Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 2542|Trả lời: 28
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Lãng Mạn - Xuất Bản] Nếu Như Được Làm Lại | Marc Levy (Hoàn + Ebook)

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Nếu Như Được Làm Lại



Tác giả: Marc Levy


Dịch giả: Thu Phương


Độ dài: 372 trang


Thể loại: Lãng mạn


Nhà xuất bản : Nhã Nam | Hội Nhà Văn


Ngày xuất bản: 26-11-2013


Giới thiệu sơ lược:

Andrew Stilman, nhà báo nổi tiếng của tờ The New York Times, vừa kết hôn.
Sáng ngày 9 tháng Bảy 2012, anh đột ngột bị tấn công khi đang chạy bộ dọc sông Hudson. Anh gục ngã trong vũng máu…

Andrew tỉnh lại vào ngày 9 tháng Năm 2012, hai tháng trước lễ cưới.

Kể từ giờ phút đó, anh có 60 ngày để tìm ra kẻ giết mình, 60 ngày giằng co với số phận.
Từ New York đến Buenos Aires, Stilman lao vào cuộc chạy đua hối hả với các sự kiện, tình tiết đan cài, một cuộc chạy đua với thời gian, phập phồng lo sợ xen lẫn háo hức thách thức định mệnh, cho đến khi nút thắt cuối cùng được gỡ. Một kết thúc bất ngờ đến nghẹt thở.

Với Nếu như được làm lại, Marc Levy khiến người đọc ngây ngất với sức viết dồi dào của ông, và sự chuyển mình  quá đỗi hoàn hảo từ chất lãng mạn thường thấy sang phong cách trinh thám ly kỳ, cuốn hút.


Nhận định:

“Nên đọc ngay, đừng chần chừ!”
- La Dépêche du Midi



“Một cách suy nghĩ thú vị về số mệnh.”
- Metro


“Nhiều nút thắt mở, một cốt truyện được đan cài khéo léo.”
- Paris Match



Mục lục







Ebook


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2015 00:04:12 | Chỉ xem của tác giả
Dành tặng Louis, Georges và Pauline

“Ta sẽ vô cùng hạnh phúc nếu có thể từ bỏ bản thân như có thể từ bỏ người khác.”

Bà DEFFAND



1.


Hòa mình vào giữa đám đông, gây ra tấn thảm kịch kỳ lạ này mà không ai nhận thấy bất cứ điều gì, nhớ về bất cứ thứ gì.

Chạy bộ, trang phục hợp cảnh để không ai chú ý. Dọc công viên River Park, vào lúc 7 giờ sáng, tất cả mọi người đều chạy bộ. Trong một thành phố nơi thời gian được quý trọng đến từng phút, nơi thần kinh mỗi con người đều phải trải qua những thử thách cam go, họ chạy; họ chạy để giữ gìn vóc dáng, xóa tan những điều thái quá của ngày hôm qua và chuẩn bị đón nhận những căng thẳng của ngày sắp tới.

Một băng ghế dài; bàn chân đặt lên mặt ghế, buộc lại dây giày trong lúc đợi mục tiêu lại gần. Mũ liền áo sùm sụp trên trán che bớt tầm nhìn, nhưng cũng góp phần che khuất khuôn mặt. Tranh thủ lấy lại hơi, tránh để bàn tay run lên. Mồ hôi thì có hề chi, nó chẳng khiến ai chú ý cả, cũng chẳng biểu lộ điều gì, ở đây, tất thảy mọi người đều toát mồ hôi.

Khi anh xuất hiện, để anh chạy vượt qua, đợi vài giây trước khi lại tiếp tục chạy thong thả. Giữ khoảng cách lý tưởng cho đến thời điểm thích hợp.

Cảnh tượng như vậy lặp đi lặp lại đến bảy lần. Tất cả các buổi sáng trong tuần, vào cùng một giờ nhất định. Mỗi lần ham muốn hành động lại trỗi dậy mạnh mẽ hơn. Nhưng thành công phụ thuộc vào việc chuẩn bị kỹ càng. Không được phép phạm sai lầm.

Giờ thì anh đang xuôi xuống phố Charles, trung thành với thói quen của mình. Anh đợi đèn giao thông chuyển sang đỏ để băng qua bốn làn đường đầu tiên của xa lộ West Side. Đám ô tô di chuyển về mạn Bắc thành phố, người dân đang đổ dồn tiến về nơi làm việc của mình.

Anh đã đến dải phân cách. Hình người nhỏ bé sáng trưng trên cột đèn tín hiệu giao thông đã nhấp nháy. Ở đoạn TriBeCa và Financial District, đám ô tô nhích từng tí từng tí một, thanh chống sốc xe này chạm vào thanh chống sốc xe kia, dẫu vậy anh vẫn cứ tiến lên. Như mọi khi, anh đáp trả tiếng còi xe bằng cách giơ nắm tay lên, ngón giữa chĩa thẳng lên trời, rồi rẽ sang trái đi vào con đường dành cho khách bộ hành dọc theo sông Hudson.

Anh chạy qua hai mươi khối nhà, giữa những người chạy bộ khác, thích thú bỏ lại sau lưng mình những ai không khỏe khoắn và nguyền rủa những ai vượt lên trước mình. Họ chẳng có chút công trạng gì, họ kém anh những mười hay hai mươi tuổi. Hồi anh mười tám tuổi, phần này của thành phố chẳng mấy ai lui tới, nhưng anh là một trong những người đầu tiên hổn hển chạy tới đây. Các kho cảng ngày xưa đua ra phía trên các cột trụ giờ chỉ còn sót lại chút dấu tích, ngày ấy chúng sặc mùi cá chết và han gỉ. Sặc mùi máu. Trong vòng hai mươi năm, thành phố của anh đã đổi thay biết mấy, nó trẻ lại và đẹp lên; còn anh, năm tháng đã bắt đầu hằn dấu trên khuôn mặt.

Phía bên kia sông, ánh đèn từ khu Hoboken, ngay tiếp sau là ánh đèn khu Jersey City, vụt tắt trong cảnh ngày đang lên.

Không để khuất tầm mắt; khi đến đoạn giao cắt phố Greenwich, anh liền rời khỏi đường dành cho người đi bộ. Cần phải hành động trước. Buổi sáng đó, anh sẽ không đến được Starbucks Coffee nơi anh vẫn thường gọi món mocaccino cho mình.

Tới đoạn đi qua Cầu tàu số 4, cái bóng vẫn luôn đi theo anh, mà anh không hề hay biết, sẽ bắt kịp được anh.

Thêm một khối nhà nữa. Tăng tốc chạy, hòa mình vào nhóm người luôn tụ lại ở chỗ này, do lối đi thu hẹp lại và do những kẻ chậm chạp nhất cản trở những kẻ nhanh nhất. Chiếc kim dài luồn dưới ống tay áo, bàn tay đầy quyết tâm giữ chặt lấy nó.

Đâm vào khoảng giữa chóp xương cùng và xương sườn cuối cùng. Một cú đâm nhanh và mạnh, một cú “đâm đi-giật lại” sâu vào trong cơ thể để xuyên thủng thận rồi móc ngược lên tận động mạch bụng. Khi rút ra, chiếc kim kéo theo vết rách vô phương cứu chữa, chẳng kịp để ai đó hiểu chuyện gì đã xảy ra, để cứu hộ đến và để anh được chuyển tới bệnh viện và đưa đến phòng phẫu thuật. Ngay cả khi tất cả còi cứu thương đều rú lên inh ỏi thì đến được bệnh viện cũng chẳng phải là chuyện dễ dàng vào giờ này buổi sáng, khi mật độ giao thông dày đặc đến nỗi tài xế xe cứu thương chỉ có thể lấy làm tiếc về sự bất lực của mình.

Nếu là hai năm trước, anh hẳn có thể có chút may mắn thoát chết. Kể từ khi người ta đóng cửa bệnh viện St Vincent để tạo điều kiện thuận lợi cho mấy tay kinh doanh bất động sản, trung tâm cấp cứu gần nhất cũng ở tận mạn Đông, đối diện với công viên River Park. Chảy máu quá nhiều, anh sẽ sớm cạn sạch máu.

Anh sẽ không phải chịu đau đớn, không đến mức đó đâu. Anh sẽ chỉ thấy lạnh, càng lúc càng lạnh hơn. Anh sẽ run lập cập vì rét, mất dần cảm giác với các bộ phận cơ thể mình, hai hàm răng gõ vào nhau để rồi không thể thốt lên lời được nữa, mà để nói gì cơ chứ? Rằng anh đã bị thương rất nặng ở lưng ư? Để được gì nào? Cảnh sát có thể rút ra được kết luận nào từ đó cơ chứ?

Tội ác hoàn hảo có thể tồn tại và những cảnh sát giỏi nhất sẽ thổ lộ với bạn vào lúc kết thúc sự nghiệp rằng họ kéo lê đằng sau, như một gánh nặng đè lên tâm trí họ, hàng lô những vụ án không phá được.

Thế là đã đúng vị trí. Hành động này đã được thực hiện trên bao cát nhiều lần, nhưng khi chiếc kim đâm vào da thịt con người thì ấn tượng vô cùng khác. Điều quan trọng là không để đâm trúng xương. Đâm phải đốt sống thắt lưng coi như thất bại hoàn toàn. Chiếc kim phải đâm sâu vào rồi được rút ra ngay lập tức giấu vào trong ống tay áo.

Sau đó, tiếp tục chạy với tốc độ như cũ, cưỡng lại mong muốn quay lại nhìn và giữ mình vô danh, vô hình giữa đám người đang chạy bộ kia.

Bấy nhiêu giờ chuẩn bị chỉ để cho vài giây hành động. Anh thì cần nhiều thời gian hơn thế để đến với cái chết, có lẽ là mười lăm phút, nhưng sáng đó, khoảng 7h30, anh sẽ chết.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2015 10:21:57 | Chỉ xem của tác giả
2.


Tháng Năm 2011

Andrew Stilman là phóng viên tờ The New York Times. Gia nhập tòa báo trong vai trò nhà báo hạng xoàng ở tuổi hai mươi ba, anh đã dần leo lên từng bậc một. Nhận thẻ nhà báo của một trong những tờ nhật báo nổi tiếng nhất thế giới từng là mơ ước anh ấp ủ từ thuở thiếu thời. Mỗi sáng, trước khi bước qua cánh cửa đôi của tòa nhà số 860 đại lộ 8, Andrew tự thưởng cho mình niềm vui nho nhỏ bằng cách hiên ngang ngẩng cao đầu. Anh liếc mắt nhìn dòng chữ viết ở mặt trước tòa nhà và tự nhủ rằng văn phòng của mình ở đây, trong giáo đường báo chí chí thánh nơi hàng nghìn kẻ mê viết lách vẫn mơ ước được đặt chân vào dù chỉ một lần, để thăm thú trụ sở tòa báo.

Andrew từng làm công tác thu thập tài liệu bốn năm trước khi đảm nhiệm vị trí trợ lý biên tập tại mục “Sổ tay trong ngày”, chuyên mục cáo phó. Người phụ nữ phụ trách chuyên mục này trước anh đã nằm dưới gầm xe buýt ngay khi rời nhiệm sở để rồi lại xuất hiện trong chính chuyên mục mà bà từng phụ trách. Vì vội vội vàng vàng trở về nhà đón nhân viên của hãng chuyển phát UPS đến giao bộ đồ lót mỏng tang đặt hàng qua mạng. Mạng sống thật mong manh!

Andrew Stilman lại tiếp tục nai lưng làm việc năm năm nữa trong tình trạng vô danh. Các cáo phó không bao giờ được ký tên, chỉ riêng người quá cố là được vinh danh trong ngày. Năm năm để viết về những con người đã là và chỉ còn là những hoài niệm, cả tốt lẫn xấu. Một nghìn tám trăm hai mươi ngày và gần sáu nghìn ly Martini suông được uống hết tối này đến tối khác, vào tầm từ 19h30 đến 20h15 tại bar Marriott trên phố 40.

Ba trái ô liu mỗi ly và cứ mỗi hạt được nhổ vào chiếc gạt tàn đầy ắp toàn đầu mẩu thuốc lá, Andrew lại đánh bật khỏi tâm trí mình phần tin súc tích cô đọng về một sự sống vừa vụt tắt mà anh viết trong ngày. Có thể là sống cùng cái chết đã khiến Andrew dần phí sức vào rượu chè. Vào năm thứ tư ở chuyên mục “cáo phó” tay phục vụ quán bar Marriott phải phục vụ đến lần thứ sáu mới đủ cho vị khách thân thiết của mình uống cho đã khát. Andrew thường xuyên đến văn phòng với bộ mặt xám xịt, mí mắt trĩu nặng, cổ áo xộc xệch còn áo vét thì nhàu nhĩ; tuy vậy bộ lễ phục-cà vạt kèm áo sơ mi hồ bột không phải trang phục bắt buộc trong các khu vực không gian mở tại phòng biên tập tòa báo và lại càng không phải trong phòng anh tác nghiệp.

Không rõ vì ngòi bút nhã nhặn và chính xác của anh, hay vì những hậu quả của một mùa hè vô cùng nóng mà chuyên mục anh nắm giữ nhanh chóng trải ra hai trang kín đặc. Trong quá trình chuẩn bị báo cáo kết quả hằng quý, một tay phân tích thuộc phòng tài chính, vốn say mê các con số thống kê, nhận thấy rằng số tiền tòa báo thu được từ mỗi người quá cố tăng lên rất nhanh. Các gia đình có tang ngày càng mua nhiều dòng hơn để bày tỏ niềm đau đớn của họ lớn lao nhường nào. Các con số, khi chúng tốt đẹp, du hành khá nhanh trong lòng những doanh nghiệp lớn. Tại cuộc họp ban lãnh đạo vừa mới được bổ nhiệm từ hồi đầu mùa thu, họ tranh luận về những kết quả này và dự kiến sẽ khen thưởng vị tác giả từ giờ đã được thừa nhận. Andrew Stilman được bổ nhiệm làm biên tập viên, vẫn luôn ở chuyên mục “Sổ tay trong ngày”, nhưng lần này là ở mục đám cưới mà kết quả vốn đang rất thảm hại.



Andrew không bao giờ thiếu ý tưởng, thi thoảng anh bỏ quán bar thường đến để lân la đến những địa điểm sang trọng mà nhiều cộng đồng đồng tính trong thành phố thường lui tới. Bắt quen hết mối này đến mối khác qua những ly Martini suông mà anh không thể đếm nổi nữa, anh tranh thủ dịp này phân phát rất mau lẹ danh thiếp của mình, đồng thời cũng giải thích cho những ai muốn nghe rằng chuyên mục mà anh phụ trách rất sẵn lòng in mọi thông báo kết hôn, kể cả những thông báo thuộc loại mà phần lớn các báo khác từ chối tiếp nhận trong chuyên mục của mình. Kết hôn đồng tính hiện vẫn còn chưa được pháp luật New York công nhận, còn khuya mới đến được đó, nhưng báo chí thì được tự do xuất bản mọi lời chúc tụng được cho là riêng tư; rốt cuộc, chỉ cần muốn là được.

Trong vòng ba tháng, chuyên mục “Sổ tay trong ngày” trải rộng đến tận bốn trang trong ấn bản Chủ nhật và lương của Andrew Stilman tăng lên rõ rệt.

Khi đó, anh quyết định giảm lượng tiêu thụ cồn, không phải bởi do lo lắng giữ gìn lá gan mà bởi vì anh vừa tậu được một con Datsun 240Z, mẫu xe anh hằng mơ ước từ khi còn là một cậu bé con. Cảnh sát giờ đây không hề nhân nhượng trong chuyện liên quan đến nồng độ cồn khi lái xe. Uống hay lái… Chết mê chết mệt con xe cổ, vốn được phục chế không chê vào đâu được tại xưởng của người bạn thân sở hữu một ga ra chuyên về xe sưu tập này, Andrew đã buộc phải lựa chọn. Và nếu lại lui tới Marriott nữa thì anh không bao giờ uống quá hai ly mỗi tối, ngoại trừ thứ Năm.

Chính xác là vào thứ Năm, vài năm sau đó, trong lúc rời khỏi quán bar Marriott, Andrew đã mặt giáp mặt với Valérie Ramsay. Cô cũng say hệt như anh và đang phá lên cười ngặt nghẽo không kiểm soát nổi sau khi vấp phải một thùng đựng báo rồi ngã bệt xuống đất ngay giữa vỉa hè.

Andrew ngay lập tức nhận ra Valérie không phải qua đường nét của cô – cô chẳng hề giống cô gái anh từng biết cách đây hai mươi năm – mà qua tiếng cười. Tiếng cười khó quên khiến lồng ngực anh quặn thắt. Bộ ngực của Valérie Ramsay từng ám ảnh thời niên thiếu của Andrew.

Họ quen nhau hồi trung học. Valérie, bị đội cổ vũ – mấy thiếu nữ mặc bộ áo liền quần khêu gợi mang màu cờ sắc áo của đội bóng đá địa phương – thẳng thừng chối bỏ vì đã có một vụ ẩu đả ngớ ngẩn trong phòng thay đồ với một đứa con gái tự mãn hơi quá đà, đành bằng lòng với một vị trí trong dàn hợp xướng. Andrew, bị mắc chứng teo sụn đầu gối mà mãi nhiều năm sau anh mới chịu phẫu thuật vì một cô gái yêu thích khiêu vũ, đã được miễn mọi hoạt động thể thao. Cả anh cũng vậy, vì không thể làm gì khác, đành góp giọng trong cùng dàn hợp xướng đó.

Anh đã hẹn hò với cô tới tận khi kết thúc quãng thời gian học chung. Không hề có quan hệ tình dục đúng nghĩa, mà chỉ đủ để đôi tay và chiếc lưỡi thích dạo chơi được vui đùa trên ghế nhà trường dục vọng, bằng cách tranh thủ trọn vẹn cơ thể nở nang của Valérie.

Dẫu sao cũng chính nhờ cô mà lần đầu tiên anh biết đến cơn cực khoái do bàn tay một người khác. Một tối có trận đấu bóng, đôi trẻ trốn trong phòng gửi quần áo vắng tanh vắng ngắt để tự tình lâu hơn thường lệ, Valérie cuối cùng cũng đồng ý cho tay vào trong quần jean của Andrew. Mười lăm giây bàng hoàng chóng mặt, tiếp theo là tràng cười của Valérie khiến ngực cô lắc lư đã góp phần kéo dài thú nhục dục chóng tàn. Lần đầu tiên không thể quên.

- Valérie à? Stilman ấp úng.

- Ben ư? Valérie trả lời, vẻ cũng vô cùng ngạc nhiên.

Tại trường trung học, tất cả đều gọi anh là Ben, không thể nhớ là tại sao; hai mươi năm qua không còn ai gọi anh như vậy.

Để lý giải cho tình trạng tồi tệ của mình, Valérie viện cớ một buổi tối đám bạn gái tụ tập với nhau vui quá vì cô không còn sống kiểu như vậy kể từ quãng thời gian học đại học. Andrew, vốn cũng trong tình trạng chẳng khá khẩm hơn là mấy, viện dẫn đến việc được thăng chức, nhưng không nói rõ là chuyện đó đã xảy ra từ hai năm trước; nhưng để ăn mừng những tin tốt lành thì có cần thời hạn hay không?

- Em làm gì ở New York vậy? Andrew hỏi.

- Em sống ở đây, Valérie đáp trong lúc Andrew giúp cô đứng dậy.

- Từ bao lâu rồi?

- Được một thời gian rồi, đừng hỏi em là bao nhiêu lâu, em hiện không đủ minh mẫn để nhẩm tính được đâu. Thế anh làm gì rồi?

- Làm nghề mà anh luôn hằng mơ, thế còn em?

- Hai mươi năm cuộc đời, đó là cả một câu chuyện dài, anh biết đấy, Valérie vừa phủi bụi trên chiếc jupe vừa trả lời.

- Chín dòng, Andrew thở dài.

- Cái gì chín dòng?

- Hai mươi năm cuộc đời, nếu em thổ lộ cho anh biết, anh sẽ tóm lược chúng thành chín dòng.

- Thật vớ vẩn.

- Em đánh cược không?

- Còn tùy là cược cái gì nữa?

- Một bữa tối.

- Andrew, em còn có người đồng hành trong đời, Valérie trả lời đốp chát.

- Anh đâu có đề nghị em một đêm trong khách sạn. Một bát xúp há cảo ở Joe’s Shanghai… em vẫn còn mê mệt món há cảo chứ?

- Vẫn còn.

- Em chỉ việc nói với bạn trai rằng anh là một cô bạn cũ.

- Nhưng trước tiên anh phải tóm tắt được hai mươi năm vừa qua của đời em trong chín dòng đã. Valérie, với nụ cười nơi khóe môi như cô vẫn thường khoe ra vào thời người ta còn gọi anh là Ben, trước khi đề nghị anh tới gặp cô ở nhà để xe phía sau tòa nhà thí nghiệm; một nụ cười mỉm không hề tạo thành nếp nhăn.

- Được thôi, cô nói, một ly cuối cùng và em sẽ kể về đời mình cho anh nghe.

- Không phải ở quán bar này, trong đó quá ồn ào.

- Tốt thôi, nếu anh định dẫn em về nhà anh tối nay thì anh đã nhầm người rồi đó.

- Valérie, điều đó thậm chí còn chưa thoáng qua tâm trí anh, chỉ là với tình trạng của hai ta như thế này, ăn chút gì đó chẳng phải là điều quá xa xỉ đâu, nếu không thế, anh e rằng vụ cá cược của chúng ta sẽ uổng công thôi.

Andrew không hề sai. Dù rằng cả hai chiếc giày cao gót của cô đã cắm chặt xuống vỉa hè bẩn thỉu của phố 40 kể từ khi anh giúp cô đứng đậy, Valérie vẫn có cảm giác như đang đi lảo đảo trên boong tàu. Ý tưởng lót dạ thứ gì đó không hề làm cho cô phật ý. Andrew vẫy taxi rồi cho tài xế địa chỉ một quán rượu mở thông đêm nằm ở khu SoHo nơi anh thường lui tới. Mười lăm phút sau, Valérie ngồi bên bàn, đối diện với anh cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Cô đã nhận được học bổng của trường Đại học Indianapolis. Trong tất cả những trường mà cô gửi hồ sơ, đó là trường đầu tiên chấp nhận hồ sơ dự tuyển của cô. Ngôi trường ở vùng Midwest chưa bao giờ là niềm mơ ước của cô gái trẻ, nhưng cô không xa xỉ đến nỗi đợi câu trả lời danh giá hơn nữa; nếu không có khoản trợ cấp tài chính này để trang trải học phí, tương lai của cô sẽ chỉ gói gọn trong cảnh làm bồi bàn tại một quán bar ở Poughkeepsie, thành phố nhỏ nằm ở mạn Bắc tiểu bang New York nơi cả hai cùng lớn lên.

Tám năm sau, với bằng bác sĩ thú y trong túi, Valérie rời tiểu bang Indiana và, như phần nhiều các cô gái trẻ đầy tham vọng, cô đến sống ở Manhattan.

- Em đã theo học cả một khóa nghiệp vụ ở trường thú y tại Indiana để rồi đến New York ư?

- Sao lại không nhỉ? Valérie đáp.

- Giấc mơ của em là thăm khám hậu môn cho lũ chó xù à?

- Anh thật khốn, Andrew à.

- Anh không muốn làm em tổn thương, nhưng em phải biết rằng Manhattan không hề chuộng động vật. Nếu ta trừ lũ chó của mấy mụ béo ở Upper East Side đi thì khách hàng của em còn lại những ai?

- Trong một thành phố có tới hai triệu người độc thân anh sẽ ngạc nhiên khi biết rằng lũ vật bầu bạn giữ vai trò quan trọng đến nhường nào.

- Anh hiểu rồi, nghĩa là em cũng chăm sóc cả bọn chuột hamster, đám mèo đực và lũ cá vàng.

- Em là bác sĩ thú y thuộc biên chế đội cảnh sát cưỡi ngựa. Em chăm sóc bầy ngựa của họ, và cả lũ chó của đội cảnh khuyển, chứ không hề có con chó xù nào cả. Chỉ có đám chó labrador chuyên tìm kiếm xác chết, vài con béc giê Đức gần về hưu, lũ chó săn nghiệp vụ chuyên phát hiện ma túy và chó bi gơn để tìm chất nổ.

Andrew nhướng hết bên mày này rồi đến bên kia. Anh đã học tiểu xảo này trong khóa học làm báo của mình. Hành động ấy luôn khiến người đối thoại với ta bối rối. Khi phỏng vấn ai đó mà nghi ngờ độ chân thực của một lời chứng, anh bắt đầu điệu valse nhíu mày, rồi qua phản ứng của “khách hàng” mà đánh giá xem liệu họ có đang nói dối hay không. Nhưng khuôn mặt Valérie vẫn rất thản nhiên.

- Dĩ nhiên rồi, Andrew sững sờ nói, anh không ngờ đấy. Nhưng vậy thì, em đang làm trong ngành cảnh sát hay chỉ trong lĩnh vực thú y? Rốt cuộc, ý anh là, em có thẻ cảnh sát và có mang súng không?

Valérie nhìn anh chằm chằm rồi phá lên cười.

- Em thấy anh đã chín chắn hơn rất nhiều kể từ lần cuối ta gặp nhau rồi đấy, Ben thân mến.

- Em giễu anh đấy hả?

- Không hề, nhưng nhìn mặt anh đang nghệt ra em cứ ngỡ gặp lại bộ mặt non choẹt của anh hồi còn đi học cơ đấy.

- Anh không ngạc nhiên khi em trở thành bác sĩ thú y, Andrew tiếp tục. Em vẫn luôn yêu các con vật mà. Có tối em từng gọi đến nhà bố mẹ anh, năn nỉ anh vượt rào để tới gặp em ngay tức thì; anh những tưởng là em đột nhiên có ham muốn, nhưng không hề. Em đã buộc anh vác một con chó già gãy chẫn, hôi hám mà em nhặt được bên lề đường lúc từ trường về. Chúng ta đã phải đánh thức bác sĩ thú y ngay giữa đêm hôm khuya khoắt.

- Anh vẫn còn nhớ chuyện đó sao Andrew Stilman?

- Anh nhớ mọi chuyện của hai ta, Valérie Ramsay à. Còn bây giờ, em có thể nói cho anh biết một chút xem chuyện gì đã xảy ra từ buổi chiều anh dài cổ đợi em ở rạp Poughkeepsie cho tới tận buổi tối nay khi em tái xuất không?

- Em đã thấy trong đống thư từ buổi sáng lá thư chấp thuận của Đại học Indianapolis và em không thể đợi thêm một ngày nào nữa. Em thu xếp hành lý và nhờ vào khoản tiết kiệm có được từ tất cả những công việc làm thêm mùa hè cũng như việc trông trẻ mà em từng cáng đáng, em đã rời nhà và Poughkeepsie ngay tối đó. Quá hạnh phúc vì không bao giờ phải tham dự vào cảnh chiến tranh gia đình giữa bố mẹ em nữa, họ thậm chí còn không muốn tiễn em ra ga, anh thấy đấy! Và bởi anh chỉ có chín dòng để nói về cô bạn cũ, em sẽ miễn cho anh các chi tiết trong quá trình em học đại học. Khi đến New York, em đã làm nhiều việc lặt vặt ở các phòng khám thú y khác nhau. Một ngày nọ, em trả lời mẩu tin tuyển dụng của sở cảnh sát và em đã được nhận vào vị trí dự khuyết. Em vào biên chế cũng được hai năm rồi.

Andrew gọi cô bồi bàn đang đi ngang qua gần chỗ họ, nhờ phục vụ hai ly cà phê.

- Anh rất thích ý tưởng em làm bác sĩ thú y trong sở cảnh sát. Anh đã soạn thảo nhiều cáo phó với thông báo đám cưới đến nỗi em không thể tưởng tượng nổi đâu, nhưng anh chưa bao giờ đụng phải công việc này. Anh thậm chí còn không hình dung ra là nó có tồn tại.

- Dĩ nhiên là nó có tồn tại.

- Anh vẫn giận em, em biết chứ?

- Giận vì cái gì?

- Vì em đã chạy trốn mà không hề từ biệt anh.

- Anh là người duy nhất em từng thổ lộ rằng em sẽ ra đi ngay khi có thể.

- Anh không hề coi lời thổ lộ đó là lời báo trước. Giờ em đã nói vậy thì hẳn nó có nghĩa là vậy.

- Thế mà anh vẫn còn giận em sao? Valérie giễu.

- Lẽ ra phải thế, nhưng anh nghĩ em đã có thông báo.

- Thế còn anh, anh đã thực sự trở thành nhà báo ư?

- Sao em biết?

- Em vừa hỏi anh làm nghề gì, anh đã trả lời rằng: “Nghề mà anh luôn hằng mơ”… và anh từng muốn trở thành nhà báo còn gì.

- Em vẫn nhớ chuyện đó sao, Valérie Ramsay?

- Em nhớ mọi thứ mà, Andrew Stilman.

- Vậy là em đã có bạn đồng hành trong đời?

- Muộn rồi, Valérie thở dài, em phải về thôi. Hơn nữa nếu em nói quá nhiều, không bao giờ anh có thể tóm lược tất cả trong chín dòng.

Andrew mỉm cười tinh quái.

- Có nghĩa là em đồng ý đi ăn tối ở Joe’s Shanghai?

- Nếu anh thắng cược. Em là người giữ lời.

Họ dạo bước trên các con phố vắng tanh ở khu SoHo cho tới tận đại lộ 6 mà không ai cất lời. Andrew dìu Valérie để giúp cô băng qua những con phố với lớp gạch lát mấp mô của khu phố cổ.

Anh vẫy gọi một chiếc taxi đang đi ngược lên đại lộ rồi mở cửa cho Valérie, trong lúc đó cô ngồi vào băng ghế sau.

- Quả là hạnh phúc bất ngờ khi gặp lại em, Valérie Ramsay.

- Em cũng thế, Ben à.

- Bài văn xuôi chín dòng của anh, anh có thể gửi đến cho em theo địa chỉ nào?

Valérie lục tìm trong túi xách, lôi ra cây chì kẻ mắt rồi bảo Andrew chìa lòng bàn tay ra. Cô ghi vào đó số điện thoại của mình.

- Chín dòng đó, anh có thể gửi cho em qua tin nhắn. Chúc ngủ ngon, Ben.

Andrew nhìn chiếc xe ngược về mạn Bắc. Đến khi nó khuất tầm mắt, anh tiếp tục đi bộ về phía căn hộ nằm cách đó tầm mười lăm phút. Anh cần hít thở không khí ngoài trời trong lành. Dù đã ghi nhớ ngay từ lúc mới nhìn thấy số điện thoại viết bằng chì kẻ lông mày trên lòng bàn tay mình, Andrew vẫn cẩn trọng không nắm tay lại trên suốt quãng đường về nhà.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2015 10:41:59 | Chỉ xem của tác giả
3.


Đã lâu rồi Andrew không bắt tay vào tóm lược một cuộc đời trong vài dòng. Từ hai năm nay, anh làm việc ở bộ phân “Thời sự quốc tế” của tòa báo. Andrew đặc biệt tò mò về cuộc sống, về trật tự thế giới và nuôi dưỡng trí tò mò nhất định về tất cả những gì có quan hệ với nước ngoài.

Giờ đây khi màn hình máy tính đã thay thế bàn sắp chữ nơi người thợ sắp chữ trên máy linô từng thao tác trước kia, mỗi biên tập viên đều có thể tiếp cận những bài báo sẽ xuất hiện trên ấn bản ngày hôm sau. Andrew đã nhiều lần phát hiện ra những lỗi phân tích hay những điều sai sự thật trong chuyên mục thời sự quốc tế. Những nhận xét anh đưa ra trong cuộc họp hằng tuần tập trung tất cả các phóng viên đã nhiều lần giúp tòa báo khỏi phải cải chính sau khi độc giả viết thư thể hiện thái độ bất bình của mình. Khả năng của Andrew nhanh chóng được nhận ra và giữa khoản tiền thưởng cuối năm hay việc được bổ dụng vào một vị trí mới, Andrew không gặp chút khó khăn nào trong việc lựa chọn.

Ý nghĩ một lần nữa được thảo “biên niên đời người”, như anh vẫn thích thú gọi tên những bài báo mình viết trước kia, kích thích anh rất nhiều; thậm chí anh còn cảm thấy chút luyến tiếc khi bắt đầu thảo “biên niên” của Valérie.

Hai tiếng đồng hồ với tám dòng rưỡi, sau đó anh sao chép phần văn bản đó trên bàn phím điện thoại rồi gửi tới đương sự.

Thời gian còn lại trong ngày anh cố thử viết một bài báo về tình huống có thể dân Syrie sẽ nổi dậy, nhưng vô ích. Tình huống có thể xảy ra mà các đồng nghiệp của anh cho rằng chưa chắc chắn, nếu không muốn nói là bất khả.

Anh không tài nào tập trung nổi, ánh mắt anh lướt từ màn hình máy tính sang chiếc điện thoại di động vẫn luôn lặng câm một cách tuyệt vọng. Khi nó rốt cuộc cũng sáng lên vào quãng 17 giờ, Andrew lao tới chỗ điện thoại. Báo động giả, cửa hiệu giặt là báo tin rằng đám áo sơ mi của anh đã được giặt xong.

Mãi đến tận ngày hôm sau vào quãng giữa trưa anh mới nhận được tin nhắn sau:

“Thứ Năm tới, 19h30. Valérie”

Anh trả lời ngay tức thì: “Em có địa chỉ chưa?”

Và anh cảm thấy hối tiếc về sự vội vàng của mình khi vài giây sau đọc được câu trả lời “Rồi” cụt lủn.


*


Andrew tiếp tục công việc, và sống điều độ trong suốt bảy ngày liền. Không uống bất cứ một giọt rượu nào, à đấy là trong trường hợp ta đồng ý với anh coi bia là thứ đồ uống quá ít cồn để có thể xem như là rượu. Thứ Tư, anh đến hiệu giặt là để lấy bộ vét đã để lại đây ngày hôm trước rồi đi mua một chiếc sơ mi trắng. Anh tranh thủ dịp này để sửa sang lại phần gáy và khuôn mặt ở chỗ thợ cạo. Và như mọi tối thứ Tư khác, anh gặp Simon, cậu bạn chí thân của mình, vào tầm 21 giờ, trong một quán nhỏ trông chẳng ra vẻ gì, nhưng ở đó có món cá chuẩn nhất khu West Village. Andrew sống cách đây hai bước chân, và nhà bếp của Mary’s Fish đã trở thành căng tin của anh những khi anh từ tòa báo về muộn, mà điều này thì thường xuyên xảy đến với anh. Trong khi Simon, như mỗi dịp cả hai cùng đi ăn tối, nổi cơn thịnh nộ với tụi Cộng hòa vì đã ngăn cản tổng thống thực hiện những cải cách mà nhờ vào nó ông mới đắc cử, Andrew, tâm hồn đang lang thang tận đẩu tận đâu, nhìn ngắm dòng người qua đường cùng khách du lịch đang đi dạo trong những con phố tại khu mình ở qua cửa kính.


- Và điều thực sự đáng ngạc nhiên tớ đồng ý với cậu, là đây: theo nguồn tin đáng tin cậy, Barack Obama sẽ phải lòng Angela Merkel.

- Hoặc là cậu đang làm việc quá căng với một tin đặc biệt tày đình và tớ sẽ thứ lỗi cho cậu, hoặc là cậu đã gặp ai đấy và trong trường hợp đó, cậu nên cho tớ biết ngay tức thì! Simon hét toáng lên.

- Chẳng phải lọ cũng chẳng phải chai, Andrew đáp, tớ rất lấy làm tiếc, tớ mệt quá.

- Đừng chơi trò đó với tớ! Tớ không thấy cậu cạo râu tóc nhẵn nhụi đến vậy kể từ khi cậu đi chơi với cô nàng tóc nâu cao hơn cậu cả cái đầu. Sally thì phải, nếu trí nhớ tớ vẫn còn hoạt động tốt.

- Sophie, nhưng cũng chẳng quan trọng gì, điều đó chứng tỏ rằng cậu quan tâm biết bao đến cuộc đàm đạo của tớ. Làm sao có thể trách cậu vì đã quên tên cô nàng chứ, tớ chỉ ở bên cô nàng có năm rưỡi thôi mà!

- Nàng ấy nẫu thật đấy nhỉ, tớ chưa từng nghe thấy tiếng nàng cười bao giờ, Simon tiếp lời.

- Bởi nàng chẳng bao giờ cười trước những lời đùa cợt của cậu. Cậu ăn nốt cho xong đi, tớ muốn về ngủ rồi, Andrew thở dài.

- Nếu cậu không nói ra điều cậu đang lo lắng trong lòng, tớ sẽ gọi hết món tráng miệng này đến món tráng miệng khác, cho đến no căng mà chết cho mà xem.

Andrew nhìn thẳng vào mắt cậu bạn.

- Cậu từng có người con gái ghi dấu thuở niên thiếu chưa? anh vừa hỏi vừa ra dấu cho cô phục vụ mang hóa đơn đến.

- Tớ biết ngay là không phải công việc khiến cậu rơi vào tình trạng này mà!

- Đừng nghĩ vậy, tớ đang làm về một chủ đề gây phẫn nộ, một câu chuyện nhớp nhúa khiến cậu quặn ruột.

- Chủ đề gì vậy?

- Bí mật nghề nghiệp!

Simon thanh toán hóa đơn bằng tiền mặt rồi đứng dậy.

- Dạo bộ một chút đi, tớ cần hít thở không khí ngoài trời.

Andrew lấy áo khoác trên cây mắc rồi bắt kịp cậu bạn đang đứng đợi mình trên vỉa hè.

- Kathy Steinbeck, Simon thì thầm.

- Kathy Steinbeck?

- Người con gái ghi dấu thuở niên thiếu của tớ, cậu vừa đặt câu hỏi đó cách đây năm phút, cậu đã quên rồi hả?

- Cậu chưa bao giờ kể cho tớ nghe chuyện đó.

- Cậu chưa bao giờ đặt câu hỏi đó, Simon đáp.

- Valérie Ramsay, Andrew khai.

- Thực ra thì cậu hoàn toàn cóc quan tâm đến chuyện làm sao Kathy Steinbeck từng có thể ghi dấu trong cuộc đời trai trẻ của tớ. Cậu chỉ đặt câu hỏi đó cho tớ với mục đích kể cho tớ nghe về Valérie của cậu.

Andrew nắm lấy vai Simon rồi kéo cậu đi xa vài bước nữa. Ba bậc thang dẫn xuống tầng hầm một tòa nhà nhỏ xây bằng gạch. Anh đẩy cửa vào Fedora, một quán bar nơi xưa kia những nghệ sĩ trẻ như Count Basie, Nat King Cole, John Coltrane, Miles Davis, Billie Holiday hay Sarah Vaughan từng biểu diễn.

- Cậu thấy tớ quá tập trung vào chính mình phải không? Andrew hỏi. Simon không đáp lời. -

Hẳn là cậu có lý. Cứ mải miết tóm tắt cuộc đời của những con người xa lạ trong ngần ấy năm, tớ rốt cuộc đã tin rằng cái ngày duy nhất mà người ta quan tâm đến tớ sẽ là ngày đến lượt tớ xuất hiện trên những cột báo tồi tệ dành cho người chết kia.

Tay nâng cốc, Andrew bắt đầu cao giọng:

- Sinh năm 1975, phần lớn cuộc đời Andrew Stilman làm việc cho tờ báo nổi tiếng The New York Times… Cậu thấy đấy, Simon, chính vì lẽ đó mà các thầy thuốc chẳng bao giờ chữa bệnh cho chính mình được, tay họ run run khi phải tự phẫu thuật. Tuy nhiên, đó lại là khái niệm cơ bản của nghề. Các từ chỉ phẩm chất chỉ chuyên để dành cho người chết. Tớ bắt đầu lại… sinh năm 1975, Andrew Stilman từng cộng tác nhiều năm với The New York Times. Việc thăng quan tiến chức nhanh như diều gặp gió đã đưa anh tới chỗ đảm nhiệm vị trí tổng biên tập ngay hồi đầu những năm 2020. Chính nhờ anh đốc thúc mà tờ báo đã có bước phát triển nhảy vọt mới và trở lại vị trí một trong những nhật báo uy tín nhất thế giới… Có thể tớ hơi quá một chút, phải không?

- Cậu sẽ không bắt đầu lại từ đầu tiểu sử người chết của cậu đấy chứ!

- Kiên nhẫn đi, để tớ đi đến cùng đã chứ, rồi tớ sẽ đọc cả tiểu sử người chết của cậu nữa, cậu sẽ thấy cực nhộn cho mà xem.

- Cậu tính chết lúc bao nhiêu tuổi để tớ còn biết cơn ác mộng này sẽ tiếp diễn bao lâu nữa?

- Ai mà biết được với những tiến bộ y học... Tớ đang nói đến đâu rồi ấy nhỉ? À đúng rồi, chính nhờ anh đốc thúc, bla- bla-bla, mà tờ báo đã tìm lại được ánh hào quang. Năm 2021, Andrew Stilman nhận giải Pulitzer cho bài báo dự cảm về... ờ, giờ thì tớ chưa tìm ra cái gì, nhưng sau này tớ sẽ xác định rõ chủ đề. Mặt khác, chủ đề này đã gợi cảm hứng cho cuốn sách đầu tay của anh, cuốn sách cũng được ngợi khen hết lời và ngày nay nó còn được đưa vào chương trình học trong tất cả các trường đại học danh tiếng.

- Chuyên luận về đức khiêm tốn của nhà báo sẽ là nhan đề kiệt tác này, Simon nhạo bạn. Thế cậu nhận giải Nobel năm bao nhiêu tuổi?

- Năm bảy mươi hai tuổi, tớ sẽ đạt được... Rời vị trí tổng giám đốc sau khi có được một sự nghiệp rạng rỡ, anh về hưu ở tuổi bảy mươi mốt và ngay năm sau đó, anh đã được trao...

- ... Lệnh bắt giam vì cố ý giết người, bởi anh đã làm người bạn thân thiết nhất của mình chết vì muộn phiền.

- Cậu thật không động lòng trắc ẩn gì hết.

- Thế tớ phải động lòng trắc ẩn cái gì đây?

- Tớ đang trải qua thời kỳ kinh khủng, Simon thân mến à; nỗi cô đơn đè nặng tâm trí tớ, chuyện này không hề bình thường, bởi từ trước tới giờ tớ chỉ đánh giá cao cuộc sống độc thân.

- Cậu gần bốn mươi rồi còn gì!

- Cảm ơn cậu đã nhắc, tớ vẫn còn vài năm nữa mới tới ngưỡng đó. Bầu không khí ở tòa báo rất độc hại, Andrew tiếp tục, bọn tớ sống dưới mối hiểm họa thường trực trên đầu. Tớ chỉ muốn tìm cho mình chút niềm an ủi trong lòng... Cô Kathy Steinbeck của cậu là ai vậy?

- Cô giáo dạy triết của tớ.

- Thật ư? Tớ không thể nghĩ rằng người con gái ghi dấu thuở niên thiếu của cậu... lại không phải là một cô gái.

- Cuộc sống thật chẳng ra làm sao cả; lúc tớ đôi mươi, cánh phụ nữ hơn tớ mười lăm tuổi khiến tớ mơ mộng hão huyền, còn ở độ tuổi ba mươi bảy, chỉ có đám kém mười lăm tuổi mới khiến tớ quay đầu lại nhìn.

- Cái chính là đầu óc cậu chẳng ra làm sao ấy, ông bạn thân mến à.

- Cậu nói cho tớ nghe thêm một chút về Valérie Ramsay của cậu được không?

- Tuần trước tớ vừa gặp nàng khi rời khỏi bar Marriott.

- Tớ biết.

- Không, cậu chẳng biết gì sất. Tớ đã phát điên vì nàng khi còn học trung học Khi nàng chạy trốn khỏi ngôi làng của hai đứa như tên trộm, tớ đã phải mất hàng năm trời mới quên được nàng. Thẳng thắn mà nói, thậm chí tớ còn tự hỏi liệu mình đã thực sự quên nàng chưa.

- Thế khi gặp lại nàng, thất vọng lớn lao chứ?

- Hoàn toàn ngược lại, nàng đã thay đổi gì đó khiến giờ đây nàng càng khêu gợi hơn.

- Nàng đã trở thành phụ nữ, một ngày nào đó tớ sẽ giải thích cho cậu. Cậu đang nói với tớ rằng cậu lại vướng vào lưới tình phải không? Andrew Stilman, bị tiếng sét ái tình quật ngã trên phố 40, ôi cái nhan đề mới giật gân làm sao!

- Tớ đang nói với cậu là tớ bối rối, và rằng chuyện này đã từ lâu không hề xảy ra với tớ.

- Cậu biết làm thế nào để gặp lại nàng chưa?

- Tối mai tớ sẽ ăn tối cùng nàng và tớ cảm thấy lo sợ hệt như khi còn niên thiếu.

- Nói nhỏ với cậu nhé, tớ tin là nỗi lo sợ đó sẽ không bao giờ rời khỏi chúng ta đâu. Mười năm sau khi mẹ tớ mất, bố tớ đã gặp một phụ nữ trong siêu thị. Khi đó ông sáu mươi tám tuổi và trước hôm ông hẹn ăn tối lần đầu với bà, tớ đã phải chở ông lên thành phố. Ông nhất định muốn mua một bộ quần áo mới. Trong phòng thử đồ của tiệm may đo, ông nhắc đi nhắc lại cho tớ nghe những điều ông sẽ nói với bà bên bàn ăn và hỏi ý kiến tớ. Thật thống thiết! Về mặt tinh thần, chúng ta luôn lực bất tòng tâm trước một phụ nữ khiến ta bấn loạn, cho dù có ở độ tuổi nào thì cũng thế thôi.

- Cảm ơn cậu, thế là tớ đã an tâm cho buổi hẹn ngày mai rồi.

- Tớ nói với cậu điều đó để cảnh báo cậu trước rằng cậu sẽ nói hết điều hớ hênh này đến điều ngớ ngẩn khác, cậu sẽ có cảm tưởng rằng cuộc trò chuyện với nàng chẳng có chút thú vị nào, khả năng trường hợp này sẽ xảy ra, và khi trở về nhà, cậu cũng sẽ tự nguyền rủa bản thân mình vì đã thảm hại đến vậy trong suốt buổi tối đó.

- Nhất là đừng có dừng lại, Simon, thật tốt khi có những người bạn thực sự.

- Đợi đã, đừng có vội cãi. Tớ chỉ muốn giúp cậu nghĩ đến một điều duy nhất. Tối mai, hãy vận hết khả năng để tận dụng thời khắc mà cậu không ngờ đó. Hãy là chính mình, nếu nàng đã thích cậu thì kiểu gì cũng vẫn thích thôi.

- Nữ giới chi phối chúng ta tới mức độ này sao?

- Cậu chỉ việc nhìn quanh ta mà xem, ngay trong quán bar này thôi. Được rồi, tớ sẽ kể chuyện cô giáo dạy triết của tớ vào một buổi khác. Chúng ta đi ăn trưa thứ Sáu nhé, tớ muốn nghe kể thật chi tiết về cuộc hội ngộ này. Ngẫm kỹ ra có thể cũng không chi tiết bằng mục dành cho người chết của cậu đâu.

Bầu không khí mát mẻ buổi đêm ập xuống cả hai khi họ rời khỏi bar Fedora. Simon nhảy lên một chiếc taxi để mặc Andrew đi bộ về nhà.

Thứ Sáu, Andrew thổ lộ với Simon rằng buổi tối của anh diễn ra đúng như cậu bạn đã dự đoán, có lẽ còn tệ hơn nữa. Anh kết luận rằng có khả năng mình lại phải lòng Valérie Ramsay, chuyện này thật chẳng tiện cho nàng chút nào, vì nàng không hề nấn ná lâu ở chủ đề này và đã nhắc lại với anh rằng mình đang có một người đàn ông song hành trong cuộc đời. Nàng không hề gọi lại cho anh vào ngày hôm sau, rồi cả tuần sau nữa. Và Andrew cảm thấy cơn ủ dột xâm chiếm mình. Anh dành trọn ngày thứ Bảy để làm việc ở tòa soạn rồi Chủ nhật đi gặp Simon tại sân bóng rổ ở góc giao giữa đại lộ 6 và West Houston, nơi họ chuyền bóng cho nhau thay lời nói.

Tối Chủ nhật của anh cũng u buồn hệt như mọi tối Chủ nhật khác. Một bữa đồ Tàu đặt qua điện thoại, một bộ phim phát lại xen kẽ với trận đấu khúc côn cầu và bộ phim không biết thứ bao nhiêu về các nhân viên pháp y làm sáng tỏ những vụ giết người nhớp nhúa. Một tối sầu thảm, cho đến khi, tầm 21 giờ, màn hình điện thoại di động sáng bừng lên. Không phải tin nhắn của Simon, mà là của Valérie, cô muốn gặp anh càng sớm càng tốt, cô cần nói chuyện với anh.

Andrew trả lời ngay tức thì và không chút ý tứ rằng anh rất mừng và hỏi cô khi nào cô muốn gặp.

“Ngay bây giờ”. Và tin nhắn tiếp theo chỉ cho anh địa điểm hẹn gặp, ở góc Phố 9 và Đại lộ A, đối diện quảng trường Tompkins, trong khu East Village.

Andrew liếc mắt nhìn vào gương phòng khách. Phải mất bao lâu thì anh mới lấy lại dáng vẻ con người đây? Quần soóc và áo phông polo cũ anh vẫn chưa thay ra sau trận bóng rổ với Simon không phải là trang phục hay ho gì cho cam và một chầu tắm ra trò dưới vòi hoa sen không phải là thứ xa xỉ lắm. Nhưng anh nhận thấy trong tin nhắn của Valérie điều gì đó cấp thiết khiến anh lo lắng. Anh xỏ vội quần jean, áo sơ mi sạch và vớ chùm chìa khóa trong chiếc cốc nhỏ đặt ở lối vào rồi vội vàng chạy xuống ba tầng gác.

Khu phố vắng tanh vắng ngắt, không một bóng người lẫn bất cứ chiếc taxi nào. Anh bắt đầu chạy về Đại lộ 7, rồi nhận ra có một chiếc đang dừng ở chỗ đèn giao thông tại góc phố Charles và bắt kịp chiếc xe ngay trước khi nó rời đi. Anh hứa sẽ boa hậu hĩnh cho tài xế nếu đưa anh tới điểm đến trong vòng chưa đầy mười phút.

Ngồi rung lắc nơi ghế sau, Andrew thấy hối tiếc về lời vừa hứa, tuy vậy anh cũng đến được đích sớm hơn dự định và anh chàng tài xế nhận được một khoản tương đối.

Valérie đợi anh trước cánh cửa đóng kín của một quán cà phê có tên Pick Me Up, cái tên khiến anh phì cười trong giây lát. Chỉ trong giây lát ngắn ngủi thôi, bởi Valérie mang vẻ mặt rất mệt mỏi.

Anh lại gần, và Valérie cho anh một cái tát ra trò.

- Em bắt anh chạy xuyên thành phố chỉ để tát anh thôi ư? vừa nói anh vừa xoa má. Anh đã làm gì mà được hưởng sự quan tâm đến vậy?

- Cuộc sống của em gần như hoàn hảo trước khi em gặp anh ở lối ra của cái quán bar chết tiệt đó, và giờ em hoàn toàn không biết mình đang ở đâu nữa.

Andrew cảm thấy một luồng hơi ấm xâm chiếm lòng mình, anh tự nhủ rằng mình vừa mới được nhận cái tát tuyệt nhất trần đời.

- Anh sẽ không trả lại em cái tát tương tự, một người đàn ông chân chính không bao giờ làm chuyện đó, nhưng anh có thể nói điều tương tự, anh thì thầm, mắt vẫn không rời cô, anh vừa trải qua hai tuần nói thẳng ra là vô cùng u ám.

- Đã mười lăm ngày nay em không ngừng nghĩ đến anh Andrew Stilman à.

- Khi em bỏ Poughkeepsie mà đi, Valérie Ramsay, anh lúc nào cũng nghĩ đến em, cả ngày lẫn đêm, và cứ như thế suốt ba năm... thực tế là bốn, thậm chí có thể hơn nữa.

- Đó là ngày xưa rồi, em không nói về thời chúng ta còn niên thiếu, mà là thời hiện tại này đây.

- Giờ thì vẫn vậy thôi, Valérie. Không gì thay đổi cả, cả em lẫn tác động của việc gặp lại em cũng không thay đổi gì hết.

- Anh nói vậy, nhưng biết đâu anh chỉ muốn trả thù cho việc em đã bắt anh chịu đựng thì sao.

- Anh không hiểu em lấy đâu ra mấy cái ý nghĩ gàn dở đến thế, hẳn là em không được hạnh phúc cho lắm trong cuộc đời gần như hoàn hảo của em nên mới nghĩ như vậy.

Và trước khi Andrew kịp hiểu chuyện gì đang xảy đến với mình, Valérie đã choàng tay ôm lấy cổ rồi hôn anh. Ban đầu là nụ hôn dè dặt đặt lên đôi môi anh, rồi sau đó Valérie trở nên phiêu lưu hơn. Cô ngừng ôm rồi nhìn anh, mắt ươn ướt.

- Em là đồ hư hỏng, cô nói.

- Valérie, ngay cả khi cực kỳ thiện chí, anh vẫn chẳng hiểu em nói cái gì cả.

Cô lại gần rồi hôn anh mãnh liệt hơn nữa, và lại đẩy anh ra lần nữa.

- Hỏng rồi.

- Khỉ thật, em đừng có mà nói thế nữa!

- Thứ duy nhất còn có thể cứu giúp em là nụ hôn này thật...

- Thật gì? Andrew hỏi, tim đập rộn hệt như mỗi lần anh gặp cô sau buổi học khi xưa.

- Andrew Stilman, em muốn anh kinh khủng.

- Xin lỗi nhé, không phải ngay tối đầu tiên, vấn đề nguyên tắc thôi, vừa đáp anh vừa mỉm cười.

- Valérie đập một phát vào vai anh trong khi Andrew tiếp tục cười khoan khoái, cô nắm chặt tay anh trong tay mình.

- Chúng ta sẽ làm gì đây Ben?

- Một đoạn đường cùng nhau, Valérie, một đoạn đường cùng nhau và còn hơn thế nữa... nếu em không bao giờ gọi anh là Ben nữa.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 4-1-2015 12:05:45 | Chỉ xem của tác giả
4.


Để đi theo còn đường ấy, Valérie giờ chỉ còn phải chia tay bạn trai, hai năm chung sống cùng nhau không thể giải quyết bằng một cuộc nói chuyện trong một tối. Andrew chờ cô đến, biết rất rõ rằng nếu anh nóng vội, cô sẽ không chịu ở lại.

Hai mươi ngày sau, ngay giữa đêm hôm khuya khoắt anh nhận được một tin nhắn gần giống với tin nhắn đã làm đảo lộn cuộc sống của anh vào một Chủ nhật nọ. Khi chiếc taxi chở anh đến trước Pick Me Up, Valérie đã đợi anh ở đó, hai vệt đen ở mỗi bên mặt cùng một chiếc va li nằm dưới chân.

Về đến nhà anh, Andrew đặt va li của cô vào phòng mình rồi để Valérie tự sắp xếp đồ đạc. Khi anh quay trở lại, cô đã chui vào nằm dưới chăn mà không hề bật đèn. Anh lại ngồi gần cô, ôm hôn cô rồi lại trở ra bởi anh đoán rằng cô cần được ở một mình để đưa tang mối quan hệ mà cô vừa cắt đứt. Anh chúc cô ngủ ngon rồi hỏi xem có phải cô vẫn mê món sô cô la nóng không. Valérie gật đầu ra hiệu đồng ý; Andrew rút lui.

Đêm đó, từ tràng kỷ phòng khách nơi anh không tài nào chợp mắt được, anh nghe thấy cô thổn thức khóc mà lòng dấy lên mong muốn cháy bỏng là đến an ủi cô, nhưng rồi anh kìm lại; chữa lành nỗi buồn đau dạng này chỉ phụ thuộc vào mình cô mà thôi.

Sáng ra Valérie thấy trên chiếc bàn thấp trong phòng khách một khay đồ ăn sáng với một bát đựng bột sô cô la kèm lời nhắn ngắn gọn.

“Tối nay anh sẽ đưa em đi ăn.

Đó sẽ là lần đầu tiên của chúng ta.

Anh sẽ để một chùm chìa khóa cho em ở lối vào.

Hôn em, Andrew.”


Valérie bảo với Andrew rằng mình chỉ lưu lại đây trong khi chờ bạn trai cũ thu dọn đồ đạc khỏi căn hộ của mình. Nếu không vì cô bạn Colette hiện lại đang sống ở New Orleans, cô sẽ dọn đến ở nhờ nhà bạn. Mười ngày sau, trước niềm tiếc nuối sâu sắc của Andrew vốn ngày càng thích thú với sự hiện diện của cô, Valérie lại thu dọn va li quay về East Village. Trước vẻ mặt buồn thiu của Andrew, cô nhắc lại với anh rằng chỉ có nhiều nhất là tầm mười lăm khối nhà ngăn cách hai người mà thôi.

Mùa hè đến. Cứ mỗi cuối tuần khi cái nóng New York trở nên không thể chịu đựng nổi, họ lại bắt tàu điện ngầm đến đảo Coney rồi dành hàng giờ liền bên bãi biển.

Đến tháng Chín, Andrew tới Mỹ mười ngày liền mà không cho Valérie biết bất cứ thông tin gì về chuyến đi của mình. Anh viện dẫn bí mật nghề nghiệp và thề rằng cô chẳng có bất cứ lý do gì mà nghi ngờ anh cả. Tháng Mười, khi anh lại đi vắng một lần nữa, và để được tha thứ, anh hứa sẽ đưa cô đi nghỉ ngay khi có thể. Nhưng Valérie không thích cả lô những lời an ủi suông và cô trả lời cứ việc biến luôn đi với kỳ nghỉ của anh. Cuối thu, Andrew được đền bù từ công việc vốn đã tước đoạt của anh quá nhiều. Hàng tuần trời tìm hiểu, hai chuyến đi đến Trung Quốc nhằm thu thập bằng chứng, nhằm đối chiếu nhiều nguồn tin khác nhau để kiểm chứng độ xác thực, đã cho phép anh làm sáng tỏ những chi tiết của vụ buôn bán trẻ em tại tỉnh Hồ Nam và kết thúc một trong những cuộc điều tra chứng thực chuyện mua bán trẻ em là có thật và mức độ khủng khiếp của nó. Bài báo của anh được in trong ấn bản Chủ nhật, được tìm đọc nhiều nhất trong tuần, đã gây tiếng vang lớn.


Sáu mươi lăm nghìn trẻ em Trung Quốc đã được các gia đình người Mỹ nhận làm con nuôi trong vòng mười năm qua. Vụ bê bối này liên quan đến hàng trăm trẻ, chúng không hề bị bỏ rơi trong khi các loại giấy tờ chính thức lại chứng nhận điều đó, thực ra chúng đã bị cưỡng đoạt khỏi tay bố mẹ hợp pháp của mình để đưa vào trại mồ côi và trại này thu mỗi trường hợp nhận con nuôi một khoản bồi thường là năm nghìn đô la. Khoản lợi tài chính này làm giàu cho đám mafia gồm cảnh sát và cán bộ viên chức tha hóa dính líu vào vụ buôn bán nhơ nhớp. Chính quyền Trung Quốc đã nhanh chóng ngăn chặn vụ bê bối nhưng nỗi đau cũng đã in dấu. Bài báo của Andrew khiến nhiều bậc cha mẹ Mỹ đắm chìm trong câu hỏi đạo đức về những hậu quả của tấn thảm kịch đó.

Tên của Andrew được lưu truyền khắp ban biên tập rồi được nhắc đến trên các chương trình truyền hình buổi tối vốn thường xuyên chọn cách phát triển nhiều chủ đề vay mượn từ các mục tin bài trên The New York Times.

Andrew được các bạn đồng nghiệp chúc mừng. Anh còn nhận được mail từ tổng biên tập cùng rất nhiều thư của độc giả sửng sốt trước cuộc điều tra của anh. Nhưng anh cũng nhận được sự ghen tị của một vài bạn đồng nghiệp, và ba lá thư nặc danh đe dọa sẽ giết anh được gửi đến tòa báo, chuyện ấy đôi khi vẫn xảy ra.

Anh trải qua kỳ nghỉ cuối năm trong cô đơn. Valérie đã rời New York để đến New Orleans với Colette.

Ngay ngày hôm sau cô đi, Andrew bị tấn công tại bãi đỗ xe, một vụ tấn công bằng gậy bóng chày hẳn sẽ gây ra thảm kịch nếu không có người thợ máy mà anh hẹn xuất hiện.

Simon đi đón giao thừa với nhóm bạn trượt tuyết ở Beaver Creek trong vùng Colorado.

Andrew không hề quan tâm chút nào đến ngày Giáng sinh cũng như năm mới; anh ghét những buổi tối lễ lạt được lập trình sẵn nơi ta phải vui vẻ bằng bất cứ giá nào. Hai tối đó anh đều đến ngồi ở quầy bar Mary’s Fish, trước một đĩa sò và vài cốc vang trắng suông.

Năm 2012 khởi đầu với nhiều may mắn. Ngoại trừ một vụ tai nạn nhỏ vào những ngày đầu tháng Giêng.  Andrew bị một chiếc xe ô tô lao ra từ trụ sở cảnh sát trên phố Charles đâm phải. Tài xế, một cảnh sát về hưu, vừa thực hiện chuyến thăm viếng nơi làm việc ngày xưa của mình nhân đợt lưu lại New York, vừa ngượng vì đã đâm phải anh vừa thở phào nhẹ nhõm khi thấy anh đứng dậy được mà không bị xây xước gì. Ông ta tha thiết muốn mời anh ăn tối tại quán nào đó tùy anh chọn. Andrew vốn cũng chẳng có việc gì làm tối đó, một đĩa bít tết ngon sẽ tốt hơn cái biên bản bảo hiểm nhiều và một nhà báo không bao giờ từ chối một bữa ăn với một cựu cảnh Sát New York vốn đang muốn nói chuyện. Viên thanh tra đã kể cho anh nghe cuộc đời mình và những trường đoạn đáng nhớ trong sự nghiệp của mình.

Valérie vẫn giữ căn hộ của mình vốn được Andrew gọi là “dù nhảy”, nhưng kể từ tháng Hai, cô ngủ tại nhà anh mỗi tối và họ bắt đầu nghiêm túc nghĩ đến việc tìm một nơi lớn hơn để chuyển đến sống cùng nhau. Chỉ có một trở ngại duy nhất là Andrew không muốn rời West Village, nơi anh từng thề sẽ sống đến hết đời. Trong một khu phố chủ yếu toàn những ngôi nhà nhỏ, một căn ba phòng quả tình rất hiếm. Valérie có bàn bạc mãi cũng vô ích và cô biết rằng mình sẽ không bao giờ buộc được anh rời khỏi những con phố lạ thường mà anh vốn biết từng chuyện. Anh sẵn lòng kể chúng cho cô nghe mỗi khi cả hai cùng dạo bộ, họ vừa đi qua một ngã tư nào đó trên đại lộ Greenwich nơi ngày xưa từng có một nhà hàng gợi cảm hứng cho Hopper vẽ bức tranh nổi tiếng Nighthawks, men theo những khuôn cửa sổ của ngôi nhà mà John Lennon từng sống trước khi chuyển đến Dakota Building. Khu West Village từng là nơi xuất hiện mọi cuộc cách mạng văn hóa, nơi có những quán cà phê, quán rượu và hộp đêm nổi tiếng nhất cả nước và khi Valérie giải thích với anh rằng những nghệ sĩ thời nay phần lớn đều sống ở Williamsburg, Andrew nhìn cô với vẻ vô cùng nghiêm túc rồi thốt lên:

- Dylan, Hendrix, Streisand, Peter, Paul & Mary, Simon & Garfunkel, Joan Baez, tất thảy đều khởi nghiệp từ khu Village này, trong những quán bar tại khu phố của anh, đó không phải là lý do đủ để muốn sống ở đây ư?

Và Valérie vốn chẳng muốn anh phật lòng vì bất cứ thứ gì trên đời liền đáp:

- Dĩ nhiên là có chứ! Khi cô ca ngợi tiện nghi của những tòa tháp được dựng lên chỉ cách đó vài dãy nhà, Andrew vặc lại rằng anh không bao giờ muốn đến sống tại một phòng tít trên cao bằng thép. Anh muốn lắng nghe phố xá, tiếng còi xe, tiếng còi của đám taxi tại ngã tư, tiếng rắc rắc của ván sàn gỗ cũ kỹ, tiếng lạch xạch trong hệ thống ống khi nồi hơi của căn hộ bắt đầu kêu ro ro, tiếng cửa ra vào kẽo kẹt, những âm thanh đó khiến anh nhớ rằng mình đang sống và có đồng loại bao quanh.

Một chiều, anh rời tòa soạn về nhà, lấy hết đồ trong tủ tường ra rồi chuyển phần lớn đồ đạc của mình đến một kho chứa đồ trong khu phố. Mở tủ treo áo ra, anh thông báo với Valérie rằng không cần thiết phải chuyển nhà và từ giờ cô đã có chỗ cần thiết để dọn đến sống thực sự.

Vào tháng Ba, Andrew được tổng biên tập giao cho một vụ điều tra mới cùng dòng với điều tra trước. Một hồ sơ quan trọng mà anh bắt tay vào ngay không chút chần chừ, và vui mừng khi thấy nhiệm vụ này sẽ đưa anh tới Argentina.

Trong những ngày đầu tháng Năm, trở về từ Buenos Aires và biết rằng mình phải trở lại đó ít lâu sau, Andrew không tìm thấy cách nào khác để xin Valérie tha thứ ngoài việc thổ lộ với cô, trong bữa ăn tối, rằng anh muốn cưới cô.

Cô nhìn anh chằm chằm, thận trọng, trước khi phá lên cười. Tiếng cười của Valérie khiến anh xáo động. Andrew nhìn cô, bối rối nhận ra rằng lời cầu hôn mà anh vừa thổ lộ không chút đắn đo khiến chính anh cảm thấy rất hạnh phúc.

- Anh đang không nghiêm túc phải không? Valérie vừa hỏi vừa lau khóe mắt.

- Sao anh lại không nghiêm túc cơ chứ?

- Rốt cuộc Andrew à, chúng ta mới bên nhau vài tháng nay. Đó có thể là quãng thời gian hơi ngắn để ra một quyết định như vậy.

- Chúng ta đã bên nhau từ một năm nay rồi, và chúng ta đã biết nhau từ thuở thiếu thời, em không nghĩ rằng mình đã có đủ thời gian rồi à?

- Với giai đoạn ngắt quãng chừng hai chục năm..

- Với anh, việc chúng ta gặp nhau từ thời niên thiếu, rồi bặt vô âm tín, sau đó lại tình cờ gặp lại nhau trên vỉa hè New York, đó đã là dấu hiệu rồi.

- Anh, một nhà báo vô cùng lý tính và tư duy logic, giờ lại tin vào dấu hiệu cơ à?

- Khi anh đối diện với em, đúng thế đó!

Valérie im lặng nhìn thẳng vào mắt Andrew, rồi cô mỉm cười với anh.

- Anh lặp lại lời cầu hôn đó đi.

Giờ lại đến lượt Andrew quan sát Valérie. Cô không còn là cô gái trẻ nổi loạn mà anh từng quen hai mươi năm trước. Cô nàng Valérie đang ăn tối trước mặt anh đã thay chiếc quần jeans vá chằng vá đụp bằng một chiếc jupe rất hợp, thay đôi giày bát két có phần mũi tô màu sặc sỡ bằng lọ sơn móng bằng đôi giày cao gót sáng bóng, chiếc áo vest bằng vải gai thô thường mặc che kín đường cong cơ thể cô đã nhường chỗ cho chiếc áo pull cổ chữ V bằng cachemire làm nổi bật đôi gò bồng đảo hoàn mỹ. Cặp mắt không còn được trang điểm quá mức mà chỉ phủ một lớp mỏng phấn mắt và chuốt chút mascara. Valérie Ramsay còn xa mới là người phụ nữ đẹp nhất mà anh từng gặp nhưng chưa bao giờ anh cảm thấy gắn bó với một ai đó đến vậy.

Andrew cảm thấy lòng bàn tay mình xâm xấp mồ hôi, điều chưa từng xảy đến với anh bao giờ. Anh đẩy ghế ra rồi đi vòng quanh bàn và quỳ gối xuống đất.

- Valérie Ramsay, anh không mang theo nhẫn để đeo cho em, bởi ý định của anh là bột phát nhưng chân thành, nhưng nếu em muốn làm vợ anh, chúng ta sẽ cùng nhau đi chọn nhẫn vào cuối tuần này, và anh định sẽ làm sao cho xứng là người đàn ông tốt nhất để em sẽ đeo chiếc nhẫn đó suốt cả cuộc đời mình. Hay có thể nói là cả cuộc đời anh, nếu em quyết định tái hôn sau khi anh chết.

- Anh không thể ngăn mình khiến người ta cười chảy cả nước mắt, ngay cả khi anh đang cầu hôn em à!

- Anh đảm bảo với em trong tư thế này, với tất thảy những ai đang nhìn mình, anh không hề tìm cách làm trò hề đâu.

- Andrew, Valérie nghiêng người ghé vào tai anh thì thầm, em muốn nói đồng ý lời cầu hôn của anh, bởi vì em muốn điều đó và cũng để tránh cho anh trở thành kẻ ngốc trước bàn dân thiên hạ, nhưng khi anh ngồi lại vào chỗ của mình, em sẽ nói cho anh đòi hỏi duy nhất mà em đặt ra cho cuộc hôn nhân của chúng ta. Thế nên lời “đồng ý” mà em sẽ nói thật to này vẫn còn ở thức điều kiện trong vài phút tới đây, chúng ta thống nhất chứ?

- Thống nhất, đến lượt mình Andrew cũng thì thầm lại.

Valérie đặt nụ hôn lên môi anh rồi nói đồng ý rất rõ ràng.

Trong nhà hàng, các thực khách đang nín thở chờ đợi liền vội vỗ tay nhiệt liệt. Ông chủ quán ăn bình dân kiểu Ý bỏ luôn quầy tính tiền để chạy lại chúc mừng vị khách quen. Ông ôm Andrew trong vòng tay, siết anh thật chặt rồi thì thầm vào tai anh với âm điệu pha lẫn Ý-New-York câu nói từ bộ phim của Scorsese[1]

[1] Martin Scorsese (sinh năm 1942), là người Mỹ gốc Ý, ông được biết tới nhiều nhất qua vai trò đạo diễn các bộ phim hình sự-tội ác như Taxi driver (1976), Goodfellas (1990) hay Điệp vụ Boston (The Departed, 2006.)

- Ta hy vọng anh biết điều mình sắp làm! Rồi ông nghiêng về phía Valérie và hôn lên tay cô.

- Giờ tôi có thể gọi cô là Bà được rồi! Tôi sẽ cho mang sâm banh tới để ăn mừng sự kiện này, nhà hàng sẽ thết đãi. Đúng vậy, đúng vậy, tôi tha thiết được mời mà!

Rồi Maurizio quay lại sau quầy tính tiền đồng thời ra hiệu cho tay bồi bàn duy nhất thực thi ngay lập tức.

- Anh đang nghe em đây, Andrew thì thào khi nút chai sâm banh bật ra. Người phục vụ rót đầy ly của họ và Maurizio quay trở lại với một chiếc cốc trên tay, rõ ràng là nhất đinh muốn cụng ly với cặp cô dâu chú rể trong tương lai này.

- Cho chúng tôi chỉ một giây thôi Maurizio, Andrew vừa nói vừa giữ tay ông chủ quán.

- Anh muốn em thông báo điều kiện của mình trước mặt ông đây ư? Valérie ngạc nhiên hỏi.

- Đó là một người bạn lâu năm, anh không có gì là bí mật với những người bạn lâu năm của mình, Andrew trả lời với giọng mỉa mai.

- Tốt thôi! Thế thì thế này, thưa ông Stilman, tôi sẽ kết hôn với ông với điều kiện ông phải thề trên danh dự của mình rằng không bao giờ nói dối tôi, lừa dối tôi hay chủ tâm làm tôi đau khổ. Nếu một ngày nào đó ông không yêu tôi nữa, tôi sẽ phải là người đầu tiên biết chuyện đó. Tôi đã có quá đủ những câu chuyện kết thúc trong đêm buồn rồi. Nếu ông hứa với tôi như vậy, thì tôi rất muốn làm vợ ông.

- Anh thề với em, Valérie Ramsay-Stilman.

- Trên mạng sống của anh ư?

- Trên mạng sống của anh!

- Nếu anh phản bội em, em sẽ giết anh!

Maurizio nhìn Andrew rồi làm dấu thánh giá.

- Giờ chúng ta cụng ly được rồi chứ? ông chủ quán lên tiếng hỏi, tôi vẫn còn khách phải phục vụ nữa.

Sau khi tặng cho họ hai phần bánh tiramisu tráng miệng của nhà hàng, Maurizio từ chối đưa họ hóa đơn tính tiền. Andrew và Valérie cùng trở về nhà trên những con phố của West Village.

- Chúng ta thực sự sẽ cưới nhau chứ? vừa nói Valérie vừa siết chặt tay Andrew.

- Đúng vậy, thực sự đó. Và phải thú thật với em, anh chưa từng nghĩ rằng cầu hôn lại khiến anh hạnh phúc đến vậy.

- Em cũng thế, Valérie đáp. Điên thật. Em phải gọi điện cho Colette để thông báo cho cô ấy. Chúng em đã học cùng nhau, cùng sẻ chia đắng cay ngọt bùi, nhất là những đắng cay, cô ấy sẽ là người làm chứng của em trong đám cưới. Thế còn anh, anh sẽ chọn ai?

- Anh nghĩ là Simon.

- Anh không muốn gọi cho anh ấy à?

- Có chứ, ngay ngày mai anh sẽ gọi.

- Tối nay đi, anh gọi điện cho anh ấy tối nay trong khi em gọi cho Colette!

Andrew chẳng hề muốn làm phiền Simon vào cái giờ muộn màng như thế này để thông báo cho bạn anh cái tin mà bạn anh kiểu gì cũng hay biết vào ngày mai, nhưng anh nhận thấy trong mắt Valérie lời thỉnh cầu của con trẻ, và ánh mắt đột nhiên xen lẫn giữa niềm vui và nỗi sợ ấy khiến anh xúc động.

- Mình sẽ gọi lần lượt từng người hay mình sẽ đánh thức cả hai người bạn thân cùng lúc?

- Anh có lý đấy, giờ mình phải bắt đầu quen với việc làm mọi thứ cùng nhau đi, Valérie đáp.

Colette hứa với Valérie sẽ đến thăm cô ở New York càng sớm càng tốt. Cô cũng chúc mừng Andrew và nói với anh rằng anh còn chưa biết hết niềm may mắn mà cuộc đời trao cho anh đâu. Bạn thân của cô là một phụ nữ vô cùng đặc biệt.

Về phần mình, Simon ban đầu còn nghĩ đây là một trò đùa. Anh đòi được nói chuyện với Valérie và Andrew nuốt cơn tức tối trong lòng khi Simon chúc mừng Valérie đầu tiên. Đã thế cậu ta còn mời cả hai đi ăn trưa vào ngày mai mà không thèm hỏi ý kiến anh.

- Đó chính là lý do anh những muốn tự mình thông báo cho cậu ấy hơn, Andrew nói với Valérie để lý giải cho vẻ cáu bẳn của mình.

- Đó chính là điều anh vừa làm đấy thôi.

- Không, cậu ta đâu có tin anh, chính em nói điều đó cho cậu ta cơ mà. Thế mà cậu ta vẫn cứ là bạn thân nhất của anh đấy, mẹ kiếp!

- Nhưng chúng mình vừa thống nhất với nhau rằng em không có liên can gì mà, vừa nói Valérie vừa ghé mặt lại gần Andrew.

- Không, em đâu có liên can gì, và đây này, em đang cắn môi anh đấy.

- Em biết.

Họ làm tình suốt đêm, và giữa hai pha âu yếm nhau, họ bật vô tuyến được đặt trên tủ côm mốt ở đầu giường để xem những bộ phim đen trắng ngày xưa. Vào lúc sáng tinh mơ, họ đi xuyên qua thành phố rồi đến ngồi trên chiếc ghế băng đối diện với East River để ngắm cảnh ngày mới rạng.

- Em đừng bao giờ quên đêm qua nhé, Andrew thì thầm với Valérie.





Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 5-1-2015 21:52:41 | Chỉ xem của tác giả
5.


Mười ngày đầu tháng Sáu, Andrew ở tại Buenos Aires. Trở về sau chuyến công tác thứ hai tới Argentina, anh thấy Valérie rạng rỡ hơn bao giờ hết. Một bữa tối lịch thiệp, gồm cặp đôi sắp cưới cùng nhân chứng riêng của mỗi người, tạo nên một trong những buổi tối dễ chịu nhất mà anh từng biết. Colette thấy anh rất quyến rũ.

Trong khi chờ đợi đám cưới dự kiến vào cuối tháng. Andrew dành trọn thời gian ban ngày cùng nhiều buổi tối để tỉ mỉ chau chuốt bài báo của mình, đôi khi anh mơ mộng mình sẽ đoạt giải Pulitzer.

Chiếc điều hòa trong căn hộ anh đã chết ngóm và cặp đôi chuyển đến căn hộ hai buồng của Valérie tại khu East Village. Anh thường phải ở lại tòa soạn đến tận nửa đêm bởi tiếng gõ bàn phím lạch cạch khiến Valérie không tài nào ngủ nổi khi anh làm việc tại nhà cô.

Bầu không khí trong thành phố nóng không thể chịu nổi, những cơn giông được truyền hình cho là kinh khủng như sắp tận thế giáng xuống Manhattan gần như hằng ngày. Khi nghe thấy từ “tận thế”, Andrew không tài nào hình dung ra được cuộc sống của riêng mình sẽ sớm bị đảo lộn đến mức nào.

Anh đã trang trọng hứa với Valérie: không có chuyện lẩn trốn trong những câu lạc bộ thoát y, không có chuyện tìm vui trong những hộp đêm đầy nhóc lũ con gái cô đơn, chỉ có đơn giản là một buổi tối để bạn bè chém gió với nhau.

Để chia tay đời trai, Simon mời Andrew đến một trong những nhà hàng mở theo mùa vụ mới khai trương. Ở New York, các nhà hàng theo mùa vụ được mở và đóng cửa cùng dịp với các mùa trong năm.

- Cậu tin chắc về điều mình làm chứ, Simon vừa đọc thực đơn vừa hỏi.

- Tớ chỉ còn do dự giữa món bít tết dày với diềm thăn thái mỏng nữa thôi, Andrew trả lời bằng giọng tỉnh bơ.

- Tớ nói về đời cậu ấy.

- Tớ quá hiểu mà.

- Thế thì sao?

- Thế cậu muốn tớ nói gì với cậu đây, Simon?

- Mỗi lần tớ đề cập đến chuyện đám cưới của cậu là y như rằng cậu lảng tránh ngay. Dù sao tớ cũng là bạn thân của cậu cơ mà! Tớ chỉ muốn cùng chia sẻ những gì cậu gặp phải mà thôi.

- Nói dối, cậu quan sát tớ như thể tớ là chuột thí nghiệm ấy. Cậu muốn biết điều tớ giấu kỹ trong lòng phòng loại trường hợp này xảy đến với cậu một ngày nào đó.

- Không hề có cơ may đó đâu!

- Tớ có thể nói như cậu cách đây vài tháng.

- Vậy thì điều gì thực sự đã xảy ra khiến cậu dấn bước vậy? Simon nghiêng người về phía Andrew hỏi. Đồng ý rằng cậu là con chuột thí nghiệm của tớ, nhưng giờ thì hãy nói cho tớ biết cậu cảm thấy mình có thay đổi gì không từ khi quyết định như vậy.

- Tớ đã ba mươi tám rồi, cả cậu cũng vậy, và tớ chỉ thấy có hai con đường mở ra trước mắt chúng ta: tiếp tục đùa nghịch với những tạo tác rõ ràng đẹp như mơ ngày một xuất hiện nhiều tại những nơi thời thượng…

- Cái đó để vui thú là chính! Simon thốt lên.

- Hay trở thành một trong những lão già lụ khụ bảnh bao độc thân chuyên tán tỉnh mấy em gái kém những ba chục tuổi mà vẫn nghĩ rằng mình bắt kịp tuổi thanh xuân vốn chạy nhanh hơn bản thân họ.

- Tớ không đòi cậu dạy khôn về cuộc sống mà là nói với tớ liệu cậu có yêu Valérie đến mức muốn dành cả cuộc đời bên cô ấy không.

- Còn tớ, nếu không nhờ cậu làm người làm chứng thì tớ có thể đáp rằng chuyện đó chẳng hề liên quan đến cậu.

- Nhưng tớ là người làm chứng của cậu!

- Cả đời mình, tớ chẳng biết gì về chuyện đó, vả lại điều này chẳng phụ thuộc riêng mình tớ. Dù sao nữa tớ cũng không thể tưởng tưởng nổi cuộc sống nếu vắng cô ấy. Tớ ngập tràn hạnh phúc, Valérie khiến tớ nhớ da diết khi cô ấy không ở đó, tớ chẳng bao giờ muộn phiền khi ở bên cô ấy, tớ yêu nụ cười của cô ấy mà cô ấy thì rất hay cười. Tớ tin rằng đó là điều tớ thấy quyến rũ nhất ở người phụ nữ. Còn về cuộc sống tình dục của chúng tớ…

- Thôi được rồi, Simon ngắt lời, cậu đã thuyết phục được tớ, phần còn lại hoàn toàn chẳng hề liên quan gì đến tớ.

- Cậu là nhân chứng, đúng hay không nào?

- Tớ chẳng cần làm chứng những cái chuyện xảy ra trong bóng tối đâu.

- Ra thế, nhưng chúng tớ chẳng hề tắt đèn mà…

- Đủ rồi đó, Andrew, ngừng đi! Chúng ta chuyển chủ đề khác được không?

- Tớ sẽ chọn món diềm thăn…, Andrew nói. Cậu có biết điều gì sẽ khiến tớ thật sự hài lòng không?

- Rằng tớ sẽ viết cho cậu một bài diễn văn hay ho tại lễ cưới.

- Không, tớ không thể yêu cầu cậu điều bất khả, nhưng tớ rất thích chúng ta kết thúc buổi tối nay tại quán bar mới yêu thích của tớ.

- Quán bar kiểu Cuba ở Tribeca á!

- Argentina chứ.

- Tớ thì dự kiến điều gì đó khác cơ, nhưng đây là buổi tối của cậu, cậu ra lệnh còn tớ thì thực thi.

*


Quán bar Novecento chật như nêm. Simon và Andrew mãi mới mở được lối dẫn đến quầy bar.

Andrew gọi một ly Fernet pha với Coca. Anh cho Simon nếm thử nhưng anh bạn nhăn mặt rồi gọi một ly vang đỏ.

- Làm sao cậu uống được cái thể loại này nhỉ? Sao nó đắng thế!

- Tớ đã hóng hớt ở một số quán bar tại Buenos Aires thời gian qua. Tin tớ đi, cứ làm quen rồi ta thậm chí còn bén mùi nữa cơ.

- Tớ chẳng thấy mùi mẽ gì sất. Simon đã phát hiện ra một cô nàng có cặp chân dài miên man ở trong phòng, anh bạn bỏ Andrew lại ngay tắp lự mà chẳng hề cáo lỗi nửa lời. Một mình ngồi ở quầy bar, Andrew mỉm cười nhìn anh bạn đang đi xa dần. Trong hai đường đời nhắc tới ban nãy, không còn nghi ngờ gì về con đường mà Simon đã chọn.

Một phụ nữ ngồi xuống chiếc ghế mà Simon vừa bỏ trống rồi mỉm cười với anh trong lúc anh gọi ly Fernet-Coca thứ hai.

Họ trao đổi vài câu xã giao. Người phụ nữ thú nhận với anh rằng cô rất ngạc nhiên khi thấy một anh chàng người Mỹ đánh giá cao món đồ uống này, chuyện khá là hiếm. Andrew đáp lại rằng mình là một gã khá là hiếm trong nhân loại. Cô nàng mỉm cười thêm chút nữa rồi hỏi anh điều gì có thể phân biệt rõ anh với những người đàn ông khác. Andrew bối rối trước câu hỏi, và còn càng bối rối hơn nữa khi nhìn thấy ánh mắt sâu thẳm của người đối thoại với mình.

- Anh làm nghề gì?

- Nhà báo, Andrew ấp úng.

- Đó là một nghề thú vị.

- Nó còn phụ thuộc vào các ngày khác nhau, Andrew đáp.

- Mảng tài chính à?

- Ồ không, điều gì khiến cô nghĩ vậy?

- Chúng ta đang ở không xa phố Wall lắm.

- Thế nếu tôi đi uống một ly ở Meatpaccking District thì cô sẽ nghĩ tôi là hàng thịt chắc?

Người phụ nữ phá lên cười sảng khoái và Andrew thấy thích tiếng cười đó.

- Mảng chính trị ư? Cô tiếp tục.

- Cũng không phải.

- Được rồi, tôi rất thích chơi trò đoán biết, cô nói. Anh có làn da rám nắng, tôi suy ra rằng anh vừa đi du lịch về.

- Giờ đang là giữa hè mà, cô cũng thế, cô cũng có nước da rám nắng... nhưng, thực ra là công việc buộc tôi phải đi.

- Tôi có làn da bánh mật, đó là vấn đề nguồn gốc thôi. Anh là phóng viên nổi tiếng chứ!

- Đúng thế, có thể nói như vậy.

- Thế vào lúc này anh đang điều tra về cái gì?

- Toàn những vụ mà tôi không thể nói với cô trong một quán bar.

- Thế ở nơi khác quán bar thì sao? cô thì thầm.

- Chỉ duy nhất tại phòng biên tập thôi, Andrew vừa đáp vừa đột nhiên nhận thấy một luồng hơi nóng xâm chiếm cơ thể. Anh vội lấy khăn giấy ở quầy lau gáy.

Anh rất nóng lòng muốn đến lượt mình đặt câu hỏi cho cô, nhưng chỉ duy nhất việc thuận theo cuộc trò chuyện của cô đã khởi đầu một trò chơi không hề vô hại như trò giải đố.

- Thế còn cô? anh vừa ấp úng vừa tuyệt vọng đưa mắt tìm kiếm Simon.

Cô gái trẻ xem đồng hồ rồi đứng dậy.

- Tôi rất lấy làm tiếc, cô nói, tôi quên mất không xem giờ, tôi phải đi đây. Tôi rất hân hạnh được quen anh, anh tên là gì nhỉ?

- Andrew Stilman, anh trả lời rồi cũng đứng dậy.

- Hẹn gặp vào một dịp khác nếu có thể...

Cô cáo từ anh. Anh không rời mắt khỏi cô. Thậm chí anh còn hy vọng cô sẽ ngoảnh lại khi bước qua ngưỡng cửa quán bar, nhưng anh đã không bao giờ biết được có chuyện đó hay không. Bàn tay Simon đặt lên vai khiến anh giật bắn mình.

- Cậu nhìn cái quái gì mà đắm đuối thế?

- Chúng mình về đi, cậu đồng ý chứ? Andrew thẽ thọt hỏi.

- Đã về rồi ư?

- Tớ cần hít thở không khí bên ngoài.

- Cậu bị sao thế, cậu tái mét rồi kìa, có phải do cái thứ cậu đã uống không hợp không?

Simon lo lắng trong lúc rời khỏi quán bar.

- Tớ chỉ muốn về nhà thôi.

- Trước tiên hãy nói cho tớ chuyện gì xảy đến với cậu đi. Cậu đang giận dỗi à? Tớ rất muốn chúng ta tôn trọng bí mật nghề nghiệp của cậu, nhưng nhìn xem, cậu đang làm việc quá sức tưởng tượng của tớ đó !

- Cậu sẽ không hiểu đâu.

- Có cái gì mà tớ không hiểu về cậu trong mười năm qua cơ chứ?

Andrew không đáp lại và bắt đầu đi ngược lên phố West Broadway. Simon theo sau bén gót.

- Tớ nghĩ là mình vừa trúng tiếng sét ái tình, Andrew thì thầm.

Simon phá lên cười, Andrew rảo bước nhanh hơn.

- Cậu nghiêm túc đấy chứ? Simon hỏi trong lúc cố bắt kịp bạn.

- Cực kỳ nghiêm túc đấy.

- Cậu trúng tiếng sét ái tình một nàng xa lạ trong khi tớ đi vệ sinh ư?

- Cậu không hề đi vệ sinh nhé.

- Vậy cậu chết đứ đừ một em chỉ trong có năm phút thôi hả?

- Cậu để tớ bơ vơ một mình ở quầy bar hơn mười lăm phút đó chứ?

- Rõ ràng là cậu đâu có bơ vơ. Cậu có thể giải thích cho tớ được không?

- Chẳng có gì phải giải thích cả, tớ thậm chí còn không hề biết tên cô ấy…

- Thế rồi sao?

- Tớ nghĩ mình vừa gặp người phụ nữ của đời mình. Tớ chưa từng có cảm giác như vậy bao giờ, Simon à.

Simon tóm lấy tay áo Andrew rồi buộc anh dừng lại.

- Cậu chẳng gặp chuyện gì sất. Cậu uống hơi quá rồi đó, ngày cưới của cậu đang cận kề, và toàn bộ chuyện này tạo thành một mớ hổ lốn khá đáng ngờ.

- Tớ rất chân thành đó Simon, tớ thật sự không muốn đùa cợt đâu.

- Tớ lại càng không nhé! Đó là nỗi sợ hãi lên tiếng đấy, cậu có thể bịa ra bất cứ lí do nào để lùi bước.

- Tớ không hề sợ gì cả, Simon. Rốt cuộc tớ không hề sợ cho đến khi bước chân vào quán bar đó.

- Cậu đã làm gì khi cô nàng đó nói chuyện với cậu?

- Tớ duy trì một cuộc nói chuyện chẳng mấy thú vị với cô ấy và rồi tớ cảm thấy nhớ quay quắt khi cô ấy đi khỏi.

- Con chuột thí nghiệm của tớ đang khám phá những hiệu ứng phụ của thứ thuốc nước có tên là hôn nhân, điều này khá là kì quặc khi ta biết rằng liều thuốc này vẫn còn chưa được tiêm vào nó…

- Cậu toàn nói linh tinh!

- Sáng mai, cậu thậm chí sẽ chẳng còn nhớ khuôn mặt của người phụ nữ đó. Và điều chúng ta sẽ làm chính là quên buổi tối hôm nay tại Novecento đi và mọi chuyện sẽ lại đâu vào đó thôi.

- Tớ cũng chỉ muốn mọi thứ đơn giản như vậy thôi.

- Cậu muốn chúng ta quay lại đây vào tối mai không? Với chút may mắn, biết đâu cô nàng không quen biết của cậu sẽ ở đó, và khi gặp lại nàng, cậu sẽ kiểm chứng được trực cảm của mình có đúng với thực tế hay không.

- Tớ không thể làm thế với Valérie. Tớ sẽ làm đám cưới trong mười lăm ngày nữa thôi!

Ngay cả khi thi thoảng anh tỏ thái độ hơi tự do quá trớn mà ta dễ lầm tưởng là kiêu ngạo, Andrew vẫn là một người đàn ông trung thực có thể tin tưởng được. Anh đã uống quá nhiều rượu nên khó mà suy nghĩ cho thấu đáo được, Simon có thể đã đúng, chỉ là do nỗi sợ khiến anh đi trật hướng. Valérie là một phụ nữ tuyệt vời, một cơ hội không dám mong mà cuộc sống ban cho anh, cô bạn thân Colette của Valérie chẳng đã không ngừng nhắc đi nhắc lại với anh điều đó sao.

Anh bắt Simon thề sẽ không bao giờ tiết lộ chuyện vừa xảy ra với bất cứ ai và cảm ơn cậu bạn đã phân tích phải trái giúp anh.

Cả hai cùng lên một chiếc taxi, Simon để Andrew xuống West Village rồi hứa với anh trưa mai sẽ gọi điện để cập nhật tin tức.

*


Sáng hôm sau thức dậy, Andrew cảm thấy điều ngược lại với những gì Simon từng dự đoán. Các đường nét của cô gái xa lạ trong quán bar Novecento hiện lên rõ mồn một trong tâm trí anh, tất thảy kể cả mùi hương nước hoa của cô. Ngay khi nhắm mắt lại, anh lại nhìn thấy bàn tay thon dài đùa nghịch với ly rượu vang, anh nhớ âm sắc giọng nói cô, ánh mắt cô, và trong khi chuẩn bị pha cà phê, anh cảm thấy trống rỗng, hay đúng hơn là trống vắng, và việc cần kíp tối quan trọng là tìm ra người có thể lấp đầy chỗ trống đó.

Tiếng chuông điện thoại vang lên, Valérie đưa anh trở lại với thực tại khiến tim anh quặn thắt. Cô hỏi anh liệu buổi tối của anh có đúng với những gì anh trông đợi hay không. Anh kể rằng đã đi ăn tối cùng Simon tại một nhà hàng rất tuyệt rồi đi uống một ly tại một quán bar ở TriBeCa. Chẳng có gì bất thường cả. Trong lúc gác máy, Andrew cảm thấy tội lỗi vì lần đầu tiên nói dối người phụ nữ mà anh chuẩn bị cưới làm vợ.

Thực ra anh cũng đã nói dối đôi chút khi từ Buenos Aires về, anh từng thề với Valérie rằng mình đã đi chỉnh sửa lại bộ lễ phục mà anh sẽ mặc trong đám cưới. Và như để xóa đi tội nói dối, anh ngay tức khắc gọi cho người thợ may rồi đặt hẹn gặp ông ta vào giờ ăn trưa.

Và đây có thể là lý do của điều không may này. Tất thảy mọi thứ đều có một ý nghĩa nào đó trong cuộc sống, ở đây nó có nghĩa nhắc anh nhớ đến việc phải viền chiếc quần âu trong bộ lễ phục của chú rể và thu ngắn ống tay áo vest. Toàn bộ câu chuyện đã xảy ra với anh chỉ là để tránh cho anh nỗi thất vọng đáng tiếc khi trình diện trước mặt người vợ tương lai của mình trong bộ quần áo mà người ta những tưởng anh mượn của anh trai.

- Mi thậm chí còn không có anh trai nữa kia, đồ ngốc, Andrew lẩm nhẩm nói với chính mình, và trong thể loại xuẩn ngốc này, rất khó có thể tìm thấy kẻ tệ hơn mi.

Vào buổi trưa, anh rời tòa báo. Trong lúc người thợ may vạch viên phấn trắng đánh dấu phần sửa chữa cần thiết ở cuối ống tay áo vest, nhúm phần lưng áo, cam đoan rằng phải sửa lại chỗ này chỗ kia nếu như anh muốn trông ra dáng, phàn nàn biết bao nhiêu lần về việc khách hàng của mình thực sự toàn đợi nước đến chân mới nhảy, Andrew cảm thấy khó chịu vô cùng. Buổi thử đồ kết thúc, anh cởi bộ quần áo ra, đưa cho người thợ may rồi vội vã mặc lại quần áo. Tất thảy sẽ sẵn sàng đâu vào đấy cho ngày thứ Sáu tuần tới, Andrew chỉ việc ghé qua lấy đồ vào cuối buổi sáng hôm đó.

Khi bật điện thoại lên, anh thấy rất nhiều tin nhắn của Valérie. Cô đang rất lo lắng, họ hẹn nhau ăn trưa ở phía bên kia phố 42 và cô đợi anh cả tiếng đồng hồ rồi.

Andrew gọi lại để xin lỗi cô, anh viện dẫn lý do có một cuộc họp đột xuất trong phòng hội thảo: nếu cô thư ký của anh khẳng định rằng anh đã ra ngoài, đó chỉ là vì trong tòa báo này, chẳng ai thèm để ý quan tâm đến người khác. Lời nói dối thứ hai trong ngày.

Buổi tối, Andrew đến nhà Valérie với một bó hoa trên tay. Kể từ khi anh ngỏ lời cầu hôn cô, anh thường xuyên gửi điện hoa cho cô, bó hoa hồng có màu tím, loài hoa yêu thích nhất của cô. Anh thấy căn hộ trống trơn và một lời nhắn viết vội để trên chiếc bàn thấp trong phòng khách.

“Em phải đi ngay vì có một ca cấp cứu khẩn cấp. Em sẽ về muộn. Anh đừng đợi nhé. Yêu anh.”

Anh xuống ăn tối ở Mary’s Fish. Trong suốt bữa ăn, anh không ngừng nhìn đồng hồ đeo tay và thậm chí còn đòi thanh toán trước khi kết thúc món chính, vừa rời khỏi quán, anh vội nhảy lên taxi.

Trở lại TriBeCa, anh sải bước trên vỉa hè phía trước quán bar Novecento, nóng lòng muốn vào đây uống một ly. Tay gác cổng, có nhiệm vụ đảm bảo an ninh cho quan bar, rút ra một điếu thuốc lá rồi hỏi Andrew có bật lửa không. Andrew đã ngừng hút thuốc từ lâu lắc lâu lơ rồi cơ.

- Anh muốn vào không? Tối nay yên tĩnh lắm.

Andrew coi lời mời này là dấu hiệu thứ hai.

Người đẹp không quen đêm hôm trước không còn ngồi ở quầy bar nữa. Andrew đưa mắt nhìn khắp phòng, tay gác cổng kia rõ ràng đã không nói dối, và anh chỉ cần liếc nhanh khắp lượt là có thể nhận thấy cô không trở lại. Cảm thấy thật lố bịch, anh uống cạn ly Fernet-Coca rồi yêu cầu tay phục vụ tính tiền.

- Tối nay chỉ một ly thôi sao? Gã kia hỏi.

- Anh nhớ tôi à?

- Vâng, tôi đã thấy anh ở đây rồi, rốt cuộc tôi cho rằng dù sao chăng nữa chơi cạn năm ly Fernet-Coca vào tối qua thì hẳn không thể quên được.

Andrew do dự giây lát trước khi yêu cầu tay phục vụ cho anh thêm một ly nữa và trong khi tay này đang rót rượu, anh đặt ra cho hắn một câu hỏi có phần lạ lùng đối với một người đàn ông chuẩn bị lấy vợ tới nơi.

- Người phụ nữ ngồi cạnh tôi hôm qua, anh vẫn còn nhớ cô ấy chứ, cô ấy có thường xuyên đến đây không?

Tay phục vụ làm vẻ mặt suy nghĩ lung lắm.

- Phụ nữ xinh đẹp thì tôi thấy trong bar này nhiều cả đống. Không, tôi không để ý lắm, quan trọng lắm à?

- Vâng, à rốt cuộc thì không, Andrew đáp. Giờ tôi phải về rồi, nói cho tôi biết tôi phải trả anh bao nhiêu.

Tay phục vụ quay lại để gõ hóa đơn trên máy tính tiền.

- Nếu tình cờ, Andrew vừa nói vừa để ba tờ bạc hai mươi đô la lên mặt quầy, cô ấy có quay trở lại đây và hỏi anh về người đàn ông từng uống Fernet-Coca, thì đây là danh thiếp của tôi, xin hãy đưa cho cô ấy giúp tôi.

- Anh là phóng viên của The New York Times à?

- Đó là điều ghi trên tấm danh thiếp này…

- Nếu một ngày nào đó anh muốn làm một bài ngắn về quầy bar của chúng tôi, xin cứ tự nhiên nhé.

- Tôi sẽ không quên cân nhắc chuyện đó đâu, Andrew nói, và cả anh nữa, cũng đừng quên nhé. Tay phục vụ vừa nháy mắt vừa cất tấm danh thiếp vào ngăn kéo két.

Trong lúc rời Novecento, Andrew kiểm tra xem giờ là mấy giờ, nếu ca cấp cứu của Valérie xong muộn, anh có thể về trước cô, nếu trong trường hợp ngược lại, anh sẽ bảo là đã làm việc ở tòa báo đến khuya. Anh giờ đã nói dối như cuội rồi.

*


Kể từ tối hôm đó, Andrew không còn biết thanh thản là gì nữa. Ngày lại ngày, anh cảm thấy sự bình tĩnh đã rời bỏ mình. Anh thậm chí còn cãi nhau kịch liệt với một đồng nghiệp vì bắt quả tang tay này đã nhúng mũi vào công việc của anh. Freddy Olson là một tay chuyên thóc mách, hắn ta ghen tị với anh, một tay rất nhiễu nhương, nhưng Andrew vốn không có thói quen nổi khùng như vậy. Theo lời anh cáo lỗi, hai tuần cuối tháng Sáu nhiều sự kiện trọng đại quá. Anh phải kết thúc bài báo đã cho anh hai dịp đến Argentina và bài báo này, anh hy vọng cũng sẽ thành công vang dội như đề tài liên quan đến Trung Quốc. Hạn nộp bài mà anh từng đăng ký trước đây là thứ Hai tuần trước, nhưng Olivia Stern là một tổng biên tập cẩn thận tỉ mẩn, nhất là khi đây là cuộc điều tra sẽ chiếm trọn một trang trong ấn bản ra ngày thứ Ba. Cô muốn dành cả ngày thứ Bảy để đọc lại và thảo ra loạt đề xuất mà cô sẽ gửi qua thư điện tử cho tác giả vào tối cùng ngày. Thật kỳ cục khi đúng vào ngày thứ Bảy ấy Andrew sẽ phải tuyên thệ trước Chúa, và kỳ cục hơn nữa là vào ngày Chủ nhật anh phải xin lỗi Valérie vì đã hoãn chuyến du lịch trăng mật vì cái công việc chết tiệt này và do cái hồ sơ mà bà sếp ưu ái quan tâm đến vậy.

Nhưng chẳng gì trong tất thảy những thứ đó xóa đi được hình ảnh người phụ nữ xa lạ tại quầy bar Novecento trong tâm trí Andrew. Mong muốn gặp lại người phụ nữ đó trở thành nỗi ám ảnh mà anh không tài nào hiểu được nguồn cơn.

Ngày thứ Sáu, khi đến lấy bộ lễ phục, Andrew cảm thấy tuyệt vọng hơn bao giờ hết. Ông lão thợ may nghe anh thở dài khi anh ngắm nhìn mình từ đầu đến chân trong gương.

- Có chỗ nào cắt may không khéo khiến anh phật ý à? ông lão hỏi với giọng hối lỗi.

- Không, ông Zanelli, tác phẩm của ông rất hoàn hảo.

Ông thợ may quan sát Andrew rồi dựng vai phải của áo vest lên.

- Nhưng có điều gì đó khiến anh lo lắng phải không? ông vừa tiếp lời vừa kẹp ghim vào phần cuối ống tay áo.

- Chuyện còn phức tạp hơn thế nữa cơ.

- Nhất định là anh có một cánh tay dài hơn cánh tay kia, những lần thử trước tôi đã không nhận ra. Cho tôi vài phút, tôi sẽ sửa ngay tức thì.

- Ông không phải mất công thế đâu, đây là loại trang phục mà ta chỉ mặc một lần duy nhất trong đời thôi mà, đúng không?

- Tôi chúc anh như vậy, nhưng đây cũng là loại ảnh mà ta có thể xem đi xem lại cả đời, và khi đám con cháu của anh nói rằng áo vét của anh không vừa như in, tôi không muốn anh kể với chúng rằng anh đã gặp phải một tay thợ may tồi. Thế nên hãy để tôi làm việc của mình nào.

- Chỉ là vì tôi có một bài báo rất quan trọng cần kết thúc vào tối nay, ông Zanelli à.

- Vâng, còn tôi cũng có một bộ lễ phục rất quan trọng cần hoàn thiện trong vòng mười lăm phút nữa. Anh đang nói về mọi thứ dường như rất phức tạp à?

- Đúng vậy, Andrew thở dài.

- Là loại chuyện gì, nếu như không quá tò mò?

- Tôi nghĩ là ông cũng phải giữ bí mật nghề nghiệp đúng không, ông Zanelli?

- Nếu anh cố không phát âm sai tên tôi, tôi sẽ giữ mồm giữ miệng, tôi là Zanetti, chứ không phải là Zanelli! Nào, cởi áo vest ra cho tôi rồi ngồi xuống ghế kia đi, tôi sẽ làm việc trong khi chúng ta nói chuyện.

Và trong khi ông Zanetti chỉnh sửa ống tay áo cho Andrew, anh kể cho ông nghe làm thế nào, vào một năm trước đây khi vừa rời khỏi quán bar, anh đã nối lại với tình yêu thời niên thiếu của mình và làm thế nào, trong một quán bar khác, ngay trước đám cưới của mình, anh đã gặp một phụ nữ luôn ám ảnh anh kể từ khi ánh mắt họ giao nhau.

- Có lẽ anh phải nhịn đến các hộp đêm một thời gian, việc đó sẽ giúp anh đơn giản hóa cuộc sống. Tôi phải thừa nhận với anh rằng chuyện này chẳng hề bình thường chút nào, ông thợ may chêm vào trong lúc đi tìm một cuộn chỉ trong ngăn kéo tủ.

- Thế mà Simon, bạn thân nhất của tôi, lại nói ngược lại.

- Anh bạn Simon của anh có quan niệm về cuộc sống thật lạ lùng. Liệu tôi có thể đặt một câu hỏi cho anh không?

- Mọi câu hỏi mà ông muốn nếu nó có thể giúp tôi thấy sáng tỏ hơn.

- Nếu được làm lại, anh Stilman, nếu anh có thể chọn giữa việc không gặp lại người phụ nữ mà anh sắp lấy làm vợ hoặc là không gặp người phụ nữ khiến anh luôn day dứt kia, anh thích chọn gì hơn?

- Một bên là nửa kia của đời tôi, bên kia là... tôi thậm chí còn chưa biết tên của cô ấy nữa.

- Thế nên anh sẽ thấy chuyện chẳng có gì là phức tạp hết.

- Nhìn từ góc độ này...

- Dựa vào cách biệt tuổi tác giữa chúng ta, tôi xin mạo muội nói với anh như thể một người cha, anh Stilman à, và khi nói điều này, tôi phải thú nhận với anh rằng tôi không hề có con cái, vì vậy tôi có rất ít kinh nghiệm trong chuyện này...

- Dù sao chăng nữa ông cứ nói đi.

- Vì anh đã yêu cầu tôi nói nhé! Cuộc sống không hề giống như một trong những thứ máy móc hiện đại mà ta chỉ cần nhấn nút là có thể phát lại bài hát đã lựa chọn sẵn. Không hề có chuyện có thể quay ngược trở lại và một số hành động của chúng ta sẽ gây ra những hệ quả không thể sửa chữa nổi. Như kiểu say đắm một bóng hồng xa lạ, dù có quyến rũ đến đâu chăng nữa, ngay trước đám cưới của chính mình. Nếu anh vẫn nhất quyết cứng đầu không chịu nghe, tôi sợ rằng thật sự anh sẽ sớm phải lấy làm tiếc, đấy là còn chưa kể đến nỗi đau mà anh sẽ gây ra cho những người sống quanh anh. Anh sẽ nói với tôi rằng ta không thể bảo trái tim phải làm cái này hay cái khác, nhưng anh cũng có đầu óc chứ, vậy hãy sử dụng nó đi. Có một phụ nữ khiến anh xao động cũng chẳng có gì là đáng chê trách, với điều kiện là mọi chuyện không đi xa hơn một cơn xao động đơn thuần.

- Ông chưa bao giờ có cảm giác đã gặp tri kỷ à, ông Zanetti?

- Tri kỷ ư, một ý thật hay ho! Lúc trạc tuổi đôi mươi, tôi những tưởng đã gặp nàng mỗi tối thứ Bảy khi đi khiêu vũ. Hồi trẻ tôi khiêu vũ rất giỏi và là một tay Đông Gioăng thực sự. Tôi thường tự hỏi làm sao ta có thể tin chắc rằng mình đã gặp được tri kỷ thậm chí trước khi ta cùng nhau xây dựng được một điều gì đó.

- Ông đã từng kết hôn, đúng không ông Zanetti?

- Chuyện này xảy đến với tôi cả thảy bốn lần, qua đó có thể khẳng định với anh rằng tôi biết mình đang nói gì!

Lúc từ biệt anh, ông Zanetti khẳng định với Andrew rằng hai ống tay áo giờ đã dài đúng chuẩn, không gì có thể làm phương hại đến niềm hạnh phúc đang đợi anh nữa. Andrew Stilman rời nhà may với lòng quyết tâm ngày mai sẽ ngẩng cao đầu mặc bộ lễ phục chú rể.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 5-1-2015 22:09:10 | Chỉ xem của tác giả
6.


Mẹ Valérie tiến lại gần Andrew ngay trước khi hôn lễ cử hành, và bà phủi phủi vai áo của anh đầy chân tình, rồi thì thầm vào tai anh:

- Ben thân mến! Con là bằng chứng sống cho việc nếu bền gan kiên trì, cuối cùng rồi người ta cũng đi đến đích. Ta vẫn còn nhớ khi con mới mười sáu và khi đó con đang tán tỉnh con gái ta... ta không hề cho con một phần nghìn cơ may thành công. Thế nhưng giờ đây, chúng ta lại đang ở trong nhà thờ cùng nhau!

Andrew hiểu rõ hơn tại sao người vợ tương lai của mình lại tha thiết muốn rời khỏi ngôi nhà của cha mẹ ngay khi có cơ hội đầu tiên đến vậy.

Valérie đẹp hơn bao giờ hết. Cô mặc một chiếc váy trắng kín đáo và sang trọng. Tóc cô buộc túm lại dưới chiếc mũ trắng nhỏ gợi nhớ đến mái tóc của những chiêu đãi viên hãng hàng không Pan Am thời trước, dù rằng họ mặc đồng phục xanh lơ. Bố cô đưa cô đến tận bàn thờ nơi Andrew đang đứng đợi. Cô mỉm cười với anh bằng tất cả tình yêu của mình.

Linh mục đã có một bài thuyết giáo hoàn hảo và Andrew thấy vô cùng xúc động.

Họ trao lời nguyện ước cùng nhẫn cưới và hôn nhau thắm thiết rồi rời đi trong tràng vỗ tay nồng nhiệt của bố mẹ cô dâu, của Colette, Simon, và Andrew không thể ngăn mình vừa ngước mắt lên trời cao vừa tưởng tượng bố mẹ mình cũng đang dõi theo mình.

Đám rước nhỏ đi dọc lối đi công viên bao quanh nhà thờ St Luke in the Fields. Đám hồng leo oằn xuống vì quá nhiều hoa còn mấy bồn tuy líp thì rực rỡ sắc màu, ngày mới thật tuyệt vời, Valérie rạng rỡ còn Andrew hạnh phúc.

Hạnh phúc cho đến khi tới phố Hudson, anh nhận thấy gương mặt một phụ nữ qua khuôn cửa kính của một chiếc xe hai cầu màu đen đang dừng tại đèn đỏ. Một phụ nữ mà anh không hề cảm thấy hàm ơn khi gặp lại lần nữa đã đảm nhận vai trò nhân chứng trong đám cưới của anh, người phụ nữ anh đã trao đổi vài câu vô thưởng vô phạt tại quán bar ở TriBeCa.

Họng anh thắt lại và đột nhiên Andrew thèm một ly Fernet-Coca trong khi giờ mới đang là giữa trưa.

- Mọi chuyện ổn chứ anh? Valérie lo lắng. Đột nhiên anh nhợt nhạt quá.

- Do xúc động thôi, Andrew đáp lại.

Không thể rời mắt khỏi ngã tư đường, anh dõi theo chiếc xe hai cầu biến mất trong dòng xe cộ. Andrew thấy tim mình thắt lại, anh gần như chắc chắn rằng người phụ nữ xa lạ gặp ở bar Novecento vừa mới mỉm cười với anh.

- Anh làm em đau đấy, Valérie rên lên. Anh siết tay em mạnh quá.

- Thứ lỗi cho anh, vừa nói anh vừa nới lỏng tay ra.

- Em rất muốn mấy thứ hội hè này nhanh kết thúc để có thể một mình với anh ở nhà, cô thở đài.

- Em là một phụ nữ đầy bất ngờ, Valérie Ramsay.

- Stilman chứ! cô sửa lại. Thế sao em lại là một phụ nữ đầy bất ngờ?

- Anh chưa từng biết ai khác muốn ngày cưới của mình trôi nhanh như tên lửa như vậy. Khi anh hỏi em làm vợ, anh cứ nghĩ là em muốn tổ chức đại tiệc, anh tưởng tượng quanh ta là hai trăm khách mời mà ta phải chào lần lượt hết người này đến người khác, gặp gỡ anh chị em họ của em, cô dì chú bác của em, mỗi người họ lại muốn dông dài về những kỷ niệm mà anh cảm thấy hoàn toàn xa lạ. Anh sợ ngày này biết bao. Và giờ chúng ta ở đây, chỉ có sáu người chúng ta trên vỉa hè này.

- Lẽ ra anh nên nói chuyện đó cho em sớm hơn, em sẽ trấn an anh ngay, em vẫn luôn mơ về một đám cưới thân mật ấm cúng. Em muốn được làm vợ anh chứ không phải đóng vai nàng Lọ Lem mặc váy dạ hội đâu.

- Hai thứ đó chẳng ăn nhập gì với nhau cả...

- Anh có hối tiếc không?

- Không, thật sự là không chút nào, vừa nói Andrew vừa đưa mắt ra xa nhìn về phía phố Hudson. Lời nói dối thứ tư.

Họ ăn tối trong nhà hàng Trung Quốc ngon nhất ở New York. Tại nhà hàng Mr Chow, họ phục vụ những món ăn cực kỳ tinh tế, tiên phong cho ẩm thực châu Á. Bữa ăn diễn ra rất vui vẻ, Colette và Simon cực kỳ ăn ý với bố mẹ Valérie. Andrew hầu như rất ít nói chuyện và vợ anh nhận thấy anh lơ đễnh vô cùng.

Chính cô là người lên tiếng khước từ lời mời của bố cô đi tổ chức liên hoan tiếp ở chỗ khác. Và khi ông phàn nàn rằng mình đã bị tước đoạt mất quyền được khiêu vũ với con gái, cô cáo lỗi với ông, cô đang muốn ở một mình với chồng đến phát điên lên được.

Bố Valérie ôm Andrew trong vòng tay rồi siết chặt anh vào lòng.

- Con nên làm cho con bé hạnh phúc, ông thì thầm vào tai anh, nếu không ta sẽ tính sổ với con đó, ông đùa cợt thêm vào.

Đã gần nửa đêm khi chiếc taxi thả đôi tân lang tân nương xuống chân tòa nhà nơi có căn hộ của Valérie. Cô vượt lên trước Andrew trong cầu thang để đợi anh ở chiếu nghỉ.

- Sao thế, có chuyện gì vậy? Anh vừa hỏi vừa lục tìm chìa khóa trong túi áo vest.

- Anh sẽ bế em trong tay rồi đi qua cửa mà không làm em cụng đầu, cô trả lời với nụ cười tinh nghịch.

- Em thấy là em dù sao vẫn gắn bó với một số truyền thống đấy chứ, vừa nói anh vừa thực hiện lời vợ yêu cầu.

Cô cởi xiêm y ngay giữa phòng khách, mở móc cài áo ngực rồi tụt ngay quần lót xuống dọc theo hai chân. Cô tiến lại gần Andrew, khỏa thân hoàn toàn, cô tháo cà vạt của anh, lần mở từng cúc áo sơ mi rồi lấy tay xoa lên ngực anh.

Người dán chặt vào chồng, cô luồn tay xuống tận thắt lưng quần dài, tháo khóa thắt lưng rồi mở khóa quần.

Andrew cầm tay cô, nhẹ nhàng vuốt ve má cô rồi đưa cô tới tràng kỷ. Rồi anh quỳ xuống trước mặt cô, gục đầu xuống đùi cô và bắt đầu thổn thức.

- Có chuyện gì với anh vậy? Valérie hỏi. Hôm nay dường như anh đang ở tận đẩu đâu ấy.

- Anh rất lấy làm tiếc, Andrew vừa ngước mắt lên nhìn vừa nói.

- Nếu có chuyện gì đó không ổn, nếu gặp vấn đề về tiền bạc hay công việc, anh nhất định phải nói với em, anh có thể nói với em mọi điều.

Andrew hít một hơi thật sâu.

- Em đã bắt anh thề không được nói dối em, không bao giờ phản bội em, em còn nhớ chứ? Em cũng bắt anh thề sẽ thẳng thắn nói ra mọi chuyện, nếu một ngày nào đó có điều gì đó tan vỡ. Hai mắt Valérie ngân ngấn nước, cô im lặng nhìn Andrew.

- Em là người bạn thân nhất, là đồng đảng, là người phụ nữ anh cảm thấy gắn bó nhất...

- Andrew, chúng ta vừa mới cưới nhau ngày hôm nay, Valérie nấc lên.

- Tự đáy lòng anh mong em thứ tha, thứ tha vì đã làm điều tồi tệ nhất trong mọi điều mà một người đàn ông có thể làm đối với một phụ nữ.

- Anh có ai khác à?

- Đúng nhưng mà cũng không đúng, chỉ là một bóng hình... nhưng anh chưa từng cảm thấy chuyện như thế này trước kia.

- Anh đã đợi đến tận khi chúng ta kết hôn mới nhận ra rằng anh yêu một ai khác ư?

- Anh yêu em, anh biết là anh yêu em, nhưng không giống như tình yêu kia. Anh đã hèn nhát khi không thú nhận điều đó với em, không nói điều đó cho em biết. Anh không đủ dũng khí để hủy đám cưới. Bố mẹ em từ Florida đến, bạn thân của em cừ New Orleans đến, cuộc điều tra mà anh đã dành nhiều tâm sức trong những tháng qua rốt cuộc đã chuyển thành nỗi ám ảnh. Anh chỉ còn nghĩ đến điều đó và anh đã lầm đường lạc lối. Anh đã muốn xóa tan đi những nghi ngờ, anh đã rất muốn làm điều đó.

- Anh im đi, Valérie thì thầm.

Cô cụp mắt xuống và ánh mắt Andrew bị hút vào bàn tay mà cô đã xoắn vặn cho đến khi các ngón tay trắng bệch ra.

- Em xin anh, đừng nói bất cứ lời nào nữa. Anh đi đi. Về nhà anh, hoặc đi đâu tùy anh, miễn là anh đi đi. Đi khỏi căn hộ này đi.

Andrew những muốn tiến về phía cô nhưng Valérie lùi lại. Cô lùi đến tận phòng ngủ rồi nhẹ nhàng khép cửa lại phía sau mình.

*


Cơn mưa phùn lất phất rơi trong đêm tối ảm đạm. Cổ áo vest chú rể dựng lên che kín gáy, Andrew Stilman đi xuyên từ Đông sang Tây đảo Manhattan để về căn hộ của mình.

Anh những muốn gọi điện cho Simon cả chục lần rồi, để thú nhận với bạn rằng anh đã mắc phải sai lầm không thể cứu vãn nổi dù bản thân không hề muốn. Nhưng người cứ tưởng rằng mình chẳng biết sợ cái gì lại sợ bạn thân mình phán xét thế nên anh không gọi cho bạn nữa.

Cả chục lần anh muốn thổ lộ tâm tình với bố, muốn đến nhà bố mẹ để kể họ nghe mọi chuyện. Muốn nghe mẹ nói với mình rằng rồi cuối cùng mọi chuyện cũng sẽ đâu vào đấy thôi, rằng tốt nhất nên thừa nhận đám cưới sai lầm còn hơn là dấn thân vào một cuộc sống đầy những lời dối trá, dù hành động đó có bất nhân thế nào đi nữa. Có thể Valérie sẽ hận anh trong vài năm, nhưng rốt cuộc rồi cô cũng quên thôi. Một phụ nữ có phẩm hạnh như vậy sẽ không phải chịu cảnh đơn chiếc lâu đâu. Nếu cô không phải là người phụ nữ của đời anh thì chính là bởi anh có thể không nên là người đàn ông của đời cô. Anh vẫn còn trẻ, và ngay cả khi những thời khắc anh vừa trải qua, với anh, dường như là không thể vượt qua nổi thì sau này chúng cũng sẽ chỉ còn là những kỷ niệm tồi tệ. Andrew những muốn cảm thấy bàn tay mẹ đặt lên má mình, còn tay cha đặt lên vai mình, anh muốn nghe giọng họ. Nhưng cha mẹ Andrew không còn trên thế gian này nữa và, vào đêm tân hôn của mình, anh cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết.

*


“When the shit hits the fan, it spreads all over[1] là câu cách ngôn yêu thích của Freddy Olson, đồng nghiệp cùng phòng với anh. Andrew dành cả Chủ nhật để xem xét thật kỹ đồng thời hiệu chỉnh lại bài báo của mình. Đầu giờ sáng, anh đã nhận được thư của tổng biên tập không ngớt lời ngợi khen chất lượng cuộc điều tra của anh. Olivia Stern đảm bảo với anh rằng đó là một trong những bài báo hay nhất mà cô từng đọc trong suốt thời gian qua và lấy làm mừng rỡ vì đã giao phó trọng trách này cho anh. Thế nhưng, cô cũng gửi lại anh bài báo kèm cả loạt ghi chú, những đoạn gạch chân để hỏi anh về tính xác thực của nguồn thông tin, về tính trung thực của các sự việc bị phát giác. Những cáo buộc mà anh nêu trong bài không phải không trầm trọng và không còn nghi ngờ gì nữa, cơ quan tư pháp kiểu gì cũng muốn đảm bảo rằng tất cả đều có căn cứ xác đáng.

[1]: Tiếng Anh trong nguyên bản, đại ý là “họa vô đơn chí” ( Mọi chú thích không có lưu ý gì thêm đều là của người dịch).


Nếu chỉ để dựng chuyện thì liệu anh có mạo hiểm đến vậy? Liệu anh có tiêu phân nửa tiền lương để từ cô phục vụ ở cái khách sạn tồi tàn nơi anh ở mà lần ra những nguồn tin vừa đáng tin cậy vừa kín miệng, liệu anh có suýt thì bị đánh nhừ tử tại khu ngoại ô Buenos Aires nếu như không từ bỏ việc theo dõi những gã mà anh đã theo được hai ngày rồi, liệu anh có mạo hiểm suýt bị bắt vào tù và hy sinh cuộc sống cá nhân vì cuộc điều tra này nếu như anh là một tay mơ! Anh bực mình càu nhàu suốt cả ngày trong khi chỉnh trang lại phần chú giải.

Olivia cũng lặp lại lời khen ngợi của mình ở cuối bức thư và nói với Andrew rằng cô muốn ăn trưa cùng anh ngay ngày mai. Đây là lần đầu tiên. Bình thường ra, một lời mời như vậy có lẽ sẽ khiến Andrew tin chắc rằng mình sắp được thăng chức, coi như một phần thưởng, nhưng tâm trạng đang bực bội, anh chẳng dự kiến điều gì tốt đẹp cả.

Buổi tối đến, có tiếng gõ cửa ầm ầm bên ngoài. Andrew nghĩ có lẽ là bố của Valérie đến đấm vỡ mặt anh, và anh mở cửa, gần như thở phào nhẹ nhõm ; một trận đòn thích đáng có lẽ sẽ giúp anh cảm thấy ít tội lỗi hơn. Simon đẩy anh không thương tiếc để bước vào căn hộ.

- Nói cho tớ biết cậu đã làm cái quái gì vậy? vừa lớn tiếng Simon vừa tiến về phía cửa sổ.

- Cô ấy đã gọi cho cậu à?

- Không, tớ mới là người gọi. Tớ muốn qua chỗ bọn cậu để gửi quà mừng cưới và tớ sợ làm phiền bọn cậu, sợ rằng mình lại đến đúng lúc bọn cậu đang say men yêu đương. Ấy vậy mà tớ đã sai bét nhè.

- Cô ấy nói gì với cậu?

- Thế theo cậu thì sao? Trái tim cô ấy đang tan ra thành trăm mảnh kìa, cô ấy chẳng hiểu gì hết, ngoại trừ một điều là cậu coi khinh cô ấy và không còn yêu cô ấy nữa. Tại sao lại tổ chức đám cưới, cậu không thể từ chối từ trước à? Cậu hành xử như một thằng đểu cáng.

- Nhưng chính bởi vì tất cả mọi người đã thuyết phục tớ đừng nói gì hết, đừng làm gì hết và đừng có mở mắt gì hết! Bởi vì tất cả mọi người đều đã giải thích rằng điều tớ cảm nhận chỉ là kết quả của trí tưởng tượng của tớ mà thôi!

- Còn ai là “tất cả mọi người” nữa đây? Cậu đã thổ lộ tâm tình cho ai đó ngoài tớ ư? Cậu lại gặp tiếng sét ái tình với một cậu bạn thân mới ư? Rồi cậu cũng sẽ rũ bỏ tớ chứ gì?

- Cậu ngốc quá, Simon. Tớ chỉ nói chuyện với ông lão thợ may của tớ thôi.

- Càng ngày càng hay ho gớm… Cậu không thể cố nhịn đi một tí, cố gắng thử trong vài tháng, cho bọn cậu ít nhất một cơ hội ư? Vậy thì tối qua đã xảy ra chuyện gì nghiêm trọng để đến nỗi cậu tung hê tất cả xuống sông xuống biển vậy?

- Tớ không thể làm tình với cô ấy được và Valérie thì quá tỉnh để có thể tin rằng đó đơn giản chỉ là chút trục trặc, là do cậu muốn biết tất cả đấy nhé. - Không, chuyện này thì tớ thà không biết còn hơn, Simon vừa nói vừa buông mình xuống tràng kỷ. Chúng ta đúng là quá lắm rồi!

- Chúng ta á? - Đúng vậy, tớ đủ thân với cậu trong mọi thời khắc khó khăn nên cảm thấy mình cũng có liên quan, và sau tất thảy mọi điều, giờ tớ là phù rể đoản mệnh nhất trần đời này đây.

- Cậu có muốn được ghi vào kỷ lục Guinness không?

- Ý tưởng đến xin lỗi cô ấy, đến nói với cô ấy rằng cậu đã nhầm và rằng tất cả chỉ là chút điên rồ nhất thời dường như là bất khả với cậu ư?

- Tớ không rõ mình đang ở đâu nữa, ngoại trừ một điều, tớ đang bất hạnh hơn bao giờ hết. Simon đứng dậy đi vào bếp. Anh bạn quay trở lại với hai chai bia rồi đưa một chai cho Andrew.

- Tớ lấy làm tiếc cho cậu, bạn thân mến à, tớ cũng lấy làm tiếc cho cô ấy và còn tiếc hơn cho cả hai cậu. Nếu cậu muốn, cậu có thể qua nhà tớ tuần tới.

- Để làm gì?

- Để tránh cho cậu phải gặm nhấm nỗi buồn một mình.

Andrew cảm ơn Simon, nhưng ngẫm kỹ ra, có lẽ anh cần ở một mình để gặm nhấm nỗi buồn. Đó không phải là hình phạt lớn lao gì cho cam nếu đặt cạnh nỗi đau mà anh đã bắt Valérie gánh chịu.

Simon đặt tay lên vai bạn mình.

- Cậu có biết câu chuyện về người đàn ông bị dẫn ra trước tòa án vì đã sát hại bố mẹ mình và hắn ta đã cầu xin được quan tòa khoan hồng bằng cách nhắc cho quan tòa nhớ rằng ông đang chuẩn bị kết tội một kẻ mồ côi…

Andrew nhìn Simon và cả hai người bạn cùng cười phá lên, tiếng cười chỉ duy tình bạn mới có thể làm nảy sinh giữa những thời điểm tồi tệ nhất.

*


Thứ Hai, mặt đối mặt, Andrew ăn trưa với nữ tổng biên tập của mình. Cô đã chọn một nhà hàng cách khá xa tòa báo.

Olivia Stern chưa bao giờ thể hiện sự quan tâm tương tự đến một trong những bài báo của anh. Chưa bao giờ cô hỏi về nguồn tin nhiều đến vậy, về những cuộc gặp gỡ mà anh đã thực hiện cũng như cách thức anh tiến hành điều tra. Và trong suốt bữa ăn, không hề động đến đĩa của mình, cô lắng nghe anh kể về những chuyến đi đến Argentina, như một đứa trẻ lắng nghe người lớn kể một câu chuyện gây chấn động. Và đôi khi trong lúc kể chuyện, Andrew nhận thấy mắt Olivia Stern ngân ngấn nước.

Vào cuối bữa trưa, cô nắm lấy tay Andrew rồi cảm ơn anh vì công việc đặc biệt mà anh đã hoàn thành rồi gợi ý anh ngày nào đó nên viết sách về chủ đề này. Chỉ đến khi rời bàn cô mới thông báo cho anh ý định lùi ngày đăng báo tầm một tuần, chỉ với một mục đích duy nhất là dành cho anh một dòng tít thật lớn ở trang nhất và hai trang trọn vẹn trên tờ báo. Một dòng tít lớn trên trang nhất của The Nem York Times rồi lại còn cả hai trang trọn vẹn nữa, thì nếu chẳng phải là giải Pulitzer, thì cũng đánh dấu một sự trọng vọng sẽ mang tới cho anh một tiếng tăm nhất định trong giới. Và khi Olivia hỏi anh, dù câu hỏi của cô không thể hiện chút nghi ngờ nào dù là nhỏ nhất, rằng liệu anh có đủ chất liệu để phát triển bài báo của mình theo mục đích này không, Andrew hứa với cô rằng anh sẽ bắt tay ngay vào việc.

Đó là điều anh quyết làm trong suốt tuần. Anh đến văn phòng sớm, ăn vội ăn vàng bữa trưa bằng sandwich ngay tại đó rồi làm việc đến tận đêm khuya, ngoại trừ thi thoảng nếu có thể thì đi ăn tối với Simon.

Andrew tuân thủ chương trình này từng ly từng tí, hoặc là gần như thế. Hôm thứ Tư, khi vừa rời tòa soạn, anh có một cảm tưởng “đã từng gặp” thật xót xa. Tại góc phố 40, anh ngỡ đã lần thứ hai nhận ra, ở cửa sau chiếc xe hai cầu đậu trước tòa nhà, khuôn mặt của người phụ nữ xa lạ ở bar Novecento. Anh dợm bước chạy về phía cô. Trong lúc vội vàng, cặp đựng tài liệu của anh tuột khỏi tay và tài liệu phục vụ cho bài báo rơi tung tóe trên vỉa hè. Trong lúc anh cúi xuống thu nhặt rồi đứng dậy, chiếc ô tô đã biến mất.

Từ hôm đó, tối nào Andrew cũng đến Novecento, với hy vọng được gặp lại người phụ nữ luôn ám ảnh mình.

Mỗi tối anh đều chờ đợi trong vô vọng rồi trở về nhà với tâm trạng bực bội và kiệt sức.

Ngày thứ Bảy, anh thấy trong đám thư tín một lá thư mà anh nhận ra ngay nét chữ trên phong bì. Anh để bức thư trên bàn làm việc và tự hứa sẽ không động đến nó chừng nào anh còn chưa đặt dấu chấm hết cho bài báo mà Olivia Stern đợi từ tối hôm trước.

Sau khi đã gửi bài viết cho tổng biên tập, anh gọi cho Simon và lấy cớ rằng mình vẫn còn việc phải làm để hủy cuộc hẹn tối với bạn.

Rồi anh đến ngồi trên bậu cửa sổ phòng khác, hít thở không khí ban đêm căng đầy phổi và cuối cùng là đọc lá thư của Valérie.

Anh Andrew,

Chủ nhật này không có anh là lần đầu tiên kể từ thời niên thiếu em ôm chặt nỗi đau trống vắng. Em đã bỏ nhà đi lúc mười bảy tuổi, còn anh là khi gần bốn mươi. Làm sao có thể quen được rằng từ giờ sẽ không còn được biết anh có khỏe không? Làm sao có thể tiếp tục sống từ sâu thẳm sự câm lặng của anh?

Em sợ rằng ký ức sẽ đưa em quay lại với những ánh mắt niên thiếu của anh, với âm thanh giọng nói đàn ông của anh khiến em vui mỗi ngày, với nhịp đập con tim anh khi bàn tay đặt trên ngực anh, em lắng nghe anh ngủ và thấy yên lòng mỗi đêm.

Khi mất anh, em mất một người tình, một tình yêu, một người bạn và một người anh trai. Đó là một đám tang dài mà em phải chịu.

Mong rằng cuộc sống của anh sẽ tốt đẹp, dù rằng em những muốn anh phải chết vì đã bắt em chịu nhiều đớn đau đến thế.

Em biết rằng ở đâu đó trong thành phố này, nơi em đi dạo một mình anh đang hít thở cùng bầu không khí ấy, và điều đó cũng là quá nhiều với em rồi.

Em ký tên dưới bức thư ngắn này bằng cách viết lần đầu tiên và cũng là sau chót “Vợ anh”, hay đúng hơn, người đã từng là vợ anh, trong khoảng thời gian một ngày buồn bã.




Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 5-1-2015 22:23:31 | Chỉ xem của tác giả
7.


Anh ngủ gần như trọn ngày Chủ nhật. Đêm trước anh đã ra ngoài, sau khi quyết định dành cả tối để say sưa quên trời đất. Trong suốt nhiều năm, anh đã chứng minh chút năng khiếu trong thể loại bài tập này. Giam mình ở nhà đã bổ sung vào tình trạng lộn xộn này sự thiếu ý chí không thể chịu nổi.

Anh đẩy cánh cửa bar Novecento muộn hơn thường lệ và uống nhiều Fernet-Coca hơn thường lệ rồi rời bar trong tình trạng còn tệ hơn thường lệ. Tâm trạng rối ren vẫn tiếp diễn bởi suốt cả tối anh ngồi một mình bên quầy bar và chỉ nói chuyện với mỗi tay phục vụ quầy. Trong lúc đi lang thang giữa đêm khuya thanh vắng, người sặc sụa mùi rượu, Andrew Stilman bỗng phá lên cười như điên như dại. Tiếng cười điên dại đó nhanh chóng chuyển thành nỗi buồn trong sâu thẳm. Rồi anh ngồi bệt xuống vỉa hè, hai chân thõng xuống rãnh ven đường và nức nở suốt một tiếng đồng hồ.

Không còn nghi ngờ gì nữa, anh là kẻ u mê xuẩn ngốc nhất trần đời, nhưng anh cũng từng gặp vài kẻ như vậy trong đời rồi. Khi tỉnh dậy, cổ khô đầu nhức vì uống quá nhiều, nhắc anh nhớ mình chẳng còn đôi mươi nữa, Andrew hiểu ra rằng mình nhớ Valérie biết bao. Anh nhớ cô da diết, cũng mãnh liệt như anh từng nhớ người phụ nữ đã gặp trong một tối khiến anh bị mê mẩn vì những lý do rất khó hiểu. Nhưng một người là vợ anh, một người là ảo ảnh. Và Andrew không nguôi nhớ đến lá thư Valérie đã viết cho anh.

Anh sẽ tìm ra cách để xin cô tha thứ, những lời biện hộ chính đáng, nói cho cùng đó chẳng phải là nghề của anh sao.

Nếu bài báo của anh, dự kiến sẽ lên trang vào ngày mai, hẳn sẽ mang lại cho anh chút vinh quang, thì chính Valérie là người anh muốn chia sẻ niềm vinh quang này.

Sáng thứ Hai, sau khi rời nhà, anh đi xuống phố Charles, như mỗi sáng thường lệ, rồi chạy những bước nhỏ về phía bờ sông để chạy thể dục.

Anh đợi đèn giao thông chuyển sang màu đỏ rồi băng qua xa lộ West. Khi vừa đặt chân đến dải phân cách giữa đường thì hình người nhỏ biểu thị người đi bộ trên cột đèn giao thông nhấp nháy, tuy vậy Andrew vẫn bước xuống lòng đường như mỗi sáng vẫn làm. Anh đáp lại tiếng còi xe inh ỏi bằng cách giơ nắm tay, ngón giữa chĩa lên trời. Rồi anh men theo lối đi trong công viên River Park và tăng tốc.

Ngay tối nay anh sẽ đến bấm chuông cửa nhà Valérie, để nói lời xin lỗi và nói với cô rằng anh rất tiếc về cách cư xử của mình. Anh không nghi ngờ một giây phút nào nữa về tình cảm dành cho cô, và anh muốn đập đầu vào tường để tự vấn bản thân đã điên rồ đến nhường nào khi hành xử như vậy.

Một tuần lễ đã trôi qua kể từ khi họ chia tay, bảy ngày ác mộng mà người phụ nữ của đời anh phải chịu đựng, bảy ngày ích kỷ đến đê tiện, nhưng chuyện này sẽ không bao giờ tái diễn nữa, anh sẽ thề với cô như vậy. Kể từ nay, anh sẽ chỉ không ngừng làm cô hạnh phúc. Anh sẽ van xin cô quên đi mọi chuyện và ngay cả khi cô có bắt anh phải chịu con đường tối tăm nhất trong số các con đường Thập giá[1] trước khi thứ tha cho anh thì anh sẵn sàng quỳ gối lết trên con đường ấy nếu cần.

[1] Con đường Chúa Jesus đã đi qua, từ Gethsémani nơi Chúa bị bắt đến Golgotha, nơi Chúa bị đóng đinh câu rút.


Andrew Stilman đi đến ngang tầm Cầu tàu số 4 chỉ với duy một ý nghĩ trong đầu, phải chinh phục lại trái tim vợ mình.

Đột nhiên anh cảm thấy một vết thương điếng người ở cuối sống lưng, một vết rách kinh khủng kéo ngược tới tận bụng dưới. Nếu cơn đau khu trú cao hơn trong lồng ngực thì anh những tưởng mình đang bị nhồi máu. Anh cảm thấy hơi thở mình ngừng lại. Đó không phải là cảm giác, hai chân anh co rút lại và anh hầu như không còn chút sức lực nào để đưa tay về phía trước bảo vệ khuôn mặt mình khi ngã xuống.

Nằm dưới đất, mặt áp xuống lớp nhựa đường, anh những muốn có thể quay lại gọi trợ giúp. Andrew Stilman không thể nào hiểu được tại sao không có âm thanh nào phát ra từ cổ họng mình, cho đến khi cơn ho buộc anh phải khạc ra một thứ chất lỏng sền sệt.

Nhận thấy dòng chất lỏng đỏ nhạt tràn ngập phía trước, Andrew hiểu rằng đó chính là máu của mình đang chảy lênh láng trên lối đi tại công viên River Park. Vì một lý do anh không hề hay biết, anh đang bị rút sạch máu như một con vật trong lò mổ. Một bức màn đen dần dần che mờ tầm nhìn của anh.

Anh đoán là có ai đó đã bắn mình, dù rằng anh không hề nhớ đã nghe thấy tiếng súng nổ; cũng có khi anh bị đâm bằng dao găm. Vận dụng chút minh mẫn cuối cùng, Andrew tự hỏi ai có thể ra tay sát hại mình đây.

Hít thở giờ đây với anh đã gần như không thể. Tất thảy sức lực đang dần rời bỏ anh và anh sắp đến với kết cục cuối cùng của mình. Anh chờ đợi được nhìn thấy thước phim cuộc đời được quay chậm, rình đợi tia sáng tuyệt vời phía cuối một hành lang, một giọng nói thánh thiện sẽ hướng dẫn anh đi về nơi khác. Nhưng chẳng có bất cứ thứ gì trong số đó xảy ra. Những giây phút cuối cùng còn ý thức được của Andrew Stilman chỉ là một cuộc lặn chậm rãi và đớn đau về phía hư không.

Vào hồi 7h15 một sáng thứ Hai trong tháng Bảy, ánh sáng vụt tắt, và Andrew Stilman hiểu rằng mình đang dần chết.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 5-1-2015 22:35:59 | Chỉ xem của tác giả
8.


Một luồng không khí buốt giá tràn vào phổi anh, một dòng chất lỏng cũng lạnh toát như vậy chảy tràn trong huyết mạch anh. Một làn ánh sánh chói lóa cùng nỗi sợ ngăn anh mở mắt. Andrew Stilman tự hỏi liệu mình đang thức dậy tại nơi chuộc tội hay địa ngục. Nếu tính đến những mưu toan mới đây thì thiên đường là ngoài tầm với của anh.

Anh không còn cảm thấy nhịp tim đập nữa, anh thấy lạnh, lạnh kinh khủng.

Cái chết thường được xem là kéo dài mãi mãi, anh hẳn sẽ không phải ở trong bóng tối toàn bộ thời gian này. Anh huy động hết dũng khí và rốt cuộc cũng mở được mắt ra.

Ít ra điều dường như lạ thường nhất với anh chính là anh đang nằm dựa lưng vào cột đèn giao thông ở góc giao giữa phố Charles và xa lộ West End.

Địa ngục hoàn toàn không giống như thứ mà người ta từng dạy anh trong những khóa học giáo lý Cơ Đốc giáo tại trường Công giáo Poughkeepsie, trừ phi ngã tư này đánh dấu lối vào đại ngục. Nhưng xét theo số lần Andrew chạy bộ ngang qua đây, thì hẳn là anh phải nhận ra rồi chứ.

Người run rẩy như tàu lá trước gió, lưng rỉ máu, anh máy móc nhìn đồng hồ đeo tay. Đồng hồ chỉ bảy giờ đúng, tức là sớm hơn mười lăm phút so với lúc anh bị sát hại.

Cái câu anh vừa mới nhẩm trong đầu dường như chẳng có ý nghĩa gì với anh. Andrew không hề tin vào chuyện hóa kiếp và càng ít tin vào chuyện hồi sinh đã khiến anh trở lại mặt đất vào đúng mười lăm phút trước khi chết. Anh nhìn khắp xung quanh mình, khung cảnh dường như chẳng có chút gì khác biệt so với thứ mà anh thường nhìn thấy mỗi sáng. Một đám ô tô ào về mạn Bắc, phía bên kia dải phân cách, cả đống ô tô, thanh chống sốc của xe này chạm vào thanh chống sốc của xe kia, đang cố tiến về con phố tài chính, dọc bờ sông, đám người chạy bộ thể dục đang chạy hết tốc lực khắp lối đi của công viên River Park.

Andrew gắng hết sức tập trung tinh thần. Lợi ích duy nhất mà anh chưa từng thừa nhận của cái chết chính là nó giúp bạn tránh khỏi mọi đớn đau về mặt thể xác. Nếu như anh vẫn còn cảm thấy đau đến vậy ở cuối sống lưng, nếu như vẫn còn cả tá sao quay mòng mòng trước mắt anh thì đó là bằng chứng sống động nhất chứng tỏ rằng thể xác và linh hồn anh vẫn luôn là một.

Chưa gì anh đã thở hồng hộc, nhưng rõ ràng là anh đang hít thở, bởi rằng anh cũng ho liên hồi. Anh thấy buồn nôn nên cúi người về phía trước để nôn thốc nôn tháo bữa sáng vào rãnh bên lề đường.

Sáng nay thì chẳng còn chuyện chạy chiếc gì hết, cũng chẳng còn chuyện uống thêm giọt rượu nào nữa kể từ nay về sau, thậm chí một ly Fernet-Coca cũng chẳng thể. Tờ hóa đơn mà cuộc sống vừa chìa ra cho anh cũng đã đủ đắt đỏ để ta chẳng bao giờ lặp lại lần nữa làm gì.

Gom chút sức tàn lực kiệt, Andrew vòng trở lại. Nếu như về được tới nhà mình, anh sẽ tắm vòi hoa sen, thư giãn một chút rồi tất thảy sẽ lại đâu vào đấy thôi. Và trong lúc cuốc bộ, cơn đau dọc sống lưng thoái lui, Andrew tin rằng mình đã mất ý thức trong vài giây. Trong vài giây đó anh hoàn toàn mất phương hướng.

Tuy vậy anh vẫn dám thề là bấy giờ mình đang ở ngang tầm Cầu tàu số 4 chứ không phải là ở đầu phố Charles như lúc bị đâm. Khi nào đi khám bác sĩ, và anh đã sớm biết rằng mình phải đến bác sĩ để khám, anh sẽ không quên nhắc đến trạng thái lú lẫn tâm thần này. Vụ việc vừa qua đủ gây bối rối khiến anh không khỏi lo lắng.

Nhưng không vì thế mà tình cảm anh dành cho Valérie thay đổi. Trái ngược lại, nỗi sợ chết càng khiến chúng trở nên mãnh liệt hơn.

Khi nào mọi chuyện đâu vào đấy, anh sẽ gọi đến tòa soạn để báo mình đến muộn rồi bắt taxi, thẳng hướng chuồng ngựa của đội cảnh sát cưỡi ngựa New York nơi văn phòng thú y của vợ anh đặt trụ sở. Anh sẽ chẳng đợi lâu hơn nữa để nói rằng anh rất lấy làm tiếc và xin cô tha thứ.

Andrew đẩy cửa tòa nhà, trèo lên tận tầng bốn, tra chìa khóa vào ổ rồi bước vào. Chùm chìa khóa rơi khỏi tay khi anh nhìn thấy Valérie đang ở trong phòng khách nhà mình. Cô hỏi anh có nhìn thấy chiếc áo blouse mà cô đã mang từ tiệm giặt về ngày hôm trước không. Từ lúc anh đi chạy đến giờ, cô đã cố tìm nó mà không thấy.

Ngừng lục lọi căn hộ một lúc, cô quan sát anh rồi lên tiếng hỏi sao anh lại nhìn cô với vẻ đờ đẫn đến vậy?

Andrew không biết trả lời cô ra sao.

- Hãy giúp em thay vì đứng ì một chỗ như thế chứ, chắc em sẽ bị muộn giờ mất và quả là không đúng ngày chút nào, sáng nay chúng em có một vụ thanh tra y tế.

Andrew vẫn đứng im bất động, miệng anh khô khốc, môi thì như bị gắn xi niêm phong.

- Em đã chuẩn bị cà phê cho anh, ở trong bếp ấy, anh nên ăn chút gì đó đi, anh đang trắng bệch như xác ướp kìa. Anh chạy quá nhiều và quá nhanh chứ gì, Valérie vừa nói vừa tiếp tục tìm kiếm. Nhưng trước tiên, em xin anh hãy tìm cho em cái áo blouse đó. Đúng là anh cần phải nhường cho em ít chỗ trong tủ áo của anh, em chán ngấy cái cảnh tha lôi đống đồ đạc của mình từ căn hộ này đến căn hộ kia rồi, anh nhìn kết quả xem!

Andrew tiến một bước về phía Valérie rồi níu tay cô lại để khiến cô chú ý.

- Anh không biết em đang chơi trò gì, nhưng việc em ở đây là niềm ngạc nhiên lớn nhất đời anh. Chắc chắn em sẽ không tin anh đâu, anh đang sửa soạn đến văn phòng gặp em. Anh nhất định phải nói chuyện với em.

- Thật đúng lúc quá, em cũng vậy, chúng ta còn chưa quyết định gì liên quan đến dự định đi nghỉ tại Connecticut. Thế khi nào anh quay lại Argentina ấy nhỉ? Hôm qua anh đã nói rồi nhưng em ghét ý nghĩ đó đến mức quên ngay tắp lự.

- Sao anh lại phải quay lại Argentina? Valérie quay người lại rồi nhìn Andrew chằm chằm.

- Sao anh lại phải quay lại Argentina? Andrew nhắc lại.

- Bởi tòa soạn đã giao cho anh một “cuộc điều tra tối quan trọng sẽ đẩy sự nghiệp anh thăng tiến”? Em chỉ nhắc lại điều anh đã giải thích cho em vào cuối tuần vừa rồi trong cơn phấn khích gần như là nực cười của anh. Bởi vì tổng biên tập của anh đã gọi cho anh vào thứ Sáu vừa rồi để gợi ý anh quay lại đó, trong khi anh vừa mới từ đó về xong. Nhưng cô ấy cứ cố nằn nì mãi và vô cùng coi trọng cuộc điều tra này…

Andrew còn nhớ rất rõ cuộc trao đổi với Olivia Stern, nhớ cả chi tiết rằng nó đã diễn ra ngay sau khi anh trở về từ chuyến công tác đầu tiên ở Buenos Aires, vào hồi đầu tháng Năm, và giờ thì đang là đầu tháng Bảy.

- Cô ấy gọi cho anh vào thứ Sáu vừa rồi ư? Andrew ấp úng.

- Anh đi ăn chút gì đi, anh mất trí rồi. Andrew không đáp lại. Anh vội vã đi vào phòng ngủ, vớ lấy chiếc điều khiển đặt trên bàn ngủ đầu giường rồi bật ti vi. Kênh New York 1 đang phát chương trình thời sự buổi sáng.

Sững sờ, Andrew nhận thấy mình biết rõ từng tin tức mà phát thanh viên đang giới thiệu. Vụ hỏa hoạn thảm kịch đã hủy hoại hoàn toàn kho hàng của Queens và cướp đi mạng sống của hai mươi hai người…việc tăng thuế cầu đường ở lối vào thành phố sẽ có hiệu lực thực thi vào cùng ngày hôm đó. Nhưng cái ngày đang được nhắc tới lại từng diễn ra vào đúng hai tháng trước.

Andrew nhìn dòng thông tin chạy không ngừng ở phía dưới màn hình. Ngày mùng 7 tháng Năm hiển thị tại đó và anh phải ngồi phịch xuống giường để gắng hiểu chuyện gì đang xảy đến với mình.

Người dẫn chương trình dự báo thời tiết thông báo cơn bão nhiệt đới đầu tiên của mùa này đã xuất hiện, cường độ bão đã giảm bớt trước đi đổ bộ vào vùng ven biển Florida. Andrew Stilman biết rằng các nhà khí tượng học đã nhầm, và cơn bão đã nhân đôi sức mạnh vào cuối ngày, cũng như vậy, anh nhớ cả số nạn nhân khi cơn bão quét qua.

Người thợ may từng nói với anh vào một ngày nọ rằng cuộc sống không hề giống như những chiếc máy mà ta chỉ cần bấm vào một nút là cơ thể tua lại một khoảng thời gian tùy thích, rằng không thể quay ngược lại quá khứ. Rõ ràng là ông Zanetti đã lầm to. Một ai đó, ở một nơi nào đó, hẳn đã bấm vào một cái nút kỳ lạ, bởi cuộc sống của Andrew Stilman vừa mới được lùi về sáu mươi hai ngày trước.

Andrew bước vào bếp, anh nén thở mở cửa tủ lạnh và tìm thấy thứ mà anh rất sợ trông thấy ở đó: một cái túi ni lông đựng áo blouse mà vợ mình – khi ấy cô vẫn chưa là vợ anh – do bất cẩn đã cất vào từ tối qua cùng đống sữa chua mua tại cửa hàng đồ khô ở góc phố.

Anh mang áo lại cho cô, Valérie hỏi anh sao chiếc áo lại đóng đá thế kia, Andrew giải thích lý do cho cô nghe và Valérie hứa với anh rằng sẽ không bao giờ trách mắng anh vì tội đãng trí nữa. Đó là lần thứ hai anh nghe thấy lời hứa này: lần thứ nhất cũng ở trong tình huống giống hệt cách đây hai tháng trước.

- À, thế sao sáng nay anh lại đến tận văn phòng tìm em? Vừa hỏi cô vừa cầm lấy túi xách.

- Chẳng vì lý do nào cả, chỉ là anh nhớ em thôi.

Cô hôn lên trán anh rồi vội vã rời nhà. Trong lúc nhắc lại lời chúc anh may mắn, cô cũng báo trước rằng có thể mình sẽ về muộn.

Andrew cũng biết rằng chuyến thanh tra y tế sẽ không diễn ra vì viên thanh tra đúng lúc đó đã bị tai nạn ô tô tại cầu Queensborough.

Valérie sẽ gọi đến văn phòng anh vào lúc 18h30 để rủ anh đi xem phim. Andrew sẽ rời tòa báo rất muộn và chính vì lỗi của anh mà họ bị nhỡ buổi chiếu phim nên để chuộc lỗi, anh sẽ dẫn cô đi ăn tối trong thành phố.

Andrew có một trí nhớ siêu phàm. Anh luôn lấy làm hãnh diện vì điều đó, nhưng chưa bao giờ anh mường tượng ra rằng một ngày nào đó, khả năng này sẽ nhấn chìm anh trong trạng thái sợ hãi đến vậy.

Một mình trong căn hộ, suy ngẫm về chuyện rất khó tưởng tượng này, Andrew hiểu rằng anh có sáu mươi hai ngày trước mặt để tìm cho ra kẻ đã sát hại mình và động cơ của hắn là gì.

Đúng thế, trước khi kẻ sát nhân đạt được mục đích…




Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 6-1-2015 21:47:47 | Chỉ xem của tác giả
9.


Khi đến tòa soạn, Andrew quyết định không thay đổi bất cứ điều gì trong thói quen hằng ngày của mình. Anh cần lùi lại một chút để đánh giá tình hình và suy ngẫm thật kỹ trước khi quyết định bất cứ chuyện gì. Vả lại, khi còn niên thiếu, anh từng đọc vài cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng có nhắc đến những chuyến du hành về quá khứ và nhớ lại rằng thay đổi tiến trình sự việc có thể gây ra những hậu quả tai hại.

Anh dành cả ngày trời chuẩn bị cho chuyến đi tới Argentina lần thứ hai mà anh từng thực hiện trong cuộc đời trước đây. Anh dự định dù sao vẫn sẽ tự cho mình quyền được thay đổi khách sạn ở Buenos Aires, khách sạn anh từng lưu trú đã gây cho anh những ấn tượng rất tồi tệ.

Anh trao đổi ngắn gọn vài câu với Freddy Olson, người ngồi ngay cạnh bàn làm việc của anh. Vì đố kỵ nên tay đồng nghiệp này không ngừng tìm cách tống khứ anh ra khỏi ban biên tập, nếu không thì cũng cố gắng đánh cắp của anh những chủ đề anh đang làm.

Andrew nhớ rất rõ lý do cuộc cãi vã giữa họ bởi chúng đã từng xảy ra. Thây kệ trật tự thế giới, Andrew đã chủ động kết thúc mọi chuyện. Anh đuổi khéo Olson, nhờ đó mà tránh cho tổng biên tập phải rời khỏi lồng kính của mình để bắt anh chịu nhục khi xin lỗi tên ngu đần đó trước mặt tất thảy các đồng nghiệp.

Chung quy lại thì Andrew cũng không đi chính xác từng mi li mét một theo mỗi bước chân anh từng đi, anh tự nhủ như vậy khi tiến lại bàn làm việc. Có thể anh sẽ nghiền nát vài con côn trùng từng sống sót sau những buổi chạy bộ buổi sáng trên thảm cỏ ở công viên River Park trong vòng hai tháng trước… hai tháng tới, anh cải chính thầm trong đầu.

Ý nghĩ bất chấp tiến trình sự việc không hề khiến anh phiền lòng. Anh vẫn còn chưa cầu hôn Valérie – anh sẽ chỉ thực hiện việc này ba ngày sau khi cô nhắc lại chuyến đi đến Buenos Aires của anh – anh vẫn chưa làm trái tim cô tan vỡ, và vì thế vẫn chưa cần gì phải xin cô tha thứ. Nếu như không có khả năng là cuối cùng anh sẽ hết đời trong vũng máu, trong khoảng sáu mươi ngày tới, thì chuyến ngược trở về quá khứ rốt cuộc chỉ toàn những lợi ích hay ho.

Khi Valérie gọi cho anh vào lúc 18h30, anh đã phạm lỗi vụng về hứa với cô sẽ ngay lập tức tới gặp cô tại rạp chiếu phim trước cả khi cô đề nghị với anh như vậy.

- Làm sao anh biết rằng em sẽ rủ anh đi xem phim? Cô ngạc nhiên hỏi.

- Anh không biết, anh ấp úng, tay quắp chặt cây chì viết. Nhưng đó là ý hay đúng không? Trừ phi là em thích ăn tối ở nhà hàng hơn?

Valérie suy nghĩ trong giây lát rồi quyết định chọn đi ăn tối.

- Anh đặt bàn ở Omen nhé.

- Tối nay anh thật có khiếu, em cũng đang nghĩ đến đúng quán đó.

Cây chì viết của Andrew gãy tan trong lòng bàn tay anh.

- Có nhiều tối như vậy lắm chứ, anh nói. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong khoảng gần một giờ nữa nhé. Rồi anh hỏi về vụ thanh tra y tế diễn ra như thế nào, dù đã biết rõ câu trả lời.

- Không phải thanh tra nữa, Valérie đáp, viên thanh tra bị tai nạn ô tô trên đường đến. Em sẽ kể cho anh khi chúng ta ăn nhé.

Andrew gác máy.

- Mày phải tỏ ra tinh tế hơn chút nữa trong những tháng tới, nếu như không muốn bị nghi ngờ, anh khẽ giọng tự nhủ.

- Loại nghi ngờ gì đó?

Freddy Olson ngó đầu qua vách ngăn ngăn cách giữa bàn hắn ta và bàn của Andrew.

- Nói cho tôi biết đi, Olson, có phải mẹ anh chưa từng giải thích cho anh biết rằng nghe lén ngoài cửa thật chẳng lịch sự chút nào à?

- Tôi chẳng nhìn thấy cái cửa nào sất, Stilman, anh là người có óc quan sát tinh tế đến thế cơ mà, anh chưa từng nhận ra rằng chúng ta đang làm việc trong một không gian mở à? Anh chỉ cần nói nhỏ hơn chút nữa thôi. Anh tưởng rằng nghe mấy mẩu trao đổi của anh khiến tôi thấy thích thú lắm à?

- Tôi chẳng giây phút nào nghi ngờ chuyện đó cả.

- Thế thì, lúc nãy ngài nói đến loại nghi ngờ nào vậy, ngài phóng viên được thăng cấp?

- Cái nhận xét nho nhỏ này của anh chính xác là có nghĩa gì thế?

- Ồ, thế đấy anh Stilman, ở đây ai mà chẳng biết rõ là anh đã thành tay chân thân cận của Stern. Anh muốn gì nào, chúng tôi chẳng thể chống lại một dạng chủ nghĩa nghiệp đoàn kiểu vậy đâu.

- Tôi biết là tài năng báo chí của anh khiến anh không chắc mình có thuộc về nghiệp đoàn nghề nghiệp của chúng ta hay không và tôi cũng chẳng buộc tội anh đâu, nếu tôi cũng kém cỏi như anh. Olson à, tôi chắc cũng nghi ngờ như vậy thôi.

- Thật nực cười! Nhưng tôi chẳng nói về chuyện đó, Stilman, đừng ra vẻ ngốc nghếch hơn là mình vốn thế đi.

- Thế anh định nói về cái gì hả Olson?

- Stilman, Stern, hình như cũng hơi có chung nguồn gốc thì phải?

Andrew chăm chú quan sát Freddy. Anh nhận thấy rằng trong cuộc đời trước đây – và suy nghĩ kiểu này dường như vẫn quá phi lý với anh đến nỗi anh khó lắm mới quen nổi – cuộc cãi vã với Olson diễn ra sớm hơn, vào thời điểm Olivia Stern vẫn còn ở văn phòng. Thế nhưng giờ thì cô đã đi khỏi cách đây tầm hơn nửa tiếng rồi, cũng như phần lớn các đồng nghiệp của anh, họ đã ra về vào quãng 18h. Trình tự mọi chuyện, do các hành động của anh tác động, giờ đang dần thay đổi và Andrew rút ra kết luận rằng thật sai lầm nếu không tranh thủ tận dụng hiện tượng này. Anh tát một cái như trời giáng vào mặt Freddy Olson, hắn ta lùi hẳn lại, miệng há hốc.  

- Cứt thật, Stilman, tôi sẽ kiện anh, hắn ta vừa xoa xoa má vừa đe dọa. Khắp quanh nơi này có đầy các thể loại camera an ninh.

- Cứ làm đi, xin cứ tự nhiên, tôi sẽ giải thích lý do tại sao anh bị ăn tát. Tôi chắc rằng đoạn video đó có thể sẽ thành công vang dội trên internet.

- Anh chẳng thể thoát tội dễ dàng đến thế đâu!

- Anh không biết mình đoán chuẩn thế nào đâu! Thôi được rồi, giờ tôi đang có hẹn và anh đã làm tôi mất kha khá thời gian rồi đấy.

Andrew vớ lấy áo vest rồi vừa lao vào thang máy vừa giơ ngón tay thối lên với Freddy, hắn ta vẫn đang xoa má. Trong buồng thang máy dẫn thẳng xuống tầng trệt, Andrew vẫn còn nổi giận với gã đồng nghiệp đó, nhưng rồi anh tự nhủ rằng tốt hơn hết mình nên dịu lại trước khi gặp mặt Valérie, anh hẳn sẽ vô cùng khó khăn khi phải giải thích cho cô điều vừa xảy ra.

*


Ngồi ngay ở quầy nhà hàng Nhật thuộc khu SoHo, Andrew khó khăn lắm mới tập trung lắng nghe những điều Valérie nói. Lý do là vì anh đã biết tỏng toàn bộ cuộc trao đổi của họ rồi. Và trong lúc cô kể về ngày làm việc của mình, anh nghĩ cách tận dụng tối đa tình huống này sao cho ít phải bối rối nhất.

Anh vô cùng tiếc vì lúc nào cũng coi thường chuyên mục thời sự tài chính. Thử nghĩ mà xem, hẳn anh sẽ kiếm đủ để tạo lập một gia tài nho nhỏ nếu như có để tâm đôi chút đến vấn đề này. Nếu anh nhớ rõ tỷ giá trên thị trường chứng khoán trong vài tuần tới, vốn từng là quá khứ với anh, anh hẳn có thể thu lợi cực lớn bằng cách sử dụng khoản tích lũy của mình. Nhưng chẳng làm gì anh chán bằng thị trường chứng khoán phố Wall cùng các chỉ số của nó.

- Anh không hề nghe lấy một từ em nói. Em có thể biết anh đang nghĩ gì không?

- Em vừa mới nói với anh về Licorice, một trong những con ngựa mà em yêu nhất, đang bị viêm gân rất tồi tệ và em e rằng đây là những ngày cuối cùng nó phục vụ trong lực lượng cảnh sát cưỡi ngựa; em cũng đã nói rõ rằng viên sĩ quan… ôi anh quên béng mất tên anh ta rồi… tóm lại là, tay kỵ sĩ sẽ không an tâm nếu như phải loại trừ con nghẽo của mình.

Valérie sững sờ nhìn Andrew mà không nói năng gì.

- Cái gì vậy, Andrew lên tiếng hỏi? Đó chẳng phải là những gì em vừa nói đó sao?

- Không, đó không phải là những gì em vừa nói với anh mà chính xác là những gì em sắp sửa nói với anh đấy. Chuyện gì xảy đến với anh ngày hôm nay vậy, anh đã nuốt trọn quả cầu pha lê thay vì bữa sáng à?

Andrew gượng cười.

- Có lẽ em hơi đãng trí hơn em nghĩ rồi, anh chỉ có mỗi việc là nhắc lại lời em nói mà. Sao em có thể nghĩ là anh biết tất thảy những điều đó?

- Đó chính xác là câu mà em đang muốn hỏi anh đây!

- Có lẽ em đã nghĩ về chuyện đó quá nhiều đến nỗi anh có thể nghe thấy ngay cả trước khi em cất tiếng, điều đó chứng tỏ rằng chúng ta quả là có thần giao cách cảm, vừa nói anh vừa mỉm cười quyến rũ.

- Anh đã gọi đến văn phòng em, anh gặp Sam và anh đã tra hỏi anh ta.

- Anh không hề biết gã Sam nào và anh thề với em là anh không hề gọi tới văn phòng em.

- Đó là trợ lý của em.

- Em thấy đó, anh chẳng hề có quả cầu pha lê nào, anh cứ tưởng anh ta tên là John hay gì gì đó đại loại thế. Chúng ta có thể chuyển chủ đề khác được không? Andrew gợi ý.

- Thế còn anh, ngày hôm nay của anh thế nào? Câu hỏi này khiến Andrew chìm sâu vào dòng suy nghĩ.

Anh đã chết trong khi chạy bộ tập thể dục buổi sáng, rồi lại thức dậy sau đó một chút ở cách nơi bị sát hại khoảng tầm một dặm, và rồi còn ngạc nhiên hơn nữa là vào thời điểm cách ngày bị tấn công những hai tháng. Kể từ đó, anh sống lại ngày hôm nay, gần giống như cái ngày mà anh đã trải qua trong quá khứ.

- Chuyện dài lắm, anh đáp ngắn gọn, ngày của anh dài lắm, có thể nói rằng anh cảm thấy mình đang trải qua ngày này lần thứ hai!

*


Sáng hôm sau, Andrew chỉ có một mình trong thang máy cùng nữ tổng biên tập. Cô đứng ngay sau anh, nhưng qua ánh phản chiếu từ cửa thang máy anh có thể nhìn thấy cô đang quan sát anh vẻ rất lạ lùng, cô nhìn theo kiểu người ta chăm chú quan sát bạn trước khi thông báo cho bạn một tin xấu. Anh đợi một lúc rồi bắt đầu mỉm cười.

- À này, anh nói như thể mình đang tiếp tục cuộc trò chuyện dang dở, trước khi mà gã xuẩn ngốc Olson kịp đi mách lẻo, tôi đã cho hắn một cú bạt tai ngay trước khi tan sở làm vào tối qua.

- Anh đã làm gì cơ? Olivia thốt lên.

- Tôi nghĩ là cô đã nghe được chính xác đó. Thành thực mà nói, tôi nghĩ rằng cô đã biết rõ chuyện này rồi.

- Thế sao anh lại làm chuyện đó?

- Chẳng có gì liên quan đến tòa soạn cả, cô cứ an tâm, và nếu như tay u mê kia có khởi kiện thì tôi đảm bảo mình sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm.

Olivia nhấn nút tạm dừng rồi ấn nút xuống tầng trệt, thang máy dừng khựng lại rồi lao xuống dưới.

- Chúng ta đi đâu vậy? Andrew hỏi.

- Đi uống cà phê.

- Nếu là cà phê thì tôi sẽ mời cô, không bàn cãi gì cả, Andrew đáp trong lúc cửa thang máy mở ra.

Họ ngồi vào bàn trong quầy bán cà phê. Andrew đi lấy hai cốc cà phê mocaccino và tranh thủ mua một chiếc bánh sừng bò kẹp giăm bông.

- Tính anh mọi khi đâu có thế, Olivia Stern lên tiếng.

- Đó chỉ là một cái tát thôi, có quan trọng gì đâu, đáng đời hắn ta.

Olivia nhìn anh rồi đến lượt cô bắt đầu mỉm cười.

- Tôi nói điều gì buồn cười lắm hả? Andrew hỏi.

- Lẽ ra tôi phải giảng bài đạo đức cho anh, phải nói với anh rằng những hành động như vậy là không thể chấp nhận nổi và có thể anh sẽ phải chịu phạt đình chỉ công tác một thời gian, nếu không muốn nói là bị đuổi việc, nhưng tôi không thể làm như vậy.

- Vậy điều gì ngăn cản cô?

- Vì tôi cũng muốn cho tên Olson đó một cái tát hệt như thế.

Andrew tránh không đưa ra bất cứ lời bình luận nào và Olivia lại tiếp tục liền ngay sau đó.

- Tôi đã đọc hết ghi chép của anh, tốt lắm, nhưng chưa đủ. Để có thể công bố được câu chuyện của anh, tôi cần thứ gì đó thật chi tiết cụ thể, những lời chứng không thể bác bỏ cũng như các bằng chứng… tôi ngờ là anh đã cố tình tiết giảm trong bài viết của mình.

- Sao tôi lại phải làm thế chứ?

- Bởi vì anh đang vớ được một mẻ cực lớn và anh không muốn tiết lộ tất cả cho tôi vào thời điểm này.

- Cô gán cho tôi cái ý định kỳ cục quá.

- Tôi đã học được cách hiểu anh, Andrew à. Có đi có lại, tôi chấp thuận đề nghị của anh, anh sẽ quay lại Argentina, nhưng để tôi xác nhận việc bao trọn chi phí cho anh thì anh sẽ phải thỏa mãn trí tò mò của tôi. Anh đã lần ra dấu vết của người đàn ông đó, đúng không nào?

Andrew nhìn thật chăm chú sếp mình trong giây lát. Kể từ khi dấn thân vào cái nghề này, anh đã học được cách không nên tin tưởng bất cứ ai. Nhưng anh biết rằng nếu mình không tiết lộ thứ gì đó, Olivia sẽ không để anh quay trở lại Buenos Aires, và như cô đã từng tiên đoán, vào hồi đầu tháng Năm, anh còn lâu mới kết thúc được cuộc điều tra của mình.

- Tôi nghĩ là mình đang đi đúng hướng, anh vừa đặt tách cà phê xuống bàn vừa nhượng bộ.

- Và như các ghi chép của anh đã ám chỉ, anh nghi ngờ hắn ta có tham gia hành vi phi pháp này chứ?

- Rất khó có thể khẳng định bất cứ điều gì. Có rất nhiều người bị liên lụy trong những vụ việc như thế này, và để cho ai đó mở miệng quả chẳng phải là chuyện dễ dàng. Đó vẫn còn là một chủ đề nhức nhối đối với phần lớn người dân Argentina. Vì rằng chúng ta đang tâm sự nên tôi có thể biết tại sao cô lại thiết tha cuộc điều tra này đến vậy không?

Olivia Stern nhìn phóng viên của mình chằm chằm.

- Anh đã tìm ra hắn ta đúng không nào? Anh đã tóm được Ortiz đúng không?

- Cũng có thể nói là như vậy… nhưng tôi cũng đồng tình với cô, tôi vẫn còn chưa có đủ cơ sở để có thể cho in câu chuyện này, và chính vì vậy mà tôi cần phải quay trở lại đó. Cô có đồng ý với tôi về việc cô vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi không…

Olivia liền đứng bật dậy rồi ra hiệu rằng anh có thể kết thúc cái bánh của mình một mình.

- Đó là ưu tiên tuyệt đối của anh, Andrew à, tôi yêu cầu anh phải dốc toàn bộ một trăm phần trăm sức lực cho vụ này. Anh có một tháng không hơn không kém. Andrew nhìn tổng biên tập rời khỏi quán cà phê. Hai luồng suy nghĩ ào đến choán ngợp tâm trí anh. Anh hoàn toàn chẳng quan tâm đến những lời đe dọa của cô ta vì biết đích xác rằng mình sẽ lại quay trở lại Buenos Aires vào cuối tháng và anh sẽ đưa cuộc điều tra đi đến hồi kết đúng hạn. Trong cuộc trò chuyện vừa rồi, Olivia không hề cho anh thời gian để phản kháng và anh đã phải suy nghĩ về điều này hai lần trước khi nói, đồng thời cũng liên tục tự vấn về điều cô xem như đã biết và điều cô vẫn còn chưa biết tới.

Và vì những lẽ đã rõ, anh không hề có chút ý niệm nào về chuyện mình đã đưa cho tổng biên tập xem những ghi chép của mình, cả trong cuộc đời hiện tại cũng như trong cuộc đời vốn đã kết thúc trên lối đi của công viên River Park. Mặt khác, anh chắc chắn trước kia mình chưa từng có cuộc trao đổi như thế này với cô.

Và trong lúc quay trở lại văn phòng, Andrew tự nhủ rằng có lẽ anh không nên tát Freddy Olson vào tối hôm trước. Từ giờ trở đi, anh phải thật cẩn thận để không làm thay đổi trình tự một số sự việc.

*


Andrew tranh thủ quãng thời gian nghỉ để đi bộ dọc đại lộ Madison và dừng lại trước quầy kính của một tiệm nữ trang. Tuy cũng không có nhiều tiền gì cho cam, nhưng lời cầu hôn của anh còn mãnh liệt hơn lần đầu tiên bội phần. Anh đã cảm thấy mình có đôi chút nực cười khi không thể tặng một món nữ trang nho nhỏ theo nghi lễ vào lúc anh quỳ gối xuống cầu hôn ở tiệm của Maurizio.

Anh bước vào cửa hàng rồi chăm chú ngắm nhìn các tủ kính. Anh phải chịu là đúng trước lẽ hiển nhiên, người ta đâu thể chơi đùa dễ dàng đến thế với trình tự các sự kiện. Cuộc sống có một trật tự nhất định không dễ gì đảo lộn. Anh nhận ra chiếc nhẫn mà Valérie đã chọn lúc họ cùng nhau tới mua trong số khoảng chục chiếc khác. Ấy thế mà Andrew không chút nghi ngờ về việc chuyện này không hề xảy ra ở tiệm kim hoàn này.

Nhưng anh nhớ rất rõ giá của chiếc nhẫn này. Chính vì thế mà khi tay bán nữ trang tìm cách làm cho anh tin rằng cần phải trả giá gấp đôi, Andrew đáp lại chắc nịch:

- Viên kim cương này nặng gần 0,95 carat, và dù rằng thoạt nhìn thì nó cũng khá là sáng đấy, nhưng đó là mẫu chế tác cũ rồi và nó bị lẫn khá nhiều tạp chất nên trị giá của nó không vượt quá phân nửa số mà ông vừa đòi tôi đâu.

Andrew chỉ việc nhắc lại nguyên si lời tay bán nữ trang trước đã giải thích khi anh mua chiếc nhẫn này cho Valérie. Anh còn nhớ như in phản ứng của vị hôn thê đã khiến anh xúc động sâu sắc. Anh chờ đợi cô sẽ chọn một viên đá có chất lượng tốt hơn, nhưng khi lồng chiếc nhẫn vào ngón tay, Valérie đã nói với người bán hàng rằng như thế này là quá đủ với cô.

- Thế nên tôi chỉ thấy có hai lời giải thích hợp lý mà thôi, Andrew tiếp tục. Hoặc là ông đã nhầm về thông số tham chiếu khi nhìn giấy ghi giá, tôi sẽ không chê trách gì ông đâu khi mà mấy cái chữ bé li ti và khó đọc như thế kia, hoặc là ông đang tìm cách lừa phỉnh tôi. Thật tiếc là chuyện này lại khiến tôi muốn viết một bài ngăn ngắn về những trò bịp của các tay chủ tiệm kim hoàn. Tôi đã nói với ông rằng tôi là phóng viên của tờ The New York Times chưa nhỉ?

Người bán hàng liền kiểm tra lại nhãn ghi giá, nhíu mày rồi thẹn thùng thông báo rằng ông ta quả thật đã nhầm, chiếc nhẫn này có giá trị đúng như giá mà Andrew đã trả.

Vụ mua bán đã được kết thúc theo đúng trình tự và Andrew trở ra đại lộ Madison với một món nữ trang nho nhỏ xinh xắn ở đáy túi áo veston.

Vụ mua bán thứ hai trong ngày là chiếc khóa số để anh khóa ngăn kéo bàn làm việc của mình lại.

Lần mua bán thứ ba là một cuốn sổ giả da có đai chun. Anh mua không phải cho những ghi chép liên quan đến bài báo của mình mà là một cuộc điều tra khác giờ đã là ưu tiên số một của anh: tìm ra, nhiều nhất là trong vòng năm mươi chín ngày, danh tính kẻ đã sát hại anh và ngăn không cho hắn đạt được mục đích.

Andrew bước vào Starbucks Coffee. Anh mua tạm thứ gì đó bỏ bụng rồi ngồi xuống một chiếc ghế bành da và bắt đầu suy nghĩ về tất cả những kẻ những muốn lấy mạng anh. Những suy nghĩ kiểu này khiến anh thấy khó chịu kinh khủng. Vậy là anh đã bỏ qua những gì trong cuộc sống của mình để tới mức phải tiến hành dạng “kiểm kê” kiểu này.

Anh ghi lại tên của Freddy Olson. Ta chẳng bao giờ biết một đồng nghiệp cùng phòng có thể thực sự làm những gì, cũng như sự ghen tỵ có thể dẫn đến đâu. Nhưng rồi Andrew thấy yên tâm ngay tức thì, Olson thực sự là một tay hèn nhát nhu nhược và hơn nữa cả hai chưa bao giờ thượng cẳng chân hạ cẳng tay trong cuộc đời trước kia.

Anh cũng nhận được những lá thư đe dọa ngay sau khi bài báo phanh phui vụ buôn bán trẻ em ở Trung Quốc được đăng. Bài báo của anh hẳn đã làm đảo lộn cuộc sống của rất nhiều gia đình Mỹ có liên quan đến vấn đề này.

Trẻ con thật thiêng liêng; tất thảy các bậc cha mẹ trên thế giới đều sẽ nói với bạn điều này, họ sẵn lòng làm tất cả để bảo vệ con cái mình, thậm chí là giết người.

Andrew tự hỏi điều chính bản thân mình sẽ làm nếu như anh nhận nuôi một đứa trẻ và có một tay nhà báo nào đó gán cho anh tội vô tình tiếp tay cho dạng hoạt động phi pháp này khi khẳng định rằng đứa trẻ mà anh nhận nuôi có thể đã bị cướp khỏi tay bố mẹ đẻ thật sự của chúng.

- Mình có lẽ sẽ hận đến tận cuối đời kẻ nào đã mở chiếc hộp Pandora[1] này ra, Andrew lẩm bẩm.

[1] Trong thần thoại Hy Lạp, chiếc hộp Pandora là chiếc hộp do các vị thần trên đỉnh núi Olympus đã tặng cho nàng Pandora – người phụ nữ đầu tiên đến thế giới loài người. Nàng Pandora đã được các vị thần dặn kỹ rằng không được mở chiếc hộp đó ra. Nhưng vì tò mò, Pandora đã mở chiếc hộp ra và những gì chứa trong chiếc hộp kỳ bí đó đã khiến cho tất cả những điều bất hạnh tràn ngập khắp thế gian: thiên tai, bệnh tật, chiến tranh…

Sẽ phải làm gì khi biết rằng sớm hay muộn đứa trẻ bạn nhận nuôi sẽ khám phá ra sự thật, khi mà sự thật giờ đây đã được đông đảo công luận biết đến? Cùng lúc làm tan vỡ trái tim của cả nó lẫn bạn khi đưa nó trở lại gia đình hợp pháp của nó ư? Sống trong dối trá và đợi cho đến khi nó bước sang tuổi trưởng thành, nó sẽ trách bạn đã nhắm mắt làm ngơ trước vụ buôn bán bất hợp pháp tồi tệ bậc nhất này ư?

Khi viết bài báo này, Andrew mới chỉ lường trước được số ít những hệ lụy của những phát hiện như thế này. Có bao nhiêu ông bố bà mẹ người Mỹ đã vì anh mà phải đắm chìm trong tình cảnh đau lòng đến xé ruột này? Nhưng chỉ có sự việc là đáng kể, nghề của anh là làm sáng tỏ sự thật; ta chẳng bao giờ có thể phán xét một sự vật hay một hiện tượng theo quan điểm của riêng mình cả, như bố anh vẫn từng nói.

Anh liền gạch tên Olson trong sổ rồi đánh dấu phải đọc lại ba lá thư nặc danh đe dọa lấy mạng mình.

Rồi anh nghĩ đến cuộc điều tra ở Argentina. Nền độc tài chuyên chế thống trị từ năm 1976 đến 1983 đã không ngần ngại cử những tay sát nhân ra ngoài biên giới để trừ khử những kẻ chống đối chế độ hay những ai có nguy cơ tố cáo các thủ đoạn phạm tội đó. Thời thế giờ đã thay đổi, nhưng một số phương pháp vẫn luôn ăn sâu bám rễ vĩnh viễn trong tâm trí những kẻ gàn dở nhất.

Vụ điều tra này hẳn đã gây phiền toái cho không chỉ một người. Giả thiết rằng một tay cựu quân nhân, một tay phụ trách ESMA[2], hay kẻ phụ trách một trong những trại bí mật nơi nạn nhân của các vụ mất tích cưỡng bức bị đưa đến đó để rồi bị tra tấn và sát hại, là có khả năng xảy ra, nếu không phải là khả dĩ.

[2] Viện Kỹ thuật Hàng hải trong chế độ độc tài cuối cùng đã che giấu một trong những nhà tù bí mật lớn nhất nước. (Chú thích của tác giả.)

Trong cuốn sổ tay kia, Andrew bắt đầu chép lại tên của tất cả những người mà anh từng phỏng vấn trong chuyến công tác đầu tiên. Vì những lý do hiển nhiên, các ghi chép trong chuyến đi thứ hai không hiển hiện trong đó. Khi trở lại Buenos Aires, anh sẽ chú ý để nêu cao cảnh giác hơn nữa.

- Vẫn như mọi khi thôi, mày lúc nào cũng chỉ nghĩ đến công việc và công việc, anh vừa khẽ giọng tự nhủ vừa lật từng trang trong sổ tay.

Thế còn tay bạn trai cũ của Valérie thì sao? Cô chưa từng nói gì về hắn ta, hai năm chung sống không phải là chuyện tầm phào. Một tay bị đá phắt một cái vì kẻ khác có thể trở nên hung hãn lắm chứ.

Nghĩ về tất cả những kẻ có thể muốn trừ khử mình khiến anh ăn mất cả ngon. Andrew đẩy đĩa thức ăn ra rồi đứng dậy.

Trên đường quay về văn phòng, Andrew xoay xoay món nữ trang nho nhỏ ở đáy túi mình, đồng thời gắng không xem xét tới, dù chỉ trong giây lát, giả thiết vừa mới lướt qua tâm trí anh.

Valérie sẽ không đời nào có khả năng thực hiện một hành vi kiểu này.

- Mi thực sự chắc về điều đó chứ? Lương tâm vừa thổi qua anh một luồng gió độc khiến máu anh đông cứng lại.

*


Thứ Năm của tuần đầu tiên kể từ khi anh sống lại – cụm từ này luôn làm anh khiếp sợ mỗi khi nhắc đến – Andrew, chưa bao giờ thấy việc trở lại Buenos Aires lại cấp thiết đến vậy, liền bắt tay ngay vào việc chuẩn bị thật kỹ lưỡng đến tận những chi tiết cuối cùng cho chuyến hành trình của mình. Cuối cùng anh cũng hủy ý định thay đổi khách sạn, bởi anh từng có những cuộc gặp gỡ mang tính chất quyết định với cuộc điều tra của mình ở đây.  

Cô gái phục vụ quầy bar, một cô Marisa nào đó, đã tin tưởng đưa cho anh địa chỉ một quán cà phê là nơi tụ tập thường xuyên của các cựu thành viên ERP, Lực lượng vũ trang cách mạng nhân dân, và các Montoneros từng sống sót qua một nơi giam giữ nào đó. Họ cũng chẳng đông đảo gì cho cam. Cô cũng liên hệ giúp anh một cuộc gặp gỡ với một trong những Bà mẹ của quảng trường tháng Năm, những người phụ nữ có con bị đặc nhiệm quân đội bắt đi và không bao giờ xuất hiện trở lại; những người phụ nữ bất chấp chế độ độc tài, đã sải bước trên vỉa hè của quảng trường tháng Năm trong nhiều năm ròng với tấm panô dán ảnh những người mất tích.

Marisa vô cùng khêu gợi và vẻ quyến rũ của cô không thể khiến Andrew dửng dưng. Quả nhiên vẻ đẹp của phụ nữ Argentina không hổ danh là một huyền thoại.

Simon đã gọi cho anh vào lúc 11h để rủ anh đi ăn trưa. Andrew không còn nhớ về cuộc gặp gỡ này nữa. Có thể trong lúc ăn anh sẽ nhớ lại cuộc trò chuyện giữa họ.

*


Ngay khi Simon thao thao kể với anh về người phụ nữ đã gọi cho mình ngày hôm trước – bạn anh từng gặp cô ta trong kỳ nghỉ thể thao mùa đông – Andrew liền nhớ ra rằng bữa ăn trưa này chẳng có gì quan trọng cả. Không biết đã bao nhiêu lần rồi, Simon luôn say đắm một cô nào đó vì ngoại hình nổi bật chứ không hẳn là vì trí tuệ của cô ta. Còn Andrew thì chỉ muốn nhanh nhanh chóng chóng quay trở lại với bài báo của mình, anh liền cắt ngang lời bạn nói và thẳng thừng tuyên bố rằng Simon đang đâm đầu vào ngõ cụt.

- Cậu đã kể rõ ràng với tớ rằng cô nàng sống ở Seattle và cô nàng ghé qua New York bốn ngày, đúng không nhỉ?

- Chính xác, chính tớ là người nàng chọn gọi điện để nhờ đưa nàng đi thăm phố phường, Simon đáp lại ngay tức thì, vẻ rạng ngời hạnh phúc hơn bao giờ hết.

- Tuần tới, chúng ta sẽ lại ngồi cùng nhau tại chính chiếc bàn này và cậu sẽ lại nói với tớ về tâm trạng cực kỳ điên tiết mà cậu đã tự chuốc lấy. Người đẹp tìm kiếm một thằng đần như cậu để đưa nàng đi chơi trong vòng ba ngày, để thanh toán mọi chi phí và cho nàng một mái nhà để ngủ. Buổi tối khi trở về nhà cậu, nàng sẽ viện cớ là mệt đến chết lên được và diễn với cậu cái vở em muốn lắm nhưng không đành lòng rồi ngủ khò ngay tức thì. Và toàn bộ phần thưởng chỉ là cậu có quyền hôn phớt lên má nàng vào ngày nàng khởi hành.

Simon há hốc mồm.

- Em muốn lắm nhưng không đành lòng là cái quái gì vậy?

- Cậu muốn tớ vẽ tranh miêu tả cho cậu chắc?

- Thế sao cậu lại biết tất cả chuyện đó?

- Tớ biết tuốt, thế thôi!

- Cậu đang ghen ăn tức ở thì có, thật đáng thương.

- Kỳ nghỉ Giáng sinh của cậu đã kết thúc được năm tháng rồi, vậy trong thời gian đó cậu có tin tức gì của nàng không?

- Không, nhưng rốt cuộc, cậu thấy đó, với khoảng cách giữa Seattle-New York…

- Tin tớ đi, nàng ta đã nhòm lại cuốn danh bạ địa chỉ và thả mối hú họa thôi, Simon thân mến của tớ à!

Andrew thanh toán tiền ăn. Cuộc chuyện trò này đã đưa anh về với kỳ nghỉ Giáng sinh và kỷ niệm về một sự việc từng xảy đến với anh vào ngày hôm sau đêm Giáng sinh, khi đó anh đã bị chiếc ô tô đang rời khỏi đồn cảnh sát trên phố Charles đâm phải. Tiến hành điều tra nghiệp vụ báo chí vốn là nghề của anh, nhưng một cuộc điều tra tội phạm lại đòi hỏi những khả năng đặc biệt hơn nữa. Sự giúp đỡ của một cảnh sát, ngay cả khi người đó không còn làm trong ngành, có thể trở nên vô cùng hữu ích với anh. Anh tìm trong sổ tay số điện thoại mà một thanh tra Pilguez nào đó đã ghi lại cho anh.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách