Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: nail65
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kinh Dị] Liêu Trai Chí Dị | Bồ Tùng Linh

[Lấy địa chỉ]
441#
Đăng lúc 20-6-2013 13:46:18 | Chỉ xem của tác giả
415. Bói Tiền (Tiền Bốc Vu)


Hạ Thương người huyện Hà Gian (tỉnh Hà Bắc). Cha là Đông Lăng, giàu có xa xỉ, mỗi khi ăn bánh bao thì xé bỏ vỏ bột, vứt bừa đầy đất, người ta thấy thân hình to béo nên gọi là "Thái úy bỏ vỏ”. Về già thì nghèo mạt, ngày không đủ hai bữa cơm, hai cánh tay tóp lại, da chảy xệ xuống lùng nhùng như cái túi, người ta lại gọi là “Nhà sư khuyến hóa", ý nói là như khoác cái túi vậy. Lúc sắp chết dặn Thương rằng "Ta lúc trước phung phí của trời, làm trời nổi giận nên tới nỗi đói rét mà chết. Con nên tiếc phúc mà cố gắng, chuộc tội cho cha. Thương tuân theo lời trối trăn, thành thực chất phác không hai, cày ruộng nuôi thân, người làng đều yêu mến nể vì. Có phú ông Mỗ thương Thương nghèo bèn cho mượn tlền làm vốn bảo đi buôn. Thương thua lỗ mất sạch vốn, thẹn không thể đền được, xin làm đầy tớ để trả, phú ông không chịu. Thương áy náy, bán hết điền sản đem tiền trả. Phú ông hỏi biết rõ chuyện càng thương hơn, ép phải về chuộc lại điền sản, lại giúp thêm rất nhiều tiền cho đi buôn tiếp.



Thương chối từ nói “Mười mấy lượng vàng trước còn chưa đền được, chẳng lẽ lại còn mang nợ để kiếp sau làm lừa ngựa trả ơn ư?". Phú ông bèn gọi người khác cùng đi buôn với Thương, vài tháng trở về cũng có lãi chút ít, phú ông không lấy, bảo cứ lấy đó làm vốn buôn tiếp. Hơn một năm thì vốn liếng nhiều lên, mua hàng đầy xe trở về, qua sông bị đắm thuyền, hàng hóa mất hết. Về tính lại phần mình thì tạm đủ để đền, bèn nói với người bạn buôn rằng “Trời bắt ta nghèo, ai mà cứu được? Đây đều là ta làm lụy cho ông cả", rồi tính sổ giao hết hàng cho người ấy, tay không trở về. Phú ông lại ép đi buôn nữa, nhưng Thương không chịu, chỉ cày ruộng nuôi thân như cũ, thường than rằng “Người ta sinh ra ở đời đều được hưởng phúc vài năm, sao ta lại vất vả thế này?". Gặp lúc có người thầy bói ở nơi khác tới, chuyên bói bằng tiền, biết rõ số mạng người ta, Thương bèn kính cẩn tìm tới.



Thầy bói là một bà già, nhà cửa phòng ốc sạch sẽ, giữa đặt bàn thờ thần, khói hương nghi ngút. Thương vào vái lạy, bà ta bèn đòi trả tiền công trước. Thương đưa ra một trăm đồng tiền, bà ta bỏ cả vào cái thùng gỗ, cầm lấy quỳ xuống trước bàn thờ thần lắc vang, dáng như cầu khấn. Kế đứng dậy dốc tiền vào tay, rồi bày theo thứ tự lên trên bàn. Lối bói này lấy đồng tiền ngửa là rủi, sấp là may, mà năm mươi tám đồng đầu tiên đều ngửa, từ đó trở đi đều là sấp. Bà ta bèn hỏi tuổi tác, Thương đáp là hai mươi tám. Bà ta lắc đầu nói “Còn sớm quá. Quan nhân hiện đang trong vận của ông cha chứ chưa qua vận của bản thân, phải đến năm mươi tám tuổi đến vận của bản thân, mới như ý được". Thương hỏi thế nào là vận của ông cha, bà ta đáp “Ông cha làm điều lành, phúc đức chưa hết thì con cháu được hưởng, ông cha có điều không hay, tai họa chưa hết thì con cháu phải gánh chịu. Thương bấm đốt tay nói "Ba mươi năm nữa thì ta đã già sắp xuống lỗ mất rồi". Bà ta nói "Trước năm năm mươi tám tuổi cũng có năm năm giao vận, làm ăn tạm được, không tới nỗi đói rét. Năm năm mươi tám tuổi sẽ có món tiền lớn tự tới, chẳng cần tìm kiếm. Quan nhân cả đời không làm điểu lầm lỗi, kiếp sau sẽ được hưởng thụ không hết”.



Thương chào người thầy bói ra về, nửa tin nửa ngờ. Nhưng vẫn giữ phận nghèo, không dám mong cầu gì, về sau đến năm năm mươi ba tuổi thì nghiệm ra thấy đúng. Mùa xuân năm ấy vào đầu vụ lúa Thương bị bệnh không cày cấy gì được, đến khi hết bệnh thì trời đại hạn, lúa mạ cháy khô, gần vào thu mới mưa, nhà không còn gì ăn, có vài mẫu ruộng phải trồng bắp cả. Kế đó lại hạn hán, lúa thu chết một nửa, chỉ có bắp không bị gì, sau lại gặp mưa lớn, nên Thương thu hoạch được rất nhiều. Mùa xuân năm sau đói lớn, nhưng nhờ có bắp nên nhà đủ ăn, Thương vì thế tin lời người thầy bói, tới phú ông mượn tiền buôn bán nhì nhằng cũng được lời chút ít. Có người khuyên nên buôn lớn, Thương không chịu. Đến năm năm mươi bảy tuổi ngẫu nhiên cuốc đất ở chân tường trồng rau, đào được cái chảo sắt, kéo ra thì hơi trắng xông lên lóa mắt, Thương sợ không dám giở lên. Lát sau hơi trắng tan hết, thấy là một vò bạc đầy, vợ chồng cùng vần vào nhà, cân lên được một ngàn ba trăm hai mươi lăm lượng, bàn thầm với nhau rằng bà thầy bói nói cũng còn sai chút ít. Có người đàn bà láng giềng qua nhà Thương nhìn trộm thấy bạc, về nói với chồng, người chồng chị ta ghen ghét bèn đi báo quan. Quan huyện là người rất tham lam, bèn bắt Thương đòi lấy tiền. Vợ Thương muốn giấu bớt một nửa, Thương nói “Của cải bỗng dưng mà có, giữ lại chỉ chuốc họa", bèn nộp hết. Quan huyện ngờ là còn giấu diếm, lại đòi nộp cả cái vò đựng, đổ bạc vào trở lại thấy đầy bèn thả Thương về.



Không bao lâu viên quan huyện được thăng làm Đồng Tri phủ Nam Xương (tỉnh Giang Tô), qua năm sau Thương đi buôn tới Nam Xương thì viên quan đã chết, vợ con sắp về quê, bán hết các vật cồng kềnh nặng nề. Trong đó có một thùng dầu rất lớn, Thương bèn mua chở về. Tới nhà thì cái thùng bị nứt, bèn rót dầu sang vò khác, thấy có hai nén bạc, thò tay vào thùng mò thử thì đều là bạc, xem lại đủ cả số bạc trước đó Thương đào được. Thương nhờ vậy giàu phất lên, rất hay giúp đỡ kẻ nghèo, không hề bỏn xẻn. Vợ khuyên nên dành dụm để lại cho con cháu, Thương nói "Giúp đỡ người ta như thế là dành dụm để lại cho con cháu đấy". Người láng giềng tố cáo Thương ngày trước sa sút, nghèo khó đến nỗi phải đi ăn xin, cũng muốn nhờ vả Thương nhưng xấu hổ không dám tới. Thương nghe được gọi qua nói “Chuyện ngày trước là số phận của ta phải thế, nên quỷ thần mượn tay anh để làm hại thôi, anh có lỗi gì đâu!", rồi chu cấp cho, người láng giềng cảm động òa khóc. Sau Thương thọ đến tám mươi tuổi, con cháu thừa kế, mấy đời không suy.



Dị Sử thị nói: Xa xỉ quá đáng thì dẫu là bậc vương hầu cũng không nên, huống chi là kẻ thứ nhân ư? Kẻ kia lúc sống thì phung phí của trời, lúc chết thì không có miếng cơm trong miệng, thật đáng thương thay! May là lúc chết còn có lời nói hay, người con lại có thể sửa cái lỗi lầm của cha, nên suy bại bảy mươi năm rốt lại còn khá lên được. Nếu không thì cái oan nghiệt của cha làm lụy đến con, con lại làm lụy cháu, không đời đời đi ăn xin thì chưa thôi đâu. Bà thầy bói già kia là người gì mà nói ra được sự bí ẩn của đạo trời, than ôi lạ thay!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

442#
Đăng lúc 20-6-2013 13:47:30 | Chỉ xem của tác giả
416.Diêu An (Diêu An)


Diêu An là người huyện Lâm Thao (tỉnh Cam Túc), dáng người đẹp đẽ. Họ Cung ở cùng làng có con gái tự Lục Nga xinh đẹp lại biết chữ, nhiều người hỏi xin cưới không chịu, thường nói rằng “phải là người dòng dõi đẹp trai như chàng Diêu mới lấy". Diêu nghe được, xô vợ xuống giếng chết, nói là bị rơi xuống, rồi cưới Lục Nga, rất thương yêu nhau. Nhưng vì cô gái đẹp nên Diêu nghi ngờ, cứ đóng chặt cửa giữ rịt trong nhà, nàng đi đâu cũng theo sát. Cô gái về thăm cha mẹ thì giang hai tay áo che chắn từ trong nhà ra tới cửa, nàng lên kiệu rồi thì buông rèm che kín mít, cưỡi ngựa theo sát phía sau, đến chiều tối thì giục về cùng mình. Cô gái bực bội nói "Ta mà lăng nhăng thì ông cấm cản được à?”. Diêu có việc đi khỏi nhà thì khóa cửa nhốt nàng trong phòng, cô gái càng chán ghét, bèn chờ lúc Diêu đi vắng, lấy ống khóa khác khóa cổng, cố ý làm Diêu nghi ngờ. Diêu về nhìn thấy cả giận, hỏi ống khóa lạ này ở đâu ra, cô gái bực bội nói không biết, Diêu càng ngờ vực, lại xét nét nhiều hơn.



Một hôm Diêu đi xa về nhà, rình nghe hồi lâu rồi mở khóa vào nhà, sợ có tiếng động nên rón rén vào phòng. Thấy có người đàn ông đội nón lông điêu nằm trên giường, tức giận cầm dao xông vào chém chết. Nhìn kỹ lại thì ra cô gái ngủ trưa sợ lạnh, lấy cái khăn lông điêu trùm kín mặt, cả sợ giẫm chân hối hận. Họ Cung căm giận kiện lên quan, quan bắt Diêu, tước bỏ khăn áo học trò đóng gông giam lại. Diêu phải bán điền sản hối lộ khắp cả trên dưới mới khỏi tội chết. Từ đó tinh thần mê muội, như là đánh mất vật gì. Một hôm đang ngồi một mình, chợt thấy cô gái cùng một người đàn ông mặt đầy râu ria ôm nhau đùa giỡn trên giường, căm giận tìm dao xông tới thì không thấy gì nữa. Ngồi lại chỗ cũ thì lại thấy như thế, tức giận quá cầm dao chém xuống giường, đứt nát cả chăn nệm, rồi tức tối cầm dao lên giường nằm chờ. Lại thấy cô gái đứng trước mặt nhìn mình cười, vùng dậy chém đứt đầu, nhưng nằm xuống lại thì vẫn thấy cô gái đứng đó cười như cũ. Ngày nào cũng thế, không sao chịu nổi, bèn bán hết nhà cửa ruộng vườn, tới ở nơi khác. Một đêm có bọn trộm khoét vách vào, cướp hết tiền bạc mang đi. Từ đó Diêu trở nên bần cùng, căm giận mà chết, người làng phải chôn cất qua loa cho.



Dị Sử thị nói: Yêu người mới mà giết vợ cũ, thật tàn nhẫn quá! Người ta chỉ biết là bị ma mới trả thù, chứ không biết đã bị ma cũ cướp hồn phách rồi. Ô hô, gọt chân cho vừa giày, không bại vong sao được?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

443#
Đăng lúc 20-6-2013 13:49:05 | Chỉ xem của tác giả
417. Ông Hái Rau (Thái Vi Ông)


Lúc nhà Minh mất, binh lửa liên miên, Lưu Chi Sinh ở huyện Ô Lăng (tỉnh Sơn Đông) họp quân vài vạn, định kéo về nam. Chợt có một người đàn ông to béo tới trước cửa trại, mặc áo rách hở cả bụng ra, xin vào gặp chủ soái. Lưu mời vào cùng trò chuyện, lấy làm ưa thích, hỏi tới họ tên thì tự xưng là ông hái rau. Lưu giữ lại giúp việc quân, lấy đao tặng cho, ông ta nói “Ta tự có binh khí tốt, chẳng cần cầm giáo mác”. Lưu hỏi binh khí ở đâu, ông ta kéo áo để hở bụng ra, lỗ rốn sâu có thể nhét được con gà vào. Ông ta nín hơi lấy tay đánh vào bụng, da rốn chợt khép lại, rồi thở phì ra thì trong rốn chợt lộ ra đốc kiếm, cầm lấy rút ra thì kiếm bén ngót sáng loáng như sương. Lưu cả kinh hỏi "Chỉ có thế thôi à?", ông ta cười chỉ vào bụng nói "Đây là kho võ khí, cái gì lại không có”. Lưu bảo lấy cung tên ra xem, ông ta lại làm như trước, lấy ra một chiếc cung, lại nín hơi lần nữa thì một mũi tên rơi xuống, lấy bao nhiêu cũng có. Đến khi cắm kiếm vào rốn, thì không thấy võ khí đâu nữa. Lưu phục là thần kỳ, cùng ăn cùng ngủ, vô cùng kính trọng.



Lúc ấy trong dinh hiệu lệnh tuy nghiêm, nhưng quân lính ô hợp, thỉnh thoảng lại ra ngoài cướp bóc. Ông ta nói “Quân sĩ quý nhất là phải có kỷ luật, nay ông chỉ huy mấy vạn người, nếu không làm cho họ vâng lệnh được thì đó con đường bại vong đấy. Lưu khen lời ấy, lập tức tập hợp bộ ngũ, kiểm soát doanh trại, có kẻ nào cướp bóc của cải, bắt ép phụ nữ đều chém đầu thị chúng, quân sĩ giữ kỷ luật nghiêm hơn nhưng rốt lại vẫn không dứt được thói xấu. Ông hái rau lại thường thình lình cưỡi ngựa đi chơi trong doanh trại, nhĩmg tướng ác quân dữ tự nhiên đứt đầu ngã xuống không biết vì sao, mọi người đều ngờ là do ông ta. Trước kia ông ta dâng kế sách giữ nghiêm quân luật, quân sĩ đã vừa sợ vừa ghét, đến lúc ấy lại càng căm tức.



Các tướng đứng đầu bộ ngũ bèn gièm pha với Lưu rằng “Ông hái rau dùng yêu thuật. Các bậc danh tướng xưa nay chỉ nghe nói là dùng trí để cầm quân chứ không nghe là dùng thuật. Cái lũ dùng bùa phép lừa người ấy rốt cuộc cũng bị diệt vong. Nay tướng sĩ vô tội thỉnh thoảng lại tự nhiên bị rụng đầu, lòng người khiếp sợ lắm. Tướng quân ăn ở cùng y, cũng rất nguy hiểm, chẳng bằng giết đi”. Lưu nghe lời ấy, bèn bàn với các tướng chờ lúc ông ta ngủ mà giết. Sai người rình, thấy ông ta trật áo hở bụng nằm ngủ, ngáy to như sấm. Mọi người cả mừng, đem quân vây chặt bên ngoài, hai người cầm đao bước vào chặt đứt đầu ông ta. Nhưng khi giở đao lên thì đầu lại nối lại vào thân như cũ cả sợ bèn chém vào bụng. Bụng ông đứt ra mà không chảy máu, bên trong giáo mác tua tủa chĩa ra nhọn hoắt. Mọi người càng sợ, không dám tới gần, cứ đứng xa xa đâm chém. Chợt cung nỏ trong bụng ông ta bắn ra ào ào, mấy người bị trúng tên. Mọi người khiếp hãi chạy tan, tới bẩm Lưu. Lưu vội vàng tới thì ông ta đã biến mất.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

444#
Đăng lúc 20-6-2013 13:51:31 | Chỉ xem của tác giả
418. Oan Nghiệt Bài Thơ (Thi Nghiệt)


Phạm Tiểu Sơn người huyện Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) làm nghề buôn bút, đi buôn vắng nhà. Vào tháng tư, vợ là Hạ thị đêm ngủ một mình bị cướp giết chết. Đêm ấy có mưa nhỏ, trên mặt đất còn rơi lại một chếc quạt đề thơ của Vương Thạnh tặng Ngô Phỉ Khanh. Không biết Thạnh là ai, còn Ngô là một người giàu có ở huyện Ích Đô (tỉnh Sơn Đông), cùng làng với Phạm, thường ngày vẫn làm những việc khinh bạc nên xóm làng đều chắc là Ngô. Quận huyện bắt lên tra hỏi, Ngô vẫn một mực không nhận, bị tra khảo nặng nề rồi kết án. Tra đi xét lại, trải hơn mười vị quan cũng không ai nói khác. Ngô cũng nghĩ số mình ắt chết bèn dặn vợ dốc hết của nhà ra trợ giúp những người cô đơn nghèo khổ. Ai hướng vào cổng niệm Phật một ngàn câu thì được quần bông, niệm một vạn câu thì được áo bông, nên những kẻ ăn xin kéo đến đông như chợ, tiếng niệm Phật vang xa hơn chục dặm. Nhà vì vậy nghèo đi rất nhanh, hàng  ngày cứ phải bán ruộng đất để đãi khách. Ngô lại hối lộ người coi ngục nhờ ngầm mua giùm thuốc độc.



Đêm nằm mơ thấy thần nói "Ngươi chớ vội chết, hôm trước ở ngoài hung thì nay bên trong cát rồi!”. Ngủ lại vẫn nằm mơ như thế, vì vậy không quyết tự tử nữa. Không bao lâu tiên sinh Chu Nguyên Lượng đi tuần sát tới, xét lại án tù, tới Ngô thì có vẻ nghĩ ngợi, nhân hỏi Ngô giết người có bằng chứng nào không, Phạm thưa rằng có cái quạt ông xem kỹ cái quạt rồi hỏi Vương Thạnh là ai, mọi người đều thưa là không biết. Ông lấy án văn xem kỹ lại một lượt rồi lập tức ra lệnh tháo gông cùm cho Ngô, cho chuyển từ nhà ngục ra nhà kho. Phạm cố biện luận, ông tức giận nói "Ngươi muốn giết oan một người cho xong chuyện hay muốn tìm ra kẻ thù mới cam lòng”. Mọi người ngờ là ông riêng tây với Ngô nhưng không ai dám nói. Ông bèn ném thẻ bài đỏ sai đi bắt ngay người chủ quán nọ ở Nam Quách. Chủ quán sợ hãi không biết vì sao, tới thì ông hỏi "Trên vách quán ngươi có bài thơ của Lý Tú người huyện Đông Quan (tỉnh Sơn Đông), viết lúc nào vậy?”. Chủ quán thưa “Năm trước quan Đốc học về ghé ngang, có hai ba người Tú tài uống rượu say đề thơ, không biết họ ở làng nào".



Ông sai nha dịch tới huyện Nhật Chiếu (tỉnh Sơn Đông) bắt Lý Tú. Mấy hôm sau Tú tới, ông giận dữ hỏi “Đã là Tú tài, sao còn mưu giết người?". Tú dập đầu kinh ngạc, chỉ nói là không hề làm chuyện ấy. Ông ném cái quạt xuống bảo Tú xem rồi nói “Rõ ràng là thơ của ngươi, sau dám bịa đặt đổ cho Vương Thạnh!". Tú xem kỹ rồi thưa “Thơ thì đúng do ta làm, nhưng chữ thì thật không phải do ta viết”, ông nói "Đã biết thơ của ngươi thì ắt là bạn ngươi, vậy ai viết chữ?”. Tú thưa "Nét chữ giống như của Vương Tá ở huyện Nghi (tỉnh Sơn Đông)”. Ông bèn sai bắt Vương Tá, Tá tới, ông cũng quát hỏi như lúc hỏi Tú. Tá nói "Ấy là do người lái buôn sát ở huyện Ích Đô  là Trương Thành nhờ  ta viết, y là em họ Vương Thạnh”. Ông nói “Thằng cướp ở đây rồi!”. Cho bắt Thành tới, vừa tra hỏi đã nhận tội ngay.



Trước là Thành trộm thấy Hạ thị đẹp, muốn khêu gợi nhưng sợ không xong, mới nghĩ cách giả danh Ngô thì ắt mọi người đều tin nên mới làm giả chiếc quạt của Ngô cầm theo, nếu được thì tự nhận là mình, không được thì đổ cho Ngô, nhưng thực lòng không định giết người. Y leo tường vào nhà cưỡng bức người đàn bà, người đàn bà ở nhà một mình nên thường để sẵn dao tự vệ, lúc tỉnh giấc nắm áo Thành rồi rút dao vùng dậy. Thành hoảng sợ giật dao, nhưng người đàn bà cứ ra sức giữ chặt lấy hắn, lại kêu ầm lên, Thành cùng đường nên đâm chết rồi vứt chiếc quạt lại bỏ đi. Vụ án oan khuất ba năm chỉ một buổi mà xử xong, ai cũng ca ngọi ông sáng suốt như thần.



Ngô lúc bấy giờ mới sực hiểu lời thần nói “bên trong cát" là chữ Chu* song vẫn không hiểu vì sao ông Chu biết mình oan. Sau có một người thân hào ở huyện gặp dịp hỏi, ông cười đáp “Điều ấy dễ biết lắm! Đọc kỹ văn án thì Hạ thị bị giết vào thượng tuần tháng tư. Đêm ấy mưa phùn, khí trời còn lạnh, quạt là thứ không cần thiết, thủ phạm há vào lúc gấp rút còn mang theo cho bận thêm sao? Rõ ràng là nhằm giá họa vậy. Trước đây ta trú mưa ở Nam Quách, thấy có bài thơ đề trên vách quán lời lẽ tương tự bài thơ trên chiếc quạt nên đoán lầm là Lý sinh, quả nhân đó mà tìm ra tên cướp thật, cũng là may thôi”, người nghe chuyện đều thán phục.



* "Bên trong cát” là chữ Chu: trong Hán tự, chữ “Chu” có phần bên trong là chữ “Cát” đây ý nói Ngô Phỉ Khanh may mắn gặp được ông Chu Nguyên Lượng.



Dị Sử thị nói: Việc trong thiên hạ nếu biết tới nơi tới chốn, thì từ chỗ không có cũng có thể thành có mà hữu dụng. Văn chương thơ phú là cái làm đẹp cho nước, tiên sinh lấy đó xem xét kẻ sĩ trong thiên hạ, người ta đều ca ngợi, há chẳng phải là tới nơi tới chốn sao. Nhưng chẳng ai nói tới việc đem đạo xem xét kẻ sĩ mà xử án. Kinh Dịch nói “Biết cơ là thần” tiên sinh là người như thế vậy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

445#
Đăng lúc 20-6-2013 13:53:09 | Chỉ xem của tác giả
419. Mao Đại Phúc (Mao Đại Phúc)


Mao Đại Phúc ở huyện Thái Hàng (tỉnh Sơn Đông) làm nghề trị bệnh ghẻ lở. Một đêm chữa bệnh về, gặp một con sói ngậm cái bọc vải nhả xuống rồi lui lại ngồi bên đường. Mao nhặt lên xem, thấy trong cái bọc có mấy món đồ trang sức bằng vàng. Đang còn lạ lùng thì con sói đã nhảy cỡn tới trước mặt, cắn nhẹ vào áo kéo rồi lại nhả ra bỏ đi. Mao bước đi thì nó lại cắn áo kéo, thấy ý tứ không có vẻ gì là hung dữ bèn đi theo. Tới cửa hang thì thấy một con sói bệnh nằm, trên đầu có một vết loét to giòi bọ lúc nhúc. Mao hiểu ra, bèn cắt bỏ hết thịt thối, rắc thuốc cho nó rồi về. Trời đã tối, con sói tiễn ra tới ba bốn dặm, chợt thấy có mấy con sói kéo tới gầm thét định cắn xé, Mao sợ lắm. Con sói kia vội xông vào đám sói như kể lại chuyện, đám sói tan đi, Mao bèn trở về. Trước đó trong huyện có người đi buôn bạc là Ninh Thái bị cướp giết trên đường, không sao tìm ra thủ phạm. Gặp lúc Mao bán các vật trang sức, bị vợ Ninh bắt gặp, kêu người trói lại dắt lên quan. Mao kể lại mọi chuyện, quan không tin, sai đóng gông. Mao oan ức mà không biết làm sao giải bày, chỉ xin cho dắt đi để hỏi sói. Quan sai hai người lính áp giải Mao vào núi, tới thẳng chỗ hang sói. Gặp lúc sói chưa về, chờ đến tối cũng không thấy đâu, ba người trở về. Được nửa đường thì gặp hai con sói, một con còn cái sẹo lớn trên đầu.




Mao nhận ra bèn vái khấn rằng "Trước đây được tặng vật quý, nay lại vì thế mà bị bắt bớ, nếu không giải oan cho, thì lần này ta về chỉ có nước chết mà thôi". Sói thấy Mao bị trói, tức giận xông lại, hai người lính rút dao chĩa ra, sói chúi mũi xuống đất hú lên. Hú được hai ba tiếng thì cả trăm con sói trong núi đổ tới vây chặt, hai người lính hoảng sợ. Con sói chen lên nhe răng cắn dây trói, hai người lính hiểu ý vội cởi trói cho Mao, bầy sói mới tan đi. Về huyện bẩm lại mọi chuyện, quan huyện lấy làm lạ nhưng cũng chưa thả Mao ra. Mấy ngày sau, quan vi hành trên đường, thấy một con sói ngậm chiếc giày rách vứt giữa đường. Quan cũng chưa lấy làm lạ, đi qua rồi thì con sói lại ngậm chiếc giày chạy lên phía trước đặt xuống. Quan sai lính hầu nhặt lấy, con sói bèn bỏ đi. Quan về sai người ngầm tìm chủ nhân chiếc giày, có người đồn rằng Tùng Tân ở thôn nọ bị  một con sói đuổi riết cướp lấy giày mang đi, quan bèn sai bắt, giải lên nhận giày, thì đúng là giày của Tân. Quan ngờ ràng Tân là kẻ giết Ninh, bèn tra hỏi quả đúng.  Đại khái là Tân giết  Ninh cướp lấy món tiền lớn, nhưng dưới đáy túi Ninh còn sót mấy món trang sức, bị sói tha đi.




Trước có một bà mụ đi đỡ đẻ về, gặp một con sói chặn đường cắn áo như muốn mời thỉnh, bà ta đi theo. Thấy có một con sói cái đang đẻ chưa được bà ta bèn tới đỡ giúp, xong rồi con sói đực để bà ta về. Sáng hôm sau thấy nó tha một con nai tới đặt ở sân. Mới biết là chuyện như của Mao, từ xưa đã có vậy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

446#
Đăng lúc 20-6-2013 13:54:40 | Chỉ xem của tác giả
420. Thần Làm Mưa Đá (Bốc Thần)


Thái sử Đường Tế Vũ qua huyện Nhật Chiêu (tỉnh Sơn Đông) viếng đám tang họ An, trên đường đi ngang đền thờ Thần làm mưa đá Lý Tả Xa, bèn ghé vào chơi. Trước đền có cái ao nước trong leo lẻo, có vài con cá đỏ bơi lội tung tăng, trong có  một con vẫy đuôi đớp bọt trên mặt nước, thấy người không hề tỏ vẻ sợ hãi. Thái sử nhặt viên đá nhỏ định ném đùa, đạo sĩ bên cạnh vội ngăn lại bảo đừng ném. Thái sư hỏi vì sao, đạo sĩ đáp “Tôm cá trong ao đều là rồng, xúc phạm sẽ có mưa đá”. Thái sử cười là theo đuôi những người tin nhảm, không nghe lời can, cứ ném đá vào con cá. Đến khi ra xe lên đường, thấy có đám mây đen tròn như cái lọng đuổi theo xe, kế có mưa đá ào ào rơi xuống, to như quả trứng, đi hơn một dặm mới tạnh.  Em Thái sử là Lương Vũ đi sau chỉ cách một tầm tên, lát sau lên tới gặp nhau hỏi chuyện, thì chẳng thấy có mưa đá gì cả. Hỏi những người đi trước Thái sử cũng thế. Thái sử cười nói "Chẳng lẽ đó là Quảng Vũ quân* tác quái à?", nhưng cũng chưa lấy làm lạ lắm.




*Quảng Vũ quân: tức Lý Tả Xa, được phong là Quảng Vũ quân của nước Triệu thời Hán Sở tranh hùng.




Ngoài thôn họ An có đền thờ Quan Đế, có người buôn dạo vừa đặt gánh xuống ngoài cửa, vứt bỏ quang gánh rảo bước vào đền, rút thanh đại đao trên giá múa tít, nói "Ta là Lý Tả Xa đây. Sáng mai sẽ xin theo hầu Thái sử họ Đường ở huyện Truy Xuyên đi đưa đám, kính báo cho chủ nhân biết trước”. Nói mấy lượt như thế thì tỉnh lại, không nhớ rằng mình vừa nói gì, cũng không biết Thái sử họ Đường là ai. Nhà họ An nghe chuyện cả sợ, thôn cách đền thần hơn bốn mươi dặm cũng vội vàng sắm sửa lễ vật tới cầu khẩn xin thương cho, không dám làm phiền xa giá. Thái sử lấy làm lạ về việc quá tin tưởng như thế bèn hỏi, chủ nhân đáp rằng Thần làm mưa đá rất linh thiêng, thường mượn người sống để nhắn lời, điều gì cũng ứng nghiệm. Nếu không tới cầu khấn để xin thần bỏ qua, sáng mai đám tang sẽ gặp mưa đá ngay.




Dị Sử thị nói: Quảng Vũ quân lúc sinh thời cũng là hạng người quen tính việc lớn. Dù là làm Thần làm mưa đá ở Sơn Đông cũng có lẽ không chịu ẩn nhẫn, nên mới nhận mệnh ở trời. Nhưng đã làm thần rồi, thì cần gì phải tỏ ra linh dị chứ? Có lẽ Thái sử là người văn chương đạo nghĩa, trời người cùng khâm phục đã lâu, nên quỷ thần vì vậy muốn được bậc quân tử tin tưởng chăng?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

447#
Đăng lúc 20-6-2013 13:55:57 | Chỉ xem của tác giả
421. Ông Lý Tám Vò (Lý Bát Hàng)


Giám sinh Lý Nguyệt Sinh là con thứ của ông Lý. Ông rất giàu, dùng vò để đựng vàng, người làng gọi là Bát hàng (Tám vò). Lúc ông bệnh nặng gọi con tới chia gia tài, con trưởng được tám phần, con thứ được hai phần, Nguyệt Sinh không giấu được vẻ thất vọng. Ông nói “Ta không phải là thương đứa này ghét đứa khác đâu, còn có vàng chôn chỗ khác, chờ lúc nào không có nhiều người sẽ nói cho con biết, đừng nóng ruột”. Qua vài hôm, ông chỉ còn thoi thóp, Nguyệt Sinh sợ ông qua đời lúc nào không biết, bèn chờ lúc vắng người tới cạnh giường hỏi khẽ. Ông đáp “Đời người ta sung sướng hay khổ cực đều có số cả rồi, ngươi có phúc có được vợ hiền, thì không nên cho thêm nhiều vàng, chỉ thêm hoạn nạn thôi". Đại khái Nguyệt Sinh có vợ họ Xa, rất hiền thục, có đức độ như Hoàn Thiếu quân, Mạnh Quang* nên ông mới nói thế. Nguyệt Sinh cứ nài nỉ hỏi mãi, ông tức giận nói "Ngươi còn phải vất vả hai mươi năm nữa, dù có cho ngàn vàng cũng sẽ hết sạch, nếu chưa đến lúc cùng đường thì đừng trông mong ta sẽ cho thêm”. Nguyệt Sinh là người hiếu đễ thuần hậu nên cũng không dám nói gì nữa, chỉ mong cho cha khỏe lại thì có lúc sẽ nói ra.




*Hoàn Thiếu quân, Mạnh Quang: Hoàn Thiếu quân là vợ Bào Tuyên, Mạnh Quang là vợ Lương Hồng, cùng là người thời Hán, đều nổi tiếng là vợ hiền.




Không bao lâu, ông Lý bệnh càng nặng, kế chết. May là người anh hiền, nên việc chôn cất không hề so đo với Nguyệt Sinh. Nhưng Nguyệt Sinh tính tình phóng khoáng, không tính toán lặt vặt, lại hiếu khách hay rượu. Có ngày bắt vợ làm cơm dọn rượu ba bốn lần đãi khách, lại không biết coi sóc người nhà làm ăn. Bọn vô lại trong làng thấy hiền lành nhu nhược cứ xúm vào bòn rút, được vài năm dần dần sa sút, song những lúc ngặt nghèo lại sang nhờ vả anh nên cũng không tới nỗi cùng khốn. Không bao lâu người anh già bệnh chết, không còn ai để nương tựa, tới nỗi trong nhà hết cả thóc ăn, cứ mùa xuân vay mùa thu trả, gặt xong trả nợ là hết sạch, từ đó cứ bán ruộng ăn dần. Được vài năm thì con trai lớn và vợ nối nhau chết, lại càng cực khổ. Kế tục huyền vói vợ người buôn dê họ Từ nên được nhờ vả đôi chút, song tính Từ cứng rắn nóng nảy, hàng ngày vẫn xỉa xói làm nhục, Nguyệt Sinh vì vậy thậm chí không dám đi lại thăm hỏi với bè bạn.




Chợt một đêm nằm mơ thấy cha về nói "Nay thì ngươi đã đến lúc có thể nói là cùng đường rồi, trước ta có nói sẽ cho ngươi số vàng còn chôn, bây giờ thì được rồi”. Nguyệt Sinh hỏi chỗ, ông Lý đáp "Sáng mai ta chỉ cho". Nguyệt Sinh tỉnh dậy lấy làm lạ, còn nghĩ rằng vì mình nghèo mong muốn có tiền nên sinh ra mộng mị hão huyền. Hôm sau giẫy cỏ ở chân tường, cuốc được hủ vàng lớn, mới sực hiểu ra rằng trước kia ông Lý nói chờ lúc không có nhiều người, là ý nói chờ lúc người thân đã chết một nửa vậy.




Dị Sử thị nói: Nguyệt Sinh là bạn nghèo với ta, tính tình thành thực chất phác không có chút nào là giả trá, anh em ta giao du với ông rất thân, chuyện vui buồn đều có nhau. Mấy năm nay chỉ ở cách nhau hơn mười dặm mà không được tin sống chết ra sao, mỗi lần ta đi ngang cũng không dám ghé thăm, thì đủ biết Nguyệt Sinh rơi vào hoàn cảnh khổ cực tới mức nào rồi. Chợt nghe ông bất ngờ có được ngàn vàng, bất giác vỗ tay reo mừng cho ông. Than ôi! ông Lý lúc lâm chung nói mệnh, trước đây vẫn được nghe kể, nhưng vẫn không nghĩ rằng đó là lời sấm báo trước, hay ông là thần chăng?

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

448#
Đăng lúc 20-6-2013 13:58:21 | Chỉ xem của tác giả
422.Nhà Đò Bến Lão Long (Lão Long Thuyền Hộ)


Lúc ông Chu Huy Ấm làm Tổng chế Việt Đông (tỉnh Quảng Đông), có nhiều người buôn bán đi đường tới kêu về việc người chết không có nguyên do. Cứ có việc người đi ngàn dặm bị chết mất xác, thậm chí có mấy người cùng đi mà không ai có tin tức gì, đơn từ chất chồng không sao tra xét được. Buổi đầu nhận đơn các quan địa phương còn phát công văn sai tìm bắt hung thủ, nhưng về sau đơn bẩm ngày càng nhiều, cũng đành để đó  không hỏi tới nữa. Ông Chu tới nơi làm quan, xem xét đơn từ đọng lại, trong đó những người bị coi là đã chết có tới hàng trăm, nhưng người chết trên ngàn dặm không ai tố cáo thì không biết là còn bao nhiêu nữa. Ông kinh sợ đau xót, lo lắng bỏ ăn bỏ ngủ, hỏi han khắp liêu thuộc tìm ra một cách. Rồi đó ông ăn chay tắm gội, đốt hịch văn cáo với thần Thành hoàng, kế đó vào trai phòng chờ.

Trong lúc mơ màng thấy có một viên quan cài trâm cầm hốt bước vào. Ông hỏi là quan ở đâu, viên quan ấy đáp là thần Thành hoàng họ Lưu. Ông hỏi là định nói gì, viên quan ấy đáp "Mái tóc rũ tuyết, Chân trời sinh mây, Gỗ trôi nước nọ, Cửa mở tường này”, nói xong bước ra. Ông tỉnh dậy nghĩ ngợi không hiểu, trằn trọc tới sáng chợt nghĩ rằng "Mái tóc rũ tuyết là Lão (người già), Chân trời sinh mây là Long (rồng), Gỗ trôi trong nước là Thuyền (chiếc thuyền), Cửa mở trên tường là Hộ (cửa), hợp lại là bốn chữ Lão Long thuyền hộ (Nhà đò bến Lão Long) chăng?”. Đại khái ở phía đông bắc tỉnh gọi là Tiểu Lĩnh, Lam Quan, phát nguồn từ bến Lão Long chảy ra tới Nam Hải, những nhà buôn lớn ở tỉnh ngoài đều theo đường ấy vào đất Việt. Ông vội điều động binh lính, ngầm trao mưu kế sai bắt hết những nhà đò ở bến Lão Long, lần lượt bắt được hơn năm mươi người, đều không phải tra khảo đã cúi đầu chịu tội. Đại khái đám cướp này giả danh chở thuê, dụ khách lên thuyền rồi thì hoặc bỏ thuốc, hoặc xông hương cho họ ngất đi rồi mổ bụng nhét đá vào ném xuống nước, rất là thê thảm. Vụ án kết thúc, xa gần người ta đều mừng rỡ, làm thơ đặt vè ca ngợi rất nhiều.



Dị Sử thị nói: Mổ bụng nhận chìm xác, quá sức oan khốc thê thảm, thế mà các quan như tượng gỗ chỉ coi là ghẻ ngứa ngoài da, để đất Việt hơi oan che khuất mặt trời đã lâu. Ông tới nơi thì quỷ thần hiển linh nghe lệnh, nỗi oan trong chậu úp được soi tỏ, sao mà lạ thế? Nhưng ông cũng chẳng phải có ba đầu sáu tay gì, chẳng qua chỉ là tỏ tình thương xót kẻ vô tội dồn lại trong lòng mà được như thế thôi. Nếu cứ nghênh ngang ngồi cao, ra thì kiếm kích bày hàng, vào thì lan xạ xông thơm, oai vệ cho lắm vào thì làm sao có thể cảm thông với quỷ thần được?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

449#
Đăng lúc 20-6-2013 13:59:58 | Chỉ xem của tác giả
423. Tiên Sinh Nguyên Thiếu (Nguyên Thiếu Tiên Sinh)


Tiên sinh Hàn Nguyên Thiếu khi còn là Chư sinh, một hôm thấy một người bước vào phòng nói là chủ nhân mời về dạy học, nhưng không thấy đưa danh thiếp. Hỏi về gia thế nơi chốn người kia chỉ trả lời ậm ừ, nhưng đưa lễ vật mời thầy rất hậu. Tiên sinh ưng thuận, hẹn ngày tới dạy. Đến hẹn quả có chiếc xe tới đón, lối đi quanh co, đường xá rất lạ. Chợt thấy một nơi điện gác, xuống xe vào thấy khí tượng như là phủ đệ của bậc tiên  vương. Vào nơi ở, thấy bày đủ rượu thịt mời khách ăn uống một mình chứ không thấy chủ nhân đâu. Tiên sinh ăn uống xong thì công tử ra lạy chào, mười lăm mười sáu tuổi, phong tư anh tuấn hơn người. Làm lễ xong công tử về ở nơi khác, lúc nào học mới tới chỗ thầy. Công tử rất thông minh, nghe giảng qua là hiểu ngay nhưng tiên sinh vì không rõ chủ nhân là ai nên vẫn ngờ vực lo lắng.  Chỗ tiên sinh ở có hai đứa tiểu đồng hầu hạ, tiên sinh hỏi han cật vấn đều không nói. Hỏi chủ nhân ở đâu, chúng đáp là bận việc. Bảo dắt tới xem trộm chủ nhân làm việc, chúng đáp là không được, nài nỉ mấy lần chúng mới ưng thuận.



Kế dắt tiên sinh tới một chỗ, nghe có tiếng tra khảo đánh đập, ghé mắt nhìn vào khe cửa thấy một vị vương giả ngồi trên điện, dưới thềm bày đủ núi kiếm vạc dầu, toàn Ià công việc của âm phủ. Tiên sinh hoảng sợ, đang định trở lui thì bên trong đã biết có người, bèn ra lệnh tạm nghỉ. Diêm Vương quát đuổi bọn quỷ tốt lui xuống rồi lớn tiếng gọi hai đứa tiểu đồng, chúng biến sắc nói "Bọn ta vì tiên sinh mà mang họa vào thân rồi!", rồi run rẩy bước vào. Diêm Vương tức giận nói "Sao các người dám dắt người lạ tới nhìn trộm?", rồi ra lệnh phạt đánh roi hai đứa, sai triệu tiên sinh vào nói "Sở dĩ ta không cho ông gặp là vì âm dương khác nẻo. Nay ông đã biết ta là ai, thì khó lòng ở đây được nữa”. Rồi đưa vàng bạc tiễn tặng bảo về, lại nói “Ông là bậc văn nhân đứng đầu thiên hạ, nhưng còn long đong chưa thành đạt đâu”, kế sai người hầu dong ngựa đưa về. Tiên sinh ngờ mình đã chết, người hầu nói "Làm gì có chuyện ấy, tất cả thức ăn vật dùng của tiên sinh đều là mua trên trần gian đấy, không phải của âm phủ đâu?”. Tiên sinh trở về, lận đận vài năm thì đỗ Trạng nguyên, lời Diêm Vương nói đều đúng cả.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

450#
Đăng lúc 20-6-2013 14:01:42 | Chỉ xem của tác giả
424. Chu Sinh (Chu Sinh)

Chu sinh là mạc khách của Tri huyện. Quan có việc đi vắng, phu nhân họ Từ vẫn muốn tới chiêm bái nữ thần Bích Hà Nguyên quân nhưng vì đường xa sai gia nhân đem lễ vật đi thay, sai Chu làm bài văn khấn. Chu làm bài văn biền ngẫu, kể lại hành trạng của phu nhân, có nhiều lời đùa cợt khiếm nhã. Trong có đoạn như "Trồng hoa đào khắp cõi Lạc Dương, xót người cắt áo, Cấy cỏ thơm khắp nơi hoang vắng, thương trái đào thừa” để nói lên tâm sự uất ức của phu nhân* những câu như vậy rất nhiều. Đem bản thảo đưa cho người bạn mạc khách là Lăng sinh xem, Lăng cho là không kính cẩn, khuyên chớ nên dùng nhưng Chu không nghe, cứ đưa người gia nhân mang đi. Không bao lâu Chu chết ở công thự, kế đó người gia nhân cũng chết, ít lâu sau phu nhân họ Từ mắc bệnh sản hậu cũng chết, nhưng mọi người đều chưa lấy làm lạ. Con trai Chu từ kinh đô tới đưa linh cữu cha về đêm nằm ngủ với Lăng sinh, nằm mơ thấy cha khuyên răn rằng "Trong chuyện văn chương chữ nghĩa không thể không thận trọng. Ta không nghe lời ông Lăng nên bị thần giận về tội viết văn sỗ sàng, phải chết yểu mà còn làm lụy cả Từ phu nhân, hại lây cả tới người gia nhân đem bài văn đi tế, sợ không khỏi bị âm phủ trừng phạt". Lúc tỉnh dậy kể lại với Lăng, Lăng cũng nằm mơ thấy thế bèn đọc lại bài văn. Con Chu nghe xong mới biết chuyện, rất kính phục Lăng.



* Trong có đoạn... phu nhân: cắt áo và đào thừa nguyên văn là “đoạn tụ” và "dư đào", lấy tích Hán Ai đế sủng ái Đổng Hiền và Vệ Linh công sủng ái Di Tử Hà, đều là những kẻ mắc bệnh long dương (đàn ông yêu đàn ông). Theo văn cảnh, đây có lẽ chỉ viên Tri huyện thích đàn ông không ngó ngàng gì tới vợ. Xem thêm chú thích truyện Hoàng Cửu Lang, quyển V.



Dị Sử thị nói: Phóng tình múa bút, nghênh ngang tự đắc là chuyện thường của kẻ văn nhân, nhưng sao lại dám đem lời lẽ sỗ sàng khấn cáo với thần minh như vậy chứ! Gã cuồng sinh ngông nghênh không biết gì để tới nỗi bị âm phủ trừng phạt, lại làm cả phu nhân hiền thục lẫn người gia nhân lặn lội ngàn dặm phải chết mà không biết có tội gì, chẳng cũng khiến cho hình luật ở thế gian chia ra thủ phạm tùng phạm trở thành đáng thẹn sao? Oan thay!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách