Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 13085|Trả lời: 140
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Lãng Mạn - Xuất Bản] Cuốn Theo Chiều Gió | Margaret Mitchell

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Đăng kí tác phẩm:
Tên tác phẩm: Cuốn theo chiều gió
Tên tác giả: Margaret Mitchell
Tên dịch giả: Dương Tường
Thể loại: Tiểu thuyết
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
Nguồn tác phẩm: vnthuquan.net


Cuốn theo chiều gió (Gone With the Wind) là tiểu thuyết rất nổi tiếng của tác giả Mỹ Margaret Mitchell, xuất bản năm 1936 và được giải Pulitzer năm 1937. Quyển tiểu thuyết này là một trong những cuốn sách được nhiều người biết đến nhất, và bộ phim phỏng theo nó phát hành năm 1939 đã trở thành phim Mỹ thu được nhiều tiền vé nhất và được một số giải Oscar kỷ lục.

Tác phẩm này kể câu chuyện của một người phụ nữ có cá tính mạnh mẽ ở miền nam Hoa Kỳ tên là Scarlett O'Hara và những khó nhọc mà nàng cùng với bạn bè, gia đình và các người yêu đã trải qua tại miền nam Hoa Kỳ trong Nội chiến Hoa Kỳ và Thời kì tái thiết. Đồng thời nó kể câu chuyện tình yêu kết tinh giữa Scarlett O'Hara và Rhett Butler.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 7-10-2011 22:38:14 | Chỉ xem của tác giả
Chương 1

Scarlett O Hara không đẹp, nhưng nam giới ít nhận ra điều đó mỗi khi bị cuốn hút bởi sự duyên dáng của nàng, như trường hợp hai anh em song sinh Tarleton. Khuôn mặt nàng là một sự kết hợp hài hoà giữa những đường nét kiều diễm của mẹ, người quý tộc miền duyên hải thuộc dòng dõi Pháp, và những góc cạnh thô kệch của người cha Ái Nhĩ Lan, da dẻ hồng hào. Tuy thế, đó là khuôn mặt ưa nhìn với cằm thon, hàm nở rộng. Đôi mắt xanh biếc của nàng được viền bởi những hàng mi dài rậm uốn cong vút. Bên trên đôi mắt đó là hai vệt mày chênh chếch vạch thành hai đường nghiêng đậm nét trên làn da trắng trong của hoa mộc lan- màu da mà phụ nữ miền Nam vô cùng quý trọng và cẩn thận giữ gìn bằng những chiếc nón rộng vành, mạng che mặt và bao tay để chống lại ánh nắng gay gắt của xứ Georgia.

Ngồi với Stuart và Brent Tarleton dưới bóng mát của mái hiên Tara, đồn điền của cha nàng, giữa một chiều nắng tháng Tư năm 1861, Scarlett là hiện thân của hình ảnh yêu kiều Chiếc áo mới bằng sa- tanh có điểm hoa xoè rộng mười một thước trên những viền đai, xứng hợp hoàn toàn với đôi giày da bê thuộc màu xanh mà cha nàng vừa mua từ Atlanta Chiếc áo làm nổi bật tột cùng cái vòng eo bốn mươi hai phân rưỡi, vòng eo thon mảnh nhứt của địa hạt xứ Georgia, và chiếc yếm bó sát vừa vặn để lộ bộ ngực tròn trịa của một thiếu nữ 16 tuổi ? Tuy nhiên, dẫu tà áo đã được khép kín quanh, dẫu mái tóc láng mịn đã được búi gọn đúng vẻ trang nghiêm, và dẫu hai bàn tay trắng nhỏ đã được xếp tréo trên đùi, Scarlett cũng không che giấu nổi con người thật sự của nàng trên khuôn mặt cố giữ nét đoan trang, đôi mắt màu lam vẫn không ngớt lóng lánh ánh nhiệt cuồng, bướng bỉnh và khát sống, tương phản rõ rệt với cái vẻ bề ngoài cố làm ra thuỳ mị. Phong cách của nàng là kết tinh những lời khuyên dạy của mẹ và kỷ luật nghiêm khắc của mammy, nhưng đôi mắt vẫn là mắt của riêng nàng.

Mỗi người một bên Scarlett, hai anh em sinh đôi nhàn nhã ngồi trên ghế, vừa nói cười, vừa lơ đãng nhìn ánh nắng chiếu xuyên hai ly rượu ngọt bạc hà to tướng, và hững hờ bắt tréo đôi chân dài mang giày ống cao tới gối, cuồn cuộn nhưng bắp thịt rắn chắc của người quen sống trên lưng ngựa. Cùng 19 tuổi, cùng cao 1m85, xương dài thịt chắc, hai anh em cùng giống nhau như hai bành bông vải, cũng những khuôn mặt sạm nắng, cũng tóc đỏ hoe, cũng ánh mắt tươi vui ngạo nghễ, cũng mặc một loại áo màu xanh và quần kỵ mã màu hột cải.

Bên ngoài, nắng chiều chiếu nghiêng xuống khoảnh sân, ném những tia sáng chói chang lên hàng cây dương đào với từng chùm hoa trắng trên bối cảnh xanh um. Ngựa của 2 anh em song sinh được cột ngoài mã lộ, 2 con cao lớn bộ lông hung đỏ không khác gì tóc chủ. Vơ vẩn quanh chân ngựa là một lũ chó mảnh khảnh, hung hăng, đang gầm gừ nhau, và bất cứ lúc nào cũng theo sát Stuart với Brent. Xa hơn 1 chút, dường như để ra điều quý phái, một con chó lông lốm đố đen nằm gác mõm lên hai chân trước, nhẫn nại đợi chủ trở về dùng bữa tối.

Giữa đàn chó, đôi ngựa và hai anh em song sinh nảy sinh 1 mối thân tình còn sâu đậm hơn cả mối tình của những kẻ luôn khắng khít bên nhau. Tất cả đều cuờng tráng, vô tư, lành lặn duyên dáng và dũng cảm, hai gã con trai cũng hung hăng như ngựa họ, hung hăng và nguy hiểm nhưng đồng thời cũng ngoan ngoãn với những ai khéo xử.

Mặc dầu đuợc sinh trưởng giữa cuộc sống dễ dãi ở đồn điền, được săn sóc hầu hạ từ lúc bé nhưng cả 3 khuôn mặt duới mái hiên không có gì uể oải hay mềm yếu. Họ vẫn có đủ nghị lực và sự mẫn tiệp của dân quê đã từng quen sống ngoài trời và không một mảy may bận trí bởi những điều nhạt nhẽo trong sách vở. Cuộc sống ở hạt Clay ton, miền Bắc Georgia hãy còn mới mẻ và có phần sống sượng so với trình độ ở các hạt Augusta, Savannah và Charleston. Người miền Nam kỳ cựu và nghiêm trang nhất thường nhìn dân sống ở cao nguyên Georgia với con mắt khinh thường, nhưng ở đây tại miền Bắc Georgia, vấn đề thiếu sót những điểm cầu kỳ trong nền giáo dục cổ điển chẳng có gì đáng cho là xấu hổ, miễn là người đàn ông có đủ khả năng để thực hiện những việc thích nghi. Và trồng bông vải, cuỡi ngựa hay bắn giỏi, khiêu vũ nhẹ nhàng, biết hầu chuyện nữ giới một cách lịch thiệp và biết uống ruợu như một khách hào hoa là tất cả những gì đáng kể.

Về các phương diện đó, hai anh em Tarleton tỏ ra xuất sắc, lại còn vượt bực hơn với sự bất lực rõ ràng về chuyện không thể thâu thập nổi bất cứ những gì chứa đựng trong sách vở. Gia đình họ quá giàu, nuôi nhiều ngựa và nhiều nô lệ hơn bất cứ ai trong toàn hạt, nhưng cả hai thì lại ít học hơn bất cứ người Cracker(người da trắng nghèo khổ ở miền Nam Hoa Kỳ) nào chung quanh.

Đó là lý do chánh yếu đã khiến cho Stuart và Brent nhàn hạ giết thì giờ ở cổng đồn điền Tara vào buổi chiều tháng Tư này. Họ vừa bị trục xuất ra khỏi Đại học Georgia, trường đại học thứ tư trong vòng 2 năm đã đuổi họ ra khỏi cửa, và anh em của họ là Tom và Boyd cũng bỏ học, cùng về, bởi vì họ không thể tiếp tục ở lại nơi đã từng thẳng tay xử tệ với hai anh em song sinh. Đối với Stuart và Brent thì lần bị đuổi học sau cùng này chỉ là một trò đùa, và Scarlett, kể từ khi rời khỏi nữ học xá Phayetteville, không buồn lật qua một trang sách nào nữa cả, cũng cho đó là một điều thú vị.

Nàng nói:

− Tôi biết 2 anh bất cần chuyện đuổi học, cả anh Tom cũng vậy. Nhưng chẳng biết anh Boyd sẽ ra sao? Anh ấy hiếu học, nhưng hai anh lại làm cho anh ấy lần lượt phải bỏ học ở Virginia, Alabama, South Carolina, và bây giờ tới Georgia. Cứ cái đà này, chắc chẳng bao giờ anh ấy tốt nghiệp đuợc.

Brent hững hờ:

− Ồ, có gì đâu . Anh ấy có thể học luật tại văn phòng thẩm phán Parmalee ở Phayetteville. Vả lại, chuyện cũng chẳng có gì quan trọng. Đằng nào thì bọn này cũng phải trở về trước khi hết học trình.

− Sao vậy ?

− Chiến tranh chớ còn sao nửa Cô bé khờ, chiến tranh sắp sửa bùng nổ bất cứ khi nào. Cô tưởng có đứa nào trong bọn này sẽ chịu đi học trong khi chiến tranh diễn ra, phải không?

Scarlett khó chịu:

− Các anh dư biết là không có chiến tranh mà chỉ nói cho có chuyện thôi. Nếu có thì tại sao anh Asley Quilkes và ba anh ấy nói với ba tôi là mấy ông đặc uỷ của mình tại Hoa Thịnh Đốn tuần tra đã đi tới một thoả hiệp với ông Lincoln về chánh sách Liên Bang. Vả lại, bọn Yankee quá sợ mình thì làm sao dám đánh. Nhứt định là không có chiến tranh đâu, tôi chán nghe chuyện đó lắm rồi.

Cả 2 anh em song sinh đều bất bình kêu lên dường như họ đã bị đánh lừa:

− Không có chiến tranh!

Và Stuart tiếp ngay:

− Có chớ, cưng ơi, nhứt định sắp có chiến tranh. Có lẽ bọn Yankee vẫn sợ mình, nhưng qua cái lối Đại tướng Beauregard nã đại bác đẩy bật chúng ra khỏi căn cứ Sumter, chúng bắt buộc sẽ phải đánh trả nếu không muốn cả thế giới coi chúng là những tên khiếp nhược. Tại sao, Liên bang...

Scarlett mím môi, bực tức:

− Nếu các anh nói tới "chiến tranh" một lần nữa, tôi sẽ vào nhà và đóng cửa lại ngay. Chưa bao giờ tôi chán nản tiếng nào hơn tiếng "chiến tranh" ngoại trừ tiếng "phân ly". Hết sáng tới trưa và tối, ba không ngớt nói chuyện chiến tranh, và bao nhiêu khách tới nhà cũng bô bô nói về chuyện căn cứ Sumter, về quyền lợi của các Tiểu bang và ông Abe Lincoln đến nổi tôi chán ngấy muốn hét lên. Rồi bọn con trai cũng nói vậy và nhắc chuyện bộ đội xưa cũ của họ. Cứ vậy mà mùa xuân này chẳng có một hội hè nào cho ra đám, bởi vì bọn con trai chẳng có gì để nói khác hơn. Tôi hết sức bằng lòng Georgia đã chờ đến qua lễ Giáng Sinh mới ly khai, nếu không thì mấy cuộc vui dịp Giáng Sinh đều hỏng cả. Nếu các anh lặp lại lần nữa tiếng "chiến tranh" là tôi vào nhà ngay.

Scarlett sẽ làm đúng như đã nói vì rằng nàng không thể chấp nhận được bất cứ một câu chuyện nào mà trong đó nàng không phải là chủ đề. Tuy vậy, nàng vẫn mỉm cười trong khi nói, cố làm cho đồng tiền ở má lúm sâu thêm, và chớp nhanh hàng mi đen rậm như cánh bướm. Đúng như nàng mong mỏi, cả hai đều thoả thích và vội vàng xin lỗi đã làm người đẹp mất vui. Họ không hề buồn phiền chút nào về việc nàng không thích thú nghe chuyện của mình. Chiến tranh là việc của đàn ông chớ không phải của nữ giới, và họ xem thái độ của nàng như một dấu hiệu hiển nhiên của nữ tính .

Sau khi đưa hai người bạn trai ra khỏi câu chuyện nhàm chán về chiến tranh, Scarlett kéo vấn đề trở lại hiện tình của họ.

− Hai anh bị đuổi học, bác gái có nói gì không?

Hai anh em sanh đôi làm ra lúng túng, nhớ lại thái độ của bà mẹ ba tháng trước khi họ bị trục xuất khỏi Đại học Virginia.
Stuart đáp:

− Ơ, bả chưa kịp nói gì cả. Tom và tụi này rời nhà lúc sáng sớm trước khi bả dậy, Tom thì đi qua chơi bên gia đình Phontaine còn tụi nầy đi thẳng lại đây.

− Đêm qua, lúc mấy anh về tới, bác cũng không nói gì sao?

− Đêm qua, tụi nầy gặp vận may. Ngay trước khi bọn nầy về con ngựa giống mà má đặt mua ở Kentucky tháng trước được đưa tới, và cả nhà náo động lên. Đúng là con ngựa phi thường, Scarlett. Cô phải nói với ba cô qua xem cho biết... dọc đường nó cắn thằng nài và đạp nhầu hai thằng hắc nô mà má sai ra đón ở ga xe lửa Jonesboro. Và ngay trước khi bọn nầy về tới, nó đã phá tan hoang tàu ngựa và suýt giết chết con Straquberry, con ngựa nòi già của má. Lúc tụi nầy về tới, má đang ở ngoài tàu ngựa với cả một bịch đường để nhử nó và đã thành công không mấy khó. Mấy đứa hắc nô thì đeo cứng trên xà tàu ngựa, mắt đứng tròng, bọn nó sợ dữ lắm, còn má thì nhỏ to bên tai con thú làm như là bạn cũ. Trong khi đó, con ngựa đứng yên ăn đường của bà già đút cho. Chưa có ai trị ngựa bằng má. Và vừa thấy mặt tụi nầy, má hét lớn : "Trời ơi! Bốn đứa mày lại về nhà làm gì nữa đây? Tụi bây còn độc hại hơn bịnh dịch ở bên Ai cập!". Vậy là con ngựa bắt đầu khịt khịt và chồm lên. Bà già lại hét : "Đi hết ngay! Bộ tụi bây không thấy con ngựa cưng của tao bực mình đó sao? Sáng mai tao sẽ hỏi tội cả lũ". Không chần chờ gì nữa, cả bọn đi ngủ, và sáng nay, tụi nầy đi sớm trước khi bà già thức dậy, để anh Boyd ở lại xoay xở .

− Theo các anh thì bác gái có đánh anh Boyd không?

Cũng như tất cả những người khác trong hạt, Scarlett không lạ gì chuyện bà Tarleton nhỏ thó thường trừng trị các con bà bằng cách dùng roi ngựa quất tưới vào lưng họ mỗi khi nhận thấy đó là điều hữu hiệu nhứt.

Beatrice Tarleton là một phụ nữ luôn luôn bận rộn nhứt, dưới tay bà chẳng những có trọn một đồn điền bông vải rộng lớn, cả trăm hắc nô và 8 đứa con, lại còn thêm cả một trại nuôi ngựa to nhứt xứ. Là người nóng tánh, bà rất dễ nổi cơn thịnh nộ với những chuyện xằng bậy thường xuyên của 4 cậu con trai, và cho rằng thỉnh thoảng nện cho họ một trận đòn cũng chẳng có gì tai hại, mặc dầu đối với ngựa và bọn hắc nô, bà tuyệt đối cấm bất cứ ai sử dụng roi vọt.

Stuart kiêu hãnh với chiều cao hơn một thước tám của mình:

− Nhứt định là bà già không đánh anh Boyd. Chưa bao giờ anh Boyd bị đòn nhiều cả bởi vì anh là con trưởng mà cũng là đứa đẹt nhứt trong bọn. Bởi vậy tụi này mới để ảnh ở lại để nói rõ cho bà già hiểu. Thiên địa ơi, đáng lẽ má đừng đánh tụi nầy nữa mới phải. Hai đứa nầy đã 19 tuổi rồi và anh Tom cũng 21 tuổi, vậy mà bà làm như cả đám mới lên sáu.

− Ngày mai bác gái có cỡi con ngựa mới đi dự dã yến bên gia đình Quilkes không?

− Bà già tính vậy nhưng ba nói là nguy hiểm lắm. Dầu sao thì bọn con gái cũng phải đi dự tiệc như một mệnh phụ, phải đi bằng xe đàng hoàng.

− Mong sao ngày mai đừng mưa. Suốt cả tuần, gần như ngày nào cũng có mưa. Chẳng có gì chán hơn là một dạ yến lại biến thành một bữa tiệc trong nhà.

Stuart làm ra vẻ thông thạo:

− Không có mưa đâu và trời sẽ ấm như tiết tháng sáu. Nhìn mặt trời lặn kia thì biết. Tôi chưa thấy có mặt trời nào đỏ rạng như vậy bao giờ. Muốn biết thời tiết, chỉ có việc xem mặt trời lặn ra sao.

Họ cùng nhìn ra những mẫu đất mới cày thuộc đồn điền bông vải của ông Gerald dài mút mắt tới tận chân trời đỏ thẫm . Phía sau như!ng ngọn đồi bên kia sông Phlink mặt trời đang lặn từ từ giữa một vùng sắc đỏ tía trộn lẫn vào nhau, sức nóng của một ngày tháng tư cũng trở nên mát dịu .

Tiết xuân đã đến sớm hơn thường lệ với những trận mưa rào ấm áp, với những chùm hoa hồng đào nở rộ và những cành dương đào rải trắng sao hoa trên mặt đầm, u tối ở dãy đồi xa. Mặt đất đã cày gần xong và vầng hào quang đỏ thắm của mặt trời tưới nhuộm những luống cày mới trở của miền đất đỏ xứ Georgia. Đất mới còn ẩm ướt phơi mình như lắng đợi hột bông vải gieo vào, trổ sắc hồng trên đầu luống cát và biến thành màu châu sa, màu đỏ thắm và nâu sậm trong lòng luống. Ngôi nhà sở bằng gạch tô vôi trắng trông như một hòn đảo giữa một biển son đang chuyển động, một vùng biển với những đợt sóng xoáy lốc, xoay tròn bỗng dưng như dừng sửng lại giữa lúc các đầu sóng màu hồng vừa vỗ tới bờ. Ở đây không có loại đường cày thẳng tắp như thường thấy ở những cánh đồng đất sét vàng thuộc vùng bình nguyên trung bộ Georgia hay ở vùng đất đen lầy phù sa miền duyên hải. Vùng đồi núi thoai thoải miền Bắc Georgia là nơi lưỡi cày vạch thành hàng triệu đường cong để giữ cho đất màu mỡ khỏi chuồi tuột xuống lòng sông rạch.

Đó là một vùng đất đỏ hoang sơ, đỏ như màu máu, sau các cơn mưa phai như gạch nung vào mùa nắng, và đó cũng là vùng sản xuất loại bông vải tốt nhứt thế giới. Đó là một miền gồm toàn những ngôi nhà trắng xinh xinh, những cánh đồng lặng lẽ và những dòng nước lờ đờ, nhưng đó cũng là một miền có lắm sự tương phản giữa ánh nắng chói chan và bóng mát dày đặc. Những vùng trống trải của đồn điền với hàng dặm dài bông vải ngửa mặt chào đón ánh mặt trời ấm áp, hiền hoà và sung mãn . Nhưng chung quanh đồn điền là những khu rừng già, đầy bóng tối và tươi mát dù dưới sức nắng của những ngày oi ả nhứt, những khu rừng huyền bí với đôi chút âm hiểm, cùng ngàn thông xao động với tất cả nhẫn nại muôn đời dường như lúc nào cũng hắt ra những lời đe doạ theo gió thoảng: "Ta đã từng chiếm giữ các người. Hãy coi chừng! Hãy coi chừng! Ta vẫn có thể tái chiếm những gì đã mất".

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 7-10-2011 22:44:20 | Chỉ xem của tác giả
Cuốn theo chiều gió - Chương 1
-----------------------------------------

Ngồi dưới mái hiên, cả ba người trẻ tuổi vẳng nghe tiếng chân thú nện trên mặt đất, tiếng khua leng keng của yên cương và tiếng cười the thé vô tư của đám hắc nô trên đường từ đồng áng trở về. Từ trong nhà thoảng vọng ra tiếng nói nhẹ nhàng của mẹ Scarlett, bà Ellen O Hara, gọi đứa nữ tì da đen phụ trách việc mang giỏ đựng chìa khóa của bà. Giọng chát chúa trẻ con đáp lại: "Thưa bà, vâng", và có tiếng bước chân đi ra cửa sau, tiến lần về phòng xông khói nơi bà Ellen sắp sửa chia khẩu phần cho những nô lệ vừa về tới. Có tiếng khua tô dĩa và tiếng muỗng nỉa bằng bạc chạm nhau trong khi Pork, người hầu cận trung tín của Tara sắp đặt bữa ăn tối.

Nghe những tiếng động sau cùng đó, bọn Stuart biết là đã tới giờ phải về nhà. Nhưng họ lại ngán phải chạm trán với bà mẹ nên cứ dần dà mãi với hy vọng sẽ được Scarlett mời dùng bữa.

Brent nói:

− Nầy, Scarlett. Tôi muốn nói chuyện ngày mai. Không phải vì tụi nầy ở xa, chẳng hay biết gì về buổi dạ yến và cuộc khiêu vũ mà bọn nầy không có quyền nhảy thật nhiều đêm mai. Chắc cô chưa hứa với bọn họ, phải không?

− Chưa sao được! Làm sao tôi biết trước là tất cả các anh cùng trở về? Không lẽ tôi phải giữ vai trò ngồi chơi xơi nước để đợi các anh.

Cả hai cùng cười phá lên:

− Cô mà ngồi chơi xơi nước à?

− Cưng ơi, cưng phải cho tôi được cùng nhảy bản luân vũ đầu tiên và dành cho Stu bản cuối cùng, và phải ngồi ăn tối chung với tụi nầy. Bọn mình sẽ ngồi ở bệ thang và bắt Mammy Jincy đoán số mạng.

− Tôi không thích những lời bói toán của Mammy Jincy đâu. Bà ấy bảo tôi sắp kết hôn với một anh chàng tóc đen huyền, râu mép cũng đen và dài sọc. Tôi không ưa mấy anh chàng tóc đen nổi.

Brent nhăn nhó:

− Như vậy là cưng ưa mấy thằng tóc đỏ, phải không? Nào, hứa với tụi nầy đi, hai bản luân vũ và bữa ăn tối.

Stuart chêm vào:

− Nếu chịu hứa, tụi nầy sẽ cho nghe một chuyện bí mật .

Scarlett kêu lên, tò mò như một đứa bé:

− Sao? Chuyện gì vậy?

− Có phải đó là chuyện mình mới nghe ở Atlanta ngày hôm qua không, Stu? Nếu là chuyện đó, mầy nhớ là tụi mình đã hứa không được nói lại .

− Ừ, cô Pitty có dặn vậy .

− Cô gì?

− Cô biết mà, đó là Pittypat Hamilton, cô ruột của Charles và Melanie Hamilton ở Atlanta, có họ với Ashley Quilkes.

− Biết rồi, và đó cũng là một bà gái già ngốc nghếch nhứt mà tôi chưa từng thấy trong đời.

− Ừ, hôm qua khi bọn nầy tới Atlanta đợi chuyến xe về nhà thì xe cô ấy đi ngang qua nhà ga và dừng lại nói chuyện với bọn nầy. Cô ấy cho biết là giữa cuộc khiêu vũ đêm mai người ta sẽ loan báo một lễ đính hôn.

Scarlett thất vọng:

− Tưởng gì chớ chuyện đó thì biết rồi. Chính thằng cháu đần độn của bà ta là Charlie Hamilton sẽ đính hôn với con Honey Quilkes. Mấy năm nay ai cũng biết là bọn nó rồi có ngày sẽ lấy nhau, mặc dầu Charles không mấy sốt sắng về chuyện đó .

Brent hỏi:

− Cô cho là nó đần độn hả ? Giáng sinh năm rồi, chính cô đã để cho nó đeo dính một bên.

Scarlett thờ ơ nhún vai:

− Làm sao cản được? Trông y như một đứa lại cái.

Stuart ra chiều đắc thắng:

− Nhưng có phải là lễ hỏi của hắn đâu. Đây là chuyện của Ashley Quilkes và chị của thằng Charlie tức là cô Melanie.

Mặt Scarlett không đổi sắc nhưng môi nàng trắng lợt ra - giống như kẻ vừa lãnh một quả đấm bất ngờ, vừa giữa lúc kinh động vẫn chưa hiểu việc gì xảy ra - đó là khuôn mặt của nàng khi nhìn sững Stuart và anh chàng nầy không bao giờ bận tâm phân tách, cho rằng Scarlett chỉ quá ngạc nhiên thôi và cảm thấy vô cùng thích thú.

− Theo cô Pitty thì người ta muốn để sang năm mới loan báo vì Melly không được mạnh khoẻ, nhưng với tất cả những tin đồn dồn dập về chiến tranh, cả hai gia đình cũng nghĩ là nên cho thành hôn càng sớm càng tốt. Do đó mà có lời loan báo đêm mai giữa buổi tiệc. Rồi đó, Scarlett, tụi nầy đã tiết lộ hết rồi, bây giờ cô phải hứa cùng ngồi ăn chung với tụi nầy đi.

Scarlett trả lời như người máy:

− Vâng, tôi hứa.

− Và tất cả những bản luân vũ?

− Tất cả.

− Điệu quá! Chắc chắn là đám con trai khác nhảy dựng lên mà tức.

Brent nói:

− Có tức cũng chẳng sao. Chỉ hai đứa mình là cũng đủ đối phó rồi. Nầy, Scarlett, ngồi với tụi nầy luôn bữa dã yến sáng nữa nghe.

− Cái gì?

Stuart lặp lại lời đề nghị:

− Cố nhiên.

Hai anh em sanh đôi mặt sáng rỡ nhìn nhau nhưng không khỏi ngạc nhiên đôi chút . Mặc dầu vẫn tự xem mình là những kẻ thích hợp nhứt với Scarlett nhưng chưa bao giờ họ được hưởng những ân huệ dễ dàng thế cả . Thông thường nàng để cho họ van lơn, nài nỉ hết lời trong khi nàng vẫn lửng lơ chẳng chịu chẳng không, cười cợt khi họ dỗi hờn và lạnh lùng khi họ phát cáu. Và bây giờ nàng đã hiển nhiên hứa dành cho họ trọn ngày mai - ngồi bên cạnh nhau trong dã yến, cùng nhảy tất cả các bản luân vũ (và họ sẽ làm mọi cách cho tất cả các bản nhạc đều toàn một điệu luân vũ) và tiếp họ giữa tiệc tối. Vậy là bị đuổi khỏi Đại học cũng chẳng có gì đáng tiếc.

Với sự thành công bất ngờ, cả hai phấn khởi thêm, họ tiếp tục lân la, bàn đến chuyện dã yến và buổi dạ vũ, nói về Ashley Quilkes và Melanie Hamilton, thỉnh thoảng ngắt lời nhau, bông đùa và cười cợt với nhau nhưng cũng không quên nói gần nói xa một cách lộ liễu về ước vọng được mời ở lại ăn tối . Cứ thế mãi một lúc khá lâu, họ mới nhận ra là Scarlett gần như chẳng nói năng gì cả . Không khí đã có phần đổi khác . Hai anh em song sanh chẳng biết rõ vì sao, nhưng biết rõ là cảm giác hăng say của họ đã tan biến cùng với buổi chiều . Scarlett dường như không chú ý mấy đến những gì họ nói, mặc dầu vẫn ứng đáp phải lẽ . Mơ hồ nhận thấy có một điều gì mà họ không thẻ hiểu ra đã làm ngăn trở và gây chán nản, cả hai cố ở nán thêm lúc nữa, rồi miễn cưỡng đứng lên nhìn đồng hồ tay.

Mặt trời đã xuống thấp trên các cánh đồng mới cày và hàng cây cao bên kia dòng sông đã biến thành những bóng đen. Chim én liệng mau như những lằn tên ngang qua sông, từng đàn gà vịt, gà tây vênh váo và núng na núng nính từ ngoài đồng kéo trở về trong hỗn loạn.

Stuart gọi to: "Jeems!" Và chỉ trong khoảnh khắc, một gã da đen cao lớn trạc tuổi họ hộc tốc chạy vòng ngôi nhà tiến thẳng ra nơi cột ngựa. Jeems là người hầu riêng của hai anh em, và cũng như đàn chó, gã theo sát chủ khắp nơi. Gã cũng là bạn nô đùa của họ từ thuở nhỏ, và được giao đứt cho họ khi cả hai ăn mừng sinh nhật từ năm mười tuổi.

Vừa thấy bóng anh chàng da đen, đàn chó nằm trong bụi cỏ vụt đứng lên ngóng chủ. Hai anh em Tartleton nghiêng mình chào, bắt tay và cho Scarlett biết là họ sẽ sang nhà Ashley vào sáng sớm để chờ nàng. Rồi cả hai cũng phóng bước ra nơi cột ngựa, nhảy phóc lên yên, phía sau anh chàng Jeems theo bên gót. Họ cho ngựa sải mau trên con đường đổ dốc giữa hai hàng cây bách hương, vừa phất nón vừa hò hét vói lại Scarlett.

Sau khi cho ngựa rẽ qua một khúc quanh trên con đường đầy bụi vừa khuất khỏi Tara, Brent cho ngựa dừng trước lùm cây dương đào, Stuart cũng dừng theo, và gã da đen cho ngựa đứng lại cách mấy bước phía sau. Được nới lỏng dây cương, mấy con thú vươn cổ gặm cỏ non mùa xuân, và đàn chó lúc nào cũng kiên nhẫn, lại cùng nằm bệt xuống mặt đất đầy bụi đỏ mịn màng, ngước nhìn một cách thèm muốn những con én liệng vòng trong buổi hoàng hôn, Khuôn mặt chất phát của Brent hiện rõ nét băn khoăn với đôi chút bất bình .

− Nầy, mầy có nghĩ rằng đáng lẽ con bé phải mời mình ở lại ăn không?

Stuart đáp:

− Tao cũng nghĩ vậy. Tao chờ cho nó lên tiếng nhưng nó chẳng nói, mầy thấy thế nào ?

− Tao không nghĩ gì cả. Có điều tao thấy đúng ra là nó phải mời mình. Dầu sao đây cũng là hôm đầu tiên bọn mình trở về và nó đã không gặp mình từ lâu rồi. Với lại bọn mình còn có cả khối chuyện để nói với nó.

− Theo tao thì ngay lúc mình vừa tới nó mừng ra mặt.

− Tao cũng thấy vậy.

− Và rồi, khoảng nửa giờ sau, nó bỗng lặng thinh làm như bị nhức đầu.

− Tao cũng nhận thấy như vậy nhưng lúc đó thì không để ý. Theo mầy thì con nhỏ bị chuyện gì?

− Có biết gì đâu. Bộ mầy tưởng bọn mình có nói gì xúc phạm đến nó hả?

Cả hai cùng suy nghĩ giây lát.

− Tao cũng không thể nghĩ ra gì cả. Vả lại, mỗi lần Scarlett nổi sùng là ai cũng thấy rõ ngay. Nó không thèm tự kềm chế giống như một vài đứa khác.

− Đúng, nhờ vậy mà tao thích nó. Lúc nổi giận là nó nói toạc hết ra, không làm ra vẻ lạnh nhạt hay oán hận. Chắc có lẽ mình đã làm hoặc nói gì đó khiến nó không nói chuyện nữa và trông như bị bệnh. Tao dám chắc là con nhỏ rất hài lòng khi thấy bọn mình tới và đã có ý định mời bọn mình ăn tối.

− Chẳng biết là có phải tại tụi mình bị đuổi học không?

− Trời, không phải đâu. Đừng ngu quá vậy. Nó vẫn cười giỡn khi bọn mình cho biết. Chẳng những thế, nó cũng bất cần chuyện học hành không khác bọn mình.

Brent quay người lại, gọi:

− Jeems!

− Dạ.

− Mầy có nghe tụi tao nói chuyện với Scarlett không?

− Dạ không, thưa cậu B ent. Sao cậu cho rằng tôi dám dọ dẫm người da trắng?

− Trời ơi, dọ dẫm! Bọn da đen tụi mầy thì có chuyện gì là không biết . Nầy, thằng láo, chính mắt tao thấy mầy núp gần bên thềm trong cụm lài bên cạnh bờ tường . Đâu, mầy cho biết coi bọn tao có nói gì làm phật ý cô Scarlett... hay làm cho cô ấy tức giận không?

Thế là gã Jeems bỏ luôn màn kịch tỏ ra không hề nghe lén. Gã nhíu đôi mày đen sậm:

− Dạ không, tôi không nghe hai cậu nói gì làm cho cô giận. Cô ấy hết sức bằng lòng khi gặp lại hai cậu, cô nói huyên thuyên như con chim, nhưng tới khi hai cậu kể chuyện cậu Ashley và cô Melly Hamilton thì cô ngồi sửng làm như con chim nhỏ nhìn thấy diều hâu bay trên trời.

Hai anh em song sinh nhìn nhau, gật đầu, nhưng chẳng hiểu ra sao cả.

Stuart lên tiếng trước:

− Thằng Jeems nói đúng. Nhưng tao cũng không hiểu tại sao. Ông ơi! Ashley có nghĩa gì với nó đâu, chỉ là một người bạn. Nó có mê gì thằng Ashley, chỉ có bọn mình là nó khoái.

Brent gật đầu:

− Mầy có nghĩ là có lẽ Ashley không cho nó biết trước chuyện loan báo đêm mai nên nó nổi giận. Đã là bạn cũ thì nó cần được biết trước khi mọi người đều hay. Con gái thì đứa nào cũng coi việc biết trước những chuyện đó là quan trọng.

− Ừ, có thể là như vậy. Nhưng có ăn thua gì khi người ta không cho hay trước. Đó là chuyện cần giữ kín để tạo một sự bất ngờ vui vẻ, và người đàn ông có quyền giữ riêng chuyện cưới hỏi của họ chớ, phải không? Bọn mình có lẽ cũng không biết nếu cô của Melly không nói ra. Nhưng phần Scarlett thì phải biết chuyện đó phải xảy ra. Từ nhiều năm nay ai cũng biết, dòng họ Quilkes và Hamilton luôn luôn gả cưới những người trong họ. Người nào cũng biết là Ashley sẽ cưới Melly một ngày nào đó, cũng như Honey Quilkes sắp kết hôn với em của Melly là thằng Charles.

− Thôi, tao chịu thua. Nhưng tao vẫn khó chịu vì con nhỏ không mời mình ở lại ăn tối. Tao thề là tao không muốn về nhà giờ này để nghe má tụng về chuyện bị đuổi học.

− Có lẽ giờ này anh Boyd đã làm dịu được bà già. Anh ấy già mồm lắm, lúc nào cũng có thể làm bà già nguôi giận.

− Đồng ý, nhưng Boyd phải mất nhiều thì giờ. Ảnh phải nói quanh co cho tới khi má không rõ là chuyện gì nữa cả và bảo ảnh bớt nói lại để giữ giọng trong khi thực tập làm luật sư. Nhưng tao lo là ảnh chưa tìm ra chỗ đúng lúc. Tao cá với mầy là má vẫn còn xúc động nhiều về con ngựa mới về, đến nỗi không nhận ra là bọn mình đã trở về . Rồi, tới tối nay khi ngồi vào bàn ăn, thấy anh Boyd... Và trước khi bữa ăn kết thúc, má vẫn hét ra lửa. Và có thể là tới 10 giờ đêm, trước khi anh Boyd nói cùng má là tụi mình chẳng đứa nào còn mặt mũi nếu cứ ở lại trường, sau khi ông Viện trưởng mắng tao và mầy xối xả. Và cho tới nửa đêm, anh Boyd mới có thể chọc tức được má khiến má giận ông Viện trưởng, và hỏi anh Boyd sao không bắn ông ta. Không, tụi mình không thể về nhà trước nửa đêm.

Hai anh em buồn bã nhìn nhau. Họ bất chấp ngựa hoang, họ dám dây huyên náo và bất bình cho những người láng giềng, nhưng họ lại kinh hoảng trước lời lẽ nhiếc móc của người mẹ tóc đỏ, cũng như ngọn roi ngựa mà bà không ngần ngại quất vào mông họ.

Brent đề nghị:

− Hay là mình sang nhà Quilkes. Ashley và bọn con gái chắc sẵn sàng mời ăn.

Stuart vẫn băn khoăn:

− Không, đừng qua đó . Họ còn bận lo các món ăn trong buổi dã yến ngày mai, vả lại...

Brent nói mau:

− Ồ, tao quên mất. Thôi, không qua đó .

Họ thúc ngựa và đi bên nhau trong yên lặng một lúc lâu, một thoáng ngại ngùng hiện ra trên đôi má nâu sậm của Stuart. Hè năm rồi, Stuart vẫn theo tán tỉnh India Quilkes với sự đồng ý của gia đình hai bên và của cả toàn hạt. Người trong hạt cho rằng tính tình trầm lặng của India có thể sẽ làm cho anh chàng bớt nóng nảy hơn. Tất cả đều mong như thế với bất cứ giá nào. Stuart có lẽ cũng thành hôn rồi nếu Brent không bất mãn. Brent cũng mến India nhưng cho rằng cô ta quá tầm thường và nhạt nhẽo, và anh ta không thể yêu India được chỉ vì còn muốn chơi thân với Stuart. Đó là lần đầu tiên, hai anh em bất đồng ý kiến, và Brent đã giận Stuart sao lại để mắt tới một thiếu nữ mà anh ta cho là chẳng có điểm nào đặc sắc.

Rồi, mùa hạ năm rồi, tại một cuộc hội thảo chính trị giữa khu rừng sồi ở Jonesboro, cả hai bỗng cùng để ý tới Scarlett O Hara. Họ đã biết nàng từ nhiều năm, và ngay từ lúc bé, Scarlett đã là bạn thân thiết nhứt của họ vì nàng cũng biết cỡi ngựa và trèo cây không kém họ. Nhưng bây giờ, trước sự ngạc nhiên của họ, Scarlett đã biến thành một thiếu nữ thanh lịch đã tới tuổi trưởng thành, và là một thiếu nữ kiều diễm nhứt đời.

Lần đầu tiên họ để ý tới ánh mắt xanh biếc và linh hoạt của nàng cười, đến đôi tay và đôi chân nhỏ nhắn cùng vùng eo thon. Những nhận định của họ khiến Scarlett cười dòn tan, và tự nghĩ rằng nàng đã coi hai anh em mình như những kẻ xuất sắc, họ đâm ra tự đánh giá cao hơn.

Đó là ngày đáng ghi nhớ nhứt trong đời hai anh em song sinh. Về sau, mỗi lần nhắc lại, họ cứ mãi tự hỏi tại sao không nhận ra bóng sắc của Scarlett sớm hơn. Chẳng bao giờ họ tìm ra một câu trả lời chính xác, bởi vì câu trả lời đó, Scarlett chẳng nói ra, bởi vì hôm đó, nàng quyết tâm làm hai anh em chú ý tới mình . Nàng tự nguyện là không bao giờ chấp nhận bất cứ một người đàn ông nào yêu một phụ nữ khác hơn mình, và khi thấy sự thân mật của Stuart và India tại buổi hội thảo, nàng không chịu nổi. Không riêng với Stuart, nàng còn quăng lưới cả Brent với tất cả quyết tâm làm cho họ mê mệt mình.

Và bây giờ, cả hai đều đã yêu nàng, India và Litty Munroe ở Lovejoy, cô gái mà Brent đã từng theo ve vãn, đều bị quên lãng. Rồi người thua cuộc sẽ làm gì, nếu Scarlett chọn một trong hai anh em, đó là điều mà họ không bao giờ nghĩ tới. Họ chỉ có việc phải qua cầu khi chiếc cầu hiện ra trước mắt. Ngay hiện thời, họ cũng hài lòng như nhau vì cùng chấm một cô gái, bởi vì giữa họ không hề có vấn đề ganh tị. Tình trạng đó khiến cho người láng giềng vô cùng thích thú, nhưng lại gây phiền muộn cho bà mẹ vì bà không thích Scarlett.

Bà nói:

− Rồi bọn bây sẽ biết nếu con nhỏ quỉ quái đó lấy một trong hai đứa bây. Không chừng nó sẽ lấy cả hai và chừng đó, bọn bây chỉ có nước dọn qua Utah nếu bọn Mormons chịu chấp nhận - nhưng đó là điều còn nghi ngờ - Tất cả những cái gì làm cho tao buồn nhứt là có ngày tụi bây say mèm và nổi ghen với nhau vì cái bị thịt, khuôn mặt và hai con mắt xanh lè đó, rồi bắn giết nhau. Nhưng dầu sao, đó cũng không phải là một ý nghĩ xấu.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 7-10-2011 22:49:35 | Chỉ xem của tác giả
Cuốn theo chiều gió - Chương 1
-----------------------------------------

Từ sau ngày dự cuộc hội thảo, Stuart đâm ra ngượng ngùng mỗi khi đối diện với India. Tình trạng đó không phải do India phiền trách hay tỏ dấu bằng ánh mắt hay cử chỉ là đã biết rõ sự thay đổi đột ngột của anh ta rồi. Nàng vẫn tỏ ra quá thanh lịch. Nhưng Stuart thì vẫn có mặc cảm phạm tội và bối rối trước mặt nàng. Anh ta biết là chính mình đã làm cho India yêu mình và cô nàng vẫn còn yêu, do đó, anh ta tự thấy là mình không xứng đáng. Anh vẫn thương nàng sâu đậm và trọng nể nàng qua phong cách dịu dàng, qua trình độ học vấn và tất cả những đức tính quí giá của nàng. Nhưng khốn nỗi, nàng vẫn cứ tái mét và xoàng xĩnh mãi mãi bên cạnh bóng sắc tươi sáng và bản chất phong phú của Scarlett. Bất cứ lúc nào người ta cũng đọc được ý nghĩ của India một cách dễ dàng, nhưng với Scarlett thì khó mà đoán được chút gì. Chỉ bao nhiêu đó cũng làm cho đàn ông thú vị lắm rồi.

− Thôi, mình qua Cade Calvert ăn tối đi. Scarlett cho biết là Cathleen vừa từ Charleston về. Có thể cô ta biết thêm được chút ít tin tức về căn cứ Sumter.

− Cathleen thì chẳng biết gì đâu. Tao cá hai ăn là một con nhỏ cũng không biết có căn cứ nằm trong hải cảng ở đó, đừng nói là biết đến chuyện có đầy nhóc quân Yankee cho tới khi mình đẩy bật chúng đi. Tất cả những gì mà cô ta biết là những cuộc khiêu vũ đã được tham dự, và mấy thằng nhân tình vớ được.

− Đúng vậy, nhưng nghe nó bí ba bí bô cũng vui tai. Ngoài ra, mình còn có chỗ để ẩn trú chờ khi má đi ngủ.

− Được rồi. Tao thích Cathleen và muốn nghe nó nói về chuyện Caro Rhett cùng những người quen biết khác ở Charleston. Nhưng dầu có bị đày xuống địa ngục, tao cũng khó ngồi chung bàn ăn lần nữa với bà mẹ kế người Yankee của cô ta.

− Đừng nặng lời, Stuart, bà ta là người tốt.

− Tao có ác ý gì với bà ta đâu. Tao thương hại bà ta, nhưng tao không thích những kẻ làm cho mình thương hại họ. Bà ta, lúc nào cũng rối rít, săn đón, cố làm cho khách được thoải mái, cuối cùng chỉ nói và làm toàn những chuyện không phải chỗ . Bà ta làm tao muốn đứt thần kinh luôn. Và cho rằng người miền Nam toàn là những kẻ man rợ. Có lần bà ta nói với má như vậy. Bà ta sợ người Nam lắm. Hễ lúc nào mình tới là bà ta sợ điếng hồn. Trông bà ta không khác một con gà mái ốm đứng co ro trên ghế, mắt trợn trừng trắng dã, sẵn sàng kêu hoảng và đập cánh dầu chỉ với một tiếng động thật nhẹ.

− Mầy không nên trách bà ta. Chính mầy đã bắn vào chân thằng Cade.

− Hôm đó tao say quá, nếu không tao đâu có làm vậy . Mà thằng Cade có thù hận gì đâu. Cả Cathleen, Raiphord và ông Calvert cũng không nói gì . chỉ có cái bà mẹ ghẻ Yankee đó là la ầm lên, mắng tao là quân mọi rợ và cho rằng người lịch sự không thể nào sống yên được với người Nam kém văn minh.

− Hừ, mầy không thể trách bã . Bã là người Yankee, không quen với những hành vi mã thượng . Vả lại, dù sao thì mày cũng đã bắn thằng con ghẻ của bã.

− Mẹ kiếp, đó không phải là lý do để mắng chửi tao. Mày là con đẻ của má, nhưng má có la ầm ĩ vậy đâu khi mầy bị thằng Tony Phontaine bắn vào chân? Không, bà già chỉ cho mời lão bác sĩ Phontaine đến băng bó và còn hỏi cái gì đã làm cho thằng Tony bắn không trúng. Má lại đoán chừng vì rượu cho nên nó đã nhắm không trúng mục tiêu. Mầy có nhớ là thằng Tony Phontaine lúc đó giận vô kể không?

Cả hai anh em cùng cười vang dội.

Brent nói với tất cả tình thương mẹ:

− Má thật là cừ khôi. Mình có thể luôn luôn tin tưởng ở má để làm đúng và khỏi phải lúng túng trước mặt những kẻ khác.

− Đúng, nhưng đêm nay, lúc mình về, má vẫn thừa khả năng làm mình bối rối trước mặt ba và đám con gái . Brent, tao đoán là tụi mình hết đi Âu châu được rồi. Má nói là nếu mình bị đuổi học lần nữa, thì hết được đi du lịch.

− Hừ, mình cóc cần, phải không? Có gì để xem ở Âu châu đâu? Tao cá là mấy người ngoại quốc đó chả có gì mà ngay ở Georgia nầy mình không có. Tao cá là ngựa họ không nhanh bằng ngựa mình, con gái không đẹp hơn, và tao dám chắc là họ không thể có được loại Whisky bằng lúa mạch nào đương nổi với rượu của ba.

− Ashley Quilkes bảo là họ có cả khối hí viện và phòng hoà nhạc. Ashley thích Âu châu. Anh ta cứ nói tới luôn.

− Hừ ... Mầy đã biết dòng họ Quilkes ra sao rồi mà. Họ say mê âm nhạc, sách vở và sân khấu. Má cho biết đó là do nội tổ của họ gốc Virginia. Má bảo là xứ Virginia rất say mê những thứ đó.

− Mặc họ . Cứ cho ta một con ngựa giỏi để cỡi và rượu ngon để uống, gái đẹp để ve vãn, một cô khác lẳng lơ để đùa giỡn là mọi người mặc tình ôm lấy Âu châu của họ ... Không được du lịch thì ăn nhằm gì. Thí dụ như lúc nầy mình đang ở Âu châu và chiến tranh xảy ra thì sao? Làm sao mình về sớm kịp? Đánh giặc còn sướng hơn đi Âu châu nhiều.

− Tao cũng nghĩ vậy, ngày nào ... Ê, Brent, tao biết chỗ mình có thể tới kiếm ăn rồi . Bây giờ mình băng qua đầm tới chỗ của Able Quynder, cho anh ta biết là cả bốn đứa đều về tới và sẵn sàng tập quân sự.

Brent reo mừng:

− Ý kiến hay. Bọn mình còn biết thêm tất cả các tin tức liên quan tới Bộ đội và coi họ đã chọn màu sắc nào cho quân phục.

− Nếu quân phục giống của bọn Zouave thì dù có bị đày xuống địa ngục, tao cũng không nhập ngũ . Mặc cái thứ quần đỏ rộng thùng thình đó, tao sẽ giống hệt một tên lại cái . Trông nó có vẻ như là quần lót bằng nỉ đỏ của đàn bà.
Gã hắc nô nói xen vào:

− Bộ mấy cậu tính sang nhà ông Quynde hả ? Tới đó không có gì ăn đâu. Thằng bết chết ồi mà ổng cũng chưa mua được đứa mới, Bây giờ là một con mẹ làm việc ngoài đồng vô nấu ăn, tụi da đen cho biết con mẹ đó nấu ăn tồi nhứt nước.

− Coi kìa, sao không mua một đứa làm bếp khác?

− Mấy người da t ắng nghèo cặn bã đó làm sao mua nổi người da đen? Ở nhà không khi nào có hơn được bốn đứa.

Giọng nói của Jeems biểu lộ rõ sự khinh thường. Địa vị xã hội của nó được kể như được bảo đảm vì họ Tarleton có cả trăm nô lệ, và cũng như tất cả các hắc nô ở những đồn điền lớn, nó khinh miệt các nông gia nghèo chỉ có vài đứa tớ.
Stuart giận dữ:

− Tao đập chết mầy bây giờ. Đừng dở giọng gọi Able Quynder theo kiểu đó. Ông ta nghèo nhưng không phải là cặn bã. Và dầu có bị đày xuống địa ngục, tao cũng nhứt định không để cho một kẻ nào, dầu đen hay trắng, chạm tới ông ta. Trong khắp hạt này, chẳng có người nào hơn ông ta nổi, nếu không thì tại sao được Bộ đội tuyển chọn làm Thiếu Uý?

Jeems vẫn không ngại nét mặt hầm hừ của chủ:

− Cái nầy thì thiệt là không hiểu nổi, đáng lẽ phải lựa sĩ quan t ong các người giàu thay vì lựa đám cặn bã ở đầm lầy.

− Ông ta không phải là cặn bã, mầy nghe rõ chưa? Bộ mầy muốn so sánh ông ta với tụi da trắng cặn bã như Slattery hả?

Able không giàu, vậy thôi. Ông ta là một nông gia ít đất, không phải là chủ một đồn điền lớn, nhưng đó không phải là cái cớ để bất cứ đứa da đen nào xúc phạm tới ông ta. Bộ đội, người ta biết rõ chuyện phải làm.

Đội kỵ binh đã được thành lập 3 tháng trước, ngay trong ngày xứ Georgia tách ra khỏi liên bang, và cũng kể từ đó, các tân binh được huấn luyện gấp rút cho chiến tranh. Mặc dầu không thiếu những đề nghị, đội quân vẫn chưa có danh hiệu . Mỗi người đều có một ý kiến riêng và cứ muốn cho đó là ý kiến hay, cũng như mỗi người đều có một quan điểm riêng về màu sắc và kiểu quân phục . "Đoàn mèo rừng của Clayton", "Những kẻ nuốt lửa", "Kỵ binh miền Bắc Georgia", "Đoàn quân Zouave", "Các tay súng trường nội địa" (mặc dầu Bộ đội chỉ được võ trang súng lục và gươm dáo chớ không hề có súng dài), "Những người xám của Clayton", "Đơn vị Máu và Sấm sét", "Những kẻ gan lì", ... ngần ấy danh hiệu đều có người khăng khăng binh vực . Trong khi chờ đợi quyết định, mọi người đều gọi tổ chức là Bộ đội, và danh hiệu đó thế rồi tồn tại luôn.

Sĩ quan được các đoàn viên đề cử lên, vì rằng không một ai trong hạt có được chút ít kinh nghiệm về quân sự, ngoại trừ một vài cựu chiến binh đã từng dự các trận chiến Mễ Tây Cơ và Seminole, ngoài ra Bộ đội không bao giờ chấp nhận cho một cựu chiến binh cầm đầu họ, nếu người đó không được họ mến chuộng và tin cậy . Mọi người đều thích bốn gã con trai của họ Tarleton và ba anh chàng của nhà Phontaine, nhưng buộc lòng không thể chọn vì đám Tartleton uống rượu mau say, còn đám Phontaine thì dễ nổi máu sát nhân. Ashley Quilkes được cử làm Đại uý nhờ có biệt tài kỵ mã, và tinh thần trầm tĩnh của chàng có thể nêu gương sáng trong quân ngũ để duy trì kỷ luật. Raiphord Calvert được đề bạt chức Trung uý, vì được mọi người mến chuộng, phần Able Quynder, con một người làm nghề sập bẫy ở ao đầm, thì được làm Thiếu uý.

Able là một chàng khổng lồ, dốt đặc nhưng thông sáng, tốt bụng trọng tuổi hơn các thanh niên khác, và cũng sử xự hết sức thanh lịch trước mặt nữ giới. Trong Bộ đội ít người chú ý tới địa vị xã hội. Phần lớn ông bà và cha mẹ họ đều xuất thân từ thành phần nông dân nghèo khó, rồi mới dựng được cơ nghiệp đồ sộ như ngày nay. Hơn nữa, Able là tay súng thiện xạ nhứt trong Bộ đội, có thể bắn trúng phóc con mắt của một chú sóc ở cách xa khoảng bảy mươi thước, ngoài ra y lại còn thấu đáo tất cả nghệ thuật sống ngoài trời như nhóm lửa dưới mưa, theo chân thú và tìm ra mạch nước. Bộ đội thán phục chân tài đó, đã thế họ lại còn ưa thích y nên Able được đưa lên hàng sĩ quan. Y nhận lấy vinh dự ấy một cách đứng đắn, không tự kiêu, dường như cho đó là một chuyện cố nhiên. Tuy thế, các bà chủ sở và các nô lệ đồn điền không chịu quên rằng Able là kẻ thuộc dòng hạ lưu, mặc dù chồng con và chủ họ không lưu tâm tới điều đó.

Mới đầu, Bộ đội chỉ tuyển mộ riêng biệt con cái của các chủ sở, mỗi người tự sắm ngựa lấy, tự mua võ khí, quân trang, quân dụng và người theo hầu. Nhưng ở hạt Clayton chưa thành hình được bao lâu, làm gì có được nhiều chủ điền giàu có, bởi thế muốn có được một đoàn quân hùng mạnh, người ta phải gọi thêm tân binh trong đám con cái nông dân nghèo, thợ săn thú ở rừng sâu, các tay bẫy sập ở ao đầm, những người Cracker, và trong một số ít trường hợp, cả những người da trắng nghèo khổ, với điều kiện nếu họ khá hơn chút ít đối với người trong giới họ.

Những binh sĩ thuộc hạng sau này cũng nao nức được đánh quân Yankee không kém gì những làng giềng giàu có hơn. Rồi vấn đề khó khăn về tài chánh được nêu lên, chỉ một ít nông dân nghèo là có ngựa . Công việc đồng áng toàn là nhờ cả vào loại la, ít khi có hơn được bốn con. Họ không thể hy sinh những con la đó cho quân ngũ, dầu rằng Bộ đội chịu chấp nhận, nhưng đó là chuyện hoàn toàn không ai nghĩ tới . Riêng những người da trắng nghèo khổ, có được một con la cũng đã khá lắm rồi. Phần các thợ săn trong rừng rậm, những người sống bằng bẫy sập, thì chẳng có ngựa mà cũng chẳng có la. Họ chỉ sống toàn là nhờ vào thú săn hay bẫy được rồi mang đi bán, nên quanh năm có khi chẳng được 5 Mỹ kim tiền mặt . Việc sắm ngựa và quân phục vượt quá tầm tay họ . Nhưng họ cũng kiêu hãnh ghê gớm về sự nghèo khó của mình, chẳng khác gì những ông chủ đồn điền tự đắc về sự nghiệp lớn lao, và họ nhứt định không đón nhận bất cứ những gì được coi như lòng từ thiện của những láng giềng giàu có . Do đó, để giữ được sĩ diện của mọi người, đồng thời cũng nhằm tăng cường sức mạnh cho Bộ đội, cha của Scarlett, các ông John Quilkes, Buck Munroe, Jim Tarleton, Hugh Calvert, nói chung là mỗi chủ sở to lớn trong hạt, ngoại trừ người duy nhứt là Angus Mac-in-tosh, đều đóng góp tiền bạc để lấp bằng sự khiếm khuyết của Bộ đội, cả ngựa lẫn người . Chung cuộc là mỗi chủ nhân đồn điền đồng ý xuất tiền sắm quân trang, quân dụng cho con cái của họ và một số thanh niên khác, nhưng vấn đề quan trọng là phải dàn xếp thế nào để cho những người nghèo chịu nhận lãnh mà danh dự không bị tổn thương.

Mỗi tuần, Bộ đội tập hợp hai lần tại Jonesboro để thao luyện và cầu nguyện chiến tranh tới sớm . Mặc dầu chưa mua được đầy đủ ngựa, những kẻ có sẵn ngựa vẫn tới thao dượt trên cánh đồng phía sau pháp đình và diễn tập điều mà họ cho là kỹ thuật chiến đấu của kỵ binh, bụi cát tung bay mù mịt giữa những tiếng reo hò khản cổ và những cánh tay vun vút múa các thanh kiếm từ đời chiến tranh Cách Mạng vừa được tháo gỡ ở phòng khách xuống . Những người chưa có ngựa thì ngồi ở lề đường, trước cửa hiệu Bullard, nhìn theo đồng đội, vừa nhai thuốc lá vừa kể chuyện phiêu lưu mạo hiểm, hoặc thi đua bắn súng. Bất cứ người đàn ông nào ở miền Nam cũng không cần phải tập bắn, vì họ đều được sanh trưởng với khẩu súng trên tay, và các cuộc săn bắn thường xuyên đã biến họ thành những tay thiện xạ.

Từ những ngôi nhà rộng lớn của chủ đồn điền, tới các căn lều lụp xụp ở ao đầm là cả một sự khác nhau về vũ khí . Nào là những khẩu súng săn nạp đạn thượt dạo nào còn mới, nào những cây súng nạp đạn ở đầu nóng đã bắn hạ nhiều tên da đỏ vào thời kỳ tân khai xứ Georgia, những khẩu súng lục đã được sử dụng từ năm 1812 trong các trận chiến Seminol và Mễ tây cơ, súng cán bạc dùng để song đấu, súng bỏ túi, súng hai nòng và một vài cây súng trường mới tinh của Anh quốc, với bá gỗ bóng láng.

Các buổi tập dượt luôn luôn được chấm dứt ở các quán rượu nơi Jonesboro và cho tới lúc chiều tối thì nhiều vụ ấu đả xảy ra đến nổi các sĩ quan phải vất vả lắm mới tránh cho họ khỏi bị thương tích, trước khi quân Yankee có thể gây cho họ. Chính trong một của những cuộc xô xát đó mà Stuart Tarleton đã bắn Cade Calvert và Tony Phontaine bắn Brent. Hai anh em song sinh đang ở nhà, sau khi mới bị trục xuất khỏi Đại học Virginia, ngay lúc Bộ đội được thành lập và họ đã hăng hái gia nhập ngay, nhưng sau vụ bắn nhau, hai tháng trước bà mẹ lại bắt họ vào Đại học quốc gia và phải ở luôn tại đó. Họ buồn bực vì không được dự vào những dịp náo nhiệt qua các buổi tập luyện và nhận thấy rằng chuyện học hành thật là vô bổ, chỉ mong sao được cưỡi ngựa, hò hét và bắn súng với các bạn.

Brent nhắc lại:

− Thôi, mình băng đồng qua nhà Able đi. Mình vượt qua lòng rạch của ông O Hara và đồng cỏ của nhà Phontaine là tới nơi trong chốc lát.

Jeems vẫn cố chống:

− Qua đó họ chỉ cho mình ăn toàn au cải và thịt chuột ừng thôi.

Stuart nhíu mày:

− Còn mầy thì chẳng được ăn cóc gì . Mầy phải trở về nói cho má tụi tao hay là tụi nầy không ăn tối.

Jeems kêu hoảng:

− Không, tôi không đi đâu. Không, nhứt định không. Tôi không muốn bị bà Beet iss ném a ngoài . T ước hết, bà hỏi tại sao tôi để hai cậu bị đuổi nữa . Kế nữa, bà hỏi tại sao tôi không đem hai cậu về tối nay để bà nện . Rồi bà nhảy tới chụp tôi như con vịt chụp con bọ và đổ hết lỗi cho tôi. Nếu hai cậu không dẫn tôi theo qua nhà ông Able Quynder, thì tôi sẽ ở trong rừng suốt đêm và sẽ bị lính tuần chộp đầu. Thà bị bắt còn sướng hơn là bị bà Beet iss vồ khi bà nổi xung.

Hai anh em song sinh nhìn nét mặt cương quyết của gã da đen, vừa do dự vừa bực tức.

− Điên khùng như nó thì dễ bị lính tuần bắt lắm, mà như vậy là má sẽ có chuyện để chế nhạo thêm mấy tuần. Tao quả quyết là bọn da đen còn rắc rối hơn ai hết . Lắm lúc tao nghĩ bọn chủ trương bãi bỏ chế độ mãi nô có lý.

− Để thằng Jeems gánh chịu những gì chính mình phải chịu là không tốt . Mình phải đem nó theo. Nầy thằng mọi khùng mặt dày mày dạn kia, nếu mầy lỡ lời hay làm bộ làm tịch trước đám hắc chủng của ông Quynder, và nói bóng nói gió là nhà mình luôn luôn ăn gà quay và đùi heo muối trong khi họ chỉ được ăn thỏ và chuột rừng thôi, thì tao... Tao sẽ nói cho bà biết. Và tụi tao cũng không cho mầy đi theo đánh giặc.

− Làm bộ làm tịch gì? Tôi mà phải cần lên mặt với lũ da đen rẻ tiền đó à? Thưa cậu, không đâu. Tôi là người đàng hoàng, lịch sự mà. Bà Beet iss dạy tôi cách xử sự cũng như đã dạy hai cậu.

Stuart chép miệng:

− Rất tiếc là bà già đã uổng công với cả ba. Thôi đi.

Anh ta thúc đinh giày vào hông ngựa khiến nó nhảy vọt qua một cách dễ dàng bức rào chắn giữa con lộ và đồn điền đất mềm của ông O Hara. Brent phóng ngựa theo và kế đó là Jeems, nhưng gã da đen phải ôm ghì lấy bờm ngựa. Jeems không thích nhảy rào, nhưng nó buộc lòng phải phóng qua những bức rào cao hơn để luôn luôn theo sát chủ.

Giữa lúc ba thầy trò băng qua những luống cày đỏ sậm đi xuống triền đồi để tới lòng sông trong màn đêm buông xuống, Brent bỗng nói to với em:

− Ê, Stu! Mầy có thấy là đáng lý con Scarlett phải mời mình ở lại không?

Stuart đáp ngay:

− Theo tao thì phải vậy. Tại sao mầy nghĩ là ...

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 7-10-2011 22:56:42 | Chỉ xem của tác giả
Chương 2

Khi hai anh em song sinh để một mình Scarlett ở lại dưới vòm cổng Tara, và khi tiếng vó ngựa chìm khuất đằng xa, Scarlett đi trở về ghế như một kẻ thụy du. Da mặt nàng như bị căng ra vì đau đớn, và miệng thì đau nhức vì cứ phải cố nhoẻn cười để cho hai anh chàng Tarleton không phát giác được sự bí ẩn của mình. Nàng mệt mỏi ngồi xuống, co một chân lên lót dưới đùi, và tim nàng càng lúc càng phồng to trong nỗi thống khổ gần như sắp nổ tung. Nó cứ nhảy nhói lên từng lúc, hai bàn tay lạnh ngắt với cảm giác của một sự sụp đổ có thể xảy ra. Mặt nàng lộ rõ niềm đau xót và vẻ ngẩn ngơ, sự ngẩn ngơ của một đứa bé được nuông chìu, lúc nào cũng được thoả mãn tất cả những gì đòi hỏi để rồi bây giờ, lần đầu tiên trong đời, bị roi đời quất ngược.

Ashley sắp cưới Melanie Hamilton!

Ô, đó không thể là sự thật! Hai gã Tarleton đã lầm . Họ chỉ đùa nghịch theo bản tính của họ thôi. Ashley không thể, không có thể yêu được Melanie. Không một ai có thể yêu được cô gái loắt choắt và nhát nhúa đó . Scarlett khinh bỉ nhớ lại thân hình gầy xẹp như con nít đó, với cái khuôn mặt trái tim quá tầm thường không gợi lên được một chút hứng khởi nào. Và Ashley có thể không gặp cô ta từ nhiều tháng nay. Chàng đã không có mặt ở Atlanta quá hai lần kể từ khi tổ chức một cuộc hội họp vào năm ngoái ở Twelve Oaks. Không, Ashley không thể yêu được Melanie vì chàng... - Ô, nàng không thể lầm lẫn được - Bởi vì chàng đã yêu mình! Phải, chính Scarlett là người được chàng yêu, nàng quá rõ điều đó!

Nghe tiếng bước chân nặng nề của Mammy làm rung chuyển sàn nhà trước, Scarlett vội vàng kéo chân ra và cố làm vẻ tỉnh táo. Không nên để cho Mammy nghi ngờ. Mammy tự cho là cả họ O Hara thuộc về bà, cả thể xác lẫn linh hồn, và những bí ẩn của họ cũng chính là những bí ẩn của đời bà, và chỉ cần nghi ngờ một chút thôi là cũng đủ làm cho bà cương quyết phát giác cho kỳ được với sự xông xáo của loài chó săn. Qua kinh nghiệm, Scarlett hiểu rõ là nếu sự tò mò chưa được giải toả, nhứt định là Mammy sẽ nói lại với Ellen và chừng đó, Scarlett sẽ bị bắt buộc phải cung khai tất cả với mẹ nàng, hoặc phải nghĩ ra một chuyện nói dối cho có vẻ thuận lý.

Mammy bước ra, một phụ nữ đồ sộ và lớn tuổi với đôi mắt nhỏ bé nhưng tinh quái như mắt voi. Da đen bóng, đúng giống người Phi châu, và sẵn sàng trung thành với dòng họ O Hara tới giọt máu cuối cùng, bà là điểm tựa chánh của bà Ellen, là nỗi chán chường của ba cô con gái và là sự khủng khiếp đối với tất cả tôi tớ trong nhà . Mammy là người da đen nhưng thái độ xử sự và ý thức tự trọng của bà đôi khi còn cao hơn chủ . Bà được nuôi nấng từ nhỏ trong nhà bà Solange Robillard, mẹ của bà Ellen O Hara, một phụ nữ Pháp, mũi cao và nghiêm khắc, không ngần ngại trừng phạt con cái hoặc gia nhân mỗi khi có ai làm gì thương tổn đến gia phong. Bà là nhủ mẫu của Ellen và cùng đi với chủ từ Savannah tới cao nguyên sau ngày Ellen lấy chồng . Người nào được Mammy thương thì người ấy luôn luôn bị la rầy. Và vì quá yêu quí Scarlett, và đã đặt tất cả hãnh diện vào, nên sự quở phạt của bà gần như liên tục.

− Mấy cậu về ồi sao? Sao không mời người ta ở lại dùng bữa ? Tôi đã bảo Po k dọn thêm hai bộ dĩa cho họ . Đó là lối xã giao nào vậy?

− Ối, tôi đã chán nghe họ nói chuyện chiến tranh đến nổi không thể nào chịu đựng thêm nữa suốt bữa ăn, nhứt là khi có ba phụ họa và không ngớt la ó về ông Lincoln.

− Cô cư xử không hơn một đứa quê mùa. Bao nhiêu công khó của tôi và bà Ellen cuối cùng chẳng ra gì . Và cô lại không choàng khăn nữa! Và đêm lại lạnh! Tôi đã nói bao nhiêu lần rồi là cô sẽ bị cảm sốt nếu ngồi ngoài trời đêm mà không chịu choàng khăn lên vai. Đi vào nhà đi, cô Scarlett.

Scarlett quay mặt sang phía khác với dáng điệu cố làm ra vẻ ung dung, mừng thầm là Mammy đã không phát hiện ra được gì bởi bận tâm về vụ khăn choàng.

− Không, tôi muốn ngồi đây để ngắm mặt trời lặn. Đẹp lắm. Mammy làm ơn vào lấy giùm khăn choàng đi, tôi sẽ ngồi đây đợi ba về.

Giọng Mammy nghi ngờ:

− Coi, sao tiếng nói của cô giống như bị cảm vậy?

Scarlett hơi lo:

− Không phải đâu. Bà vào lấy khăn dùm đi.

Mammy lệch bệch đi vào nhà và Scarlett nghe tiếng bà gọi đứa tớ gái trên lầu:

− Rosa đâu? Ném cái khăn choàng của cô Scarlett xuống đây.

Và giọng bà trở nên gắt gỏng hơn:

− Đồ mọi cái ăn hại! Lần nào gọi cũng không có. Bây giờ tao lại phải đích thân lên đó lấy.

Scarlett nghe thang lầu kêu răng rắc và nàng nhẹ nhàng đứng lên. Khi Mammy trở ra, bà ta lại nhai tới nhai lui về thái độ khiếm nhã của Scarlett đối với khách, và nàng sẽ không chịu đựng nổi những lời vô vị nhạt nhẽo đó trong khi tim nàng sắp vỡ toang ra. Giữa lúc nàng đứng đó, ngập ngừng chưa biết tìm chỗ nào ẩn lánh, để chờ cho sự đau đớn trong lồng ngực dịu bớt đi, thì một ý nghĩ chợt loé lên, mang tới một tia hy vọng. Cha nàng đã đi qua bên Twelve Oaks, đồn điền của họ Quilkes hồi xế này để mua Dilcey, người vợ to lớn của người hầu Pork. Ở Tquelve Oaks, Dilcey vừa là trưởng toán nữ gia nhân vừa và cô đỡ, và kể từ đám cưới sáu tháng trước cho tới nay, Pork cứ theo quấy rầy chủ từ sáng tới tối về chuyện xin mua Dilcey về để cho hai vợ chồng được sống chung trong một đồn điền . Và xế nay, sau khi đã mềm lòng, ông Gerald đã sang bên đó để thương lượng việc mua Dilcey.

Scarlett nghĩ, chắc chắn ba biết rõ chuyện đó có thật hay không. Dầu cho người chẳng nghe được rõ rệt điều gì, có thể người cũng nhận thấy một dấu hiệu nào đó qua sự xôn xao bên nhà họ Quilkes. Nếu mình có thể gặp riêng ba trước lúc ăn tối, có thể mình sẽ biết ra sự thật, đó chỉ là một trong những trò đùa ác hại của anh em song sinh.

Đã tới lúc Gerald sắp về, và nếu nàng có ý định gặp riêng ông thì chẳng có cách nào khác hơn là đón ông ở ngay chỗ giáp giới của đường mòn và quan lộ. Nàng rón rén bước xuống các bực thềm, vừa ngoái đầu nhìn lại để biết chắc là Mammy không từ trên các cửa sổ lầu nhìn theo. Không bắt gặp khuôn mặt đen to lớn nào với mái tóc trắng như tuyết núp sau màn cửa, nàng bạo dạn kéo tà áo xanh thêu hoa lên, và chạy về phía đường mòn với tất cả sức nhanh của đôi giày nhỏ buộc dây.

Tàng cây bách hương từ hai bên con đường trải sạn giao đầu vào nhau làm thành một mái vòm trên cao, biến con đường dài thành một đường hầm tối ám. Ngay khi vừa chạy tới phía dưới những tàng cây bách hương, nàng biết là đã thoát khỏi tầm quan sát của người nhà, nên đi chậm lại . Vì dây nịt áo đã được buộc quá chặt, Scarlett mệt thở chẳng ra hơi, nhưng vẫn cố cố gắng bước mau. Chẳng mấy lúc nàng đã ra tới đường cái, nhưng cứ tiếp tục đi cho tới một khúc quanh, nơi có một lùm cây to làm thành một bức bình phong giữa nàng và ngôi nhà.

Mặt đỏ ửng và thở hồng hộc, nàng ngồi lên một gốc cây bị đốn để đợi cha. Đúng ra thì giờ nầy ông đã về nhưng nàng lại hài lòng vì ông đã về muộn . Khoảng thời gian chậm lại đó sẽ giúp cho nàng điều hoà hơi thở và lấy lại bình tĩnh trên nét mặt để cha khỏi nghi ngờ. Cứ mỗi lúc nàng tưởng như nghe thấy tiếng vó ngựa khua, và thấy cha phóng nhanh lên đồi với tốc độ nguy hiểm quen thuộc của ông. Nhưng thời gian cứ trôi qua mà Gerald vẫn chưa về tới. Nàng ngó mong xuống đường và trái tim lại bắt đầu căng phồng thêm mãi.

Nàng nghĩ:

− Ô, đó không thể là sự thật! Tại sao ba chưa chịu về?

Nàng đưa mắt dài theo con đường quanh co, đỏ như màu máu sau trận mưa buổi sáng. Nàng phác hoạ trong đầu một con đường chạy dài xuống triền núi, cho tới dòng sông Phlint lặng lờ, băng qua những đầm lầy, rồi leo lên ngọn đồi kế đó dẫn tới vùng Twelve Oaks, nơi Ashley cư ngụ . Bây giờ con đường đó đã có ý nghĩa khác hơn, con đường đưa tới Ashley và ngôi nhà xinh xắn với hàng cột trắng toát sừng sững trên đồi như một đền Hy lạp.

− Ô, Ashley, Ashley!

Nàng nghĩ tới chàng và tim đập rộn.

Cái cảm giác lạnh buốt của nỗi ngỡ ngàng và sự sụp đổ đè nặng lên nàng do sự thóc mách của hai anh em Tarleton gây ra đã bị đẩy lui và thay vào đó là ngọn lửa nóng bỏng đã nung nấu lòng nàng từ hai năm qua.

Kể cũng lạ là từ khi lớn lên, nàng nhận thấy ở Ashley chẳng có gì là hấp dẫn cả. Từ những ngày thơ ấu, nàng thấy chàng đến rồi đi và chẳng chú ý gì hơn. Nhưng cho tới một ngày cách đây hai năm, khi Ashley trở về sau ba năm du lịch Âu châu, đến Tara thăm viếng, nàng chợt thấy đã yêu chàng. Chỉ giản dị thế thôi.

Hôm ấy, nàng đang đứng trên thềm và Ashley cỡi ngựa đi trên con đường dài, y phục bằng nỉ mỏng toàn màu xám và chiếc cà vạt rộng khổ màu đen làm nổi bật chiếc sơ mi xếp nếp hình tổ ong. Cho tới bây giờ, nàng vẫn còn hình dung được từng chi tiết về y phục của chàng, đôi giày bóng sáng chói làm sao ấy và cái kẹp mang hình đầu nữ quái Medusa, chiếc nón Panama rộng vành mà chàng vội lấy xuống cầm tay ngay khi thấy mặt nàng. Chàng đã nhẹ nhàng rời lưng ngựa và ném dây cương cho một thằng bé da đen, để ngắm nàng với đôi mắt mở to, với nụ cười nở rộng, và ánh mắt tươi sáng đã biến mái tóc vàng óng ả của chàng thành một mũ bạc rực rỡ. Và chàng đã nói : "Em lớn lắm rồi, Scarlett ạ". Và nhẹ nhàng bước lên các bậc thềm, chàng đã hôn tay nàng. Và giọng nói của chàng! Nàng không bao giờ quên được nhịp nhảy rộn ràng của tim mình, khi nghe giọng nói ấy lần đầu tiên, nó êm lướt, trầm ấm và dìu dặt làm sao!

Nàng đã thấy cần chàng, ngay phút đầu tiên, cần một cách đơn giản và không thiết tìm hiểu, như nàng đã thấy cần có thức ăn, có ngựa cỡi và một chiếc giường êm dịu.

Luôn hai năm, chàng đã đưa nàng dạo chơi khắp hạt, dự các buổi khiêu vũ, câu cá, các bữa ăn ngoài trời... không quá thường xuyên như hai anh em Tarleton hoặc Cade Calvert, không gây bực mình như mấy gã con trai nhỏ tuổi nhà Phontaine, không hề bỏ sót một lần viếng Tara mỗi tuần.

Thật ra, chàng chưa bao giờ nói yêu nàng và đôi mắt màu lam đó cũng chưa bao giờ chiếu ra những tia nóng rực mà Scarlett từng bắt gặp ở những đàn ông khác. Vậy mà ... vậy mà ... nàng biết chàng đã yêu nàng. Nàng không thể lầm lẫn được. Linh cảm mạnh hơn lý trí và sự hiểu biết nhờ vào kinh nghiệm cho nàng hay là chàng đã yêu nàng. Lắm lần nàng đã bắt gặp ánh mắt chàng không thờ thẫn và xa vắng nữa, khi chàng nhìn nàng nửa khao khát nửa buồn rầu, khiến nàng không hiểu ra sao cả . Nàng đã biết chàng yêu mình. Tại sao chàng không chịu nói ra? Đó là điều nàng không hiểu nổi. Nhưng cũng còn quá nhiều chuyện liên quan tới chàng mà nàng không hiểu nổi.

Chàng luôn luôn lễ độ, nhưng xa cách . Không ai đoán được chàng đang nghĩ gì, Scarlett lại còn kém hơn ai cả . Ở một nơi mà mọi người đều có thói quen nói trắng ra mọi ý nghĩ của mình, thì thái độ dè dặt của Ashley khiến cho nhiều người phải bực mình . Chàng cũng xuất sắc như tất cả những thanh niên khác về những trò tiêu khiển trong hạt như săn bắn, đánh bạc, khiêu vũ và chánh trị, mà cũng là tay kỵ mã có biệt tài hơn cả, nhưng càng khác biệt hẳn mọi người trong việc cho rằng các hoạt động thú vị đó không phải là mục đích của đời mình . Và chàng đã riêng rẽ tìm nguồn vui trong sách vở, âm nhạc và say mê thi văn.

Ô, tại sao tóc chàng lại vàng óng đến thế, tại sao lại lễ độ cách biệt như thế, tại sao lại quá cuồng nhiệt bận tâm kể những mẫu chuyện về Âu châu, âm nhạc, thi văn và những chuyện mà nàng không thấy thú vị chút nào - nhưng lại là người rất đáng yêu? Đêm đêm, mỗi khi lên giường, sau khi đã ngồi nói chuyện với chàng trong ánh sáng mờ mờ ở thềm nhà, nàng trằn trọc luôn nhiều giờ và chỉ tự an ủi với ý nghĩ là chàng sẽ mở lời trong lần gặp tới. Nhưng lần gặp tới diễn qua đi, nhưng kết quả chẳng có gì - chẳng có gì ngoại trừ cơn sốt trong nàng cứ dâng cao và nóng bỏng hơn thêm.

Nàng yêu chàng, cần thiết có chàng, nhưng không sao hiểu được chàng . Nàng thẳng thắn và giản dị như những ngọn gió thổi qua Tara, như con sông đục vàng uốn quanh đồn điền, và có lẽ cho tới ngày cuối của cuộc đời nàng vẫn không sao hiểu nổi một chuyện gì phức tạp. Và bây giờ, lần đầu tiên trong đời, nàng phải đương đầu với một tình trạng phức tạp.

Ashley được sinh ra từ dòng dõi của những người quen dùng sự nhàn hạ của họ để suy nghĩ chớ không phải để hành động, để theo đuổi những giấc mộng màu sắc rực rỡ không một chút thực tế. Chàng sống giữa một nội giới đẹp đẽ hơn xứ Georgia và chỉ bước vào thực tế một cách miễn cưỡng. Chàng nhìn xem mọi người, không ưa cũng không ghét họ. Chàng nhìn xem cuộc đời, không phấn khởi cũng không sầu não. Chàng chấp nhận cái vũ trụ trong đó có một chỗ cho mình, và mặc nó ra sao, chàng nhún vai quay trở về với sách vở, âm nhạc và cái thế giới mỹ miều hơn của riêng mình.

Scarlett không hiểu được vì sao chàng có thể chiếm được hồn nàng, trong khi đầu óc chàng vẫn cứ là của một kẻ xa lạ đối với nàng. Chính cái sự bí ẩn của chàng đã khơi dậy tính tò mò của nàng, giống như một cánh cửa không then cài, không ổ khóa. Những gì ở chàng mà nàng không hiểu nổi lại càng làm cho nàng yêu chàng hơn lên, và thái độ tán tỉnh kỳ lạ, hạn chế của chàng, càng khiến nàng thêm cương quyết chiếm chàng cho kỳ được. Nàng không bao giờ nghi ngờ việc một ngày nào chàng sẽ ngỏ lời vì nàng hãy còn quá trẻ và quá được nuông chìu để có thể chấp nhận được một sự thất bại nào. Và bây giờ, tin tức kinh khủng đó đã đến với nàng như một tiếng sét bên tai. Ashley sắp cưới Melanie! Không thể có thật được!

Tại sao, chỉ mới tuần qua thôi, trong khi hai người từ Phairhill cỡi ngựa về vào một buổi hoàng hôn, chàng đã nói: "Scarlett, anh có một chuyện quan trọng muốn nói với em, nhưng anh không biết phải ngỏ ý như thế nào".

Nàng đã ngượng ngùng nhìn xuống, tim đập rộn ràng, cho rằng giây phút thần tiên đã tới. Nhưng rồi chàng lại nói: "Bây giờ thì không còn đủ thời giờ để nói. Ô, Scarlett, anh đúng là một kẻ khiếp nhược!" Và anh thúc vào hông ngựa, chàng phóng lên triền đồi Tara.

Ngồi trên gốc cây, Scarlett nhớ lại những lời lẽ đó đã từng làm cho nàng ngây ngất, và bỗng nhiên nàng lại thấy nó có một ý nghĩa khác, một ý nghĩa gớm ghiếc. Phải chăng chàng đã có ý muốn báo tin lễ hỏi nầy?

Ô, ước gì ba về tới lúc nầy! Nàng không thể chịu đựng thêm được nữa. Nàng lại sốt ruột đưa mắt nhìn suốt con đường và một lần nữa, nàng thất vọng.

Mặt trời đã chìm khuất và chân trời đỏ chói bây giờ đã xuống màu hồng lợt. Vòm trời màu thiên thanh từ từ biến thành xanh lam như màu vỏ trứng họa mi, và sự yên tĩnh lạ thường của cảnh chiều tà nơi đồng nội len nhẹ vào nàng. Bóng tối nhoà nhoà lan rộng. Những đường cày hồng thắm và con đường trải dài vắt ngang đồng ruộng như một vết thương đỏ ối đã mất hẳn cái màu máu huyền bí của nó, chỉ còn lại màu nâu trơ của đất. Bên kia đường trên đồng cỏ, ngựa, la và bò cái đứng im lìm, thò đầu qua rào, chờ đợi về chuồng. Chúng không chịu được những cái bóng đen ngòm của các lùm cây rậm rạp mọc quanh đồng cỏ, và phe phẩy vành tai về phía Scarlett, dường như khoan khoái được có người bên cạnh.

Trong bóng tối chập chờn, những cây thông cao lớn bên bờ rạch lầy lội lúc nãy tươi xanh dưới nắng chiều, bây giờ đã đen sậm trên nền trời xám màu chì trông như một hàng người khổng lồ có phận sự che khuất dòng sông vàng đục dưới chân. Trên ngọn đồi bên kia sông, mấy ống khói cao vút và trắng toát của nhà họ Quilkes từ từ mờ khuất vào bóng đen của những cây sồi rậm rạp chung quanh, và xa xa chỉ có các đốm sáng của những ngọn đèn ăn tối mới chứng tỏ nơi đó có một ngôi nhà. Hương hoa cỏ mùa xuân ấm áp và ẩm ướt, trộn lẫn với mùi đất mới cày và tất cả những cây lá vươn lên, khiến hồn nàng nhẹ lâng lâng.

Cảnh mặt trời lặn, tiết xuân nồng và cây cỏ xanh tươi mới mẻ không phải là chuyện lạ đối với Scarlett. Với nàng, vẻ đẹp thiên nhiên cũng như không khí để thở và nước để uống, bởi vì chưa bao giờ nàng ý thức được một sự xinh đẹp nào khác hơn là nét đẹp trên khuôn mặt đàn bà, nét đẹp qua vóc dáng của loài tuấn mã, của các loại áo lụa và của tất cả những gì có thể sờ mó được. Thế nhưng, bóng tối mong lung yên tĩnh, bao trùm mảnh đất khéo chăm sóc của Tara đã đem lại cho đầu óc rối loạn của nàng một chút lắng dịu . Nàng đã quá yêu mảnh đất nầy mà không ngờ tới, yêu nó như yêu khuôn mặt của mẹ trong giờ cầu kinh dưới ánh đèn.

Trên con lộ quanh co, vẫn chưa thấy bóng Gerald. Nếu Scarlett phải đợi lâu hơn nữa, chắc chắn Mammy sẽ ra tìm và bắt buộc nàng phải vào nhà với những lời quở trách. Nhưng giữa lúc nàng đang mòn mỏi ngóng nhìn con đường tối sẫm, nàng chợt nghe có tiếng vó ngựa phía dưới đồng cỏ và thấy bò ngựa hoảng hốt chạy tán loạn. Gerald O Hara đang băng đồng với tất cả tốc độ.

Ông đang phóng bay lên đồi trên lưng con ngựa mập mạp với 4 chân dài thon mảnh. Từ xa, trông ông như một đứa bé ngồi lỏng lẻo trên lưng con vật dềnh dàng. Mái tóc dài bạc trắng bay xoả ở phía sau, ông vừa thúc ngựa vừa hò hét, vung roi.
Mặc dầu tràn ngập bởi nhiều nỗi lo buồn, Scarlett vẫn không khỏi ngắm nhìn cha với một sự hãnh diện trìu mến, bởi vì Gerald quả là một tay kỵ mã đại tài.

Nàng tự hỏi: "Chẳng biết tại sao người cứ luôn luôn thích nhảy rào mỗi khi đã có chút rượu vào. Và nhứt là sau khi đã ngã té năm rồi làm gãy xương đầu gối. Mình tưởng là chỉ một bài học đó cũng đủ lắm rồi, và đặc biệt là đã thề với má rằng không bao giờ, không bao giờ nhảy nữa".

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 7-10-2011 23:14:27 | Chỉ xem của tác giả
Cuốn theo chiều gió - Chương 2
-----------------------------------------

Scarlett không sợ cha mà còn cảm thấy gần gũi với ông hơn là hai cô em gái, bởi vì Gerald thường kiêu hãnh một cách trẻ con với đôi chút sảng khoái, sau khi phạm tội trong những lần nhảy rào giấu vợ. Tính khí đó thích hợp với sự thích thú ngầm của nàng mỗi khi qua mặt được Mammy. Scarlett đứng lên để ngắm nhìn cha.

Con ngựa cao lớn đã tới sát rào, nó thu mình lại và bay bổng qua rào dễ dàng như một con chim, trong khi người cỡi reo hò nhiệt náo, ngọn roi vụt đen đét trên không, và những lọn tóc bạc phơ bay phất phới . Gerald không nhìn thấy con đang đứng khuất mình trong bóng cây. Ông dừng cương lại trên đường, vỗ nhẹ vào cổ ngựa với sự tán thưởng.

− Không một con ngựa nào trong toàn hạt nầy có thể sánh được với mầy. Cả nước chắc cũng không.

Ông kiêu hãnh nói với con vật bằng giọng Ái nhĩ lan mà ông vẫn chưa bỏ được, mặc dầu đã sống trên đất Mỹ ba mươi chín năm rồi. Rồi ông hối hả vuốt lại mái tóc rối bời, sửa áo cho thẳng thớm và kéo lại chiếc cà vạt đang vắt ở mang tai. Scarlett biết rõ là cha nàng đang sửa soạn để đến khi gặp mẹ nàng, ông có được cái dáng điệu của một con người phong nhã vừa đi viếng bạn trở về một cách thong dong. Nàng cũng biết là tình cảnh đó rất thuận lợi để nàng bắt chuyện với cha, mà khỏi phải cần nêu lý do xác thực.

Nàng cười lớn lên, và quả đúng như điều mong mỏi, tiếng cười làm cho Gerald giựt nẩy mình, nhưng ngay khi nhận ra Scarlett, khuôn mặt hồng hào của ông lộ rõ vẻ nửa ngượng ngùng nửa nghi ngại . Ông xuống ngựa một cách khó khăn vì gối cứng đơ, rồi quấn dây cương vào tay, ông khập khiễng đi về phía cô con gái.

Vừa nhéo vào má con, ông vừa hỏi:

− Nầy, tiểu thơ, có phải cô rình rập tôi để rồi cũng như con Suellen em cô tuần trước, mét lại với má cô không?
Giọng nói trầm khàn của ông pha lẫn một chút bất bình và tâng bốc. Scarlett vừa tróc lưỡi chọc cha vừa sửa lại chiếc cà vạt của ông cho ngay ngắn. Hơi thở của ông phà vào mặt nàng nực nồng mùi rượu Bourbon với một chút hương vị bạc hà. Người ông còn toát ra mùi thuốc lá, mùi da đánh bóng và mùi ngựa - một sự pha trộn của những thứ mùi mà nàng đã quen thuộc nơi cha, và tự nhiên nàng thấy thích như thế ở những người đàn ông khác.

− Không, ba, con không bép xép như Suellen đâu.

Scarlett trấn an cha và bước lùi ra để kiểm soát lại bộ diện của ông.

Gerald người nhỏ thó, cao khoảng trên một thước rưỡi, nhưng to bề ngang và lớn cổ, cho nên với cái bề ngoài đó, mỗi khi ông ngồi, người lạ có thể tưởng lầm ông là người to lớn. Thân hình vạm vỡ của ông được giữ bởi đôi chân ngắn nhưng chắc nịch, lúc nào cũng không rời đôi giày ống bằng loại da hảo hạng, và lúc nào cũng dạng ra trông như một đứa bé vênh váo. Phần đông những người thấp bé muốn lấy điệu bộ nghiêm trang đều có đôi chút lố bịch, nhưng nếu loại gà bantam - bé nhỏ nhưng hùng dũng - được đồng loại kính nể bao nhiêu thì Gerald cũng thế. Không một ai dám táo bạo coi Gerald O Hara như là một kẻ thấp bé buồn cười.

Ông đã sáu mươi tuổi và mái tóc quăn đã bạc phơ, nhưng khuôn mặt thông minh chưa có một vết nhăn nào, và đôi mắt xanh biếc đầy quả cảm của ông vẫn còn giữ được ánh trong sáng của một kẻ không bao giờ mệt trí với các vấn đề trừu tượng, hơn là phải nghĩ cách để thắng một ván bài . Khuôn mặt Ái nhĩ lan của ông cũng giống như hình dáng của mảnh đất quê hương mà ông đã phải rời bỏ từ lâu - một khuôn mặt tròn trịa, da đỏ hồng, mũi ngắn, miệng rộng và hiếu động.

Dưới cái bề ngoài hung bạo đó, Gerald O Hara ẩn chứa cả một lòng nhân đức. Ông không thể nhìn được cảnh một tên nô lệ bị mạt sát, dầu là đáng tội, cũng không thể chịu được tiếng mèo ngao hay tiếng khóc của trẻ con; nhưng ông lại sợ bị người khác nhận ra. Ông không làm sao biết được rằng lòng nhân ái của ông chỉ trong vòng năm phút là bị phát giác ngay bởi những kẻ tiếp xúc ông, và ông sẽ vô cùng khổ sở nếu nhận ra điều đó, bởi vì ông thích nghĩ rằng mỗi khi ông quát tháo vang rần là tất cả đều run sợ và tuân lịnh . Không bao giờ ông hiểu được rằng chỉ có một tiếng nói duy nhứt ở đồn điền là có đủ quyền uy khiến mọi người tùng phục - tiếng nói dịu dàng của vợ ông, bà Ellen. Đó là một bí ẩn mà ông không bao giờ khám phá nổi, bởi vì tất cả, từ bà Ellen cho đến gã nông nô đần độn nhứt, đều ngấm ngầm và khả ái toa rập với nhau để cho ông cứ mãi tin tưởng rằng chính tiếng nói của ông mới thật sự là pháp luật.

Ít hơn ai hết, Scarlett chẳng sợ sệt bao nhiêu trước tánh nóng và những lời quát tháo của cha. Nàng là con trưởng, và bây giờ Gerald đã nhận rõ ra rằng ông sẽ không bao giờ có một đứa con trai nào nữa, ngoài ba đứa đang nằm trong nghĩa địa nhà, nên ông bắt đầu xử sự với Scarlett như đối với một nam nhi, điều mà Scarlett cảm thấy vô cùng thích thú. Nàng rất giống cha nhiều hơn là mấy cô em gái. Carreen, tên thật là Caroline Irene, thì yếu đuối và đa cảm; Suellen, tên thật là Susan Elinor, thì lại tự kiêu về sự làm dáng cho ra vẻ đài các của mình.

Ngoài ra, Scarlett với cha còn cấu kết với nhau một thoả hiệp ngầm về sự che giấu cho nhau. Nếu Gerald bắt gặp nàng trèo rào thay vì phải đi nửa dặm mới ra tới cổng, hoặc ngồi nán lại quá khuya dưới thềm nhà để nói chuyện với một gã con trai nào đó, ông sẽ đích thân mắng trách dữ dội, nhưng sẽ không nói lại chuyện đó cho vợ hoặc Mammy biết. Và hễ Scarlett bắt gặp cha phóng ngựa qua rào sau khi đã hứa với vợ là không tái diễn trò đó nữa, hoặc khám phá được số tiền đích xác đã thua bạc của ông, như thường được biết qua sự bàn tán của người trong hạt, nàng sẽ không đề cập đến việc đó trong bữa ăn tối, như Suellen đã từng thường làm với thái độ vụng về có tính toán. Scarlett và cha cùng long trọng bảo kết với nhau rằng đem những chuyện đó tới tai bà Ellen chỉ làm cho bà khổ sở thêm mà thôi, và chẳng có gì khiến họ phải làm tổn thương đến tinh thần hoà ái của bà.

Nhìn cha đứng trong bóng tối cuối ngày, tự nhiên không hiểu sao Scarlett bỗng cảm thấy ấm áp trước sự hiện diện của người. Có một cái gì rắn rỏi và bình dị từ người ông toát ra khiến nàng được an ủi. Là người kém óc phân tách nhứt, nàng không hiểu được rằng đó là cảm giác nẩy sinh từ chỗ nàng và cha có quá nhiều điểm phù hạp nhau về bản chất, mặc dầu đã được Ellen và Mammy cố gắng uốn nắn tánh tình luôn mười sáu năm trời.

Nàng nói với cha:

− Bây giờ, trông ba đàng hoàng rồi đó. Chắc chắn là không ai biết được những trò nghịch ngợm của ba đâu, nếu ba không khoe với họ. Nhưng theo con thì sau khi bể xương đầu gối năm rồi cũng vì chính cái rào nầy...

− Nè, dầu có phải chết đi nữa tôi cũng không để cho con gái của tôi dạy tôi có nên nhảy rào nữa hay không - Ông hét lớn và lại nhéo vào má Scarlett - Cái cổ là cổ của riêng tôi, nó có gãy cũng kệ tôi. Còn cô, tiểu thơ, cô làm gì ở ngoài nầy mà không mang khăn choàng?

Nhận thấy cha lại giở những trò quỉ quái quen thuộc để tránh khỏi bị sa vào một câu chuyện bất lợi, Scarlett luồn tay vào tay cha:

− Con ra đón ba. Con không ngờ là ba về trễ quá. Con không thể hiểu là ba có mua Dilcey về không.

− Mua thì có chớ sao không, nhưng với một giá mắc tàn tệ. Mua nó và cả con quỉ cái nhỏ của nó là Prissy. John Quilkes muốn cho không nhưng ba không chịu, chẳng lẽ để cho thiên hạ đồn ầm lên là Gerald lợi dụng tình bạn trong chuyện mua bán. Ba bắt ông ta phải nhận ba ngàn đồng cả hai đứa.

− Trời ơi, ba ngàn đô la sao, ba! Mình có cần mua con nhỏ Prissy đó làm gì đâu?

Gerald hét lớn ra điều hùng biện:

− Đã tới lúc chính con gái tôi ngồi phê phán hành vi của tôi rồi sao? Prissy là một con... và như vậy ...
Scarlett vẫn bình thản:

− Con biết nó. Nó là một con nhỏ xảo quyệt mà đần độn. Ba mua nó chẳng qua là tại Dilcey cầu khẩn ba.
Gerald ngượng và bối rối, đúng như mỗi lần bị bắt gặp làm một việc nghĩa . Trước thái độ lột rõ chân tướng của cha, Scarlett bật cười.

− Nè, tôi có làm điều gì sái quấy đâu? Chẳng lẽ mua con Dilcey về rồi cứ để nó rầu khổ vì nhớ con? Nè, kể từ nay trở đi, tôi không bao giờ để một tên hắc nô nào ở đây lấy vợ bên ngoài. Hao tốn quá . Nè cô bé, thôi đi vào.

Bóng tối đã dày đặc, màu xanh lợt lạt cuối cùng trên không đã tắt lịm và không khí đã trở nên mát lạnh thay chỗ cho tiết Xuân ấm áp . Nhưng Scarlett cố trì hoãn, tự hỏi chẳng biết phải vào đề bằng cách nào để dọ hỏi vụ Ashley mà không làm cho cha phái nghi ngờ . Đó là cả một sự khó khăn vì bản chất của nàng không quen tế nhị, nghĩa là cũng giống như cha nên khó mà che giấu được ông cũng chính như ông không che giấu được nàng.

− Bên Twelve Oaks có gì lạ không, ba?

− Cũng bình thường. Cade Calvert có ở bển. Sau khi tính vụ con Dilcey xong, cả bọn ra ngoài hành lang uống luôn nhiều ly toddy. Thằng Cade vừa từ Atlanta tới đó. Ở Atlanta, người ta nhốn nháo hết, người nào cũng nói chuyện chiến tranh và ...
Scarlett thở dài . Một khi Gerald đã đề cập chuyện chiến tranh và phân ly thì phải hằng giờ sau ông mới chịu ngưng. Nàng xoay chuyện qua hướng khác.

− Họ có nói gì cuộc dã yến ngày mai không, ba?

− Bây giờ ba mới nhớ tới . Cô... tên là gì đây... cái con bé nhỏ thó, mềm mại, năm ngoái có qua bên mình, con biết không, nó bà con với thằng Ashley... à, nhớ ra rồi, cô Melanie Hamilton, đúng cái tên đó rồi... con nhỏ và thằng Charles, em nó cũng vừa từ Atlanta về đó và...

− Ồ, cô ta cũng đã tới đó?

− Chớ sao, và con nhỏ mới mềm mại và lặng lẽ làm sao. Không một tiếng nào nói cho mình hết, đúng tư cách một người đàn bà. Thôi vô con, đừng cà rề nữa. Coi chừng má con ra kiếm bây giờ.

Những tin tức vừa nghe khiến tim nàng se thắt . Nàng đã mong mỏi một chuyện ngoài hy vọng là Melanie Hamilton vẫn còn ở lại Atlanta và bây giờ lại nghe chính miệng cha nàng khen ngợi tư cách dịu hiền của cô ta, trái ngược với tánh tình mình, nàng không chịu nổi nữa nên đi thẳng vào đề:

− Ashley cũng có mặt ở đó hả ba?

− Có chứ.

Gerlad buông tay con gái ra, và quay nhìn sát mặt con:

− Nếu chỉ vì chuyện đó mà con ra đây đợi ba thì tại sao không nói trắng ra mà lại vòng vo?

Scarlett không biết phải nói gì, nàng nghe mặt mình nóng ran lên.

− Nè, nói đi chứ.

Nàng vẫn chưa nói được, ước gì có quyền được nắm lấy cha mình và lay mạnh bắt người im miệng lại.

− Nó có ở đó và nó vồn vã hỏi thăm con, bọn em gái nó cũng vậy. Tụi nó mong con sẽ không vắng mặt trong cuộc dã yến ngày mai.

Và ông tinh tế hỏi thêm:

− Bây giờ con nói thật coi, có chuyện gì giữa con và thằng Ashley?

Scarlett vừa trả lời gọn vừa ôm lấy tay cha:

− Có gì đâu. Mình đi vào, ba.

Gerald để ý thái độ của con:

− À, bây giờ thì tới phiên con muốn vào nhà . Nhưng ba thì ba muốn đứng hoài ở đây cho tới khi nào hiểu rõ con muốn gì. Bây giờ ba nhớ ra rồi, mấy lúc gần đây coi bộ con hơi khác. Nó có giỡn cợt với con không?

− Không.

− Vậy là nó sẽ không bao giờ hỏi cưới con đâu.

Scarlett giận dữ nhưng Gerald đã dùng tay giữ nàng lại.

− Rán giữ mồm giữ miệng, thưa cô! Ba mới hay chuyện đó hồi xế nầy do John Quilkes nói lại và dặn phải hết sức giữ bí mật. Đó là chuyện Ashley sắp cưới Melanie. Người ta sẽ loan báo ngày mai.

Bàn tay Scarlett rời thỏng tay cha. Vậy là có thật!

Tim nàng nhức buốt như đang bị vò xé bởi những chiếc răng nhọn dã thú. Giữa cơn đau lịm đó, nàng vẫn còn thấy đôi mắt cha nhìn mình, đôi mắt vừa thương hại, vừa bối rối trước một vấn đề nan giải. Ông yêu quí Scarlett nhưng đồng thời cảm thấy khó chịu khi bị cưỡng bách phải tìm một giải pháp cho những vấn đề trẻ con của nàng. Ellen thì bao giờ cũng có sẵn những đáp biện. Lẽ ra, Scarlett nên đặt những vụ rắc rối đó với vợ ông.

Gerlad gào to, giọng ông vang lớn mỗi lần bị xúc động mạnh:

− Vậy là cô đã tự biến thành một trò cười... biến cả nhà thành trò cười cho thiên hạ rồi, phải không? Vậy là cô đã chạy theo một thằng đàn ông không hề yêu cô, trong khi cô có thể chiếm được bất cứ một đứa con trai nào trong hạt, phải không?
Sự phẫn nộ và lòng tự trọng bị tổn thương, khiến cho cơn đau của Scarlett nhẹ bớt đi:

− Con không hề chạy theo anh ấy . Chỉ ... chỉ vì ngạc nhiên thôi.

− Láo!

Gerlad quát lớn, rồi nhìn đăm đăm vào khuôn mặt thất sắc của con, ông bỗng bất ngờ đổi giọng âu yếm:

− Ba buồn lắm, con. Nhưng dầu sao con cũng hãy còn nhỏ, còn cả khối con trai khác.

Giọng Scarlett nghe như nghẹn:

− Hồi má lấy ba, má mới mười lăm tuổi, bây giờ con mười sáu tuổi rồi còn gì.

− Má con thì khác. Tánh má không nông nổi như con. Thôi, con gái vui lên đi. Tuần tới ba sẽ đưa con về Charleston thăm dì Eulalie, và rồi với tất cả những xôn xao về vụ căn cứ Sumter, chỉ trong một tuần là con sẽ quên mất thằng Ashley.

Scarlett nghĩ thầm, nửa buồn tủi, nửa tức giận nghẹn ngào: "Ổng cứ tưởng mình con nít, hễ cứ cho một món đồ chơi mới là mình quên hết mấy trận đòn".

− Thôi, đừng có chĩa cằm về phía tôi nữa chớ. Nếu con biết suy nghĩ một chút, con sẽ chọn thằng Stuart hoặc thằng Brent Tarleton từ lâu. Nghĩ thiệt kỹ đi con. Lấy một trong hai đứa sanh đôi đó thì hai đồn điền sẽ kết hợp nhau, rồi Jim Tarleton và ba xây cho hai đứa bây một ngôi nhà xinh đẹp, ngay chỗ hai đồn điền giáp nối, trong khu rừng thông to lớn và...

Scarlett la lớn:

− Đừng coi con như con nít nữa! Con không cần đi Charleston, con không muốn có một ngôi nhà hay kết hôn với hai đứa song sinh đó. Con chỉ muốn ...

Nàng vụt nhưng nói, nhưng đã trễ.

Giọng nói của Gerald bình tĩnh một cách lạ lùng, và ông nói thật chậm rãi, dường như những ngôn ngữ đó vừa được lấy ra khỏi một kho tàng tư tưởng ít khi được sử dụng.

− Con chỉ muốn có Ashley và rồi con sẽ không bao giờ chiếm được nó. Và nếu nó có muốn cưới con, mà ba có phải tán thành vì ba nể tình bạn giữa ba và John Quilkes thì ba cũng sẽ lo ngại không ít.

Nhìn ánh mắt kinh ngạc của con, Gerald nói tiếp:

− Ba muốn con gái của ba được sung sướng, nhưng chắc chắn con sẽ không tìm thấy hạnh phúc khi chung sống với Ashley.

− Ồ, được mà! Được mà!

− Không đâu con. Chỉ có những cặp vợ chồng hợp tâm tính nhau mới có hạnh phúc.

Scarlett muốn hét lớn : "Ba và má có giống nhau đâu sao vẫn có hạnh phúc" nhưng nàng kịp thời dừng lại, sợ cha tát tai vì tội vô lễ.

Gerald tiếp tục nói chậm rãi, chọn lời:

− Dòng họ mình khác hẳn với nhà họ Quilkes. Họ cũng khác với bất cứ láng giềng nào ... khác với mọi gia đình mà ba quen biết . Họ là những kẻ kỳ dị, thà cứ để họ cưới lẫn nhau giữa những người bà con để giữ riêng cái kỳ dị đó còn hơn.

− Không, ba, Ashley đâu có...

− Hãy giữ mồm giữ miệng, con gái! Ba không có ý nói xấu nó đâu bởi vì ba mến nó. Ba bảo kỳ dị chớ không nói là điên. Nó không điên như bọn Calvert dám hy sinh mọi thứ vì một con ngựa, cũng không như đám Tarleton cứ mỗi một lứa là đẻ ra một hoặc hai thằng say, cũng chẳng giống đám Phontaine võ phu, nóng nảy, dám ám sát người vì một sự nhục mạ tưởng tượng. Cái lối kỳ dị đó rất dễ hiểu, chắc chắn như vậy . Và nếu không nhờ Thượng đế thì Gerald O Hara nầy cũng không thoát khỏi những tệ hại đó! Ba cũng không có ý nói là Ashley sẽ chạy theo một con đàn bà khác, nếu con là vợ nó, hoặc nó sẽ đánh đập con. Được vậy có lẽ con còn sung sướng hơn vì ít ra con cũng hiểu được vì sao. Nhưng nó lại khác thường với những lối khác không làm sao hiểu nổi . Ba mến nó nhưng phần lớn những chuyện nó nói, ba chẳng hiểu đầu đuôi ra sao cả . Đâu, con nói thật coi con có hiểu nổi những chuyện lăng nhăng trong sách vở, thi ca, âm nhạc, và hội họa cùng những thứ khùng điên tương tự như nó kể hay không?

Scarlett sốt ruột:

− Kìa, ba! Nếu con lấy anh ấy, con sẽ thay đổi tất cả.

− Ồ, con có thể thay đổi à?

Gerald nhìn chăm chú vào mặt con, nói tiếp:

− Như vậy là con chẳng hiểu gì về đàn ông, chưa nói tới Ashley. Không một người vợ nào có thể thay đổi được tánh tình chồng, con đừng quên điều đó . Còn nói tới chuyện thay đổi một người trong dòng họ Quilkes thì ... là chuyện vá trời, con ơi! Cả họ đều như vậy, và cứ muôn đời như vậy . Ba bảo là họ kỳ dị ngay từ lúc mới sanh ra. Cứ xem họ chịu khó đi cho tới Nữu ước và Boston để coi ca kịch và tranh sơn dầu . Rồi còn gởi mua sách Pháp và Đức trong mấy tiệm buôn của Yankee! Rồi ngồi ì ra đó, vừa đọc vừa mơ mộng có Trời mà biết chuyện gì, trong khi đáng lý ra phải dùng thì giờ đó để săn bắn và đánh phé như bao nhiêu người bình thường khác.

Tức giận vì Ashley bị chê là quá gần với nữ tính, Scarlett phản đối:

− Không một ai trong hạt nầy có thể cỡi ngựa giỏi hơn Ashley, không một ai cả, ngoại trừ cha anh ấy. Còn về chuyện đánh phé bộ không phải Ashley mới ăn của ba hai trăm đô-la tuần qua tại Jonesboro sao?

Gerald hết chối cãi:

− Vậy là mấy thằng nhóc Calvert lại bép xép nữa rồi, nếu không thì con làm sao biết được con số. Ashley có thể cỡi ngựa hay so với người hay nhứt và đánh phé giỏi với người giỏi nhứt - và người đó chính là ba. Và ba cũng không chối cãi là nó uống rượu cũng cừ khôi, có thể hạ ngã anh em Tarleton không mấy khó . Nó có thể làm tất cả những chuyện đó nhưng chẳng để tâm vào . Chính vì vậy mà ba bảo là nó kỳ dị.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 7-10-2011 23:17:22 | Chỉ xem của tác giả
Cuốn theo chiều gió - Chương 2
-----------------------------------------

Scarlett lặng thinh, tim nàng thắt lại. Đối với nhận xét sau cùng của cha, nàng nhận thấy rõ là đúng . Ashley không hề chú tâm vào bất cứ những thú tiêu khiển nào thuộc loại đó mặc dầu chàng tự chúng tỏ có biệt tài. Tất cả những gì người khác cho là đặc biệt thú vị, chàng chỉ tham dự với một ít hứng thú của người biết giữ lễ cho phải phép.
Hiểu rõ sự im lặng của Scarlett, Gerald vỗ nhẹ vào tay con và nói với giọng đắc thắng:

− Con thấy không, Scarlett! Con đã nhận đó là sự thật . Con sẽ sống ra sao với một người chồng như Ashley. Những người trong dòng họ Quilkes đều gàn cả.

Rồi với giọng vỗ về, ông nói tiếp:

− Lúc nãy khi ba nói với con về mấy anh em Tarleton, không phải là ba cố ý đề cao chúng . Bọn nó đều xứng đáng, nhưng nếu con để mắt tới thằng Cade Calvert, ừ, thì là con giống ba. Họ Calvert gồm toàn những người tốt mặc dầu ông già chúng nó lấy một bà vợ Yankee. Và tới khi ba qua đời ... im, con gái cưng nghe ba nói! Ba sẽ để cả đồn điền Tara nầy cho con và thằng Cade...

Scarlett giận dữ ngắt lời:

− Dầu có đặt Cade ngồi trên mặt kho tàng, con cũng không thèm . Ba đừng đề cao hắn với con! Con không thèm Tara cũng chẳng cần bất cứ một đồn điền cổ lỗ nào . Đồn điền mà không có nghĩa gì khi...

Nàng định nói "khi mà không sống được với người mình yêu", nhưng tức giận trước sự khinh mạn gạt ngang của con đối với món quà mà ông quí trọng nhứt đời - chỉ thua có Ellen - Gerald gầm lên:

− Scarlett O Hara, cô dám đứng đó nói với tôi rằng Tara mảnh đất nầy - chẳng nghĩa lý gì hết hả?

Scarlett bướng bỉnh gật đầu . Nàng đã đau đớn đến độ không còn biết sợ cơn thịnh nộ của cha.

Khoa rộng hai cánh tay lớn và chắc nịch, Gerald quát lớn:

− Đất đai là vật duy nhứt có ý nghĩa trên đời, bởi vì đó cũng là vật duy nhứt tồn tại mãi, cô đừng quên điều đó! Đó là vật duy nhứt xứng đáng để bỏ công làm lụng, xứng đáng để chiến đấu bảo vệ... và xứng đáng để chết vì nó.

Scarlett kêu lên, giọng nhàm chán:

− Kìa, ba! Ba nói y hệt như một người Ái Nhĩ Lan.

− Có khi nào tôi xấu hổ là người Ái Nhĩ Lan đâu? Không, tôi còn hãnh diện nữa mà . Và cô, cô đừng quên là cô cũng có một nửa dòng máu Ái Nhĩ Lan trong người thì mảnh đất mà họ sống trên đó chính là một bà mẹ hiền . Ngay lúc nầy, tôi mắc cỡ vì cô. Tôi dâng cho cô mảnh đất xinh đẹp nhứt trên đời - ngoại trừ mảnh đất ở hạt Meath - rồi cô tỏ thái độ gì ? Cô gạt ngang đi!
Gerald sắp ầm ĩ nổi cơn thịnh nộ thì thoáng thất nét bi thương trên mặt của con nên dừng lại:

− Nhưng thôi, con còn trẻ quá . Tình yêu đất rồi sẽ đến với con. Là người Ái Nhĩ Lan, con không làm sao rời bỏ được đất đai. Con còn nhỏ và chỉ biết nghĩ tới đám thanh niên theo tán tỉnh . Tới chừng nào lớn lên, con sẽ biết tình yêu đất ra sao... Thôi, con cứ quyết định chọn Cade hoặc một trong hai đứa sanh đôi Tarleton, hay một đứa nào đó của Evan Munroe rồi con sẽ thấy ba tốt với con tới bực nào!

− Kìa, ba!

Tới lúc đó Gerald đã hoàn toàn chán nản cuộc đối thoại với con và hết sức buồn khổ trước vấn đề nan giải . Đã vậy, ông còn đau buồn hơn vì Scarlett cứ mang bộ mặt thảm não sau khi được hứa cho chọn bất cứ người con trai ưu tú nào trong hạt, lại còn được hứa tặng cả Tara. Ông muốn những quà tặng của ông phải được đón nhận với những tiếng vỗ tay và những cái hôn đáp lễ .

− Thôi, đừng nhăn nhó nữa, tiểu thơ! Cô lấy ai cũng được miễn là người đó hoà hợp với cô, một người phong nhã miền Nam, và biết tự trọng. Đối với đàn bà, tình yêu tới sau hôn nhân.

− Ồ, ba! Đó là quan niệm cổ hủ bên xứ của ba!

− Nhưng đó là một quan niệm đúng! Cái trò ở Mỹ nầy muốn xếp đặt những đám cưới vì tình, như bọn đầy tớ, bọn Yankee! Những cuộc hôn nhân tốt đẹp nhứt là do cha mẹ tác thành cho con gái chớ làm sao một đứa bé nông nổi giống như con mà có thể biết được đứa nào tốt, đứa nào đểu cán? Cứ xem dòng họ Quilkes thì biết . Cái gì đã làm cho người của họ từ đời nầy tới đời kia vẫn khoẻ mạnh và kiêu dũng? Có gì lạ đâu, họ chỉ kết hợp lẫn nhau, cưới gả những người trong họ hàng do chính gia đình của họ muốn như vậy.

− Ồ!

Scarlett rên rỉ, nỗi đau xót lại đến với nàng vì những lời của Gerald lại gợi ra một sự thật phũ phàng . Nhìn cái đầu cúi gầm của con, Gerald lắc lư trên đôi chân một cách khổ sở:

− Con khóc đó hả ?

Ông vừa hỏi vừa vụng về nâng cằm con lên, nét mặt hiện rõ tình thương.

− Không.

Scarlett hét lớn và vùng khỏi tay cha.

− Con nói láo, nhưng ba lại rất hãnh diện. Ba rất bằng lòng là con vẫn còn biết tự trọng. Ba muốn được thấy con như vầy trong cuộc dã yến ngày mai. Ba không muốn cho cả hạt nầy đàm tiếu và cười vào mặt con về chuyện đem trái tim dâng cho một người đàn ông chẳng ngó ngàng gì tới mình, ngoại trừ tình bạn thông thường.

Scarlett buồn rầu nghĩ thầm: “Anh ấy có nghĩ tới mình. Nghĩ rất nhiều. Mình biết chắc như vậy. Mình có thể nói ra nếu mình có thêm được một ít thì giờ, mình có thể làm cho anh ấy phải nói ra… Ồ, phải chi những người trong dòng họ Quilkes đừng có ý nghĩ là phải cưới hỏi giữa những người cùng họ hàng!”

Gerald quàng lấy tay con.

− Bây giờ mình vào nhà ăn tối, và nhớ đây là chuyện giữa hai cha con mình thôi. Ba sẽ không làm buồn lòng mẹ con về vụ nầy… Con cũng vậy. Hỉ mũi đi, con.

Scarlett hỉ mũi vào chiếc khăn tay đã bị vò nát, và hai cha con tay trong tay cùng ngược lên lối đi tối sẫm, con ngựa chậm chạp theo sau. Gần tới nhà, Scarlett sắp sửa tiếp nối câu chuyện thì nhìn thấy mẹ đang đứng trong bóng tối mờ dưới mái hiên. Bà đội nón, quàng khăn và đeo bao tay. Phía sau bà là Mammy đang hầm hừ, tay xách chiếc túi da màu đen dùng để đựng thuốc men mà bà Ellen O’Hara thường dùng để săn sóc và chữa bệnh cho bọn nô lệ. Môi của Mammy vốn đã dày và xệ, gặp lúc bất bình, lại còn dày và xệ gấp đôi. Bây giờ, nó đang xệ dài ra, và Scarlett hiểu ngay là Mammy đang bực tức về một chuyện nào đó.

− Ông O’Hara!

Ellen gọi khi nhìn thấy hai cha con đang đi tới… bà thuộc thế hệ của những người quí trọng nghi thức mặc dầu đã sống với nhau mười bảy năm và đã có sáu con…

− Ông O’Hara, nhà Slattery có người bịnh. Đứa con mới sanh của Emmie đang hấp hối và cần được đặt tên Thánh. Tôi và Mammy phải qua bên đó để xem có giúp ích được gì không.

Bà hơi cất giọng lên như để hỏi và sẵn sàng chờ quyết định tán thành của chồng, dầu chỉ là hình thức nhưng cũng làm mát ruột Gerald...

Gerald nói oang oang:

− Trời ơi, sao bọn da trắng rác rến đó lại khiến cho bà rời khỏi nhà ngay trong giờ ăn tối và giữa lúc tôi đang cần kể cho bà nghe về chuyện chiến tranh đang được bàn tán xôn xao ở Atlanta! Xin cứ đi, bà O Hara. Bà sẽ không thể nào ngủ yên được khi biết là có chuyện đau khổ ở ngoài mà không có mặt bà tại chỗ để giúp đỡ.

− Bà làm sao ngủ yên được dầu phải đi ban đêm để cứu trị cho bọn hắc chủng và đám ra trắng.

Mammy vừa càu nhàu vừa đi xuống những bậc thềm tiến thẳng ra chiếc xe đợi sẵn bên mã lộ. Ellen vuốt nhẹ vào má Scarlett:
− Chút nữa vào bàn ăn, con nhớ ngồi thay chỗ má.

Mặc dầu nước mắt cứ trực trào ra, Scarlett vẫn rung động với sự vuốt ve lúc nào cũng chứa đầy huyền lực của mẹ nàng, vưới mùi hương sả nhẹ nhàng toát ra từ chiếc áo lụa của bà. Ở Ellen O Hara có một cái gì khiến cho Scarlett ngất ngây, một sự mầu nhiệm cùng chung sống với nàng dưới một ngôi nhà, và sự mầu nhiệm đó vừa làm cho nàng sợ hãi đồng thời cũng khiến nàng say mê và cảm thấy ấm áp lạ thường.

Gerald đỡ vợ lên xe rồi dặn gã đánh xe cẩn thận. Phụ trách việc nuôi ngựa cho Gerald suốt hai chục năm, Toby biểu lộ sự bất bình vì bị chỉ dạy trong ngay lãnh vực chuyên nghiệp của anh ta. Toby với Mammy ngồi bên cạnh xe rõ ràng là hai hình ảnh chính xác phơi bày thái độ bất mãn bằng cách xệ môi dài ra của chủng tộc Phi châu.

Gerald cáu kỉnh:

− Nếu mình không tận tâm giúp đỡ bọn Slattery để chúng nó mạt rệp luôn, có lẽ chúng nó đã bán lại cho mình mấy mẫu đất lầy lội đó và cả hạt nầy sẽ không còn bị phiền hà gì về chúng nữa.

Rồi, mặt bỗng tươi lên với ý nghĩ sắp bẫy một màn đùa cợt, ông nói tiếp:

− Mình vào đi con, mình sẽ cho tên Pork biết là thay vì mua Dilcey về, ba đã bán Pork luôn cho John Quilkes.

Ông ném dây cương cho một thằng bé da đen đứng gần đó và bước lên thềm. Ông đã quên khuấy chuyện đau buồn của con gái và chỉ nghĩ tới chuyện trêu chọc người hầu. Scarlett uể oải bước theo, chân nặng như chì. Nàng nghĩ, dầu sao thì một sự kết hợp giữa nàng và Ashley cũng chẳng có gì kỳ dị hơn sự kết hợp giữa cha nàng và Ellen Robillard O Hara. Rồi cũng như mọi khi, nàng tự hỏi chẳng biết tại sao, một con người ầm ĩ và thiếu tế nhị như cha nàng, lại có thể cưới được một người vợ như mẹ nàng, bởi vì cả hai quá cách biệt nhau về tuổi tác, trình độ giáo dục và tư tưởng.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 7-10-2011 23:23:16 | Chỉ xem của tác giả
Chương 3

Ellen O Hara đã ba mươi hai tuổi, ở vào thời đó, bà đưỢc coi như một thiếu phụ trung niên, đã từng sanh 6 đứa con và chôn hết 3. Bà cao lớn, cao hơn chồng một cái đầu nhưng với dáng đi mềm mại làm nhún nhảy nhịp nhàng tà áo phồng to, bà đã làm cho mọi người quên để ý tới chiều cao đó . Chiếc áo chẽn lụa đen làm nổi bật cái cổ tròn trịa, thon thon và trắng ngần như sữa . Cái cổ đó dường như lúc nào cũng ngửa ra sau bởi sức nặng của mái tóc xum xuê bọc trong bao lưới . Mẹ bà là người Pháp mà cuộc Cách mạng 1791 cha mẹ đã phải trốn chạy khỏi đảo Haiti. Ở mẹ, bà thừa hưởng đôi mắt huyền hơi xếch, những hàng mi dài rậm và mái tóc đen nhánh . Với cha, từng là một chiến sĩ của Nã phá luân, bà giống ở sóng mũi dài và thẳng, ở quai hàm vuông nhờ đôi má bầu bĩnh làm dịu nét . Nhưng chính nhờ cuộc sống mà Ellen có được cái sắc thái kiêu hãnh nhưng không khinh mạn, dáng vẻ yêu kiều và nét sầu mơ làm mất hẳn cả sự tươi vui.

Bà sẽ là một giai nhân tuyệt sắc nếu có được một chút ánh sáng trong đôi mắt, một chút nồng nhiệt ở nụ cười, hoặc một chút hồn nhiên trong giọng nói, cái giọng nói êm như ru thường rót vào tai chồng con và đám gia nhân. Giọng bà êm dịu nhưng hơi líu ríu của người miền duyên hải xứ Georgia, nguyên âm dính liền nhau, phụ âm tách rời ra với chút ít âm điệu Pháp. Đó là thứ tiếng nói chẳng bao giờ cất cao khi ra lịnh hoặc quở trách con, nhưng là tiếng nói mà mọi người ở Tara phải tuân hành tức khắc, trong khi những lời gầm thét ỏm tỏi của chồng bà bị kể như vô hiệu.

Từ lúc hiểu biết tới nay, Scarlett vẫn thấy mẹ nàng không hề biến đổi, giọng nói vẫn êm và dịu dầu là ngợi khen hay rầy bảo, cử chỉ vẫn khoan thai và hữu hiệu mặc dầu luôn luôn bận rộn với bao nhiêu công việc khẩn cấp và náo nhiệt hằng ngày trong ngôi nhà của Gerald, đầu óc bà luôn luôn bình tĩnh và lưng vẫn thẳng, ngay cả trong ngày chết của ba đứa con trai. Scarlett cũng chưa bao giờ nhìn thấy mẹ dựa lưng vào ghế . Nàng cũng chẳng hề thấy mẹ ngồi ở nơi nào mà không có kim chỉ trên tay, ngoại trừ lúc dùng bữa, lúc cứu chữa người bệnh hoặc tính toán sổ sách của đồn điền . Khi tiếp khách, trên tay bà luôn luôn có một món đồ thêu, nhưng vào những lúc khác, bàn tay bà lại bận rộn với những chiếc sơ mi nhầu nát của Gerald, với những chiếc áo của ba cô con gái hoặc y phục của bọn hắc nô. Scarlett không thể tưởng tượng ra hình ảnh của mẹ mà không có cái bao đầu ngón tay bằng vàng . Nhớ tới mẹ là nàng cũng thấy ngay hình ảnh của mẹ đi qua trong tiếng sột sọat của tà áo lụa, theo sau là một con bé da đen có bổn phận duy nhứt là rút chỉ lượt và mang hộp đồ may bằng gỗ tử đàn, đi từ phòng nầy sang phòng khác, trong khi Ellen rảo quanh khắp nhà để kiểm soát việc nấu nướng, quét dọn và việc may y phục cho người làm ở đồn điền.

Chưa bao giờ, ngày cũng như đêm, Scarlett bắt gặp mẹ rời khỏi dáng vẻ trang nghiêm bình lặng cũng như chưa bao giờ nhận thấy cách phục sức của bà thiếu thích nghi. Khi Ellen sửa soạn dự một cuộc khiêu vũ hay tiếp khách hoặc đi Jonesboro dự lễ, bà phải cần tới hai tiếng đồng hồ, hai người tớ gái và cả Mammy phụ lực vào để lo việc ăn mặc sao cho thích hợp. Tuy thế, trong những trường hợp khẩn cấp, bà lại thay đổi y phục một cách mau lẹ khác thường.

Vì cửa phòng mở ra hành lang đối diện của phòng mẹ nên ngay từ thuở nhỏ, Scarlett đã quen với tiếng động rón rén của những bàn chân da đen bước thoăn thoắt trên sàn gỗ cứng từ lúc tờ mờ sáng, những tiếng gõ cửa gấp rút ở phòng của mẹ, và tiếng nói nghẹn ngào sợ sệt của bọn hắc nô thì thào về chuyện đau ốm, sanh đẻ, chết chóc trong dãy phòng quét bằng vôi trắng, nơi chúng ở . Lúc nhỏ, nàng thường len lén ra cửa nhìn qua khe hở nhỏ, và thấy Ellen từ trong gian phòng tối om bước ra trong khi cũng ở nơi đó, tiếng ngáy của Gerald vẫn đều đều và vô tư lự. Mẹ nàng đi vào vùng ánh sáng chập chờn của ngọn nến, tay kẹp hộp thuốc men, tóc vẫn thẳng thớm, áo chẽn gài cẩn thận.

Lúc nào cũng vậy, Scarlett luôn luôn cảm thấy ấm áp khi nghe mẹ thì thầm với giọng chắc, gọn nhưng đầy âu yếm trong khi bà nhón chân đi:

− Suỵt, đừng có ầm ĩ thế . Bọn bây làm ông O Hara mất giấc ngủ bây giờ . Bịnh chúng nó chưa đến nổi chết đâu.

Quả vậy, nàng cảm thấy ấm lòng trở lên giường, biết rằng Ellen đang ở bên ngoài trong đêm tối và mọi việc đều đâu vào đó cả.

Lại có những buổi sáng, sau khi trọn đêm săn sóc những người sanh nở hoặc cứu chữa những kẻ sắp chết trong khi chẳng một ai tìm được hai bác sĩ Phontaine - một già, một trẻ - đến để tiếp tay, Ellen vẫn chủ toạ bữa điểm tâm như thường lệ, đôi mắt huyền nổi quầng thâm vì mệt mỏi . Dưới cái bề ngoài hiền thục uy nghiêm đó là cả một tinh thần cương nghị khiến cho tất cả đều kinh sợ kể cả chồng bà và mấy cô con gái, mặc dầu thà chết còn hơn là phải nhìn nhận điều đó - đối với Gerald.
Đôi khi Scarlett nhón chân hôn mẹ, nàng để ý đến vành môi trên quá ngắn và quá mềm mại của bà, một cái miệng dễ bị đời gây đau khổ . Nàng tự hỏi chẳng biết cái miệng đó có khi nào cười nhảm nhí lúc còn con gái, hoặc thức trọn những đêm dài để tâm tình với bạn gái hay không. Không, đó là một điều không thể có. Mẹ nàng vẫn luôn luôn là một, là cột trụ của uy lực, là nguồn gốc của khôn ngoan, con người duy nhứt bao giờ cũng có sẵn mọi giải đáp.

Nhưng Scarlett đã lầm, vì rằng nhiều năm về trước, Ellen Robillard của Savannah cũng cười ngớ ngẩn như bất cứ một cô gái nào ở tuổi 15 trong thành phố duyên hải nên thơ đó, cũng thức trắng đêm với bạn bè, trao đổi tâm tình, tiết lộ tất cả các bí ẩn của đời mình - chỉ trừ một việc . Đó là năm mà Gerald O Hara, lớn hơn Ellen 25 tuổi bước vào cuộc đời bà - và đó cũng là năm mà người anh họ trẻ trung, mắt đen huyền, Philippe Robillard, bước ra khỏi đời bà . Khi Philippe với đôi mắt long lên sòng sọc, và với điệu bộ hung hãn, vĩnh viễn rời bỏ Savannah, người con trai đó cũng mang theo luôn ngọn lửa lòng của Ellen, để cho anh chàng Ái nhĩ lan chân vòng kiềng kia kết hôn với một cái vỏ sò trống rỗng nhưng xinh xắn.

Nhưng bao nhiêu đó cũng đủ đối với Gerald, một dịp may bất ngờ để cưới được người con gái ấy. Và nếu có một cái gì đã ra khỏi cuộc đời nàng, thì cái gì đó có mất mát gì đối với ông đâu. Là người sáng suốt, ông hiểu rằng chỉ có phép lạ mới khiến cho một gã Ái nhĩ lan vô gia đình, không sự sản lại có thể chiếm được ái nữ của một trong những gia đình giàu có và kiêu hãnh nhứt ở miền duyên hải . Bởi vì chính Gerald chỉ là một kẻ tự lập.

Từ Ái nhĩ lan, Gerald bước chân lên đất Mỹ vào năm hai mươi mốt tuổi. Cũng như nhiều người Ái nhĩ lan trước đó, hơn hoặc kém ông, Gerald đã phải ra đi hấp tấp chỉ với một ít quần áo trên lưng, với hai đồng si linh và với cái đầu được treo giá một khoản tiền khá lớn, lớn hơn tội của ông nhiều . Ở xứ ông, không một tên Orange nào đáng giá tới một trăm đồng bảng Anh đối với chánh phủ Anh quốc, nhưng người Anh xúc động vì một viên quản lý của một điền chủ Anh đã bị ông đánh chết thì ông chỉ có việc là phải bỏ trốn và trốn ngay. Quả tình ông có gọi tên quản lý đó là "đồ tạp chủng Orange", nhưng có thế mà hắn lại dám chửi vào mặt ông bằng cách huýt sáo điệu nhạc "The Boyne Quater".

Trận Boyne đã xảy ra cách hơn một trăm năm, nhưng đối với người trong họ O Hara và các láng giềng thì như chỉ mới hôm qua khi mà đất đai và gia sản của họ tan biến trong vầng mây bụi che phủ cuộc đào tẩu của hoàng thân Stuart, để cho Quilliam oph Orange và đoàn quân khả ố của ông đeo huy hiệu màu cam tàn sát những kẻ đứng về phe hoàng tộc Stuart.
Vì lẽ đó và nhiều lý do khác nữa, gia đình O Hara tưởng rằng chuyện rắc rối chẳng có gì quan trọng lắm, ngoại trừ trường hợp nó bị kết liền với những hậu quả nghiêm trọng khác . Từ nhiều năm, họ O Hara thường bị nhân viên cảnh sát Anh nghi ngờ về những hoạt động lén lút chống chánh phủ, và Gerald không phải là người đầu tiên trong gia đình phải chạy ba chân bốn cẳng để rời khỏi Ái nhĩ lan giữa lúc hừng sáng . Hai người anh lớn, James và Andrequ mà ông chỉ nhớ mang máng là hai thanh niên kín đáo thường đi đi về về ban đêm vào những giờ giấc khác thường, đôi khi biến mất luôn cả mấy tuần khiến bà mẹ ngồi đứng không yên. Họ đã trốn sang Mỹ nhiều năm trước, ngay sau khi một số súng chôn giấu dưới những chuồng heo nhà O Hara bị khám phá . Hiện nay, họ đã là những thương gia phát đạt "mặc dầu chỉ có Trời mới biết vì sao" như lời bà mẹ mỗi khi nhắc tới hai đứa lớn nhứt của đám con trai bà . Chính Gerald đã được gởi gấm cho hai người anh đó.

Ông rời nhà với chiếc hôn vội vàng của mẹ, với những lời bà cầu nguyện văng vẳng bên tai và lời khuyên của người cha: "Mầy phải nhớ là không bao giờ lấy cắp một món gì của ai". Năm người anh cao lớn tiễn biệt ông với những nụ cười thán phục pha lẫn chút ý nghĩa khích lệ, bởi vì Gerald hãy còn nhỏ mà là kẻ thấp bé trong một gia đình cao lớn khoẻ mạnh.

Năm người anh cũng như cha ông, đều cao từ một thước tám trở lên, nhưng về phần Gerald năm hai mươi mốt tuổi, ông tự hiểu là chiều cao một thước sáu mấy phân là tất cả những gì mà Thượng đế đã ban cho. Chỉ có hạng người như Gerald mới không phí thì giờ tiếc rẻ cái tầm vóc thấp bé của mình và không bao giờ coi đó là một chướng ngại trên đường tiến thủ . Trái lại, chính cái thân hình thu gọn đó đã tạo cho ông thành người như ngày nay, bởi vì ông đã sớm hiểu rằng những người thân hình nhỏ bé cần phải đầy đủ quả cảm mới sống còn được giữa những kẻ to lớn . Và Gerald đúng là người quả cảm.

Các anh ông đều ảm đạm và trầm lặng . Ở họ, sự lưu truyền của những thời vàng son trong gia tộc đã vĩnh viễn qua rồi, đã bị dồn nén thành một mối hận thù câm nín và nếu có phải phát tiết thì chỉ với hình thức chua xót . Nếu Gerald cũng cao lớn, khoẻ mạnh như các anh, có lẽ tánh tình ông cũng như họ và có lẽ ông đã lặng lẽ biến thành một thành phần chống đối chánh phủ . Nhưng Gerald là đứa "rộng họng cứng đầu" như mẹ ông thường mắng yêu như thế, dễ nổi xung và hay đấm đá . Ông giống như một con gà "bantam" nhỏ bé nhưng hung hăng đi nghênh ngang giữa một đàn gà khổng lồ loại "cochin", nhưng các anh ông vẫn nuông chiều ông và chỉ khi nào xét thấy quá cần để răn dạy thằng em nhỏ bé, họ mới phải sử dụng tới những nắm tay to lớn.

Về phần học vấn, Gerald mang theo lên đất Mỹ một kiến thức kém cỏi, nhưng ông không cần nhận thức điều đó, và nếu có ai nói rõ với ông như thế, ông vẫn dửng dưng. Bà mẹ đã dạy cho ông biết đọc và biết viết . Ông cũng khá tinh thông về toán pháp . Và trình độ chữ nghĩa ông chỉ tới chừng đó thôi. Phần ngôn ngữ La tinh mà ông đã được biết qua chỉ đủ cho những lời xướng hoạ trong lễ Misa và sự hiểu biết về sử học của ông chỉ gồm toàn những chuyện đau thương, đen tối đã dồn dập xảy tới cho Ái nhĩ lan. Ông chẳng biết tí gì về thi ca ngoại trừ mấy bài thơ của Moore và cũng không hiểu gì về âm nhạc trừ một vài bản dân ca. Trong khi vẫn ngưỡng mộ những kẻ có học thức hơn mình, ông chẳng bao giờ nhìn nhận trình độ học lực của mình là một thiếu sót đáng kể . Vả lại, những điều học hỏi đó có giúp ích được gì tại một xứ khai phá, nơi mà những người Ái nhĩ lan dốt đặc cũng đã lập nên sự sản to lớn ? Ở một nơi chỉ đòi hỏi người đàn ông phải có sức khoẻ và không ngại lao tác ?
Cả James và Andrequ, hai người anh đã cho ông tá túc trong một cửa hàng ở Savannah, cũng không hề hối tiếc về sức học quá thiếu sót của đứa em. Bàn tay khéo léo cùng những phép tính chính xác và khả năng linh mẫn của ông đã khiến họ trọng nể . Thật vậy, ở đây, nếu cậu em Gerald mà có được tài nghệ văn chương hoặc âm nhạc thì chắc chắn hai người anh của cậu ta sẽ không khỏi bất bình, khinh ghét . Mỹ quốc vào những năm đầu thế kỷ, dường như ưu đãi người Ái nhĩ lan. James và Andrequ bắt đầu công cuộc làm ăn bằng cách chuyên chở hàng hoá trong những cổ xe phủ kín từ đi từ Savannah tới tận các thành phố nội địa Georgia và đã phát đạt để dựng lên một thương cuộc riêng có Gerald cùng chung hưởng.

Gerald yêu mến miền Nam, và chưa đầy bao lâu, ông tự cho mình là một người Nam chánh cống . Kể ra thì hãy còn quá nhiều chuyện về miền Nam - và những người Nam - mà ông không làm sao hiểu nổi, nhưng với bản chất mộc mạc, ông chấp nhận tất cả những tư tưởng và thói quen nào gần gũi với ông - chẳng hạn như chơi phé và đua ngựa, các cuộc bàn cãi chánh trị sôi nổi và luật lệ song đấu, quyền lợi các quốc gia và lên án bọn Yankee, binh vực chế độ nô lệ và quí trọng mảnh đất được mệnh danh là Vua Bông Vải, khinh rẻ bọn da trắng cặn bã và tỏ ra lịch sự thái quá đối với nữ giới . Ông cũng tập cả thói nhai thuốc lá . Riêng về tửu lượng thì ông khỏi phải tốn công để học hỏi vì là một kẻ có máu rượu ngay tư thuở mới ra đời.

Nhưng Gerald vẫn cứ là Gerald. Lề lối sống và tư tưởng của ông thay đổi nhưng ông vẫn cứ giữ nguyên cốt cách của ông, dầu rằng ông có đủ sức để thay đổi nó . Ông thán phục cái dáng điệu sang trọng buông thả của các đại phú nông và chủ đồn điền giàu có từ những lãnh địa đầy rêu của họ đến viếng Savannah, chễm chệ trên lưng những con ngựa nòi, theo sau là các cổ song mã chở những bà vợ xinh đẹp và phía sau nữa là một số xe đầy nhóc bọn nô lệ . Nhưng Gerald thì chẳng bao giờ có được cái điệu bộ sang trọng . Giọng nói uể oải và điệu bộ hững hờ của họ đối với ông nghe thật êm tai nhưng cái giọng của người Ái nhĩ lan vẫn bám chặt ở lưỡi ông. Ông thích cái thái độ ung dung của họ khi thương lượng các vấn đề quan trọng.

Nếu có phải vì một cây bài mà mất đi một sản nghiệp, một đồn điền hay một tên nô lệ, họ vẫn viết giấy nhường lại những thứ đó cho người thắng cuộc với một dáng vẻ bất cần như khi họ ném vãi một số xu đồng cho đám trẻ con da đen. Nhưng Gerald là kẻ từng sống trong cảnh nghèo khó nên ông không bao giờ học được cái tư thái thua tiền một cách ung dung thanh lịch đó . Người ở miền duyên hải Georgia nầy họp thành một sắc dân nhỏ khả ái với giọng nói êm dịu, với những cơn giận bất ngờ và tính khí vô chừng khiến Gerald yêu thích họ . Tuy thế, bên trong con người trẻ tuổi vừa mới rời khỏi một xứ sở mà các đầm lầy đầy sương mù không dung chứa bịnh sốt rét, luôn luôn có gió ẩm và lạnh, bên trong con người đó còn có một khí lực sinh động và hoạt nhiệt khiến cho anh ta khác hẳn với hạng người trang nhã nhưng lặng lờ quen sống ở phong thổ bán nhiệt đới với những ao đầm đầy muỗi sốt rét.

Ở họ, ông chỉ học lấy những gì mà ông cho là cần thiết, phần còn lại, ông bất chấp . Ông nhận thấy đánh phé là trò hữu dụng nhứt trong tất cả các tập quán miền Nam, đánh phé và uống rượu thật cừ; và chính cái năng khiếu về phé và rượu mạnh đó đã đem lại cho Gerald hai trong ba vật sở hữu quí nhứt đời ông, đó là gã hầu cận và đồn điền bông vải . Vật quí nhứt còn lại chính là vợ của ông mà mỗi khi nghĩ tới, ông chỉ biết cho rằng đó là hạnh phúc trời ban.

Gã hầu cận, tên Pork, là một hắc nô da đen nhánh, đứng đắn và thuần thục về nghệ thuật thời trang. Anh ta là kết quả của một sòng bài phé suốt đêm giữa Gerald và một chủ đồn điền từ đảo St. Simon tới . Lối tố phé của ông ta cũng gan lì chẳng kém Gerald, nhưng về tửu lượng đối với món Rhum Nequ Orleans thì ông ta không phải là đối thủ . Về sau, mặc dầu người chủ cũ của Pork có đề nghị mua lại anh ta với giá mắc gấp đôi, Gerald vẫn cương quyết từ chối, bởi vì có được một gã nô lệ hầu cận đầu tiên mà đó lại là "tên hầu cận gioinhứt miền duyên hải" tức là đánh dấu được bước đầu tiên trong giấc mộng lớn của ông: có được thật nhiều nô lệ và thành một địa chủ thanh lịch.

Từ lâu ông đã có chủ ý là sẽ không giống như James và Andrequ cứ suốt ngày mặc cả với khách hàng rồi thức khuya tính toán những hàng cột dài chi chít số dưới ngọn nến mờ. Trái với hai anh, ông đã nhận thấy một cách sắc bén rằng xã hội chẳng bao giờ có ấn tượng đẹp đối với những "người là thương mãi". Gerald muốn trở thành một chủ đồn điền . Với tất cả lòng hăng say của một người Ái nhĩ lan đã từng là tá điền, ông muốn chính mắt nhìn ngắm những mẫu đất xanh tươi của riêng mình. Trong mục đích duy nhứt đó, ông kỳ vọng có một ngôi nhà, một đồn điền, thật nhiều ngựa và nô lệ cho riêng mình . Và ở đây, ở một xứ vừa được khẩn hoang, không còn phải lo sợ đến hai mối tai hoạ vẫn luôn xảy ra ở quê hương ông - thuế má ăn mòn huê lợi và sự đe doạ thường xuyên của một án lịnh tịch biên bất ngờ - ông nhứt quyết phải thực hiện mộng ước. Nhưng, cùng với thời gian trôi qua, ông nhận thấy rằng có một ước vọng và biến ước vọng đó thành sự thật là hai chuyện khác nhau.

Rồi bàn tay của định mệnh liên kết với bàn tay của thần đổ bác đã giúp cho ông có một đồn điền mà về sau ông gọi là Tata, đông thời đưa ông ra khỏi vùng duyên hải lên tận vùng cao nguyên Bắc Georgia.

chuyện xảy ra vào một đêm mùa xuân oi bức trong một quán rượu ở Savannah khi Gerald thoáng nghe câu chuyện của người bên cạnh. Khách lạ là người sanh quán ở Savannah vừa từ nội địa trở về sau mười hai năm xa cách. Ông ta là một trong những người trúng được đất đai do nhà nước xổ số để phân chia vùng đất mênh mông bát ngát của vùng Trung bộ Georgia do dân da đỏ nhượng lại một năm trước khi Gerald đặt chân lên Mỹ quốc. Ông ta đã lên trên đó và tạo dựng một đồn điền, nhưng hiện thời, ngôi nhà lớn đã bị thiêu huỷ, ông ta quá nản cái "chỗ ghê tởm" nên có ý định phủi tay.

Luôn luôn bị ám ảnh bởi cái ý nghĩ làm chủ một đồn điền, Gerald nhờ người giới thiệu với khách. Và càng lúc ông càng quan tâm hơn khi nghe người lạ kể chuyện là ở miền Bắc đó đang tràn ngập những người đi lập nghiệp từ Carolinas và Virginia tới. Sống khá lâu ở Savannah nên Gerald quan niệm rằng, ngoài vùng duyên hải ra, tất cả các nơi khác đều là rừng rú với một tên da đỏ ẩn núp sau mỗi bụi rậm. Trong khi tải hàng cho thương cuộc "Anh em O Hara", ông đã từng đi qua Augusta, phía bên con sông Savannah khoảng một trăm dặm, và ông cũng đã từng đi sâu tới các thành phố xưa cũ nằm về phía Tây của thị trấn nầy . Ông nhận thấy khu vực đó cũng được xây dựng an bày như vùng duyên hải, nhưng theo lời người lạ thì đồn điền của ông ta còn ở sâu vào một nội địa cách Savannah tới hai trăm rưỡi dặm về phía Tây và Bắc . Và chỉ cách con sông Chattahoochee chừng vài dặm. Gerald cũng biết rằng vượt quá con sông đó về phía Bắc là nơi chiếm cứ của giống dân da đỏ Cherokee, do đó ông không khỏi ngạc nhiên khi thấy người lạ kể qua những vụ đụng độ với dân da đỏ bằng một vẻ khinh thường, và cũng ở đấy, nhiều thị trấn bắt đầu mọc lên và đồn điền phát đạt vô cùng.


Một giờ sau, khi câu chuyện bắt đầu lạt lẽo, với một thủ đoạn làm ra vẻ ngây thơ chất phác phản chiếu từ đôi mắt trong xanh, Gerald đề nghị chơi bài . Khi đêm càng khuya và rượu uống đã nhiều, bao nhiêu người khác đều dừng tay, chỉ còn Gerald và người khách lạ . Khách xô hết đống tiền ra và tố luôn với tờ bằng khoán đất . Gerald cũng xô tuốt cộc tiền của mình và đặt trên đó trọn bóp bạc . Đặt trường hợp số bạc trong bóp đó là tiền của Công ty "Anh em O Hara", Gerald cũng không hối hận bao nhiêu vì ông sẽ về thú tội trước lễ Misa sáng hôm sau. Ông biết rõ điều ông muốn, và khi Gerald muốn có một cái gì, ông cố chiếm lấy bằng con đường trực tiếp . Vả lại, ông còn có cả một đức tin vào số mạng và "xây thiều dĩ " của mình nên không một chút bận tâm về việc làm cách nào để hoàn trả số tiền lại cho các anh nếu bài của người lạ lớn hơn.

Người lạ chỉ có đôi ách vừa thở ra vừa gọi mượn giấy bút và nói:

− Thắng ván nầy ông cũng chẳng được lợi bao nhiêu. Phần tôi thì khỏi phải lo đến việc thuế khoá . Ngôi nhà lớn bị cháy năm rồi . Đồn điền, cây cối mọc hoang và đầy những thông con. Nhưng dù sao nó cũng đã thuộc về ông.

Cũng ngay đêm đó, Gerald đã nghiêm trang bảo Pork khi anh ta đỡ ông lên giường:

− Đừng lầm lẫn chuyện bài bạc với rượu Quhisky trừ khi mình là tay cừ về rượu lậu Ái nhĩ lan.

Và gã nô lệ hầu cận bày tỏ sự thán phục của anh ta đối với chủ mới bằng một thứ thổ âm pha trộn giữa địa phương của anh ta và địa phương của chủ mà chỉ có hai người đối thoại là hiểu nổi với nhau mà thôi, kỳ dư chẳng ai có thể biết là gì cả .

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 7-10-2011 23:31:12 | Chỉ xem của tác giả
Cuốn theo chiều gió - Chương 3
-----------------------------------------

Con sông Phlint đục bùn lặng lờ chảy giữa hai bức tường thông và sồi bao phủ bởi những cây leo, ôm lấy giãi đất của Gerald như một cánh tay mở rộng ôm choàng qua hai phía . Đứng trên nền đất, trước là nền của ngôi nhà chánh, Gerald say sưa ngắm bức tường chắn cao ngất và xanh um ấy, coi như đó là bờ rào do chính ông dựng lên để phân định ranh giới mảnh đất của mình . Từ trên nền đá đen xạm vì hỏa hoạn nhìn xuống lối đi có trồng cây hai bên chạy ra đường cái, Gerald chửi thề ỏm tỏi vì vui sướng quá đến nỗi quên tạ ơn Thượng đế . Hai dãy cây song song nhau kia là thuộc quyền sở hữu của ông, cả cái sân hoang phế kia cũng là của ông, nơi đó cỏ đã mọc cao tới thân người bên dưới những khóm hoa mộc lan đầy bông sao trắng . Những cánh đồng không ai canh tác, lố nhố những thông non và bụi rậm, trải dài bình diện đất đỏ xa lần ra bốn phía cũng là của Gerald - tất cả đều thuộc quyền sở hữu của ông chỉ vì ông có dòng máu Ái nhĩ lan mạnh rượu và có cái can đảm dám liều sanh tử trong một ván bài.

Gerald nhắm mắt lại, và giữa sự yên tĩnh của vùng đất đỏ bỏ hoang, ông có cảm tưởng như vừa trở lại quê nhà . Ở đây, ngay dưới chân ông, một ngôi nhà tường vôi trắng sẽ mọc lện Bên kia đường sẽ có nhiều bức rào để chứa lũ gia súc béo phị và những con ngựa giống, và giãi đất đỏ thoai thoải đổ xuống triền đồi ra tận thung lũng phì nhiêu kia sẽ trắng xoá như lông tơ vịt biển dưới ánh mặt mặt trời - đó là bông vải, hàng mẫu và hàng mẫu bông vải ! Vận số của dòng họ O Hara lại sắp được tỏa rạng.

Với một ít bạc mượn được của hai người anh không mấy nhiệt thành và một khoản tiền khá lớn cầm thế đất, Gerald mua được một số nô lệ chuyên việc đồng áng và lên đường tới Tara sống độc thân trong ngôi nhà nhỏ chỉ có bốn phòng của viên quản gia trong khi chờ ngôi nhà lớn cất lên.

Ông cho khai quang các cánh đồng để trồng bông vải, mượn thêm tiền của James và Andrequ để mua nô lệ . Họ O Hara đoàn kết như một bộ lạc, luôn luôn bám sát vào nhau trong hoàn cảnh sung túc cũng như những lúc gặp tai ương, không phải vì quá thương mến nhau mà là vì trong suốt nhiều năm đen tối, họ đã hiểu được nếu muốn sống còn thì cả gia đình phải liên kết chặt chẽ với nhau để đối phó với bên ngoài . Họ cho Gerald mượn tiền, rồi những năm sau đó, tiền lại được trả vào tay họ với một số lời . Đồn điền từ từ bành trướng trong khi Gerald mua thêm một số đất bên cạnh, và ngôi nhà trắng đã từ trong mộng hiện ra.

Ngôi nhà do bọn nô lệ xây lên trông vụng về như bò trườn ra. Nó nằm chễm chệ trên gò đất nhìn xuống đồng cỏ tươi tốt trải dài nghiêng nghiêng xuống tận dòng sông, và Gerald đã hết sức hài lòng vì mặc dầu mới được xây cất, trông nó già giặn như từng trải mưa nắng nhiều năm. Những cây sồi cổ thụ đã từng nhìn thấy dân da đỏ đi qua dưới cành lá của mình ôm chặt lấy ngôi nhà, nhánh nhóc chìa ra che phủ mái nhà trong một vòm bóng mát . Sân cỏ được săn sóc kỹ càng bây giờ đã xanh mướt với loài xa trục thảo và loại cỏ Bermuda và Gerald luôn luôn nhắc nhở người làm phải trông chừng cẩn thận . Từ con đường lớn hai bên có trồng cây bách hương đến dãy lều trắng dùng làm nơi cư trú cho nô lệ, Tara toát ra một không khí chắc chắn, vững vàng và trường cửu . Cứ mỗi lần phi ngựa qua khúc quanh trên đường cái và nhìn thấy mái nhà của chính mình nhô lên khỏi cành lá xanh tươi là mỗi lần ông cảm thấy hãnh diện dường như lúc nào cũng chỉ mới nhìn thấy lần đầu.

Chính ông - chính cái anh chàng Gerald bé nhỏ, cứng đầu và ồn ào - đã tạo dựng được nó.

Gerald luôn hoà nhã với tất cả các láng giềng trong hạt, chỉ trừ đám Mac intosh có đất nằm sát mé trái đồn điền của ông và bọn Slattery chỉ có vỏn vẹn ba mẫu đất, cằn cỗi ở về phía phải, chạy dài theo những ao đầm nằm giữa con sông và đồn điền của John Quilkes.

Đám Mac intosh là người Tô cách lan - Ái nhĩ lan lại thuộc phe Orange nên cho dầu họ có được tất cả những đức tánh cao quí của bao nhiêu vị Thánh có tên trong lịch Thiên Chúa giáo thì dòng họ tổ tiên của họ vẫn cứ đáng bị nguyền rủa muôn đời trước mắt Gerald. Thật sự, họ đã tới sống ở Georgia được bảy chục năm rồi, và trước đó, cũng đã trải qua suốt một thế hệ ở Carolinas, nhưng những người đầu tiên trong tông tộc của họ đã từ Ulster đặt chân lên đất Mỹ và chỉ nội một việc đó cũng đủ cho Gerald thù hận lắm rồi.

Bọn họ toàn những kẻ thâm trầm và ương ngạnh, chỉ quanh quẩn trong thế giới riêng của họ và gả cưới lẫn nhau giữa những người thân tộc ở Carolinas. Không phải chỉ một mình Gerald là giận ghét họ, bởi vì dân trong hạt ai ai cũng niềm nở và hợp quần với nhau thì khó mà tha thứ được đối với những kẻ thiếu những đức tánh đó. Những lời đồn đãi về việc họ thiên về phe chủ trương giải phóng nô lệ lại càng làm cho người trong hạt lánh xa họ Mac intosh. Mặc dầu lão Angus chưa hề giải phóng cho một tên nô lệ nào và mặc dầu ông ta đã làm một điều hết sức trái ngược với chủ nghĩa phế nô là bán một vài đứa nô lệ cho những người mãi nô đưa lên những cánh đồng mía ở Louisiana, những lời đồn đãi kia vẫn cứ tồn tại.

Gerald nói với John Quilkes:

− Không nghi ngờ gì hết, y là một tên phế nô. Nhưng ở một đứa theo phe Orange, khi một nguyên tắc chạm vào cái thế kín như bưng của Tô cách lan thì nguyên tắc đó phải lâm nguy.

Đối với đám Slattery thì lại là một vấn đề khác. Là những người da trắng nghèo đói, họ không được dành một chút nể trọng bất đắc dĩ nào như đối với dòng họ Mac intosh qua việc sống triệt để độc lập với họ hàng. Lão già Slattery cứ bám dính lấy mấy mẫu đất nghèo nàn với tất cả sự lười biếng và sầu thảm, mặc dầu Gerald và John Quilkes đã nhiều lần đề nghị mua lại. Vợ lão là một người đàn bà tóc tai rối nùi, trông bịnh hoạn và thất sắc, lại còn phải chăn nuôi cả một lũ con nhút nhát - cứ mỗi năm lại mỗi tăng nhân số. Tom Slattery không có tới một tên nô lệ và hai đứa con trai lớn của y lại không chịu liên tục cố gắng trồng bông vải, trong khi bà vợ và đám trẻ con quanh quẩn trên một lõm đất được coi như là vườn rau cải của gia đình. Do đó, bông vải chẳng bao giờ được mùa, và vườn rau thì chẳng mấy khi cung cấp đủ cho cả nhà, bởi vì bà Slattery cứ luôn luôn mất thì giờ cho việc sanh đẻ.

Cảnh Tom Slattery thất thểu đi từ nhà nầy sang nhà khác để ăn mày hạt giống bông vải hay một lát thịt để sống qua ngày là một chuyện quá quen mắt . Còn một chút hơi tàn nào là Slattery thù hận chút ấy đối với các láng giềng qua sự khinh khi ra mặt của họ, nhứt là với bọn hắc nô tự phụ vì được làm tôi đòi cho đám nhà giàu . Bọn tôi tớ da đen trong hạt luôn luôn tự cho mình cao cả hơn những kẻ da trắng rác rến, và thái độ khinh ngạo không che giấu của chúng làm cho y uất ức, nhưng đồng thời cũng khiến cho y thèm muốn địa vị của chúng . Trong khi y phải sống trong cảnh nghèo khổ thì bọn da đen đó lại được ăn uống đầy đủ, quần áo tươm tất, lại còn được săn sóc tử tế lúc bịnh hoạn hay khi già nua. Bọn chúng hãnh diện về danh tiếng của chủ và phần lớn đều tự kiêu vì được dịp hầu hạ người cao quí.

Tom Slattery có thể bán nông trại của y với một số tiền mắc gấp ba lần giá trị thật sự cho bất cứ chủ điền nào trong hạt. Họ sẵn sàng coi đó như là một món tiền xứng đáng dùng tống khỏi cộng đồng một vật chướng mắt. Tuy thế, y lại rất hài lòng được ở lại trên mảnh đất đó để chịu đựng cuộc sống cùng khổ chỉ với một bành bông vải mỗi năm với lòng từ thiện của những láng giềng.

Riêng đối với bao nhiêu người khác thì Gerald luôn giữ vững tình giao hảo và một vài trường hợp còn đi tới chỗ thân thiết. Những người trong họ Quilkes, Calvert, Tarleton và Phontaine đều tươi cười khi trông thấy con người nhỏ thó của ông ngồi trên lung một con ngựa bạch cao lớn sải như bay ngược dốc trên đường vào nhà họ. Họ tươi cười và nâng cao những chiếc ly lớn có pha một muỗng rượu Bourbon cùng một ít lá bạc hà nghiền nát. Gerald là một người khả ái, và lần lần người láng giềng nhận ra điều mà bọn trẻ, đám hắc nô và lũ chó đã phát giác ra ngay từ khi mới thấy ông lần đầu rằng ông là một người tốt bụng, chịu khó nghe và luôn luôn cởi mở mặc dầu con người bề ngoài của ông là một kẻ hay la hét và có vẻ hung tợn.

Cứ mỗi lần ông tới đâu là lũ chó mừng rỡ sủa như điên, và bọn trẻ da đen hò hét vang rần, chạy ào ra đón, giành nhau đặc ân giữ ngựa trong khi ông quát mắng mấy câu trìu mến. Đám trẻ con da trắng thì đòi được ông cho đu đưa trên gối, giữa lúc ông không ngớt miệng tố cáo với người lớn về sự phỉ báng của các chánh trị gia Yankee; các cô gái con của bạn ông thì kể riêng với ông về những chuyện tình của họ, và các cậu trai không dám thú nhận với cha về một món nợ danh dự nào đó thì lại coi ông như là một người bạn cần thiết.

Thế là ông mắng ngay:

− Thằng ranh con, vậy là mầy đã mắc nợ cả tháng rồi ! Khốn kiếp, tại sao mầy không chịu nói với tao sớm hơn?

Đã quá quen với lối ăn nói cục mịch của ông, nên không ai coi đó như một sự sỉ vả, và các cậu trai chỉ biết rụt rè cười nhăn nhó:

− Thưa bác, con không dám làm phiền bác. Cha con...

− Cha mầy là một người tốt, đó là điều không thể chối cãi. Nhưng ông ấy nghiêm khắc. Đây, cầm lấy cái nầy và không được nhắc tới chuyện đó nữa.

Vợ của các ông chủ đồn điền là những người cuối cùng nhận ra điều đó . Nhưng, đến khi bà Quilkes, "một phụ nữ quí phái và kín đáo chẳng ai bằng" - như Gerald thường bảo - một đêm đã nói với chồng sau khi Gerald phóng ngựa ra về rằng "ông ta ăn nói hơi sỗ sàng nhưng đó là một người phong nhã", Gerald mới thật sự được chấp nhận vào xã hội thượng lưu.

Gerald không ngờ là phải mất suốt mười năm mới nhận được điều vinh hạnh đó, vì chẳng bao giờ ông nghĩ là, ngay từ đầu, người láng giềng đã coi ông như là một kẻ không xứng đáng. Ngay từ khi mới đặt chân lên đồn điền Tara, chẳng một chút nghi ngờ gì cả, ông đã tự cho mình đương nhiên thuộc về giai cấp đó rồi.

Năm bốn mươi ba tuổi, Gerald mập tròn và da mặt hồng hào trông chẳng khác một địa chủ sang trọng trong một bức tranh săn bắn. Cũng vào năm đó, ông nhận thấy, mặc dầu Tara rất quí giá đối với ông và các bạn láng giềng luôn niềm nở đón tiếp ông, ông vẫn còn thấy thiếu một cái gì. Ông muốn có một người vợ.

Tara cần phải có một nữ chủ . Người nấu ăn trước kia được cắt đặt trông coi sân gà vịt được nâng lên hàng đầu bếp vì thiếu người, chẳng bao giờ dọn ăn đúng giờ giấc, còn đứa hầu phòng trước chỉ là một nữ nông nô, luôn luôn để bụi phủ đầy bàn ghế và dường như chẳng bao giờ lo sẵn quần áo sạch cho đủ mặc, do đó, mỗi lần có khách tới là cả nhà nhốn nháo lên. Pork, người da đen duy nhứt được huấn luyện về cách phục vụ chủ, có nhiệm vụ giám sát toàn thể tôi tớ trong nhà, nhưng rồi cũng lần lần đâm ra lười biếng và bất cẩn sau nhiều năm tiêm nhiễm thói sống không cần nghi thức của chủ nhân. Là người hầu cận, hắn phải dọn dẹp buồng ngủ của Gerald cho ngăn nắp, và với phận sự hầu bàn, hắn dọn ăn một cách trịnh trọng và khéo léo, nhưng đối với các chuyện khác hắn cứ để mặc cho ra sao thì ra.

Với năng khiếu bén nhạy của người Phi châu, bọn hắc nô đều nhận thấy rõ ràng Gerald chỉ sủa chớ không bao giờ cắn, và bọn chúng đã lợi dụng điều ấy một cách không xấu hổ . Thời đó, lúc nào người ta cũng nghe nói tới chuyện bán nô lệ xuống miền Nam, và những trận đòn thảm khốc, nhưng ở Tara thì chẳng có một gã nô lệ nào bị bán, và chỉ có một trận đòn duy nhứt xảy ra vì hôm đó, tên mã phu quên lo cho con ngựa quí của Gerald sau trọn ngày săn đuổi.

Bằng đôi mắt xanh biếc, Gerald tỉ mỉ quan sát sự xếp đặt gọn ghẽ tại các ngôi nhà trong vùng và ông cũng không quên để ý tới những bà nội trợ tóc chải láng, ung dung điều khiển bọn gia nhân. Ông không hề biết được rằng những bà vợ đó đã phải làm việc không hở tay từ sáng sớm đến nửa khuya, lúc thì trông coi việc nấu nướng, săn sóc con cái, lúc thì điều khiển việc may và giặt giũ. Ông chỉ thấy có những kết quả bề ngoài và chính những kết quả đó đã ám ảnh ông.

Sự cần thiết cấp bách phải có một người vợ trở nên rõ rệt hơn vào một buổi sáng giữa lúc ông đang mặc đồ để đi ra thị xã dự lễ, Pork mang vào cho ông một chiếc sơ mi xếp nếp thành hình tổ ong nhưng con nữ tì lại vá quá vụng về đến nỗi không ai dám mặc ra ngoài, ngoại trừ gã hần cận.

Trong khi chủ nổi giận hét vang, Pork xếp chiếc áo lại với vẻ hân hoan:

− Thưa ông Gerald, ông cần phải có một người vợ, và bà vợ đó phải là một người đã từng có một nhà chứa đầy nô lệ .
Gerald mắng ngay gã hầu cận về tội vô lễ của hắn, nhưng ông cũng nhìn nhận là hắn có lý . Ông muốn có vợ, có con, và nếu không thực hiện sớmm thì có lẽ đã trễ lắm rồi . Nhưng ông không thể cưới bất cứ ai, như Calvert đã lấy người đàn bà Yankee dạy riêng cho các đứa con của ông ta. Vợ ông phải là một người đàn bà quí phái, quí phái từ trong huyết quản, phải có tư cách và duyên dáng như bà Quilkes đã thực hiện một cách toàn hảo tại đồn điền của chồng bà.

Nhưng có hai việc khó khăn trong việc cưới hỏi tại những gia đình ở đồn điền . Trước nhất là chẳng còn bao nhiêu cô gái đến tuổi thành hôn. Thứ hai, và đây là vấn đề quan trọng hơn, Gerald chỉ là một "người mới" mặc dù đã cư ngụ trong xứ gần mười năm, và bị coi như một ngoại nhân. Không một ai biết gì cả về gia thế của ông. Và mặc dầu xã hội trên cao nguyên Georgia không kiên cố mấy về sự bảo toàn danh giá như các giới quí tộc miền duyên hải, chẳng một gia đình nào muốn cho con gái kết hôn với một kẻ mà tổ phụ của kẻ ấy không từng được biết đến.

Gerald hiểu rằng mặc dầu vẫn được sự mến chuộng của những người đã từng cùng ông săn bắn, uống rượu và bàn luận chánh trị, ông vẫn ít có hy vọng được cưới con gái của một người nào trong số đó . Ông cũng không muốn để thiên hạ cứ mỗi bữa ăn tối lại xì xầm với nhau là ông nọ hoặc ông kia đã từ chối không cho Gerald O Hara tán tỉnh con gái mình . Tuy biết thế, ông vẫn không cảm thấy hạ thể chút nào đối với các láng giềng . Chẳng có gì khiến cho Gerald cảm thấy thấp kém đối với bất cứ ai. Trong hạt, có tục lệ khá buồn cười là người ta chỉ gả con gái cho những ai đã sống ở miền Nam quá hai mươi năm, và kẻ đó phải có một mảnh đất, có nhiều nô lệ và chỉ biết say mê những trò vui thích hợp của thời ấy thôi.

Gerald bảo Pork:

− Sửa soạn đồ đạc mau. Mình đi Savannah. Và nếu tao nghe mầy nói : "Suỵt" hay "Số mạng", chỉ một lần thôi, là tao sẽ bán mầy liền, bởi vì tao cũng ít khi xài những tiếng đó.

James và Andrequ có thể giúp ý kiến về chuyện hôn nhân, vả lại còn một số thiếu nữ con của bạn họ mà ông có thể cầu hôn và sẽ được chấp nhận . James và Andrequ nhẫn nại nghe ông nói nhưng chẳng có một chút khích lệ nào . Ở Savannah, họ không có người trong thân quyến để nhờ vả tới, bởi vì họ đã có vợ trước khi tới Mỹ châu. Và các cô gái con của bạn họ đã có chồng từ lâu và đã có con.

James nói với Gerald:

− Chú không được giàu và cũng không phải thuộc dòng dõi thế gia.

− Tôi đã có thể làm ra tiền thì tôi cũng có thể dựng được một gia đình quyền quí.

Andrequ chỉ nói cộc lốc:

− Chú trèo quá cao !

Nhưng họ vẫn cố giúp Gerald. James và Andrequ là những người cũ và có địa vị ở Savannah. Bạn bè của họ khá đông, và trong vòng một tháng, họ đã đưa Gerald đi từ nhà nầy sang nhà khác, ở lại dùng các bữa ăn tối, dự các cuộc khiêu vũ và các bữa ăn ngoài trời.

Cuối cùng, Gerald tuyên bố:

− Ở đây, tôi chỉ để mắt có một người, và khi tôi đặt chân lên đất Mỹ, người ấy vẫn chưa được sanh ra.

− Chú nói ai?

− Cô Ellen Robillard.

Gerald cố nói với giọng điệu thản nhiên nhưng thật ra thì đôi mắt buồn hơi xếch của Ellen Robillard đã làm ông xúc động nhiều. Tuy chỉ mới mười lăm tuổi, nhưng cái dáng vẻ hững hờ kín đáo của cô bé đã làm cho Gerald thật sự say mê. Đã vậy, cái nhìn ám ảnh như chứa chan niềm thất vọng của cô ta lại càng làm cho ông đắm đuối thêm và tỏ ra lịch thiệp như chưa từng bao giờ có với một người nào.

− Nhưng tuổi chú đáng làm cha cô ta!

Gerald bất mãn:

− Nhưng tôi đang ở thời kỳ tráng niên mà.

James từ tốn:

− Gerald, ở Savannah không có cô gái nào mà chú ít hy vọng được cưới hơn cô gái đó . Cha cô ta là người thuộc họ Robillard, và mấy người Pháp đó còn kiêu căng hơn cả quỉ Lucipher. Và mẹ cô ấy cầu trời cứu rỗi cho linh hồn bà - trước kia đúng là một mệnh phụ.

Gerald phát cáu:

− Cóc cần ! Vả lại, mẹ cô ta đã chết, còn cụ Robillard thì lại mến tôi.

− Mến như một người bạn thì đúng, chớ không phải như một thằng rể.

Andrequ chen vào:

− Dầu thế nào cô ta cũng không chịu chú . Cả năm nay, cô ta yêu thằng anh họ cuồng nhiệt của cô ta là Philippe Robillard, mặc cho gia đình luôn luôn cản trở.

Gerald nói ngay:

− Nó đã đi Louisianna tháng nầy rồi.

− Sao chú biết?

− Biết chớ!

Gerald trả lời vắn tắt, không muốn nói rõ chính Pork đã tiết lộ cho ông mẩu tin đáng giá đó, và rằng anh chàng Philippe đã bắt buộc đi tận miền Tây theo lịnh của gia đình anh ta. Và Gerald tiếp:

− Tôi nghĩ là dầu yêu thương thằng kia cách mấy cũng chưa chắc là cô ta không thể không quên hắn được. Mới 15 tuổi thì làm gì hiểu rõ được chuyện ái tình.

− Thà họ chịu gả con gái cho thằng liều mạng đó còn hơn cho chú.

Chính vì vậy mà James và Andrequ không khỏi kinh ngạc hết sức như bao nhiêu người khác khi nghe tin là ái nữ của Pierre Robillard sắp thành hôn với một người Ái nhĩ lan thấp bé trên vùng cao nguyên.

Cả thành phố Savannah thầm thì bàn tán và băn khoăn về chuyện Philippe Robillard bỏ đi, nhưng những lời đàm tiếu ấy không đưa tới được chút ánh sáng nào. Việc cô gái cưng của nhà Robillard sắp thành hôn với một gã đàn ông không cao tới mang tai vợ, mặt đỏ gay, to tiếng vẫn cứ mãi là điều bí ẩn đối với mọi người.

Ngay cả chính Gerald cũng không bao giờ hiểu được sự thể một cách trọn vẹn. Ông chỉ biết là một phép lạ đã xảy ra. Và, lần đầu tiên trong đời, ông hết sức khiêm tốn khi Ellen, da mặt trắng nhợt, nhưng vô cùng bình tĩnh, đặt bàn tay nhỏ nhắn lên cánh tay ông và bảo: "Ông O Hara, tôi bằng lòng thành hôn với ông".

Cả gia đình Robillard hoang mang chỉ hiểu được có phần nào câu chuyện, chỉ có Ellen và bà vú của nàng mới rõ trọn vẹn việc đêm ấy, khi một cô gái khóc ròng như mưa, lòng tan nát, sáng hôm sau, khi thức dậy lại quyết chỉ như một người đàn bà.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 7-10-2011 23:41:52 | Chỉ xem của tác giả
Cuốn theo chiều gió - Chương 3
-----------------------------------------

Như đã dự liệu, Mammy đã mang cho tiểu chủ một gói nhỏ do một người lạ trao tay từ Nequ Orleans. Gói đó chứa đựng một bức ảnh nhỏ của Ellen mà nàng đã ném xuống sàn với tiếng kêu thảm thiết, ngoài ra còn bốn bức thư viết tay cho Philippe Robillard và một mảnh giấy của một tu sĩ vắn tắt cho biết, Philippe đã chết trong quán rượu, sau một cuộc ấu đả.

− Chính họ đã đuổi anh ấy, cha tôi, Pauline và Eulalie. Họ đã xua đuổi anh ấy. Tôi thù oán họ, tôi ghét tất cả, tôi không bao giờ muốn gặp họ nữa. Tôi muốn bỏ đi, tôi sẽ đi đến nơi nào để không còn nhìn thấy họ nữa, nhìn thấy thành phố nầy, những người quen sẽ làm cho tôi nhớ... nhớ tới anh ấy.

Và khi gần tàn đêm, Mammy khóc trên mái tóc xanh mướt của tiểu chủ, van lơn:

− Con ơi, con không làm như vậy được.

− Tôi sẽ làm. Ông ta là một người dễ thương lắm. Tôi sẽ làm như vậy hoặc vào một tu viện ở Charleston.

Chính vì lời doạ vào tu viện đó đã làm cho ông Pierre Robillard phải ưng thuận dù đang bối rối và đau lòng. Ông theo phái Trưởng Lão giáo trong khi nhà ông theo Công giáo và ý nghĩ con gái sẽ trở thành một nữ tu sẽ làm ông khó chịu hơn là lấy Gerald O Hara. Sau cùng, ông chẳng có gì để phản đối Gerald ngoài sự hiểu biết về gia thế của ông.

Vì thế, Ellen, đoạn tuyệt với họ Robillard, quay lưng lại Savannah, để không bao giờ trở lại nữa, và cùng với một người chồng đứng tuổi, Mammy và hai mười đầy tớ da đen lên đường đi về Tara.

Năm sau, đứa con thứ nhất ra đời, được đặt tên là Katie Scarlett, theo tên của mẹ Gerald. Gerald hơi thất vọng vì ông ta mong con trai hơn, tuy vậy, ông hài lòng đứa con gái tóc đen nhỏ xíu đã có dịp cho ông đãi đằng bọn nô lệ da đen nhậu nhẹt và để chính ông được la hét ăn uống một bữa.

Nếu Ellen có hối tiếc về quyết định lấy ông, thì cũng chẳng ai biết, ngay cả Gerald vì mỗi khi nhìn vợ, ông gần như kiêu hãnh. Nàng đã bôi xoá Savannah và kỷ niệm ở đó khi rời bỏ thành phố miền biển đầy phong tục cao quí, và ngay khi đặt chân lên hạt nầy, miền Bắc Georgia đã trở thành quê hương của nàng.

Khi rời khỏi căn nhà của cha, nàng đã để lại sau nó với những đường nét thật đẹp và nở nang như thân hình đàn bà, như một chiếc thuyền buồm no gió. Một ngôi nhà tô hồ như cẩm thạch hồng, cất theo kiểu nhà thuộc địa Pháp, vươn lên cao cái hình dáng xinh xắn, phía trước có thang xoáy, tay vịn làm bằng sắt rèn như đăng ten, một ngôi nhà sang trọng, lộng lẫy nhưng vô cùng lạnh lẽo.

Chẳng những nàng rời nơi trú ẩn kia mà còn lìa bỏ hoàn toàn đời sống văn minh đã được xây dựng từ trước ở đó. Và nàng tự thấy mình đang ở một nơi xa lạ, khác biệt như nàng đã vượt qua một địa lục khác.

Đây là miền Bắc Georgia, một nơi hiểm trở được khai phá bởi những người sắt đá. Trên đỉnh cao nguyên nằm dưới chân rặng núi Blue Ridge, Ellen có thể thấy những ngọn đồi tròn đất đỏ, với những hiện tượng đột khởi của đá hoa cương và những hàng thông cao vút, khắp nơi. Tất cả đều có vẻ hoang vu, không làm sao hợp mắt một người miền biển, đã từng quen thuộc với hải đảo, những cây cối đẹp êm ả phủ đầy rêu xám, hải đảo xanh, những bãi cát nóng dưới ánh nắng miền bán nhiệt đới và quen thuộc với con đường cát nằm dài dưới hai hàng dừa hoặc kè.

Ở vùng nầy, người ta chỉ biết có cái lạnh buốt xương của mùa đông cũng như cái nóng thiêu đốt của mùa hè, và tinh thần, nghị lực của dân chúng ở đây quá xa lạ với nàng . Họ là một mẫu người lịch thiệp, quảng đại và nhiều tánh tốt, nhưng thật là hùng hổ, dũng mãnh và dễ nổi giận. Dân miền biển mà nàng đã rời bỏ, có thể tự hào về cách đối xử hờ hững những công việc của họ, ngay cả lúc đấu gươm, đấu súng hoặc lúc thanh toán oán thù cũng vậy, nhưng người Georgia có mầm bạo động trong người họ. Trên miền biển, đời sống lụn dần, ở đây, luôn luôn tươi trẻ, cường tráng và mới mẻ.

Tất cả những người mà Ellen quen ở Savannah dường như được đúc cùng khuôn, rập nhau về quan điểm và tập tục, nhưng ở đây mỗi người mỗi khác. Những người định cư miền Bắc Georgia đã tới từ nhiều nơi khác nhau, những vùng khác ở chính Georgia, Carolinas, Virginia, Âu châu, Bắc Mỹ ... Một số bọn họ, như Gerald, đi lập nghiệp, một số giống như Ellen thuộc về thành phần những gia đình cố cựu, thấy rằng không thể nào chịu được cuộc sống dưới mái nhà đúc của họ và tìm kiếm một nơi ẩn náu xa hơn. Một số đông thì chẳng còn có lý do gì cả, ngoại trừ huyết quản họ, dòng máu của những tiền nhân khai phá lúc nào cũng sôi sục.

Những người tứ xứ nầy tô lên cuộc sống của hạt một vẻ giản dị mới mẻ đối với Ellen, điều xa lạ mà nàng không bao giờ quen thuộc được. Theo năng khiếu, nàng đoán biết được hành động của người dân miền biển trong bất cứ trường hợp nào. Nhưng ở đây, không được.

Và để khêu lại sự hoạt động trong xứ, một phong trào phồn thịnh tràn xuống miền Nam. Cả the6 giới kêu gào bông vải, và đất mới trong địa hạt rất phì nhiêu vì chưa khai thác, sản xuất một cách phong phú . Bông vải là nhịp tim của vùng nầy, trồng trọt và gặt hái cũng như hai thời kỳ trương tâm và thu tâm của đất đỏ . Sự thịnh vượng đến từ những luống cày cong cong và sự kiêu ngạo cũng như bắt nguồn từ đó, kiêu hãnh vì cây lên nhiều nụ, vì hàng ngàn mẫu ruộng nhỏ trổ hoa đẹp như mây trắng . Nếu bông vải làm cho họ sung túc suốt đời thì những thế hệ sau còn phồn thịnh hơn thế nữa.

Sự chắc chắn của tương lai làm họ thú vị và hăng hái, dân trong hạt bằng lòng cuộc sống của họ một cách khoan khoái mà Ellen không bao giờ hiểu được . Họ có đủ tiền, có nô lệ để vui chơi, và họ thích vui chơi. Hình như không bao giờ họ bận rộn đến phải bỏ ngang công việc để đi câu cá, đi săn hay đua ngựa và không có tuần nào mà họ quên mở dã yến hay khiêu vũ.
Ellen không bao giờ muốn hoặc có thể làm giống như họ được, bà đã bỏ lại Savannah rất nhiều cá tính của mình. Nhưng bà rất kính phục họ và lâu dần, bà biết thán phục sự thành thật và lòng quả quyết của họ. Đó là những người thận trọng và biết xác định giá trị con người một cách đứng đắn .

Bà trở thành một người láng giềng được ưa thích nhứt trong vùng, một người bình dị, một bà chủ đúng nghĩa, một mẹ hiền và một người vợ tận tụy. Thay vì hiến dâng cõi lòng tan nát và tinh thần vị kỷ cho tôn giáo, bà đã đặt trọn tâm hồn vào mấy đứa con, mái nhà và người đàn ông đã mang bà ra khỏi Savannah, ra khỏi bao nhiêu kỷ niệm mà không hỏi câu nào cả.

Khi Scarlett được một tuổi, mạnh khoẻ và đẹp hơn bất cứ đứa nhỏ nào khác - Mammy nghĩ như vậy - thì Ellen sinh đứa thứ hai, tên Susan Elinor, nhưng thường gọi là Suellen, và sau đó Carreen được ghi vào gia phả là Caroline irene. Và sau đó là ba cậu trai, nhưng tất cả đều chết trước khi biết đi... Ba cậu bé đó hiện giờ đang an nghỉ dưới rặng bách hương gân guốc trong mảnh đất mai táng cách nhà chừng một trăm thước với ba tấm bia cùng ghi "Gerald O Hara, Jr.".

Kể từ ngày đầu Ellen đến Tara, vùng đất đã thay đổi nhiều . Mặc dầu mới 15 tuổi, Ellen vẫn sẵn sàng đảm nhận vai trò của một bà chủ đồn điền. Trước khi lấy chồng, các cô gái cần phải dịu dàng quí phái và biết trang điểm, nhưng sau ngày thành hôn, các cô phải có khả năng cai quản những toà nhà chừng một trăm người hay hơn nữa, gồm cả da trắng lẫn da đen. Họ được huấn luyện từ nhỏ nhằm mục đích ấy.

Ellen đã được chuẩn bị trước cho ngày cưới cũng như các cô gái nhà lành đã hấp thụ, và bà còn có Mammy, người có thể làm phấn chấn những tên hắc nô lười nhứt . Bà mang đến sự ngăn nắp, trang nghiêm và sang trọng cho căn nhà của Gerald và mang lại cho Tara một vẻ đẹp trước kia chưa từng có .

Căn nhà không xây theo một hoạ đồ kiến trúc nào cả, người ta có thể xây thêm những phòng đặc biết nếu thấy tiện, nhưng nhờ sự cẩn thận và chú ý của Ellen, nó dần dần trở nên duyên dáng để bù đắp các khuyết điểm. Con đường nhỏ trồng bách hương từ đường chính vào nhà, con đường mà các nhà vườn ở Georgia không thể nào hoàn toàn như vậy được, có bóng râm mát, làm nổi bật màu xanh của các cây khác . Cây tử đằng hoa leo phủ mái hiên phô màu rực rỡ trên vách tường vôi trắng và phối hợp với những nụ trân châu thái (sim) gần cửa ra vào, những cụm trắng hoa mộc lan trong sân... che đậy phần nào sự vụng về của gian nhà.

Vào mùa xuân và hạ, cỏ Bermuda và xa trục thảo trên sân trước đổi sang màu lục tươi, trông vui mắt đến nỗi đám gà tây và ngỗng trắng mặc dầu thường ngày lang thang sau nhà cũng bị quyến rũ . Một vài con già nhứt trong đám mon men tiến đến sân trước, bị lôi cuốn bởi cỏ xanh và sự hứa hẹn ngon lành của những nụ lài bách nhật . Chống lại sự phá phách của chúng là một đứa bé hắc nô đứng trước thềm, võ trang một mảnh giẻ . Đứa nhỏ da đen ngồi trên bực thềm ấy là một bối cảnh của Tara. Nó chẳng vui vẻ gì lắm, vì nó bị cấm không được đánh đập đám gia cầm ấy mà chỉ được phe phẩy mảnh giẻ để xua đuổi chúng đi mà thôi.

Ellen đã trao nhiệm vụ đó cho vài chục thằng bé da đen, đó là chức vụ đầu tiên ở Tara đối với một nô lệ trai. Khi đã được 10 tuổi, nó sẽ được gởi cho lão Daddy thợ vá giày của đồn điền để học nghề, hoặc Amos thợ mộc và đóng bánh xe, hay Phillip chăn bò, Cuphphee chăn la. Nếu chúng không đủ khả năng học những nghề nầy, chúng sẽ làm việc ngoài đồng, và đối với bọn da đen, như thế là mất luôn quyền có địa vị trong xã hội.

Cuộc sống của Ellen không dễ dàng mà cũng không sung sướng, nhưng bà không mong cuộc đời dễ dàng hơn. Và nếu không được sung sướng thì đó cũng là số phận của nữ giới. Thế giới chỉ dành riêng cho đàn ông và bà chỉ có việc chấp nhận nó. Đàn ông làm chủ sản nghiệp, và đàn bà quản trị sản nghiệp đó. Đàn ông hưởng hết công trạng của việc khai thác, và đàn bà có bổn phận khen ngợi sự khéo léo của đàn ông. Đàn ông gầm thét như bò rừng khi bị xóc dầm, còn đàn bà phải cắn răng không rên rỉ khi sinh nở vì sợ chồng lo lắng. Đàn ông ăn nói cộc cằn và hay say sưa. Đàn bà không được nói lấp tiếng và dìu người say lên giường mà không hề trách móc một lời . Đàn ông thô lỗ và hay nói thẳng. Đàn bà phải luôn luôn ân cần, cao quí và khoan dung.

Ellen đã được giáo dục theo nếp sống cổ truyền của các bà quí tộc. Bà đã được dạy cách mang gánh nặng của gia đình trên vai mà vẫn giữ vẻ vui tươi, ý định của bà là làm cho ba đứa con gái cũng trở nên các phu nhân quí phái. Với hai cô con nhỏ, bà đã thành công. Suellen thích làm dáng nên sẵn sàng chú ý và ngoan ngoãn vâng lời dạy dỗ của mẹ, Carreen thì rụt rè và dễ hướng dẫn. Nhưng Scarlett, xứng đáng là con gái của Gerald, cho rằng con đường đi đến nữ tính thật khó khăn.

Mammy giận dữ cho rằng, Scarlett thích làm bạn với lũ trẻ da đen trong đồn điền hay mấy đứa con trai hàng xóm hơn là hai cô em gái đoan trang hoặc mấy cô Quilkes lễ phép . Nàng có thể trèo cây hoặc ném đá không thua gì bọn con trai. Mammy lo ngại vô cùng vì đứa con gái của Ellen đã biểu lộ những cá tánh đó và thường khuyên bảo Scarlett: "Hãy có tư cách của một tiểu thơ". Nhưng Ellen khoan dung và nhìn xa hơn. Bà biết rằng những bạn bè lúc thơ ấu sẽ trở thành những vị hôn phu sau nầy, và bổn phận đầu tiên của một cô con gái là phải lấy chồng. Bà tự nhủ là tại con mình quá tràn trề sức sống mà thôi, và còn đủ thì giờ để dạy bảo nó có nghệ thuật và sự duyên dáng để thu hút đàn ông.

Trong mục đích đó, Ellen và Mammy cùng cố gắng . Và càng lớn lên, Scarlett càng có khiếu về thuật quyến rũ đàn ông, dầu các môn khác đều dở . Mặc dầu đã có nhiều nữ sư phó đã cố gắng và hai năm được gởi nội trú tại nữ học viện Phayetteville gần nhà, sự học của nàng không được hoàn toàn. Tuy thế, không một cô gái nào trong hạt có thể khiêu vũ đẹp bằng nàng, Scarlett biết mỉm cười làm sao cho má lúm đồng tiền, biết nhón gót cho chiếc váy phồng to và đu đưa, biết cách ngước nhìn một người đàn ông rồi sụp mắt xuống, chớp thật nhanh làm như rung động vì cảm xúc. Nhứt là nàng còn biết giấu kín trí thông minh sắc bén dưới một khuôn mặt khả ái và tròn trịa như một đứa trẻ, khi đứng trước đàn ông.

Ellen khuyến cáo nhẹ nhàng, còn Mammy thì luôn luôn chỉ trích, cố khắc sâu vào đầu nàng những đức tánh sẽ giúp nàng xứng đáng là người vợ mà đàn ông ai cũng mong ước.

Ellen nói với con:

− Con phải tỏ ra lịch thiệp hơn, nghiêm trang hơn. Con không nên ngắt lời những người thanh lịch, ngay cả khi con nghĩ rằng con hiểu biết nhiều hơn họ. Đàn ông tao nhã không ưa những cô gái quá tiến bộ.

Mammy rầu rĩ tiên đoán:

− Các cô gái hay nhăn mặt, đưa càm lên và nói "Tôi sẽ ...", và "Tôi muốn ..." sẽ kiếm không a chồng . Các cô phải ngó xuống và nói: "Vâng, thưa ông", và "Vâng, ông nói thế đúng lắm, thưa ông".

Họ dạy Scarlett tất cả những gì một bà quí phái cần phải biết, nhưng nàng chỉ học bề ngoài của những phép lịch sự ấy thôi, không thiết tới bề trong của nó, không bao giờ biết đến tại sao phải học tập như thế. Bề ngoài đủ dùng rồi, với nó, nàng được mọi người mến chuộng và nàng chỉ muốn có chừng đó. Gerald cho rằng Scarlett đáng làm hoa khôi của cả năm hạt, cũng đúng một phần nào, vì hầu hết trai trẻ trong vùng lân cận và một số ở xa hơn nữa như Atlanta, Savannah cũng đều cầu hôn nàng.

Năm 16 tuổi, nhờ Mammy và Ellen, nàng trông thật dịu dàng kiều diễm và lơ đãng. Nhưng thực ra, rất thực tế, ngoan cố, tự đắc và bướng bỉnh. Nàng thừa hưởng của người cha Ái nhĩ lan tánh nóng nảy và không còn gì khác hơn, ngoài bề ngoài có vẻ vị tha, nhẫn nại của bà mẹ. Ellen không bao giờ nhận ra đó chỉ là lớp vỏ bên ngoài, vì lúc nào trước mặt mẹ, Scarlett cũng phô diễn những hình thức đẹp đẽ nhứt, giấu kín hành vi nghịch ngợm, cố gắng tự chế và tỏ ra dịu dàng để mẹ khỏi quở mắng đến có thể phát khóc được.

Nhưng Mammy không nuôi một ảo tưởng nào về Scarlett. Lúc nào bà cũng lo ngại cái bề ngoài ấy tan vỡ. Mắt của bà sắc hơn Ellen, và Scarlett nhớ lại cả đời nàng, chưa bao giờ nàng lường gạt Mammy được lâu.

Hai vị cố vấn ấy không phàn nàn về tinh thần hăng hái, sức sống mãnh liệt và thuật quyến rũ của Scarlett, mà trái lại, đều là người miền Nam, họ lấy làm kiêu hãnh vì những đức tánh ấy. Nhưng đầu óc táo bạo và sự hung hăng mà Scarlett thừa hưởng nơi Gerald làm họ lo âu. Đôi lúc họ sợ họ không thể che đậy kịp những tệ hại có thể xẩy ra trước khi Scarlett có được một cuộc hôn nhân xứng đáng. Nhưng Scarlett quyết định lấy chồng... lấy Ashley... và nàng sẵn sàng trở thành đoan trang, dễ dạy và hơi lơ đãng, nếu những điều ấy làm cho đàn ông thích. Tại sao đàn ông cũng rập một khuôn, nàng không hiểu nổi. Nàng chỉ biết rằng phương pháp ấy có hiệu quả. Nàng không bao giờ cố gắng tìm nguyên nhân, không biết gì về đời sống nội tâm con người, kể cả của chính nàng. Scarlett biết rằng nếu nàng nói rằng như thế nầy, như thế kia thì đàn ông có thể trả lời một cách chắc chắn những câu đầy đủ thích ứng. Giống như một công thức toán, không khó lắm vì toán là môn mà Scarlett học dễ dàng nhứt lúc ở trường.

Nếu nàng chỉ biết thật ít oi về những tư tưởng của đàn ông, thì nàng còn tệ hơn nữa với những tư tưởng của đàn bà, vì nàng chẳng hề chú ý đến họ. Nàng chưa có một cô bạn gái nào nhưng không thấy đó là điều thiếu thốn. Đối với nàng, kể cả hai cô em, đều là những kẻ thù tự nhiên, cùng săn đuổi một con mồi chung: đàn ông.

Tất cả đàn bà, nhưng trừ mẹ nàng ra. Ellen O Hara khác hẳn, Scarlett chiêm ngưỡng bà như một đấng thiêng liêng, đứng ngoài nhơn loại. Khi còn bé, Scarlett lầm lẫn mẹ nàng với Thánh mẫu, và bây giờ, càng lớn nàng càng thấy không có lý do gì để thay đổi ý kiến đó. Đối với Scarlett, Ellen tượng trưng cho sự che chở an toàn mà chỉ có Thượng đế hay một bà mẹ mới có thể làm được. Nàng biết mẹ nàng là hiện thân của công bình, sự thật, tình thương tràn trề và khôn ngoan thâm trầm... Thật là một người đàn bà cao cả.

Scarlett rất muốn được giống mẹ, chỉ có một điều khó là muốn công bằng, thành thật, dịu dàng, vị tha thì phải mất hầu hết những vui thú của cuộc đời và chắc chắn là sẽ mất đi những kẻ si tình. Và đời sống thật quá ngắn ngủi để cho chúng ta thiếu vắng những thú vui ấy. Ngày nào đó, khi nàng đã lấy Ashley và già đi, ngày đó nàng sẽ có đủ thời giờ để tập lại, và dĩ nhiên sẽ được giống Ellen. Nhưng, trong lúc chờ đợi thì...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách