Nói về nhân vật của Sulli, khía cạnh tình yêu say đắm diễn tạm được, nhưng nỗi đau khổ của nhân vật này thì diễn thật sự gây rung động. Về vấn đề có nên mời một người chìm nổi trong scandal như Sulli đóng ko, mình cho rằng vai của cô rất nhỏ, ko mang tính chất quyết định đến trách nhiệm thành hay bại của bộ phim này. Tuy nhiên, đáng buồn thay, sự thất bại về nội dung do dựng phim hỗn loạn của "Real", lại mang đến thêm một ảnh hưởng tồi tệ cho cuộc đời cô. Có lẽ cô ấy ko nên nhận lời mời bộ phim này, và nếu chọn những bộ phim tươi sáng hơn, thì kết cục của đời cô đã khác.
Lý giải nội dung phim một cách rõ ràng cho mạch lạc dễ hiểu, thì trước hết phải nói rằng nó ko hề giống như được giới thiệu mà là một cú twist mạnh. Nam chính ko phải chủ sòng bài (mạnh mẽ, ko mang kính - thường nhai kẹo cao su, cũng là biểu trưng của ma túy), cũng ko phải kẻ đầu tư có ngoại hình sao chép chủ sòng bài (nhà văn mang kính, mang mặt nạ, giọng máy móc, ẻo lả) - mà cũng chẳng phải nhà báo (mang kính, mỏi mệt, tự cảm thấy vô nghĩa) (tuy thế, nhà báo là nhân cách gần đúng với tinh thần của nhân vật chính nhất).
Cả 3 người này đều là nhân cách khác của nam chính. Thân phận thật sự của anh là một cảnh sát chìm, trà trộn vào thế giới ngầm để điều tra về ổ ma túy (nhân vật mang kính, mạnh mẽ). Nhưng bằng cách nào đó, trong quá trình điều tra thì anh (và nữ cộng sự của mình) đều bị làm cho nghiện thuốc, - tên sòng bài Siestar giả tưởng thực tế là tên của loại ma túy mới đó. Trong quá trình bị nghiện thuốc thì ảo giác đã nảy sinh và tạo ra các nhân cách khác, anh ko bị đa nhân cách mà là bị nhân cách phân liệt, bởi các nhân cách đều biết đến có sự tồn tại của đối phương.
Nhân cách nhà báo là nhân cách phân liệt đầu tiên. Chức danh nghề nghiệp là nhà báo như là một sự tự bảo hộ cho thân phận thật sự là cảnh sát chìm, trong tiềm thức anh cũng biết rằng ko thể làm lộ việc mình là một cảnh sát, nên dù phân liệt ra nhân cách mới thì cũng chọn lấy một thân phận khác với vốn dĩ. Nó được sinh ra trong quá trình nhân vật chính tự tìm cách cai nghiện ma túy cho mình. Nghiện ma túy rất thống khổ và cai nghiện thì càng khó khăn, cho nên nó mang đặc điểm mệt mỏi và cảm thấy vô nghĩa, nó mang vẻ u mê của một kẻ nghiện, nó ko biết là mình đang nghiện thuốc.
Nhân cách thứ 2 là chủ sòng bài. Đối lập với sự đau khổ của cai nghiện là sự phê thuốc. Nó thường nhai kẹo cao su (biểu trưng của ma túy). Trạng thái sung mãn, mạnh mẽ, quyền lực (nhưng thực ra chỉ là ảo giác do ma túy mang lại). Việc nó đi gặp bác sĩ tâm lý để chữa trị tình trạng có nhiều nhân cách phân liệt cũng là ảo giác, (trong cả 3 nhân cách, thì ko có nhân cách nào thực sự đi chữa trị, sự chữa trị chỉ tồn tại trong chính ảo giác của từng nhân cách, bởi vì nhân vật chính là một cảnh sát chìm nên anh ta tự biết phải bảo mật rất mạnh trong tiềm thức; việc đi gặp bác sĩ dù là ảo giác, cũng là thể hiện cho việc khao khát chữa trị sự tổn thương tâm thần gây phân liệt do ma túy loại mới gây ra). Các hành động sau khi gặp bác sĩ cũng là tồn tại trong ảo giác (vd bóp cổ kẻ bị tai nạn đeo băng kín người, tức nhà văn, kẻ bắt chước chủ sòng bài sau này. Người thực hiện bóp cổ là thể hiện của chủ nhân cách muốn tiêu diệt các nhân cách phân liệt, ban đầu là nhà báo bóp cổ, sau đó khi nhân cách nhà văn phản kháng và trỗi dậy thì là kẻ bóp cổ lại là chủ sòng bài thay thế cho nhà báo).
Nhân cách thứ 3, kẻ bắt chước (nhà văn, mang mặt nạ). Nó tự cho mình là nhân cách chính thống, cho rằng chủ sòng bài là nhân cách ko chính thống mà chỉ mới ra đời 3 năm. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là ảo giác vì nó cũng chỉ là nhân cách phân liệt mà thôi. Nó ra đời trong hoàn cảnh nhân vật chính muốn tự chữa trị tình trạng tinh thần phân liệt của mình, nhưng anh đã ko thành công trong việc hợp nhất 2 nhân cách nhà báo và chủ sòng bài, mà còn biến tình trạng thêm tồi tệ khi làm nảy sinh ra nhân cách thứ 3 là kẻ bắt chước.
Các nhân cách ko thể tiêu diệt lẫn nhau, chỉ có tiêu diệt nguồn cơn gây ảo giác thì mới hết tình trạng phân liệt - tức là phải cai nghiện thành công. Tình trạng nghiện thuốc và cai nghiện thuốc ko được phim phát triển mạch lạc và quá ít thời lượng, thay vào đó quá tập trung vào tình trạng nhân cách phân liệt, vì thế phim mới trở nên lộn xộn và khó xâu chuỗi. Có thể nói sự ưu tiên tuyến phụ (nhân cách phân liệt, ảo giác) hơn tuyến chính (đời thực, trà trộn vào ổ ma túy, nghiện và cay nghiện) là thất bại lớn nhất của phim. Tưởng là một cái bẫy thông minh và hay ho, nhưng thực ra nó lại là nhận thức sai lầm của nhà làm phim. Thắt nút, cài manh mối ngầm đòi hỏi logic - thì quá trình giải nút, phá giải manh mối cũng rất quan trọng và cũng đòi hỏi logic chặt chẽ mạch lạc. Vd, có một cảnh họp báo nói về phá đường dây ma túy thành công của nam chính ở khoảng giữa phim, cảnh đó nên để cuối phim thì sẽ giúp khán giả dễ nắm bắt manh mối đường dây chính của cốt truyện hơn. Thêm vào đó, cần có nhiều cảnh thực tế hơn, vd cảnh cai nghiện thành công và hòa hợp tất cả các nhân cách sau tất cả những ảo giác của nhân vật chính, cảnh phá ổ ma túy. Nếu anh ta ko thể cai nghiện thành công thì sao có thể kết thúc trạng thái tinh thần phân liệt, sao có đủ tỉnh táo để phá ổ ma túy.
Có cảm nhận cá nhân rằng, kịch bản và dựng phim của "Real" có chịu ảnh hưởng về loại phong cách 'mộng trong mộng' của "Inception" (Christopher Nolan) và "Mulholland Drive" (David Lynch) - là một dạng phong cách sáng giá, tuy nhiên do làm chưa tới nên thành ra hỗn loạn sáo rỗng.
***
Một vấn đề mà nhà làm phim/đạo diễn phải suy xét sâu xa khi dựng phim đó là: đối tượng khán giả mà anh muốn hướng tới là ai. Có như thế mới có tư duy rõ ràng để dựng ra thể loại và cấu trúc của phim.
Nói vd, anh muốn làm một phim nghệ thuật bị dán nhãn hạn chế, với vô số cảnh nóng, bạo lực máu me, nghiện ma túy, tinh thần phân liệt, thì tính chất của các cảnh này phải có chiều sâu, chứ ko thể dựng cho hoành tráng mà sáo rỗng vô nghĩa và ko gây chấn động tâm hồn hay ko tạo ra một trăn trở về nhận thức. Ko nên coi tình trạng cái ác, cái sa đoạ, sự vô cảm là điều bình thường hiển nhiên, mà phải dựng phim sao cho người xem phải bùng nổ sự phẫn nộ trước cái ác và đồng cảm cho nỗi đau của người khác. Tội ác phải được lý giải quá trình nảy sinh ra nó, nhân vật thực hiện tội ác phải có quá trình hình thành tâm lý, nếu ko thì cái ác đó chỉ còn là cái ác hời hợt ko gây được cảm xúc khi xem. Ko nên có quá nhiều cảnh nóng và bạo lực, hút chích của diễn viên quần chúng, thay vào đó nên chọn lọc và cụ thể, trao cho vài nhân vật nhỏ nhưng khắc sâu thì mạnh mẽ hơn là cả đống người mà mờ nhạt.
Phim noir thành công ko phải nhờ quá bạo lực hay nhờ quá nhiều cảnh nóng, mà nó thông qua việc gây ấn tượng mạnh và sắc bén để nói lên một ý nghĩa nhân sinh nào đó hay một tình cảm mãnh liệt đến phải bùng nổ dữ dội (tình cảm ko phải chỉ là tình yêu, mà là có phạm trù rộng, như tình mẹ, tình cha, tình anh em, tình bạn; sự oan khuất, sự phẫn nộ, nỗi sợ hãi, sự giằng xé tâm lý dữ dội, cảm giác tội lỗi đau khổ...).
Nếu phim nghệ thuật đòi hỏi sự sâu sắc ý nghĩa, chấp nhận ít người xem nhưng phải thuyết phục đối với giới phê bình, thì phim thương mại đòi hỏi phải dễ hiểu mới đến được với số đông. Nhà làm phim "Real" thật sai lầm khi ko thể cho phim thuộc về một chuẩn mực nào trong 2 chuẩn mực trên, làm nó bị hắt hủi phê phán từ đủ giới. Đối với một phim thương mại, thì làm như "Real" là nhồi nhét quá nhiều thứ dễ gây ác cảm vào trong một tác phẩm (vd cảnh nóng trụy lạc thừa thãi, bạo lực thuần túy, hút chích, mại dâm...) trong khi đó thì quá trình diễn giải lại càng khiến cho khán giả rối rắm khi tạo ra những cú lừa lộn xộn có đầu ko đuôi. 2/3 đầu phim rất sáo rỗng và vô số cảnh thừa, 1/3 cuối phim có súc tích và ý nghĩa hơn, nhưng cảnh thừa thãi phô trương phô diễn quá mức thì vẫn rất nhiều. Trong khi đó những điều quan trọng cần phát triển của đường dây chính thì lại rất yếu ớt và ít ỏi, mơ hồ.
Nếu muốn theo mô hình thứ 3 là phim bom tấn nghệ thuật thì nó cũng đòi hỏi một sự trung hòa/vừa phải, nội dung phức tạp ở mức độ trung bình và phải khiến cho người xem có thể hiểu được.
Nếu đạo diễn mới bắt đầu làm phim thì càng ko nên dại dột đâm đầu vào thể loại noir khó khăn trong một dự án lớn này mà cần tích lũy rất nhiều kinh nghiệm (vd bằng những dự án noir nhỏ/độc lập, hoặc những thể loại gần như hình sự điều tra, kinh dị giả tưởng, black comedy...) để tránh rơi vào tình trạng sai lầm do ko biết tự lượng sức mình. Nếu phim có cảnh nóng mà còn thêm bạo lực thì mức độ tiếp cận khán giả sẽ càng hạn chế (bị dán nhãn hạn chế độ tuổi khán giả), khó khăn gấp bội cho doanh thu. Thông thường thì chọn chỉ 1 trong 2 thứ thì sẽ dễ phân luồng khán giả hơn.
Số phim noir thực sự ưu tú chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Trong những phim ưu tú thì số phim bùng nổ được phòng vé càng ít hơn nữa, vd "Mother" (Bong Joon Ho, 2009, 2.98 triệu vé) - nhưng chúng thường đậm chất hành động kinh dị hơn là chất noir đích thực. Mặt khác, với kinh phí khoảng 10 tỷ won thông thường cho một phim bom tấn cỡ vừa hiện nay, thì phải đạt ít nhất tầm 3 triệu vé mới ở mức hoà vốn mà thôi, trong khi đó các phim noir Hàn thường chỉ đạt mức trên dưới 1.5 triệu vé.
Ngay cả "Burning" (Lee Chang Dong, 2018) cũng chỉ thu hơn 500 nghìn lượt vé. "Pieta" (Kim Ki Duk, 2012) hơn 600 nghìn lượt. "Old boy" (Park Chan Wook, 2003) 300 nghìn lượt vé.
Chung tính chất quỷ dị khó hiểu, nhưng "Moebius" (Kim Ki Duk, 2012, 34 nghìn vé), "Doomsday Book" (Kim Jee Woon & Yim Pil Sung, 2012, 97 nghìn vé) còn kén khán giả hơn cả "Real" (470 nghìn lượt vé).