Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: nail65
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kinh Dị] Liêu Trai Chí Dị | Bồ Tùng Linh

[Lấy địa chỉ]
421#
Đăng lúc 20-6-2013 13:08:07 | Chỉ xem của tác giả
396. Địa Lý (Kham Dư)

Tư lang Tống Quân Sở ở huyện Nghi (tỉnh Sơn Đông) trong nhà vốn chuộng thuật phong thủy, dù là đàn bà con gái cũng thông hiểu sách địa lý. Ông Tống chết, hai vị công tử mỗi người dựng ra một phái, tìm đất chôn cha. Nghe ở đâu có thầy địa lý giỏi thì đường xa ngàn dặm cũng tìm tới, tranh nhau mời mọc nên thuật sĩ trong mỗi nhà có tới trăm người. Hàng ngày ruổi ngựa khắp đồng, chia nhau hai bên ra vào như hai đội quân. Được hơn một tháng, mỗi bên tìm được một ngôi đất tốt, bên này nói sẽ được phong hầu, bên kia nói sẽ được bái tướng, anh em không ai chịu nhịn ai, vì thế tức giận không bàn tính với nhau, cùng chuẩn bị việc chôn cất cha, màn gấm phướn màu đều sắp xếp đầy đủ. Ngày chôn cất, xe chở quan tài tới ngã ba, hai anh em đều dựa vào lời trăn trối của cha để tranh nhau, từ buổi sáng đến xế chiều cũng không ngã ngũ được là chôn ở đâu. Khách khứa dần dần ra về hết, đám đạo tỳ khiêng quan tài đứng chờ đã đổi vai mấy mươi lần, mệt quá không chịu nổi nữa, bèn đặt quan tài xuống cạnh đường. Vì thế cũng không chôn nữa, thuê thợ dựng nhà rạp cạnh đường để che mưa che nắng cho quan tài.



Người anh dựng chỗ ở bên cạnh, cho người ở lại canh giữ, người em cũng dựng chỗ ở như anh. Người anh dựng lại thì người em cũng dựng lại, sau ba năm thành một thôn nhỏ. Qua nhiều năm, hai anh em nối nhau chết. Hai chị em bạn dâu mới bàn với nhau, cố gắng xóa hết những lời bàn bạc trái ngược của người trước về nơi chôn cha chồng. Bèn cùng ruổi xe ra đồng, tới nơi hai ngôi đất anh em đã chọn, đều chê là chưa tốt lắm, rồi cùng sắm sửa lễ vật mời thầy địa lý tới vẽ họa đồ đầy đủ mang về trình nhưng hai chị em cứ nói là không được. Mỗi ngày trình lên mấy tấm họa đồ, đều bị bỏ hết, hơn chục ngày mới chọn được nơi tốt. Người chị xem họa đồ mừng rỡ nói "Được rồi!", rồi đưa người em xem, người em nói "Ngôi đất này sẽ phát được một Cử nhân võ trước tiên”. Chôn được ba năm, cháu đích Tôn của ông Tống quả nhiên đậu Cử nhân võ.



Dị Sử thị nói: Thuật phong thủy có thể cũng có lý, nhưng say mê tin tưởng quá thì thành ngốc nghếch. Huống chi lại tức giận cãi nhau, quàn quan tài lại bên đường, không kể gì đến đạo hiếu, thì làm sao dựa vào mạch đất để mong con cháu phát phúc được? Như việc làm của hai người chị em bạn dâu kia quả là điều hay đáng truyền lại vậy.

Bình luận

hé hé miu mà lị  Đăng lúc 20-6-2013 01:12 PM
chăm chỉ quá cơ =)))  Đăng lúc 20-6-2013 01:09 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

422#
Đăng lúc 20-6-2013 13:11:46 | Chỉ xem của tác giả
397. Đậu Thị (Đậu Thị)

Nam Tam Phục là con nhà thế gia ở huyện Tấn Dương (tỉnh Sơn Tây), có một tòa nhà riêng cách nơi ở hơn mười dặm, cứ hàng ngày cưỡi ngựa qua. Một hôm gặp mưa, trên đường có một xóm nhỏ, thấy một nhà nông dân cổng nẻo rộng rãi bèn ghé vào tránh mưa. Người trong vùng vốn đều kính sợ Nam, nên chỉ giây lát đã thấy chủ nhà ra mời vào, thái độ rất khép nép cung kính. Nam vào nhà thấy rất nhỏ hẹp, khách đã ngồi xuống chủ nhà mới kịp lấy chổi quét dọn qua loa. Kế pha mật làm trà bưng ra mời, Nam bảo ngồi mới dám ngồi xuống. Hỏi tên họ, xưng là Đình Chương họ Đậu, giây lát lại dọn rượu làm gà tiếp đãi rất chu đáo. Thấy có cô gái tuổi cập kê bưng mâm dọn chén ngoài cửa, chỉ thấp thoáng nửa người, khoảng mười lăm mười sáu tuổi, xinh đẹp không ai bằng. Nam thấy rung động, ngớt mưa chào về, bồi hồi nhớ nhung mãi. Hôm sau Nam mang gạo lụa qua tặng để cám ơn, mượn cớ làm thân. Từ đó trở đi thường mang rượu thịt ghé chơi nhà Đậu, cùng nhau ăn uống trò chuyện. Cô gái cũng quen dần, không tránh mặt quá nữa, cứ qua lại trước mặt khách. Cứ Nam nhìn tới thì cúi đầu mỉm cười, Nam càng say mê, cứ ba ngày phải ghé lại một lần.



Một hôm gặp lúc Đậu vắng nhà, Nam ngồi chờ hồi lâu, cô gái ra tiếp khách, Nam nắm tay cưỡng ép, cô gái thẹn thùng giãy giụa chống cự nói "Nhà tuy nghèo nhưng ta cũng phải lấy chồng, sao lại cậy giàu sang khinh người thế!". Lúc bấy giờ Nam vừa chết vợ, bèn chắp tay nói “Nếu được nàng thương yêu, thề không lấy ai khác". Cô gái đòi phải thề, Nam chỉ tay lên trời thề sẽ chung sống với nhau mãi mãi, cô gái mới ưng thuận. Bắt đầu từ hôm đó cứ chờ lúc Đậu đi vắng thì qua gần gũi với cô gái. Cô gái giục “Hẹn hò riêng tư thế này không thể lâu dài được. Được đoái thương che chở cho, nếu chịu ra ơn cưới hỏi, cha mẹ ắt lấy làm vinh dự, chẳng có gì khó khăn cả, nên lo cho mau”. Nam cũng hứa. Nhưng lại nghĩ cô gái là con nhà nông dân không xứng làm vợ mình, nên cứ bịa đặt chuyện nọ kia để khất lần. Gặp lúc có người mối tới bàn chuyện hôn nhân với một nhà giàu có, Nam lúc đầu còn ngần ngừ, kế nghe con gái nhà ấy xinh đẹp nhiều tiền, bèn quyết ý. Cô gái có mang, thúc giục càng gấp, Nam bèn cắt đứt không tới nữa.



Không bao lâu, cô gái sinh được một con trai. Đậu tức giận đánh, cô gái kể thật mọi chuyện, lại nói “Chàng Nam có hẹn ước với con mà!". Đậu tha cho, sai người qua nói chuyện với Nam, Nam lập tức chối phắt. Đậu bèn vứt bỏ đứa bé, đánh đập con gái. Cô gái lén nhờ người đàn bà láng giềng kể lại nỗi khổ, Nam cũng bỏ mặc. Cô gái đang đêm trốn đi, nhìn thấy đứa bé bị vứt bỏ vẫn còn sống, bèn bế lên chạy tới nhà Nam, gõ cửa nói với người giữ cổng rằng "Chỉ cần chủ nhân nói một câu thôi thì ta không tới nỗi chết. Ông ta không nghĩ tới ta đã đành, nhưng không nghĩ tới đứa bé sao?”. Người giữ cổng bẩm lại, Nam cấm không được cho vào. Cô gái dựa vào cửa khóc lóc thảm thiết, đến gần sáng thì không nghe thấy gì nữa. Sáng ngày ra xem, thì cô gái đã ôm con ngồi dựa vào cửa chết cứng rồi. Đậu căm hờn kiện lên quan, quan cũng cho rằng Nam bất nghĩa, định buộc tội. Nam sợ, đem nhiều tiền bạc hối lộ nên được tha.



Nhà giàu kia nằm mơ thấy cô gái xõa tóc bế con tới nói "Không được gả con cho gã bạc tình kia, nếu gả thì ta sẽ giết chết đấy". Nhà giàu lại tham rể giàu sang, rốt lại vẫn gả con gái cho Nam. Đến ngày cưới thì của hồi môn rất nhiều, cô dâu cũng xinh đẹp nhưng hay buồn rầu, cả ngày không thấy cười, lúc ngủ chung thỉnh thoảng lại rơi lệ, Nam hỏi gì cũng không đáp. Được vài hôm người nhà giàu qua nhà Nam, vừa vào tới cửa đã rơi nước mắt. Nam cũng chưa kịp hỏi, vội đi theo vào phòng trong, người nhà giàu nhìn thấy con gái hoảng sợ nói “Vừa thấy con gái ta treo cổ tự tử trên cây đào ở vườn sau, người trong phòng kia là ai thế?”. Người con gái nghe thấy biến sắc, ngã vật ra đất chết luôn, nhìn lại thì ra là cô gái họ Đậu. Vội ra vườn sau xem, thì quả nhiên thấy người vợ mới đã treo cổ tự tử ở đó. Nam hoảng sợ vội tới báo cho Đậu. Đậu cho đào mồ con gái lên, thì quan tài còn mà xác đã mất, nỗi căm tức trước vẫn chưa tan, gặp việc này càng thêm đau xót căm hận, lại kiện lên quan. Quan thấy việc kỳ lạ nên chưa kết tội, Nam lại đem lễ vật rất hậu tới xin Đậu bỏ qua, quan cũng nhận tiền hối lộ của Nam, bèn thôi không xử nữa.



Từ đó nhà Nam sa sút, lại vì chuyện quái dị đồn rộng ra nên mấy năm liền không ai dám gả con gái cho. Nam bất đắc dĩ phải đưa lễ vật tới hỏi cưới con gái Tiến sĩ họ Tào cách nhà trăm dặm. Chưa kịp làm đám cưới, lại gặp lúc dân gian đồn đãi là triều đình chọn con gái nhà lương dân để tiến cung, nên những người có con gái đều cho cưới gả ngay. Một hôm có bà già đưa một chiếc xe tới, tự xưng là người nhà họ Tào đưa cô dâu về nhà chồng, đỡ cô gái vào phòng, nói với Nam ràng “Việc triều đình tuyển cung nữ đã sắp tới, vội vàng không được trọn lễ, xin cứ đưa nương tử tới đây". Nam hỏi sao không có khách khứa nào cả, bà già đáp "Cũng có vài món nữ trang chở phía sau”, nói qua loa vài câu rồi đi. Nam nhìn cô gái thấy cũng xinh đẹp, bèn trò chuyện cười đùa.



Cô gái cúi đầu cởi dây lưng, cử chỉ giống hệt cô gái họ Đậu, Nam phát sợ không dám nói gì nữa. Cô gái lên giường kéo chăn trùm kín đầu ngủ, Nam cũng cho rằng đó là chuyện thường thấy ở các cô dâu mới nên cũng không để ý. Đến lúc mặt trời lặn, chiểu tối rồi mà người nhà họ Tào vẫn không tới, Nam mới ngờ vực vào giở chăn hỏi, thì người cô gái đã lạnh như băng, tắt hơi từ lâu rồi. Nam ngạc nhiên hoảng sợ, không rõ vì sao bèn sai người tới gấp nhà họ Tào hỏi, thì họ Tào hoàn toàn không có đưa con gái tới, ai nghe chuyện cũng lấy làm lạ lùng. Lúc ấy có con gái viên Cử nhân họ Diêu chết vừa chôn, qua đêm thì mồ bị kẻ trộm đào, phá quan tài lấy mất xác Diêu nghe chuyện là liền tới nhà Nam thử thì đúng là con gái mình, giở chăn nhìn kỹ thì thân thể bị lột trần truồng. Diêu tức giận kiện lên quan, quan thấy Nam mấy lần làm điều vô hạnh nên phát ghét, kết án phá mộ trộm xác, khép vào tội chết.



Dị Sử thị nói: Buổi đầu tư thông rồi về sau mới cưới hỏi cũng đã không phải là kẻ có đức rồi, huống chi lúc trước thề nguyền mà ngày sau dứt tình sao? Nghe bị đánh đập ở nhà cũng làm ngơ, nghe tiếng khóc than ở cổng cũng làm ngơ, sao mà nhẫn tâm như thế! Nhưng báo oán nhu thế thì so ra còn thảm khốc hơn chuyện chàng họ Lý thứ mười* nhiều.



* Chuyện chàng họ Lý thứ mười: xem phần Phụ lục truyện Vũ Hiếu liêm, quyển XV.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

423#
Đăng lúc 20-6-2013 13:15:21 | Chỉ xem của tác giả
398. Lưu Lượng Thái (Lưu Lượng Thái)

Hoài Lợi Nhân ở Tế Nam (tỉnh thành Sơn Đông) kể rằng ông Lưu Lượng Thái là hậu thân của hồ. Cha ông ở núi Nam Sơn, thấy có ông già tới nhà, tự xưng là họ Hồ. Ông Lưu hỏi nhà cửa, ông ta đáp "ở trong núi này thôi, nhưng ở đây vắng vẻ chỉ có hai chúng ta, cũng nên sớm tối qua lại thăm hỏi nhau, nên ta tới làm quen". Ông Lưu trò chuyện thấy lanh lợi sắc sảo thích lắm, bèn đem rượu uống với nhau, say khướt ông ta mới ra về. Hôm sau ông ta tới, ông Lưu tiếp đãi còn nồng hậu hơn, nhân nói “Từ khi đội ơn ông tới chơi, chia tay thấy nhớ lắm, nhưng không biết nhà ông ở làng nào, xin hỏi ông ở đâu vậy?". Hồ đáp "Không giấu gì ông, thật ra ta là con hồ già trong núi này, có túc duyên với ông nên mới dám tới xin làm môn hạ, chứ vốn không thể gây họa cho ông được, xin tin nhau đừng sợ hãi".



Ông Lưu cũng không ngờ sợ gì, lại càng thân thiết, lập tức so tuổi tác thì Hồ lớn hơn, bèn nhận làm anh. Từ đó qua lại với nhau như anh em ruột, có chuyện hay dở gì Hồ đều báo cho biết trước. Lúc ấy ông Lưu chưa có người nối dõi, chợt ông già nói “Ông đừng lo, ta sẽ làm con ông”, ông Lưu lấy làm kỳ quái vì lời nói lạ lùng, Hồ nói “Ta tính số mình thấy đã hết rồi, sắp đến lúc đầu thai, nhưng đi nơi khác đâu bằng sinh vào nhà cố nhân?". Ông Lưu hỏi "Thần tiên vốn thọ vạn năm, đâu lại tới nỗi thế?”. Ông già lắc đầu đáp “Đó không phải là chuyện ông biết được", rồi đi. Đêm ấy quả nhiên ông Lưu nằm mơ thấy ông già tới nói "Ta tới rồi đây", tỉnh dậy thì phu nhân vừa sinh được một con trai, đó là ông Lưu Lượng Thái. ông Lưu lớn lên, ngôn từ lanh lợi hài hước giống hệt như Hồ. Lúc trẻ đã nổi tiếng văn chương, năm Nhâm thìn đỗ Tiến sĩ, tính lại hào hiệp hay giúp đỡ người hoạn nạn, nên tân khách Tần Sở Yên Triệu* đều tới ở cùng, mở quán bán hàng, trước cổng thành cái chợ.



*Tần Sở Yên Triệu: tức vùng Thiểm Tây, Hồ Nam, Hà Bắc, Sơn Tây, gọi theo tên thời Tiên Tần.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

424#
Đăng lúc 20-6-2013 13:16:22 | Chỉ xem của tác giả
399. Ma Đói (Ngã Quỷ)

Mã Vĩnh người đất Tề (vùng Sơn Đông) tính tham lam vô lại, không có chút của cải gì, người làng gọi đùa là Ma đói. Năm hơn ba mươi tuổi càng bần cùng, quần áo vá chằng vá đụp, ngày ngày mang một con chim ra chợ làm trò quanh quẩn xin ăn, người ta đều khinh rẻ, coi như súc vật. Trong huyện có ông già họ Chu lúc nhỏ dời lên sống ở kinh đô làm những nghề không tốt đẹp. Khi già về làng ở, bị sĩ phu đàm tiếu chê bai. Nhưng Chu ăn ở hiền lành lương thiện, nên ngươi ta dần dần mới tỏ ra tôn trọng. Một hôm Chu thấy Mã làm trò không được đồng nào lấy làm thương xót bèn cho tiền, lại dắt về nhà cho mấy trăm đồng làm vốn buôn bán nhỏ. Mã về lại không chịu làm ăn, cứ ngồi không ăn sẵn, không bao lâu hết tiền lại làm theo lối cũ, nhưng thường tránh mặt Chu. Sau bỏ làng lên huyện, tối đến vào ngủ ở trường huyện. Gặp đêm đông lạnh quá, cứ lấy lọng trên đầu tượng Khổng tử đắp, lại chẻ cả bàn ghế đốt sưởi.



Học quan biết được, tức giận trừng phạt, Mã năn nỉ xin tha, lại hứa sẽ giúp tiên sinh làm giàu. Học quan mừng rỡ tha cho đi. Mã dò xét biết được nhà viên Chư sinh Mỗ giàu có, liền tới cửa bắt đưa tiền, cố ý chọc giận rồi lấy dao tự đâm vào mình, vu cáo để ăn vạ. Học quan đòi viên Chư sinh phải hối lộ nhiều tiền mới bỏ qua, các viên Chư sinh đều căm phẫn, cùng kiện lên huyện. Quan huyện điều tra được sự thật, sai đánh Mã bốn chục trượng, đóng gông giam lại, ba ngày thì Mã chết. Đêm ấy ông già họ Chu nằm mơ thấy Mã đội mũ đeo đai bước vào nói "Chịu ơn lớn của ông, nay tới để báo đáp”, tỉnh dậy thì vợ đã sinh con trai. Ông biết đó là Mã, đặt tên là Mã Nhi. Mã Nhi lúc nhỏ không thông minh nhưng cũng học hành được, năm hơn hai mươi tuổi thi cử mấy lần cũng được vào học ở trường huyện. Sau khi khảo khí, đêm ngủ ở nhà trọ, nhìn thấy trên vách có dán bài văn sách cũ, tới xem thì làm theo đề bài trong thiên Cáo tử sách Mạnh Tử, trong lòng thấy khó khăn nên cố học thuộc. Vào thi thì đề bài ra lại đúng như thế. Mã bèn chép lại nên đỗ hạng ưu, được hưởng lương.



Năm hơn sáu mươi tuổi được bổ làm Huấn đạo huyện Lâm Xuyên, tại chức mấy năm không hề lấy đạo nghĩa giao du với ai, cứ thấy ai rút tiền trong tay áo đưa ra thì hón hở như chim cốc bắt được cá, ai không đưa tiền thì nhướng chân mày dài ra cả tấc, nhìn chằm chặp như không quen. Gặp lúc quan trên gặp người Chư sinh mắc lỗi nhỏ, ra lệnh các Học quan phải nghiêm khắc, Mã càng tàn ác như trị giặc cướp, có ai kiện tụng học trò là lập tức gõ cửa Huấn đạo, đủ chuyện như thế nên các Chư sinh không sao chịu nổi. Nhưng Mã gần bảy mươi tuổi thì tai điếc mắt mờ, cứ ra gặp người là sắc thuốc nhuộm tóc nhuộm râu cho đen lại. Có cuồng sinh Mỗ lấy rễ cây nhuộm màu đỏ sắc thuốc cho Mã, sáng ra mọi người cùng nhìn thì thấy râu tóc đỏ rực như tượng Linh quan trong miếu. Mã cả giận sai bắt nhưng người kia đã trốn đi từ đêm, vì thế căm tức thành bệnh, vài tháng thì chết.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

425#
Đăng lúc 20-6-2013 13:19:41 | Chỉ xem của tác giả
400.Khảo Tệ Ty (Ty Khảo Tệ)

Văn Nhân Sinh người tỉnh Hà Nam mắc bệnh nằm liệt giường mấy hôm, thấy một viên Tú tài vào quỳ trước giường ra mắt, thái độ cực kỳ cung kính. Kế mời sinh dạo vài bước nói chuyện, đỡ vai sinh ra cửa vừa đi vừa trò chuyện không ngớt, đã mấy dặm vẫn chưa chịu chia tay. Sinh dừng lại chắp tay chào, Tú tài nói " Xin phiền ông đi thêm vài bước, ta có việc muốn nhờ”. Sinh hỏi, Tú tài đáp "Bọn ta đều thuộc Ty khảo tệ cai quản, Chủ ty có tên là Quỷ vương bụng rỗng (Hư đỗ Quỷ vương), theo lệ cứ ra mắt là phải cắt một miếng thịt vế, nhờ ông nói giúp cho một tiếng thôi". Sinh ngạc nhiên hỏi mắc tội gì mà tới nỗi như thế, Tú tài đáp "Không cần có tội, lệ cũ vốn thế. Nếu có nhiều tiền thì cũng có thể chuộc được, nhưng ta nghèo”. Sinh nói “Ta vốn chẳng quen biết gì với Quỷ vương, làm sao giúp ông được?". Tú tài đáp “Kiếp trước ông là hàng ông nội của y, có thể y nghe lời”. Trò chuyện một lúc thì vào một nơi thành quách, tới một nha thự.



Vào trong thấy hành lang không rộng rãi to lớn lắm, chỉ có một sảnh đường cao rộng, dưới tường có hai tấm bia đá dựng hai bên, viết chữ màu xanh to như cái tô lớn, một tấm viết "Hiếu đễ trung tín", một tấm viết "Lễ nghĩa liêm sỉ”. Bước lên thềm tiến vào thấy trên sảnh có một tấm biển viết ba chữ lớn "Khảo tệ ty". Cột chính khắc một đôi liễn chữ lõm vào rằng "Gọi hiệu gọi tự gọi tường* giáo hóa cõi âm duy đức hạnh hai chữ, Trò giỏi trò vừa trò kém, môn đồ cửa quỷ chỉ lễ nhạc một thềm". Còn dạo quanh nhìn ngó chưa hết thì quan đã ra, tóc xoăn lưng còng như người sống mấy trăm tuổi, nhưng lỗ mũi to huếch, môi vẩu răng chìa cả ra ngoài. Theo sau là một viên Chủ bạ mình người đầu cọp, lại có mấy mươi người lính lệ đứng hầu, quá nửa trông dữ tợn hung ác như quỷ núi, Tú tài nói "Đó là Quỷ vương đấy". Sinh sợ quá định lủi ra nhưng Quỷ vương đã nhìn thấy, bước xuống vái chào mời sinh lên. Kế hỏi thăm sức khỏe, sinh chỉ dạ dạ. Lại hỏi có việc gì quá bộ tới đây, sinh nói rõ lại ý của Tú tài. Quỷ vương đổi sắc mặt nói "Chuyện này đã có lệ thường, cho dù cha ta ra lệnh cũng không dám vâng lời", dáng vẻ nghiêm nghị dữ tợn như không cho ai nói thêm câu nào nữa. Sinh im lặng rồi đứng dậy cáo biệt. Quỷ vương đi nép một bên tiễn ra tới ngoài cổng mới quay vào. Sinh không về mà lẻn trở vào để xem tình hình.



*Hiệu, tự, tường: tên gọi các loại trường học ở Trung Hoa thời trước.



Vào tới dưới thềm thì thấy Tú tài và mấy người bạn đã bị trói thúc ké, một người mặt mũi hung dữ cầm đao tới vén quần lên cắt một miếng thịt to bằng ba ngón tay, Tú tài há miệng kêu không ra tiếng. Sinh tuổi trẻ có nghĩa khí, căm tức không kìm được kêu lớn "Thảm khốc như thế thì ra thế giới gì?". Quỷ vương hoảng hốt đứng lên, ra lệnh tạm ngừng cắt thịt, lật đật xỏ giày ra đón sinh. Sinh cảm tức bỏ ra, nói với người ở chợ là sẽ tố cáo lên Thượng đế. Có người cười nói "Xa quá đấy. Trời xanh mịt mù, biết tìm Thượng đế nơi nào để tố cáo nỗi oan khiên kia? Bọn ấy chỉ gần với Diêm Vương, gọi tới thì may ra còn có người đáp". Rồi chỉ đường cho sinh đi. Sinh đi mau, quả tới một nơi điện lớn thềm cao. Thấy Diêm Vương đang ngồi, bèn nằm rạp dưới bậc thềm kêu lớn. Diêm Vương triệu sinh lên hỏi xong, lập tức sai quỷ tốt mang gông xiềng đi. Giây lát, Quỷ vương cùng Tú tài đều tới Diêm Vương hỏi biết sự thật, cả giận nói "Ta thương ngươi kiếp trước chịu khổ, tạm giao cho chức ấy để chờ thác sinh vào nhà giàu sang. Nay lại dám như thế thì rút gân lành, thêm xương ác của ngươi, phạt cho chết đi sống lại cũng không sao ngóc đầu mở mặt được".



Quỷ vương đang cầm roi ngựa chợt ngã lăn xuống đất, rụng một chiếc răng. Quỷ tốt cầm đao cắt đầu ngón tay rút gân ra, sáng trắng như tơ. Quỷ vương kêu đau, tiếng như heo rống, tay chân đều co rút lại, bị hai tên quỷ tốt giải đi. Sinh dập đầu lạy tạ lui ra, Tú tài theo sau cảm ơn rối rít dắt đưa qua chợ. Thấy một nhà buông rèm đỏ, trong có một cô gái lộ nửa mặt nhìn ra, dung mạo tuyệt đẹp. Sinh hỏi đó là nhà ai, Tú tài đáp "Đó là nhà chứa". Đi qua rồi mà sinh vẫn bồi hồi không cất được bước, bèn giữ Tú tài đứng lại, Tú tài nói “Ông vì ta mà tới đây, bây giờ ta lại về một mình, coi sao được?”. Sinh cố từ chối, Tú tài mới đi. Sinh chờ cho Tú tài đi thật xa, vội vàng đi mau vào căn nhà buông rèm đỏ. Cô gái đón tiếp, mừng rỡ ra mặt, đưa sinh vào phòng cùng ngồi, hỏi thăm tên họ. Kế một bà già mang rượu thịt ra, sinh uống say, cứ hẹn hò đính ước chuyện hôn nhân. Sáng ra bà già vào phòng nói "Củi nước đã cạn kiệt, định xin lang quân cho ít tiền được không?". Sinh sực nhớ trong túi rỗng không hoảng hốt thẹn thùng im lặng hồi lâu mới nói "Thật ta không đem theo đồng nào, xin làm giấy nợ, về tới nhà xin lập tức trả ngay". Bà già đổi sắc mặt nói "Lại có chuyện chơi đĩ đòi thiếu tiền à?", hậm hực cùng cô gái đi vào trong. Sinh ngượng ngùng hồi lâu, còn định chờ cô gái trở ra để từ biệt và nhắc lại lời đính ước, nhưng lâu quá không thấy động tĩnh gì. Bèn lén vào nhìn trộm, thấy bà già và Thu Hoa từ vai trở lên đều biến thành quỷ đầu trâu hằm hằm nhìn nhau, phát hoảng trốn ra.



Muốn trở về thì thấy đường xá hàng trăm ngã rẽ, không biết đi lối nào, hỏi người trong chợ thì chẳng một ai biết tên làng mình cả. Sinh cứ quanh quẩn trên phố suốt hai ngày, lòng dạ ảo não chua xót, bụng đói sôi òng ọc. Chợt Tú tài đi qua nhìn thấy kinh ngạc hỏi "Sao ông còn chưa về, mà lại phờ phạc thế này?", sinh cúi gằm mặt không biết trả lời thế nào. Tú tài nói "Thôi đúng rồi, có phải bị Dạ xoa mê hoặc không?", rồi nổi nóng bước đi nói "Mẹ con Thu Hoa sao lại không nể mặt khách thế?”. Giây lát quay lại, đưa áo cho sinh, nói “Con đĩ hỗn láo, ta đã chửi cho một trận rồi”, đưa sinh về tới nhà rồi chào đi. Sinh đột ngột chết ba ngày mới sống lại, vẫn kể lại rất rõ ràng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

426#
Đăng lúc 20-6-2013 13:20:57 | Chỉ xem của tác giả
401. Lý Sinh (Lý Sinh)


Lý sinh ở huyện Thương Hà (tỉnh Sơn Đông) là người mộ đạo Phật. Cách làng hơn một dặm có ngôi chùa, Lý dựng ba căn tịnh xá, ngồi xếp bằng trong đó. Các nhà sư khất thực qua lại ghé vào ăn ngủ, thường cùng họ bàn kinh kệ, chu cấp đầy đủ. Một hôm tuyết lớn rất lạnh, có nhà sư già mang bọc ghé vào nghỉ, bàn kinh kệ rất sâu sắc. Sáng ra định đi, Lý cố giữ lại. Được vài ngày, Lý có chuyện phải về nhà, nhà sư dặn trở lại sớm, như có ý muốn chào Lý trước khi đi. Gà gáy Lý đã trở lại, gõ cửa không thấy đáp, bèn leo tường vào. Thấy trong phòng đèn lửa leo lét, không biết nhà sư làm gì nên nghi ngờ, lén tới nhìn trộm. Nhà sư sắp xếp hành lý, có một con lừa gầy ốm buộc ngoài lan can, Lý nhìn kỹ thì không phải là lừa thật, mà giống vật chôn theo người chết, có điều vẫn vẫy tai khua đuôi thở phì phì. Giây lát nhà sư sắp xếp hành lý xong, mở cửa dắt nó ra, Lý đi theo sau. Ngoài cổng chùa vốn có cái ao lớn, nhà sư buộc lừa vào gốc cây cạnh ao, cởi áo lội xuống vốc nước lên rửa ráy xong, mặc áo vào, kéo lừu xuống tắm cho nó. Kế đó đeo hành lý nhảy lên lưng lừa, thúc nó đi mau. Lý mới cất tiếng gọi, nhà sư chỉ từ xa chắp tay cáo biệt, chưa kịp nghe nói gì thì đã đi xa rồi.



Trên đây là lời của Vương Mai Ốc. Vương là bạn của Lý, từng tới chơi nhà, thấy trên sảnh đường treo một tấm biển viết “Sảnh đợi chết" (Đãi tử đường), cũng là một bậc đạt sĩ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

427#
Đăng lúc 20-6-2013 13:22:07 | Chỉ xem của tác giả
402. Thái Sử Họ Tưởng (Tưởng Thái Sử)

Thái sử Tưởng Siêu nhớ được kiếp trước là sư trên núi Nga Mi, mấy lần mơ thấy tới bên bờ đầm cạnh nơi ở cũ rửa chân. Tính rất thích kinh Phật, luôn nghĩ tới kinh kệ, tuy sớm vào Hàn lâm nhưng thường có ý xuất gia. Có lần rảnh rỗi xuống Giang Nam chơi, tới Tần Bưu không muốn về nữa, người con trai khóc lóc lôi kéo, ông không nghe. Kế vào đất Thục, tới ở chùa Kim Sa tại Thành Đô (tỉnh thành Tứ Xuyên). Lâu sau lại tới núi Nga Mi, lên ở chùa Bạch Hổ, nói bệnh rồi hóa, tự viết bài kệ rằng:



Tu nhiên viên hạc tự lai thân,

Lão nạp vô đoan trụy nghiệp trần.

Ninh hướng hoạch thang cầu ty nhiệt,

Na tùng đại hải khứ phiên thân.

Công danh khổi lỗi trường trung vật,

Thê tử khô lâu đội lý nhân.

Chỉ hữu quân thân vô báo đáp,

Sinh sinh thường tự chúc năng nhân.

(Thảnh thơi vượn hạc tới cùng thân

Lão nạp không dưng xuống cõi trần

Cứ hướng vạc sôi mong tránh nóng

Sao theo bể lớn thỏa xoay vần

Công danh ngao ngán tuồng con rối

Thê tử mong manh kiếp thế nhân

Chỉ có hiếu trung chưa hết phận

Hóa sinh vẫn nghĩ phải làm nhân)





Phụ : Một Truyện Trong Trì Bắc Ngẫu Đàm

(Trì Bắc Ngẫu Đàm Nhất Tắc)



Hàn lâm Tu soạn, tiên sinh Hổ Thần Tưởng Siêu người Kim Đàn, tự hiệu là Hoa Dương sơn nhân. Lúc nhỏ ham mê Phật học, không uống rượu ăn thịt, bà nội ông nằm mơ thấy là nhà sư già ở núi Nga Mi tới đầu thai. Khi ông được vài tuổi thường nằm mơ thấy mình là sư già ở trong một gian nhà tranh, sau nhà có dòng suối chảy tới, có lúc nhúng một chân vào suối để rửa rồi xuống suối tắm, phía trên là núi cao chọc trời, lại có mấy lần nằm mơ thấy Phật Nhiên Đăng vào phòng mình cùng luận bàn kinh kệ. Năm mười lăm tuổi, có hai đạo nhân tới ngồi ở cửa nói "Sơn nhân có thầy ở núi Nga Mi, đã hơn hai trăm tuổi, sợ đã rơi rụng rồi" vân vân, hồi lâu mới đi. Năm Đinh hợi niên hiệu Thuận Trị (1647) tiên sinh hai mươi ba tuổi, thi đỗ Tiến sĩ đệ nhất giáp đệ tam danh, được bổ vào Hàn lâm viện, hơn hai mươi năm thì về ở ẩn, kế được thăng từ hàm Biên tu lên hàm Tu soạn, chết ở chức Sử quan.



Tính ông thích ngao du sơn thủy, đi chơi khắp từ Ngũ nhạc tới các núi Hoàng Sơn, Cửu Hoa, Khuông Lư, Thiên Đài, Võ Đương, không hề sợ cọp beo rắn rết. Lúc về già làm việc ở Sử quán lấy cớ có bệnh cáo về, nhưng không về Giang Nam mà từ đất Sở (vùng Hồ Nam) đi thuyền lên Vu Giáp vào Nga Mi, tháng giêng năm Quý sửu chết ở chùa Phục Hổ núi Nga Mi. Lúc tịch có làm bài thơ rằng "Lại hướng vạc sôi mong mát mẻ" vân vân. Thường nói mình là dòng dõi của Thừa tướng Tưởng Uyển nhà Thục Hán, lúc ở đất Thục (vùng Tứ Xuyên) có làm bộ Tứ Xuyên thông chí, vì việc Uyển cứ tới đập của các dinh Tuần phủ, Cha chánh, án sát ở tỉnh, ngông nghênh không chịu bị câu thúc tới như thế đấy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

428#
Đăng lúc 20-6-2013 13:24:20 | Chỉ xem của tác giả
403. Người Trong Huyện (Ấp Nhân)


Trong huyện có người làng nọ vốn là kẻ vô lại. Một buổi sáng ngủ dậy, thấy có hai người tới bắt đi, tới đầu chợ, gặp người đồ tể treo nửa con heo lên giá, hai người lấy hết sức xô vào, y chợt thấy mình dính liền vào với thịt heo. Lát sau người đồ tể chặt thịt bán, vung dao cắt xẻo, cắt tới đâu y thấy đau tới đó, buốt tới tận xương tủy. Sau lại có người hàng xóm của y tới mua thịt, cứ cò kè trả giá, hết thêm mỡ lại bớt nạc, cắt vụn cả ra, lại càng đau đớn. Đến khi thịt heo đã bán hết, y mới tìm đường về được. Về tới nhà thì mặt trời đã lên cao, người nhà nói rằng y dậy muộn, bèn kể lại những việc mình đã gặp. Gọi người hàng xóm để hỏi, thì quả là đi chợ mua thịt mới về tới nói là có bao nhiêu miếng thịt bao nhiêu miếng mỡ đều đúng vanh vách. Trong vòng buổi sáng mà đã qua một phen bị tùng xẻo chẳng cũng lạ sao!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

429#
Đăng lúc 20-6-2013 13:26:21 | Chỉ xem của tác giả
404. Trung Thừa Họ Vu (Vu Trung Thừa)


Trung thừa Vu Thành Long đi tuần sát tới huyện Cao Khâu (tỉnh Giang Tô). Gặp lúc có người thân hào sắp gả con gái, quần áo nữ trang rất nhiều, đêm bị kẻ trộm đào ngạch vào lấy hết sạch, quan phủ huyện không biết làm sao truy tìm. Ông Vu sai đóng hết các cổng thành, chỉ mở một cổng cho dân ra vào, sai người canh giữ khám xét rất ngặt để tìm tang vật. Lại ra lời hiểu thị rằng "Tất cả người trong thành đều phải về ở nhà, chờ hôm sau khám xét xem có giấu diếm của cải ăn trộm không". Rồi ngầm dặn những người canh giữ cửa thành lưu ý xem ai ra vào cổng thành nhiều lần thì bắt. Quá trưa thì bắt được hai người, nhưng chỉ đi tay không không có hành lý gì. Ông nói "Đây đúng là kẻ trộm rồi", hai người phân trần không thôi. ông sai cởi áo ra để khám, thấy phía trong áo còn mặc thêm hai chiếc áo đàn bà, đều là vật ăn trộm được. Đại khái chúng sợ hôm sau lục soát khám xét nên vội mang đi giấu, nhưng quần áo nhiều quá khó mang xách nên cứ ngầm mặc trong người ra vào nhiều lần.




Lại lúc ông làm Tri huyện, có lần qua huyện bên cạnh, sáng sớm đi gần tới thành thấy hai người cáng một người bệnh. Người bệnh trùm một cái chăn lớn, trên gối để lộ ra mái tóc, có cài một chiếc trâm hình con phượng, nằm nghiêng trên cáng. Có ba bốn người đàn ông khỏe mạnh đi theo bên cạnh, thay nhau lấy tay đè mép chăn xuống sát người bệnh như sợ gió lọt vào. Cứ giây lát lại ghé vào bên đường cho hai người khác thay phiên khiêng cáng. ông Vu đi qua rồi, sai người quay lại hỏi, họ đáp là em gái bị bệnh nặng phải đưa về bên nhà chồng. Ông đi được hai ba dặm, lại sai người quay lại xem họ vào thôn nào. Sai nhân đi theo, tới một thôn nọ thấy có hai người đàn ông ra đón họ vào nhà, trở lại bẩm với ông. Ông hỏi quan huyện ấy rằng trong thành có giặc cướp gì không, quan huyện đáp rằng không. Lúc ấy triều đình quy trách nhiệm về quan lại rất nghiêm khắc, trên dưới đều sợ nên cho dù trong hạt bị trộm cướp cũng ẩn nhẫn không dám nói ra.




Ông tới quán xá rồi, sai người nhà hỏi kỹ, quả nhiên có người nhà giàu bị cướp vào nhà phóng hỏa giết chết. Ông gọi con người nhà giàu tới hỏi, người ấy không nhận là nhà vừa bị cướp. Ông nói “Ta đã tra xét thay, biết được bọn cướp ở đây rồi, chẳng xa xôi gì đâu”. Con người nhà giàu bèn dập đầu năn nỉ, xin ông rửa hờn cho người chết. Ông tới gõ cửa gặp quan huyện, cắt đặt lính khỏe rầm rộ ra thành, tới thẳng thôn nọ, bắt được tám người, vừa hỏi cung đã nhận tội. Hỏi người đàn bà bị bệnh là ai, chúng khai "Đêm ấy cùng về kỹ viện nên bàn với kỹ nữ, đặt vàng trong cáng cho cô ta nằm ôm lấy để che giấu, vừa mới chia chác xong", mọi người đều phục ông Vu sáng suốt như thần.




Có người hỏi vì đâu mà ông biết chúng là bọn cướp, ông đáp "Chuyện này rất dễ, chỉ vì người ta không để ý thôi. Đời nào có chuyện đàn bà nằm trên cáng mà lại để đàn ông thò tay vào trong giữ chăn bao giờ? Vả lại chốc chốc lại đổi vai khiêng cáng, có vẻ rất nặng nhọc, đủ biết trên cáng còn có đồ vật khác nữa. Mà nếu đàn bà có bệnh phải đưa về thì phải là đàn bà ra cổng đón chứ. Đây lại là hai người đàn ông, mà chẳng hề ngạc nhiên hỏi han một lời, nên biết chắc đó là bọn cướp”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

430#
Đăng lúc 20-6-2013 13:27:31 | Chỉ xem của tác giả
405. Vương Tử An (Vương Tử An)


Vương Tử An là danh sĩ huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông) nhưng lận đận mãi ở chốn trường ốc. Khoa ấy vào thi xong, Vương rất mong mỏi, gần đến ngày ra bảng thì uống rượu say mèm, về nằm trong phòng. Chợt có người bẩm ngựa báo tin thi đỗ tới Vương choàng dậy nói "Thưởng người báo tin mười ngàn”. Người nhà thấy say, nói dối cho qua chuyện "Xin cứ ngủ yên, đã thưởng rồi", Vương lại ngủ tiếp. Giây lát lại có người bẩm “Ông đỗ Tiến sĩ". Vương nói một mình "Còn chưa lên kinh, làm sao đã đỗ Tiến sĩ”. Người ấy nói “Ông quên rồi à? Đã qua tam trường rồi". Vương cả mừng lại vùng dậy gọi "Thưởng người báo tin mười ngàn”. Người nhà lại nói dối "Xin cứ ngủ yên! Đã thưởng rồi". Lát sau, một người bước mau vào bẩm “Ông thi điện đỗ Hàn lâm, Trưởng ban đang có mặt”. Nhìn ra quả có hai người đang lạy trước giường, áo mũ tề chỉnh. Vương gọi dọn rượu mời, người nhà lại ậm ừ, cười thầm là say tới như thế.




Hồi lâu, Vương lại nghĩ không thể không ra ngoài cho vẻ vang với làng xóm, cất tiếng gọi Trưởng ban, nhưng gọi cả chục lần vẫn không thấy thưa. Người nhà cười nói "Xin tạm nằm thêm một lúc, ông ta vừa ra ngoàí". Hồi lâu quả nhiên Trưởng ban lại tới, Vương đập giường giậm chân mắng thằng đầy tớ chậm chạp đi đâu mất mặt, Trưởng ban nổi giận nói “Đồ học trò khố rách vô lại, nãy giờ ta đùa với ngươi, mà ngươi mắng thật à?". Vương giận lắm vùng dậy tát cho rơi cả mũ, Vương cũng ngã theo. Vợ vào đỡ dậy nói "Sao mà say tới mức này?”. Vương đáp "Thằng Trưởng ban đáng ghét, ta phải trị nó chứ say cái gì?". Vợ cười nói "Trong nhà chỉ có một mụ già ban ngày nấu cơm, ban đêm ấp chân cho ông, lấy đâu ra Trưởng ban? Chờ đến khi ông rạc xương ra ấy à?". Con cái đều phì cười, Vương cũng hơi tỉnh rượu, chợt như tỉnh mộng mới biết những việc trước đó đều là nhảm nhí. Nhưng vẫn nhớ việc Trưởng ban rơi mũ, tìm tới sau cửa thấy có một cái núm giải mũ to bằng cái chén, mọi người đều lạ lùng. Vương cười nói "Người xưa bị quỷ trêu chọc, ta nay thì bị hồ lấy làm trò cười"




Dị Sử thị nói: Học trò vào trường thi có bảy cái giống. Lúc mới đầu, đi chân mang tráp giống ăn mày. Lúc gọi tên, quan thét lính mắng giống thằng tù. Lúc về chỗ ngồi, nhô đầu lố nhố, thò cẳng quều quào giống ong lạnh cuối thu. Lúc ra khỏi trường thi, tâm thần thảng thốt, trời đất đổi màu giống chim bệnh rời lồng. Lúc chờ ra bảng thấy cây cỏ đều sợ sệt, mơ mộng cũng chập chờn, nghĩ tới chuyện thi đỗ thì khoảnh khắc lầu gác tựa mọc lên, nghĩ tới chuyện thi rớt thì chớp mắt xương cốt như mục nát, đứng ngồi không yên giống con khỉ bị trói. Chợt tới lúc ngựa ruổi báo danh, không có tên mình thì tinh thần suy sụp chết điếng giống con nhặng say thuốc, ai chọc ghẹo cũng không biết. Đầu tiên thì lòng dạ tan nát, chửi quan trường không mắt, bút mực không thiêng, mọi đồ dùng học hành đều đem đốt, đốt không cháy thì giẫm đạp, giẫm đạp không vỡ thì ném xuống cống, rồi xõa tóc vào núi, quay mặt vào vách, nếu lại có kẻ lấy văn chương "thả phù”* khen hay dâng cho mình, nhất định sẽ vác dao rượt. Không bao lâu, ngày tháng trôi đi, lòng dạ nguôi dần, lại đâm ra ngứa nghề, thì giống chim cưu vỡ trứng, đành tha rác làm tổ, ấp ủ trứng mới vậy. Tình cảnh như thế, người trong cuộc khóc lóc tưởng chết song người ngoài cuộc nhìn vào chỉ thấy buồn cười. Vương Tử An nháy mắt trong lòng sinh muôn mối, chắc hồ quỷ cười trộm đã lâu mới nhân lúc bị say mà đùa cợt, nên lúc đầu giường tỉnh rượu, há không bật cười tự nhạo mình sao? Nghĩ lại cái ý vị của sự đắc chí chỉ trong chớp mắt, các ông trong rừng văn thì chỉ được trong đôi ba chớp mắt, thế mà Vương Tử An chỉ nếm hết trong một buổi, cái ơn của hồ đáng sánh với của bậc phòng sư** vậy.




* Văn chương thả phù: tức văn chương bát cổ dùng trong khoa cử ngày trước, gồm có tám đoạn, chuyển ý từ đoạn trước sang đoạn sau thường dùng hai chữ "thả phù” (vả lại) để đưa đẩy.

** Phòng sư nguyên văn là "tiến sư”, chỉ các quan chấm thi, ngày trước học trò đi thi được lấy đỗ phải làm lễ tạ ơn, Tôn trọng như bậc thầy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách