hay không rồi thay pin và đi ra. Anh ta nhận khoản tiền hậu hĩnh còn lại trước lối vào bộ phận trực ban khách sạn rồi trả lại chiếc máy ảnh kỹ thuật số mà người kia đã đưa cho anh ta.

*


Ăn uống no nê, Andrew ngủ say như chết, không bị cơn ác mộng nào đến phá quấy giấc ngủ của anh nữa và anh tươi tỉnh thức dậy ngay từ rạng sáng.

*


Sau khi ăn sáng trong nhà hàng khách sạn, anh ra cổng đợi Marisa.

- Chúng ta không đi thăm Antonio nữa, cô nói ngay sau khi Andrew trèo lên ngồi trong chiếc Coccinelle.

- Đêm qua tình trạng cậu ấy xấu đi à?

- Không, đúng ra thì sáng nay anh ấy đã ổn hơn nhiều rồi, nhưng dì tôi vừa nhận được một cuộc gọi rất khó chịu vào giữa đêm qua.

- Sao thế?

- Một gã đàn ông không xưng danh nói rằng bà nên cẩn thận dè chừng những kẻ mà cháu gái bà đang giao du nếu như muốn tránh gặp rắc rối nghiêm trọng.

- Có thể nói đám bạn bè của Ortiz đã không bỏ phí thời giờ nhỉ.

- Điều làm tôi thật sự lo lắng chính là bọn chúng biết anh đang ở đây và chúng ta có quen biết nhau.

- Thế các mối giao du không mấy hay ho đó, chỉ có thể là tôi thôi sao?

- Tôi hy vọng là anh đang không nghiêm túc chứ?

- Cô xinh lắm, hẳn phải có cả đống đàn ông vây quanh cô.

- Anh bỏ mấy cái kiểu suy nghĩ đó đi, tôi rất yêu chồng chưa cưới.

- Không hề có ẩn ý nào trong lời khen ngợi ấy đâu, Andrew trấn an. Cô có biết cửa phụ bệnh viện nằm trên phố nào không?

- Dùng mưu mẹo cũng chẳng ích chi đâu, người của Ortiz có thể đã cài cắm được người trực sẵn trong bệnh viện. Tôi không muốn Antonio gặp bất cứ nguy cơ nào, anh ấy đã chịu đủ rồi.

- Thế chương trình tiếp theo là gì?

- Tôi sẽ đưa anh đến nhà dì tôi, bà ấy biết nhiều hơn tôi và nhiều người dân trong thành phố này. Đó là một trong những Bà mẹ trên quảng trường tháng Năm đầu tiên. Và chúng ta hãy rõ ràng với nhau ở một điểm, anh không trả tiền cho tôi để làm hướng dẫn viên du lịch cho anh!

- Tôi thực sự không gọi đây là du lịch, nhưng tôi sẽ nhớ nhận xét của cô... và tính cách tuyệt vời của cô.

*


Louisa sống trong một ngôi nhà nhỏ ở khu phố Monte Chingolo. Để vào được tận trong nhà bà phải qua một khoảnh sân rợp bóng phượng tím, có mấy bức tường giăng kín cây lạc tiên.

Louisa lẽ ra có thể là một người bà rất đẹp lão nhưng chế độ độc tài một ngày nọ đã cướp mất khỏi bà quyền có những đứa cháu.

Marisa dẫn Andrew vào tận phòng khách.

- Ra đây chính là anh chàng phóng viên người Mỹ đang điều tra về quá khứ của chúng ta à, vừa nói Louisa vừa đứng dậy khỏi ghế bành nơi bà đang chơi trò giải ô chữ. Tôi đã nghĩ cậu bảnh trai hơn đấy.

Marisa mỉm cười trong khi dì cô ra hiệu cho Andrew ngồi vào bàn. Bà đi vào bếp rồi trở ra với một đĩa đầy bánh ga tô nướng trên tay.

- Sao cậu lại quan tâm đến Ortiz? Vừa rót cho anh một ly nước chanh bà vừa hỏi.

- Tổng biên tập của tôi thấy hành trình của ông ta thật thú vị.

- Sếp của anh quả là có mối quan tâm lạ lùng thật.

- Như là hiểu được điều gì đã đưa một con người bình thường trở thành tên đao phủ, Andrew đáp lời.

- Cô ta lẽ ra nên đến đây thay anh chứ. Tôi sẽ chỉ cho cô ta thấy hàng trăm quân nhân đã biến thành quỷ sứ như thế nào. Ortiz không phải là một tay tầm thường, nhưng cũng chẳng phải là kẻ tệ nhất trong số chúng. Đó là một sĩ quan phi công thuộc đội tuần tra bờ biển, một nhân vật phụ. Chúng tôi chưa bao giờ có được bằng chứng chính thức về việc hắn có tham gia hoạt động tra tấn. Đừng nghĩ là tôi tìm cách biện minh cho hắn, hắn đã phạm những tội ác kinh khủng và lẽ ra hắn, cũng như bao kẻ khác, phải chết rục xương trong tù vì tội ác của mình. Nhưng như bao kẻ khác, hắn đã thoát tội, ít ra là cho đến thời điểm hiện tại. Nếu cậu giúp chúng tôi chứng minh được rằng Ortiz đã trở thành thương nhân mang tên Ortega, chúng tôi sẽ có thể đưa hắn ra công lý. Ít nhất là chúng tôi sẽ thử làm thế.

- Bà biết gì về hắn?

- Về Ortega thì hiện tại chẳng có gì nhiều nhặn. Còn về Ortiz thì chỉ cần đưa cho cậu các hồ sơ lưu về ESMA là đủ rồi.

- Sao hắn có thể thoát khỏi công lý?

- Cậu đang nói về công lý nào vậy cậu nhà báo? Cái thứ công lý đã ân xá lũ chó rừng này ư? Cái thứ công lý đã cho chúng thời gian để tạo nhân thân mới ư? Sau khi chế độ dân chủ được lập lại vào năm 1983, chúng tôi, các gia đình nạn nhân, cứ tưởng rằng những kẻ phạm tội đó sẽ bị xét xử. Khi đó chúng tôi chưa tính đến sự nhu nhược của tổng thống Alfonsin và sức mạnh của quân đội. Chế độ quân sự đã có đủ thời gian để xóa bỏ mọi dấu vết, thanh trừng đám quân nhân trót dính máu, giấu kín các dụng cụ tra tấn trong lúc chờ thời cơ thích hợp, chẳng gì đảm bảo thời kỳ này sẽ không tái diễn vào một ngày nào đó. Chế độ dân chủ rất mong manh. Nếu cậu nghĩ sẽ tránh được điều tồi tệ nhất bởi vì câu là người Mỹ thì cậu đã nhầm hệt như chúng tôi từng nhầm. Vào năm 1987, Bareiro và Rico, hai sĩ quan cấp cao, đã kích động phe quân sự nổi lên và đã bịt mồm thành công hệ thống tư pháp của chúng tôi. Hai đạo luật đáng xấu hổ đã được thông qua, một đạo luật về nghĩa vụ tuân lệnh đã thiết lập các mức độ trách nhiệm tùy theo cấp bậc trong quân đội và đạo luật thứ hai còn ô nhục hơn gọi là “Chấm hết” đã bãi bỏ tất cả các tội ác chưa được đưa ra xét xử. Tay Ortiz đó, cũng như hàng trăm đồng phạm của hắn, tự thấy đã được tặng giấy thông hành cho phép chúng thoát mọi cuộc truy đuổi. Phần lớn những kẻ tra tấn đã được hưởng điều đó, và rất nhiều kẻ khác đang bị giam đều đã được phóng thích. Phải mười lăm năm sau, hai đạo luật đó mới được bãi bỏ. Nhưng, trong vòng mười lăm năm đó, cậu có thể hình dung rõ ràng lũ bất lương ấy thừa thời gian để ẩn mình.

- Sao nhân dân Argentina lại có thể để một chuyện như vậy xảy ra cơ chứ?

- Thật hài hước khi cậu hỏi tôi câu này với thái độ cao ngạo đến vậy. Thế còn người Mỹ các cậu, các cậu có đưa ra tòa tổng thống Bush, phó tổng thống Dick Cheney hay bộ trưởng Bộ Quốc phòng vì đã cho phép tra tấn trong các phiên thẩm vấn tại các nhà tù Irắc, họ đã biện minh cho hành động đó nhân danh Nhà nước hoặc vì đã lập ra nhà tù Guantánamo không? Các người đã đóng cửa cái nhà tù thách thức hàng loạt thỏa thuận trong Hiệp ước Genève suốt hơn một thập kỷ qua chưa? Cậu cũng thấy nền dân chủ mong manh cỡ nào rồi đấy. Vậy nên đừng có phán xét chúng tôi. Chúng tôi đã làm những gì mình có thể, đối mặt với một đội quân quyền lực thao túng bộ máy Nhà nước nhằm thu lợi cho mình. Đa phần chúng tôi bằng lòng làm thế để sao cho con cháu chúng tôi được đến trường, để chúng tôi có cái bỏ vào đĩa cho chúng ăn và một mái nhà che đầu cho chúng; riêng điều đó thôi đã đòi hỏi rất nhiều nỗ lực và hy sinh đối với tầng lớp dân nghèo trong xã hội Argentina rồi.

- Tôi không phán xét mọi người, Andrew trấn an.

- Cậu không phải là người chấp pháp, cậu nhà báo à, nhưng cậu có thể góp phần giúp công lý thực thi. Nếu cậu vạch mặt được kẻ ẩn mình sau cái tên Ortega, nếu đó đúng là Ortiz, thì hắn sẽ chịu số phận mà hắn đáng phải nhận. Thế nên tôi rất sẵn lòng giúp cậu.

Louisa đứng dậy khỏi chiếc ghế để lại chỗ chiếc tủ buýp phê án ngữ trong phòng khách. Bà lôi một tập tài liệu ra rồi đặt xuống bàn. Bà nhấm ướt đầu ngón tay lật giở từng trang rồi dừng lại quay ngược cuốn sổ lại để cho Andrew xem.

- Đây là Ortiz mà cậu muốn tìm, bà nói, vào năm 1977. Khi đó hắn tầm bốn mươi, đã quá già nên chỉ được lái những chiếc máy bay của đội tuần tra bờ biển. Một sĩ quan có sự nghiệp chẳng mấy lẫy lừng. Theo báo cáo điều tra mà tôi đã tìm thấy trong hồ sơ lưu trữ của Ủy ban quốc gia về người mất tích, có lẽ hắn đã nhận lệnh thực hiện rất nhiều chuyến bay tử thần. Từ chiếc máy bay hắn lái, rất nhiều nam giới và phụ nữ trẻ tuổi, đôi khi là những cô bé cậu bé vừa bước vào tuổi trưởng thành, đã bị ném sống xuống những nhánh sông Rio de La Plata.

Andrew không thể kìm cái bĩu môi kinh tởm khi nhìn bức ảnh chụp tay sĩ quan toát ra vẻ đầy ngạo nghễ.

- Hắn không trực thuộc Massera, kẻ đầu trùm ESMA. Có thể chính điều này đã giúp hắn lọt lưới trong ít năm khi mà hắn có nguy cơ bị túm. Ortiz tuân theo lệnh của Héctor Febres, đội trưởng đội tuần tra bờ biển. Nhưng Febres cũng là chỉ huy bộ phận tình báo ESMA, hắn phụ trách khu 4 gồm nhiều phòng tra tấn và nhà hộ sinh. Nhà hộ sinh là một từ to tát để miêu tả phần diện tích vài mét vuông nơi các nữ tù nhân đến sinh con không khác nào loài vật. Còn tồi tệ hơn cả loài vật: chúng trùm lên đầu họ một cái bao tải đay. Febres buộc những phụ nữ vừa sinh con này thảo mộtbức thư đề nghị gia đình họ gánh lấy trách nhiệm chăm lo cho đứa trẻ trong lúc họ bị giam cầm. Cậu biết điều gì xảy ra tiếp theo rồi đấy. Cậu Stilman, giờ thì hãy nghe cho rõ này, bởi nếu cậu thật sự muốn tôi giúp, chúng ta phải có một thỏa thuận, giữa tôi và cậu.

Andrew rót đầy nước chanh vào cốc của Louisa. Bà uống liền một hơi rồi đặt cốc xuống bàn.

- Nhiều khả năng là nhờ tận tâm phục vụ, Ortiz đã được Febres ưu ái. Cậu nghe kỹ đoạn này nhé, chúng đã trao lại cho hắn một trong những đứa trẻ đó.

- Nhiều khả năng hay là bà biết chắc chắn như thế?

- Không quan trọng, bởi đó chính là chủ đề thỏa thuận giữa chúng ta. Tiết lộ sự thật cho một trong những đứa trẻ bị đánh cắp đó đòi hỏi phải vô cùng thận trọng, điều mà chúng tôi, các Bà mẹ trên quảng trường tháng Năm, hết sức quan tâm. Đến tuổi trưởng thành mới biết được cha mẹ mình không phải là cha mẹ đẻ và thêm vào đó, họ lại dính líu ít nhiều đến việc đấng sinh thành ra mình mất tích không phải là không gây ra hậu quả. Đó là một quá trình khó khăn có thể gây tổn thương tâm lý. Chúng tôi đấu tranh để sự thật được sáng tỏ, để trả lại nhân thân thật sự cho các nạn nhân của chế độ độc tài, nhưng không phải để phá hỏng cuộc đời của những người vô tội. Tôi sẽ nói với cậu tất cả những gì tôi biết và tất cả những gì tôi có thể biết về Ortiz, và cậu, tất cả những gì mà cậu có thể biết về những đứa trẻ đó là nhờ tôi, chỉ duy nhất mình tôi nói điều đó cho cậu biết. Cậu phải thề danh dự là sẽ không đăng bất cứ thứ gì về chuyện này mà không được tôi cho phép.

- Tôi không hiểu ý bà, Louisa, làm gì có chuyện sự thật nửa vời.

- Quả nhiên là không, nhưng có những sự thật phải chờ đến thời cơ thích hợp thì mới được tiết lộ. Hãy hình dung cậu là đứa trẻ được gã Ortiz này “nhận nuôi”, liệu cậu có muốn được thông báo một cách đường đột rằng bố mẹ đẻ của mình đã bị sát hại, rằng cuộc đời cậu chỉ toàn dối trá, và cả nhân thân của cậu cũng là dối trá, đến cả cái họ cũng vậy? Cậu có muốn mình khám phá ra tất cả điều đó thông qua một tờ báo hay không? Cậu có nghĩ đến những hậu quả mà một bài báo có thể gây ra cho cuộc sống của những người có liên quan hay không?

Andrew có cảm giác khó chịu khi thấy hình bóng Capetta lảng vảng đâu đó trong căn phòng.

- Cậu chỉ trích chúng tôi vào thời điểm này cũng vô ích thôi, bởi chẳng có gì chứng minh được là Ortiz đã nhận nuôi một trong số những đứa bé bị đánh cắp đó. Nhưng nhỡ đâu đấy, tôi muốn cảnh báo cậu trước để chúng ta, cậu với tôi, cùng thống nhất với nhau rõ ràng từ trước.

- Tôi hứa với bà là sẽ không đăng bất cứ thứ gì khi chưa xin phép bà, ngay cả khi tôi ngờ là bà không kể hết tất cả cho tôi nghe...

- Chúng ta sẽ xem xét phần sau vào thời điểm thích hợp. Trong khi chờ đợi, cậu hãy bảo trọng. Febres là một trong những kẻ tàn ác nhất. Hắn đã chọn “Rừng rậm” làm tên cuộc chiến, bởi hắn từng luôn huênh hoang rằng hắn mạnh mẽ hơn tất thảy lũ thú săn kia hợp lại. Lời chứng của một số nạn nhân hiếm hoi sống sót qua tay hắn thật kinh khủng.

- Febres vẫn còn sống à?

- Than ôi không.

- Sao bà lại than ôi?

- Sau khi được hưởng ân xá, hắn đã sống phần lớn quãng đời còn lại trong tự do. Rốt cuộc, chỉ đến năm 2007, hắn mới bị đưa ra xét xử, và còn nữa, chỉ vì bốn trong số bốn trăm tội ác mà hắn đã thực hiện. Tất cả chúng tôi đều chờ đợi bản án dành cho hắn. Bản án dành cho kẻ đã xích một đứa trẻ mười lăm tháng vào ngực cha nó rồi kích điện để buộc kẻ bị kết án tử hình khai nhận. Vài ngày trước khi tuyên án, trong khi đang được hưởng chế độ ưu đãi ở tù, nơi hắn được sống trong những điều kiện đáng mơ ước, người ta đã tìm thấy hắn chết trong buồng giam. Bị đầu độc bằng cyanua. Phe quân sự quá lo sợ hắn sẽ khai ra, và công lý đã không được thực thi. Với gia đình các nạn nhân, điều đó như thể cuộc tra tấn chưa bao giờ ngừng.

Louisa khạc nhổ xuống đất sau khi nói đến đó.

- Chỉ có điều là Febres đã mang xuống mồ tất cả những gì hắn biết về danh tính của năm trăm trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bị tước đoạt. Cái chết của hắn khiến nhiệm vụ của chúng tôi trở nên khó khăn, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục công việc điều tra của mình không ngơi nghỉ với đầy hy vọng. Tất cả những điều đó để nói với cậu rằng hãy cẩn trọng. Phần lớn người của Febres vẫn còn sống và đang được tự do, và chúng sẵn lòng tìm mọi cách làm nhụt chí những ai quan tâm đến chúng. Ortiz là một kẻ trong số chúng.

- Làm thế nào để chứng minh được rằng Ortiz nấp sau cái tên Ortega?

- Sự tương đồng về mặt hình ảnh lúc nào cũng rất hữu ích, chúng tôi đã xem kỹ những gì còn lại trong phim chụp của Marisa, nhưng còn khoảng cách hơn ba mươi năm ngăn cách giữa tên thiếu tá không quân tự phụ hiện diện trong album ảnh của tôi và gã thương nhân bảy mươi tư tuổi ngày hôm nay. Và rồi, chỉ giống nhau thôi thì chưa đủ để kiện ra tòa. Cách tốt nhất để đạt được mục đích của chúng tôi, dù rằng điều này với tôi dường như là bất khả, chính là khiến hắn hoảng loạn rồi tự thú. Bằng cách nào? Cái này thì tôi không biết.

- Nếu tôi điều tra quá khứ của Ortega, chúng ta sẽ thấy rõ liệu hành trình của hắn có khớp hay không.

- Cậu thật ngây thơ đến ngờ ngệch! Cứ cho là Ortiz đã thay đổi nhân thân đi, thì chuyện này không thể thực hiện được nếu không có người tiếp tay. Cuộc đời hắn dưới cái tên Ortega sẽ được sắp xếp đâu vào đấy, từ những trường lớp hắn đã học, rồi đến bằng cấp, việc làm, bao gồm cả những chức vụ giả tạo trong quân ngũ. Marisa, dì nhờ cháu một việc, vào bếp giúp dì nhé, vừa đứng dậy Louisa vừa ra lệnh.

Còn lại một mình trong phòng khách, Andrew lật giở từng trang trong album ảnh. Mỗi trang dán một bức ảnh chụp một quân nhân, cấp bậc, đơn vị hắn tham gia, danh sách các tội ác mà hắn từng thực hiện, và với một vài kẻ trong số chúng là kèm thêm danh tính của đứa trẻ hắn được giao. Ở cuối album, một tập vở thống kê năm trăm đứa trẻ có bố mẹ đẻ đã bị mất tích vĩnh viễn. Chỉ năm mươi đứa trong số chúng có kèm dòng chữ “đã xác định”.

Một lát sau, Louisa và Marisa trở lại, Marisa giúp Andrew hiểu rằng dì cô đang mệt và đã đến lúc rút lui. Andrew cảm ơn Louisa vì đã đón tiếp và hứa sẽ thông tin cho bà những gì anh phát hiện ra. Quay trở lại xe ô tô, Marisa trở nên câm lặng và cách hành xử của cô để lộ trạng thái căng thẳng.

Tới một ngã tư, khi một chiếc xe tải không chịu nhường đường, cô đã bấm còi inh ỏi rồi tuôn cả tràng chửi rủa mà Andrew, vốn nói rất trôi chảy tiếng Tây Ban Nha, cũng không hoàn toàn hiểu hết nghĩa.

- Tôi đã nói gì khiến cô bực mình à?

- Không cần thiết phải dùng ngôn từ hoa mỹ đến vậy đâu anh Stilman, tôi làm việc ở quán bar và tôi thích người ta nói thẳng với mình hơn.

- Dì cô đã nói gì với cô mà không muốn cho tôi nghe sao?

- Tôi không hiểu anh đang nói gì, Marisa đáp.

- Bà ấy bảo cô theo bà ấy vào bếp không phải để cô giúp bà ấy dọn dẹp mấy ly nước chanh, cô đã để mấy cái ly lại trên bàn rồi cô đi tay không trở lại.

- Dì bảo tôi nên dè chừng anh, rằng anh biết nhiều hơn những gì anh vẫn khẳng định và bởi vì anh còn giấu bà nhiều thứ nên chúng tôi chưa thể tin anh hoàn toàn được. Không phải anh tình cờ gặp tôi ở quầy bar khách sạn đúng không? Tôi khuyên anh đừng nói dối tôi, trừ phi anh muốn quay về bằng taxi và đặt dấu chấm hết cho sự giúp đỡ của tôi.

- Cô nói đúng, tôi biết dì cô là một Bà mẹ trên quảng trường tháng Năm và nhờ cô tôi có thể tiếp cận bà ấy.

- Hóa ra tôi trở thành mồi nhử của anh à. Dễ chịu thật. Sao anh lại tìm ra tôi?

- Tên cô nằm trong tập tài liệu người ta gửi cho tôi, thậm chí có cả nơi làm việc nữa.

- Sao tên tôi lại có trong tập tài liệu đó?

- Tôi cũng chẳng biết gì hơn cô. Cách đây vài tháng, tổng biên tập của tôi nhận được một phong bì chứa các thông tin về Ortiz và về một cặp vợ chồng bị mất tích. Một lá thư buộc tội chính Ortiz đã nhúng tay vào việc họ bị sát hại. Tên của cô cũng có trong đó, cùng thông tin về mối quan hệ họ hàng giữa cô với Louisa, và một dòng chú thích khẳng định cô là người đáng tin cậy. Olivia Stern, tổng biên tập của tôi, rất thích đề tài này, cô ấy đã bảo tôi lần theo Ortiz và thông qua câu chuyện của hắn, phác họa lại những năm tháng đen tối của chế độ độc tài Argentina. Năm tới sẽ kỷ niệm bốn mươi năm thời kỳ đáng buồn đó, báo nào cũng sẽ đề cập đến chuyện này. Olivia muốn đi trước các đối thủ một bước. Tôi nghĩ đây chính là động cơ thúc đẩy sếp tôi.

- Thế ai đã gửi phong bì đó cho tổng biên tập của anh?

- Cô ấy nói với tôi là thư khuyết danh, nhưng những thông tin trong đó đủ quan trọng để chúng tôi coi chúng là nghiêm túc. Và cho đến giờ phút này, tất cả đều xác nhận điều đó. Olivia cũng có nhiều khiếm khuyết và tính nết khó gần, nhưng đó là một người rất lành nghề.

- Hai người có vẻ thân mật nhỉ.

- Không hẳn thế đâu.

- Tôi chưa bao giờ gọi tên riêng của sếp cả.

- Tôi thì có đấy, nhờ ưu thế tuổi tác thôi.

- Cô ấy trẻ hơn anh à?

- Trẻ hơn vài tuổi.

- Một phụ nữ, trẻ hơn anh và là sếp của anh, cái tôi của anh hẳn đã bị tổn thương cả về mặt thể chất lẫn tinh thần rồi nhỉ, Marisa vừa cười vừa nói.

- Cô có thể chở tôi đến chỗ lưu trữ hồ sơ mà dì cô đã nhắc đến không?

- Nếu tôi phải đóng vai tài xế riêng phục vụ cho anh trong những ngày lưu lại đây thì anh cũng nên nghĩ đến chuyện đền bù cho tôi chứ anh Stilman.

- Cô đã nói gì về cái tôi của tôi ấy nhỉ?

Marisa buộc phải dừng xe tại một trạm xăng. Ống xả chiếc Coccinelle của cô phát ra một chùm tia lửa điện; động cơ kêu ầm ĩ và tiếng ồn trở nên inh tai nhức óc.

Trong lúc một thợ máy gắng chữa tạm - Marisa không đủ tiền để thay ống xả mới - Andrew đi ra xa rồi gọi điện về văn phòng.

Olivia đang họp, nhưng trợ lý của cô nài anh kiên nhẫn một chút.

- Có tin gì mới thế? Olivia hỏi, giọng mệt đứt hơi.

- Còn tệ hơn cả lần trước.

- Nghĩa là sao?

- Không có gì, Andrew đáp, anh giận điên lên vì sai lầm mình vừa mắc phải.

- Tôi vừa rời khỏi phòng họp vì anh...

- Tôi cần thêm một khoản.

- Tôi đang nghe anh đây, vừa nói Olivia vừa gõ gõ bút xuống bàn.

- Hai nghìn đô.

- Anh đùa chắc?

- Cần phải tra dầu mỡ vào bản lề nếu như chúng ta muốn cửa mở ra.

- Tôi đồng ý cấp cho anh một nửa chỗ đó và không thêm xu nào cho tới khi anh quay lại.

- Tôi đành nhận khoản này vậy, Andrew liền đáp, anh vốn chẳng mong là nhiều đến vậy.

- Anh không còn gì khác để nói với tôi à?

- Mai tôi sẽ đi Córdoba, tôi có đủ lý do để tin rằng gã đàn ông của chúng ta đang náu mình ở đó.

- Anh đã có bằng chứng chứng tỏ đúng là hắn chưa?

- Tôi rất hy vọng là mình đang đi đúng hướng.

- Gọi lại cho tôi ngay khi anh có tin gì mới, kể cả gọi về nhà tôi, anh có số của tôi chưa?

- Có, tôi đã ghi đâu đó trong sổ tay rồi. Olivia gác máy.

Lúc này Andrew muốn nghe giọng nói của Valérie hơn bao giờ hết, nhưng anh không muốn làm phiền cô ở văn phòng. Anh sẽ gọi cho cô vào buổi tối.

Ô tô đã sẵn sàng chạy lại, người thợ máy bảo đảm rằng xe sửa xong sẽ chạy được hàng nghìn ki lô mét. Anh ta đã trám lại lỗ thủng gần bộ tiêu âm với hệ thống xích mới. Trong khi Marisa lục túi tìm tiền để trả thì Andrew liền đưa cho anh ta 50 đô la. Tay thợ máy cảm ơn anh tới tận hai lần và thậm chí còn mở cửa xe cho anh lên.

- Anh không cần phải làm thế đâu, vừa ngồi vào sau vô lăng Marisa vừa nói.

- Cứ coi như phần đóng góp của tôi cho chuyến đi.

- Phân nửa chỗ tiền đó cũng đủ trả công sửa rồi mà, anh phóng tay quá.

- Cô thấy tôi cần cô giúp đến thế nào rồi đấy, Andrew đáp, nụ cười nở trên môi.

- Anh đang nói về chuyến đi nào đó?

- Đến Córdoba.

- Anh còn cứng đầu cứng cổ hơn cả tôi. Trước khi đánh liều cùng anh vào chuyện điên rồ đó, tôi có một địa chỉ cho anh đây. Gần hơn Córdoba nhiều.

- Chúng ta đang đi đâu thế?

- Tôi cần về nhà thay quần áo, tối nay tôi phải làm việc. Còn anh, anh sẽ bắt taxi, vừa đáp Marisa vừa chìa cho Andrew một mảnh giấy. Đó là quán bar nơi các cựu thành viên phong trào du kích Montonero thường xuyên lui tới. Khi tới đó, hãy tỏ ra khiêm nhường nhé.

- Cô muốn tôi đến đó làm gì?

- Ở cuối phòng, anh sẽ thấy ba người đàn ông đang ngồi chơi bài với nhau. Người thứ tư đã không bao giờ quay lại kể từ ngày đến ESMA. Và mỗi tối, họ lại chơi lại cùng một ván đó, như một nghi thức tinh thần. Hãy lịch sự hỏi họ liệu anh có thể ngồi vào chỗ ghế trống kia không, rồi đề nghị mời họ uống, chỉ một chầu duy nhất thôi, sau đó xoay xở làm sao để anh thua chút đỉnh, vì lịch sự ấy mà. Nếu anh may mắn quá thì họ sẽ đuổi anh đi đó, còn nếu anh chơi quá tệ thì họ cũng sẽ làm như vậy.

- Thế họ chơi cái gì?

- Poker, nhưng có rất nhiều điểm khác biệt mà họ sẽ giải thích cho anh rõ. Khi đã giành được thiện cảm của họ, anh hãy nói chuyện với người đàn ông bị hói và để râu. Ông ấy tên là Alberto, đó là một trong những người hiếm hoi trốn thoát khỏi trại giam. Ông ấy từng rơi vào tay Febres. Như bao người sống sót khác, ông ấy luôn bị day dứt vì mặc cảm tội lỗi và nói về chuyện từng xảy đến với mình là chuyện rất nặng nề với ông ấy.

- Mặc cảm tội lỗi nào?

- Vì vẫn còn sống trong khi phần lớn bạn bè mình đều chết.

- Sao cô biết ông ấy?

- Đó là chú tôi.

- Chồng của bà Louisa à?

- Chồng cũ của dì, họ không nói chuyện với nhau từ lâu lắm rồi.

- Sao vậy?

- Chuyện này chẳng can dự gì tới anh cả.

- Tôi càng biết nhiều thì nguy cơ mắc phải điều ngớ ngẩn càng ít đi, Andrew viện cớ.

- Dì tôi đã dành cả đời để lần theo dấu vết những kẻ tội phạm trước kia, còn chú ấy lại lựa chọn quên đi tất thảy. Tôi thì tôn trọng lựa chọn của họ.

- Thế sao ông ấy sẽ kể cho tôi nghe?

- Bởi có cùng một dòng máu chảy trong huyết quản chúng tôi và hai chúng tôi thì hay khắc khẩu nhau.

- Thế bố mẹ cô đâu, Marisa?

- Đây không phải là câu hỏi hay ho cho lắm, anh Stilman à. Điều tôi luôn tự hỏi mỗi ngày chính là ai là bố mẹ đẻ của mình, những người đã nuôi tôi khôn lớn hay những người mà tôi chưa bao giờ biết mặt?

Marisa đỗ xe dọc vỉa hè. Cô với người sang mở cửa xe cho Andrew.

- Anh sẽ tìm thấy taxi ở bãi đỗ ngay phía trước. Nếu anh không về quá muộn thì có thể gặp tôi ở quầy bar. Tôi sẽ hết ca vào tầm một giờ sáng.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 11-1-2015 21:20:10 | Chỉ xem của tác giả
*


Quán bar giống hệt như những gì Marisa miêu tả. Qua bao năm tháng mà phần trang trí của quán không hề thay đổi. Các lớp sơn chồng chất lên nhau rốt cuộc lại điểm tô cho mấy bức tường một bức tranh tập hợp những đường nét hoa mỹ kỳ cục nhất. Đồ đạc trong quán vỏn vẹn có vài chiếc ghế cùng mấy cái bàn gỗ. Một bức ảnh của Rodolfo Walsh, phóng viên và lãnh đạo huyền thoại của phong trào du kích Montonero, bị phe đảo chính sát hại, được treo ở cuối phòng. Alberto ngồi ở ngay phía dưới bức ảnh. Cái đầu hói cùng khuôn mặt bị chòm râu dày bạc trắng che khuất. Khi Andrew tiến lại gần bàn nơi ông đang ngồi chơi cùng mấy người bạn, Alberto ngẩng đầu lên quan sát anh trong giây lát rồi lại tiếp tục ván bài mà không nói bất cứ lời nào.

Andrew làm đúng theo những gì Marisa đã chỉ dẫn từng li từng tí một. Và một lát sau, người chơi phía bên tay phải Alberto đồng ý cho anh nhập hội. Jorge, người ngồi bên tay trái, chia bài rồi đặt 2 peso, tương đương 50 cent.

Andrew cũng đặt cược theo rồi hỏi cách chơi. Jorge lật ra ba lá bài đồng số, Andrew lẽ ra có thể thắng nhưng nhớ lời khuyên của Marisa, anh liền úp bài xuống. Alberto mỉm cười.

Chia ván mới. Lần này Andrew có trong tay dây đồng chất năm con lớn nhất. Anh lại úp xuống và để Alberto nhét túi khoản tiền 4 peso. Ba vòng tiếp theo đều diễn ra hệt như vậy, và rồi đột nhiên, Alberto ném bài của mình xuống trước khi kết thúc ván bài đồng thời nhìn thẳng vào mắt Andrew.

- Được rồi đấy, ông nói, tôi biết cậu là ai, sao cậu lại ở đây, và cậu chờ đợi điều gì ở tôi. Cậu có thể ngừng việc để mất tiền như thằng đần đi.

Cả hai ông lão đều phá lên cười thân thiện và Alberto trả lại tiền cho Andrew.

- Cậu không nhận thấy là họ ăn gian à? Cậu tưởng là mình may mắn đến thế ư?

- Tôi cũng bắt đầu thấy ngạc nhiên rồi, Andrew đáp.

- Anh chàng bắt đầu rồi đấy! Alberto vừa nhìn hai người bạn vừa thốt lên. Cậu vừa mời chúng tôi một chầu giao hữu, thế là đủ để chúng ta nói chuyện với nhau rồi, ngay cả khi chúng ta còn chưa là bạn. Thế nào, cậu nghĩ là mình đã chạm được tay tới thiếu tá Ortiz rồi sao?

- Dù sao thì tôi cũng hy vọng là thế, vừa đáp Andrew vừa đặt ly Fernet-Coca xuống bàn.

- Tôi không thích ý tưởng cậu lôi cháu gái tôi vào câu chuyện này. Những tìm kiếm mà cậu đang thực hiện quả rất nguy hiểm. Nhưng nó là đứa đầu bò đầu bướu và tôi chẳng thể làm nó đổi ý được.

- Tôi sẽ không để cô ấy gặp bất cứ nguy hiểm gì, tôi hứa với ông đấy.

- Đừng có hứa nếu cậu không thể giữ lời, cậu không có bất cứ ý niệm gì về những gì mấy gã đàn ông đó có thể làm đâu. Nếu ông ấy còn ở đây, ông ấy có thể nói cho cậu biết điều đó, vừa nói Alberto vừa chỉ bức chân dung treo phía trên đầu mình. Ông ấy từng là phóng viên như cậu, nhưng trong khi làm nghề ông ấy đã phải mạo hiểm cả tính mạng. Chúng đánh đập ông ấy như đánh chó. Nhưng ông ấy đã kháng cự cho đến khi ngã xuống dưới làn đạn của chúng.

Andrew quan sát bức ảnh. Walsh có vẻ từng là một người có uy tín lớn, ánh mắt ông phía sau cặp kính nhìn về xa xăm. Andrew thấy ông có vẻ giống bố đẻ của mình.

- Ông có quen ông ấy không? Andrew lên tiếng hỏi.

- Hãy để người chết được yên và giờ thì nói cho tôi biết cậu muốn viết gì trong bài báo của cậu.

- Tôi còn chưa thảo bài báo đó, và tôi không muốn hứa với ông điều tôi không thể giữ lời. Ortiz là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài báo của tôi, đó là một nhân vật mà số phận của hắn khiến tổng biên tập của tôi rất tò mò.

Alberto nhún vai.

- Lạ nhỉ, vì báo chí thường quan tâm đến đao phủ nhiều hơn anh hùng. Mùi cứt hẳn phải bán đắt hơn mùi hoa hồng. Hãy thận trọng như cậu vẫn thế từ trước tới giờ, hắn luôn đề cao cảnh giác. Cậu sẽ không bao giờ tiếp cận được hắn ở nhà riêng đâu, và hắn luôn di chuyển kèm người hộ tống.

- Thật chẳng mấy khích lệ nhỉ.

- Chúng ta có thể thu xếp để cũng được vũ trang tương tự.

- Thu xếp bằng cách nào?

- Tôi có những người bạn vẫn còn rất dũng cảm luôn háo hức mong được chiến đấu chống lại Ortiz và đồng bọn.

- Rất tiếc, tôi không đến đây để tổ chức một vụ thanh toán lẫn nhau. Tôi chỉ muốn phỏng vấn người đàn ông đó.

- Tùy cậu thôi. Tôi chắc là hắn sẽ tiếp cậu trong phòng khách rồi mời cậu uống trà trong lúc nghe hắn kể lại quá khứ của mình. Và cứ cho là hắn chẳng hề muốn cháu gái tôi gặp bất cứ nguy hiểm gì, Alberto vừa nhìn các bạn chơi vừa cười ồ lên.

Alberto cúi người trên bàn, ghé sát mặt vào mặt Andrew.

- Hãy nghe tôi nói cho rõ này, chàng trai trẻ, nếu cậu không muốn chuyến thăm viếng này làm mất thì giờ của tất cả chúng ta. Để Ortiz thổ lộ tâm tình với cậu thì phải thật thuyết phục. Tôi không nói với cậu về chuyện sử dụng bạo lực cực đoan, việc đó không cần thiết. Tất thảy những kẻ từng hành động như hắn xét cho cùng đều là lũ hèn nhát. Khi chúng không còn đi thành bầy với nhau, chúng sẽ sun vòi ngay tức thì. Chỉ cần hăm dọa hắn ở mức vừa phải, hắn sẽ khóc lóc kể chuyện ngay. Nếu cho hắn thấy cậu sợ, hắn sẽ giết cậu không chút ăn năn hối hận và sẽ ném xác cậu làm mồi cho lũ chó hoang.

- Tôi sẽ ghi nhớ lời khuyên của ông, Andrew đáp rồi sửa soạn rời khỏi bàn.

- Cứ ngồi nguyên, tôi còn chưa nói hết. Andrew thấy buồn cười với cái giọng chuyên quyền của ông chú Marisa, nhưng anh không thích gây thù chuốc oán nên vâng lệnh.

- May mắn đang đến với cậu đó, Alberto tiếp lời.

- Không đâu, nếu như vẫn còn đánh bài bịp.

- Tôi không nói về vụ bài bạc nữa. Thứ Ba tới, sẽ có một cuộc tổng đình công và các máy bay sẽ không được cất cánh. Ortiz sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài cách đi đường bộ đến gặp khách hàng của mình.

Nghe Alberto nói, Andrew suy ra rằng Marisa đã báo cho ông nhất cử nhất động của anh.

- Ngay cả khi hắn ta có người hộ tống thì trên đường bộ cậu cũng sẽ có nhiều cơ may để bám đuổi hắn hơn... với điều kiện là cậu chấp thuận cho chúng tôi giúp một tay.

- Tôi rất muốn vậy, nhưng tôi không bảo lãnh cho bất cứ hành động bạo lực nào đâu.

- Ai bảo cậu là bạo lực? Cậu quả là một nhà báo kỳ cục, cứ như thể cậu suy nghĩ bằng tay ấy, còn tôi, tôi suy nghĩ bằng đầu óc. Lòng đầy nghi vấn, Andrew nhìn Alberto.

- Tôi rất quen thuộc với đường số 8, tôi đi con đường đó nhiều đến nỗi nếu cậu đưa tôi đến Córdoba, tôi có thể nhắm mắt miêu tả xung quanh cho cậu. Con đường đó chạy qua nhiều vùng không một bóng người trải dài hàng ki lô mét, nó cũng được duy tu bảo dưỡng rất kém... và người ta đã thống kê có vô số tai nạn xảy ra ở đó. Marisa cũng từng suýt bỏ mạng tại đó và tôi không muốn chuyện này tái diễn. Hãy hiểu cho tôi cậu nhà báo à, bạn bè của gã đàn ông này đã tấn công cháu gái tôi, và từ giờ trở đi thời kỳ thoát tội của chúng đã chấm dứt. Cách Gahan vài ki lô mét, con đường tách ra để tránh một bức tượng thánh giá. Phía bên tay phải có nhiều tháp dự trữ nông sản, nơi cậu có thể nấp sau đó đợi hắn. Các đồng đội của tôi có thể xoay xở sao cho ô tô của Ortiz nổ lốp đúng vị trí này. Với tất cả những chuyện tồi tệ thường xảy đến với đám xe tải, chúng sẽ không nghi ngờ gì đâu.

- Được rồi, sau đó thì sao?

- Bao giờ cũng chỉ có duy nhất một bánh sơ cua trên xe và khi ta ở một nơi mà điện thoại di động cũng chẳng có sóng ngay giữa đêm hôm khuya khoắt thì  có thể làm gì khác ngoài việc đi bộ tới ngôi làng gần nhất để tìm người giúp đây? Ortiz sẽ cử người của hắn đi vào làng còn hắn sẽ đợi trong ô tô.

- Sao ông có thể chắc chắn như vậy?

- Một tay cựu sĩ quan loại như hắn không bao giờ từ bỏ thói cao ngạo của mình đâu, càng không từ bỏ được tính tự phụ: lội bùn đi bộ bên cạnh đám người của mình tức là hắn tự đặt mình ngang bằng với chúng. Tôi có thể nhầm, nhưng tôi biết rõ típ người như hắn.

- Được rồi, Ortiz còn một mình trong xe, thế chúng ta có bao nhiêu thời gian trước khi người của hắn quay trở lại?

- Cứ tính là mười lăm phút đi, mười lăm phút về cùng với thời gian đánh thức một tay thợ sửa xe giữa đêm hôm. Cậu tha hồ mà buộc hắn.

- Ông chắc chắn hắn sẽ đi trong đêm chứ?

- Dumesnil cách Buenos Aires bảy tiếng đi xe, cộng thêm tầm ba tiếng nếu mật độ giao thông dày đặc. Tin tôi đi, hắn sẽ khởi hành sau khi ăn tối xong, một kẻ lái ô tô, một tên khác đảm bảo an toàn cho hắn và một kẻ cậu cho là Ortiz ngủ say sưa ở băng ghế sau. Hắn muốn đi qua hết vùng ngoại ô trước khi thủ đô thức giấc và lên đường trở về ngay sau khi cuộc gặp gỡ kết thúc.

- Đó là một kế hoạch rất chặt chẽ, trừ một chi tiết: nếu tất cả các lốp xe nổ tung cùng một lúc, khả năng cao là chiếc xe sẽ đâm bổ chửng vào tường cùng với hắn bên trong.

- Trừ một điều là không có bức tường nào ở khu vực này cả! Chỉ có cánh đồng cùng các tháp dự trữ nông sản mà tôi đã nói với cậu rồi đấy, nhưng chúng nằm cách đường cái rất xa. Hai tay ôm lấy trán, Andrew suy nghĩ về đề nghị của Alberto, anh ngẩng đầu ngắm bức ảnh chụp Walsh như thể tìm cách thăm dò suy nghĩ của người đồng nghiệp quá cố, sừng sững trong quá khứ đằng sau cặp kính cận.

- Mẹ kiếp, cậu Stilman, nếu muốn biết sự thật thì cậu phải có đủ dũng cảm để đi tìm nó chứ! Alberto cam đoan.

- Được rồi, tôi sẽ đi, nhưng sẽ chỉ có Marisa và tôi tra hỏi Ortiz thôi. Tôi muốn ông hứa là không người nào ở nhóm các ông tranh thủ cơ hội đó để tính sổ với hắn.

- Chúng tôi đã sống sót qua những điều tàn bạo đó để không bao giờ làm giống chúng, đừng có xúc phạm ai đó đang giúp cậu.

Andrew đứng dậy rồi chìa tay cho Alberto. Người đàn ông do dự giây lát rồi cũng chìa tay ra.

- Cậu thấy Marisa thế nào? Alberto vừa thu dọn quân bài vừa hỏi.

- Tôi không chắc mình có hiểu rõ nghĩa câu hỏi của ông hay không.

- Tôi thì chắc về điều ngược lại đấy.

- Cô ấy giống ông y lột mà ông thì hoàn toàn không phải là típ phụ nữ tôi thích.

*


Quay trở về khách sạn, Andrew dừng chân ở quầy bar. Căn phòng chật ních khách. Marisa vừa chạy đi chạy lại từ đầu này sang đầu kia quầy bar vừa tung hứng với mấy ly cocktail. Cổ áo sơ mi trắng khoét rộng để hở bộ ngực căng tròn mỗi khi cô cúi xuống và đám khách hàng ngồi ở ghế đẩu ngay quầy không bỏ sót một chi tiết nào. Andrew quan sát cô một lúc lâu. Anh nhìn đồng hồ, giờ đã là một giờ sáng, anh mỉm cười rồi lui về phòng nghỉ.

*


Trong phòng ám mùi thuốc lá cùng mùi nước khử mùi rẻ tiền. Andrew nằm dài trên tấm ga phủ giường. Đã quá muộn để gọi cho Valérie, nhưng anh nhớ cô kinh khủng.

- Anh có đánh thức em không?

- Anh biết là không cần thiết phải thì thào như vậy mà, em đang ngủ nhưng em rất vui vì anh đã gọi điện, em bắt đầu thấy lo lo rồi.

- Quả là một ngày dài, Andrew đáp.

- Tất cả như anh mong muốn chứ?

- Điều anh muốn là được nằm bên em.

- Nhưng nếu như thế, anh sẽ lại mơ được đến Argentina mà thôi.

- Đừng nói thế chứ.

- Em nhớ anh.

- Anh cũng rất nhớ em.

- Anh làm việc tốt chứ?

- Anh không biết, ngày mai có thể...

- Ngày mai có thể gì cơ?

- Em có thể đến đây với anh vào cuối tuần này được không?

- Em muốn thế lắm chứ, nhưng em không nghĩ là tuyến tàu điện ngầm em đi có qua Buenos Aires, và cuối tuần này em còn phải trực nữa.

- Em không muốn đến “trực” anh à?

- Con gái Argentina đẹp đến thế cơ à?

- Anh không rõ, anh đâu có nhìn ngó gì họ.

- Nói phét.

- Anh cũng nhớ cả tiếng cười của em.

- Ai nói với anh là em đang cười?... Em đang cười đây. Về nhanh anh nhé.

- Anh để em ngủ tiếp nhé, tha lỗi cho anh vì đã đánh thức em dậy, anh cần được nghe giọng của em.

- Mọi chuyện ổn chứ Andrew?

- Anh nghĩ là thế.

- Anh có thể gọi cho em bất cứ khi nào anh không ngủ được, anh biết mà, phải không?

- Anh biết. Anh yêu em.

- Em cũng yêu anh.

Valérie gác máy. Andrew ra đứng trước cửa sổ phòng nghỉ. Anh trông thấy Marisa đang rời khỏi khách sạn. Vì một lý do nào đó mà anh không cắt nghĩa nổi, anh hy vọng cô sẽ quay lại nhìn, nhưng Marisa bước lên chiếc Coccinelle rồi nổ máy.

*


Andrew thức giấc bởi tiếng chuông điện thoại reo. Anh không có chút khái niệm về nơi mình đang ở và đang là mấy giờ.

- Đừng nói với mình là cậu vẫn còn ngủ vào lúc mười một giờ sáng nhé! Simon lên tiếng.

- Không. Andrew vừa dụi mắt vừa nói dối.

- Cậu đã tiệc tùng thâu đêm à? Nếu cậu trả lời là có thì tớ sẽ đáp ngay chuyến bay đầu tiên đến đấy.

- Tớ đã gặp một cơn ác mộng tệ hại và tớ không tài nào chợp nổi mắt cho đến gần sáng.

- Ừm, tớ sẽ cố tin là thế. Trong khi cậu nghỉ ngơi giải trí thì tớ đang ở Chicago đấy.

- Khỉ thật, tớ quên béng mất.

- Còn tớ thì không. Cậu có muốn nghe điều tớ sắp kể cho cậu không?

Andrew bị một cơn ho dữ dội khiến anh không thể thở nổi. Nhìn vào gan bàn tay, anh lo lắng khi trông thấy vết máu. Anh xin lỗi Simon, hứa sẽ gọi lại cho bạn rồi chạy vào phòng tắm.

Chiếc gương treo phản chiếu một hình ảnh kinh hoàng. Da anh nhợt nhạt như xác chết. Khuôn mặt hốc hác, cặp mắt sâu hoắm trong hốc mắt làm gò má nhô cao. Trông như anh đã già đi ba chục tuổi chỉ trong có một đêm. Một cơn ho thắt ruột mới làm bắn cả máu lên gương. Andrew cảm thấy đầu óc quay cuồng, đôi chân nhũn như con chi chi. Anh bám chặt vào mép bồn rửa rồi khuỵu gối trước khi ngã sụp xuống đất.

Má tiếp xúc với sàn gạch lát lạnh lẽo khiến anh hồi tỉnh đôi chút. Anh lật ngửa người lại rồi nhìn chăm chăm vào chiếc đèn trần chiếu thứ ánh sáng chập chờn.

Tiếng bước chân ngoài hành lang khiến anh hy vọng là người dọn phòng đến. Không thể kêu cứu, anh cố với lấy sợi dây điện của máy sấy tóc đang treo cách mình vài xăng ti mét. Dùng hết sức bình sinh chìa tay ra, rốt cuộc anh cũng nắm được nó, nhưng sợi dây trượt khỏi ngón tay anh rồi uể oải đung đưa trước mắt anh.

Có ai đó đang tra chìa vào ổ khóa cửa phòng anh. Andrew sợ rằng người dọn phòng đoán là phòng đang có người thì sẽ không bước vào nữa. Anh gắng bấu vào mép bồn tắm, nhưng chợt bất động khi nghe thấy tiếng hai người đàn ông đang thì thào với nhau ở phía bên kia cánh cửa phòng tắm.

Chúng lục lọi căn phòng, anh nghe thấy tiếng tủ tường kêu kẽo kẹt khi bị chúng mở ra. Anh lại giơ tay lần nữa để với lấy chiếc máy sấy đáng ghét như thể đó là một thứ vũ khí.

Anh kéo sợi dây, chiếc máy sấy rơi xuống sàn nhà lát gạch. Hai giọng nói liền im bặt. Andrew đã ngồi lại được và dựa lưng vào cửa rồi dồn hết sức xuống đôi chân để ngăn chúng mở cửa.

Anh bị văng mạnh về phía trước, một cú đá cực mạnh khiến ổ khóa tung ra và đẩy cánh cửa vào phía bên trong phòng tắm.

Một gã đàn ông túm lấy vai anh hòng ấn anh xuống đất, Andrew chống cự lại, nỗi sợ đã đẩy lùi cơn chóng mặt của anh. Anh tung được một cú đấm vào mặt kẻ tấn công mình. Gã đàn ông, vốn không hề trông đợi điều này, đổ sụp xuống sàn bồn tắm. Andrew đứng dậy để đẩy kẻ thứ hai đang nhảy bổ vào anh. Anh vớ lấy chai xà phòng nước nằm trong tầm với rồi ném về phía hắn. Gã đàn ông tránh cú ném, cái lọ vỡ tan trên sàn nhà. Hai cú đấm móc vào mặt khiến Andrew bắn đập vào gương, cung lông mày của anh rách toác. Máu bắt đầu chảy ra, che mờ tầm nhìn của Andrew. Cuộc chiến trở nên không cân sức, Andrew không còn chút cơ may nào cả. Gã khỏe hơn trong hai kẻ tấn công ấn chặt anh xuống đất, tên còn lại rút dao từ trong túi ra rồi đâm thẳng lưỡi dao vào phần cuối sống lưng anh. Andrew thét lên đau đớn. Trong nỗ lực cuối cùng, anh vớ lấy mảnh vỡ chai xà phòng rồi cứa vào tay kẻ đang cố siết cổ anh.

Đến lượt gã đàn ông thét lên đau đớn. trong khi lùi lại, hắn trượt ngã trên lớp nước xà phòng lênh láng trên mặt sàn và khuỷu tay va phải nút bấm báo cháy.

Tiếng còi inh tai bắt đầu vang lên; hai gã đàn ông vội chuồn ngay.

Andrew buông mình trượt dọc bờ tường. Ngồi bệt xuống sàn, anh đưa tay ra sau lưng, gan bàn tay anh đầy máu. Ánh sáng từ chiếc đèn trần cứ chập chờn vào lúc anh bất tỉnh nhân sự.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 12-1-2015 10:35:10 | Chỉ xem của tác giả
20.


- Nếu anh tha thiết được gặp Antonio đến thế thì chỉ cần bảo tôi một tiếng là được mà, vừa bước vào phòng bệnh Marisa vừa nói.

Andrew nhìn cô không đáp.

- Tôi đồng ý với anh, giờ không phải là lúc đùa, tôi rất lấy làm tiếc, cô nói thêm. Thật kỳ cục, sao chúng lại đánh anh bị thương nhỉ, nhưng theo cậu sinh viên y khoa nội trú nói với tôi thì anh đã gặp may vô cùng.

- Vấn đề là theo góc độ nào! Lưỡi dao đâm vào vùng thắt lưng tôi sâu tận mười xăng ti mét. Các vị thầy thuốc có quan niệm thật lạ lùng về may mắn đấy.

- Cảnh sát nói rằng anh đã bắt quả tang tụi trộm đó; đây là chuyện ngày càng diễn ra thường xuyên hơn theo như viên cảnh sát tôi đã nói chuyện. Chúng tìm kiếm máy tính xách tay, hộ chiếu, đồ đạc có giá trị mà du khách để lại khách sạn.

- Cô tin vào phiên bản sự việc này ư?

- Không.

- Thế thì chúng ta có hai người.

- Anh có máy tính trong phòng chứ?

- Tôi làm việc theo kiểu cổ điển, chỉ dùng bút với sổ thôi.

- Vậy là chúng ra đi với đôi bàn tay trắng, tôi đã thu dọn hành lý của anh rồi, chúng đang được an toàn ở nhà tôi.

- Cô có thấy sổ ghi chép của tôi không?

- Có.

Andrew thở phào nhẹ nhõm.

- Anh cần phải nghỉ ngơi nếu muốn tra hỏi Ortiz vào thứ Ba tới. Anh vẫn ủng hộ cách tiếp cận văn minh này chứ?

- Tôi đến đây không phải là để nghỉ dưỡng, vừa nói Andrew vừa tìm cách ngồi dậy trên giường. Cơn đau khiến anh nhăn nhó và anh cảm thấy chóng mặt. Marisa tiến lại đỡ anh dậy. Cô sắp xếp lại đống gối tựa rồi giúp anh dựa thoải mái trên đó. Rồi cô đưa cho anh một cốc nước.

- Tôi từng chăm một người ở bệnh viện rồi... Lẽ ra tôi nên làm y tá hơn là làm phục vụ quán bar.

- Bạn trai cô thế nào rồi?

- Tuần tới họ sẽ phẫu thuật tiếp cho anh ấy.

- Thế còn tôi, các bác sĩ bảo sao?

- Rằng anh phải nằm yên vài ngày, anh Stilman à, bác sĩ Herrera vừa bước vào vừa thông báo. Anh đã thoát nạn rồi.

Bác sĩ tiến lại gần Andrew rồi xem xét mặt anh.

- Anh có thể bị mù mắt rồi đấy chứ. May mắn là thủy tinh thể và giác mạc không việc gì, anh sẽ bình phục khi một bọc máu tự tiêu đi. Anh nên nhắm mắt trong vài ngày tới. Chúng tôi đã khâu vết đâm nghiêm trọng ở thắt lưng của anh, nhưng cậu học viên nội trú của tôi đã trấn an anh về điểm này rồi. Tuy nhiên, tình trạng sức khỏe chung của anh không được tốt cho lắm. Tôi muốn giữ anh lại theo dõi để thực hiện vài xét nghiệm bổ sung.

- Xét nghiệm kiểu gì?

- Tất cả những gì mà tôi thấy cần thiết. Tôi sợ rằng anh bị xuất huyết nhẹ ở đâu đó. Anh cảm thấy thế nào trước khi vụ việc xảy ra?

- Sức khỏe của tôi không được tốt lắm, Andrew thú nhận.

- Gần đây anh có gặp vấn đề gì liên quan đến sức khỏe ư?

Andrew ngẫm nghĩ về câu hỏi. “Gần đây” không phải là từ thích hợp, nhưng làm sao có thể thú nhận với bác sĩ Herrera rằng anh đang phải chịu di chứng của một vụ tấn công chết người mà phải vài tuần nữa nó mới diễn ra.

- Anh Stilman?

- Tôi thường xuyên cảm thấy khó ở với cả đau nhói đốt sống lưng, lúc nào tôi cũng thấy lạnh.

- Có thể đó chỉ là thoái hóa đốt sống lưng thôi, dù rằng thoái hóa đốt sống lưng không phải dễ điều trị. Nhưng tôi tin chắc anh còn mất máu ở đâu đó nữa và tôi sẽ không để anh đi chừng nào tôi còn chưa biết chính xác.

- Muộn nhất là thứ Hai tới tôi phải khỏi.

- Chúng tôi sẽ làm hết khả năng của mình. Anh đã suýt chết rồi. Hãy mừng là anh vẫn còn sống và đang điều trị tại một trong những cơ sở y tế tốt nhất Buenos Aires. Chiều nay chúng tôi sẽ siêuâm ổ bụng cho anh, nếu kết quả không cho thấy điều gì, tôi dự định sẽ cho chụp cắt lớp. Giờ thì anh hãy nghỉ ngơi đi, tôi sẽ quay lại vào cuối ca trực.

Bác sĩ Herrera rút lui, để Andrew lại một mình với Marisa.

- Cô có cầm điện thoại di động của tôi không? Andrew hỏi. Marisa rút điện thoại từ túi ra rồi đưa cho Andrew.

- Anh nên báo với tòa soạn, cô đề xuất.

- Chắc chắn là không rồi, họ sẽ buộc tôi về nước ngay; tôi muốn không ai biết chuyện đã xảy đến với mình hơn.

- Hiện tại cảnh sát đang tiến hành điều tra, họ muốn thẩm vấn ngay khi anh khỏe lại.

- Mấy cuộc thẩm vấn ấy chẳng dẫn đến đâu cả, thế sao lại phải mất thời gian nhỉ?

- Bởi vì luật là thế.

- Marisa, tôi sẽ không bỏ lỡ cuộc gặp với Ortiz lần thứ hai đâu.

- Sao lại là “lần thứ hai”?

- Quên nó đi.

- Hãy làm như bác sĩ đã dặn và nghỉ ngơi nhé. Có thể anh sẽ hồi phục vào cuối tuần này. Tôi sẽ báo với chú tôi đợi vài ngày nữa.

*


Thứ Năm, nào là siêu âm, chụp X quang, siêu âm màu Doppler, lấy máu cứ liên tiếp nhau, ngắt quãng bởi những khoảng chờ đợi lâu lắc lâu lơ trong những phòng chờ bên ngoài phòng xét nghiệm nơi Andrew phải kiên nhẫn đợi cùng những bệnh nhân khác.

Họ đưa anh trở lại phòng vào chập tối và mặc dù phải giữ đám ống truyền khiến anh thấy khó chịu kinh khủng, anh đã được phép ăn uống lại bình thường. Nhân viên bệnh viện rất thân thiện, những người đẩy cáng ân cần còn thức ăn thì hợp khẩu vị. Nếu không phải là mất thời gian thì chẳng có gì để phàn nàn cả.

Không có tin tức gì về các kết quả kiểm tra, Andrew gọi cho Valérie. Anh không hé lộ chút gì cho cô biết chuyện đã xảy đến với mình, vì không muốn làm cô phải lo lắng và ngờ rằng cả cô cũng sẽ buộc anh về nước.

Marisa đến thăm anh trước khi đến làm việc ở quán bar. Khi nhìn cô đi khỏi, Andrew thấy trồi lên ham muốn được đi theo cô. Đã từ lâu, cái chết luôn rình rập bên cạnh khiến anh đột nhiên thấy ham muốn sống thật gấp, điên cuồng kết giao mà không cần biết đến ngày sau men say.

*


Thứ Bảy, bác sĩ Herrera đến khám vào cuối buổi sáng cùng một đoàn sinh viên. Andrew chẳng hề thích thú với việc bị săm soi hệt như một con chuột lang thí nghiệm, nhưng anh vẫn tuân thủ quy tắc ở đây.

Cung lông mày của anh đã cân đối trở lại, Andrew không còn phải nhìn bằng một mắt nữa. Vị bác sĩ trấn an anh rằng chứng viêm nhiễm sẽ tiêu biến trong vòng bốn mươi tám tiếng nữa. Siêu âm thận cho thấy có hiện tượng chảy máu nhẹ, còn các kết quả khác hoàn toàn bình thường. Bác sĩ Herrera mừng vì chỉ thấy có thế thôi. Ông ngờ là bị sốt xuất huyết với hội chứng ở thận, có thể là do virus. Các triệu chứng ban đầu giống hệt với triệu chứng cúm. Tiếp sau đó là đau đầu, đau cơ, đau đốt sống lưng và chảy máu. Không có phác đồ đặc trị nào đối với loại bệnh này, thời gian sẽ tự chữa lành mà không để lại bất cứ hậu quả nào. Bác sĩ Herrera hỏi Andrew xem gần đây anh có cắm trại trong rừng hay không, căn bệnh này lây sang người do hít phải các phân tử có nguồn gốc từ phân các loài gặm nhấm hoang dã.

Andrew, người vốn yêu thích sự tiện nghi hơn tất thảy, khẳng định với ông rằng một ý tưởng như thế chưa bao giờ xuất hiện trong tâm trí anh cả.

- Hoặc có thể anh đã bị thương do một dụng cụ được mang từ rừng ra, kiểu dụng cụ của tiều phu hoặc thợ săn?

Andrew ngay tức khắc nhớ tới Olson, rồi anh siết chặt nắm đấm đến nỗi anh mơ được đấm vỡ hàm hắn vào ngay lúc này đây.

- Cũng có thể, vừa nói Andrew vừa kiềm chế cơn giận.

- Lần tới hãy thận trọng hơn nhé, vị bác sĩ vừa cười vừa nói, vui vì chứng tỏ được sự sáng suốt của mình trước đám sinh viên. Nếu tất cả ổn hết, tôi sẽ để anh ra viện vào chiều thứ Hai, đúng như anh muốn phải không?

Andrew khẽ gật đầu đồng ý.

- Anh phải giữ gìn sức khỏe. Vết thương ở cuối sống lưng của anh không nghiêm trọng quá, nhưng cần phải cho nó thời gian để liền sẹo và cẩn thận không để bị nhiễm trùng. Khi nào anh phải quay về Mỹ?

- Theo nguyên tắc là cuối tuần tới, Andrew đáp. - Tôi yêu cầu anh quay lại khám nhanh trước khi anh lên máy bay. Chúng tôi sẽ tranh thủ thời điểm đó để cắt chỉ cho anh. Hẹn thứ Hai gặp nhé và chúc anh cuối tuần vui vẻ, anh Stilman, vừa nói vị bác sĩ vừa rút lui với đám sinh viên.

*


Một lát sau vào buổi chiều, Andrew tiếp một viên cảnh sát chịu trách nhiệm lấy lời khai của anh. Sau khi viên cảnh sát giải thích rằng không có bất cứ cơ may nào để bắt kẻ phạm tội, khách sạn không lắp hệ thống camera giám sát, Andrew liền từ bỏ ý định khởi kiện. Thở phào nhẹ nhõm vì thoát khỏi đống giấy tờ không cần thiết, viên cảnh sát để Andrew tiếp tục dưỡng sức. Vào cuối buổi chiều, Marisa, vốn dành cả buổi chiều bên chồng chưa cưới, tới thăm anh và ở bên đầu giường anh một giờ.

*


Chủ nhật, Louisa, được cháu gái báo tin, đã tới bệnh viện thăm và mang cho Andrew đồ ăn tự tay bà nấu. Bà dành trọn buổi chiều ở bên anh. Anh kể cho bà nghe vài trường đoạn của cuộc đời nhà báo của mình, bà tóm gọn cho anh biết vài tình huống đưa bà trở thành một trong những Bà mẹ trên quảng trường tháng Năm... Rồi bà hỏi anh đã gặp Alberto chưa.

Andrew kể lại cho bà nghe vụ chơi bài, thế là Louisa nổi giận đùng đùng nói rằng ba mươi năm qua ông ta chẳng làm việc gì ngoài chơi bài poker và phát phì ra. Người đàn ông thông minh nhường ấy đã bỏ quên cả cuộc đời cũng như người vợ của mình, và bà vẫn chưa nguôi giận với chuyện này.

- Nếu cậu biết được rằng ông ấy từng rất bảnh trai khi còn thanh niên, bà thở dài. Tất cả đám con gái trong khu phố đều muốn yêu ông ấy, nhưng chính tôi là người mà ông ấy đã chọn. Tôi biết cách quyến rũ, tôi đã khiến ông ấy nghĩ rằng tôi hoàn toàn dửng dưng với ông ấy. Thế nhưng, mỗi lần ông ấy nói chuyện hay mỉm cười khi gặp mặt, tôi đều cảm thấy mình tan chảy ra như băng dưới ánh mặt trời. Nhưng tôi quá tự kiêu nên không thể hiện cho ông ấy biết điều đó.

- Vậy điều gì đã khiến bà thay đổi thái độ? Andrew hào hứng hỏi.

- Vào một buổi tối... Louisa vừa đáp vừa lấy bình nước giữ nhiệt từ trong bị của mình ra... bác sĩ có cho cậu uống cà phê không?

- Ông ấy chẳng nói gì cả, nhưng kể từ khi tôi ở đây, họ chỉ cho tôi uống mỗi một thứ thuốc sắc tệ hại thôi, Andrew thú nhận.

- Im lặng là đồng ý nhé! Vừa nói Louisa vừa lôi một cái chén từ trong túi đựng đồ dự trữ ra. Chuyện là như này, một tối, Alberto qua nhà bố mẹ tôi. Ông ấy bấm chuông cửa rồi hỏi xin phép bố tôi để đưa tôi đi dạo. Khi đó là vào tháng Mười hai. Độ ẩm cao chỉ khiến cái nóng đang ngự trị ở nhà chúng tôi trở nên ngột ngạt hơn. Tôi ở ngay tầng hai nên đã nghe lỏm được cuộc nói chuyện.

- Thế bố của bà nói sao?

- Ông ấy từ chối rồi đuổi khéo Alberto bằng cách cam đoan rằng con gái ông không muốn nhìn thấy mặt ông ấy. Tôi có niềm vui tinh quái là làm ngược toàn bộ những gì ông nói, và thế là quàng chiếc khăn san lên vai, để không khiến bố bị sốc, tôi đi theo Alberto và cả hai chúng tôi đi chơi. Tôi chắc chắn là hai người họ đã cùng âm mưu chuyện này. Bố tôi không bao giờ muốn thú nhận điều đó. Alberto thì lại càng không, nhưng cái cách mà họ giễu tôi trong suốt nhiều năm mỗi khi ai đó đề cập đến buổi tối đi chơi đầu tiên với Alberto lại càng khiến tôi tin chắc là như thế. Chuyến đi dạo thú vị hơn tôi tưởng nhiều. Alberto không tán tỉnh như đám con trai thường làm, chỉ muốn nhanh nhanh chóng chóng đưa con gái người ta lên giường. Ông ấy nói với tôi về chính trị, về một thế giới mới nơi ai ai cũng có quyền tự do ngôn luận, nơi đói nghèo không còn là định mệnh. Alberto là một người nhân đạo chủ nghĩa, vừa không tưởng vừa ngây thơ, nhưng hết sức cao thượng. Ông ấy có chất giọng trầm ấm khiến tôi yên lòng, một ánh mắt khiến tôi xáo động. Cứ như vậy mà kiến thiết lại xã hội bằng lời nói, chúng tôi đã không để ý thời gian trôi. Khi quay trở về, cái giờ mà bố tôi cho phép về nhà, mà ông chỉ kịp hét váng sau lưng chúng tôi khi cả hai đang xuôi xuống một con ngõ hẹp, đã qua từ lâu. Tôi biết bố sẽ đợi cả hai chúng tôi ở ngưỡng cửa, thậm chí với một khẩu súng nạp đầy những viên muối to đùng để dạy cho Alberto một bài học. Tôi đã bảo ông ấy là tôi muốn về nhà một mình, để ông ấy không phải gặp rắc rối, nhưng Alberto vẫn cứ nài đưa tôi về nhà.

Đến góc phố nhà mình, tôi bảo ông ấy đưa tôi chiếc khăn mùi soa của ông ấy và tôi quấn khăn đó quanh mắt cá chân. Rồi tôi tựa vào vai ông ấy và vờ đi khập khà khập khiễng cho tới khi về đến tận nhà. Khi nhìn thấy tôi, bố liền dịu đi ngay tức khắc rồi ông chạy ào đến bên con gái. Tôi đã kể với ông là mình bị trật mắt cá chân và hai đứa đã mất hai tiếng đồng hồ mới về đến nhà vì cứ đi trăm mét là tôi phải dừng lại để lấy hơi. Tôi không biết liệu ông có tin mình không, nhưng ông cảm ơn Alberto đã đưa con gái ông trở về bình yên vô sự. Điều quan trọng nhất chính là danh dự cũng được bảo toàn. Về phần mình, đến khi đi ngủ, tôi chỉ còn nhớ đến cảm xúc của mình lúc Alberto dùng tay đỡ tôi và khi tay tôi chạm vào vai ông ấy. Sáu tháng sau chúng tôi kết hôn. Chúng tôi không giàu có gì, cứ đến cuối tháng là phải giật gấu vá vai, nhưng Alberto luôn xoay xở để đủ chi tiêu vừa khít. Chúng tôi đã rất hạnh phúc, hạnh phúc thực sự. Tôi đã sống bên ông ấy những tháng ngày đẹp nhất đời mình. Ở bên nhau, cả hai chúng tôi đều cười vui nhiều biết bao. Nhưng rồi chế độ độc tài mới đã được thiết lập, kinh khủng hơn chế độ cũ rất nhiều. Con trai chúng tôi mới đôi mươi khi bị bắt đi. Alberto và tôi chỉ có một mụn con thôi. Nó không bao giờ trở lại kể từ khi bị bắt đi, và vợ chồng chúng tôi cũng vậy. Mỗi người sống theo cách của riêng mình, ông ấy sống trong quên lãng, còn tôi sống trong tranh đấu, vai trò bị đảo ngược hoàn toàn. Nếu cậu còn gặp Alberto nữa, tôi cấm cậu không được nói với ông ấy chuyện tôi vừa kể cậu nghe. Cậu hứa chứ?

Andrew hứa.

- Kể từ khi cậu đến thăm nhà, tôi ngủ rất kém. Ortiz không phải là kẻ đứng đầu trong cuốn album của tôi, đó chỉ là một nhân vật phụ như tôi từng nói với cậu rồi đó, một sĩ quan có sự nghiệp chẳng mấy lẫy lừng. Nhưng giờ đây, tôi không thể ngăn mình nghĩ rằng có thể chính hắn đã lái chiếc máy bay mà từ đó chúng ném con trai tôi xuống dòng Rio de La Plata. Tôi rất mong cậu tìm thấy hắn và buộc hắn phải thú nhận. Không có gì kinh khủng hơn việc một người phụ nữ mất đi đứa con của mình, đó là tấn thảm kịch kinh hoàng nhất có thể xảy đến với một con người, còn đáng sợ hơn cái chết của chính người phụ nữ đó nhiều lần. Nhưng nếu cậu hình dung ra được nỗi đau khi không thể chôn cất con mình yên nghỉ dưới mồ, không bao giờ được nhìn di hài con. Biết rằng đứa con ngày trước còn gọi mình là mẹ, còn chạy tới lao vào vòng tay mình rồi ôm ghì mình thật chặt...

Louisa ngừng giữa chừng.

- ... Khi đứa trẻ là ánh sáng của đời cậu biến mất không để lại chút dấu vết nào, khi cậu biết được rằng không bao giờ còn có thể nghe thấy giọng nói của nó nữa, cuộc sống của cậu chỉ còn là địa ngục.

Louisa đứng bên cửa sổ để giấu mặt đi. Bà hít thật sâu rồi tiếp tục, ánh mắt nhìn về xa xăm.

- Alberto trốn chạy trong quên lãng, ông ấy sợ rằng nỗi đau có thể khiến ông ấy mù quáng trả thù. Ông ấy không muốn trở thành kẻ giống bọn họ. Nhưng tôi, tôi không sợ điều đó. Một phụ nữ có thể giết kẻ đã đánh cắp con mình không chút ăn năn hối hận. Nếu có cơ hội thì tôi sẽ hành động ngay.

Andrew thoáng nghĩ đến vợ Capetta. Louisa quay về phía Andrew, đôi mắt đỏ hoe nhưng ánh mắt rất mãnh liệt.

- Hãy tìm cho ra hắn, tôi cầu xin cậu từ tận sâu thẳm đáy lòng, hoặc chí ít là từ những gì còn sót lại của tôi.

Louisa đứng dậy rồi xách lấy cái bị của mình. Nhìn bà ra về, Andrew có cảm giác bà đã già đi nhiều kể từ đầu buổi nói chuyện của họ. Suốt đêm đó, anh chỉ nghĩ tới cuộc gặp với Ortiz, lần đầu tiên hy vọng kế hoạch của Alberto được trót lọt.

*


Vào cuối buổi chiều, điện thoại của Andrew đổ chuông. Buộc phải xoay mình với lấy điện thoại khiến cơn đau lại trỗi dậy.

- Khi cậu bảo “năm phút nữa tớ sẽ gọi lại”, cậu...

- Simon, tớ đang ở bệnh viện.

- Cậu đi thăm ai à?

- Không tớ đang nằm viện...

Andrew kể lại vụ tấn công cho Simon nghe nhưng bắt bạn hứa không được hó hé bất cứ điều gì cho Valérie. Simon muốn đến gặp bạn ngay tức thì nhưng Andrew không đồng ý. Anh đã gây đủ chú ý kể từ khi đặt chân đến Buenos Aires và việc Simon đến nữa chỉ làm cho mọi thứ càng thêm rối ren.

- Tớ đồ rằng giờ không phải lúc để tớ báo cáo tổng kết cho cậu nghe về vợ Capetta.

- Không hề, ngược lại là đằng khác, tớ chẳng có gì hay ho để làm vào cuối tuần cả.

- Chiều nào chị ta cũng ngồi đan lát tại một công viên nhỏ trong khi cậu con trai chơi đùa trong bể cát

- Cậu đã nói chuyện với chị ta à?

- Khi tớ nói với cậu là chị ta ngồi đan lát, thì tớ không nói nghĩa bóng đâu.

- Không còn gì khác nữa à?

- Không, ngoại trừ một điều là tớ thấy chị ta quá đẹp mà lại đi cưới một gã như Capetta mà cậu từng kể, nhưng cũng có thể là do tính đố kỵ khiến tớ nói vậy.

- Đẹp đến độ nào?

- Tóc đen, cặp mắt đen nhánh, ánh mắt kiên nghị để lộ nỗi cô đơn và nỗi đau sâu sắc.

- Cậu chỉ cần quan sát từ xa mà nhận ra tất thảy những điều đó ư?

- Không phải vì tớ yêu phụ nữ, tất cả phụ nữ, mà tớ không gây chú ý với họ.

- Simon, cậu đang nói chuyện với tớ đó...

- Được rồi... Chị ta thường uống cà phê tại một quán McDonald’s, cậu bé nhà chị ta quay lại với một cái khay hơi quá nặng so với nó. Tớ đã thu xếp để mình cũng bước vào trong đó. Vì cậu mà tớ đã phải hy sinh một cái quần jeans rồi đó. Bà mẹ đứng dậy, chị ta xin lỗi rối rít. Với hai cái nhăn nhó mặt mày, tớ đã khiến thằng bé đang chực khóc phải phì cười, tớ đưa cho nó mười đô la để nó đi mua lại Coca với mấy thứ đồ rán, rồi với cái cớ là lấy giấy ăn đang đặt trên mặt bàn, tớ ngồi lại với chị ta trong khi đợi cậu bé con trở lại.

- Giờ thì giống cậu lắm rồi.

- Cậu có hình ảnh về tớ như vậy thì thật điên rồ.

- Thế chị ta nói gì với cậu?

- Chị ta kể rằng mình đến Chicago sống sau khi chồng mất, để xây dựng lại cuộc sống mới với cậu con trai.

-... Chị ta còn lấy đi một ông bố vẫn còn đang sống nhăn, một bà góa mới lạ lùng làm sao!

- Sự khắc nghiệt mà chị ta thể hiện trên mặt khi nói về chồng khiến máu cậu phải đông cứng lại đó. Vả lại, còn có thứ gì đó rất kinh khủng ở chị ta.

- Cái gì?

- Tớ không biết phải tả cho cậu như thế nào, chỉ là tớ thấy khó chịu khi ở gần chị ta.

- Chị ta có kể với cậu về chuyến đi đến New York không?

- Không, và trong lúc từ biệt, tớ có bảo rằng nếu chị ta đến New York và cần giúp bất cứ điều gì, chị ta có thể gọi cho tớ, nhưng chị ta khẳng định với tớ rằng sẽ không bao giờ quay trở lại đó nữa.

- Chị ta hẳn nghĩ rằng cậu đang giở chiêu trò gì đó.

- Nếu tớ làm thế thì chắc chắn chị ta sẽ đổi ý ngay.

- Dĩ nhiên rồi!

- Đúng, dĩ nhiên rồi! Nhưng vì nhiệm vụ, tớ phải nâng cao cảnh giác. Tớ chỉ là một doanh nhân đang đi công tác tại Chicago, ông bố của ba đứa trẻ và rất yêu vợ mình.

- Điều gì đã khiến cậu nhập vai ông bố của gia đình đấy? Sáng hôm đó cậu không quá mất sức đấy chứ?

- Tớ nghĩ rằng tớ nhớ cậu, nhưng chung cuộc là...

- Cậu nghĩ chị ta có khả năng giết người chứ?

- Chị ta có sức làm chuyện đó, chị ta nói dối về cuộc đời và về những ý định của mình, có điều gì đó thật sự đáng ngại ở chị ta. Đó không hẳn là kiểu Nicholson trong phim kinh dị Shining, nhưng tớ đoan chắc với cậu là ánh mắt chị ta khiến người khác lạnh gáy. Andrew này, sao cậu lại mất thời gian ở Buenos Aires, nếu cậu thật sự tin rằng mình sẽ bị sát hại trong vài tuần tới?

- Simon, tớ đã được trao cho cơ hội thứ hai để bảo vệ Valérie khỏi những lầm lạc của tớ cũng như để kết thúc cuộc điều tra mà kết cục không chỉ liên quan đến mình tớ. Giờ tớ ý thức về điều đó còn hơn cả ngày hôm qua.

Andrew nhờ bạn giúp một lần cuối cùng. Ngay sau khi cả hai gác máy, Simon đi mua một bó hoa rồi nhờ chuyển đến nhà Valérie kèm vài lời nhắn nhủ mà anh đã chép lại.

Trong lúc đó, tại phòng bệnh ở Buenos Aires, Andrew có cảm giác nghe thấy tiếng Louisa thì thầm bên tai: “Nếu vợ Capetta cho rằng cậu phải chịu trách nhiệm về việc để mất con gái chị ta thì cậu nên cẩn trọng.”

*


Andrew tiếp tục các xét nghiệm mới vào sáng thứ Hai và bác sĩ Herrera để anh ra viện vào đầu giờ chiều.

Marisa kiên nhẫn đợi trong xe ô tô. Sau khi ghé qua khách sạn chốc lát, cả hai liền đến quán bar nơi Alberto cùng các bạn ông đang đợi bọn họ.

Andrew ngồi vào bàn ở cuối phòng, Alberto đang ở một mình. Ông trải một tờ giấy khổ lớn ra rồi miêu tả hành trình mà Ortiz sẽ đi qua.

- Tại lối ra của Villa Maria, một chiếc xe tải bị hỏng giữa đường buộc hắn phải rời khỏi quốc lộ 9. Tài xế của hắn sẽ rẽ về phía Nam để bắt vào quốc lộ 8. Trong lúc đó, cậu sẽ đến tận Gahan. Ở ngang tầm tượng thánh giá mà cậu sẽ dễ dàng nhận ra tượng đức Mẹ Đồng trinh dưới một kim tự tháp nhỏ bằng thủy tinh, cậu tìm bên tay phải mình ba tháp dự trữ nông sản cách đường cái chừng năm mươi mét. Có một con đường đất nhỏ dẫn tới đó. cậu sẽ náu mình ở đó, đèn đóm tắt hết, cùng với Marisa. Hãy tranh thủ lúc đó để thay phiên nhau mà ngủ nhé.

Nếu Ortiz rời Dumesnil vào lúc 21 giờ, hắn sẽ đến Gahan vào tầm 4 giờ sáng. Chúng tôi sẽ làm điều cần thiết, mặt đường sẽ được rải những mẩu sắt vụn, qua được tượng thánh giá rồi thì xe sẽ chỉ còn chạy trên vành.

- Thế nếu không phải hắn là người đầu tiên đi qua thì sao?

- Không có ai khác ngoài hắn vào cái giờ đó đâu.

- Sao ông có thể hoàn toàn chắc chắn về điều này?

- Các bạn của chúng tôi sẽ canh chừng lối ra của thành phố Olivia, Chazon, Arias, Santa Émilia, Colón và Rojas. Gần như là cứ sau mười lăm phút chúng tôi sẽ biết hắn đang ở đâu và chúng tôi sẽ chỉ gài bẫy trên đường khi biết chắc hắn đã gần đi tới tượng thánh giá.

- Có thành phố tên là Olivia à? Andrew lên tiếng hỏi.

- Có, sao thế? Alberto đáp.

- Không có gì.

- Khi chiếc xe không đi được nữa, hãy nấp kỹ cho đến khi người của hắn đến Gahan nhé. Một chọi ba quả thật không cân sức đâu. Tôi nghĩ là đã biết chuyện cậu mới đánh nhau với chúng và nhìn mặt mũi cậu thì tôi không yên tâm về kết cục trận đấu cho lắm.

- Thế còn cháu thì sao, cháu không được tính à, Marisa hỏi.

- Cháu à, cháu ngồi nguyên trong xe và lái xe thôi. Ta cấm cháu rời vô lăng đó, đến cả nhà báo dũng cảm của chúng ta còn bị bắn kia kìa. Cháu hiểu rõ chú mà, chú không nói đùa đâu! Nếu có chuyện gì xảy đến với cháu, dì cháu sẽ đến xử lý ta ngay giữa ban ngày ban mặt này đấy.

- Cô ấy sẽ không rời khỏi xe đâu, Andrew hứa và ngay lập tức anh nhận cú đá chân của Marisa vào phần xương chày.

- Đừng có đi rề rà đấy, Gahan cách đây đúng hai giờ chạy xe, hai đứa còn cần thời gian để xác định vị trí, đánh giá và hóa mình vào khung cảnh. Ricardo sẽ chuẩn bị thứ gì đó để cả hai mang đi ăn dọc đường, ông ấy đang chờ cháu ở trong bếp đó, Marisa. Cháu đi đi, chú có đôi lời muốn nói riêng với cậu đây.

Marisa nghe lời chú mình.

- Cậu cảm thấy mình có đủ khả năng thực thi nhiệm vụ này tới cùng chứ?

- Đến ngày mai ông khắc biết, Andrew uể oải trả lời. Alberto nắm chặt lấy cẳng tay Andrew.

- Tôi đã huy động rất nhiều bạn bè để thực hiện tốt nhiệm vụ lần này, đó không chỉ là vì độ đáng tin của tôi, mà còn là vì sự an toàn của cháu gái tôi nữa.

- Cháu gái ông cũng lớn tướng rồi, cô ấy biết mình làm gì, nhưng giờ ông cấm cháu ông đi cùng tôi vẫn còn kịp đấy. Với một cái bản đồ ngon lành thì chắc tôi sẽ không tốn công tìm cho ra cái xứ khỉ ho cò gáy ấy đâu.

- Con bé chẳng nghe lời tôi đâu, tôi không còn áp đặt được nó nữa.

- Ông Alberto, tôi sẽ làm hết sức mình, còn ông, ông cũng làm sao để nhiệm vụ này, theo như lời ông, không biến thành thảm kịch nhé. Ông đã hứa với tôi là sẽ không ai trong số các ông tìm cách tính sổ với Ortiz rồi phải không?

- Quân tử nhất ngôn, mà tôi hứa với cậu rồi còn gì!

- Thế thì tất cả hẳn sẽ diễn ra không vấn đề gì.

- Cầm lấy cái này, vừa nói Alberto vừa đặt một khẩu súng lục lên đầu gối Andrew, chẳng ai biết trước được chuyện gì.

Andrew trả khẩu súng lại cho Alberto.

- Tôi không nghĩ là thứ này có thể tăng thêm an toàn cho Marisa, tôi chưa bao giờ sử dụng vũ khí nóng. Hoàn toàn trái ngược với các định kiến, không phải người Mỹ nào cũng là cao bồi.

Andrew những muốn đứng dậy nhưng Alberto ra hiệu rằng cuộc nói chuyện chưa kết thúc.

- Louisa đã đến bệnh viện thăm cậu đúng không?

- Ai nói cho ông biết chuyện đó?

- Tôi muốn chắc chắn cậu được yên ổn bình phục trong những ngày nằm viện, nhỡ đâu người của Ortiz lại có ý định hoàn thành nốt công việc dở dang.

- Thế thì ông đã có câu trả lời rồi còn gì.

- Bà ấy có nói với cậu về tôi không? Andrew quan sát Alberto rồi đứng dậy.

- Chúng ta sẽ nói chuyện này vào ngày mai nhé, sau khi tôi từ Gahan trở về. Chúc ông một tối tốt lành, Alberto.

*


Vừa rời khỏi nhà hàng, Andrew vừa tìm kiếm chiếc Coccinelle của Marisa. Tiếng còi xe khiến anh chú ý. Marisa thò đầu qua cửa kính chiếc Peugeot break 406 để gọi anh.

- Chúng ta đi thôi, hay là anh đổi ý rồi? Andrew lên xe.

- Chú tôi sợ xe của tôi đi không đủ an toàn.

- Tôi tự hỏi ông ấy lấy đâu ra ý nghĩ như vậy được chứ, Andrew đáp.

- Đây là xe của chú tôi, nói thế để anh biết ông ấy coi trọng nhiệm vụ của chúng ta nhường nào.

- Ngừng nói cái từ ấy đi, thật lố bịch! Chúng ta không làm nhiệm vụ, tôi không làm cho cơ quan mật vụ mà là cho một tờ báo có tên tuổi. Tôi sẽ tra hỏi cái người có tên là Ortega kia và tìm cách làm cho hắn thừa nhận mình là Ortiz, nếu đó đúng là Ortiz.

- Tốt hơn hết là anh nên im lặng thay vì cứ nói tào lao chi xiên, Marisa vặn lại.

Và thế là trong suốt quãng đường một trăm tám mươi ki lô mét tới Gahan, cả hai gần như không nói gì với nhau. Marisa tập trung nhìn đường, đúng như chú cô từng nói, con đường vô cùng xấu mà lại hầu như không có đèn chiếu sáng. Họ đến đoạn đường giao nhau đã bàn tới vào quãng nữa đêm. Marisa đỗ xe trước tượng thánh giá rồi dùng đèn pin kiểm tra xung quanh.

- Nếu lốp xe bị nổ ở đây, cô nói với Andrew, thì chiếc xe sẽ chạy đến cánh đồng kia là dừng, anh thấy đấy, không có gì đáng lo cả, chú tôi đã không nói dối.

Andrew kiểm tra mặt đường nhờ vào ánh sáng chiếu từ đèn pha ô tô và anh tự hỏi khi nào thì người của Alberto sẽ can thiệp.

- Lên xe đi, Marisa ra lệnh, con đường nhỏ dẫn đến tháp dự trữ nông sản nằm ngay kia rồi, chúng ta sẽ bắt đầu ẩn mình cũng như nhấm nháp thứ gì đó thôi, thời gian sẽ rất dài đấy.

Cô khởi động lại động cơ rồi tiến về phía con đường nhỏ vòng qua mấy cái tháp. Cô đỗ xe ở giữa hai tháp chứa hạt rồi tắt đèn pha. Trong lúc để cặp mắt dần quen với cảnh tranh tối tranh sáng, Andrew nhận ra rằng bọn họ có tầm nhìn hoàn hảo bao quát toàn cảnh khu vực diễn ra vụ việc, trong khi đó, từ đường cái thì không thể nhận ra cả hai được.

- Chú của cô thực sự không tình cờ bỏ lại thứ gì đó chứ?

- Alberto từng là thành viên phong trào du kích Montonero, ông ấy chiến đấu chống lại lũ đểu cáng trong một thời kỳ mà họ có thể bắn ngay khi thấy mục tiêu. Có thể nói ông có nhiều kinh nghiệm. Nếu bằng tuổi anh bây giờ, ông ấy sẽ thế chỗ anh trong chiếc xe này đó.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 12-1-2015 10:52:27 | Chỉ xem của tác giả
- Marisa, tôi không phải thuộc hạ của ông ấy, hãy ghi nhớ điều này trong đầu cô chỉ một lần thôi.

- Anh đã nhắc đi nhắc lại điều đó đủ rồi. Tôi đã hiểu rõ. Anh có đói không?

- Không đói lắm.

- Dù gì cũng nên ăn một chút, vừa nói cô vừa đưa cho anh một chiếc sandwich. Anh sẽ cần phải huy động hết sức bình sinh đấy.

Cô bật đèn mui rồi vừa nhìn Andrew vừa cười.

- Gì thế? Có gì khiến cô buồn cười à?

- Anh đấy.

- Thế tôi có gì đáng buồn cười nào?

- Nửa bên trái anh cũng không đến nỗi nào, còn nửa bên phải anh có thể gọi là Người Voi được đó.

- Cảm ơn cô đã khen!

- Đó chỉ là nửa lời khen thôi, còn phụ thuộc vào việc ta đứng ở phía bên nào đã.

- Cô có thích tôi thử cầm lái không?

- Không, tôi thích nhìn phía mặt anh bị dần cho một trận hơn, hợp với tôi hơn.

- Tôi chắc là Antonio sẽ vui khi nghe điều này.

- Antonio không bảnh trai nhưng là người tốt.

- Chuyện đó chẳng hề liên quan đến tôi.

- Thế còn anh, vợ anh có đẹp không?

- Chuyện này cũng chẳng can hệ gì đến cô.

- Chúng ta sẽ bên nhau gần như hết đêm trong chiếc xe này, anh thích chúng ta nói chuyện về thơi tiết ư?

- Valérie rất xinh.

- Điều ngược lại hẳn sẽ khiến tôi ngạc nhiên đấy.

- Sao cô lại nói thế?

- Bởi tôi nghĩ rằng anh thuộc típ người phải cảm thấy tự mãn khi tay trong tay đi dạo với một phụ nữ xinh đẹp.

- Cô nhầm rồi. Chúng tôi quen nhau từ hồi học trung học, tôi chẳng có nét gì của một kẻ biết quyến rũ, tôi rất rụt rè và không có khiếu tán tỉnh con gái, điều này vẫn chẳng hề thay đổi.

Điện thoại của Marisa rung trong túi, cô lấy ra rồi đọc cho Andrew nghe tin nhắn cô vừa nhận được.

- Chiếc xe tải đã hoàn thành nhiệm vụ của nó ở lối ra Villa Maria, xe của Ortiz đang đi về hướng quốc lộ 8. Chúng sẽ tới đó trong tối đa là bốn tiếng đồng hồ nữa.

- Tôi cứ tưởng ở đây điện thoại không có sóng chứ?

- Đó sẽ là trường hợp sắp xảy ra. Trạm phát sóng của vùng này nằm cách đây hai mươi ki lô mét và khi nó bị cắt điện thì sẽ không thể liên lạc được nữa.

Andrew mỉm cười.

- Có thể cô có lý, buổi tối hôm nay càng lúc càng mang không khí của một điệp vụ.

- Nó không khiến anh phật ý đến thế chứ.

- Cho tôi cái sandwich đó và ngừng việc chọc quê tôi đi, rốt cuộc tôi cũng sắp thấy cô quyến rũ rồi đấy.

Marisa xoay nghiêng về phía băng ghế sau để lộ cặp mông khiến Andrew không thể dửng dưng được.

- Cầm lấy này, anh dùng cà phê nhé, vừa nói cô vừa chìa một cái cốc cho Andrew.

Một tiếng sau, họ nghe thấy tiếng động cơ phía xa xa. Marisa tắt đèn mui đi.

- Giờ vẫn quá sớm nên khó có thể là Ortiz, Andrew thì thầm.

Marisa phá lên cười.

- Anh thì thào thật là đúng, chúng ta chẳng thận trọng chút nào cả; chúng ta đang ở cách đường cái năm mươi mét, họ có thể nghe thấy tiếng chúng ta... Chưa, đó chưa phải là Ortiz.

- Thế sao cô lại tắt đèn?

Và trước khi Andrew kịp hiểu chuyện gì xảy đến với mình, Marisa đã vắt chân qua cần gạt tốc độ rồi ngồi giạng chân trên người anh. Cô lấy tay vuốt ve mơn trớn môi anh rồi hôn anh.

- Suỵt, cô thì thầm, anh sắp kết hôn, tôi cũng vậy, sẽ chẳng có chuyện chúng ta phải lòng lẫn nhau đâu.

- Với một người vừa bảo tôi im lặng thì cô đúng là một kẻ ba hoa kỳ cục.

Marisa lại hôn Andrew lần nữa rồi họ cùng chui xuống băng ghế sau chiếc break, ở đó họ quấn lấy nhau trong đêm đen tĩnh mịch.

*


Marisa mở choàng mắt nhìn đồng hồ rồi hích tay Andrew.

- Anh dậy rồi mặc quần áo lại đi, ba giờ sáng rồi! Andrew giật nảy mình.

Marisa vớ lấy điện thoại di động trong túi. Sáu tin nhắn liên tiếp, mỗi cái thông báo tên một ngôi làng mà xe Ortiz vừa đi qua. Cô nhìn màn hình rồi vội vã lao lên hàng ghế trước.

- Không còn sóng nữa, họ đã cắt điện trạm phát rồi, Ortiz hẳn không còn ở xa đây đâu, nhanh lên anh! Andrew xỏ vội quần dài với áo pull rồi đến ngồi vào ghế cạnh tay lái. Im lặng bao trùm. Anh quay sang nhìn Marisa, ánh mắt cô đang dán chặt về phía đường cái.

- Nhìn phía trước anh ấy, cô nói, mọi việc xảy ra ở đó chứ!

- Thế còn chuyện đã xảy ra ở phía sau? Andrew thử liều.

- Chẳng có gì xảy ra ngoài một khoảnh khắc đẹp đẽ giữa hai người lớn thuận tình cả.

- Khoảnh khắc đẹp đẽ nào? Andrew vừa hỏi vừa cười.

Marisa lại hích cho anh một cú nữa.

- Em có nghĩ là bạn của chú em đã trông thấy chúng ta khi họ đến rải đinh trên đường cái không?

- Tốt nhất là không nên như thế, cho cả anh và cho cả em nữa. Giờ thì hãy cầu trời cho chúng ta không bị lỡ mất tên Ortiz đi.

- Nếu xe của hắn đi qua rồi thì nó sẽ phải nằm chình ình giữa đường, phải không nào? Em thấy chiếc xe nào không?

Marisa không đáp. Có tiếng động cơ xe đang tiến lại gần vẳng từ phía xa lại. Andrew cảm thấy nhịp tim đang đập dồn.

- Thế nhỡ không phải chúng thì sao? Andrew thì thầm.

- Tai bay vạ gió... đáng tiếc, nhưng đôi khi cũng khó tránh!

Và trong lúc Andrew còn đang lo lắng thì một chiếc xe hòm màu đen bất thần lao tới phía trước bức tượng thánh giá. Ba bánh xe nổ cùng lúc, tài xế phải ra sức giữ xe chạy đúng lộ trình, những chiếc xe bị chệch tay lái rồi bắt đầu chạy ngoằn ngoèo trước khi lao xuống sườn núi. Nó trượt xuống, mũi xe cắm sâu vào một ổ gà, phần đuôi xe chồng lên rồi chiếc xe lộn nhiều vòng trong tiếng ầm inh tai nhức óc. Kính chắn gió vỡ tan còn người ngồi ghế cạnh lái bắn ra ngoài. Chiếc xe tiếp tục lộ trình điên rồ của nó bằng phần nóc xe, kéo theo sau nó là một chùm tia lửa điện trước khi dừng lại bên rìa cánh đồng. Sau cảnh lộn xộn là sự im lặng chết chóc.

- Nhẹ nhàng, mọi thứ phải thật nhẹ nhàng như thế đấy, Andrew vừa rời khỏi chiếc break vừa bực bội nói.

Marisa túm lấy cánh tay anh rồi buộc anh ngồi lại vào xe. Cô xoay chìa khóa rồi tiến về phía con đường đất. Cô dừng lại bên lề đường nhìn cảnh tượng hoang tàn dưới ánh đèn pha. Một gã đàn ông nằm cách phần sót lại của chiếc xe chừng mười mét. Andrew chạy vội về phía gã. Gã đang ở trong tình trạng rất tồi tệ, nhưng vẫn còn thở. Marisa tiến về phía chiếc xe bị nạn. Tay tài xế, bị bất tỉnh nhân sự, bê bết máu trên mặt. Ở hàng ghế sau, bị dồn bẹp rúm trong khoang xe do vụ va chạm, một gã đàn ông khác đang rên rỉ khi đã lấy lại tinh thần.

Andrew tiến đến bên Marisa rồi nằm bò xuống đất để luồn vào khoang xe.

- Giúp anh một tay nào, anh nói với Marisa, phải đưa hắn ra ngoài trước khi chiếc xe bắt lửa.

Marisa quỳ gối xuống rồi lạnh lùng nhìn gã đàn ông bị thương.

- Mi nghe rõ chứ, chiếc xe sắp bốc cháy rồi. Bọn ta muốn hỏi mi vài câu, hãy trả lời nhanh nếu như mi không muốn mình thành lợn quay.

- Các người là ai? Các người muốn gì ở tôi? gã đàn ông rên rỉ.

- Bọn ta mới là người đặt câu hỏi, còn mi, mi chỉ việc trả lời thôi.

- Mẹ kiếp, Marisa, ngừng ngay mấy thứ ngu ngốc đó mà lại giúp anh đi, như thế này cũng đủ tổn thất lắm rồi, Andrew vừa gắng lôi người bị thương ra khỏi chiếc xe trơ khung vừa hét lên.

- Cứ để hắn lại cho đến khi hắn chịu nói thì thôi. Tên thật của mi là gì? cô lên tiếng hỏi.

- Miguel Ortega.

- Còn ta, ta là Evita Perón! Ta sẽ cho mi cơ hội thứ hai, Marisa vừa nói tiếp vừa đặt một điếu thuốc lên môi.

Cô lôi ra một hộp diêm trong túi, quẹt một que rồi đưa que diêm bốc cháy lại gần mặt Ortega.

- Tôi là Miguel Ortega! hắn hét lên, cô điên mất rồi, đưa tôi ra khỏi đây đi.

- Cố chịu đi, càng lúc mùi xăng càng nồng nặc kìa, cô nói.

Andrew dùng hết sức bình sinh để thử kéo Ortega ra ngoài, nhưng chân của ông già này bị kẹt dưới ghế lái và nếu như không được Marisa giúp đỡ thì anh sẽ không tài nào kéo nổi.

- Đi thôi, chúng ta rút lui khỏi đây thôi, vừa nói Marisa vừa thả que diêm vào trong xe ô tô. Ngọn lửa chập chờn rồi tắt ngóm. Marisa quẹt một que khác rồi châm lửa cả hộp, giữ nó bằng các đầu ngón tay.

Ortega nhìn ngọn lửa đang nhảy múa phía trên đầu mình.

- Ortiz, tôi là Felipe Ortiz, cô tắt nó đi, tôi xin cô đấy, tôi còn có gia đình, đừng làm thế!

Marisa ném hộp diêm ra xa rồi nhổ vào mặt thiếu tá Ortiz. Andrew giận điên lên. Marisa chui vào trong xe rồi đẩy ghế xe lên. Andrew cuối cùng cũng đưa được Ortiz ra khỏi xe rồi kéo ông ta ra phía đường cái để tránh xa chiếc xe.

- Phải xem cả tài xế nữa, anh ra lệnh.

Trong lúc anh quay lại chiếc xe hòm, những tia lửa điện bắt đầu nổ lẹt đẹt dưới nắp đậy máy rồi chiếc xe bốc cháy. Anh nhìn thấy cơ thể viên tài xế bắt lửa, khuôn mặt hắn biến dạng trước khi khói che mờ cảnh tượng đầy ác mộng.

Andrew lấy tay ôm đầu rồi quỳ xuống để nôn. Khi các cơn co thắt dịu xuống, anh ra chỗ Ortiz đang nằm dài bên vệ đường, Marisa đang ngồi xổm hút thuốc bên cạnh hắn.

- Chúng ta đưa ông ta đến bệnh viện và đưa cả gã đàn ông đang nằm sõng soài dưới kia nữa, Andrew ra lệnh.

- Không, Marisa vừa đáp vừa đung đưa chùm chìa khóa xe break, và nếu anh lại gần, em sẽ ném chúng xuống cánh đồng đấy.

- Một người chết với em chưa đủ sao?

- Một so với ba mươi nghìn ư? Không, với em như thế là chưa đủ. Chúng ta sẽ chơi hiệp thứ hai và lần này thì em có lợi thế. Nếu thứ rác rưởi này muốn sống thì hắn sẽ phải nói. Rút sổ tay cùng bút của anh ra, anh nhà báo à, thời điểm vinh quang của anh tới rồi!

- Tôi đau quá, Ortiz cầu xin, đưa tôi tới bệnh viện đi, tôi sẽ nói tất cả những gì cô muốn trên đường đi.

Marisa đứng dậy quay ngược về chiếc break, mở hộp đựng găng rồi trở lại với khẩu súng lục của Alberto.

Cô gí nòng súng vào thái dương Ortiz rồi lên nòng.

- Em sẽ giữ vai trò ghi tốc ký, chúng ta bắt đầu phỏng vấn được chứ? Và bởi chân ông ta đang chảy máu, nếu là anh em sẽ không để lãng phí quá nhiều thời gian như vậy đâu.

- Em cũng sẽ bắn bỏ anh chứ, nếu anh từ chối tham gia vào trò khốn nạn này? Andrew lên tiếng hỏi.

- Không, em rất thích anh nên không thể làm chuyện tương tự như vậy, nhưng thanh toán nợ nần với hắn thì với em chẳng có vấn đề gì cả, thậm chí em còn lấy làm thích thú.

Andrew quỳ xuống cạnh Ortiz.

- Chúng ta kết thúc phỏng vấn càng nhanh càng tốt nhé, để tôi còn đưa ông đi. Tôi rất lấy làm tiếc, tôi không muốn mọi chuyện xảy ra như thế này đâu.

- Anh nghĩ là hắn cũng lấy làm tiếc khi cắt đứt phanh xe của Antonio hay khi hắn cử đám tay chân đến phòng khách sạn của anh à?

- Các người đã đến lãnh địa của tôi, các người hỏi han tất cả mọi người. Chúng tôi chỉ muốn ngăn các người, hăm dọa các người thôi chứ không muốn các người gặp nạn.

- Phải rồi, dĩ nhiên rồi, Marisa thở dài. Mi đi mà giải thích điều này với Antonio nếu như mi gặp anh ấy ở bệnh viện nhé. Bọn ta cũng vậy, bọn ta chỉ muốn hăm dọa mi thôi, thế là chúng ta hết nợ, đúng không? À không, chưa hẳn thế, mi nhìn mặt bạn tao xem, mi thấy người của mi hành xử như thế nào rồi chứ?

- Tôi chẳng liên quan gì đến chuyện đó cả, tôi không biết các người là ai.

Andrew bị thuyết phục trước sự thành thực của Ortiz, hắn dường như hoàn toàn không hay biết gì về thân thế của anh.

- Tôi là Andrew Stilman, tôi là phóng viên tờ The New York Times. Tôi đang thực hiện một cuộc điều tra về lộ trình của một phi công và những hoạt động của ông ta thời chế độ độc tài gần đây. Có phải ông là thiếu tá Ortiz đã phục vụ từ năm 1977 đến 1983 với vai trò là sĩ quan phi công thuộc đội tuần tra bờ biển?

- Cho đến ngày 29 tháng Mười một năm 1979 thôi. Tôi không bao giờ còn điều khiển máy bay sau ngày này nữa.

- Tại sao?

- Vì tôi không thể chịu nổi điều họ ra lệnh cho tôi phải làm.

- Thế nhiệm vụ của ông là gì, thiếu tá Ortiz?

Ortiz thở dài. - Đã lâu lắm rồi không ai còn gọi tôi là thiếu tá nữa.

Marisa gí khẩu súng vào má hắn.

- Bọn ta cóc cần quan tâm đến tâm trạng của mi. Hãy bằng lòng với việc trả lời các câu hỏi thôi.

- Tôi thực hiện các chuyến bay tuần tra dọc biên giới với Uruguay.

Marisa lướt khẩu súng xuống tận cẳng chân Ortiz, cô dùng nòng súng vuốt ve mẩu xương lòi ra khỏi vết thương há miệng. Ortiz hét lên đau đớn. Bất thình lình, Andrew đẩy cô ra xa.

- Nếu cô còn làm thế lần nữa, tôi sẽ để cô lại đây một mình, dù tôi có phải đi bộ về Buenos Aires, cô rõ chứ?

- Giờ chúng ta lại còn xưng hô cô tôi với nhau nữa hả? Marisa vừa đưa mắt lẳng lơ khêu gợi nhìn anh vừa vặn lại.

- Đưa tôi tới bệnh viện đi, Ortiz cầu xin.

Andrew cầm lại sổ, bút.

- Ông đã từng tham gia những chuyến bay chết chóc, phải không thiếu tá Ortiz?

- Đúng vậy, ông ta thì thào.

- Ông đã thực hiện bao nhiêu chuyến bay?

- Ba mươi bảy, ông ta thở hổn hển.

- Mỗi chuyến bay có tầm hai mươi người, cái trò khốn nạn này đã ném hơn bảy trăm người xuống dòng Rio de la Plata, Marisa lên tiếng.

- Ở vị trí phi công, tôi không nhìn được chuyện gì xảy ra ở phía sau cả, nhưng tôi biết. Khi máy bay đột nhiên nhẹ bỗng đi lúc đổi thế cân bằng mà chưa cần tôi chạm vào cần gạt, tôi biết chuyện vừa xảy ra. Tôi chỉ tuân theo mệnh lệnh mà thôi. Nếu từ chối, tôi sẽ ăn đạn ngay. Cậu sẽ làm gì nếu ở địa vị tôi?

- Tôi thà hy sinh cái mạng mình còn hơn là tham gia vào chuyện ghê tởm như vậy.

- Cô chỉ là một đứa bé con, cô không biết mình đang nói gì đâu, cô không có bất cứ ý niệm gì về chế độ độc tài. Tôi là lính chuyên nghiệp, được huấn luyện để tuân lệnh, để phục vụ Tổ quốc tôi mà không được phép đặt câu hỏi. Cô không biết thời kỳ đó như thế nào đâu.

- Tôi sinh vào thời đó, đồ rác rưởi à, và bố mẹ đẻ của tôi nằm trong số những người bị các người sát hại sau khi đã bị tra tấn.

- Tôi chưa bao giờ tra tấn ai cả. Tất cả những ai trên máy bay của tôi đều đã chết rồi, hoặc chẳng khác nào là chết cả. Và nếu như tôi muốn đóng vai anh hùng, họ sẽ bắn chết tôi, cả gia đình tôi sẽ bị bắt và sẽ lại có một phi công khác thế chỗ tôi ngay.

- Thế nên ông đã ngừng bay vào năm 1979? Andrew chen ngang.

- Bởi vì tôi không thể tiếp tục. Tôi chỉ là một người lính bình thường, một con người không gây rắc rối, càng không dũng cảm hơn ai cả. Không thể công khai nổi dậy chống lại các cấp chế độ độc tài. Tôi đã quá sợ những hậu quả xảy đến với người thân của mình. Một tối tháng Mười một, tôi đã thử lao máy bay xuống lòng sông cùng “hàng” của nó và ba sĩ quan đang thực thi công việc bẩn thỉu của họ. Chúng tôi bay rất thấp, trong đêm tối đen, đèn đóm tắt hết. Tôi chỉ cần đột ngột đẩy cần mà thôi. Nhưng tay hoa tiêu đã vừa kịp giữ được máy bay. Trở về căn cứ, hắn đã tố cáo tôi. Tôi bị bắt rồi bị đưa ra tòa án quân sự đặc biệt. Nhưng một bác sĩ quân y đã giúp tôi tránh bị hành quyết. Ông ấy biện minh là tôi không còn lý trí, và rằng tôi không phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Febres đã ưu ái tôi. Một số người khác cũng bắt đầu nao núng. Ông ta sợ rằng việc xử bắn tôi sẽ khiến nhiều người đào ngũ, trong khi đó, nếu tỏ ra khoan dung với một số viên sĩ quan từng phục vụ Tổ quốc, hắn sẽ khiến người của mình cảm phục. Tôi đã được thay đổi bản án và được phục viên.

- Mi đã tham gia sát hại bảy trăm người vô tội và giờ mi muốn người ta phải rơi nước mắt trước số phận của mình ư? Marisa mỉa mai.

- Tôi không bảo hai người phải làm thế. Khuôn mặt của bọn họ, dù chưa bao giờ được trông thấy, vẫn luôn ám ảnh cuộc sống của tôi suốt ba mươi năm qua.

- Ông đã tạo thân thế mới cho mình bằng cách nào? Sao ông có thể sống ẩn mình vô danh trong suốt ngần ấy năm tháng? Andrew cắt ngang.

- Khi bảo vệ những người từng phục vụ mình, quân đội sẽ tự bảo vệ được chính nó. Vào cuối cuộc “chiến tranh bẩn thỉu”, Ferbes đã giúp chúng tôi. Họ cho chúng tôi giấy tờ mới với quá khứ được sắp xếp lại, một mảnh đất hay một công việc nho nhỏ để bắt đầu lại cuộc sống.

- Đất đai và công việc ăn cắp từ chính nạn nhân của mình! Marisa kêu lên.

- Cô là cháu gái của Alberto phải không? Ortiz hỏi.

- Có thể ông đã quay trở lại với cuộc sống dân sự, nhưng công việc tình báo của ông không hề kém nhạy bén chút nào.

- Anh đã nâng tầm tôi quá rồi. Tôi không có liên hệ với bất kỳ cơ quan tình báo nào cả. Tôi chỉ là một thương nhân nhỏ điều hành một xưởng thuộc da. Tôi đã đoán ra cô là ai ngay khi thấy cô lảng vảng ở Dumesnil. Cô rất giống ông ấy, cô nói chuyện hệt như ông ấy... đã bao lâu nay con cáo đó vây dồn tôi. Nhưng ông ta quá già để có thể tự mình làm việc đó.

- Tối nay thế là đủ rồi, vừa nói Andrew vừa gấp sổ lại, đi lấy xe đi Marisa, chúng ta sẽ cho ông ta lên và đón cả kẻ bị thương kia nữa, hy vọng là hắn vẫn còn sống. Nhanh chân nhanh tay lên nào, hay anh phải đá đít em đây.

Marisa nhún vai, cất vũ khí rồi đi về phía chiếc break, hai tay đút túi.

- Tôi không hề cử người đến khách sạn của anh, Ortiz tiếp tục nói ngay khi được ở một mình với Andrew. Chắc chắn đó là Alberto. Con người đó xảo quyệt hơn anh nghĩ nhiều, hắn điều khiển anh ngay từ đầu rồi, để đưa anh hoàn thành điều mà hắn không thể tự mình làm. Chính hắn đã tổ chức vụ phục kích này, đúng không? Anh chỉ là một con tốt thí được hắn sử dụng để chơi ván này thôi.

- Im mồm đi Ortiz, ông không biết mình đang nói gì đâu. Alberto không phải là người khiến tôi cất công đến Argentina. Tôi đã theo dấu ông từ nhiều tuần nay, kể từ khi họ tin tưởng trao cho tôi điều tra vụ này.

- Sao lại là tôi chứ không phải ai khác?

- Do tình cờ của cuộc sống mà thôi, tên ông nằm trong tập hồ sơ mà chúng tôi nhận được ở tòa soạn.

- Thế ai đã gửi cho anh tập hồ sơ đó, anh Stilman? Tôi đã bảy mươi tuổi, sức khỏe của tôi không được tốt cho lắm. Tôi chẳng quan tâm đến việc sống những năm cuối đời trong tù, hình phạt đó gần như sẽ là niềm an ủi cho tôi. Nhưng tôi có hai cô con gái, anh Stilman à, chúng nó chẳng làm gì nên tội và đứa con gái út hoàn toàn không hay biết gì về quá khứ của tôi. Nếu anh tiết lộ thân thế của tôi, không phải là anh đang kết án tôi mà là chính con bé. Hãy kể câu chuyện đáng thương về thiếu ta Ortiz, nhưng đừng nêu tên tôi ra, tôi xin anh đấy. Nếu điều anh muốn là một cuộc trả thù, hãy bỏ mặc tôi mất máu bên vệ đường. Đó sẽ là sự giải thoát. Anh không biết tham gia vào việc tàn phá cuộc sống của những người vô tội khổ tâm như thế nào đâu, với anh giờ vẫn còn chưa quá muộn.

Andrew mở sổ tay, lật giở vài trang rồi lấy ra một bức ảnh cho Ortiz xem.

- Ông có nhận ra cô bé này không? Ortiz nhìn khuôn mặt đứa trẻ lên hai trong bức ảnh và đôi mắt ông ta ngân ngấn nước.

- Tôi đã nuôi dạy con bé.

*


Chiếc xe lao nhanh trên con lộ số 7. Ortiz đã bất tỉnh nhân sự sau khi Andrew và Marisa đưa ôn ta nằm ra khoang sau chiếc break. Tình trạng sức khỏe của tay vệ sĩ cũng không khá hơn.

- Chúng ta cách bệnh viện gần nhất bao xa? Andrew vừa liếc nhìn hai người bị thương vừa hỏi.

- Bệnh viện San Andrés de Giles nằm cách đây chừng bốn mươi ki lô mét, chúng ta sẽ tới đó trong vòng nửa tiếng nữa.

- Hãy thu xếp để chúng ta đến được đó càng nhanh càng tốt, nếu như em muốn hai hành khách của chúng ta còn sống. Marisa nhấn ga.

- Anh cũng rất muốn chúng ta vẫn còn sống, Andrew lên tiếng, bám chặt vào ghế.

- Anh đừng có lo, giờ chúng ta đã có lời tự thú của hắn rồi, em chẳng muốn hắn chết đâu. Hắn sẽ bị đưa ra công lý xét xử và sẽ phải trả giá cho tội ác của mình.

- Điều này khiến anh rất ngạc nhiên đó!

- Sao vậy?

- Thế em định nói gì khi ra tòa? Rằng em đã có được lời thú tội của ông ta bằng cách chĩa súng vào thái dương ông ta ư? Và em sẽ tâm sự trước hay sau khi tiết lộ rằng chúng ta đã cố tình gây tai nạn khiến một người bị chết? Nếu thẩm phán ưu ái chúng ta, chúng ta sẽ có thể đề nghị ông ấy cho chúng ta chia sẻ buồng giam với Ortiz và tiếp tục cuộc nói chuyện của chúng ta... -

Anh đang luyên thuyên cái gì thế?

- Rằng càng ra sức che đậy, em và chú em lại càng quên mất rằng bên ngoài quán bar tồi tàn kia còn có những luật lệ mà ta không thể vi phạm. Chúng ta là đồng phạm trong một vụ giết người, cũng có thể là hai vụ, nếu chúng ta không đến bệnh viện kịp. Anh thậm chí không biết liệu mình có thể xuất bản bài báo không nữa!

- Đó là một vụ tai nạn và chúng ta chẳng liên quan gì tới chuyện đó cả. Chúng ta đi ngang qua đó và chúng ta đã cứu hai người đàn ông này, đó là phiên bản duy nhất mà anh sẽ mang về.

- Bần cùng bất đắc dĩ thì đó là phiên bản chúng ta sẽ nói khi tới chỗ cấp cứu. Trừ phi Ortiz tỉnh lại và tố cáo chúng ta trước khi chúng ta kịp có thời gian để chuồn đi.

- Anh sẽ bỏ qua ư?

- Thế em muốn anh phải lý giải việc mình có được những thông tin này bằng cách nào đây? Bằng cách kể cho ban biên tập là mình đã tham gia một vụ giết người có chủ đích ư? Chắc họ sẽ thích thế lắm, đó sẽ là vụ ấn tượng nhất của tờ báo. Em và chú em đã khiến anh phải chờ đợi và lo lắng cùng với đó là hàng tuần trời lao động nữa.

Marisa dùng hết sức đạp chân phanh, mấy chiếc lốp nghiến kèn kẹt rồi chiếc xe dừng khựng ngang đường.

- Anh không được từ bỏ.

- Em muốn anh làm gì khác đây? Ngồi bóc lịch trong nhà tù Argentina mười năm để công lý được thực thi, mọi công lý! Khởi động lại xe đi trước khi anh phát khùng thực sự và anh để em lại trên đường này, đi thôi!

Marisa nhanh chóng khởi động và chiếc xe liền lao đi. Ortiz rên rỉ ở phía sau.

- Chỉ còn thiếu nước này nữa thôi, Andrew thở hắt ra. Đưa cho anh khẩu súng của em đi.

- Anh sẽ sử dụng nó?

- Không, nhưng nếu em có thể ngừng nói những điều ngớ ngẩn đi thì điều đó sẽ giúp anh được nghỉ ngơi.

- Trong hộp đựng găng ấy.

Andrew cầm lấy khẩu súng rồi quay lại phía Ortiz, quyết tâm khử ông ta. Cánh tay anh từ từ hạ xuống.

- Anh không thể làm vậy.

- Mẹ kiếp, bắn đi, nếu còn do dự, chúng ta sẽ tiêu đời đó.

- Trước hết phải suy nghĩ đã. Đằng nào hắn cũng sẽ tố cáo chúng ta ngay khi ở trong tình trạng đủ để làm được chuyện đó.

- Như thế ít ra cũng đủ cho anh thời gian kịp rời khỏi nơi đây, anh có thể bắt chuyến bay đầu tiên về New York.

- Thế còn em thì sao? Ông ta biết em là ai mà.

- Em ư, em tự xoay xở được.

- Không, không có chuyện đó đâu, cả hai chúng ta cùng dính vào chuyện điên rồ này thì chúng ta sẽ thoát ra cùng nhau.

Andrew cất khẩu súng đi.

- Có thể anh sẽ nghĩ ra một cách... em tăng tốc lên và giữ im lặng đi, anh cần suy nghĩ.

Trong khi chiếc break lao vào cổng khu vực cấp cứu, Ortiz lại một lần nữa ngất đi. Marisa nhấn còi inh ỏi rồi gọi hai người khiêng cáng đang rời khỏi buồng thông áp mang thêm một chiếc cáng nữa. Cô giải thích với vị bác sĩ nội trú đang trực rằng họ đi qua nơi xảy ra tai nạn ở đoạn Gahan. Bạn cô và cô đã kéo được hai người đàn ông ra khỏi xe, nhưng tài xế đã bị chết cháy. Vị bác sĩ nội trú yêu cầu y tá báo cảnh sát và trước khi đưa hai người bị thương vào phòng phẫu thuật, anh ta ra lệnh cho Marisa đợi mình quay trở lại.

Marisa trả lời anh ta rằng cô sẽ đi đỗ xe và quay lại ngay tức thì.

*


- Kế hoạch của anh bây giờ là gì? vừa lên đường Marisa vừa hỏi.

- Chờ đợi.

- Xuất sắc.

- Chúng ta không muốn ông ta kể chuyện của chúng ta và ông ta cũng không muốn chúng ta kể chuyện của ông ta. Một người bạn cảnh sát một ngày nọ đã thổ lộ với anh rằng bắt một tên tội phạm mà không hiểu động cơ của hắn thì mới chỉ hoàn thành một nửa công việc. Nếu Ortiz tố cáo chúng ta, ông ta sẽ phải giải thích lý do tại sao chúng ta lại giăng cái bẫy này. Chúng ta liên kết với nhau bởi cùng một bí mật. Ngay khi ông ta hồi phục, anh sẽ quay lại thăm và đề nghị ông ta giao kèo.

- Thế thì hắn sẽ thoát tội như vậy sao?

- Chúng ta sẽ thấy ai là người quyết định sau rốt. Chú của em không phải là người duy nhất thích các trò chơi đông người, anh cũng có năng khiếu chơi cờ đấy, chúng ta sẽ dựa vào đó để được lợi thế trước đối thủ của mình.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 12-1-2015 16:21:05 | Chỉ xem của tác giả
21.


Marisa thả Andrew xuống khách sạn tầm cuối buổi sáng.

- Em đem trả ô tô cho Alberto, hẹn gặp anh sau.

- Có thật đây là xe của Alberto?

- Điều gì khiến anh hỏi như vậy?

- Nếu có camera giám sát đặt trước khu cấp cứu thì anh khuyên ông ấy nên tống khứ cái xe này đi và đi khai báo mất trộm xe ngay lập tức.

- Anh đừng quá lo, các bệnh viện tỉnh ở nước em đâu có đủ giàu để trang bị máy quay giám sát. Nhưng em sẽ chuyển lời nhắn của anh tới Alberto.

Andrew bước ra khỏi xe rồi cúi xuống nói qua cửa xe:

- Marisa, anh biết là em sẽ không nghe theo lời khuyên của anh đâu, nhưng tạm thời đừng nói với chú của em là anh đã có cách khóa khẩu Ortiz nhé.

- Anh sợ điều gì chứ? Marisa hỏi.

- Chỉ có chúng ta bị lộ diện, Alberto vẫn ẩn mình trong quán bar, tin anh đi, chỉ lần này thôi.

- Không tin anh mà khi đó em lại xuống ghế sau chiếc break hả, đồ ngốc?

Marisa bất thần nổ máy lao nhanh, Andrew đứng nhìn chiếc xe Peugeot khuất dần.

*


Andrew tới quầy lễ tân lấy lại chìa khóa phòng, Giám đốc khách sạn lại chỗ anh bày tỏ lời xin lỗi và đảm bảo rằng sẽ không còn một sự cố tương tự nào tái diễn trong khách sạn này nữa. Khách sạn sẽ áp dụng nhiều biện pháp an ninh để chuyện này không lặp lại. Để được thứ lỗi, ông ta thông báo với Andrew là đã cho người chuyển hành lý của anh lên phòng “hạng sang” nằm ở tầng trên cùng của tòa nhà.

Phòng hạng sang của khách sạn không phải là một căn phòng kiểu lâu đài tráng lệ nhưng nó cũng có một phòng khách nhỏ với góc nhìn xuống phố đẹp hơn. Vòi nước trong phòng tắm không còn rò rỉ và giường ngủ êm hơn nhiều.

Andrew liếc qua chiếc va li của mình để kiểm tra xem có bị thiếu đồ gì không. Trong lúc bới va li, anh nhận thấy một ngăn va li phồng to hẳn lên.

Anh mở khóa thì thấy một chiếc đầu máy hơi nước bằng kim loại, loại đầu máy thu nhỏ mà anh từng ao ước muốn mua tại một cửa hàng đồ cổ ở Brooklyn. Một mẩu giấy quấn quanh ống khói của đầu máy.

Em nhớ anh, em yêu anh, Valérie.

Andrew nằm dài xuống giường, anh đặt chiếc đầu máy xuống chiếc gối bên cạnh và vừa ngắm nhìn nó vừa chìm vào giấc ngủ.

*


Andrew tỉnh giấc vào tầm đầu giờ chiều khi có tiếng gõ cửa phòng; Alberto đang đợi anh mời vào phòng.

- Tôi cứ tưởng ông không bao giờ rời khỏi quán bar chứ? Andrew hỏi.

- Chỉ vào những dịp quan trọng thôi, Alberto đáp lời. Anh mặc áo khoác vào, tôi đưa anh đi ăn trưa.

Lúc xuống phố, Andrew nhoẻn miệng cười khi nhìn thấy xe ô tô của Alberto, một chiếc xe nhãn hiệu Nhật Bản chứ không còn là chiếc Peugeot break.

- Tôi nghe theo lời khuyên của anh, dù gì thì chiếc Peugeot đó cũng chạy hơn hai trăm nghìn ki lô mét rồi, đã đến lúc phải thay nó.

- Tôi không nghĩ ông đến tận đây chỉ để khoe xe mới với tôi chứ?

- Ồ, xe này là xe đi mượn ấy mà… tôi đến là để xin lỗi anh.

- Thật là một ngày…

- Tôi thành thật lấy làm tiếc về cái cách mà mọi việc đã diễn ra, tôi không bao giờ mong muốn điều đó và càng không bao giờ mong ai đó mất mạng.

- Tôi cũng đã cảnh báo ông trước đó rồi đấy thôi.

- Tôi biết, và chính vì thế mà giờ tôi càng cảm thấy tội lỗi. Anh nên rời Argentina trước khi cảnh sát sờ tới anh. Tôi đã bảo Marisa về quê nghỉ trong lúc mọi việc đang rắc rối dần lên.

- Thế cô ấy chấp nhận à?

- Không, con bé không muốn mất việc. Khi nào thực sự cần thiết, tôi sẽ viết thư cho dì con bé bảo bà ấy ra tay can thiệp. Marisa rất nghe lời bà ấy. Với anh thì lại khác, anh là người ngoại quốc, nếu anh phải trốn chạy khỏi đất nước này, chuyện sẽ còn phức tạp hơn. Để tránh rủi ro, tôi đã để anh chạy tới chạy lui như vậy đó.

Alberto dừng xe trước một cửa hiệu sách.

- Tôi tưởng chúng ta đi ăn chứ?

- Đúng vậy, có một quán ăn nhỏ trong hiệu sách này, đây là quán của một người bạn tôi, chúng ta có thể yên tâm nói chuyện thoải mái.

Hiệu sách rất ấn tượng, một hành lang đầy giá sách dẫn tới một khoảng sân trong có kê vài chiếc bàn xếp ngay ngắn. Trong không gian được hàng trăm cuốn sách bao quanh, ông chủ hiệu sách đang phục vụ đồ ăn cho vài người khách quen của chốn này. Sau khi chào hỏi bạn mình, Alberto mời Andrew ngồi đối diện với ông.

- Louisa và tôi chia tay nhau chỉ vì tôi là một kẻ hèn nhát, anh Stilman ạ. Đó là lỗi của tôi nếu con trai tôi có bị… mất tích. Tôi từng là một nhà hoạt động tích cực thời chế độ độc tài. Ờ thì, tôi cũng chẳng làm gì anh hùng cả, tôi tham gia xuất bản một tờ báo của phe đối lập, một tờ báo bí mật. Thời đó, chúng tôi có rất ít phương tiện, chỉ có lòng quyết tâm cùng một chiếc máy in ronéo, anh thấy đấy, chẳng có gì to tát cả nhưng chúng tôi vẫn có cảm giác đã phản kháng theo cách riêng của mình. Rốt cuộc, phe quân sự cũng tóm được một số người bên bọn tôi. Họ bắt giữ, tra tấn và rồi khiến những người đó mất tích. Những người rơi vào tay họ đều không hề khai báo gì.

- Trong số những người đó, ông có nhớ gì về một người tên là Rafaël không? Andrew hỏi.

Alberto nhìn Andrew không chớp mắt hồi lâu trước khi trả lời câu hỏi của anh.

- Cũng có thể, tôi cũng chẳng biết nữa, đã bốn mươi năm trôi qua rồi, chúng tôi đâu có quen nhau hết đâu?

- Thế còn vợ ông ta, Isabel?

- Tôi đã nói rồi, tôi không còn nhớ nổi nữa. Alberto nhún vai đồng thời dằn giọng nhấn mạnh. Tôi đã làm mọi thứ có thể để quên đi tất cả. Con trai Manuel của tôi bị bắt cóc không lâu sau những cuộc vây hãm tàn sát đồng đội của chúng tôi. Thằng bé chẳng liên quan gì tới tất cả những chuyện này. Manuel chỉ là một sinh viên ngành cơ khí không có hằn thù xích mích với ai bao giờ. Febres muốn tóm tôi thông qua con trai tôi. Dù sao thì đó cũng là điều Louisa vẫn nghĩ. Febres hẳn đã cho rẳng tôi sẽ nộp mạng để đổi lấy Manuel. Tôi đã không làm điều đó.

- Ngay cả khi để cứu con trai ông?

- Không, tôi làm vậy để cứu những đồng đội khác. Tôi biết là mình không thể chịu nổi bị tra tấn thêm một lần nữa. Và rồi Febres đã không bao giờ trả tự do cho Manuel. Chúng cũng không thả bất cứ ai. Louisa không bao giờ tha thứ cho tôi.

- Thế bà ấy biết ông làm báo chứ?

- Biết chứ, phần lớn các bài báo là bà ấy viết mà.

Alberto im lặng giây lát. Ông mở ví, rút ra tấm hình đã ố vàng chụp một thanh niên rồi đưa cho Andrew coi.

- Louisa là người mẹ có cậu con trai bị đánh cắp. Trong mắt của bà ấy, cả thế giới này là thủ phạm. Cậu nhìn coi, Manuel là cậu bé xinh xắn làm sao. Nó gan dạ, cao thượng và rất hài hước. Thằng bé yêu mẹ hơn tất cả. Tôi biết thằng bé đã không khai gì… để bảo vệ mẹ. Nó biết quan điểm của mẹ mình. Tiếc là anh không được nhìn thấy cảnh hai mẹ con bên nhau… Giữa tôi và thằng bé thì quan hệ cha con lại xa cách hơn, nhưng tôi yêu thằng bé hơn mọi thứ trên thế giới này, dẫu rằng tôi chưa bao giờ biết cách biểu lộ tình cảm với nó. Tôi ao ước được gặp lại thằng bé, dù chỉ một lần thôi. Tôi sẽ nói với nó là tôi tự hào về nó, nó đã khiến tôi hạnh phúc biết bao khi được làm cha và từ khi nó ra đi sự vắng mặt của nó nặng nề với tôi biết bao. Cuộc đời tôi đã chấm dứt vào cái ngày chúng bắt cóc nó. Louisa đã khóc hết nước mắt, tôi thì vẫn không ngừng ứa lệ mỗi khi bắt gặp một đứa tầm tuổi nó trên phố. Tôi đã từng đi theo sau những đứa hao hao giống Manuel với hy vọng nó quay lại gọi bố ơi. Nỗi đau có thể làm con người ta phát điên, anh Stilman ạ, bây giờ tôi mới hiểu ra cái điều mà ngày xưa tôi không hiểu. Manuel sẽ không bao giờ trở về nữa. Trong sân nhà tôi, tôi đã đào một cái hố, tôi chôn dưới đó đồ đạc, vở học, bút chì, sách và cả tấm chăn mà thằng bé đã đắp trong đêm cuối cùng ở nhà. Chủ nhật nào cũng vậy, tôi lại tới tưởng niệm dưới gốc cây phượng tím. Tôi biết Louisa vẫn nấp sau tấm rèm cửa sổ nhìn tôi, tôi biết bà ấy cũng đang cầu nguyện cho thằng bé. Có lẽ việc chúng tôi không được nhìn thấy xác của thằng bé lại tốt hơn.

Andrew đặt tay lên tay Alberto. Ông ngẩng đầu và mỉm cười buồn bã với anh.

- Không biết còn sống được đến sang năm không nhưng được thì khi ấy tôi sẽ tròn tám mươi tuổi và tôi vẫn mong chờ cái chết sẽ giúp tôi tìm lại được con trai. Tôi vẫn nghĩ rằng mình sống lâu như vậy cũng có lẽ là một hình phạt.

- Tôi rất tiếc, Alberto.

- Tôi cũng vậy. Do lỗi của tôi mà Ortiz sẽ dễ dàng thoát nạn. Khi nào hồi phục, hắn sẽ quay lại với cuộc sống của hắn như chưa có gì từng xảy ra. Tuy nhiên, chúng ta cũng đã gần đạt được mục đích.

- Ông có thể cho tôi mượn xe của ông tới tối mai được không?

- Đây là xe của một người bạn nhưng tôi có thể cho anh mượn, thế anh muốn đi đâu?

- Chúng ta sẽ nói lại điều đó sau.

- Anh chở tôi về quán bar rồi tôi để xe cho anh đi.

- Giờ này tôi có thể tìm Marisa ở đâu?

- Ở nhà con bé, tôi đoán vậy. Con bé ngủ ngày cày đêm, cuộc đời mới hay ho làm sao!

Andrew chìa quyển sổ cùng cây bút cho Alberto.

- Ông viết cho tôi địa chỉ của cô ấy nhưng đừng báo trước là tôi đến gặp cô ấy.

Alberto nhìn Andrew, vẻ sững sờ.

- Giờ thì đến lượt anh phải tin tưởng tôi.

*


Andrew để Alberto xuống xe rồi đi theo chỉ dẫn của ông để tới nhà Marisa.

Anh trèo lên ba tầng gác của tòa nhà chung cư nhỏ nằm trên đường Malabia trong khu phố Palermo Viejo. Marisa giật thót mình khi mở cửa trong tư thế bán khỏa thân với chiếc khăn tắm quấn quanh ngực.

- Trời đất, anh làm cái gì ở đây thế, em đang chờ một cô bạn.

- Gọi cho cô ấy để hủy hẹn rồi mặc quần áo vào hoặc ngược lại nếu em thích vậy.

- Không phải vì chúng ta đã ngủ với nhau một lần mà anh được ra lệnh cho em như vậy đâu nhé.

- Hai điều này chẳng liên quan gì với nhau cả, Andrew nói.

- Em hủy hẹn với bạn và chúng ta có thể ở lại đây nếu anh muốn, Marisa vừa nói vừa cởi chiếc khăn tắm.

Marisa quả là gợi cảm hơn nhiều so với hình ảnh mà Andrew còn lưu giữ trong tâm trí. Anh khuỵu gối xuống nhặt chiếc khăn lên rồi quấn nó quanh hông Marisa.

- Đôi khi lần thứ hai lại dở hơn lần đầu, em mặc quần áo vào đi, chúng ta có nhiều việc quan trọng khác phải làm.

Marisa quay lưng bước đi rồi đóng sầm cửa nhà tắm.

Andrew xem xét căn hộ của Marisa. Phòng khách vừa là phòng sinh hoạt vừa là phòng ngủ. Chiếc giường đã cũ nhưng độ trắng và sự mới mẻ của chăn mền như mời gọi người ta tới chui vào đó. Sát tường, hàng chồng sách tựa vào nhau. Những chiếc đệm ngồi đủ màu sắc xếp quanh chiếc bàn thấp đặt giữa phòng. Trên tường, giữa hai cánh cửa sổ để lọt qua thứ ánh sáng tuyệt đẹp, những giá sách oằn mình dưới sức nặng của một đống sách nữa. Mọi thứ nằm ngổn ngang mà lại cuốn hút, căn hộ có vẻ giống với cô chủ của nó.

Marisa bước ra khỏi phòng tắm, cô mặc một chiếc quần jean rách đầu gối và một chiếc áo t-shirt không che bầu ngực được bao nhiêu.

- Em có thể biết chúng ta sẽ đi đâu không? cô vừa hỏi vừa tìm chìa khóa.

- Đi thăm dì em. Marisa đứng khựng lại.

- Sao anh không nói sớm hơn! Marisa vừa rên rỉ vừa quay ngược trở lại.

Cô lôi từ chồng quần áo chất đống dưới sàn nhà ra một chiếc quần dài vải nhung kẻ đen kèm một chiếc áo hai dây, cô cởi quần bò và chiếc áo t-shirt rồi thay đồ trước mặt Andrew.

*


Andrew cầm lái, Marisa châm thuốc rồi mở cửa sổ xe ô tô.

- Anh muốn gì từ Louisa?

- Anh muốn đặt vài câu hỏi với bà ấy để kết thúc cuộc điều tra của mình và cũng để yêu cầu bà ấy đừng coi anh là kẻ đần nữa.

- Sao anh lại nói vậy?

- Bởi vì Alberto và bà ấy vẫn thường xuyên gặp nhau, hoàn toàn ngược lại những điều họ nói.

- Em rất là ngạc nhiên đấy, mà trước tiên, chuyện đó thì ảnh hưởng gì tới anh?

- Sau này em sẽ hiểu.

*


Louisa không có vẻ bất ngờ khi mở cửa cho Andrew và Marisa. Bà mời cả hai vào phòng khách.

- Ta có thể giúp gì cho hai đứa đây? Louisa hỏi.

- Nói cho tôi biết những điều bà thật sự biết về thiếu ta Ortiz.

- Tôi không biết gì nhiều về hắn, tôi đã nói với anh rồi đó thôi. Cho tới khi tôi gặp anh, Ortiz chỉ là một bức hình giữa bao bức hình khác trong cuốn album của tôi.

- Bà cho phép tôi xem lại cuốn album của bà chứ? Không phải là cuốn giữ ảnh những kẻ tra tấn mà là ảnh những người bị tra tấn.

- Tất nhiên rồi, Louisa đáp lời rồi đứng dậy.

Bà mở ngăn kéo tủ rồi đặt cuốn album trước mặt Andrew, anh lật giở từng trang cho tới trang cuối cùng. Khi đóng cuốn album lại, Andrew nhìn Louisa chằm chằm.

- Isabel và Rafaël Cruz, bà không có tấm hình nào của hai người này sao?

- Tôi rất tiếc, nhưng những cái tên này không gợi lên điều gì với tôi cả. Tôi không có đủ hình của tất cả ba mươi nghìn người mất tích, tôi chỉ có hình của năm trăm người có con cái bị bắt cóc mà thôi.

- Con gái họ tên là María Luz, cô bé mới lên hai khi người mẹ bị sát hại, bà không biết câu chuyện của cô bé này sao?

- Tông giọng của anh không gây ấn tượng với tôi lắm, còn thái độ láo lếu của anh lại càng không, anh Stilman ạ. Anh biết quá ít về công việc mà chúng tôi đã làm. Từ khi chúng tôi đấu tranh để sự thật được sáng tỏ, chúng tôi mới chỉ tìm lại được danh tính thực sự của mười phần trăm số trẻ bị bắt cóc. Chúng tôi còn cả một con đường dài cần phải đi và xét tuổi tác của tôi hiện nay thì chắc chắn tôi sẽ không đi hết được con đường này. Thế số phận của cô bé này thì có liên quan gì tới anh vậy?

- Thiếu tá Ortiz đã nhận nuôi cô bé, bà không thấy đây là sự trùng hợp kỳ lạ sao?

- Anh đang nói về sự trùng hợp nào vậy?

- Trong tập hồ sơ đã giúp chúng tôi theo dấu Ortiz có bức hình của María Luz nhưng lại không có một chú thích nào về mối liên hệ giữa hai người này.

- Dường như người thông tin cho anh đã mong muốn chỉ đường cho anh.

- Người đó là đàn ông hay đàn bà?

- Dì mệt rồi Marisa, đã đến lúc cháu tiễn bạn cháu về, đến giờ ngủ trưa của dì rồi.

Marisa ra hiệu cho Andrew đứng dậy. Khi hôn tạm biệt người dì, Marisa thầm thì vào tai bà để xin lỗi đã làm phiền bà và Louisa cũng thầm thì với cô cháu:

- Không cần phải thế, kể ra anh ta cũng đẹp mã, cuộc đời ngắn lắm cháu ạ.

Marisa bước xuống cầu thang, Andrew bảo cô đợi anh ở ngoài sân một lát, anh để quên chiếc bút trên bàn ăn.

Louisa cau mày khi thấy Andrew quay lại.

- Anh đã quên cái gì phải không anh Stilman?

- Bà cứ gọi tôi là Andrew, như thế sẽ làm tôi cảm thấy thoải mái hơn. Điều cuối cùng mà tôi muốn nói trước khi để bà nghỉ ngơi là tôi thấy mừng khi Alberto và bà đã hàn gắn lại.

- Anh đang nói cái gì vậy?

- Lúc nãy, chính bà đã nói về tuổi tác, tôi tự nhủ rằng bà đã hết cái tuổi lén lút gặp gỡ chồng cũ của mình rồi chứ, bà không thấy vậy sao?

Louisa nín thinh.

- Chiếc áo khoác treo trên giá chỗ cửa ra vào, đó là cái áo mà Alberto vẫn mặc khi tôi gặp ông ấy trong quán bar. Chúc bà ngủ ngon, Louisa… Bà cho phép tôi gọi bà là Louisa chứ?

*


- Anh có ý đồ gì thế? Marisa hỏi khi Andrew trở ra ngoài sân gặp cô.

- Anh đã nói với em trước khi đi đó thôi nhưng em không để tâm tới điều anh nói. Tối nay em có đi làm không?

- Có.

- Báo với ông chủ của em là em không đến được, em chỉ cần nói là em ốm, không cần phải nói dối xa gần gì cả.

- Thế sao em lại không đi làm chứ?

- Hôm qua anh đã hứa với em là chúng ta sẽ cùng nhau hoàn tất cái mà chúng ta đã bắt đầu, và đó chính xác là điều chúng ta sắp làm. Em có thể chỉ cho anh biết trạm xăng ở đâu, anh cần đổ đầy bình xăng.

- Anh đưa em đi đâu?

- Tới San Andrés de Giles.

*


Họ tới đầu ngôi làng sau hai giờ đi đường. Andrew dừng xe sát vỉa hè để hỏi một người qua đường xem đồn cảnh sát ở đâu.

Người đó chỉ đường cho anh và chiếc xe lại khởi động.

- Chúng ta sẽ làm gì ở đồn cảnh sát?

- Em không phải làm gì cả, em ở lại trong xe và đợi anh thôi.

Andrew đi vào đồn cảnh sát và yêu cầu được nói chuyện với sĩ quan trực. Viên sĩ quan duy nhất, tay lính chạy giấy tờ trả lời, giờ đã về nhà. Andrew vớ lấy tập ghi chú trên bàn rồi nguệch ngoạc số di động cũng như địa chỉ khách sạn của anh.

- Tôi đã đi qua hiện trường một vụ tai nạn khiến một người chết tối qua ở gần Gahan. Tôi đã đưa hai người bị thương tới bệnh viện. Tôi không có gì nhiều để kể nhưng nếu các anh cần một bản khai đúng chuẩn thì đây là địa chỉ để các anh đến tìm tôi.

- Tôi đã nghe về vụ tai nạn này, anh cảnh sát vừa rời khỏi ghế vừa trả lời. Chúng tôi đã nói chuyện với bác sĩ và ông ấy nói rằng anh đi mà không để lại thông tin liên lạc nào.

- Tôi đã đợi khá lâu trong bãi đậu xe, tôi có một cuộc hẹn quan trọng ở Buenos Aires, tôi tự nhủ là sẽ quay lại ngay khi có thể và anh thấy đó, đó là điều tôi đã làm.

Anh cảnh sát đề nghị ghi lại những gì Andrew đã chứng kiến. Anh ta ngồi xuống trước chiếc máy đánh chữ và gõ lại bản tường trình của Andrew. Chín dòng, không hơn một từ nào. Andrew ký vào bản tường trình và khiêm tốn đón nhận những lời khen ngợi của anh cảnh sát về nghĩa cử công dân của anh đã cứu sống hai mạng người rồi trở ra xe ô tô.

- Em có thể biết là anh đã làm gì trong suốt từng đó thời gian tại đồn cảnh sát được không? Marisa hỏi.

- Anh đã loại được một quân trên bàn cờ với Ortiz, anh sẽ giải thích cho em hiểu khi nào có thể, còn bây giờ chúng ta tới bệnh viện.

*


- Những người bị thương sao rồi? Andrew hỏi, chúng tôi đến hỏi thăm tình hình họ thế nào trước khi trở lại Buenos Aires.

- Anh đã quay lại rồi à? cậu bác sĩ nội trú thốt lên khi nhận ra Andrew trong sảnh. Chúng tôi tìm anh suốt tối qua, tôi đã nghĩ rằng anh có điều gì đó phải tự trách bản thân và anh đã vội lẩn đi.

- Tôi không chờ được mà anh thì không cho tôi bất cứ thông tin nào về giờ giấc anh ra khỏi phòng phẫu thuật.

- Làm sao mà tôi có thể biết điều đó được cơ chứ?

- Đó đúng là điều tôi đã tự nhủ, biết thế tôi đã không qua đêm trong bãi đậu xe. Tôi vừa từ đồn cảnh sát về.

- Thế anh đã nói chuyện với ai?

- Với trung sĩ Guartez nào đó, một người có vẻ cởi mở với giọng nói trầm trầm cùng cặp kính rất to.

Bác sĩ gật gù, miêu tả của Andrew tương đối giống với dung mạo của một trong ba cảnh sát tại ngôi làng đó.

- Họ quả là gặp may, quá là may vì anh đã đi ngang qua lúc đó. Người bị thương nặng nhất đã được chuyển lên thủ đô sáng sớm nay. Đây chỉ là một bệnh viện nhỏ, chúng tôi không được trang bị đầy đủ để có thể tiếp nhận những ca nghiêm trọng như vậy. Còn ông Ortega thì chỉ bị một vết thương rất sâu ở đùi và bị rách cơ. Chúng tôi đã phẫu thuật cho ông ta, giờ ông ta đang nằm dưỡng bệnh trong một góc tạm thời, hiện tại không còn phòng bệnh nào trống, ngày mai thì có thể, nếu không tôi sẽ chuyển ông ấy sang một bệnh viện khác. Anh có muốn tới thăm ông ấy không?

- Tôi không muốn làm ông ấy mệt mỏi vô ích, Andrew đáp lời.

- Chắc chắn là ông ấy sẽ rất vui nếu có thể nói lời cảm ơn người đã cứu mình. Tôi phải đi thăm các bệnh nhân khác, tôi để anh tự đi tới phòng ông Ortega nhé, nó nằm ngay đầu hành lang này thôi. Nhưng nhớ đừng ở lại quá lâu vì ông ấy cần lấy lại sức.

Cậu bác sĩ chào tạm biệt Andrew rồi đi khỏi, cậu ta đã bảo y tá trực ban rằng anh được phép vào thăm bệnh nhân.

Andrew kéo tấm rèm che giường Ortega nằm với giường bên cạnh để trống.

Ortega đang ngủ. Marisa lay lay vai hắn.

- Thế lại là cô à? Ortiz nói khi mở mắt.

- Ông cảm thấy trong người thế nào? Andrew hỏi.

- Tốt hơn từ lúc người ta cho tôi thuốc giảm đau. Thế anh còn muốn gì ở tôi nữa?

- Cho ông cơ may thứ hai.

- Anh đang nói tới cơ may nào vậy?

- Nếu tôi không lầm thì ông đã được chính quyền xác nhận mang họ Ortega, đúng không?

- Đó là họ in trên giấy tờ tùy thân của tôi, viên cựu thiếu tá cụp mắt xuống trả lời.

- Ông có thể rời khỏi đây với cái tên này và trở về nhà.

- Cho đến khi bài báo của anh được đăng?

- Tôi có chuyện cần thương lượng với ông.

- Tôi nghe anh nói đây.

- Ông hãy trả lời các câu hỏi của tôi, một cách thành thực, tôi nguyện sẽ kể câu chuyện của thiếu tá Ortiz mà không bao giờ đả động tới danh tính mới của ông.

- Điều gì đảm bảo cho tôi rằng anh sẽ giữ lời hứa?

- Tôi chỉ có thể hứa danh dự vậy thôi.

Ortiz quan sát Andrew hồi lâu.

- Thế cô ta, cô ta có biết giữ miệng không?

- Cũng hệt như cô ấy biết cầm súng chĩa vào thái dương ông tối qua vậy. Tôi không nghĩ là cô ấy mong muốn tôi phản bội ông, chẳng phải tương lai của cô ấy phụ thuộc vào việc đó hay sao?

Ortiz im lặng, khuôn mặt cau lại. Mắt nhìn chằm chằm túi dịch truyền đang chảy vào các mạch máu.

- Thôi được, anh hỏi đi, Ortiz thở dài.

- Ông đã nhận nuôi María Luz trong hoàn cảnh nào?

Câu hỏi này đã trúng hồng tâm. Ortiz quay sang phía Andrew và nhìn anh chằm chằm không rời.

- Vào thời điểm tôi giải ngũ, Febres muốn chắc chắn là tôi sẽ giữ im lặng. Hắn đã đưa tôi tới một trại trẻ mồ côi bất hợp pháp. Hầu hết trẻ em ở đó toàn là trẻ vài tuần tuổi. Hắn đã ra lệnh cho tôi phải chọn một đứa trong số đó, giải thích với tôi rằng đó là cách tốt nhất để tôi tìm lại ý nghĩa của thực tại. Hắn nói với tôi rằng chính tôi cũng đã góp phần cứu vớt linh hồn vô tội này khi tôi lái chiếc máy bay mà từ đó bố mẹ đứa bé đã bị ném xuống biển.

- Có thật vậy không?

- Tôi không biết, cũng chẳng biết gì hơn Febres, tôi không phải phi công duy nhất thực hiện những chuyến bay kiểu này, anh nghi ngờ chuyện đó ư. Nhưng, hoàn toàn có thể đấy. Hồi ấy, tôi vừa mới cưới vợ, María Luz là đứa lớn tuổi nhất trong số trẻ em tại trại. Tôi tự nhủ là nếu tôi chọn một bé hai tuổi thì việc nuôi dưỡng sẽ bớt khó khăn.

- Nhưng đó là một đứa trẻ bị đánh cắp, Marisa phản ứng, thế vợ ông cũng chấp nhận tham gia vào việc làm kinh khủng này à?

- Vợ tôi chẳng hề hay biết gì cả. Cho tới tận lúc chết, bà ấy vẫn còn tin vào những điều tôi kể, rằng bố mẹ con bé là những binh sĩ bị quân du kích Montonero sát hại và rằng chúng tôi phải có nghĩa vụ cứu giúp con bé. Febres đã đưa cho chúng tôi giấy khai sinh của con bé được lập theo họ chúng tôi. Tôi đã giải thích với vợ tôi là sẽ dễ dàng hơn cho María Luz khi được sống thanh thản trọn vẹn nếu nó không biết gì về thảm cảnh mà con bé là nạn nhân. Chúng tôi đã yêu thương con bé như chính con ruột của mình. María Luz được mười hai tuổi thì vợ tôi qua đời và con bé đã khóc thương cô ấy như khóc thương mẹ đẻ. Tôi đã một mình nuôi dạy con bé, tôi đã làm việc như điên để trả tiền học văn, học ngoại ngữ, học đại học của con bé. Tất cả những gì con bé muốn, tôi đều đáp ứng hết.

- Tôi không thể nghe tiếp được nữa, Marisa đứng dậy phản đối.

Andrew nhìn Marisa với ánh mắt tức tối. Marisa chịu ngồi lại nhưng giạng chân hai bên ghế và quay lưng lại với Ortiz.

- María Luz vẫn sống ở Dumesnil chứ? Andrew hỏi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 12-1-2015 16:27:43 | Chỉ xem của tác giả
- Không, con bé đã bỏ đi từ lâu rồi. Các Bà mẹ trên quảng trường tháng Năm đã tìm ra con bé khi nó hai mươi tuổi. María Luz thường nghỉ cuối tuần ở Buenos Aires, con bé học khoa chính trị. Nó không bao giờ bỏ lỡ một cơ hội được đi biểu tình, con bé nung nấu hoạt động vì cái mà nó gọi là tiến bộ xã hội. Chính những thành viên thuộc các đoàn đội mà nó gặp trên ghế đại học đã gieo vào đầu nó những ý nghĩ đó. Điều này hoàn toàn ngược lại với những gì chúng tôi vẫn giáo dục nó.

- Nhưng bắt nhịp với những lý tưởng của bố mẹ đẻ cô ấy, Marisa cắt ngang. Máu của ông không chảy trong mạch máu của cô ấy, táo không rụng xa cây bao giờ.

- Thế cô nghĩ rằng tư tưởng tả khuynh là cha truyền con nối? Cũng có thể, có nhiều tật khác cũng được di truyền lại như thế, Ortiz chế nhạo.

- Tôi không rõ cái tư tưởng tả khuynh mà ông nói với vẻ khinh bỉ như thế là sao, nhưng lòng nhân đạo thì có thể lắm chứ.

Ortiz quay sang nhìn Andrew.

- Nếu cô ta còn chen ngang lần nữa thì tôi không còn lời nào để kể với anh nữa đâu.

Lần này Marisa vừa đi xa khỏi giường hắn vừa dứ ngón tay thối về phía thiếu tá Ortiz.

- Các Bà mẹ trên quảng trường tháng Năm đã phát hiện ra con bé giữa một trong số nhiều cuộc biểu tình mà María Luz tham gia. Các bà ấy cũng phải mất nhiều tháng quan sát trước khi tiếp cận con bé. Khi biết được sự tình, con gái tôi đã đòi đổi họ. Nó đã đi khỏi nhà ngay ngày hôm đó, không một lời từ biệt, không lần nhìn lại.

- Ông có biết cô ấy đi đâu không?

- Tôi hoàn toàn không biết một chút gì.

- Thế ông không tìm cách tìm lại cô ấy sao?

- Cứ khi nào có biểu tình là tôi lại đi Buenos Aires. Tôi đi theo đoàn người biểu tình với hy vọng nhận ra con bé. Rồi tôi cũng gặp được con bé một lần. Tôi đã tiếp cận con bé, van xin nó cho tôi vài phút để nói chuyện cùng nhau. Con bé đã từ chối. Trong ánh mắt của nó, tôi chỉ thấy sự hận thù. Tôi sợ con bé sẽ tố cáo tôi nhưng nó đã không làm vậy. Sau khi tốt nghiệp, con bé ra nước ngoài, tôi không còn biết tin gì về nó nữa. Anh có thể viết bài báo của anh được rồi đó, anh Stilman, tôi hy vọng anh sẽ giữ lời hứa. Tôi yêu cầu anh làm như vậy không phải là cho tôi mà cho đứa con gái thứ hai của tôi. Con bé chỉ biết một điều rằng chị gái nó là con nuôi.

Andrew cất bút và cuốn sổ tay đi. Anh đứng dậy đi ra mà không chào từ biệt Ortiz.

Marisa đợi anh sau tấm rèm, nhìn gương mặt cô là đủ biết cô đang rất bực mình.

*


- Đừng nói với em là tên đểu cáng ấy sẽ thoát khỏi chuyện này như vậy nhé! Marisa hét lên khi vào xe ô tô.

- Anh chỉ nói một lời thôi.

- Anh thì cũng chẳng tốt đẹp hơn hắn đâu!

Andrew nhìn cô, khẽ nhếch mép cười. Anh khởi động xe và chiếc xe lao đi.

- Em rất quyến rũ khi nổi giận, vừa nói Andrew vừa đặt tay lên đầu gối cô.

- Đừng chạm vào tôi, Marisa vừa đáp vừa đẩy tay Andrew ra.

- Anh đã cam kết là không nêu danh tính hắn trong bài báo, anh chẳng hứa gì khác nữa, có vậy thôi.

- Anh đang kể lể gì thế?

- Chẳng có điều gì ngăn cản anh đăng tải một tấm hình để minh họa cho bài báo cả. Nếu làm vậy, ai đó sẽ nhận ra Ortega đằng sau khuôn mặt Ortiz, anh chẳng làm gì quá đáng... Chỉ cho anh làm sao có thể đến nhà người thợ ảnh mà em đã đưa cuộn phim chụp và hy vọng là cuốn phim không bị lộ sáng, anh thật sự muốn tránh phải quay lại nơi này vào ngày mai.

Marisa nhìn Andrew và rút lại bàn tay đang đặt trên đùi Andrew.

*


Thời tiết ngày hôm đó đẹp, vài đám mây bảng lảng trên bầu trời Buenos Aires. Andrew tận dụng khoảng thời gian cuối cùng mình còn lưu lại Argentina để tham quan thành phố. Marisa dẫn anh đi thăm nghĩa trang Recoleta và anh rất ngạc nhiên khi thấy các lăng mộ có quan tài được đặt trên tầng cao ngang tầm mắt nhìn của mỗi người thay vì chôn dưới đất.

- Ở đây là như vậy, Marisa nói. Người ta tiêu tốn cả gia tài để xây ngôi nhà cuối cùng của đời mình. Một mái nhà, bốn bức tường, cửa ra vào bằng sắt để ánh sáng len vào mộ và một ngày nào đó, cả gia tộc cùng quy tụ an nghỉ mãi mãi ở nơi này. Anh nhớ nhé, Marisa nói thêm, sau này chết đi, em muốn tiếp tục được nhìn thấy mặt trời mọc hơn là mục rữa nơi đáy mồ. Và hơn nữa, em thấy như thế này khá là vui khi mọi người tới thăm mộ.

- Em nói không sai, Andrew nói, bỗng dưng anh chìm vào dòng suy nghĩ ủ rũ mà anh đã gần như quên đi được từ khi tới Argentina.

- Chúng ta còn thời gian, chúng ta còn trẻ.

- Ừ... Em còn thời gian mà, Andrew thở dài. Chúng ta có thể đi được rồi chứ? Chỉ cho anh chỗ nào náo động hơn chút coi.

- Em đưa anh về khu phố nhà em, Marisa nói, nơi đó tràn đầy sức sống, màu sắc, người ta chơi nhạc ở mỗi góc phố, em không thể sống ở nơi nào khác ngoài nơi này.

- Thế thì anh tin rằng cuối cùng mình cũng đã tìm được một điểm chung giữa hai chúng ta.

Marisa mời Andrew ăn tối tại một nhà hàng nhỏ ở Palermo. Ông chủ quán có vẻ biết rất rõ Marisa và, trong khi có rất nhiều khách chờ bàn trống, họ đã được xếp chỗ ngồi đầu tiên.

Buổi tối của họ tiếp tục trong một quán bar nhạc jazz. Marisa đưa đẩy hông trên sàn. Cô đã thử lôi kéo Andrew vài lần nhưng anh thì chỉ thích ngồi yên vị trên ghế, chống khuỷu tay lên quầy bar mà nhìn Marisa nhảy nhót.

Vào khoảng một giờ sáng, họ đi dạo trên các con ngõ nhỏ còn rất náo nhiệt.

- Khi nào anh sẽ đăng bài?

- Vài tuần nữa.

- Khi nào bài đăng, Alberto sẽ nhận ra Ortega sau tấm ảnh chụp Ortiz. Chú ấy sẽ đi kiện cho coi. Chú ấy đã quyết định làm thế, em nghĩ là chú ấy đã hy vọng điều đó từ rất lâu rồi.

- Cần có nhiều nhân chứng khác nữa để khiến hắn bẽ mặt.

- Anh đừng lo, Louisa và mạng lưới của dì em sẽ làm những gì cần thiết, Ortiz sẽ phải ra hầu tòa vì những tội ác mà hắn đã tham gia.

- Dì em quả là một phụ nữ kỳ lạ.

- Anh biết không, anh đã đúng về chuyện dì ấy và Alberto. Mỗi tuần một lần, họ lại gặp nhau trên một băng ghế tại quảng trường tháng Năm. Họ ngồi cạnh nhau trong vòng một giờ đồng hồ, thường là trao đổi với nhau một vài từ rồi đường ai nấy đi.

- Sạo họ lại làm vậy?

- Vì họ cần gặp lại nhau, cần tiếp tục được làm cha mẹ của cậu con trai mà họ muốn khắc ghi mãi mãi trong tâm trí. Họ không có nấm mồ nào để đến thăm viếng.

- Em có nghĩ là một ngày nào đó họ sẽ về với nhau không?

- Không, những gì họ đã trải qua quá là nặng nề.

Marisa im lặng giây lát trước khi nói tiếp:

- Louisa rất quý anh, anh biết không.

- Anh không hề nhận thấy điều đó đấy.

- Em thì có đấy. Dì ấy thấy anh quyến rũ, mà dì ấy lại là một phụ nữ rất có gu.

- Anh coi đó là một lời khen, Andrew mỉm cười đáp lời.

- Em đã để một món quà nhỏ trong hành lý của anh.

- Đó là cái gì vậy?

- Anh hãy mở nó khi nào tới New York. Đừng mở nó trước, hứa với em đi, đó là một điều bất ngờ.

- Anh hứa.

- Em sống cách đây có hai bước thôi, Marisa nói. Nào, hãy theo em.

Andrew đưa Marisa về tận cửa tòa nhà cô ở, anh dừng chân bên thềm cửa.

- Anh không muốn lên sao?

- Không, anh không muốn lên.

- Anh không còn thích em nữa chứ gì?

- Vẫn chứ, đúng ra là còn hơi quá thích. Lúc trong xe lại khác, chúng ta đã không suy tính gì. Khi đó chúng ta đang đối diện với hiểm nguy, anh đã tự nhủ là cuộc sống quá ngắn ngủi và rằng cần phải tranh thủ từng thời khắc hiện tại. Không, thực ra anh đã chẳng tự nhủ tất cả những điều ấy, anh đã quá muốn em và...

- Thế bây giờ anh thấy cuộc sống quá dài và anh cảm thấy tội lỗi khi đã phản bội vợ chưa cưới của anh?

- Anh không biết cuộc sống có dài không, Marisa à, nhưng đúng là anh cảm thấy có lỗi.

- Anh là típ đàn ông khá hơn những gì em vẫn nghĩ đấy, Andrew Stilman ạ. Hãy đi tìm lại cô ấy, còn về những chuyện đã xảy ra ở trong xe thì chẳng đáng gì hết. Em không yêu anh, anh không yêu em, đó đơn thuần chỉ là tình dục, đáng nhớ, nhưng chỉ thế thôi. Andrew cúi xuống rồi hôn lên má cô.

- Làm những điều như vậy chỉ khiến anh già đi mà thôi, Marisa nói. Thôi, anh đi đi, trước khi em cưỡng hiếp anh ngay trên vỉa hè bây giờ. Em có thể hỏi anh một câu cuối cùng không? Khi em đến lấy mấy cuốn sổ tay của anh ở khách sạn, trên bìa của một quyển có ghi “Nếu như được làm lại”, điều đó có nghĩa là gì?

- Đó là một câu chuyện dài... tạm biệt em, Marisa.

- Vĩnh biệt, Andrew Stilman, em không nghĩ là chúng ta còn gặp lại nhau. Chúc anh có cuộc sống tươi đẹp, em sẽ giữ mãi kỷ niệm đẹp về anh.

Andrew đi khỏi mà không ngoái đầu nhìn lại.

Tới ngã tư, anh lên một chiếc taxi. Marisa chạy lên cầu thang. Lúc bước vào phòng, cô để mặc nước mắt tuôn rơi, những giọt nước mắt mà cô đã kìm giữ vào những phút cuối bên Andrew.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 13-1-2015 00:36:04 | Chỉ xem của tác giả
22.


Máy bay hạ cánh xuống sân bay JFK vào cuối buổi chiều. Ngay sau khi máy bay cất cánh, Andrew đã ngủ thiếp đi và tỉnh dậy đúng lúc bánh xe máy bay chạm đất.

Anh đi qua khu vực hải quan và ngạc nhiên khi nhìn thấy Valérie đợi anh sau cánh cửa trượt. Cô ôm siết lấy anh trong vòng tay và nói rằng cô nhớ anh xiết bao.

- Em đã suýt cáu với Simon vì anh ấy muốn đi đón anh.

- Anh rất vui vì em đã thắng, Andrew vừa hôn cô vừa trả lời.

- Không thể nói là anh đã cập nhật thông tin cho em nhiều được.

- Anh đã làm việc cả ngày lẫn đêm, mọi chuyện không dễ dàng gì.

- Thế anh đã hoàn tất cuộc điều tra chứ?

- Ừ, Andrew trả lời.

- Vậy thì cũng đáng công em buồn bã suốt thời gian qua.

- Em đã thật sự buồn rầu vậy sao?

- Em cũng không buồn bã tới mức vậy, chưa bao giờ em lại làm việc nhiều đến thế trong khi anh đi vắng. Buổi tối, khi trở về nhà em leo ngay lên giường, em thậm chí còn không đủ sức để ăn tối nữa. Nhưng em đã nhớ anh lắm lắm.

- Vậy thì anh về là đúng lúc rồi, anh cũng nhớ em, Andrew vừa trả lời vừa kéo Valérie về phía dãy taxi đang xếp hàng chờ khách.

*


Ai đó bấm chuông cửa liên hồi. Andrew nhảy khỏi giường, khoác tạm áo sơ mi rồi bước ra phòng khách.

- Buenos Aires thế nào? Simon hỏi.

- Đừng nói to như vậy, Valérie còn đang ngủ.

- Cô ấy đã có cậu cho riêng mình suốt cả cuối tuần rồi, tớ thì không được cuộc gọi nào.

- Bọn tớ đã không gặp nhau mười hôm rồi, cậu cho phép bọn tớ...

- Được rồi, được rồi, không phải kể lể đâu, mặc quần vào đi, tớ đưa cậu đi ăn sáng.

- Dù gì cũng phải chào buổi sáng cậu đã chứ nhỉ.

Andrew mặc vội quần áo vào và viết vài chữ cho Valérie rồi dính lên cửa tủ lạnh. Anh xuống dưới nhà gặp Simon.

- Lẽ ra hôm qua cậu cũng nên gọi cho tớ một tiếng chứ. Chuyến đi thế nào?

- Khá là căng!

Họ vào quán cà phê ở góc phố và ngồi vào chiếc bàn trong góc mà Simon vẫn thích.

- Ở đó mọi thứ đã diễn ra như những gì cậu mong muốn chứ?

- Về phần bài viết của tớ thì có, còn những cái khác thì chúng ta nên gạt bỏ phương án ở Argentina.

- Làm sao cậu có thể chắc chắn về điều đó?

- Ortiz không mảy may nghi ngờ một giây nào về cái trò mà tớ đang chơi hắn. Sau này, tớ sẽ giải thích cho cậu tất cả, nhưng bây giờ mình phải tìm kiếm ở nơi khác, Simon ạ.

- Giờ chúng ta chỉ còn vợ Capetta, gã đồng nghiệp Olson của cậu và...

- Valérie à?

- Chính cậu nói ra điều đó nhé. Nhưng cần thêm một người nữa vào danh sách. Trong khi cậu tung tăng ở châu Mỹ Latinh, tớ có nhận được nhiều cuộc gọi của bạn cậu, ông thanh tra đó.

- Có chuyện gì thế?

- Cậu sắp ngã khỏi ghế rồi đấy, nhưng cũng thật kinh hoàng nếu điều đó có thật, có vẻ Olson đã đúng về chuyện kẻ giết người hàng loạt.

- Cậu nghiêm túc chứ?

- Tớ thì không mấy nghiêm túc... nhưng cảnh sát New York bắt đầu tin vào câu chuyện này rồi. Sự trùng hợp về vũ khí sử dụng, cách hành án và nhất là chuyện ăn cắp không phải động cơ chính của vụ tấn công tay thợ kim hoàn mà chúng ta đã từng đến gặp ở Lenox.

- Đấy đâu phải là chuyện gã đó đã nói.

- Gã cố tình lừa hãng bảo hiểm của mình. Khi tỉnh lại trong bệnh viện, gã đã kể là đang đi gặp một khách hàng. Trên thực tế, chỉ là gã đang về nhà theo lối tắt qua công viên. Một thanh tra của hãng bảo hiểm đã vạch mặt gã trong phút chốc, chưa bằng thời gian gã kể câu chuyện đó. Chẳng có vị khách hàng nào cả và gã ngớ ngẩn này đã khai báo mất hai chiếc vòng cổ vốn nằm trong danh mục đồ bị đánh cắp từ vụ trộm lần trước. Vụ tấn công mà gã là nạn nhân này hiển nhiên chẳng gây tổn thất gì cho gã cả.

- Tớ không thể tin là Olson đã giải quyết được vấn đề nan giải đến cỡ đó.

- Đảm bảo với tớ là giữa các cậu không có sự ganh đua gì chứ?

Andrew đưa mắt ngó lơ chỗ khác.

- Không, không, tất nhiên là không...

- Quay trở lại với vụ việc của chúng ta, cảnh sát đang tiến hành điều tra, rất khó để tới kể cho họ là có thể đầu tháng Bảy tới sẽ có nạn nhân thứ tư nằm trong danh sách của kẻ giết người hàng loạt này, phải không?

- Nếu quả đúng kẻ điên đó đã giết tớ thì đời tớ coi như xong, Andrew suy ngẫm.

- Cậu vẫn luôn trầm trọng hóa mọi thứ...

- Khi cậu nói “mọi thứ” tức là cậu nói cả về cái chết của tớ đúng không? Tớ xin lỗi nếu đã có chút trầm trọng hóa vấn đề, cậu nói đúng, đầu óc tớ đang ở đâu đâu ấy...

- Ý tớ không phải thế, mà chẳng có gì chứng minh là trường hợp của cậu có liên quan tới vụ việc này. Chúng ta còn bốn tuần nữa cơ mà.

- Cũng có thể...

- Có thể cái gì?

- Ở Argentina, không có chuyện gì diễn ra y hệt như lần trước cả.

- Cậu đã kinh qua những trải nghiệm chưa từng có à?

- Trình tự mọi việc khác hẳn và đúng là có một số tình tiết mới.

- Nhỡ đâu cậu đã quên những tình tiết đó rồi thì sao?

- Về một số điểm thì tớ thật sự không tin.

- Cậu đang giấu tớ điều gì à?

- Tớ đã ngủ với cô nhân viên quầy bar. Trước kia, chuyện này không xảy ra.

- Biết ngay mà, lẽ ra tớ phải tới đó mới đúng, Simon vừa hét toáng lên vừa đấm một cú xuống bàn.

- Để giúp tớ tránh làm điều dại dột à?

- Không, cậu cứ làm gì cậu thích, dù sao nếu tớ có ở đó thì có lẽ tớ sẽ ngủ với cô ấy. Đừng nói là cậu đang cảm thấy tội lỗi đó chứ?

- Hiển nhiên là tớ đang cảm thấy tội lỗi lắm.

- Cậu đúng là một kiểu người hiếm có khó tìm, Andrew ạ. Cậu tin chắc có kẻ nào đó sẽ sát hại cậu trong một tháng nữa, và giờ thì cậu cảm thấy tội lỗi? Cái gì đến đã đến. Nhất là cậu đừng nói gì với Valérie cả, cậu nên tập trung vào những ngày sắp tới, làm ơn đi. Bây giờ chúng ta sẽ chuyển chủ đề, Simon nói thêm khi nhìn qua cửa kính.

Valérie bước vào quán cà phê.

- Em biết ngay là sẽ tìm thấy hai người ở đây mà, Valérie vừa nói vừa ngồi xuống cạnh Andrew. Mặt mũi các anh sao vậy, hai anh lại cãi nhau à?

Simon đứng dậy và hôn chào Valérie.

- Bọn anh có cãi nhau bao giờ đâu. Anh nhường chỗ lại cho cặp tình nhân nhé, anh có khách hàng đang chờ. Andrew, đến gặp tớ ở ga ra khi cậu có thể nhé, chúng ta sẽ kết thúc cuộc thảo luận này.

Valérie đợi cho Simon đi hẳn rồi ngồi vào chỗ của Simon.

- Đôi khi em có cảm tưởng là Simon đang ghen với em, Valérie nói đùa với Andrew.

- Cũng có thể, Simon là người hơi có tính sở hữu.

- Bọn anh đã nói chuyện gì vậy? Hai anh có vẻ khá căng thẳng, đừng nói với em là không nhé.

- Bọn anh nói về buổi tối vĩnh biệt đời trai mà Simon muốn tổ chức cho anh.

- Em lại sợ điều tồi tệ hơn thế cơ!

- Đúng thế, anh cũng vậy, anh đã nói với cậu ấy như thế và cậu ấy đã không mấy vui vẻ, Andrew trả lời.

Lời nói dối đầu tiên với Valérie kể từ khi anh trở về, Andrew ngẫm nghĩ.

*


Khi tới tòa soạn, Andrew tới thẳng phòng tổng biên tập. Olivia Stern ngắt điện thoại và mời Andrew ngồi xuống. Andrew kể với cô về chuyến đi của mình, các tình huống mà anh đã thu thập tin tức và chiêu bài mà anh đã chơi với Ortiz.

- Anh muốn chúng ta đăng bài mà không nêu danh tính giả của hắn phải không? Anh đòi hỏi tôi hơi nhiều đó, Andrew ạ. Bài của anh sẽ mất đi sức nặng, anh đang hy sinh mục tiêu của bài viết đấy.

- Tôi tưởng mục tiêu của bài báo là kể lại hành trình của một người đàn ông bình thường trở thành một kẻ đồng phạm đã gây bao tội ác. Mà cô nói về mục tiêu nào vậy?

- Tố cáo một cựu tội phạm chiến tranh. Nếu không phải thế thì tôi không thấy có cách nào để đăng bài lên trang nhất.

- Cô thật sự dự tính sẽ đăng bài này lên trang nhất? Andrew hỏi.

- Tôi đã hy vọng là thế, nhưng anh sẽ phải lựa chọn giữa vinh quang và việc giữ lời. Chỉ có mình anh là người quyết định điều này.

- Còn có nhiều cách khác để tố cáo hắn, Andrew vừa nói vừa rút trong túi ra một phong bì rồi đặt lên bàn sếp.

Olivia mở phong bì. Nét mặt cô thay đổi khi nhìn thấy những tấm hình của thiếu tá Ortiz mà Marisa chụp được.

- Hắn có vẻ già hơn tôi tưởng, Olivia lẩm bẩm.

- Trên giường bệnh trông hắn còn tệ hơn nữa kia, Andrew trả lời.

- Anh quả là một người kỳ lạ, Andrew à.

- Tôi biết, có người mới nói với tôi như vậy sáng nay. Vậy bây giờ cô có cái mình cần rồi chứ?

- Anh viết bài báo đó cho tôi, đó là ưu tiên hàng đầu hiện nay. Tôi cho anh hai tuần, nếu bài viết của anh xứng tầm, tôi sẽ yêu cầu ban biên tập cho đăng lên trang nhất, kèm hai trang trong.

Andrew muốn lấy lại các tấm hình nhưng Olivia đã cất chúng vào trong ngăn kéo và cô đảm bảo với anh rằng cô sẽ trả lại anh các bức hình ngay khi scan xong.

Khi ra khỏi phòng Olivia, Andrew tới gặp Freddy.

- Anh về rồi à, Stilman?

- Như anh thấy đó, Olson.

- Mặt anh không tươi cho lắm, chẳng lẽ Brasil xấu xí đến vậy sao?

- Argentina chứ, Freddy.

- À ừ, rốt cuộc thì cũng là Nam Mỹ cả thôi, chúng ta sẽ không cò kè chuyện nhỏ đó chứ.

- Thế công việc của anh thì sao, mọi thứ đều ổn chứ?

- Không thể tốt hơn, Freddy trả lời, đừng trông chờ tôi kể cho anh thêm gì nhé.

- Tôi có một ông bạn là cảnh sát, về hưu rồi nhưng ông ấy có quan hệ rộng... Anh chỉ việc hỏi nhờ.

Freddy quan sát Andrew với vẻ hoài nghi.

- Anh đang mưu toan điều gì phải không, Stilman?

- Không gì hết, tôi chẳng mưu tính điều gì cả, Freddy. Kiểu cãi cọ này giữa chúng ta làm tôi mệt mỏi lắm rồi. Nếu anh thực sự đang điều tra về một kẻ giết người và nếu tôi có thể giúp anh điều gì thì tôi sẵn lòng, vậy thôi.

- Thế tại sao anh lại giúp tôi?

- Để ngăn chặn kẻ giết người ấy gây án thêm lần nữa, với anh thế đã là một lý do chính đáng chưa?

- Anh làm tôi buồn cười quá, Stilman ạ, anh đã cảm nhận được là tôi đang có cái gì đó. Không phải anh đang muốn làm đồng tác giả bài viết của tôi đó chứ?

- Không, ý nghĩ đó chưa khi nào lướt qua tâm trí tôi cả, nhưng giờ anh đã nói thế thì anh đã cho tôi một ý tưởng. Thế nếu thay vì cứ quay lưng lại với nhau, một ngày nào đó chúng ta cùng đăng một bài được không? Tôi biết một kẻ sẽ thích mê cho mà xem.

- Thế ư, ai vậy?

- Độc giả trung thành nhất của tôi, Spookie Kid. Tôi không dám tưởng tượng kẻ đó sẽ vui mừng thế nào khi chúng ta làm thế, thậm chí chúng ta có thể đề tặng hắn...

Andrew để mặc Freddy, hai má vừa chuyển sang đỏ ửng, suy ngẫm về câu trả lời của anh rồi tới ngồi vào chỗ của mình.

Valérie gửi tin nhắn nhắc Andrew qua chỗ thợ may để chỉnh số đo bộ vest cưới. Anh bật máy vi tính và bắt đầu làm việc.

*


Andrew dành cả tuần để viết bài. Từ khi trở về từ Buenos Aires, đêm nào anh cũng bị ác mộng. Lần nào cũng vậy, anh đều trải qua một kịch bản tương tự: anh thấy mình bị Olson theo dõi khi đang chạy trên con đường trong công viên River Park. Freddy tiến lại gần rồi kết cục lúc nào cũng là đâm anh một nhát dưới ánh mắt đồng lõa và sung sướng của Valérie. Đôi khi, ngay trước khi chết, anh nhận thấy thanh tra Pilguez hay Marisa hay Alberto hay Louisa và cả Simon, tất cả bọn họ trà trộn vào đoàn người chạy bộ. Mỗi lần như vậy, Andrew lại nghẹt thở tỉnh dậy, người lạnh toát và mồ hôi đầm đìa với cơn đau khủng khiếp ở cuối đốt sống lưng dường như không bao giờ khỏi hoàn toàn được.

Thứ Tư, Andrew rời văn phòng sớm hơn thường lệ. Anh đã hứa với Valérie sẽ đến đúng giờ để ăn tối cùng những người làm chứng cho đám cưới của họ.

Thứ Năm, điều hòa trong căn hộ của anh bị hỏng và Valérie, người mà đêm đêm vẫn bị những tiếng hét của anh khiến cho tỉnh giấc, đã quyết định ngay tối hôm đó họ sẽ tới định cư trong căn hộ của cô ở khu East Village.

Andrew ngày càng cảm thấy kiệt sức, chứng đau lưng ngày một trầm trọng, đôi khi buộc anh nằm vật trên bàn làm việc, điều này khiến Olson rất thích thú mỗi khi anh ta đi ra đi vào nhà vệ sinh.

Thứ Sáu, khi chia tay, Andrew hứa với Valérie là sẽ không để Simon đưa anh tới câu lạc bộ múa thoát y. Thay vào đó, Simon đã đưa Andrew tới cái chốn cuối cùng mà Andrew vẫn mong chờ.

*


Quán Novecento chật kín người.

Simon đi trước mở đường tới quầy bar. Andrew gọi một cốc Fernet hòa lẫn Coca.

- Cậu gọi cái gì vậy?

- Một thứ mà cậu không thích đâu, đừng cố thử nó.

Simon giành lấy chiếc cốc, vừa uống một ngụm là anh đã nhăn nhó, anh liền gọi một ly vang đỏ.

- Điều gì đã khiến cậu đưa tớ tới chỗ này? Andrew hỏi.

- Xem nào, tớ không quá ép cậu đấy chứ. Nếu tớ nhớ chính xác những gì cậu đã kể thì tối nay sẽ có cú sét ái tình, chẳng phải vậy sao?

- Simon, cậu chẳng giúp tớ thư giãn chút nào.

- Càng tốt, tớ cũng không, tớ chẳng vui sướng gì đâu. Cuộc gặp định mệnh làm đám cưới của cậu tan thành mây khói diễn ra vào lúc mấy giờ vậy?

- Simon, cậu không thích Valérie, càng không thích việc chúng tớ quyết định cưới nhau. Cậu đưa tớ tới đây để tớ lặp lại sai lầm lần nữa. Đó là tất cả những điều cậu đã tìm ra để, như cậu nói, làm đám cưới của chúng tớ tan thành mây khói phải không?

- Cậu hẳn đã lẩn thẩn nên mới tự ái đến mức đó hả. Hoàn toàn ngược lại, tớ muốn giúp cậu tỉnh cơn ảo mộng. Và để cậu liệu cách cư xử, thì tớ rất quý Valérie và tớ càng thích các cậu hạnh phúc bên nhau!

Simon nhắm được một cô nàng chân dài miên man đi ngang phòng bar rồi đứng dậy đi mà không nói thêm một lời nào nữa.

Một mình bên quầy bar, Andrew nhìn Simon đi khuất dần.

Một cô gái đến ngồi cạnh ghế của anh và mỉm cười với anh khi anh gọi cốc Fernet-Coca thứ hai

- Hiếm có người Mỹ nào lại thích loại nước uống này, cô gái vừa nói vừa nhìn anh chăm chú.

Đến lượt Andrew quan sát cô gái. Nét quyến rũ khiến người khác nghẹt thở toát ra từ cô, ánh mắt của cô khêu gợi lộ liễu. Mái tóc đen dài buông chấm cái gáy thanh lịch của cô. Khuôn mặt khiến anh không thể rời mắt nổi này không chỉ đẹp mà thôi.

- Đó là điều duy nhất hiếm thấy ở tôi, anh nói và đứng dậy.

Ra khỏi quán Novecento, Andrew hít đầy phổi khí trời buổi tối. Anh rút điện thoại gọi Simon.

- Tớ ra ngoài rồi, cậu làm gì thì tùy, nhưng tớ về nhà đây.

- Đợi tớ với, tớ ra ngay. Simon trả lời.

*


- Cậu giận à! Simon lo lắng khi gặp lại Andrew trên vỉa hè.

- Tớ chỉ muốn về thôi.

- Đừng nói là cậu lại phải lòng cô gái nào trong vòng hai giây đấy chứ?

- Tớ sẽ không nói như thế, cậu sẽ chẳng hiểu nổi đâu.

- Cậu cứ chỉ ra cho tớ một điều duy nhất mà tớ không hiểu trong mười năm qua đi?

Andrew đút tay vào túi quần rồi ngược lên phố West Broadway. Simon đi theo bạn bén gót.

- Tớ lại cảm nhận được đúng cái cảm giác lần đầu. Cái này thì tớ không bịa.

- Vậy cớ sao cậu không ở lại?

- Bởi vì như thế này tớ đã có đủ tổn thất rồi.

- Tớ tin chắc là sáng mai cậu sẽ không nhớ nổi khuôn mặt cô ấy như thế nào đâu.

- Lần trước cậu cũng từng nghĩ thế, nhưng rồi các sự kiện diễn ra đã chứng minh cậu nhầm to. Sẽ không còn lời dối trá nào nữa đâu, tớ đã học được một bài học rồi. Có thể tớ sẽ giữ bên mình nỗi luyến tiếc về một cuộc gặp gỡ không đầu không cuối nhưng tớ đã lựa chọn. Tình yêu của cuộc đời là tình yêu mà ta đã trải qua, không phải thứ tình yêu mà ta đã mơ mộng. Cậu sẽ thấy điều đó, Simon ạ, tớ tin là một ngày nào đó nó sẽ xảy đến với cậu.

*


Trở về căn hộ của mình, Andrew thấy Valérie trong trang phục áo lót và quần lót đang tập thể dục giữa phòng khách.

- Em không ngủ sao? Andrew vừa hỏi vừa cởi áo khoác.

- Có, tất nhiên là có chứ, hai chân trên không và hai tay dưới hông... Còn sớm mà, Simon đã phải lòng một cô nàng thoát y vũ và anh ấy đã bỏ mặc anh phải không? Em có thể đặt thêm một suất trên bàn tiệc cưới nếu họ thực sự nghiêm túc với nhau...

- Không, Simon chẳng gặp được ai cả, Andrew trả lời và nằm soài xuống cạnh Valérie.

Anh giơ cao chân và cùng tập luyện các động tác thể dục với Valérie.

- Buổi tối coi như đi toi à?

- Đêm vĩnh biệt đời trai của anh đã rất đẹp, Andrew đáp, đẹp hơn cả những gì anh tưởng tượng ấy chứ.

c

Ngày hôm sau, Andrew tới chỗ ông Zanetti để thử bộ đồ cưới. Bác thợ may bảo anh đứng lên bục thử. Ông quan sát anh rồi nâng cao phía vai phải áo vest.

- Đó không phải là lỗi của ông đâu, ông Zanetti, một cánh tay của tôi dài hơn cánh tay còn lại.

- Tôi thấy điều đó chứ, người thợ may vừa trả lời vừa cài ghim vào áo.

- Tôi biết ông không muốn người ta chê ông là đã bán cho tôi một bộ áo cưới không được chỉnh sửa cẩn thận nhưng tôi phải hoàn thành một bài viết quan trọng.

- Anh đang vội phải không?

- Hơi vội.

- Vậy anh có quay lại đó không? Zanetti vừa hỏi vừa làm.

- Quay lại chỗ nào cơ? Andrew hỏi.

- Thì cái hộp đêm đó, chẳng phải là những muộn phiền của anh đều bắt nguồn từ đó?

- Sao ông lại biết? Andrew sửng sốt hỏi.

Zanetti cười tươi.

- Thế anh tưởng mình là người duy nhất có quyền có cơ hội thứ hai chắc? Cái suy nghĩ kiểu ếch ngồi đáy giếng này thật ngây ngô quá, anh Stilman ạ.

- Ông thì cũng vậy, ông...

- Người con gái lạ mặt ở quán bar, anh có gặp lại cô ta không? Zanetti ngắt lời. Chắc chắn là anh đã gặp lại cô ta rồi, sắc mặt anh còn tệ hơn lần trước. Nhưng tôi nghĩ là nếu chúng tôi có đang viền ống quần của anh thì đó là vì anh đã quyết định làm đám cưới. Thật buồn cười, tôi đã cá cược điều ngược lại cơ đấy.

- Điều gì đã xảy đến với ông mà ông có thể quay về quá khứ? Andrew hỏi với giọng run run.

- Câu hỏi duy nhất khiến anh bận tâm đó là điều gì đã xảy ra với anh, anh Stilman ạ. Anh sẽ chết nay mai nếu anh không bận tâm tới nó hơn cả. Anh đang nghĩ gì chứ? Rằng anh sẽ có cơ may lần thứ ba sao? Có nên dịch cái cúc này ra xa hơn không? Mà đừng có run lẩy bẩy như thế chứ, cẩn thận không tôi sẽ châm kim vào anh đó.

Zanetti lùi một bước về phía sau rồi gỡ bộ trang phục của Andrew ra.

- Bộ vest sẽ không thế này đâu, nó sẽ đẹp hơn nhiều. Thêm một phân đệm vai nữa là tuyệt đỉnh. Tôi thích sự hoàn hảo, ở tuổi tôi, người ta không được làm lại nữa. Nếu tôi nói với anh tuổi thật của mình, anh sẽ rất ngạc nhiên đó, Zanetti nói thêm trong lúc bước đi với tiếng cười giòn.

Andrew muốn xuống khỏi bục thử nhưng Zanetti đã giữ cánh tay anh lại, với một lực đáng kinh ngạc.

- Thế anh tính đi đâu trong bộ trang phục này? Nên có lý trí một chút. Vậy là anh đã chọn tình yêu thời niên thiếu. Đó là một quyết định khôn ngoan. Hãy tin vào kinh nghiệm của tôi này, tôi đã cưới vợ bốn lần, điều đó khiến tôi sạt nghiệp. Nhưng có lẽ anh sẽ không có cơ hội trải nghiệm hoàn cảnh phiền toái này chừng nào anh chưa tìm ra kẻ sát hại mình. Tôi không muốn làm một kẻ đi nài nỉ người khác nhưng anh phải khẩn thiết suy nghĩ tới chuyện đó đi.

Zanetti đi vòng ra phía sau Andrew và kéo nhẹ phần đuôi chiếc áo vest.

- Anh thật là đứng không vững đó, anh làm ơn đứng thẳng người giùm tôi, như thế cũng đã đủ khó lắm rồi. Tôi đang nói đến đoạn nào nhỉ? À, tôi đang nói về kẻ sát hại anh. Anh có gợi ý mảy may nào về danh tính của kẻ đó chưa? Zanetti vừa hỏi vừa ghé mặt sát gáy Andrew. Liệu có phải là vợ tương lai của anh không? Anh bạn đồng nghiệp cùng phòng? Kẻ giết người hàng loạt bí hiểm đó? Cả người mẹ mà anh đã cướp đi cô con gái nuôi? Còn cô tổng biên tập của anh thì sao...

Bỗng dưng Andrew cảm thấy một cú đâm nhói sau lưng, anh nghẹt thở vì đau đớn.

- Hay là tôi..., Zanetti cười khẩy.

Andrew soi mình trong chiếc gương trước mặt, khuôn mặt anh tái xanh đến đáng sợ, anh nhìn thấy Zanetti sau lưng mình, đang cầm một chiếc kim dài đầy máu. Anh cảm thấy chân mình bủn rủn và anh khuỵu đầu gối xuống bục thử đó. Một vệt máu lan rộng khắp ngực. Anh ngã gục xuống sàn, trong khi đó tiếng cười hả hê của Zanetti vang vọng khiến anh mất lý trí.

Ánh sáng tắt dần.

*


Valérie dùng hết sức lay anh tỉnh. Andrew vã mồ hôi tỉnh dậy.

- Nếu đám cưới làm anh lo lắng tới nông nỗi này thì mình vẫn còn thời gian để lùi lại, Andrew ạ. Ngày mai thì sẽ quá muộn.

- Ngày mai ư? Andrew vừa ngồi dậy trên giường vừa hỏi. Hôm nay là ngày bao nhiêu?

- Bây giờ là hai giờ sáng. Valérie trả lời sau khi quay nhìn đồng hồ báo thức. Hôm nay là thứ Bảy ngày 30, đúng là ngày cưới của chúng ta.

Andrew nhảy tót khỏi giường, vội vàng đi ra phòng khách. Valérie đẩy đống chăn ra rồi đi theo Andrew.

- Có chuyện gì vậy, anh có vẻ hoảng sợ thế?

Andrew đi một vòng và lao về phía chiếc túi đeo mà anh vừa phát hiện thấy dưới chân xô pha. Anh cuống cuồng mở túi xách và rút ra một tập hồ sơ dày cộp.

- Bài báo của anh! Nếu hôm nay là ngày 30 thì anh không kịp hoàn thành bài viết đúng hạn rồi. Valérie tiến lại gần anh, ôm anh trong vòng tay.

- Anh đã gửi bài qua thư điện tử cho tổng biên tập từ chập tối rồi. Giờ thì anh trấn tĩnh lại đi. Em thấy bài viết rất tuyệt, tổng biên tập cũng đánh giá nó rất tuyệt. Hãy quay lại ngủ đi anh, em xin anh đó, Andrew, nếu không anh sẽ có bộ mặt thảm hại trên ảnh cưới, mặt em cũng như vậy nếu anh không để em ngủ yên.

- Không phải hôm nay đã là ngày 30 rồi chứ, không thể nào, Andrew thì thầm.

- Anh muốn hủy đám cưới phải không, Andrew? Valérie nhìn anh hỏi không chớp mắt.

- Không, tất nhiên là không rồi, hai chuyện này không liên quan gì tới nhau cả.

- Cái gì không liên quan tới cái gì? Anh đang giấu em điều gì vậy, Andrew, điều gì làm anh sợ sệt tới vậy? Anh có thể nói tất cả với em mà.

- Nếu có thể thì anh đã nói tất cả rồi.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 13-1-2015 19:57:06 | Chỉ xem của tác giả
23.


Ngay trước khi cử hành hôn lễ, mẹ Valérie tới chỗ Andrew, phủi bụi trên vai anh và ghé vào tai anh như để thầm thì điều gì đó. Andrew ý nhị đẩy bà ra.

- Mẹ từng nghĩ là con không bao giờ chịu cưới con gái mẹ phải không? Con hiểu vì sao mẹ nghĩ như vậy, vì chỉ nghĩ mẹ là mẹ vợ thôi cũng đủ khiến người ta chùn bước không muốn cưới con mẹ rồi, ấy vậy mà mẹ con ta giờ lại đang ở nhà thờ đó..., Andrew nói với vẻ ranh mãnh.

- Này, anh coi mình là ai hả, tôi chưa bao giờ nghĩ như vậy! bà Ramsay phản ứng.

- Mẹ lại còn là người dối trá nữa chứ, Andrew cười khẩy khi bước vào nhà thờ.

Valérie đẹp hơn bao giờ hết. Cô mặc một chiếc váy màu trắng vừa kín đáo vừa thanh lịch. Tóc vấn lại kèm một chiếc mũ trắng nho nhỏ. Bài thuyết giáo của linh mục quá tuyệt và Andrew cảm thấy còn xúc động hơn cả lần cưới đầu của anh, dĩ nhiên đó chỉ là một cách nói mà thôi.

Sau buổi lễ, đoàn người tham dự đám cưới rời nhà thờ theo lối đi trong khuôn viên bao quanh nhà thờ St Lukes in the Fields. Andrew hết sức ngạc nhiên khi thấy nữ tổng biên tập của mình.

- Chúng ta sẽ không lãng phí đêm tân hôn đang chờ phía trước để nghe những lời nhận xét của cô ấy về bài báo, Valérie thì thầm bên tai chồng. Hôm qua, khi anh làm việc điên cuồng ở nhà thì em đã nảy ra ý tưởng gọi điện tới tòa soạn và mời cô ấy. Dù gì cô ấy cũng là sếp của anh mà...

Andrew mỉm cười rồi hôn vợ.

Olivia Stern tiến lại gần họ.

- Buổi lễ thật tuyệt vời và hai bạn rất đẹp đôi. Chiếc váy cưới quá hợp với cô, về phần Andrew thì tôi chưa khi nào thấy anh mặc lễ phục. Anh nên mặc như thế này thường xuyên hơn mới phải. Liệu tôi có thể mượn chồng cô vài phút được không? Olivia hỏi ý kiến Valérie.

Valérie chào Olivia rồi đi ra gặp bố mẹ mình, họ cũng đang đi bộ phía trước cô.

- Bài viết của anh rất ấn tượng, Andrew ạ. Tôi sẽ không gây phiền toái cho anh vào ngày cưới của anh đâu, anh không giận tôi đã bỏ đi sớm chứ, đó là vì lý do chính đáng mà. Tôi sẽ gửi cho anh những ghi chú của tôi trong đêm nay. Rất xin lỗi vì bắt anh phải làm việc ngay sau hôn lễ nhưng tôi cần anh viết cho tôi thêm một vài trang nữa. Tôi sẽ đăng bài của anh vào thứ Ba, tôi đã giành được trang nhất và ba trang trong số báo đó, đó là một chiến thắng đấy, anh bạn của tôi ạ! Olivia vỗ vỗ lên vai Andrew nói.

- Cô không còn muốn lùi ngày đăng bài lại một tuần nữa sao? Andrew ngây ngô hỏi.

- Tại sao lại phải lùi ngày đăng một bài báo có thể làm cho các đối thủ của chúng ta phải tái mặt vì ghen tị chứ? Anh đã làm việc cừ lắm, hẹn gặp lại vào thứ Hai nhé, chúc anh tối nay thật vui vẻ.

Olivia hôn tạm biệt lên má Andrew và chào Valérie ra về.

- Cô ấy có vẻ rất hài lòng, đây là lần đầu tiên trong ngày em thấy anh mỉm cười. Giờ thì anh có thể thư giãn đầu óc được rồi.

Valérie rạng ngời hạnh phúc, Andrew cảm thấy thoải mái tuyệt vời cho tới khi họ đi tới phố Hudson, Andrew nhận ra chiếc xe hai cầu màu đen đang dừng đèn đỏ. Cổ họng anh nghẹn lại.

- Cậu bị sao vậy? Simon hỏi khi tiến lại gần Andrew, cậu vừa thấy ma à?

Đèn đỏ chuyển sang xanh và chiếc xe khuất dần, cửa xe đóng kín.

- Simon này, tớ đã nhảy cóc hai tuần lễ.

- Cậu đã làm cái gì cơ?

- Hai tuần đã bốc hơi... Khi ấy tớ đang ở nhà ông Zanetti, chuyện xảy ra với tớ cũng xảy ra với ông ta. Ông ta biết tường tận câu chuyện của tớ. Tớ không biết điều gì đã diễn ra nữa, đó là một cơn ác mộng và, khi tớ tỉnh dậy, tớ lại đang ở mười lăm ngày sau đó. Tớ lại nhảy xuyên thời gian nhưng lần này là về phía tương lai. Tớ không còn hiểu cái gì với cái gì nữa.

- Tớ cũng chẳng hiểu, nếu điều đó khiến cậu thấy yên lòng. Điều cậu nói chẳng có nghĩa gì. Cậu đang nói về cái gì hả Andrew? Simon nhìn bạn với vẻ hết sức lo ngại.

- Về điều đang chờ đợi tớ, về hai chúng ta, về Pilguez, về vợ Capetta, tớ chỉ còn tám ngày nữa thôi, tớ rất hoang mang.

- Pilguez và Capetta là ai? Simon, càng tò mò hơn, hỏi Andrew.

Andrew nhìn Simon hồi lâu rồi thở dài.

- Chúa ôi! Tớ đã thất lạc cậu và Pilguez khi bị cú nhảy xuyên thời gian này. Cậu không có chút ý niệm nào về điều tớ nói phải không?

Simon lắc đầu rồi cầm lấy vai Andrew.

- Tớ biết việc cưới xin có gây ra những tác dụng phụ nhưng tới cỡ này thì tớ phải nói là quá lắm rồi.

Valérie tới chỗ hai người, cô ôm eo chồng rồi nói với Simon.

- Anh sẽ không giận em nếu em muốn giữ Andrew cho riêng mình trong ngày cưới chứ, Simon?

- Hãy giữ chặt cậu ấy cả tuần đi, tới tận cuối hè nếu em muốn nhưng em phải trả lại Andrew khỏe mạnh cho anh vì như thế Andrew mới có thể hoàn toàn được giải tỏa.

Valérie đưa Andrew tạm lánh đám đông.

- Anh muốn buổi lễ kết thúc để được ở nhà một mình với chỉ riêng em, Andrew thở dài.

- Anh nói đúng những gì em định nói, Valérie đáp.

*


Ngày Chủ nhật, họ ở trong căn hộ của Valérie. Trời mưa như trút, một cơn dông mùa hè đã khiến thành phố sũng nước.

Sau bữa trưa, Andrew lại vùi đầu chỉnh sửa bài báo của mình. Valérie tận dụng thời gian đó để sắp xếp lại giấy tờ của cô. Cuối buổi chiều, họ ra ngoài đi dạo vài bước tới cửa hàng đồ khô của khu phố, họ đi bộ dưới mưa, người nọ nép sát vào người kia núp dưới bóng ô che.

- East Village cũng không đến nỗi tệ nhỉ, Andrew nói khi đưa mắt nhìn xung quanh.

- Anh sẽ chuyển nhà sao?

- Anh đâu nói vậy, nhưng nếu em có nghe nói về một căn hộ ba phòng xinh xắn thì anh sẽ không phản đối ý tưởng đi xem nó đâu.

Trở về nhà, Andrew lại bắt tay vào làm việc còn Valérie đọc sách.

- Trăng mật mà như thế này thì cũng không quá đáng sợ nhỉ, Andrew ngẩng đầu lên nói với Valérie. Em xứng đáng được hưởng nhiều hơn anh.

- Đó chỉ là vấn đề quan điểm sống... nhưng anh là người đàn ông của đời em.

Andrew hoàn tất bài báo của mình vào lúc ngày tàn. Đã quá 21h. Valérie đọc lại bài viết và chính cô là người ấn nút “gửi” trên bàn phím vi tính.

Valérie nắm lấy tay Andrew khi anh đang thu gom đống giấy nháp.

- Anh ra xô pha nghỉ ngơi đi, để em thu dọn số giấy tờ này cho.

Andrew vui vẻ chấp thuận, cái lưng làm anh thấy đau, ý nghĩ được nằm dài một lúc khiến anh thích thú.

- Marisa là ai? Valérie hỏi sau vài phút dọn dẹp.

- Đó là nguồn tin của anh ở Buenos Aires, nhưng tại sao em hỏi vậy?

- Vì em vừa tìm thấy một phong bì nhỏ kèm vài lời nhắn gửi cho anh. Andrew nín thở.

Valérie đọc cho anh nghe.

Gửi Andrew,

Món quà này mượn từ nhà Louisa.

Kỷ niệm về Isabel và Rafaël.

Thay mặt họ cảm ơn anh.

Marisa.


Andrew nhảy bật khỏi xô pha tới giật lấy chiếc phong bì từ tay Valérie. Anh mở phong bì và thấy một tấm hình đen trắng. Hai khuôn mặt mỉm cười, không thay đổi theo thời gian.

- Họ đó à? Valérie hỏi.

- Ừ họ đó, Isabel và Rafaël, Andrew xúc động trả lời.

- Thật kỳ lạ, Valérie lên tiếng, không biết có phải là do em đã biết câu chuyện của họ hay do đã đọc bài viết của anh nhưng em thấy khuôn mặt cô này rất quen.

Andrew giơ bức ảnh lại gần để quan sát kỹ càng hơn.

- Bài báo của anh không liên quan gì tới việc này, Andrew trả lời vẻ sững sờ. Anh cũng vậy, anh biết khuôn mặt này, biết rõ hơn điều em có thể tưởng tượng.

- Anh muốn nói gì thế? Valérie thắc mắc.

- Anh muốn nói là mình đã nghĩ tới mọi thứ, trừ điều này và rằng anh là kẻ ngu ngốc nhất trong số những kẻ ngu ngốc.

*


Trước khi băng qua cửa tòa nhà số 860, đại lộ 8, Andrew liếc mắt nhìn tấm bảng khắc tên The New York Times. Anh vội vã băng qua sảnh, bấm gọi thang máy rồi tiến thẳng tới phòng tổng biên tập.

Andrew ngồi ngay xuống chiếc ghế tựa đối diện với sếp mà không cần đợi được mời ngồi.

Olivia nhìn anh nghi ngại.

- Cô đã đọc hết bài viết của tôi chưa?

- Đó chính xác là những gì tôi trông chờ ở anh. Tôi đã gửi bài đi xếp chữ, và trừ phi có sự kiện lớn nào xảy ra trong ngày, còn không bài của anh sẽ đăng trang nhất số ra ngày mai.

Andrew đẩy ghế lại sát bàn làm việc của Olivia.

- Cô có biết là ngay gần nơi Ortiz sống có một ngôi làng mang tên cô không? Thật nực cười khi biết một nơi khỉ ho cò gáy nào đó lại mang tên Olivia phải không?

- Nếu anh nói vậy thì đúng là vậy thôi.

- Không, có vẻ như cô không vui sướng cho lắm khi biết điều đó. Có thể nếu nơi đó tên là “María Luz” thì có lẽ cô sẽ thấy chuyện nực cười hơn... một ngôi làng mang tên tương tự như tên cô.

Andrew lấy chiếc phong bì nhỏ trong túi ra, cầm tấm ảnh bên trong và đặt xuống trước mặt nữ tổng biên tập. Cô nhìn nó hồi lâu rồi đặt xuống mà không nói gì.

- Cô nhận ra cặp vợ chồng này chứ? Andrew hỏi.

- Tôi biết họ là ai nhưng tôi chưa bao giờ gặp họ, Olivia thở dài.

- Người phụ nữ trong tấm hình này giống cô tới mức trong giây lát tôi lại tưởng đó là cô, lạc lõng giữa những năm bảy mươi. Cô đã biết từ cái ngày Louisa tới gặp cô và tiết lộ thân thế thật của cô, có phải vậy không María Luz?

María Luz đứng dậy rồi bước tới bên cửa sổ phòng làm việc của mình.

- Chuyện đó đã diễn ra trong một quán cà phê, nơi sinh viên trường tôi vẫn thường tụ tập sau giờ học. Louisa đã đến quán nhiều lần nhưng không bao giờ tiếp cận tôi. Bà ấy ẩn mình trong một góc phòng và quan sát tôi. Và rồi một ngày, bà ấy tiến lại gần tôi và đã hỏi tôi liệu bà ấy có thể ngồi cùng bàn không, bà ấy có vài điều quan trọng muốn tiết lộ với tôi, những điều khó nghe nhưng là những điều tôi cần phải biết. Cuộc sống của tôi đã bị đảo lộn khi bà ấy kể cho tôi câu chuyện về Isabel và Rafaël, bố mẹ đẻ của tôi. Tôi đã không muốn tin bà ta. Phát hiện ra rằng trong hai mươi năm qua, cuộc sống của tôi chỉ là một sự dối trá vô chừng, rằng tôi hoàn toàn không hay biết gì về nguồn gốc của mình và rằng tôi đã yêu quý một ông bố vốn là người phải chịu một phần trách nhiệm về số phận của bố mẹ đẻ tôi và cũng là người chịu trách nhiệm một phần về thân phận của tôi, điều này thật quá sức tưởng tượng. Chấp nhận sự thật là một thử thách kinh hoàng. Tôi không muốn than vãn vì tôi đã có một may mắn mà nhiều đứa trẻ khác không có hoặc chưa có: tôi có thể tự mình làm lại mọi thứ. Ngay hôm đó tôi đã rời khỏi căn nhà nơi mình từng lớn lên mà không nói một lời với người đàn ông đã nuôi nấng tôi. Tôi đã tới ở nhà bạn trai tôi thời đó và tôi đã xin học bổng của trường đại học Yale. Tôi được cấp học bổng. Tôi đã học hành miệt mài. Cuộc đời đã tặng cho tôi một cơ hội thoát khỏi tình thế đáng ghê tởm đó một cách oai hùng, cơ hội để tưởng niệm cha mẹ đẻ tôi và giúp họ chiến thắng những kẻ muốn xóa sổ họ mãi mãi. Sau này, nhờ các thầy cô giúp đỡ, tôi đã được nhập quốc tịch Mỹ. Học xong, tôi vào làm tại tòa soạn The New York Times, ban đầu là thực tập viên, sau đó tôi đã dần dần được thăng chức.

Andrew lấy lại tấm hình chụp Isabel và Rafaël rồi nhìn lại nó lần nữa.

- Có phải cuộc điều tra của tôi tại Trung Quốc đã khiến cô nảy sinh suy nghĩ này? Cô đã tự nhủ rằng nếu tôi từng có thể lần theo câu chuyện trẻ em bị đánh cắp một lần thì tôi hoàn toàn có cơ may điều tra thành công những vụ đánh cắp trẻ em tương tự ở Argentina?

- Quả thật, ý nghĩ này đã lướt qua tâm trí tôi.

- Louisa hay Alberto đã gửi cho cô hồ sơ này?

- Cả hai. Tôi chưa bao giờ cắt liên lạc hoàn toàn với họ cả. Louisa giống như là mẹ đỡ đầu của tôi. Khi nghĩ tới điều đó, tôi thấy cũng có phần đúng như vậy.

- Cô đã cử tôi đi theo dõi Ortiz giống như người ta thả con chó đi săn một con thú trong hang ổ của nó.

- Tôi đã căm thù được hắn, nhưng tôi đã không thể tố cáo hắn. Hắn đã nuôi tôi lớn, đã yêu thương tôi, chuyện đó phức tạp hơn những gì anh có thể hình dung. Tôi cần có anh.

- Thế cô có ý thức được rằng nếu chúng ta đăng bài báo này, hắn có thể bị bắt và bị kết án ngồi tù suốt phần đời còn lại không?

- Tôi đã chọn nghề này vì tình yêu sự thật, đó là cách duy nhất để sống sót, tôi đã quay lưng lại với ông ta từ lâu lắm rồi.

- Cô thật táo tợn khi nói với tôi về sự thật. Cô đã điều khiển tôi ngay từ đầu, tất cả đều là lừa bịp, Marisa, Alberto, Louisa, rồi chuyện Ortiz được cho là bị nhận ra khi đi thăm một khách hàng. Cô đã biết tất cả từ trước nhưng cô muốn tôi là người phát hiện ra nó. Cô cần có một phóng viên nằm ngoài mọi chuyện để có thể lắp ghép các mảnh ghép trong trò chơi xếp hình thay cô. Cô đã lợi dụng tôi, lợi dụng tờ báo này để tiến hành một cuộc điều tra của cá nhân cô...

- Anh thôi đi, Stilman, tôi đã dành cho anh bài viết tuyệt nhất trong sự nghiệp của anh. Khi bài viết này được đăng, bài điều tra tại Trung Quốc sẽ chẳng hơn gì một ký ức mờ nhạt. Bài báo này mới làm nên danh tiếng cho anh, anh biết rõ điều đó như tôi. Nhưng nếu anh muốn chúng ta chơi minh bạch thì...

- Không, tôi đảm bảo với cô là tôi không có ý định đó. Thế còn em gái cô? Ortiz đã nói với tôi là cô con gái thứ không biết gì về quá khứ của hắn cả. Cô định báo trước với cô ấy hay để cô ấy phát hiện quá khứ của cha mình khi đọc bài viết này? Chuyện này không liên quan gì tới tôi nhưng cô hãy suy nghĩ cho kỹ, tôi biết mình đang nói gì, ngay cả khi tôi không có lời khuyên nào cho cô cả.

- Em gái tôi biết sự thật từ lâu rồi, tôi đã nói tất cả với nó trước khi rời Argentina. Thậm chí tôi đã đề nghị nó qua Mỹ ở với tôi nhưng nó không bao giờ muốn đi. Với em tôi thì lại khác, nó là con gái ruột của Ortiz. Tôi không thể trách nó, càng không thể giận nó vì nó đã không ủng hộ những việc tôi làm.

Andrew chăm chú quan sát Olivia.

- Em gái cô giống ai?

- Giống mẹ nó. Anna có một vẻ đẹp khiến người ta sững sờ. Tôi có một bức ảnh chụp nó khi nó tròn hai mươi tuổi, María Luz nói. Cô quay lại lấy khung ảnh đặt trên kệ phía sau lưng rồi đưa cho Andrew.

- Louisa đã gửi hình này cho tôi, tôi không bao giờ biết được làm sao bà ấy lại có bức hình này.

Khi nhìn bức chân dung người phụ nữ trẻ, Andrew tái nhợt đi. Anh đứng phắt dậy rồi quay lại nói, trước khi vội vã ra khỏi phòng Olivia.

- María Luz, hứa với tôi là dù có điều gì xảy đến với tôi thì cô cũng cho đăng bài báo của tôi nhé.

- Sao anh lại nói vậy? Andrew không trả lời.

Olivia nhìn anh chạy trong hành lang rồi nhanh chóng hướng về lối cầu thang.

*


Andrew rời tòa soạn. Tâm trí anh rối bời.

Tiếng la ó khiến anh nhìn về nhóm người chạy bộ từ đại lộ 8 đang tiến về phía anh. Các giác quan của anh trong tình trạng báo động, có điều gì đó không lành.

- Vẫn còn quá sớm, còn chưa đến ngày mà, chưa đến, anh lẩm nhẩm trong lúc những người chạy bộ đầu tiên xô đẩy anh khi chạy ngang quanh anh.

Hoảng loạn, Andrew muốn quay ngược trở lại, trốn vào phía trong tòa nhà nhưng những người chạy bộ quá đông, cản trở anh vào được cổng tòa nhà.

Bỗng nhiên Andrew nhận ra giữa đám đông một khuôn mặt, người phụ nữ lạ ở Novecento đang tiến về phía anh, một chiếc lóc cốt mạc trượt dọc ống tay áo, lưỡi lóe lên trong lòng bàn tay cô ta.

- Quá muộn rồi, Andrew nói với kẻ lạ mặt, giết tôi cũng chẳng để làm gì, dù gì xảy ra thì bài báo cũng sẽ được đăng.

- Andrew đáng thương, với anh mới là quá muộn, Anna trả lời.

- Không, Andrew kêu lên khi cô ta tiến sát anh, đừng làm thế!

- Nhưng tôi đã làm rồi, Andrew, hãy nhìn xung quanh anh coi, tất cả chỉ là kết quả trí tưởng tượng của anh mà thôi. Anh đang chết Andrew. Anh tưởng cái gì chứ? Rằng anh được sống lại ư? Rằng cuộc đời thực sự đã cho anh một cơ may thứ hai khi gửi anh về quá khứ ư? Andrew tội nghiệp của tôi, anh thật đáng thương. Những cơn choáng váng, ác mộng, cơn đau nhói ở lưng anh, cảm giác lạnh buốt không khi nào rời bỏ anh, những cú sốc điện đem anh quay lại với cuộc sống mỗi khi tim anh ngừng đập... Anh tranh đấu trong chiếc xe cứu thương này từ khi tôi đâm anh và anh đang cạn dần máu như một con vật. Anh đấu tranh không ngừng, lần mò trí nhớ, lắp ghép lại quá khứ, tránh quên đi chi tiết nhỏ nhất mà anh có thể quên, bởi vì anh muốn hiểu mọi thứ. Rốt cuộc, anh đã nhớ ra bức hình mà anh đã nhìn nó bao lần sau bàn làm việc của María Luz. Chúc mừng anh, tôi không nghĩ là anh sẽ thành công. Ồ, cá nhân tôi chẳng có gì chống lại anh cả nhưng anh đã trở thành công cụ để bà chị nuôi của tôi sử dụng hòng đạt được mục đích của mình mà không hề hay biết. Chị ta là một kẻ hèn nhát và bạc bẽo, bố tôi đã cho chị ta tất cả, yêu thương chị ta như yêu thương tôi, vậy mà chị ta đã phản bội chúng tôi. Con người tự phụ đó thật sự tưởng là tôi sẽ để chị ta phá hoại chúng tôi sao? Tôi đã theo dõi anh từ nhiều tuần nay, kể từ khi anh rời Buenos Aires. Tôi đã vây dồn anh như anh từng vây dồn bố tôi vậy. Tôi đã tập đi tập lại nhiều lần hành động khiến anh câm miệng. Tôi đã rình thời điểm này để ra tay. Cú đâm của tôi thật hoàn hảo, chẳng ai nhìn thấy tôi cả, chẳng ai nhớ nổi điều gì. Bệnh viện không còn xa lắm, tôi công nhận là anh đã sống sót lâu hơn tôi tưởng nhưng giờ anh đã hiểu, anh có thể ra đi được rồi Andrew ạ, anh chẳng còn lý do gì để tranh đấu nữa.

- Còn, tôi còn một thứ, Andrew thì thào trong lúc những sức lực cuối cùng đang rời bỏ anh.

- Đừng nói với tôi là anh đang nghĩ tới vợ anh... sau những gì anh đã gây ra cho cô ấy. Andrew à, anh đã rời bỏ cô ấy ngay đêm tân hôn, anh có nhớ không? Anh đã điên cuồng phải lòng tôi. Tin tôi đi, anh có thể buông ra được rồi, cái chết của anh sẽ khiến cô ấy vui như tôi vui vậy. Vĩnh biệt, Andrew, mắt anh dần khép lại, tôi để anh sống những giây cuối trong yên bình.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 13-1-2015 20:02:17 | Chỉ xem của tác giả
24.


Xe cứu thương chở Andrew Stilman vào phòng cấp cứu lúc 7h42 phút. Buổi sáng hôm đó, mật độ giao thông không dày đặc như thường lệ.

Bệnh viện đã được thông báo trước qua điện đàm, các bác sĩ và y tá hối hả chờ bên chiếc băng cáng.

- Người đàn ông ba mươi chín tuổi này đã bị đâm ở phần cuối đốt sống lưng cách đây nửa tiếng. Anh ta đã mất rất nhiều máu, tim đã ngừng đập ba lần, chúng tôi đã cố gắng hồi tim cho anh ta những vẫn chưa thế bắt mạch được, thân nhiệt anh ta đã giảm xuống còn 35 độ. Bây giờ đến lượt các anh, nhân viên cứu thương vừa nói vừa chạy vào đưa giấy tờ cho bộ phận nội trú phụ trách phẫu thuật.

Andrew mở mắt trở lại, ánh đèn nê ông phía trên đầu anh tạo thành một đường không liên tục khi anh được đưa vào phòng phẫu thuật.

Anh cố gắng nói nhưng viên bác sĩ nội trú đã cúi xuống nói với anh nên giữ sức, họ đưa anh vào phòng mổ.

- Xin lỗi em... Valérie... Nói với cô ấy giúp tôi..., Andrew thì thào rồi mất dần nhận thức.

*


Một chiếc xe cảnh sát huýt còi inh ỏi tiến vào bệnh viện. Một phụ nữ xuống xe rồi vội vã lao vào bệnh viện. Cô chạy ngang qua sảnh chờ và túm lấy các y tá đang đẩy cáng Andrew.

Một y tá ôm ngang lưng cô lại để ngăn cô tiến xa hơn.

- Tôi là vợ của anh ấy, Valérie hét lên. Tôi xin anh, hãy nói với tôi là anh ấy còn sống!

- Cô phải để chúng tôi mổ cho anh ấy, tính mạng anh ấy chỉ còn tính từng phút. Chúng tôi sẽ quay lại gặp cô ngay khi có thể.

Valérie nhìn Andrew khuất dần sau cánh cửa phòng mổ.

Cô đứng bất động, ngây dại.

Hiểu được cảm giác khốn quẫn của Valérie, một y tá trực đưa Valérie ra phòng chờ.

- Các bác sĩ phẫu thuật trực sáng nay là những người giỏi nhất mà tôi biết, không còn bàn tay nào giỏi hơn đâu, cô y tá trấn an Valérie.

Simon tới bệnh viện vài phút sau đó, anh hối hả tìm quầy lễ tân và nhận ra Valérie đang khóc nức nở trong phòng chờ. Cô đứng dậy khi thấy Simon và ngã vào vòng tay anh.

- Sẽ ổn thôi mà, rồi em xem, Simon nói trong nước mắt.

- Hãy nói với em là anh ấy sẽ qua khỏi, anh Simon.

- Anh hứa với em đó, cậu ấy rắn như đá mà, anh biết rõ cậu ấy, đó là một người biết đấu tranh, anh coi Andrew như người anh em ruột thịt và cậu ấy cũng rất yêu em, em biết mà. Vừa mới hôm qua cậu ấy vẫn còn nói với anh như vậy. Cậu ấy đã không ngừng nhắc đi nhắc lại điều đó. Cậu ấy đã tự trách mình biết bao. Ai đã có thể ra tay như vậy được cơ chứ? Sao lại thế?

- Viên cảnh sát đưa em tới đây nói là không ai nhìn thấy gì hết, Valérie nghẹn ngào nói.

- Andrew có thể đã nhìn thấy điều gì...

Simon và Valérie lặng ngồi bên nhau nhìn cánh cửa hành lang dẫn tới phòng phẫu thuật đóng kín trong suốt nhiều tiếng đồng hồ.

Vào cuối buổi chiều, một bác sĩ phẫu thuật ra gặp Valérie và Simon trong phòng chờ.

Họ nín thở nghe bản tường trình phẫu thuật.

Nửa giờ đồng hồ trôi qua giữa thời điểm Andrew bị đâm và thời điểm được đưa tới viện. Trong xe cứu thương, tim anh đã ngừng đập nhiều lần; Andrew đã sống trở lại nhưng anh đã đi quá xa.

Ca mổ đã kết thúc ở mức tốt nhất mà các bác sĩ có thể hy vọng. Hung khí đã gây ra nhiều vết thương sâu và nghiêm trọng, anh đã mất rất nhiều máu, quá quá nhiều máu. Tính mạng của anh không còn bị đe dọa và điều này vẫn còn chắc chắn trong bốn mươi tám giờ nữa.

Bác sĩ phẫu thuật không thể nói thêm điều gì.

Ông chào tạm biệt Valérie và Simon, ông cũng nói thêm là họ phải giữ niềm tin... Trong cuộc sống, mọi thứ đều có thể.

Thứ Ba ngày mùng 10 tháng Bảy, bài báo của Andrew Stilman được đăng trên trang nhất tờ The New York Times.

Valérie đọc cho Andrew nghe bài báo bên giường bệnh. Andrew vẫn chưa tỉnh lại.



END
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách