Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: cuncon87
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kiếm Hiệp - Xuất Bản] Đại Đường Song Long Truyện | Huỳnh Dị (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
271#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 02:33:41 | Chỉ xem của tác giả
Hồi 258

Thiên Tâm Liên Hoàn

Khấu Trọng dịch đầu lại gần bên tai Từ Tử Lăng nói: “Sư Phi Huyên yêu ngươi rồi. Vì yêu ngươi nên nàng ta mới hai lần nấp sang bên tiểu đệ như thế chứ”.
Từ Tử Lăng thở dài: “Ngược lại mới đúng. Nàng muốn thông qua hành động này để biểu thị giữa hai chúng ta có một vực sâu vô hình ngăn cách. Lúc tạm biệt còn nói phải tìm ta nói chuyện, tâm ý bên trong lại càng không cần nói cũng hiểu được”.
Khấu Trọng á khẩu hồi lâu, rồi đột nhiên dụng lực ôm chặt vai gã, thê lương nói: “Hai huynh đệ chúng ta đều có những mối thương tâm khác nhau! Không phải sinh ly, cũng là tử biệt! Nhưng chỉ cần một ngày còn sống, chúng ta cũng phải tìm chuyện gì đó để làm. Ta thì ta đã lựa chọn con đường tranh bá không thể quay đầu. Hai ngày nay ta đã suy nghĩ rất nhiều, cuối cùng phát giác ra chỉ có không ngừng đối mặt với những thách thức và khó khăn, lấy đại nghiệp nhất thống thiên hạ làm mục tiêu mới có thể khiến tinh thần ta tìm được nơi gửi gắm. Huynh đệ, bất luận có tìm được Dương Công Bảo Khố hay không, ta cũng để ngươi ra đi, vui vẻ mà tiễn ngươi lên đường, nếu có một ngày ta chiến tử sa trường, ngươi hãy thay ta chăm sóc Tiểu Lăng Trọng nhé!”.
Từ Tử Lăng chợt có cảm giác muốn khóc, bao nhiêu cảm giác cùng lúc trào dâng. Bọn gã đều xuất thân cô nhi, từ nhỏ đã nương tựa lẫn nhau để tồn tại trong thế giới gian trá ỷ mạnh hiếp yếu này, ngoại trừ sự tin tưởng giữa hai gã với nhau, cả hai đều luôn giữ thái độ hoài nghi với những người khác. Phó Quân Sước là người đầu tiên chiếm được cảm tình của hai gã, kế đó là Tố Tố, nhưng cả hai người đó đều trước sau lìa đời, để lại trong lòng hai gã những vết thương không thể nào liền lại.
Trên con đường tình ái, hai gã cũng luôn gặp phải trắc trở khó khăn.
Khấu Trọng trước sau thất bại với Lý Tú Ninh và Tống Ngọc Trí, khiến cho gã chỉ có thể gửi hết tình cảm vào đại nghiệp tranh thiên hạ, giả như cả mục tiêu này cũng vứt bỏ, vậy thì gã sẽ mất hết tất cả, ít nhất trong giai đoạn trước mắt, tình hình là như vậy.
Bản thân Từ Tử Lăng cũng vì ám thị vô tình vừa rồi của Sư Phi Huyên mà bồi hồi cảm xúc, cuối cùng cũng hiểu được tâm tình phức tạp của Khấu Trọng.
Nếu nói gã không hề có cảm giác nào với nữ tử cao nhã thanh lệ này thì chỉ là gạt mình gạt người mà thôi. Gã nhớ lại câu chuyện mà Sư Phi Huyên đã kể cho mình nghe, cảm thấy nàng không chỉ dùng câu chuyện đó để khai giả cho mình, mà còn đồng thời biểu thị nàng sẽ không bao giờ để hãm thân vào bất cứ cảm tình hư ảo nào của thế gian ô trọc này.
Khấu Trọng đột nhiên cởi bỏ mặt nạ, cho vào trong bọc, rồi nói: “Hừ! Lại quên mất nhắc nhở Sư Phi Huyên đề phòng tên tiểu tử Hầu Hi Bạch rồi”.
Từ Tử Lăng chau mày nói: “Sao lại cởi bỏ mặt nạ?”.
Khấu Trọng rời tay khỏi vai gã, toét miệng cười để lộ hàm răng trắng bóng: “Bởi vì ta đột nhiên cảm thấy rất đau khổ, thế nên muốn làm lớn một trận, tìm một vài kẻ để thử đao, tốt nhất đương nhiên chính là lão tiểu tử Vinh Phụng Tường rồi”.
Từ Tử Lăng không hiểu hỏi: “Ngươi không sợ tiết lộ hành tung sao?”.
Song mục Khấu Trọng thoáng hiện sát cơ, trầm giọng nói: “Chúng biết được thì càng hay. Đối với Đỗ Phục Uy mà nói, nếu lão biết được chúng ta xuất hiện ở đây, sẽ càng không hoài nghi bọn Trần Trường Lâm sẽ xuất kỳ bất ý tấn công. Còn nếu tam đại khấu và Chu Xán mà biết, tự nhiên sẽ bố trí cạm bẫy, nghiêm trận chờ đợi, ai ngờ được ta sẽ đi đối phó Tiêu Tiễn trước chứ?”.
Từ Tử Lăng im lặng không nói gì.
Khấu Trọng lại đẩy gã một cái, rồi nói: “Ta nói có đạo lý như vậy, sao ngươi vẫn còn không tháo mặt nạ?”.
Từ Tử Lăng trả lời gã bằng ánh mắt nồng nhiệt cảm tình, nhẹ giọng hỏi: “Có phải vì tạo ngộ của ta nên ngươi mới cảm thấy thống khổ hay không?”.
Khấu Trọng chấn động toàn thân, úp mặt xuống mái ngói, buồn rầu đáp: “Sư Phi Huyên có lẽ là nữ tử duy nhất trên thế gian này có thể khiến ngươi động lòng, vậy mà nàng ta lại đối đãi ngươi như vậy, trời cao thật là bất công. Chỉ cần nghĩ đến chuyện ta vào sinh ra tử nơi chiến trường, còn ngươi thì một mình cô độc trên con đường tịch mịch là ta lại muốn khóc thật lớn một trận để tiết hết nỗi oán hận trong lòng. Ôi! Tố tỷ không chết thì tốt biết bao!”.
Từ Tử Lăng chậm rãi tháo mặt nạ xuống, trầm giọng nói: “Đi thôi! Giết chết Vinh Phụng Tường thì có thể kết thúc chuyện này! Đừng quên mang theo sơn và chổi đấy”.
Hai gã vượt qua tường cao, chẳng mấy chốc thì đã tới được vườn hoa ở hậu viện. Phủ tổng quản Hợp Phì canh phòng rất lơ là, sau khi vượt qua mấy trạm canh ngầm ở bên ngoài thì giống như là ra vào chỗ không người vậy.
Tuy vậy nhưng bọn gã đương nhiên cũng không dám xem nhẹ đề phòng, ít nhất cũng có hai người trong tà phái bát đại cao thủ ở đây, còn Vinh Phụng Tường lợi hại thế nào thì hai gã cũng đã biết rõ, chỉ riêng nữ nhi Vinh Giảo Giảo của lão đã không dễ đối phó rồi.
Khấu Trọng cười hì hì tìm một bức tường lớn, viết lên một hàng: “Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đã tới đây du ngoạn”, rồi ghé sát tai Từ Tử Lăng thì thầm: “Hàng chữ này thế nào?”.
Từ Tử Lăng gật đầu đáp: “Thật kỳ lạ, có cảm giác lực đạo đã thu lại rất nhiều rồi, nhưng càng nhìn lại càng thấy tự dạng căng ra, ta thích mấy chữ này”.
Khấu Trọng như muốn làm cho gã vui, cũng cười hì hì nói: “Đây gọi là tiến bộ, con người không ngừng thay đổi, thư pháp cũng không ngừng biến hoá, nếu thư pháp mãi không thay đổi, tức là con người cũng dậm chân tại chỗ mà không có tiến bộ”. Nhìn kiệt tác của mình một lúc rồi gã lại nói: “Được rồi! Phải đi đâu tìm Bích Trần yêu đạo bây giờ?”.
Từ Tử Lăng đang định trả lời thì chợt cảm giác thấy được điều gì đó, bèn vội kéo Khấu Trọng nấp xuống dưới một chiếc cầu nhỏ bắc qua dòng suối trong hoa viên.
Một bóng người béo múp như thùng rượu từ trên mái hiên lướt xuống nhẹ như mèo, chân khẽ điểm xuống cỏ, đã lướt tới căn tiểu đình nối liền với cây cầu nhỏ mà hai gã nấp bên dưới, khoảng cách hai bên chỉ chừng chưa đầy mười bước chân.
Hoa viên này rộng chừng hai mươi trượng vuông, cây cỏ hoa lá được bài trí hết sức cẩn thận, may mà bức tường nơi Khấu Trọng biểu diễn thư pháp khuất sau một rặng trúc, từ trong đình không thể nhìn thấy được, bằng không thì hai gã đã bị phát hiện rồi.
Khấu Trọng rụt đầu lại, thè lưỡi ra nói: “Là An Long, quả nhiên chúng ta nhìn không lầm người”.
Từ Tử Lăng đưa tay ra hiệu cho gã im lặng.
Tiếng y phục phất gió vang lên, kế đó là một than âm ồm ồm: “Có chuyện gì vậy? Sao không đợi tới mai hãy nói?”.
Khấu Trọng còn tưởng rằng là Tả Du Tiên, nhưng thấy thần sắc hoang mang của Từ Tử Lăng, mới biết rằng cả gã cũng không nhận ra người này là ai.
Kế đó người kia lại quát lên: “Ở đây không có chuyện của các ngươi, mau cút đi cho ta. Không có lệnh của ta thì không được vào hoa viên nửa bước”.
Bảy, tám người liền đồng thanh dạ vang, mau chóng lui ra bên ngoài.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn nhau, ngầm đoán được người vừa lên tiếng là ai.
An Long ngồi xuống chiếc ghế đá trong tiểu đình, thở dài nói: “Ta và ngươi cũng có thể xem là sư huynh đệ, sao ngươi không nể tình chút nào vậy?”.
Người kia hừ lạnh nói: “Không niệm tình là ngươi, chứ không phải Phụ Công Hựu này. Kể từ khi ta thoát ly Thiên Liên Tông mười lăm năm trước, thì đã không còn là sư đệ của ngươi nữa rồi. Giờ thì ta và ngươi lại càng không có quan hệ. Ta muốn làm gì thì mặc ta, đâu tới lượt nhà ngươi can thiệp”.
Quả nhiên đây chính là huynh đệ kết bái của Đỗ Phục Uy, nhân vật thứ hai trong quân Giang Hoài, chỉ là cả hai gã đều không ngờ người này cũng xuất thân tà phái, lại còn là sư đệ của An Long nữa.
“Rầm!”.
Thạch bàn vỡ tan tành, đổ sụp xuống.
An Long tức giận quát: “To gan! Đã vào Thiên Liên Tông lẽ nào tới lượt ngươi nói ra là ra chứ? Năm xưa ta vì niệm tình sư huynh đệ, lại thấy một thân võ công của ngươi thành tựu cũng không dễ, nên mới mở lượng khoan dung. Không ngờ lại là dưỡng hổ vi hoạ, để đến nay ngươi liên kết với người của Lão Quân Miếu và Đạo Tổ Chân Truyền đối phó ta, có phải ngươi đã chán sống rồi hay không?”.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đều thầm kêu may mắn.
Một chưởng vừa rồi của An Long kình đạo âm nhu, chỉ nghe thanh âm cũng biết họ An chỉ khẽ cất tay lên, đã khiến cho cả chiếc bàn đá kiên cố vỡ tan tành. Chỉ riêng phần công lực này, trên giang hồ đã không có mấy người làm được rồi. Nếu không phải hai đã tới hoa viên trước một bước hoặc giả không kịp thời ẩn nấp, e rằng đã không qua mắt được tên cao thủ ma môn này rồi.
Còn Phụ Công Hựu thì dù sao cũng là bá chủ một phương, chỉ nghe lúc nãy y đuổi hết thủ hạ, không cần tùy tùng hộ giá cũng biết là y không hề sợ An Long, lại càng không bị một chưởng của y làm cho kinh hãi.
Chỉ nghe tiếng y cười lạnh: “Ta vừa sinh ra đã có tính xấu, đó là tuyệt đối không muốn nợ ai chuyện gì, nhưng người khác mà nợ ta, thì thế nào cũng phải trả gấp bội. Mười lăm năm nay ta đều không truy cứu món nợ máu của sư tôn với ngươi, bây giờ chắc tới lúc rồi”.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng giờ mới tỉnh ngộ, biết được thì ra Phụ Công Hựu muốn mượn Bách Nghiệp Đại Hội này để bức An Long xuất diện.
An Long không hề tức giận mà còn bật cười nói: “Đúng là chuyện đùa mà, cái chết của sư tôn là do luyện Thiên Tâm Liên Hoàn vận khí sai đường, làm cho kinh mạch vỡ tung, tẩu hỏa nhập ma mà chết, liên quan gì đến An Long ta chứ? Ngươi chỉ vì thấy ta ngồi lên bảo tọa liên chủ, nên mới ôm hận tron lòng, ngậm máu phun người! Hừ! Hôm nay An Long ta sẽ lấy thân phận liên chủ chủ của Thiên Tâm Liên, thế thiên hành đạo, thanh lý môn hộ”.
Một giọng nói the thé vang lên ở đầu bên kia cây cầu nhỏ: “Đây mới đúng là chuyện cười đó, cho dù ngươi đã luyện thành Thiên Tâm Liên Hoàn, chuyến này cũng đừng hòng sống mà rời khỏi nơi đây, còn vọng ngôn thanh lý môn hộ cái gì nữa?”.
Từ Tử Lăng không có bản lĩnh hóa thanh âm thành sợi chỉ rót vào tai Khấu Trọng như Thạch Thanh Tuyền, đành dùng ngón tay viết lên lưng Khấu Trọng một chữ “tả”, gã này mới biết người vừa lên tiếng chính là Tả Du Tiên.
An Long không ngờ lại không động khí, ngược lại còn tỏ ra kinh ngạc nói: “Nếu ta nhớ không lầm, hai người các ngươi là tình địch thủy hỏa bất tương dung, từng đấu mấy trận trời long đất lở, tại sao hôm nay lại bắt tay làm hòa như vậy, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì mà làm cho trời đất chuyển dời như thế?”.
Phụ Công Hựu lạnh lùng nói: “Ngoại trừ âm mưu ngụy kế, thương thiên hại lý ra thì ngươi hiểu được cái mẹ gì chứ. Cút đi! Giết ngươi như vậy thì thật quá tiện nghi rồi! Ta phải bắt ngươi từ từ nếm mùi đau khổ, từ từ chết dần chết mòn!”.
Chỉ nghe y câu nói này của họ Phụ, thì cũng biết cừu hận giữa y và An Long đã tới mức không thể hóa giải, cho dù dốc tận cả nước Trường Giang e là cũng không thể rửa sạch được.
An Long phát ra một tràng cười hết sức chói tai, nghe như tiếng lợn rống khiến người nghe cảm thấy khó chịu vô cùng, phảng phất như tiếng cười của lão biến thành những mũi dùi sắc nhọc đâm vào hai bên mãng nhĩ vậy.
Tiếng cười đột nhiên ngừng lại, chỉ nghe An Long điềm tĩnh nói tiếp: “Ngươi tưởng rằng dính với Đỗ Phục Uy thì có thể hô phong hoán vũ hay sao? Hảo cảnh của Quân Giang Hoài chỉ là giả tượng mà thôi, đã tới lúc kết thúc rồi. Ngươi cứ chờ mà xem”.
Tả Du Tiên tỏ vẻ khinh thường: “Thế ngươi nghĩ rằng chúng ta không biết ngươi đang ngầm lôi kéo bọn Tiêu Tiễn, Chu Xán và Tào Ứng Long đối phó bọn ta sao?”.
An Long rõ ràng là vô cùng ngạc nhiên, nhất thời không nói được gì.
Phụ Công Hựu cười dài tiếp lời: “Ngươi đã sống mười mấy năm sung sướng rồi, hiện giờ cũng nên nếm chút mùi vị đau khổ đi thôi. Ngươi còn không đi ngay thì sẽ hối hận đó”.
An Long gằn giọng nói liền ba tiếng “hảo” rồi tung mình bỏ đi.
Thanh âm của Vinh Phụng Tường lập tức cất lên: “Cơ hội tốt như vậy, tại sao lại bỏ qua cho hắn?”.
Hai gã giờ mới biết thì ra Vinh Phụng Tường từ nãy vẫn đứng ở bên, trong lòng thầm kêu khổ. Lúc này trời đã sắp sáng, nếu để bị phát hiện, hai gã dù có liều mạng cũng chưa chắc thoát khỏi vòng vây của ba đại cao thủ trong ma giáo này.
Phụ Công Hựu trầm giọng nói: “Hắn đã luyện thành Thiên Tâm Liên Hoàn, nếu cứ bức hắn làm con thú cùng đường, đối với chúng ta chỉ có hại mà không có lợi. Sau Bách Nghiệp Đại Hội, để xem hắn còn chạy đi đâu được?”.
Tả Du Tiên gật đầu nói: “Nếu giết hắn trong giờ khắc quan trọng này, sẽ ảnh hưởng rất lớn tới đại cục”.
Lại nghe thanh âm của Vinh Giảo Giảo vang lên: “Giảo Giảo có một cách nghĩ thế này. Chính là lần này An Long chịu xuất đầu phó hội, nhất định là đã có chuẩn bị, có thể nói hắn căn bản không sợ chúng ta”.
Phụ Công Hựu cũng lên tiếng tán đồng: “Lời này rất có lý, chúng ta vào phòng rồi bàn tiếp”.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng lúc này chỉ biết thầm cảm ơn trời đất, sau khi khẳng định bốn người đã rời hỏi, hai gã mới vội vàng lẻn ra ngoài.
Trời vừa sáng, hai đã đã nghênh ngang đi trên đường, nhìn thấy những hàng chữ đỏ chói đập vào mắt ở khắp nơi, trong lòng vô cùng thống khoái.
Xa xa có tiếng lách cách truyền lại, thì ra là một tiệm ăn đang chuẩn bị cho buổi chợ sớm. Khấu Trọng cười cười nói: “Đi uống chén đậu nành, ăn mấy cái bánh bao dằn bụng nhé?”.
Từ Tử Lăng liền gật đầu đáp ứng.
Thực điếm vừa mới mở cửa, hai gã bước vào chọn một góc khuất ngồi xuống, sảng khoái hưởng thụ bát sữa đậu nành nóng hổi.
Khấu Trọng thở dài nói: “Thật không ngờ Bách Nghiệp Đại Hội con bà nó này lại liên quan đến ân oán tranh đấu của các lưu phái trong ma giáo như vậy”.
Từ Tử Lăng chau mày không hiểu nói: “Người buôn bán nhiều như vậy, cạnh tranh vô cùng kịch liệt, ngươi kiếm được nhiều thì ta kiếm được ít, những người buôn bán cùng một thứ hàng thì không khác gì các quốc gia đối địch, ta thật không hiểu sao Vinh Phụng Tường lại muốn đoạt lấy cái địa vị tôn trưởng của Bách Nghiệp Xã như vậy, đoạt được địa vị đó rồi thì làm được gì chứ? Lẽ nào từ các thương bang hành xã đến các thương buôn đơn lẻ đều sẽ thành thuộc hạ của y hết hay sao?”.
Khấu Trọng cầm bát lên húp một ngụm lớn, lắc đầu nói: “Không có chuyện này đâu, theo ta thấy điểm quan trọng là ở chỗ định giá cả và cung ứng hàng hoá, tôn trưởng chỉ cần có được sự ủng hộ của đại đa số là có thể định ra được cái gọi là xã quy chẳng hạn. Tỷ như muốn mua gỗ của Long Du Bang, người trong Bách Nghiệp Xã và người ngoài sẽ có giá khác nhau, thậm chí không cho phép bán cho bên ngoài, như vậy thì Bách Nghiệp Xã sẽ trở thành một tập đoàn khống chế tất cả kinh thương, hiện giờ thì đương nhiên không làm được, nhưng chỉ cần thời gian cộng với sự phối hợp của vũ lực, ta nghĩ là không phải không có khả năng”.
Ngưng lại một chút rồi gã nói tiếp: “Trong thời gian ngắn, tôn trưởng của Bách Nghiệp Xã sẽ thành đối tượng các phương thế lực lôi kéo, địa vị tăng cao, tự nhiên sẽ có rất nhiều cái lợi. Chỉ có điều chúng ta không phải là người buôn bán, nên không hiểu rõ mà thôi”.
Từ Tử Lăng vẫn không hiểu, đang định hỏi tiếp thì chợt động tâm, nhìn ra phía cửa. Loan Loan đã nhẹ nhàng lướt tới, ngồi xuống đối diện với hai gã, mỉm cười nói: “Hai người quên đeo mặt nạ rồi”.
Khấu Trọng vừa đặt chiếc bát xuống bàn, vừa cười cười nói: “Loan tiểu thư tới Hợp Phì lúc nào vậy, tại sao không đến tìm huynh đệ chúng ta sớm một chút để tâm tình cho bớt mối khổ tương tư”.
Gương mặt kiều diễm như hoa của Loan Loan thoáng hiện một nụ cười châm biếm, nhạt nhẽo nói: “Không có chuyện kiếm hai người làm gì?”.
Khấu Trọng đảo mắt một vòng, ánh mắt lăng lệ của gã làm cho mấy người đang ngây ra vì sắc đẹp của Loan Loan giật mình sực tỉnh, lúng túng trở lại công việc của mình.
Từ Tử Lăng chau mày nói: “Vậy hiện giờ có chuyện gì mà tới tìm chúng ta vậy?”.
Loan Loan lườm gã một cái nói: “Đương nhiên là đến hỏi tội rồi, có câu người ngay không làm chuyện mờ ám, các người muốn bày chuyện thị phi thế nào ta cũng mặc kệ, nhưng tại sao lôi cả Âm Quý Phái của ta làm gì?”.
Khấu Trọng cười cười nói: “Cái này gọi là cái khổ của tiếng tăm, thôi không nói chuyện phiếm nữa, nhân tiện có Loan tiểu thư đại giá quang lâm, có thể cho ta thuận miệng hỏi vài câu không?”.
Với tu dưỡng của Loan Loan cũng bị gã làm cho phải che miệng cười, khẽ trách: “Ngươi bảo ta nói là chuyện phiếm, vậy thì lời ngươi nói nhất định là lời thừa rồi. Nếu ngươi không cho ta một giải thích rõ ràng, thì đừng hòng ta trả lời nửa câu”.
Hai người nhìn sắc mặt, thấy Loan Loan không phải tức giận thật, từ đây suy ra Loan Loan không phải cùng một phe với Vinh Phụng Tường và Tả Du Tiên.
Chuyện này tương đối kỳ quái, bởi vì từ xưa tới nay, Âm Qúy Phái và quân Giang Hoài đều có quan hệ hợp tác. Cách giải thích duy nhất chính là đôi huynh đệ kết bái Đỗ Phục Uy và Phụ Công Hựu không hề đoàn kết nhất chí như người ngoài vẫn lầm tưởng.
Lúc này người bên ngoài đã nhiều dần, hơn nữa không ngừng có người chạy đi chạy lại báo cáo, rõ ràng là chiêu thức tung tin đồn nhảm của hai gã đã có tác dụng.
Khấu Trọng cười ha hả nói: “Thượng Quan Long là người của Âm Quý Phái, điều này thiên hạ ai ai cũng biết. Thêm một người hay bớt một người thì ảnh hưởng gì đến quý phái đâu chứ. Có lúc để tiểu thư chiếm tiện nghi, thì cũng có lúc phải để chúng ta chiếm chút tiện nghi chứ, đây là chuyện hết sức bình thường thôi mà. Cùng lắm ta xin lỗi vậy, mong Loan tiểu thư thứ lỗi!”.
Loan Loan bật cười khúc khích: “Như vậy còn tạm được”.
Hai gã đưa mắt nhìn nhau, đều nhận ra sự ngần ngại trong lòng đối phương.
Bọn gã và Loan Loan đã có mối thâm cừu đại hận, nhưng vì hình thế bắt buộc, không thể không tạm thời hòa hoãn với nàng, bằng không sẽ làm hỏng mất đại kế giải nguy cho Phi Mã Mục Trường, vì chuyện nhỏ mà hỏng cả chuyện lớn.
Khấu Trọng dựa lưng vào ghế, nheo mắt ngắm nhìn cảnh tượng trên phố vào buổi sớm: “Bát đại cao thủ của ma môn, ngoại trừ Vu Ô Quyển, Bích Trần, Tả Du Tiên, An Long và lệnh sư ra, còn ba người nữa là ai?”.
Loan Loan khẽ biến sắc nói: “Tin tức của hai người cũng linh thông lắm, tại sao ngươi nghĩ rằng ta sẽ chịu nói cho ngươi biết chứ?”.
Khấu Trọng buông tay nói: “Đây có gì là bí mật đâu chứ, thế nào chẳng có người biết, sao tiểu thư không mua chút tình nghĩa chứ?”.
Ánh mắt Loan Loan dịch sang phía Từ Tử Lăng, rồi u uất thở dài, cúi đầu nói: “Hai người lúc nào cũng khiến người ta phải mềm lòng, được rồi! Đã nói thì nói cho kỹ một chút, các người đã nghe qua...”. Đột nhiên nàng bật dậy, lách người biến mất sau cánh cửa.
Hai gã nhìn theo ánh mắt của nàng, chỉ thấy Trạch Nhạc thò đầu vào, reo lên: “Cuối cùng cũng tìm được hai vị rồi. Bây giờ người nào cũng đang sợ khiếp vía vội vã rời thành, Bách Nghiệp Đại Hội kết thúc rồi!”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

272#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 02:35:31 | Chỉ xem của tác giả
Hồi 259

Nhân Duyên Xảo Hợp


Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đeo mặt nạ lên, hòa vào dòng người của Long Du Bang, an nhiên rời thành, trên đường đầy những người đến tham gia Bách Nghiệp Đại Hội vội vàng rời khỏi thành. Chỉ nhìn cảnh tượng nhân tâm hoảng loạn này, đã biết sức mạnh của tin đồn lớn thế nào.
Trạch Nhạc cười cười, thấp giọng nói: “Hai vị thật là lợi hại, không phí một binh một tốt mà đã phá được âm mưu tưởng chừng như hoàn hảo của Vinh Phụng Tường rồi”.
Khấu Trọng có chút không tin tưởng nói: “Kết quả này chính ta cũng không nghĩ tới nữa”.
Trạch Nhạc nói: “Vấn đề là các thương bang, hành xã đều cảm thấy dã tâm của Bách Nghiệp Xã, tin đồn mà hai vị tạo ra lại không phải không có căn cứ, ít nhất là tiền nhiệm bang chủ Thượng Quan Long của Lạc Dương Bang cũng đích thực là yêu nhân Âm Qúy Phái, những người làm ăn buôn bán như bọn tại hạ đây có ai dám quan hệ với thứ tà phái dị giáo giết người như nghóe, không kể tình lý đó chứ, thế nên mới ai ai cũng thừa cơ tán loạn bỏ đi luôn, vậy thì chẳng ai trách được ai”.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đều có cảm giác hoang đường tức cười.
Lúc này chúng nhân đã đi lên một đoạn dốc núi.
Trạch Nhạc hân hoan nói: “Có thể kế giao với hai vị đúng là duyên phận hiếm có, hiện giờ tại hạ phải trở về Long Du Bang báo cáo tình hình cho gia phụ hay biết, ngày sau có dịp, nhất định sẽ đến bái phỏng hai vị”.
Song phương liền vui vẻ cáo biệt.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng thúc ngựa phóng đến địa điểm đã hẹn trước với Tuyên Vĩnh, đi được hơn mười dặm đường thì trời lại đổ mưa lớn, cả đất trời chìm trong một tấm màn trắng xoá.
Hai gã tấp vào ven rừng, để cho lũ ngựa dừng lại nghỉ ngơi.
Khấu Trọng nhảy xuống ngựa, ngồi xổm xuống ngây người nhìn mưa lớn bên ngoài khu rừng, những hạt mưa len lỏi qua tán lá, khẽ rơi tí tách lên người hai gã.
Mưa lớn khiến cho hầu hết người đi đường đều dừng bước, trừ một số người vì các nguyên nhân khác nhau muốn mau chóng rời khỏi Hợp Phì mới bất chấp vất vả mà đội mưa lên đường.
Từ Tử Lăng tự nhiên cũng ngồi xuống bên cạnh Khấu Trọng, thuận miệng hỏi: “Ngươi đang nghĩ gì vậy?”.
Khấu Trọng nói: “Âm Qúy Phái quả thực là có ma lực vô biên, chỉ cần một cái tên đó đã đủ khiến cho người ta sợ hãi bỏ chạy như gặp ôn thần rồi”.
Từ Tử Lăng đưa tay gạt những hạt mưa trên mặt, không nói gì.
Khấu Trọng lại thở dài: “Nhưng vừa rồi ta không phải nghĩ đến chuyện này, mà là cảm thấy có điều gì đó không ổn cho lắm”.
Câu nói này đã làm Từ Tử Lăng chú ý, ngạc nhiên hỏi tại sao.
Khấu Trọng trầm giọng đáp: “Đó đơn thuần chỉ là một cảm giác bất an thôi. Ngươi có nhớ Phụ Công Hựu đã nói An Long lôi kéo bọn Tiêu Tiễn, Chu Xán và Tào Ứng Long liên kết lại với nhau không? Mà huynh đệ kết bái của y là Giải Huy lại là cha chồng của Tống Ngọc Hoa, như vậy có phải Tống gia cũng có ít nhiều quan hệ đến chuyện này không nhỉ?”.
Từ Tử Lăng nói: “Cũng có thể là hoàn toàn vô quan. Theo ta thấy thân phận của An Long vô cùng bí mật, ít nhất là y cũng tỏ ra mình là một kẻ võ công tầm thường. Điểm duy nhất phải suy nghĩ chính là sự hợp tác của ba người bọn Tiêu Tiễn, Tào Ứng Long, Chu Xán không hề đơn giản như chúng ta tưởng tượng, có khi chúng ta đã lọt vào cạm bẫy của bọn chúng rồi cũng không chừng, nếu đúng như vậy thì hỏng bét rồi đó”.
Khấu Trọng giật mình chấn động: “Ngươi nói đúng lắm, trận mưa lớn này mưa thật đúng lúc, làm cho người ta như bừng tỉnh khỏi giấc mộng dài. Ta dẫn theo cả ngàn binh mã tiến về phía Tây, còn địch nhân thì toàn tâm toàn ý đợi chúng ta đến, nếu gặp chuyện, để chúng phát hiện hành tung, hai chúng ta may ra còn có thể thoát thân, nhưng những người khác e rằng khó mà sống sót”.
Bên ngoài rừng có một đội xe ngựa chừng hơn ba mươi người chầm chậm đi qua, đường đi lầy lội bẩn thỉu, cả người lẫn ngựa đều lộ vẻ mệt mỏi.
Từ Tử Lăng nói: “Ta có một cách, chính là chọn những con đường mà địch nhân không thể nghĩ tới để hành quân, nhưng phải có người thuộc đường dẫn lộ mới được, bằng không để lạc đường thì càng khổ hơn”.
Khấu Trọng lắc đầu nói: “Không! Chúng ta nhất định phải dùng phương pháp nhanh nhất để tới đó! Ôi! Xem ra chỉ có thể dùng lại cách ngày nghỉ đêm đi trước đây, liều bà nó một trận thôi!”.
Chợt có tiếng vó ngựa gấp gáp vang lên.
Hai gã giật mình đánh thót, chỉ nghe tiếng vó ngựa, cũng biết đang có một đại đội nhân mã đội mưa phóng tới đây.
Hai gã tịnh tâm chờ đợi, không bao lâu thì thấy một đội nhân mã chừng mấy trăm người phóng qua.
Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Ngươi thấy không?”.
Từ Tử Lăng gật đầu: “Đương nhiên nhìn thấy, Vinh Phụng Tường, Tả Du Tiên đều đã xuất mã, An Long lần này gặp đại họa rồi”.
Khấu Trọng phấn chấn tinh thần, nhảy dựng lên nói: “Dù sao cũng thuận đường, làm sao chúng ta có thể bỏ lỡ trường nhiệt náo này chứ?”.
Tiếng đao kiếm chạm nhau càng lúc càng gần, khi hai gã chạy lên một ngọn đồi nhỏ, thảo nguyên bên dưới đã la liệt tử thi, quân Giang Hoài do Phụ Công Hựu và hai đại cao thủ Vinh Phụng Tường, Tả Du Tiên dẫn đầu đã chiếm được thế thượng phong tuyệt đối, đang truy kích địch nhân chạy tứ tán.
Khấu Trọng thở hắt ra một hơi: “Không ngờ lại có nhiều người đến vậy”.
Từ Tử Lăng đưa tay lên che trước trán, để ngăn nước mưa không hắt vào mắt, gật đầu nói: “Quân Giang Hoài ít nhất cũng phải trên hai ngàn người, phía bên kia có khoảng bảy tám trăm là cùng, xem ra Phụ Công Hựu sớm đã cho người mai phục ở đây, dùng kỵ binh hiệp kích hai mặt trước sau, chỉ một đòn đã nghiền nát lực phản kháng của đối phương, dụng binh đúng là chu toàn không chút kẽ hở, chẳng trách mà quân Giang Hoài có thể tung hoành bất bại”.
Hai gã thúc ngựa phóng xuống bình nguyên, kiểm tra các thi thể nằm la liệt, thấy một người vẫn còn chưa đoạn khí, Khấu Trọng bèn nhảy ngay xuống ngựa, đỡ y lên nói: “Đã xảy ra chuyện gì vậy? Các người là ai? Ai muốn giết các người?”.
Người kia há miệng phun ra một búng máu lớn, xem ra cũng sắp tuyệt khí. Khấu Trọng vội đẩy chân khí vào, làm y mở bừng mắt, hoảng hốt kêu lên: “Là Phụ Công Hựu, chúng ta bị hắn ám toán”.
Khấu Trọng vội hỏi: “Chủ nhân các ngươi có phải là An Long không?”.
Người kia lắc đầu nói: “Không! Chúng ta là người của Bạch tướng quân...”.
Khấu Trọng kêu lên: “Các ngươi là người của ai?”
Kế đó gã liền đặt người kia xuống đất, đưa tay vuốt mắt cho y, rồi đứng dậy, buông thõng tay tỏ vẻ bất lực: “Có vị tướng quân nào họ Bạch không nhỉ?”.
Từ Tử Lăng biết gã không phải thật sự muốn biết đáp án, chỉ dõi mắt quan sát tình hình trận chiến, rồi nói: “Những người này ăn mặc giống như thương buôn bình thường, rõ ràng muốn che đậy thân phận thực sự để hòng thực hiện mưu đồ gì đó. Có đuổi theo xem thử không?”.
Khấu Trọng không đáp, chỉ tung mình nhảy lên ngựa, lao vút đi.
Từ Tử Lăng vừa phóng ngựa chạy song song với gã, vừa nói: “Hiện giờ đối với Phụ Công Hựu mà nói không có chuyện gì quan trọng hơn chuyện giết chết An Long, vì vậy đám người này tuy không phải thủ hạ của An Long, nhưng chắc chắn phải có chút quan hệ gì đó với y, chúng ta vẫn còn chuyện gấp bên mình, ngươi thật sự muốn nhúng tay vào chuyện này sao?”.
Khấu Trọng gật đầu đồng ý: “Ngươi nói đúng, chúng ta đi thôi!”.
Dứt lời gã liền quay đầu ngựa, vòng qua bình nguyên, băng rừng vượt dốc, đi dọc theo một bờ suối gần chục dặm rồi mới dừng lại.
Với công lực của hai gã, liên tục kiêm trình ngày đêm mấy ngày liền thế này cũng có chút mệt mỏi, thế nên đành dừng lại ở một dốc núi nghỉ ngơi, cho ngựa ăn cỏ.
Sau cơn mưa lớn, không khí vùng núi trong lành mát mẻ đến lạ thường, cây cỏ hoa lá tranh nhau khoe sắc khoe hương.
Ánh mặt trời chiếu xuyên qua mây mù, rực rỡ phi thường. Khấu Trọng cúi đầu nhìn bóng đen lớn của một đám mây phủ trên bình nguyên mau chóng biến mất không vết tích, cảm xúc bồi hồi than: “Phong vân! Gió thổi mây bay! Ý nghĩa của phong vân chính là đây, bất luận là oai phong thế nào, nhưng chỉ trong nháy mắt là sẽ qua đi, không còn lại chút tàn tích nào hết”.
Từ Tử Lăng hít sâu một hơi không khí mát lành, mỉm cười nói: “Nhưng phong vân nhân vật lại bao hàm một ý nghĩa khác sâu sắc hơn, đó chính là mặc cho ngươi hô phong hoán vũ thế nào, cuối cùng cũng sẽ có một ngày trở về với hoàng thổ. Sinh sinh tử tử, rốt cuộc là có mục đích gì chứ?”.
Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Phật gia có cách nói của phật gia, đạo gia có cách giải thích của đạo gia, vấn đề này tốt nhất nên đi tìm Sư Phi Huyên mà thỉnh giáo. Ta dám khẳng định Loan Loan cũng có cách nói riêng của ả, còn về ai đúng ai sai, e là chỉ có thể ném xúc sắc để quyết định thôi! Hà, cuối cùng thì ta cũng tìm được cách giải quyết rồi!”.
Từ Tử Lăng phì cười nói: “Đây cũng gọi là cách giải quyết hay sao?”.
Khấu Trọng dương dương đắc ý: “Cái này gọi là cách trong lúc không có cách”.
Từ Tử Lăng đột nhiên lộ ra thần thái chăm chú lắng nghe, nhỏ giọng nói: “Có nghe thấy không?”.
Khấu Trọng vội vàng vận công vào song nhĩ, gật đầu nói: “Hình như có tiếng vó ngựa, chỉ có một con thôi thì phải”.
Từ Tử Lăng gật đầu: “Không sai! Trên lưng ngựa còn là một người bị trọng thương nữa”.
Khấu Trọng le lưỡi nói: “Tại sao ngươi lợi hại như vậy, cả chuyện đó mà cũng nghe được à, vậy thì đâu khác gì tận mắt nhìn thấy chứ?”.
Từ Tử Lăng bật cười: “Bởi vì ta nhìn thấy mà”.
Khấu Trọng vội ngẩng đầu lên, chỉ thấy ở phía xa xa, có một con ngựa đang phóng về phía hai gã, trên lưng ngựa là một người đang nằm gục xuống.
Từ Tử Lăng bật dậy nói: “Xem thử coi có thể giúp gì không?”.
Khấu Trọng chặn con ngựa lại, còn Từ Tử Lăng thì tới ôm người kia xuống ngựa, đặt y trên mặt đất.
Người kia đã rơi vào trạng thái hôn mê, máu me đầy mặt, thương tích khắp người, nhưng trí mạng nhất là một quyền ở sau lưng, còn lưu lại cả một dấu ấn màu đỏ rực.
Hai gã truyền chân khí vào cho y mới phát giác ra người này căn cơ cũng thuộc hàng thâm hậu, dựa vào một hơi chân khí để hộ vệ tâm mạch, chạy tới nơi này.
“Ụa!”.
Người kia phun ra một ngụm máu đen ngòm, cuối cùng cũng tỉnh lại, thấy hai gã đang giúp y liệu thương, vội vàng ngồi dậy vận công, sau khi chuyển vận chân khí được ba mươi sáu vòng chu thiên thì thương thế của y đã có khởi sắc, các vết thương thôi không chảy máu, thậm chí còn có thể tự vận khí hành công nữa.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đã mệt càng thêm mệt, liền đứng dậy đi ra xa. Khấu Trọng nhỏ giọng thì thầm: “Ngươi có cảm thấy tên tiểu tử này rất quen mặt hay không, hình như chúng ta đã gặp hắn ở đâu rồi thì phải?”.
Từ Tử Lăng nói: “Ta cũng có cảm giác này, có điều lát nữa chỉ cần hắn rửa mặt thì biết ngay thôi mà!” Khấu Trọng gật đầu vỗ nhẹ lên vai gã nói: “Ta đi dắt ngựa của chúng ta lại đây, ngươi trông chừng hắn, đừng để hắn chạy mất đấy!”.
Từ Tử Lăng mỉm cười đáp ứng, đợi Khấu Trọng đi xa, gã lại đến bên người kia, giúp y hành huyết vận khí.
Người kia thở dài một hơi, khàn khàn giọng nói: “Đại ân cứu mạng thật không biết đền đáp thế nào! Xin hai vị ân công cho biết cao danh quý tính!”.
Từ Tử Lăng không đáp mà hỏi ngược lại: “Công lực các hạ cũng thuộc hạng cao thủ, tại sao lại phải chạy tới nơi này?”.
Người kia trầm giọng đáp: “Là bị một tên độc phụ ám hại, tất cả chỉ trách tại hạ có mắt không tròng, lại không chịu nghe lời khuyên giải của bằng hữu! Ôi...!”.
Từ Tử Lăng lấy làm ngạc nhiên, gã vốn tưởng rằng người này là một viên bại tướng bị quân Giang Hoài truy kích, chẳng ngờ chỉ là một người nào đó bị “độc phụ” ám hại.
Khấu Trọng lúc này cũng dắt ngựa tới nơi, thấy người kia đã tỉnh lại, liền mừng rỡ nói: “Khí sắc cũng tốt lắm, bằng hữu, phải xưng hô thế nào đây?”.
Người kia liền nói: “Tại hạ là Tịnh Kiếm Tông Bạch Văn Nguyên”.
Khấu Trọng đột nhiên dừng bước, đưa mắt nhìn Từ Tử Lăng. Chẳng trách mà hai gã lại cảm thấy kẻ này quen mặt tới vậy, thì ra năm xưa ở ngoài thành Ba Lăng, Bạch Văn Nguyên đã cùng với nhi nữ của Chu Xán là Độc Thù Chu Mi ám toán hai gã, bị hai gã đánh cho phải nhảy xuống sông bỏ trốn. Chuyện này xảy ra đã khá lâu, thế nên hai gã cũng chỉ còn lại những ký ức mơ hồ, nếu không phải tình cờ gặp lại Bạch Văn Nguyên, chắc cũng chẳng nhớ ra được chuyện đó.
Hai gã vẫn đeo mặt nạ nên Bạch Văn Nguyên đương nhiên là không nhận ra, thấy hai gã thần tình đều có vẻ cổ quái, bèn ngạc nhiên hỏi: “Hai vị đã nghe tên tại hạ rồi sao?”.
Từ Tử Lăng đứng dậy, thản nhiên nói; “Bạch huynh vừa nói bị độc phụ ám hại, có phải là Độc Thù Chu Mi không?”.
Bạch Văn Nguyên giật mình kinh hãi: “Làm sao ân công biết được?”.
Khấu Trọng liền tháo mặt nạ xuống, mỉm cười nói: “Bạch huynh còn nhận ra Khấu Trọng này chứ?”.
Bạch Văn Nguyên lập tức biến sắc, ngây người ra hồi lâu rồi mới cười gượng gạo nói: “Chẳng trách hai vị có thể chữa thương cho tại hạ nhanh đến vậy, dù sao tính mạng này của Bạch mỗ cũng do hai vị cứu về, muốn chém muốn giết, xin cứ tùy ý!”.
Từ Tử Lăng cũng cởi bỏ mặt nạ, đi tới gần Khấu Trọng, mỉm cười nói:
“Chúng ta đâu có hiếu sát giống như Chu Xán mà giết Bạch huynh chứ. Tốt nhất huynh nên mau rời khỏi nơi nguy hiểm này đi, chậm một chút sẽ chuốc họa vào thân đó”.
Nói đoạn hai gã liền tung mình lên ngựa, chuẩn bị bỏ đi. Bạch Văn Nguyên miễn cưỡng đứng lên, cất tiếng gọi: “Chậm đãi! Đó là một cạm bẫy, hai vị ngàn vạn lần không nên đến Phi Mã Mục Trường!”.
Một cảm giác lạnh toát chạy dọc xương sống hai gã.
o0o
Ba người phóng ngựa chạy hơn hai chục dặm đường rồi mới dừng chân nghỉ ngơi, đến lúc này Khấu Trọng và Từ Tử Lăng mới có cơ hội nghe Bạch Văn Nguyên kể lại toàn bộ mọi chuyện.
Vì thân thể họ Bạch vẫn còn hư nhược nên hai gã tiện thể giúp gã vận công liệu thương luôn.
Chỉ nghe y cười thê thảm nói: “Không ai không nói rằng con độc phụ Chu My đó sau khi chán ghét nam nhân nào là sẽ trở mặt cắn lại, dồn đối phương vào tử địa để tránh cho nữ nhân khác có được nam nhân đó. Thế nhưng tại hạ tự phụ mình anh tuấn hơn người, võ công lại cao hơn ả, thêm vào đó lại mê luyến chuyện nhục dục với ả, nên ngu xuẩn tới độ nghĩ mình gặp may, tưởng rằng mình là ngoại lệ duy nhất, cuối cùng cũng gặp phải báo ứng, đúng là chết cũng đáng mà!”.
Nhìn bộ dạng anh hùng khí đoản, tự trách tự móc của Bạch Văn Nguyên, hai gã đều cảm thấy buồn rầu thay cho y, nhưng mặt khác cũng cảm thấy y tự trách rất hợp lý, tất cả đều vì cả hai gã đều không phải hạng người mê luyến mỹ sắc giống như họ Bạch này.
Sự thực thì đến giờ hai gã vẫn không rõ Bạch Văn Nguyên làm sao mà bị trọng thương như vậy.
Bạch Văn Nguyên lại kể tiếp: “Lần này tại hạ cùng Chu My xuất lãnh một ngàn người tới đây, vốn là để tiếp ứng An Long, chẳng ngờ lại bị Chu My bán đứng, khiến cho toàn quân tan tác. Ôi, Bạch Văn Nguyên này thật có lỗi với các huynh đệ đã nhiều năm cùng ta vào sinh ra tử!”.
Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Thì ra đám người bị Phụ Công Hựu tập kích là người của Bạch huynh à? Vậy Chu My đi đâu rồi? Làm như vậy thì có lợi gì cho phụ thân của ả ta chứ?”.
Song mục Bạch Văn Nguyên rực lên ngọn lửa cừu hận, gằn giọng nói: “Con độc phụ đó đã sớm rời khỏi chúng ta từ trước, trước khi đi ả còn nói rằng sau khi tiếp ứng An Long, sẽ tới hội hợp với ta, bảo ta bố trận ở gần đó. Đến khi ta biết được An Long và Chu My đã đi theo đường nhỏ bỏ trốn, thì đã bị quân Giang Hoài tiền hậu hợp kích rồi”.
Từ Tử Lăng không hiểu hỏi: “Thủ hạ của Bạch huynh không phải là Già Lâu Lan binh của cha con Chu Xán sao? Tự dưng dâng không một đạo quân tinh nhuệ như vậy, đối với Chu My chỉ có hại mà không có lợi mới đúng chứ?”.
Bạch Văn Nguyên trầm giọng nói: “Lần này toàn bộ đều là thân binh của Bạch mỗ, quá nửa là tộc nhân và đồng môn huynh đệ. Nhiều năm nay, ta đã giúp cha con chúng lập nên vô số công lao hạng mã, trong Già Lâu Lan quân được xưng là Phò Mã Tướng Quân, uy thế cực thịnh, thậm chí còn được lòng người hơn cả hai cha con Chu Xán, nên bọn chúng sớm đã cố kỵ, hiện giờ thì đã tìm được cơ hội loại đi cái gai trong mắt này rồi! Hừ! Ta thật là vừa ngu xuẩn lại vừa hồ đồ!”.
Khấu Trọng nói: “Nhưng làm sao Bạch huynh có thể khẳng định là mình bị Chu My hãm hại chứ?”.
Cừu hận phủ mờ gương mặt anh tuấn của Bạch Văn Nguyên: “Một là dạo này ả đã trở nên lạnh nhạt với tại hạ, chuyện nam nữ này làm sao có thể giấu được Bạch mỗ cơ chứ, hơn nữa Bạch mỗ còn biết ả và An Long đã có tư tình với nhau”.
Hai gã tròn mắt lên nhìn y.
Khấu Trọng tỏ vẻ hoài nghi: “Chắc không phải vậy đâu! An Long vừa xấu xí lại vừa béo như lợn, loại nữ nhân ham... à! Chu My làm sao để mắt tới hắn chứ?”.
Bạch Văn Nguyên tỏ vẻ khinh bỉ nói: “Không thể dùng lẽ thường để xem xét con độc phụ này được, ả ta chỉ cần có cảm giác kích thích và mới lạ là được. Tại hạ còn nghe nói An Long có một loại công phu trên giường cực kỳ lợi hại, có thể khiến cho nữ nhân mê luyến, còn cụ thể thế nào, chắc chỉ có đôi cẩu nam nữ này mới biết được”.
Từ Tử Lăng lại hỏi: “Vừa rồi huynh khuyên chúng ta không nên đến Phi Mã Mục Trường, rốt cuộc là chuyện gì vậy?”.
Bạch Văn Nguyên thở dài đáp: “Chuyện này phải bắt đầu từ An Long. Y xưa nay vốn có quan hệ rất mật thiết với Tào Ứng Long, nhưng luôn đối địch với cha con Chu Xán. Chỉ là sau khi hai vị đại phá Lý Mật, tình thế phương Bắc có những biến đổi rất lớn. Lý Uyên bất cứ lúc nào cũng có thể xuất quan, Lưu Vũ Châu và Đậu Kiến Đức đều đang dần dần nhích động. Mặt khác, thanh thế của Vương Thế Sung càng lúc càng lớn, một khi để y thu hết lãnh địa của Lý Mật, rất có khả năng họ Vương này sẽ tiến về phía Nam. Trong tình hình khẩn bách đó, An Long đã thừa cơ đại biểu Tào Ứng Long tới làm hòa với Chu Xán, kết thành liên minh, chuẩn bị trước lấy Tứ Xuyên, sau đó công hạ Phi Mã Mục Trường, rồi sẽ tới lượt Cảnh Lăng và Tương Dương”.
Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “An Long không phải là huynh đệ kết bái với Giải Huy ở Độc Tôn Bảo hay sao?”.
Bạch Văn Nguyên hừ lạnh một tiếng: “Từ năm ngoái An Long và Giải Huy đã bất hoà, thế như nước lửa. Tại hạ thật không hiểu họ An này có ý đồ gì, có trái núi lớn như vậy mà không biết dựa vào, trái lại còn trở mặt thành thù nữa”.
Từ Tử Lăng chợt hỏi: “Bạch huynh có biết An Long là cao thủ có hạng trong Ma Môn không?”.
Bạch Văn Nguyên há hốc miệng ngạc nhiên thốt lên: “Từ huynh không phải đang nói đùa chứ?”.
Khấu Trọng liền giải thích ngắn gọn cho y hiểu, rồi tiếp tục hỏi: “Chu Xán và Tào Ứng Long làm sao lại cấu kết được với Tiêu Tiễn vậy?”.
Bạch Văn Nguyên đáp: “Phải nói là Tiêu Tiễn cấu kết với bọn chúng như thế nào mới đúng. Hiện giờ tình thế tương đối rõ ràng, nếu cha con Chu My mà không chịu gật đầu, Tiêu Tiễn cũng khó lòng mà vượt sông được”.
Từ Tử Lăng nói: “Nếu đã như vậy, về sau làm sao mà chúng hợp tác với nhau được?”.
Bạch Văn Nguyên liền giải thích: “Vấn đề là Chu Xán và Tào Ứng Long đều biết mình có bao nhiêu phân lượng, nhiều lần tấn công Cảnh Lăng nhưng đều bị Phụ Công Hựu đánh cho đại bại thu quân, hơn nữa lại đang lâm vào tình cảnh thiếu thốn lương thực nữa. Cứ như vậy để cho Phụ Công Hựu tiêu diệt, chi bằng chuyển hướng về phía Tứ Xuyên, vừa có thể được Tiêu Tiễn cung ứng cho một lượng lớn lương thảo, lại có thể mặc cho Tiêu Tiễn, Phụ Công Hựu và Đỗ Phục Uy tàn sát lẫn nhau, mà điều kiện hợp tác mà Tiêu Tiễn đưa ra, chính là phải tiêu diệt hai vị trước tiên. Tào Ứng Long và Chu Xán đều hận hai vị đến thấu xương thấu cốt, thế nên vừa nhận được đề nghị hợp tác đã đồng ý ngay, Phi Mã Mục Trường chính là mồi nhử hai vị vào bẫy đó”.
Khấu Trọng cười cười nói: “Tên tiểu tử Tào Ứng Long cuối cùng cũng biết được bọn ta là người đã phá hoại hảo sự của hắn đêm hôm đó rồi”.
Thần sắc Bạch Văn Nguyên có vẻ nghiêm trọng: “Hiện giờ cả ba bên đã chọn lựa tinh binh, thành lập một đội hùng sư gần vạn người, do đại tướng của Tiêu Tiễn là Đổng Cảnh Trân làm thống soái, tụ quân ở một nơi bí mật gần Phi Mã Mục Trường, chuẩn bị giáng đòn phủ đầu chí mạng lên đội quân viễn chinh mệt mỏi của hai vị. Bất luận các vị đi theo đường nào tới Phi Mã Mục Trường cũng không thể thoát khỏi tai mắt của bọn chúng. Ngoài ra cánh quân này còn có một đội ngũ gồm hơn năm mươi võ lâm cao thủ, chuyên để đối phó hai vị nữa”.
Khấu Trọng mỉm cười nói: “Nếu không gặp được Bạch huynh, chuyến này chúng ta đúng là hung đa cát thiểu rồi. Nhưng hiện giờ đã tri kỷ tri bỉ, tình thế sẽ hoàn toàn khác biệt. Hỏi thêm một câu, Bạch huynh có muốn giết chết độc phụ đó báo thù không?”.
Bạch Văn Nguyên lộ ra thần sắc khao khát, gật đầu dứt khoát.
Khấu Trọng vỗ mạnh lên vai Bạch Văn Nguyên một cái, khiến cho y đau đến phải nghiến răng mới không kêu lên thành tiếng, rồi cười lên một tràng dài: “Vậy chúng ta đuổi theo An Long, đánh một trận cho hoa rơi nước chảy để trút giận cho Bạch huynh trước đã”.
Từ Tử Lăng chau mày: “Vậy không phải sẽ đả thảo kinh xà sao?”.
Khấu Trọng cười nhạt: “Chuyện này đúng là phải tính kế lâu dài, song chỉ cần bắt được Chu My và An Long thì không sợ đả thảo kinh xà nữa”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

273#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 02:40:27 | Chỉ xem của tác giả
Hồi 260

Kỳ Binh Ám Độ


Bạch Văn Nguyên trải tấm địa đồ lên chiếc bàn bằng gỗ mới được đóng tạm đặt bên cạnh soái trướng, Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Tuyên Vĩnh đều không hẹn mà cùng cúi đầu xem xét.
Tuyên Vĩnh chỉ tay vào một dãy núi nằm vắt ngang địa đồ nói: “Đây chính là Đại Hồng Sơn, cả đường núi mà cũng vẽ hết sức rõ ràng, đây mới là lần đầu tiên tại hạ được nhìn thấy một bức địa đồ tỷ mỷ thế này đấy”.
Khấu Trọng tinh mắt, liền đọc hàng chữ nhỏ ở góc tấm địa đồ lên: “ Bạch Văn Nguyên kính chế, hà thì ra Bạch huynh là cao thủ vẽ địa đồ, thật là thất kính, thất kính.” Bạch Văn Nguyên khiêm nhượng nói: “Chỉ là tài mọn gia truyền, có đáng gì đâu chứ”.
Từ Tử Lăng thở dài thán phục: “Đầu bút mà Bạch huynh sử dụng chắc phải cứng hơn bút thường gấp bội, bằng không làm sao có thể vẽ được những đường nhỏ như vậy, lại có cả màu sắc nữa, vừa rõ vừa đẹp”.
Khấu Trọng vỗ bàn nói: “Lợi hại nhất chính là không bị bay màu, chắc chắc đây là thứ nguyên liệu đặc chế rồi”.
Bạch Văn Nguyên thấy địa đồ do chính tay mình vẽ ra được thưởng thức và trọng thị như vậy, tâm tình cũng vui vẻ phần nào, gật đầu nói: “Nhiều đời nhà tại hạ đều là địa sư, chuyên nghiên cứu phong thủy ngũ hành, vì vậy từ nhỏ đã theo gia phụ đi khắp nơi quan sát thế núi thế non, đồng thời vẽ lại làm ký lục, chỉ là không ngờ sau này lại dùng vào mục đích quân sự mà thôi”.
Tuyên Vĩnh nói: “Từ đây tới Phi Mã Mục Trường, ít nhất cũng có hơn trăm lộ tuyến, thêm vào chúng ta còn có người thông thuộc đường lối như Bạch huynh dẫn đường, còn sợ gì nữa chứ”.
Bạch Văn Nguyên cười khổ: “Do có Đại Hồng Sơn và mấy con sông lớn chặn phía Đông Nam, thế nên thực ra chỉ có năm con đường trong núi và hai con đường ở Nam Bắc Đại Hồng Sơn có thể đi được mà thôi, nguy nhất chính là mọi địa điểm đặt chòi canh đều do chính tại hạ thiết kế, vì vậy bất luận là có ẩn giấu hành tung thế nào, cũng khó mà thoát khỏi tai mắt của đối phương. Ôi! Tất cả chỉ tại Bạch Văn Nguyên này không tốt!”.
Khấu Trọng đắc ý nói: “Nếu chúng ta không phải tới Phi Mã Mục Trường mà thẳng tiến tới Di Lăng thì sao?”.
Bạch Văn Nguyên chán nản lắc đầu: “Thế lại càng nguy hơn, Tiêu Tiễn từng dặn dò Đổng Cảnh Chân, nói từ trận chiến của hai vị với Lý Mật, có thể thấy hai vị cũng rất giỏi dụng kỳ binh, vì vậy rất có khả năng sẽ bất ngờ tập kích Di Lăng, thế nên họ Đổng đã để tâm phòng bị từ trước, hơn nữa từ đây đến Di Lăng chỉ có một con đường duy nhất, chỉ sợ là càng dễ bại lộ hình tích”.
Từ Tử Lăng nói: “Bạch huynh biết An Long và Chu My sẽ đi theo đường nào không?”.
Song mục Bạch Văn Nguyên thoáng hiện sát cơ lạnh lẽo: “Tự nhiên là sẽ đi dọc theo Trường Giang, có như vậy mới không sợ Phụ Công Hựu đuổi theo”.
Khấu Trọng phấn chấn tinh thần nói: “Bọn chúng có bao nhiêu thuyền?”.
Bạch Văn Nguyên nói: “Là một đội mười thuyền chở rượu, Bạch mỗ và người của mình cũng đi bằng thuyền chở rượu đó tới đây. Thuyền đội chắc vẫn lưu lại ở một bến nhỏ phía Tây Đồng An, giả bộ mua nguyên liệu ủ rượu, nhưng thực chất là đợi An Long và Chu My”.
Khấu Trọng cười lên ha hả: “Đúng là trời giúp chúng ta rồi. Bây giờ hãy lập tức lên đường, chúng ta phải chiếm được mười con thuyền chở rượu đó trước khi An Long và độc phụ kia đến nơi, vậy thì kế ám độ Trần Thương của chúng ta sẽ có thể tiếp tục tiến hành như cũ”.
Tuyên Vĩnh gật đầu tuân mệnh, lập tức chạy đi thông báo cho các tướng lĩnh.
Bạch Văn Nguyên kích động nói: “Xin Thiếu Soái hãy chủ trì công đạo cho Văn Nguyên!”.
Khấu Trọng vỗ vai y nói: “Bạch huynh yên tâm, chỉ sợ đến lúc đó huynh không dứt được tình cũ thôi”.
Bạch Văn Nguyên “hừ” một tiếng, lạnh lùng nói: “Cho dù con độc phụ đó có bị phân thây lóc thịt, Bạch Văn Nguyên này cũng không chau mày lấy nửa cái”.
Từ Tử Lăng nói: “Giết Chu My thì dễ, nhưng võ công của An Long tuyệt đối không phải tầm thường, nếu để y lọt lưới thì sẽ hỏng hết đại sự đó”.
Khấu Trọng gật đầu nói: “Vì ậy chúng ta phải bàn tính kỹ rồi mới hành động, bố trí thiên la địa võng, khiến An Long không có đường thoát”.
Bạch Văn Nguyên cúi đầu im lặng hồi lâu, rồi lắc đầu nói: “Tất cả đều tại Bạch mỗ không tốt, các vị không có lý do gì phải mạo hiểm vì tại hạ, tại hạ cũng không đáng phải mạo hiểm vì con tiện phụ kia. Chúng ta cướp thuyền xong hãy lập tức tiến lên phía Tây. Quân tử báo cừu, mười năm chưa muộn. Để An Long và con tiện phụ kia chưng hửng một phen, phía sau truy binh của Phụ Công Hựu lại đuổi tới như, như thế đã đủ khiến tại hạ vô cùng thống khoái rồi”.
Khấu Trọng cười cười nói: “Được! Tóm lại là Khấu Trọng này đảm bảo sẽ báo thù rửa hận cho Bạch huynh. Giờ tinh thần huynh thế nào rồi, chúng ta còn phải nhờ huynh dẫn đường nữa đó!”.
Lúc này thủ hạ đã dắt ngựa tới, Bạch Văn Nguyên tung mình nhảy lên, cười cười đáp: “Chỉ cần nghĩ đến con tiện phụ đó là tinh thần tại hạ đã phấn chấn trăm lần rồi, hai vị cứ yên tâm”.
Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Tuyên Vĩnh, Bạch Văn Nguyên nhảy xuống ngựa, lướt lên đỉnh dốc, dưới ánh sáng của trăng sao, bên dưới là dòng Trường Giang cuồn cuộn chảy, bên bờ sông có bảy chiếc thuyền buồm cỡ trung, đèn đuốc đều đã tắt cả.
Khấu Trọng nói: “Tạ ơn trời đất, may mà có Bạch huynh nên chúng ta mới đến sớm hơn đôi cẩu nam nữ kia một bước, nhưng tại sao chỉ có bảy thuyền mà không phải mười thuyền?”.
Bạch Văn Nguyên lắc đầu: “Chuyện này tại hạ cũng không rõ, có lẽ ba thuyền kia đã có nhiệm vụ khác rồi!”.
Từ Tử Lăng nói: “Có ai canh giữ thuyền”.
Bạch Văn Nguyên nói: “Đều là thủ hạ của An Long, chúng ta hãy giết sạch bọn chúng để tránh tin tức bị lộ”.
Khấu Trọng thấy đôi mày kiếm của Từ Tử Lăng nhíu chặt lại, vội vàng nói: “Như vậy quá tàn nhẫn bất nhân, chỉ cần bắt sống hết bọn chúng, rồi kiếm một nơi nào hoang vắng không người phóng thích chúng ta được, như vậy thì bọn chúng có muốn báo tin cũng khó mà làm nổi, chỉ có phi cáp truyền thư thì may ra mới nhanh hơn được chúng ta mà thôi”.
Bạch Văn Nguyên ngạc nhiên: “Tác phong của Thiếu Soái quả nhiên hoàn toàn khác hẳn với cha con Chu My, ôi...!”.
Tuyên Vĩnh liền lên tiếng an ủi y: “Chuyện cũ đã qua, quan trọng nhất là phải nhìn về tương lai!”. Kế đó y liền quay sang nói với Khấu Trọng: “Thuộc hạ từng nhiều lần dẫn quân tập kích thuyền địch cập bờ Hoàng Hà, Thiếu Soái chỉ cần định ra thời khắc tấn công, đảm bảo mọi việc sẽ thỏa đáng”.
Khấu Trọng gật đầu nói: “Chuyện không thể chậm trễ nữa, chúng ta lập tức bắt người đoạt thuyền, lấy nhanh đánh chậm, công kỳ vô bị, thể nào cũng thắng”.
Từ Tử Lăng lướt trở về như một bóng ma, đến bên cạnh bọn Khấu Trọng đang nấp sau một đám loạn thạch: “Trên thuyền phòng vệ rất lơi lỏng, mỗi thuyền chỉ có hơn mười thủy thủ, chỉ cần chúng ta hành động đủ nhanh, đảm bảo có thể tung một mẻ lưới bắt gọn”.
Khấu Trọng đưa mắt nhìn Tuyên Vĩnh, rồi vung tay làm hiệu, họ Tuyên lập tức hú lên một tràng như tiếng cú kêu đêm, bảy đội nhân mã phục ven bờ sông lập tức lẹ làng luồn xuống nước, âm thầm bơi về phía bảy con thuyền buồm.
Tuyên Vĩnh lại phát ra tín hiệu, Bạch Văn Nguyên liền dẫn theo một đội kỵ mã chừng bốn năm trăm người từ trên sơn lộ phóng xuống, khí thế hùng hùng hổ hổ.
Tiếng vó ngựa dồn dập phá vỡ bầu không khí tĩnh lặng lúc về khuya, át hết tiếng nước khua động bên dưới.
Đèn đuốc trên thuyền dần được thắp lên, nhân ảnh dịch chuyển, toàn bộ sự chú ý đều dồn cả vào Bạch Văn Nguyên và kỵ đội nguỵ trang.
Bạch Văn Nguyên thúc ngựa phóng lên, cao giọng quát: “Lập tức tập trung tất cả mọi người, chuẩn bị khai thuyền!”.
Trên thuyền liền có người đáp lại: “Tất cả mọi người đều đã ở trên thuyền chờ lệnh, đại lão bản đâu?”.
Bạch Văn Nguyên lớn giọng trả lời: “Đại lão bản sẽ đến ngay bây giờ, nhưng phía sau còn có quân Giang Hoài truy kích, mau cho chúng ta lên thuyền”.
Những kẻ trên thuyền nghe thấy có truy binh, lập tức luống cuống chân tay, kẻ thì vội vàng thả ván xuống, kẻ thì chạy đi căng buồm, rối loạn như ong vỡ tổ.
Khấu Trọng nghiêng đầu lại gần Từ Tử Lăng nói: “Thành công rồi! Giờ đến lượt chúng ta xuất mã!”.
o0o
“Cốc cốc!”.
Khấu Trọng gõ nhẹ rồi đẩy cửa bước vào, kéo Từ Tử Lăng đang nằm trên giường nói: “Dậy đi thôi!”.
Từ Tử Lăng làu bàu: “Đánh thức ta làm gì chứ?”.
Khấu Trọng ngồi xuống mép giường, vươn mình lười nhác nói: “Ta cũng ngủ chẳng biết trời đất gì hết cả. Nhìn kìa! Mặt trời cũng lên bằng con sào rồi đấy!”.
Từ Tử Lăng gật đầu đồng cảm: “Giø ta mới hiểu tại sao có câu lao sư viễn chinh không phải là hành vi của kẻ trí giả. Chúng ta cũng được coi là có sức chịu đựng, vậy mà đêm qua lúc ta nằm xuống giường, xương cốt toàn thân cứ như rã rời ra vậy”.
Khấu Trọng nhìn ánh mặt trời rực rỡ bên ngoài: “Lần này xem như là chúng ta may mắn, gặp được Bạch Văn Nguyên, không thì chẳng khác gì tự chui đầu vào rọ cả. Bây giờ chúng ta giả làm đội thuyền chở rượu của An Long, lại có đại tướng của Già Lâu Lan Bạch Văn Nguyên xuất diện nữa, ngươi nói xem còn gì sơ hở nữa chứ?”.
Từ Tử Lăng trầm ngâm: “Khi An Long và Chu My tới bến thuyền, phát giác bảy con thuyền đều biến mất sẽ nghĩ gì nhỉ?”.
Khấu Trọng cười cười: “Đương nhiên là sẽ nghĩ bậy nghĩ bạ rồi, nhưng bọn chúng tuyệt đối không thể phát giác được dấu chân của chúng ta, bởi vì tất cả đều đã được xóa sạch rồi, thế nên có nghĩ thế nào cũng không thể liên tưởng tới chúng ta và Bạch Văn Nguyên được, cùng lắm cũng chỉ nghĩ là thuyền của quân Giang Hoài tới đây bắt hết cả thuyền lẫn người, hoặc đuổi cho thuyền của bọn chúng phải chạy đi nơi khác mà thôi”.
Từ Tử Lăng nói: “Còn ba thuyền còn lại đâu rồi?”.
Khấu Trọng mỉm cười: “Cũng chẳng có gì, chỉ là phụng mệnh của An Long đi về Giang Đô buôn bán. Thì ra thuyền chở rượu của An Long xưa nay đều do Đại Giang Hội coi sóc, chính là hai tên Cẩu Xà Song Ngốc Bùi Nhạc và Bùi Viêm gì gì đó”.
Bùi Nhạc và Bùi Viêm có nằm mơ cũng không ngờ được rằng danh hiệu Long Hổ Song Quân của mình lại bị gã gọi thành Xà Cẩu Song Ngốc.
Từ Tử Lăng đứng dậy bước ra trước cửa sổ thoải mái duỗi cả tứ chi ra, nhìn cảnh sắc mê người bên bờ sông, thở dài cảm khái nói: “Trạm tiếp theo là địa phương nào vậy?”.
Khấu Trọng nói: “Đêm nay sẽ tới Cửu Giang quận của Tiêu Tiễn, chỉ cần qua được cửa ải này, đội kỳ binh của chúng ta sẽ thâm nhập được vào lòng địch. Giờ ta đã thay đổi chủ ý, muốn phá tan liên quân do Đổng Cảnh Trân thống lĩnh trước đã, Lăng thiếu gia có ý kiến gì không?”.
Từ Tử Lăng gật đầu đồng ý: “Theo lý thì nên như vậy. Chúng ta có nên thông báo cho mỹ nhân trường chủ để cùng phối hợp hành động không?”.
Khấu Trọng lắc đầu nói: “Theo Bạch Văn Nguyên thì bọn chúng tuy chưa thể công hạ Đương Dương và Viễn An, song đã vây chặt đến một con ruồi cũng không thoát, Phi Mã Mục Trường cũng đang bị giám thị nghiêm mặt, chúng ta tuyệt đối không thể đả thảo kinh xà”. Kế đó gã lại nhổm người đứng dậy, đến bên Từ Tử Lăng nói: “Ngươi thử nói xem Sư Phi Huyên đến Hợp Phì liệu có liên quan gì đến Loan Loan không?”.
Từ Tử Lăng gật đầu: “Chuyện này đương nhiên, cuộc đấu của bọn họ giờ đã chuyển từ đấu tranh giang hồ sang tranh đấu để giành thiên hạ. Sư Phi Huyên vì hạnh phúc của vạn dân, còn Âm Qúy Phái thì lại muốn khuếch trương thế lực, chỉ cần hoàng đế là người bị Âm Qúy Phái khống chế, Từ Hàng Tịnh Trai sẽ không còn đất dung thân, như vậy so với đánh bại Sư Phi Huyên thì càng lợi hơn gấp bội”.
Khấu Trọng động dung nói: “Suy nghĩ này của ngươi vô cùng hợp lý, vậy thì trong quần hùng chắc chắn phải có một người của Âm Qúy Phái, kẻ đó có phải là lão gia không nhỉ?”.
Từ Tử Lăng trầm ngâm: “Lão gia quyết không thể là người của Âm Qúy Phái được, ngược lại ta thấy Tiêu Tiễn giống hơn, có điều nếu Tiêu Tiễn đúng là yêu nhân Âm Qúy Phái, vậy thì hắn sẽ không trợ giúp chúng ta giết Nhậm Thiếu Danh, nói như vậy thì Lâm Sĩ Hồng là đáng nghi ngờ nhất”.
Khấu Trọng thoải mái dựa vào chiếc ghế kê cạnh cửa sổ, vui vẻ nói: “Nếu đúng là Lâm Sĩ Hồng vậy thì Âm Qúy Phái cứ chờ mà đón nhận thất bại đi, hiện giờ nói thế nào cũng không đến lượt Lâm Sĩ Hồng ra oai, trừ phi là trong thời gian cực ngắn, y có thể cùng lúc hạ thủ Tiêu Tiễn và Tống gia, bằng không thì chỉ có thể ngồi chờ người khác đến tiêu diệt mà thôi”.
Từ Tử Lăng nói: “Đừng nên coi thường bất cứ người nào, Lâm Sĩ Hồng tuy ở tít tận phương Nam, nhưng y cũng chiếm được Hồ Phàn Dương, trước mắt cả Tống gia lẫn Tiêu Tiễn cũng đều không làm gì được y, vì vậy mà Âm Qúy Phái mới để mặc cho chúng ta làm mưa làm gió, làm cho càng loạn càng tốt. Khi Tiêu Tiễn vượt sông tiến lên phía Bắc, Lâm Sĩ Hồng sẽ có thể khuếch trương thế lực, dần dần mở rộng ảnh hưởng. Chuyện này ngươi không thể xem nhẹ được đâu”.
Khấu Trọng vỗ bàn nói: “Có đạo lý! Cũng có khả năng Lâm Sĩ Hồng căn bản không hề có quan hệ gì với Âm Qúy Phái, yêu nhân thật sự có thể là Lưu Vũ Châu, Lương Sư Đô, Đậu Kiến Đức, thậm chí là Lý Tử Thông, Chu Xán, Tào Ứng Long cũng không chừng... hà hà, trò chơi giải đố này đúng là hứng thú thật”.
Từ Tử Lăng ngồi xuống một chiếc ghế khác, mỉm cười nói: “Chỉ cần làm xong một chuyện, không cần biết kẻ nào là yêu nhân của Âm Qúy Phái, chúng ta cũng có thể phá hoại được âm mưu của Âm Qúy Phái”.
Khấu Trọng phấn chấn nói: “Là chuyện gì?”.
Từ Tử Lăng thản nhiên đáp: “Chính là công hạ Tương Dương, đuổi Tiền Độc Quan và Bạch Thanh Nhi đi”.
Đôi mắt hổ của Khấu Trọng sáng rực lên, gật đầu nói: “Đúng lắm! Tương Dương là cứ điểm quan trọng nhất của Âm Qúy Phái ở Trung Nguyên, hừ, ngày ta công hạ Cảnh Lăng, thì cũng chính là ngày báo hiệu cho sự bại vong của Tiền Độc Quan, dù là Thiên Vương lão tử cũng không cản được Khấu Trọng này!”.
Trong bóng đêm mù mịt, bảy chiếc thuyền buồm chầm chậm đi qua thủy vực của Cửu Giang quận.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đều đã đeo mặt nạ lên, đứng phía sau lưng Bạch Văn Nguyên, chuẩn bị ứng phó với bất kỳ đột biến nào.
Trong lòng hai gã đều không hẹn mà cùng dâng lên một cảm giác kỳ lạ.
Chính tại toà thành lớn bên bờ Nam Trường Giang này, bọn gã đã giết được Nhậm Thiếu Danh trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh, phá hoại được âm mưu của người Thiết Lặc và Âm Qúy Phái, xoay chuyển cả hình thế phương Nam, đồng thời cũng khiến cho thanh danh hai gã vang lừng khắp thiên hạ.
Cửu Giang từng trước sau đổi chủ mấy lần, cuối cùng mới lọt vào tay Tiêu Tiễn, khiến cho Lâm Sĩ Hồng bị bức lùi về Phàn Dương.
Một con thuyền nhỏ của quân Ba Lăng tiến về phía bọn gã.
Bạch Văn Nguyên lên thuyền chào hỏi tên đầu mục, đương nhiên là không có vấn đề gì, chúng nhân đang thầm thở phào nhẹ nhõm thì một chiến thuyền bất ngờ rời khỏi bến, thẳng tiến về phía bảy chiếc thuyền của bọn Khấu Trọng.
Bạch Văn Nguyên ngạc nhiên hỏi: “Có chuyện gì vậy?”.
Tên đầu mục kia hoang mang đáp: “Là thuyền của Trần Vũ tướng quân, có lẽ là Trần tướng quân muốn nói chuyện với Bạch tướng quân đó”.
Chúng nhân than thầm trong bụng, chỉ đành ngây người ra đợi. Nếu để đối phương nhận ra, vậy thì bao nhiêu công lao trước kia đều sẽ tan thành bọt nước, có giết thêm mấy người cũng chẳng có ích lợi gì.
Thuyền địch từ từ áp lại gần, một viên tướng lĩnh và bốn năm tùy tùng tung mình nhảy lên, cười ha hả nói; “Bạch tướng quân khỏe chứ, sao không thấy My công chúa đâu?”.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đều thở phào nhẹ nhõm.
Bạch Văn Nguyên bước lên thi lễ nói: “Trần tướng quân xin đừng trách tiểu tướng đi qua mà không vào chào hỏi một tiếng, bởi vì thời gian quá khẩn cấp nên tại hạ bị buộc phải lập tức trở về, My công chúa có chuyện vẫn còn lưu lại Hợp Phì, chắc khoảng hai ba ngày nữa mới tới đây được”.
Trần Vũ gật đầu nói: “Chuyện này ta sao dám trách tướng quân chứ, lần này Trần mỗ lên thuyền bái phỏng là có một chuyện muốn nhờ vả Bạch tướng quân đây”.
Bạch Văn Nguyên cười ha hả nói: “Trần tướng quân không cần khách khí, chỉ cần tiểu tướng có thể làm được, tuyệt đối sẽ không chối từ”.
Trần Võ nói: “Chuyện này đối với Bạch tướng quân mà nói chỉ là chuyện dễ như trở bàn tay mà thôi. Chuyện là hôm trước chúng ta có chặn được một con thuyền của Phi Mã Mục Trường, giết chết hơn mười người, nhưng lại để một tên chạy thoát, tới hoàng hôn ngày hôm nay mới bắt lại được, đang định nghiêm hình bức cung thì nghe có Bạch tướng quân đến. Không biết có thể nhờ tướng quân giúp đưa kẻ này giao cho Đổng soái được không? Kẻ này võ công tương đối cao, chắc cũng có chút địa vị ở Phi Mã Mục Trường, hơn nữa lại từng gặp mặt hai tên tiểu tặc Khấu Trọng và Từ Tử Lăng, sẽ rất có ích cho Đổng soái”.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng nghe mà vừa bi vừa hỉ, bi tự nhiên là vì các huynh đệ trong Phi Mã Mục Trường bị sát hại, hỉ là vì không tốn chút công sức cứu được một nhân vật quan trọng của Phi Mã Mục Trường, mà rất có thể chính là tên tiểu tử Lạc Phương cũng không chừng.
Bạch Văn Nguyên đương nhiên là lập tức đáp ứng.
Trần Võ quát lớn: “Giải hắn tới đây cho ta!”.
o0o
Thuyền rời Cửu Giang.
Lạc Phương để mình trần cho y sư băng bó vết thương, vừa uống trà, vừa nói: “Ta vốn tưởng đã hết đời rồi, không ngờ lại gặp được hai người, thật đúng là như nằm mộng vậy”.
Khấu Trọng gằn giọng nói: “Đây căn bản là một cạm bẫy, bọn chúng cố ý thả huynh đi cầu viện chúng ta, lúc trở về mới hạ thủ đối phó. May mà lão thiên gia có mắt, để chúng ta gặp được huynh đó”.
Tuyên Vĩnh nói: “Hiện giờ thắng bại quyết định ở nhanh hay chậm, ai nhanh hơn, người đó sẽ chiến thắng. Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác nữa, chỉ có thể lên bờ ở địa điểm có lợi nhất, sau đó dùng toàn bộ tốc lực tấn công cho Đổng Cảnh Trân không kịp trở tay, rồi lại thừa thế phối hợp với đại quân của mục trường, tổ chức phản công trong lúc địch nhân đang hoảng loạn, tốc chiến tốc thắng”.
Ánh mắt chúng nhân đều dừng lại trên người Bạch Văn Nguyên.
Bạch Văn Nguyên tự tin nói: “Ba ngày nữa chúng ta sẽ rẽ vào Tữ Thủy, rồi lên bờ ở Xuân Phong Độ cách Đương Dương chừng mười dặm về phía Nam. Tại hạ đảm bảo có thể qua mắt được tất cả các quan khẩu cho đến tận đồi Xuân Phong nơi Đổng Cảnh Trân giấu quân. Đợi Bạch mỗ vẽ xong địa đồ, sẽ cùng các vị nghiên cứu xem làm cách nào cho họ Đổng nếm mùi đại bại”.
Khấu Trọng hân hoan nói: “Vậy chúng ta hãy dùng ba ngày này để nghỉ ngơi, bồi dưỡng tinh thần, đến lúc đó sẽ không phải là quân binh mệt mỏi mà là một đạo kỳ binh sinh long hoạt hổ, bách chiến bách thắng!”.
Chúng nhân đều gật đầu tán thưởng, sĩ khí lên cao tới cực điểm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

274#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 04:05:32 | Chỉ xem của tác giả
Hồi 261

Kỳ Kế Khắc Địch


Quá giờ ngọ ngày hôm ấy, bọn Khấu Trọng bỏ thuyền lên bờ ở bờ Đông Tữ Thủy, sau khi giấu bảy con thuyền vào một nơi bí mật, cả đoàn người ngựa liền lặng lẽ tiến vào một khu rừng rậm. Nhân lúc lũ ngựa nghỉ ngơi gặm cỏ, năm người bọn Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Lạc Phương, Bạch Văn Nguyên và Tuyên Vĩnh liền đi trước quan sát trận địch.
Nơi đóng quân của Đổng Cảnh Trân chỉ cách chỗ bọn gã lên bờ chừng năm dặm, bên bờ Tữ Thủy có xây tạm mấy bến thuyền, xung quanh neo đậu chừng chục cỗ chiến thuyền lớn nhỏ, gần bờ có ba tòa mộc trại, phân biệt là quân đội của Tiêu Tiễn, Chu Xán và Tào Ứng Long.
Địa điểm đóng quân của địch nhân khống chế cả hai đường thủy lục, chẳng những có thể mau chóng chi viện cho đội quân tấn công Viễn An và Đương Dương, lại có thể đi đường thủy hoặc đường bộ chặn đánh Thiếu Soái quân của Khấu Trọng, về mặt sắp xếp quả thực là không hề có kẽ hở.
Cả năm người đều lấy làm đau đầu.
Bạch Văn Nguyên chán nản nói: “Tại hạ tuy thông thuộc địa thế nơi này, nhưng lại không biết bọn chúng chia ra lập trại trên ba ngọn đồi nhỏ thế kia. Chòi canh đặt khắp nơi thì không cần phải nói, hiểm nhất là chúng đã chặt hết cây ở xung quanh đi, khiến cho bên công trại không thể ẩn nấp, cũng không thể lợi dụng địa thế để tấn công bất ngờ”.
Tuyên Vĩnh chau mày nói: “Ba trại này đều vô cùng kiên cố, phòng ngự cẩn mật, chỉ cần bọn chúng ở bên trong phóng tiễn qua các lỗ châu mai cũng đủ để đẩy lui quân ta rồi. Nếu dư dật thời gian, có lẽ còn kịp chế tạo một số công cụ công trại, nhưng trong hoàn cảnh này thì vô kế khả thi rồi”.
Khấu Trọng nhăn mặt nói: “Nếu đêm nay chúng ta không thể tấn công thì sáng mai nhất định sẽ bị thám tử của chúng phát hiện, đau đầu nhất chính là binh lực của chúng ta muốn tấn công trại nào cũng chẳng đủ, nói gì tới cùng lúc hạ cả ba trại. Xem ra không giở chút thủ đoạn gian trá ra thì không được rồi”.
Từ Tử Lăng vỗ vai Lạc Phương, mỉm cười nói: “Huynh đệ, e là phải khuất tất một phen rồi!”.
Một chiếc thuyền buồm rẽ ra từ nhánh sông nhỏ, vượt màn đêm tiến về phía trại địch trên thượng du.
Chúng nhân đứng trên đài quan sát, chăm chú theo dõi động tĩnh hai bên bờ.
Đêm nay ánh trăng đặc biệt sáng, cảnh vật xa gần như được khoác lên một tấm áo màu hoàng kim, không cần thắp đèn đốt đuốc cũng có thể nhìn rõ được mọi vật.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đương nhiên đã đeo mặt nạ che đi chân diện mục. Chỉ nghe gã họ Khấu thở dài nói: “Lần sau nếu muốn dùng kỳ binh đột kích, nhất định phải tính toán xem trăng tròn trăng khuyết thế nào, chứ làm như hôm nay, thật chẳng khác gì đánh trộm giữa ban ngày ban mặt cả”.
Từ Tử Lăng hỏi Bạch Văn Nguyên: “Theo Bạch huynh thì Trần Võ ở Cửu Giang liệu có dùng cách nào đó kiểu như phi cáp truyền thư để báo trước cho Đổng Cảnh Trân là chúng ta sẽ thay y áp giải tù phạm đến đây không?”.
Bạch Văn Nguyên trầm ngâm nói: “Khả năng này rất lớn, có điều bồ câu thì đương nhiên không thể biết đường tới đây, mà sẽ bay tới Di Lăng, sau đó mới dùng khoái mã đưa tin tới cho họ Đổng”.
Khấu Trọng nói: “Chuyện này thì biết ngay thôi mà, đến rồi!”.
Bạch Văn Nguyên không chút hoảng loạn, bình tĩnh lấy đèn làm hiệu, thông báo cho hai chiếc khoái thuyền đang lướt tới. Hai chiếc khoái thuyền nhận ra đăng hiệu, liền quay ngược lại dẫn đường cho thuyền của Bạch Văn Nguyên cập bến.
Thuyền còn chưa dừng hẳn thì một viên tướng lĩnh của Ba Lăng quân đã nhảy lên, thi lễ vớ Bạch Văn Nguyên: “Bạch tướng quân, mạt tướng Lôi Hữu Thủy. Đổng soái sớm đã biết các vị sẽ đến, chỉ là không ngờ lại nhanh đến vậy mà thôi!”.
Bạch Văn Nguyên yên tâm phần nào, mỉm cười đáp lại: “Sự việc trọng đại, đương nhiên có vất vả thế nào cũng phải giao người cho Đổng soái trong thời gian ngắn nhất chứ. À, có tin tức gì của hai tên tiểu tặc kia không?
Viên tướng tên Lôi Hữu Sử kia liền đáp: “Tin tức vừa mới về hôm nay, hai tên tiểu tặc đó ở Hợp Phì dùng quái chiêu khiến cho Bách Ngiệp Đại Hội của Vinh Phụng Tường biến thành một mớ hồ đồ! Ủa, không phải Bạch tướng quân mới ở đó về sao, chắc ngài cũng biết chuyện này chứ?”.
Bạch Văn Nguyên làm bộ vui vẻ nói: “Chuyện này phức tạp dị thường, để sau hãy nói. Sau khi giao người cho Đổng soái, Lôi huynh hãy sang trại của ta, uống rượu nói chuyện, ta sẽ kể tận tường”.
Lôi Hữu Thủy cười khổ: “Hôm nay mạt tướng phải trực tuần, để tối mai được không vậy? Hai tên tiểu tặc này xưa nay thần xuất quỷ mạt, ngay cả Lý Mật, Vũ Văn Hóa Cập và Lý Tử Thông cũng không phải đối thủ của chúng nữa, không tỉnh táo đề phòng thì sao được chứ?”.
Trong lòng Khấu Trọng và Từ Tử Lăng chợt dâng lên một cảm giác kỳ lạ. Đây không phải những lời khiêm nhượng khách khí, mà là những lời thật lòng mang theo vẻ sợ hãi được nói ra từ miệng địch nhân của hai gã. Từ điểm này, có thể thấy uy danh của hai gã đích thực đã chấn động khắp thiên hạ rồi, chẳng trách mà bọn Tiêu Tiễn, Chu Xán và Tào Ứng Long lại coi trọng chuyện đối phó hai gã hơn cả việc công hạ Phi Mã Mục Trường.
Thuyền khẽ nhích động rồi dừng lại trên bến.
Bạch Văn Nguyên quát lớn: “Giải người ra đây!”.
Bên dưới lập tức có người đẩy Lạc Phương ra, giao cho Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đứng hai bên giám quản, áp giải lên bờ. Nhìn bề ngoài thì Lạc Phương có vẻ như đã từng bị tra tấn rất dã man, chẳng những y phục rách rưới, tóc tai rối bù, mà trên mặt còn thấy cả vết máu đen bầm lại nữa.
Những người khác vẫn lưu lại trên thuyền.
Lôi Hữu Thủy đi trước dẫn đường, thuận miệng nói: “Thuyền của các vị trầm như vậy, nhất định là chở thứ gì đó nặng lắm”.
Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Lạc Phương đang thầm kinh hãi thì Bạch Văn Nguyên đã thản nhiên như không đáp: “Nhãn lực của Lôi huynh thật lợi hại, cả khoang bên dưới đều chất đầy gạo, không nặng mới lạ đó. Nếu không phải thuận gió, e là chúng ta cũng không tới đây được nhanh như vậy đâu”.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn nhau, đều nhận ra sự tán thưởng trong mắt đối phương, mấy câu này của Bạch Văn Nguyên quả thực hết sức lợi hại, chẳng những tán tụng Lôi Hữu Thủy, giải thích được tại sao thuyền nặng, mà quan trọng nhất là đã chỉ ra rằng nhờ thuận gió nên mới có thể đến nhanh như vậy, tránh để đối phương nghi ngờ”.
Sau khi lên bờ, bốn người bọn Khấu Trọng được một đội chừng hơn hai mươi binh sĩ Ba Lăng quân hộ tống trước sau, tiến về phía trại của Đổng Cảnh Chân.
Lôi Hữu Thủy quay đầu lại liếc nhìn Lạc Phương đang “ủ rũ cúi đầu”, thấp giọng hỏi: “Tên tiểu tử này xem ra đã được Bạch tướng quân cho nếm không ít khổ đầu, rốt cuộc hắn tên gì, có hỏi được chuyện gì quan trọng không?”.
Bạch Văn Nguyên đang mong y hỏi câu này, nghe vậy liền vui vẻ trả lời ngay: “Tên tiểu tử này tên Lạc Phương, là phó chấp sự của Phi Mã Mục Trường. Lần này hắn ra ngoài cầu viện hai tên tiểu tặc, sau đó trở về trước để thông báo cho Thương Tú Tuần biết kế hoạch phản công chúng ta, Lôi huynh nói xem tin tức này có quan trọng không?”.
Lôi Hữu Sử động dung thốt lên: “Tin tức này đúng là không phải tầm thường, Bạch tướng quân thật biết cách tra khảo”.
Bạch Văn Nguyên cười gằn nói: “Vẫn là mấy chiêu cũ thôi, thử hỏi có miệng kẻ nào cứng hơn mấy thứ hình cụ đâu chứ?”.
Lôi Hữu Sử liền quát lên với một tên sĩ tốt đang đi phía trước: “Lập tức báo cho Đổng soái, nói Bạch tướng quân có tin tức cực kỳ quan trọng, xin được lập tức diện kiến”.
Tên binh sĩ kia lập tức vâng mệnh chạy đi.
Lôi Hữu Sử đột nhiên cười gian tà nói: “Hôm trước mạt tướng có bắt được một số tiểu cô nương ở thôn làng gần đây, trong đó cũng có một hai ả nhan sắc cũng khá, không biết Bạch tướng quân có hứng thú không?”.
Trong mắt Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đều thoáng hiện lên sát cơ.
Bạch Văn Nguyên cười cười nói: “Lôi huynh cứ giữ lấy mà hưởng dụng! Tại hạ cũng vừa mới ở Hợp Phì về, hà hà... chắc Lôi huynh hiểu chứ”.
Lôi Hữu Thủy bật cười hô hố nói: “Hiểu, hiểu! Hà, cuộc sống ở nơi hoang sơn dã lãnh này quả thật là quá đơn điệu!”.
Lúc này chúng nhân đã rẽ vào con đường đi lên trại, chỉ thấy hai bên đường có ba tầng hào cản ngựa, bên trong cắm đầy chông nhọn hoắt, làm Khấu Trọng nhìn mà thầm than may mắn. Nếu không phải có diệu kế này, với đội quân chưa đầy hai ngàn người của gã, tấn công một vạn quân địch chia làm ba trại phòng thủ thế này, thật không khác gì thiêu thân đâm đầu vào lửa hay châu chấu đá xe là mấy.
Bên trong soái trướng đèn đuốc sáng rực.
Đổng Cảnh Trân ngồi trên soái ỷ, hai bên tả hữu có bốn viên tướng lĩnh, người nào người nấy đều đang nhìn chằm chằm vào Lạc Phương vừa được Bạch Văn Nguyên và hai gã áp giải vào.
Họ Đổng niên kỷ trạc tứ tuần, dáng người cao gầy, mặt vuông tai lớn, đường nét rõ ràng, dưới cằm hơi bạnh ra, râu tóc rậm rạp, tướng mạo thập phần uy mãnh.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đồng thanh quát: “Qùy xuống!”.
Lạc Phương khẽ run rẩy, hai chân như mềm nhũn ra, đầu cúi thấp, điệu bộ giống hệt như thật, đến cả Khấu Trọng, Từ Tử Lăng và Bạch Văn Nguyên cũng không nhìn ra sơ hở.
Trừ Lôi Hữu Sử ra, các binh lính đều đứng cả bên ngoài trướng đợi lệnh.
Đổng Cảnh Trân cười ha hả nói: “Bạch tướng quân có thể moi được tin tức quan trọng như vậy từ tên tiểu tử này, lập được đại công, quả thật là đáng mừng, đáng mừng!”.
Bạch Văn Nguyên quay sang ra lệnh cho Khấu Trọng và Từ Tử Lăng: “Các ngươi ra bên ngoài đợi lệnh!”.
Hai gã lập tức dạ vang, quay người lùi ra bên ngoài.
Soái trướng này nằm ở trung tâm của mộc trại, xung quanh là một khoảng đất trống lớn, những quân doanh khác đều nằm ngoài năm mươi bước, bốn phía có tám binh sĩ đứng canh gác.
Hai mươi quân sĩ theo Lôi Hữu Thủy tới đây đều vòng ra đường cũ để trở về bến tàu. Hai gã cũng đi theo sau lưng đám này ra phía cổng trại.
Quân sĩ trong trại đa phần đều đã vào trong các lều nghỉ ngơi, chỉ còn lại những người phải trực đêm đi xung quanh tuần tra, ngoại trừ con đường thông với bốn cổng trại là đèn đuốc sáng rực ra, kỳ dư khắp trại đều đã chìm trong bóng tối mờ mờ, những căn lều dưới ánh trăng trông như những chiếc bánh bao khổng lồ.
Ngoài cổng trại có hơn mười binh sĩ đang canh giữ, trong đó có bốn người đứng trên hai chòi canh cao gần hai trượng ở hai bên cổng, có điều không ai nghĩ rằng địch nhân sẽ tới, nên tất cả đều hết sức lơ là cảnh giác, phòng ngự rất lỏng lẻo.
Đám lính canh cửa thấy chúng nhân đi tới, vội vàng kéo cửa lên cho đi qua.
Lúc này Tuyên Vĩnh và năm trăm tinh binh nấp trên thuyền sớm đã giải quyết xong đám quân Ba Lăng ở ngoài bến đò và tiếp ứng cho các đội nhân mã khác. Tuyên Vĩnh dẫn theo hơn mười cao thủ khinh công, ẩn thân trong hố chặn ngựa gần chân đồi nhất, vừa thấy cổng trại mở ra, lập tức tung mình lao tới.
Bốn tên lính trên chòi canh cao phát hiện đầu tiên, đang định hét lên báo hiệu thì Khấu Trọng đã nhún người bay lên, phi đao liên tiếp phóng ra, cả bốn tên địch chỉ kịp hự lên một tiếng thảm thiết rồi hồn du địa phủ.
Từ Tử Lăng cũng cùng lúc phát động, chưởng phong cuồn cuộn như hổ lạc giữ bầy dê, đám quân sĩ canh cửa ngã xuống như rạ, không ai kịp kêu lên lấy một tiếng.
Khấu Trọng lại lăng không hoán khí, tung người lộn nhào ra khỏi cửa trại, phối hợp với bọn Tuyên Vĩnh, dùng tốc độ nhanh như sấm đánh không kịp bưng tai, thu thập đám binh lính định xông ra cứu viện, trong nháy mắt đã hoàn toàn khống chế được cổng trại vững như bàn thạch của quân Ba Lăng.
Sau khi hội hợp Tuyên Vĩnh, Khấu Trọng liền hạ lệnh: “Thu thập binh sĩ tuần phòng trước, tránh để bọn chúng kịp báo động”.
Các thủ hạ lập tức tuân mệnh chia nhau hành động.
Thiếu Soái quân tràn vào từ ngoài bến tàu.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng nắm chặt tay nhau để biểu lộ niềm vui, trong lòng đều thầm cảm thấy mình may mắn. Trong trại tuy có hơn bốn ngàn quân Ba Lăng, nhưng không ai kịp phản kháng, chỉ chờ Thiếu Soái tới đồ sát.
Sau khi chuẩn bị và phối hợp, Khấu Trọng, Từ Tử Lăng dẫn theo hai mươi người đã đổi y phục của địch nhân, chạy về phía soái trướng.
Đám binh sĩ canh phòng bên ngoài soái trướng, thấy bọn gã chạy về, lại còn do Khấu Trọng và Từ Tử Lăng dẫn đầu nên đều cảm thấy kỳ quái.
Bọn Tuyên Vĩnh nhân lúc bọn chúng đều chú ý cả vào Khấu Trọng và Từ Tử Lăng, từ trong bóng tối lẻn ra, nhanh nhẹn chế phục toàn bộ.
Chỉ nghe tiếng cười sang sảng của Đổng Cảnh Trân vang lên trong trướng: “Lạc huynh đệ đúng là kẻ thức thời vụ, nếu chịu đầu hàng, Đổng mỗ có thể đảm bảo cho huynh đệ phú quý vinh hoa suốt đời hưởng không hết, tử tôn phúc trạch vô cùng”.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng vạch tấm màn xông vào.
Bọn Đổng Thục Trân tròn mắt ngạc nhiên nhìn về phía hai gã, Bạch Văn Nguyên và Lạc Phương cũng lập tức phát động, xuất thủ tấn công người đứng gần mình nhất. Tỉnh Trung Nguyệt của Khấu Trọng rời bao, hóa thành một đạo ánh sáng vàng rực rỡ, chém xả vào Đổng Thục Trân đang lao về phía giá binh khí.
Từ Tử Lăng song chưởng tề xuất, tấn công hai viên tướng lĩnh đứng cạnh họ Đổng.
Nhất thời đao quang kiếm ảnh tràn ngập bên trong soái trướng.
Đổng Cảnh Trân cũng không phải hạng vừa, dù lâm nguy nhưng cũng không rối loạn, y tung mình ra sau, xé toạc màn trướng lăn ra bên ngoài, tuy tránh được một đao kinh thiên động địa của Khấu Trọng, nhưng lại lọt vào giữa vòng vây của Tuyên Vĩnh và hơn mười người khác, trên người lập tức có thêm mấy vết thương, máu chảy đầm đìa, nếu không phải y có chân khí hộ thân, lại lăn về phía chỗ trống, thì sớm đã mất mạng rồi.
Tỉnh Trung Nguyệt đuổi theo như bóng với hình, chém thẳng xuống đầu Đổng Cảnh Trân.
Đổng Cảnh Trân tức giận gầm lên một tiếng, hữu chưởng sử ra tuyệt chiêu cứu mạng tinh diệu tuyệt luân, quét thẳng vào lưỡi đao của Khấu Trọng.
Loa Hoàn Kình lập tức chạy dọc theo cánh tay y, xâm nhập vào kinh mạch.
Một bên thuận thế toàn lực tấn công, một bên là hoảng loạn ứng chiến trong khi đã thọ thương, cao hạ thế nào thiết tưởng không cần nói cũng biết.
Đổng Cảnh Trân toàn thân run lên lẩy bẩy, lăn tròn về phía sau như một quả bóng, máu tươi không ngừng phun ra nơi miệng, cuối cùng thì cũng dừng lại, thở hồng hộc.
Từ Tử Lăng tung mình phóng ra khỏi soái tướng, mỉm cười nói: “Giải quyết xong cả rồi”.
Khấu Trọng đảo mắt một vòng, thấy người trong các quân doanh gần đó đã bị tiếng đánh nhau làm tỉnh giấc, liền cởi bỏ mặt nạ xuống, hét lớn: “Kẻ nào đầu hàng thì tha chết, kháng cự giết không tha!”.
Chúng nhân lập tức lãnh mệnh tản đi.
Khấu Trọng liếc nhìn Đổng Cảnh Trân đang bị thủ hạ dùng dây gân bò trói chặt chân tay, thở dài nói với Từ Tử Lăng: “Lăng thiếu gia ngươi chắc cũng biết ta không còn sự lựa chọn nào khác, trên chiến trường nếu không phải ngươi giết ta thì là ta giết ngươi. Đừng quên rằng bọn chúng đã gây hại cho người dân ở đây như thế nào”.
Từ Tử Lăng cười khổ nói: “Ta đâu có trách gì ngươi, đâu cần phải nói nhiều như vậy làm gì, đi thôi!”.
Nói đoạn liền tung mình lướt đi trước.
Đây căn bản không thể coi là chiến trường.
Do Đổng Cảnh Trân và các tướng lĩnh khác đã bị bắt sống ngay từ đầu, đám binh lính Ba Lăng quân vừa tỉnh giấc như liền như quần long vô thủ, lần lượt đầu hàng, giảm cho Khấu Trọng rất nhiều sát nghiệp.
Quá canh hai, toàn bộ trại của quân Ba Lăng đã lọt vào tay Khấu Trọng, khiến cho gã có thể tiếp tục tiến hành bước thứ hai của kế hoạch.
Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Bạch Văn Nguyên áp giải Đổng Cảnh Trân cùng hơn bốn mươi người khác đóng giả thành thân vệ của họ Đổng thúc ngựa tiến về phía mộc trại do đại tướng Văn Lương của Chu Xán thống lĩnh, theo sau là hơn ngàn Thiếu Soái quân do Tuyên Vĩnh dẫn đầu. Lạc Phương và mấy trăm người khác thì ở lại giữ trại.
Chúng nhân thúc ngựa lao đi như gió, chẳng mấy chốc đã đến trước cổng trại của quân Già Lâu Lan cách đó chừng gần một dặm: “Đổng Cảnh Trân đại soái có chuyện gấp cần gặp Văn soái, đã có tin tức của Thiếu Soái quân rồi”.
Đám lính canh cửa làm sao biết được có điều trá ngụy, vừa thấy Đổng Cảnh Trân, vừa thấy Bạch Văn Nguyên là đại tướng bên mình, liền lập tức phái người phi báo cho Văn Lương, đồng thời mở lớn cổng nghênh tiếp.
Cổng vừa mở ra, chúng nhân đã tràn vào như nước lũ, thấy người là giết, tiếng hò hét vang động cả góc trời, khiến cho đám quân sĩ đang ngủ trong quân doanh đều bừng tỉnh.
Đại quân của Tuyên Vĩnh ồ ạt tràn vào, phóng hỏa khắp nơi, mặc sức phá hoại.
Chẳng mấy chốc thì cả mộc trại rộng lớn đã chìm trong biển lửa, đám tàn binh bại tướng còn lại chỉ biết mở tung những cổng trại còn lại, hoảng loạn bỏ chạy.
Tào Ứng Long cũng dẫn quân tới cứu viện, nhưng đã bị Thiếu Soái quân mai phục đánh cho một trận tơi bời, bỏ cả trại tháo chạy.
Đến sáng hôm sau liên quân tinh nhuệ của Tiêu Tiễn, Chu Xán và Tào Ứng Long đã không còn tồn tại.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

275#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 04:07:14 | Chỉ xem của tác giả
Hồi 262

Dọa Nạt Dụ Dỗ


Đổng Cảnh Trân bị giải vào trong trướng.
Khấu Trọng đứng dậy nghênh đón: “Mau cởi trói cho Đổng đại soái!”.
Mấy vệ binh giải họ Đổng tới đều lấy làm ngạc nhiên, Khấu Trọng phải nhắc lại một lần nữa mới hoang mang rút trủy thủ ra, cắt dây trói cho Đổng Cảnh Trân.
Khấu Trọng ra lệnh cho thủ hạ lùi ra bên ngoài, rồi vui vẻ nói: “Đổng đại tướng quân, mời ngồi!”.
Đổng Cảnh Trân đảo mắt một vòng nhìn quanh soái trướng vốn là của mình, chán nản thở dài nói: “Ngươi giết ta đi, Đổng Cảnh Trân này tuyệt đối không quy hàng hạng tiểu tử miệng còn hôi sữa như ngươi đâu”.
Khấu Trọng chẳng hề để ý đến thái độ của y, vẫn cười vui vẻ nói: “Ta biết Đổng đại tướng quân thua mà không phục, nhưng sự thực đã là như vậy, không thể nào thay đổi được nữa, Đổng đại tướng quân thấy có đúng không?”.
Đổng Cảnh Trân vẫn nhắc lại câu nói trước: “Ngươi giết ta đi!”.
Nếu không phải vì thương thế quá trầm trọng, thì y sớm đã thừa cơ đột phá vòng vây trốn đi rồi.
Khấu Trọng thản nhiên nói: “Ta không hề muốn ngài đầu hàng. Thân tộc phụ mẫu thê nhi của ngài đều ở Ba Lăng, nếu như ta bức ngài đầu hàng, hoặc giả tuyên bố ngài đã đầu hàng chúng ta, vì vậy mới trợ giúp chúng ta phá hai trại của Chu Xán và Tào Ứng Long, thì không phải đã hại chết người nhà và tộc nhân của ngài hay sao. Những chuyện như vậy Khấu Trọng này tuyệt đối không bao giờ làm”.
Đổng Cảnh Trân nghe thấy câu nói sau cùng của gã, gương mặt đã không còn chút huyết sắc, bởi vì y hiểu rõ gã không chỉ hư trương thanh thế, một chiêu này còn lang độc hơn cả uy hiếp giết chết y hay bất kỳ thứ hình cụ dã man nào khác, chỉ nghe y chán nản thở dài: “Ngươi độc lắm! Nói đi!”.
Song mục Khấu Trọng sáng rực lên: “Ta muốn làm một vụ giao dịch với ngài, chỉ cần ngài đáp ứng, ta sẽ thả cho ngài và hai ngàn thủ hạ bị bắt sống ngồi thuyền về Di Lăng, không nên đi đường bộ, bởi vì như thế Chu Xán và Tào Ứng Long nhất định sẽ không tha cho ngài, vì bọn chúng đã nhận định rằng ngài đang mang quân tấn công chúng”.
Đổng Cảnh Trân giống như già thêm mấy chục tuổi, buồn rầu ngồi phịch xuống ghế.
Khấu Trọng giờ mới ngồi xuống chiếc soái ỷ vốn thuộc về Đổng Cảnh Trân, mỉm cười nói: “Ta muốn biết tình hình hư thực của hai đạo quân đang tấn công Đương Dương và Viễn An của Chu Xán và Tào Ứng Long”.
Đổng Cảnh Trân chau mày nói: “Bọn chúng làm sao chịu cho ta biết những bí mật như vậy chứ? Ngươi thật là ép người quá đáng, chi bằng cứ dứt khoát giết ta đi cho xong”.
Đôi mắt hổ của Khấu Trọng xạ lên những đạo kỳ quang sáng rực, nhìn thẳng vào Đổng Cảnh Trân, chầm chậm rút Tỉnh Trung Nguyệt, đặt bên cạnh, trầm giọng nói: “Ta dùng thành ý để đối đãi với tướng quân, tướng quân lại coi Khấu Trọng này là tên ngốc, nói không chừng bây giờ ta sẽ chặt cái thủ cấp của ngài xuống, rồi đem thủ hạ của ngài đi chặt đầu hết đấy. Lúc đó thì đừng trách ta đây không nói trước!”.
Đổng Cảnh Trân biến sắc nói: “Sĩ khả sát, bất khả nhục, muốn chém muốn giết, Đổng mỗ đây tuyệt không chau mày. Nhưng ngươi không thể làm nhục ta...”.
Khấu Trọng thở dài một tiếng, ngắt lời Đổng Cảnh Trân rồi lắc đầu nói: “Đại tướng quân tốt nhất không nên nói nữa. Tiêu Tiễn là người thế nào, ta và ngài đều đã quá rõ, sau khi triệt hạ chúng ta và Phi Mã Mục trường, mục tiêu tiếp theo của hắn sẽ là Chu Xán và Tào Ứng Long. Hiện giờ có cơ hội hợp tác, Đổng đại tướng quân sao không thừa cơ tiện thể thăm dò hư thực của bọn chúng luôn”.
Đổng Cảnh Trân đảo mắt một vòng, cúi đầu nói: “Ngươi đừng hòng lấy bụng tiểu nhân mà đo lòng quân tử”.
Khấu Trọng biết đã kích trúng chỗ yếu hại của y, lại càng biết rõ y không phải thà chết cũng không khuất phục như vẻ bề ngoài, bằng không thì đêm qua đã không chịu để bọn gã uy hiếp đi cướp trại của quân Già Lâu Lan rồi. Gã mỉm cười nhổm người đứng dậy nói: “Nếu đã như vậy thì ta cũng không có gì để nói nữa, Đổng đại tướng quân có hứng thú đi xem cảnh huynh đệ của mình lần lượt đầu rơi xuống đất hay không?”.
Đổng Cảnh Trân cười thảm nói: “Ngươi thắng rồi!”.
Khấu Trọng hiên ngang ra khỏi trướng, đến bên cạnh bọn Từ Tử Lăng, Lạc Phương, Tuyên Vĩnh và Bạch Văn Nguyên, đưa tay ra hiệu đã thắng lợi.
Tuyên Vĩnh hất cằm về phía soái trướng, thỉnh thị Khấu Trọng xem nên xử lý Đổng Cảnh Trân thế nào.
Khấu Trọng mỉm cười: “Đương nhiên là lấy lễ đối đãi, Khấu Trọng này đâu phải là hạng người tàn nhẫn hiếu sát. Tất cả tù binh đều phóng thích, để chúng ngồi thuyền rời khỏi đây, nhưng không cho mang theo binh khí và ngựa, chỉ cho lương thực dùng đủ trong hai ngày thôi”.
Tuyên Vĩnh lập tức tuân mệnh đi thi hành.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng, Lạc Phương, Bạch Văn Nguyên đi ra phía cổng trại, vừa đi vừa nói: “Hiện giờ Chu Xán và Tào Ứng Long nhất định sẽ nghĩ rằng Tiêu Tiễn ám hại bọn chúng, các người thử nói xem chúng sẽ phản ứng thế nào?”.
Lạc Phương hoài nghi nói: “Đổng Cảnh Trân có nói dối không?”.
Khấu Trọng tự tin nói: “Có người thông thuộc hư thực của Chu Xán và có hiểu biết nhất định về Tào Ứng Long như Bạch huynh ở đây, làm sao tới lượt hắn hồ ngôn loạn ngữ chứ. Họ Đổng này chỉ là hạng tham sinh úy tử, vì tính mạng, nói không chừng cả lão gia của mình hắn cũng dám bán đứng cũng nên, huống hồ là bọn Chu Xán và Tào Ứng Long?”.
Từ Tử Lăng trầm tư nói: “Vấn đề là Chu Xán và Tào Ứng Long liệu có cho rằng Tiêu Tiễn bội phản minh ước, còn Bạch huynh thì vì bị Chu My hãm hại nên đã quy phục về với Tiêu Tiễn hay không?”.
Bạch Văn Nguyên quả quyết nói: “Tào Ứng Long thì tại hạ không dám đảm bảo, nhưng Chu Xán thì tính nóng như lửa, khi thấy ái tướng thảm tử, thủ hạ thương vong trầm trọng, tất sẽ dồn hết cơn thịnh nộ lên đầu Tiêu Tiễn, cho dù Tiêu Tiễn muốn giải thích cũng không giải thích được”.
Khấu Trọng đắc ý nói: “Đặc sắc nhất là Chu Xán có nằm mộng cũng không thể nghĩ ra rằng ta từ Đại Giang tới, rút ngắn ít nhất là ba ngày hành trình, mối họa này Đổng Cảnh Trân gánh là cái chắc rồi”.
Bốn người bước ra bên ngoài trại, dưới ánh dương quang rực rỡ, đồng cỏ trải dài tưởng chừng như vô tận, khiến tinh thần con người trở nên phấn chấn. Từ Tử Lăng thở dài một tiếng rồi nói: “Vậy thì tốt rồi. Nếu Tào Ứng Long cũng tin Tiêu Tiễn bội ước, vậy thì bước tiếp sau của Tiêu Tiễn sẽ là vượt sông Trường Giang tiến lên phía bắc, thừa lúc đại quân của hai kẻ kia đang bị cầm chân ở Đương Dương và Viễn An, công chiếm đại bản doanh của chúng. Trong tình hình đó, Chu Xán và Tào Ứng Long chỉ còn cách lui quân để bảo toàn thực lực mà thôi”.
Bạch Văn Nguyên gật đầu nói: “Chu Xán và Tào Ứng Long chẳng những sẽ nghi ngờ Tiêu Tiễn, mà còn nghi ngờ lẫn nhau, khó có thể hợp tác, lúc ấy chúng ta sẽ có cơ hội để lợi dụng”.
Khấu Trọng thản nhiên nói: “Với binh lực hiện nay của chúng ta, cho dù thêm Phi Mã Mục Trường và binh tướng cũ của Cảnh Lăng cũng chỉ có thể tập kích được một trong hai quân mà thôi, Bạch huynh thấy chúng ta nên chọn kẻ bất hạnh nào đây?”.
Bạch Văn Nguyên cảm kích nói: “Chỉ một câu nói này của Thiếu Soái thôi đã khiến Văn Nguyên cam tâm tình nguyện ra sức vì ngài rồi. Nói thực lòng, tại hạ đương nhiên muốn chọn Chu Xán để rửa mối thâm cừu. Nhưng về mặt chiến lược thì đó là một hành động bất trí, chuyện này có thể phân thành ba phương diện để giải thích”.
Lạc Phương kinh ngạc thốt lên: “Tại hạ chỉ nghĩ đến quân lực của Chu Xán mạnh hơn Tào Ứng Long mà thôi, không ngờ lại còn hai nguyên nhân khác nữa”.
Bạch Văn Nguyên mỉm cười nói: “Lạc huynh chỉ là nhất thời không nghĩ ra mà thôi”.
Từ Tử Lăng nói: “Ta chỉ có thể đoán được một nguyên nhân, chính là nếu chúng ta tấn công Chu Xán, Tiêu Tiễn sẽ sai rồi sai luôn, lập tức dẫn quân vượt Trường Giang, công chiếm lãnh địa của hai minh hữu đang trong cơn thịnh nộ. Tào Ứng Long dù sao cũng chỉ là thảo khấu, chỉ giỏi công chứ không giỏi thủ, để y ngăn cản Tiêu Tiễn tiến lên phía Bắc thì tuyệt đối không thể bằng Chu Xán”.
Khấu Trọng cười cười nói: “Nguyên nhân thứ ba có thể nói ra được rồi đó”.
Bạch Văn Nguyên vui vẻ đáp: “Sự thực thì Từ huynh đã nói ra rồi. Quân lực của Tào Ứng Long tuy lên đến bốn vạn, song thủy chung cũng chỉ là một đám lưu khấu mã tặc ô hợp mà thôi. Lúc thắng thì khí thế dâng cao ngút trời, còn khi bại thì sẽ như nắm cát khô, lòng người hoảng loạn, vô tâm luyến chiến. Bọn chúng lại không có gia viên thân tộc cần phải bảo hộ như thủ hạ của Chu Xán, mà đa phần là những kẻ một thân một mình, nói đi là đi, vì vậy chỉ cần chúng ta nắm được chính xác lộ tuyến triệt thoái của chúng, thì có thể tung mẻ lưới diệt gọn, trừ hại cho dân”.
Khấu Trọng thở dài nói: “Cách nhìn của Bạch huynh quả là hết sức độc đáo, cha con Chu Xán không biết trọng dụng hiền tài, thật là vô cùng bất trí”.
Bạch Văn Nguyên cười khổ: “Chính vì Bạch mỗ kịch liệt phản đối chuyện kết minh với Tào Ứng Long nên mới làm Chu Xán động sát cơ. Chu My thì sớm đã chán ghét tại hạ... lần này may mà được hai vị ra tay cứu giúp. Mấy ngày nay lại được cùng các vị kề vai sát cánh, quả thực là thống khoái vô cùng”.
Khấu Trọng vỗ mạnh vào lưng y một cái, rồi cười dài nói: “Sau này mọi người đều là huynh đệ một nhà cả”.
Lạc Phương hưng phấn đến đỏ cả mặt, hớn hở nói: “Tào Ứng Long tội ác ngập đầu, chúng ta phải giết cho bọn hắn không còn manh giáp mới được”.
Khấu Trọng nói: “Theo Bạch huynh thì Tào Ứng Long sẽ đi đường nào vậy?”.
Bạch Văn Nguyên lấy trong người ra một sấp địa đồ, rút ra một tấm trải xuống mặt đất. Ba người bọn Khấu Trọng cũng ngồi xổm xuống, chăm chú nhìn theo ngón tay y: “Trước khi kết minh, Tào Ứng Long từng bị Bạch mỗ đánh bại, chạy về phía Tây sông Khê Thủy phía Nam Cảnh Lăng, công chiếm hơn trăm thôn làng xung quanh đó, vì vậy y căn bản không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ có thể lui quân trở về sào huyệt cũ mà thôi. Đầu tiên hắn phải qua Tữ Thủy, qua Kinh Sơn, rồi vượt Chương Thủy. Nếu chúng ta mai phục ở Chương Thủy, nhân lúc quân của hắn qua sông mà tấn công từ hai mặt, đảm bảo có thể khiến cho Tào Ứng Long vĩnh viễn cũng không thể trở về được sào huyệt của mình”.
Khấu Trọng gật đầu: “Quả là diệu kế!”.
Nói đoạn gã liền đập mạnh tay lên vai Lạc Phương, mỉm cười nói: “Tiểu Phương biết phải làm sao rồi chứ?”.
Lạc Phương hưng phấn gật đầu: “Giờ ta sẽ lập tức trở về mục trường thông báo cho trường chủ”.
Thiếu Soái quân tràn vào khu rừng rậm bên bờ Chương Thủy, dựng trại nấu cơm, người ngựa đều tranh thủ chút thời gian ngắn ngủi trước lúc đại chiến để nghỉ ngơi sau ba ngày kiêm trình vất vả.
Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Bạch Văn Nguyên và Tuyên Vĩnh thì không dừng ngựa mà đi thẳng lên phía thượng du của dòng sông.
Đến một đoạn sông hẹp, Bạch Văn Nguyên liền dùng roi ngựa chỉ ra nói: “Nếu chúng ta có đủ thời gian, có thể xây dựng đập gỗ ở đây, rồi dùng bao cát để gia cố thêm để chặn bớt dòng chảy. Khi bọn Tào Ứng Long qua sông, thì quân ta sẽ phá đập cho nước tràn về nhấn chìm bọn chúng, cắt đôi cả đoàn quân, lúc ấy mà thừa cơ tấn công thì đảm bảo không tốn chút sức lực cũng tiêu diệt được hết lũ tặc khấu này”.
Tuyên Vĩnh chắt lưỡi tiếc rẻ: “Tiếc là chúng ta không có nhiều bao bố đựng cát, hơn nữa muốn làm một con đập gỗ ngăn sông ít nhất cũng phải tốn mười ngày, đừng nói là lao sư động chúng, chỉ riêng về mặt thời gian chúng ta đã ứng phó không kịp rồi”.
Từ Tử Lăng nói: “Bạch huynh từng nhiều lần giao chiến với Tào Ứng Long, có thấy hắn có điểm gì cần đặc biệt lưu ý không?”.
Bạch Văn Nguyên trầm ngâm: “Tào Ứng Long có thể tung hoành giang hồ là có ba nguyên nhân, một là hành quân cực nhanh, phiêu hốt vô định, một khi gặp phải hiểm trở, sẽ lập tức triệt thoái, đây là bản sắc của lưu khấu, nhưng đích thực đã nhiều lần giúp hắn thoát khỏi hiểm cảnh”. Ngưng lại một chút rồi y nói tiếp: “Kế đó chính là lấy chiến tranh để nuôi chiến tranh, bất luận là thất bại nặng nề thế nào, chỉ cần bọn chúng đào thoát được thì sẽ lại tiếp tục cướp bóc khắp nơi, đồng thời chiêu nạp bạo dân mở rộng thế lực, hoàn toàn không phải lo lắng chuyện gì”.
Khấu Trọng nói: “Nhưng cũng có điểm bất lợi đó là người người đều kết hợp lại vì lợi ích, không hề có lý tưởng nhất chí gì cả. Vì vậy chỉ cần giết chết ba tên đầu sỏ Tào Ứng Long, Phòng Kiến Đỉnh và Hướng Tiên thì nắm cát rời này sẽ vĩnh viễn không thể nào tụ lại được nữa”.
Từ Tử Lăng nhớ lại cảnh tượng bọn lính Tùy sau khi chiến bại đã đi khắp nơi giết người phóng hỏa, gian dâm phụ nữ, thì dứt khoát nói: “Chúng ta nhất định phải diệt sạch đám hung đồ này, nếu không những thôn làng xung quanh sẽ gặp đại họa đó”.
Tuyên Vĩnh gật đầu nói: “Muốn giết sạch bọn chúng tuy không dễ, nhưng không phải là không có cách”.
Khấu Trọng lại hỏi Bạch Văn Nguyên: “Tào Ứng Long có chiêu số gì độc đáo không?”.
Bạch Văn Nguyên liền nói ngay: “Chính là dạ chiến, bất luận hành quân hay tác chiến ở đâu, bọn chũng cũng đều chọn ban đêm để tiến hành, thần xuất quỷ mạt, muốn đánh là đánh, muốn chạy là chạy, chiếm hết tiện nghi”.
Khấu Trọng chau mày nói: “Vậy phải làm sao mới bức chúng qua sông vào ban ngày nhỉ?”.
Từ Tử Lăng nhăn trán suy nghĩ rồi nói: “Chỉ cần làm cho chúng biết được đại quân của Phi Mã Mục Trường đang đuổi sát phía sau, thì đâu tới lượt chúng chọn ngày hay đêm để qua sông chứ?”.
Khấu Trọng nói: “Tuyệt diệu nhất chính là Tào Ứng Long không thể ngờ chúng ta đã tới đây trước một bước để cung hầu đại giá của hắn, mà cứ tưởng rằng chỉ cần qua sông là có thể an toàn lui binh, tính chuyện báo thù rửa hận”.
Bạch Văn Nguyên thúc nhẹ vào hông ngựa rồi nói: “Xin đi theo tại hạ!”.
Nói đoạn liền quay đầu ngựa, chạy ngược về phía hạ du, lúc chạy lúc dừng, được hơn mười dặm thì Bạch Văn Nguyên lại chuyển hướng chạy lên thượng du, chừng bốn năm dặm thì tung mình xuống ngựa, để mặc cho nó đi tìm cỏ ăn. Bạch Văn Nguyên đến bên bờ sông cẩn thận quan sát, cuối cùng đứng lên cười ha hả nói: “Hoàng thiên bất phụ hữu tâm nhân, cuối cùng thì cũng tìm được nơi bọn Tào Ứng Long qua sông lần trước rồi”.
Ba người cọn Khấu Trọng mừng rỡ chạy lại gần y, phát hiện trong bụi cỏ có bốn chiếc cọc gỗ to như thân người, cắm sâu vào trong lòng đất, bên trên còn có lỗ để xỏ dây thừng nữa. Chúng nhân lại chia nhau tìm kiếm, tìm thêm được bảy tổ cọc gỗ như vậy ở xung quanh đó.
Bạch Văn Nguyên hân hoan nói: “Chỗ này tuy rộng tới mười trượng, nhưng thủy lưu lại rất hiền hòa, là nơi thích hợp nhất để qua sông”.
Tuyên Vĩnh dõi mắt nhìn sang bờ bên kia, cười cười nói: “Dám chắc trong khu rừng kia phải có trên trăm chiếc thùng gỗ lớn, chỉ cần dùng dây thừng nối chúng lại, rồi đặt thêm mộc bản lên trên là thành cầu nổi rồi, không cần đến một canh giờ, bọn chúng có thể làm được tám chiếc như vậy”.
Khấu Trọng nói: “Đáp án ở ngay trước mắt, chúng ta qua xem thử là biết ngay”.
Từ Tử Lăng nói: “Cần nhất là phải ép chúng vội vàng qua sông, bằng không nếu để tặc binh bày trận bên bờ sông hoặc sai người lên chỗ cao quan sát thì chúng ta khó mà đột kích được”.
Khấu Trọng thở dài: “Vậy thì phải xem mỹ nhân trường chủ của chúng ta có chịu ngoan ngoãn nghe lời hay không rồi”. Nói đoạn gã liền quay sang bảo Tuyên Vĩnh: “Đêm nay chúng ta sẽ chuyển quân ra đây, đồng thời chuẩn bị mọi thứ cho thật ổn thỏa. Bây giờ hãy qua sông trước xem thử, sau khi khẳng định có cầu nổi, ta và Văn Nguyên sẽ đi nghênh tiếp đại quân của Phi Mã Mục Trường, còn Tiểu Vĩnh và Lăng thiếu gia lưu lại đây chờ tin tức”. Kế đó gã cười cười nói: “Làm nhiều chuyện bất nghĩa thì sẽ tự diệt vong! Lũ ác tặc kia, lần này là ông trời muốn thu thập các ngươi, Khấu Trọng này chỉ là kẻ chấp hành thôi!”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

276#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 04:12:20 | Chỉ xem của tác giả
Hồi 263

Thừa Cơ Truy Kích


Được Bạch Văn Nguyên dẫn đường, Khấu Trọng cuối cùng cũng gặp được tàn binh của Tào Ứng Long hoảng loạn tháo chạy về phía Chương Thủy. Hai người nấp ở lưng chừng núi quan sát tình hình quân địch.
Cho tới tận lúc này, gã mới có thể thực sự thở phào nhẹ nhõm, có thể khẳng định rằng mình đã tính toán không sai, sau khi biết được Tiêu Tiễn phá vỡ minh ước, Tào Ứng Long đã lập tức bỏ không công thành, chạy về Phong Hương Thành.
Đại quân của mục trường cũng ở cách đó không xa.
Đúng theo ước định, sau khi Tào Ứng Long triệt thoái, đại quân của mục trường lập tức xuất động, đuổi sát phía sau.
Dưới ánh trăng nhàn nhạt, kỵ đội của lũ tặc khấu giống như một con rắn dài trường qua thảo nguyên.
Bạch Văn Nguyên nói: “Đại đa số tặc khấu đều là bộ binh, kỵ binh không đến bảy ngàn người, khi gặp phải sự cố, kỵ binh sẽ tranh đường chạy trước, bỏ lại bộ binh ở sau”.
Song mục Khấu Trọng sáng rực lên, trầm giọng nói: “Yếu quyết của việc dùng binh, trước tiên là phải thăm dò tình hình địch, cái này gọi là tri bỉ. Có câu thừa nghi khả vấn, thừa lao khả cung, thừa cơ khả khốn, thừa phân khả đồ, thừa hư khả lược, thừa loạn khả cử, thừa kỳ vị trí khả náo, thừa kỳ vị phát khả chế, thừa kỳ ký thắng khả kiếp, thừa kỳ ký bại khả truy. Chúng ta đã dùng một chiêu “thừa nghi khả vấn” phá hoại liên minh tam giác của chúng, khiến cho bốn vạn đại quân của Tào Ứng Long biến thành lũ chuột trốn chui trốn nhủi, lần này lại dùng thêm một chiêu thừa bại khả truy, đánh cho bọn chúng không còn manh giáp”.
Bạch Văn Nguyên khâm phục nói: “Đây đúng là yếu chỉ của binh pháp, Thiếu Soái quả là tài cao bắc đẩu”.
Khấu Trọng làm sao có thể nói cho y biết được tất cả những gì y biết đều là đọc từ trong mật kíp của Lỗ Diệu Tử, chỉ đành ậm ừ cho qua.
Bạch Văn Nguyên lại tiếp tục tán thưởng: “Chiêu lợi hại nhất của Thiếu Soái chính là uy hiếp Đổng Cảnh Trân hoảng loạn dẫn theo hai ngàn thủ hạ vội vàng trở về Di Lăng trong khi tay không tấc sắt, lương thực không đủ, muốn không về Di Lăng cũng không được. Chuyện này chắc chắn sẽ không giấu được Chu Xán, lại càng khiến hắn tưởng rằng Đổng Cảnh Trân chính là kẻ đã tiêu diệt hai trại của mình và Tào Ứng Long. Thử hỏi trên đời này có ai tin rằng có người chịu thả hổ về rừng như Thiếu Soái đây chứ? Giờ thì Tiêu Tiễn có trăm cái miệng cũng khó mà biện bạch được. Chu Xán lui binh, Tào Ứng Long cũng chỉ còn một con đường duy nhất này mà thôi”.
Khấu Trọng cười cười nói: “Đổng Cảnh Trân đích thực đã đem chuyện quân tình của Tào Ứng Long và Chu Xán tiết lộ cho ta, y đã làm chuyện hổ thẹn, tự nhiên càng không dám nói rõ với các minh hữu của mình”. Kế đó gã lại cúi đầu quan sát địch nhân, trầm giọng nói: “Chỉ nhìn đội hình của đối phương không chỉnh tề, xe lương thực đều bị bỏ lại phía sau, là biết tinh thần của chúng đã hoang mang tới cực độ rồi. Chỉ cần chúng ta cướp hết xe lương khiến chúng đã mệt nay lại chịu thêm đói khát, bọn chúng sẽ từ loạn biến thành tán, chỉ có thể vong mạng chạy về phía Chương Thủy, hy vọng có thể qua sông càng sớm càng tốt, như vậy chúng ta sẽ có cơ hội hành động”.
Nói đoạn liền thúc ngựa quát lớn: “Đi thôi!”.
Từ Tử Lăng và Tuyên Vĩnh tuần thị trong quân doanh, thấy có hơn trăm người đang làm người rơm, thì ngạc nhiên nói: “Bện người rơm để làm gì vậy?”.
Tuyên Vĩnh đáp: “Đây gọi là bày nghi trận, do chúng ta người ít, rất khó có thể chặn được cả vạn tên tặc khấu đang hoảng loạn tháo chạy, cách duy nhất là dùng số ít binh sĩ lẫn với người cỏ ở một số địa điểm chiến lược, giả bộ thanh thế hùng hậu, bức địch nhân chỉ dám chạy về những nơi có vẻ ít người, nhưng sự thực thì hoàn toàn ngược lại, vừa hay lọt vào cạm bẫy của chúng ta”.
Từ Tử Lăng gật đầu tán thưởng: “Hảo kế!”.
Đến bên bờ sông, hơn ngàn binh sĩ đang đào chiến hào, lại còn đào cả hố cản bước ngựa, bên dưới có chông nhọn, bên trên phủ cỏ và bùn đất.
Tuyên Vĩnh mỉm cười giải thích: “Những cạm bẫy này đều nhằm vào địch nhân đang hoảng loạn tháo chạy, thêm vào đối phương không ngờ chúng ta mai phục ở đây, khẳng định sẽ không thể thoát nạn”.
Từ Tử Lăng dừng bước, dõi mắt nhìn sang bờ bên kia, trầm giọng nói: “Đại chiến trước mắt, Tuyên huynh có cảm nghĩ gì không?”.
Tuyên Vĩnh bước lên đứng song song với gã, thở dài nói: “Từ sau khi đại long đầu bị Lý Mật hãm hại, tại hạ đã tưởng rằng mình không còn hy vọng bước ra sa trường nữa! Thật không ngờ lại được Thiếu Soái đề bạt, không những có thể báo cừu tuyết hận cho đại long đầu mà còn có thể thi triển sở trường. Càng ở cùng Thiếu Soái lâu, tại hạ lại càng cảm thấy bội phục, không chỉ vì võ công cơ trí, hoặc kiến thức hùng tài, mà điểm Thiếu Soái khiến người ta phải tâm phục khẩu phục nhất chính là con người, tại hạ chưa từng hoài nghi Thiếu Soái có gì phải cố kỵ mình. Hơn nữa, chuyện gì không có khả năng thực hiện, khi đến tay Thiếu Soái cũng đều biến thành có khả năng, giống như là nước lên thì thuyền lên vậy. Được ở bên cạnh người, đúng là vô cùng kích thích và thú vị”.
Từ Tử Lăng thầm nhủ, đây chính là mị lực của Khấu Trọng, cũng là thứ vốn lớn nhất để tranh giành thiên hạ của gã.
Tiếng vó ngựa rầm rầm vang động cả góc trời, dưới ánh nắng mặt trời oi ả của buổi chiều, một vạn kỵ binh tinh nhuệ của Phi Mã Mục Trường tràn lên như nước lũ.
Khấu Trọng và Bạch Văn Nguyên liền thúc ngựa lao xuống sườn dốc nghênh đón.
Trong tiếng tù và hiệu lệnh, hai ngàn quân tiên phong của mục trường do nhị chấp sự Liễu Tông Đạo và Lạc Phương dẫn đầu từ từ dừng lại.
Con mắt duy nhất của Liễu Tông Đạo ánh lên vẻ nhiệt thành, từ xa đã cười lớn nói: “Trọng huynh đệ thật lợi hại, chỉ trong một năm ngắn ngủi, mà huynh đệ đã trở thành Thiếu Soái danh chấn thiên hạ rồi”.
Khấu Trọng thúc ngựa đi đến bên cạnh y, vươn người sang ôm lấy hai vai y rồi cười cười đáp lại: “Chỉ là một chút hư danh, đâu đáng được Liễu thúc khen ngợi chứ, trường chủ có phải đang ở trung quân phía sau không?”.
Liễu Tông Đạo mỉm cười: “Trường chủ tới rồi!”.
Chỉ thấy quân tiên phong tản ra hai bên, tạo thành một thông đạo, cùng lúc đó toàn bộ đều bạt kiếm hô vang “trường chủ vạn tuế”, sĩ khí trào dâng tới cực điểm.
Ở đầu kia của thông đạo, Thương Tú Tuần vận khôi giáp sáng ngời anh khí lẫm liệt, cưỡi trên một con chiến mã lông trắng như tuyết, không pha chút tạp sắc phóng tới, áo choàng màu vàng tươi tung bay trong gió, trông như một nữ chiến thần trên thượng giới mới hạ phàm vậy.
Tốc độ của con ngựa nàng đang cưỡi hiển nhiên là cực nhanh, các tướng lĩnh phía sau do quản gia Thương Chấn dẫn đầu phải đuổi theo vô cùng vất vả.
Khấu Trọng bị sắc đẹp của nàng làm cho ngây người, chỉ biết tròn mắt há hốc miệng ra nhìn.
Thương Tú Tuần kỵ thuật cao minh, càng chạy càng nhanh, chỉ trong nháy mắt đã tới gần chỗ Khấu Trọng, miệng hô vang: “Khấu Trọng ngươi có phải đang cưỡi ngựa quý của Khiết Đan không, chúng ta thử cước lực một phen nào!”.
Khấu Trọng còn chưa kịp phản ứng, Thương Tú Tuần đã lướt qua giữa gã và Liễu Tông Đạo.
Gã thấy vậy hào khí bất giác cũng dâng lên, kêu lên một tiếng “Hảo!” rồi quay ngựa đuổi theo nàng.
Liễu Tông Đạo, Bạch Văn Nguyên, Lạc Phương đợi cho bọn Thương Chấn tới nơi rồi mới dẫn đại quân đuổi theo hai người đã biến thành hai điểm nhỏ ở phía xa xa.
Thương Tú Tuần chạy một mạch hơn năm mươi dặm đường rồi mới dừng lại trên một ngọn đồi, Khấu Trọng bị bỏ lại phía sau chừng nửa dặm, lúc gã đến bên cạnh nàng, thì đại quân của mục trường vẫn còn cách xa chừng mười dặm.
Thái Dương đã lặn xuống phía sau rặng núi phía Tây, những tia sáng còn sót lại nhuộm đỏ cả đường chân trời.
Thương Tú Tuần ngồi trên lưng ngựa, nheo mắt nhìn về phía trước, chậm rãi nói: “Ngươi giỏi lắm!”.
Khấu Trọng có cố ý thở hổn hển đáp: “Ngựa của trường chủ nhanh thật!”.
Đôi mắt đẹp của Thương Tú Tuần quay sang nhìn gã, mỉm cười nói: “Ta không phải nói chuyện đó, lấy ngựa luận ngựa, thì cho dù là bảo mã Khiết Đan cũng không thể bì kịp được giống ngựa đã được ta cải tạo”.
Khấu Trọng cũng cười cười hỏi lại: “Vậy trường chủ nói về chuyện gì vậy?”.
Thương Tú Tuần nhìn thẳng vào mắt gã: “Ngươi biết ta gặp nạn, lập tức bất chấp tất cả đến đây, lại khéo dùng diệu kế phá được âm mưu của bọn Chu Xán, Tào Ứng Long và Tiêu Tiễn, sau khi gặp người ta, lại không ra vẻ mới lập đại công, ta nói là nói chuyện đó, ngươi có hiểu không?”.
Khấu Trọng tỏ vẻ oan ức nói: “Mỹ nhân trường chủ nàng nghĩ Khấu Trọng là hạng người gì chứ? Ta tôn kính ái mộ trường chủ còn chẳng kịp nữa là, làm sao dám làm bộ làm tịch cơ chứ?”.
Thương Tú Tuần bật cười khúc khích, tựa như một đóa hoa chớm nở, ánh mắt lại dịch ra phía trước, hồn nhiên nói: “Đã lâu lắm rồi ta không được ai xưng hô như vậy, không ngờ lại có chút cảm giác mới mẻ. Hà! Như vậy đi, sau khi phá xong lũ tặc khấu Tào Ứng Long, ta sẽ thưởng cho ngươi một vạn con chiến mã thượng đẳng, để cho ngươi tung hoành thiên hạ, nhất thống giang sơn, thế có được không?”.
Khấu Trọng lắc đầu nói: “Như vậy không đúng với quy củ của mục trường, lại khiến người ta hiểu lầm, tưởng rằng trường chủ cũng tham gia vào vòng xoáy phân tranh này, chi bằng đợi sau khi ta đào được Dương Công Bảo Khố, sẽ lấy vàng thật bạc thật đến mục trường mua ngựa, như vậy thì không ai dám nói trường chủ câu nào nữa”.
Thương Tú Tuần khẽ nhún vai, thần thái yêu kiều nói: “Ngươi đã thích vậy thì Tú Tuần cũng vui vẻ nghe lời thôi”.
Nói đoạn nàng liền quay mặt sang, nhìn gã với ánh mắt dạt dào tình cảm: “Không gặp một năm, tên tiểu tử ngươi đã anh tuấn khí khái hơn trước rất nhiều rồi, cái tên Thiếu Soái đó đặt rất hay, rất thích hợp với ngươi”.
Trong lòng Khấu Trọng chợt dâng lên một cảm giác hết sức kỳ lạ, thậm chí là muốn ôm lấy nàng vào lòng. Từ sau khi thất bại với Lý Tú Ninh và Tống Ngọc Trí, gã chưa từng có cảm giác động tâm với nữ tử như vậy.
Đại quân của mục trường đã tới bên dưới chân đồi, các tướng lĩnh rời khỏi đội ngũ lên hội hợp với Khấu Trọng và Thương Tú Tuần trên đỉnh đồi, có điều các cựu tướng của Độc Bá Sơn Trang như Phùng Ca, Phùng Hán đều lưu lại phòng thủ Đương Dương và Viễn An, không ai tùy hành.
Khấu Trọng gặp lại Phức đại tỷ, Hứa Dương, Lương Khiêm, Ngô Triệu Như, trong lòng cảm thấy phấn chấn vô cùng.
Đại chấp sự Lương Trị phụ trách tọa trấn mục trường nên cũng không tới.
Thương Tú Tuần khách khí mấy câu với Bạch Văn Nguyên rồi quay sang hỏi Khấu Trọng: “Trời đã tối, hay là chúng ta hạ trại nghỉ ngơi, đến bữa cơm sẽ cùng nghiên cứu xem nên truy kích lũ tặc binh kia như thế nào?”.
Khấu Trọng lắc đầu nói: “Thời cơ đã ở ngay trước mắt, chỗ cao minh của Tào Ứng Long chính là ban ngày kết thành trận để đợi chúng ta tới, giả như chúng ta có thể đuổi kịp, hắn cũng nhân lúc binh mã quân ta đang mệt mỏi mà lợi dụng ưu thế về binh lực để phản kích. Đến đêm khi chúng ta hạ trại nghỉ ngơi, hắn mới toàn tốc hành quân, phương pháp đêm ngày đảo điên này, giúp hắn ở vào thế bất bại. Vì vậy nếu chúng ta muốn thắng, thì phải hành quân trong đêm, cướp lương thảo của chúng trước, làm chúng rối loạn tâm trí, khiến cho chúng tán loạn đội hình mà tháo chạy về phía Chương Thủy, như vậy mới có cơ hội một đòn diệt sạch toàn bộ lũ ác khấu này, trừ hại cho dân”.
Thương Tú Tuần và mọi người đều gật đầu đồng ý, nhưng cũng lộ vẻ ngần ngại.
Thương Tú Tuần nói: “Chúng ta đã đuổi ba ngày liền, người ngựa đều mệt mỏi, cho dù người có thể gắng gượng được thì ngựa cũng không cố được”.
Khấu Trọng vỗ ngực mỉm cười nói: “Chỉ cần người trụ được là được rồi, ta sớm đã có chuẩn bị, trên đường có bốn ngàn con chiến mã thượng đẳng cướp được từ địch nhân cho chúng ta thay đổi, tiện lợi như đổi ngựa ở dịch trạm vậy”.
Bạch Văn Nguyên tiếp lời: “Chúng ta còn cách địch nhân một ngày mã trình, nếu có thể thuận lợi đổi ngựa, thì đêm mai có thể đuổi kịp chúng, triển khai đột kích”.
Chúng nhân đều phấn trấn tinh thần, càng thêm bội phục Khấu Trọng thâm mưu viễn lự.
Thương Tú Tuần lườm Khấu Trọng một cái đầy tình tứ, cười cười nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi đúng là lắm mưu nhiều kế”.
Kế đó nàng lại nghiêm mặt hạ lệnh cho Thương Chấn đích thân chọn ra một ngàn hảo thủ giỏi dạ hành và kỵ thuật, đợi lệnh chuẩn bị xuất phát.
Chúng nhân vội vàng nhân lúc này xuống ngựa cho lũ ngựa ăn cỏ uống nước, trong lúc những kẻ thông thuộc địa hình như Bạch Văn Nguyên, Liễu Tông Đạo và Lạc Phương nghiên cứu lộ tuyến hành quân, thì Khấu Trọng và Thương Tú Tuần lại đi sang một bên nói chuyện.
Vị trường chủ xinh đẹp này đột nhiên hỏi tới Từ Tử Lăng, Khấu Trọng bèn cười cười nói: “Hắn cũng nhớ nhung trường chủ như ta vậy”.
Thương Tú Tuần tỏ vẻ không hài lòng nói: “Tính nói năng bừa bãi của ngươi vẫn không thay đổi, một đi thì như hoàng hạc đi mãi không về, người ta chỉ có thể biết được tình hình của các ngươi từ những người lai vãng mà thôi, thật là...”.
Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Tại sao lại thở dài chứ?”.
Đôi mắt đẹp của Thương Tú Tuần nhìn vào khoảng không thăm thẳm, nhẹ giọng nói: “Ngươi làm cho Tú Tuần cảm thấy rất khó xử. Xưa nay quan hệ của chúng ta và Lý phiệt vốn rất tốt, Lý Tú Ninh lại là bạn khuê phòng từ nhỏ với ta. Bọn họ trù mưu ứng phó với chuyện bọn Lưu Vũ Châu mua ngựa của người Đột Quyết, nên tỏ ý hy vọng ta có thể nuôi được loại ngựa tốt nhất để cung ứng định kỳ cho họ, ngươi bảo ta phải làm sao đây?”.
Khấu Trọng tỏ vẻ thương xót nói: “Làm sao ta nỡ để trường chủ khó xử chứ, nếu trường chủ có một trăm con ngựa, thì hãy bán cho ta và Lý tiểu tử mỗi người năm mươi, như vậy thì Lý Tú Ninh sẽ không trách gì được nàng nữa”.
Thương Tú Tuần ngạc nhiên nhìn gã, khẽ nhíu đôi mày liễu hỏi: “Khấu Trọng ngươi rốt cuộc là hạng người thế nào? Có phải thật sự vì ta không? Hay là ngươi đã có kế sách khác? Ta thật không thể nào hiểu được ngươi”.
Khấu Trọng cười khổ nói: “Ta có lúc là hồ ly ranh mãnh, có lúc lại là con lợn ngốc, chính bản thân mình còn không hiểu nổi nữa là nàng. Nhưng có một chuyện ta có thể khẳng định, đó chính là bất luận thế nào ta cũng không thể làm được những chuyện gây tổn hại đến người mà mình yêu quý. Trong trường đại quyết đấu mà mục tiêu là xưng bá thiên hạ này, ta chỉ có một phần mười cơ hội, còn Lý tiểu tử thì ít nhất cũng chiếm sáu phần trong chín phần còn lại, ba phần kia lại phân làm đôi, Đậu Kiến Đức chiếm hai phần, Đỗ Phục Uy và Tiêu Tiễn chia nhau một phần. Vì vậy trường chủ tuyệt đối không nên nghiêng hẳn về phía ta, bằng không hậu quả sẽ rất khó lường đó”.
Thương Tú Tuần động dung nói: “Chỉ có nhân vật anh hùng chân chính mới nói ra được những lời như vậy. Ngươi đã biết phần thắng không được bao nhiêu, tại sao còn không quy phục Lý gia chứ?”.
Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Nếu Khấu Trọng ta chịu cam tâm tình nguyện làm nô tài chó săn cho kẻ khác, thì ta còn là Khấu Trọng nữa sao?”.
Thương Tú Tuần áy náy nói: “Ta chỉ là nhận sự ủy thác của người khác, truyền đạt câu nói đó cho ngươi thôi! Sớm đã biết ngươi không nghe rồi!”.
Khấu Trọng ngẩn người: “Lý Tú Ninh?”.
Thương Tú Tuần khẽ gật đầu, nhẹ giọng nói: “Nàng còn có một phong thư nhờ ta giao cho ngươi, đang ở trong mình ta đây này”.
Khấu Trọng trầm mặc hồi lâu, rồi chậm rãi nói: “Thay ta xé nó đi được không?”.
Từ Tử Lăng đứng bên bờ sông, đột nhiên nghĩ lại cái chết khiến người ta trở tay không kịp của Tố Tố, trong lòng lại quặn đau. Cuối cùng thì tịch dương cũng biến mất sau rặng cây bên bờ đối diện.
Nếu như nói cái chết của Phó Quân Sước làm gã từ một đứa trẻ trưởng thành thành người lớn, vậy thì cái chết của Tố Tố, lại làm cho gã thay đổi hoàn toàn cách nhìn về sinh mạng.
Đời người chỉ có mấy chục năm ngắn ngủi, vậy người ta sống để làm gì?
Lúc này Tuyên Vĩnh đến sau lưng gã báo cáo: “Tào Ứng Long quả nhiên là chạy về hướng này, đêm mai sẽ tới đây”.
Từ Tử Lăng từ trong suy tư giật mình tỉnh lại, trở về với hiện thực vô tình, trầm ngâm đáp: “Nếu đại quân của mục trường vì một lý do nào đó mà không thể phối hợp với chúng ta, địch nhân có thể qua sông trong tình trạng phòng bị nghiêm mật, thì chúng ta vẫn có thể đột kích chứ?”.
Tuyên Vĩnh nói: “Chỉ có năm phần cơ hội, thành bại khó đoán, tất cả phải xem bọn Tào Ứng Long phản kích thế nào mới biết được, lúc đó sẽ phải nhờ đến Từ gia đưa ra quyết định”.
Từ Tử Lăng thầm nhủ Khấu Trọng quả là biết tiến cử người, đặt gã vào thế phải quyết định sinh tử của cả ngàn người, đành cười khổ nói: “Huynh có tư cách quyết định hơn ta mà”.
Tuyên Vĩnh tự tin vỗ ngực nói: “Từ gia yên tâm, Thiếu Soái nhất định có cách khiến cho bọn Tào Ứng Long phải qua sông trong tình trạng rối loạn mà”.
Từ Tử Lăng thầm nhủ chỉ là do Tuyên Vĩnh xưa nay chưa từng thấy Khấu Trọng thảm bại bao giờ nên mới có lòng tin như vậy.
Sự thực thì trước khi đại phá Lý Mật, bọn gã cũng không có mấy chuyện gọi là thành công. Chuyện xảy ra với Tố Tố chính là hậu quả của một chuỗi những thất bại liên tiếp khi đó.
Nếu hôm đó bọn gã không gặp Hương Ngọc Sơn trên phố, hỏi thăm y đường đến kỹ viện, thì Tố Tố sẽ không đến nỗi phải u uất mà chết. Nghĩ sâu hơn nữa, nếu nàng không gặp Lý Tịnh thì có phải càng mỹ mãn hơn không?
Đáng tiếc là cuộc sống thực tế không có “nếu”, giống như ông trời có một đôi tay vô hình kéo mọi người lại với nhau, gây nên ân oán tình cừu, đan chéo vận mệnh của họ với nhau thành một tấm lưới khổng lồ vậy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

277#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 04:15:49 | Chỉ xem của tác giả
Hồi 264

Hoa Gián Tà Phái


Sau khi trời sáng, nhờ Bạch Văn Nguyên dẫn dường, Khấu Trọng và Thương Tú Tuần xuất lãnh tinh binh của mục trường cuối cùng đã tìm đến tiểu cốc đổi ngựa, chiến mã được hơn mười binh sĩ của Thiếu Soái coi sóc, không con nào là không ở trạng thái sung sức nhất, so với những con chiến mã đã sức cùng lực kiệt mà họ đang cưỡi, thật sự là khác nhau một trời một vực.
Sau khi Khấu Trọng và Bạch Văn Nguyên tính toán cự ly và thời gian, liền quyết định nghỉ ngơi nửa canh giờ rồi mới xuất phát. Chúng nhân như được hoàng ân mưa móc, nỗi khổ đi cả một đêm quả thật không biết nói cùng ai, được lệnh nghỉ ngơi liền lập tức nằm la liệt cả tiểu cốc. Để cho ngựa được nhẹ nhàng, bọn họ đã cởi yên cương, binh tướng cũng bỏ lại khôi giáp, nên dù ngồi hay nằm cũng vô cùng thoải mái.
Khấu Trọng thì đến bên dòng suối nhỏ trong tiểu cốc vốc nước rửa mặt, uống liên tiếp mười mấy ngụm nước lớn, thống khoái vô cùng.
Thanh âm mềm mại du dương của Thương Tú Tuần vang lên phía sau gã: “Rốt cuộc ngươi có chịu nhận thư để ta hết trách nhiệm hay không?”.
Khấu Trọng vục cả đầu xuống nước, không đáp. Thương Tú Tuần thấy vậy bèn lại gần gã, một tay chộp lấy bối tâm, một tay cầm lá thư nhét vào cổ áo gã.
Khấu Trọng “ôi cha” một tiếng, rồi đứng dậy gào lên: “Khổng lão phu tử có dạy, phi lễ vật động, lại có người nói nam nữ thọ thọ bất thân, mỹ nhân trường chủ nàng bỏ hết mọi quy củ lễ pháp như vậy, xem ra Khấu Trọng ta sau này cũng không cần giữ quy củ với nàng nữa đúng không”.
Thương Tú Tuần lùi lại ba bước, tròn mắt lên nhìn gã luống cuống cho tay vào cổ móc lá thư màu vàng nhạt ra, nét mặt như cười mà không phải cười, như giận mà không phải giận. Thấy nước trên đầu gã không ngừng chảy xuống, nàng liền chúm chím chiếc miệng đáng yêu, nhăn mặt tỏ vẻ coi thường nói: “Đối với loại người như ngươi thì cần gì quy củ chứ, nhưng nếu ngươi dám không giữ quy củ với ta, thì ta sẽ lấy gia pháp ra trừng trị đó”.
Ánh mắt Khấu Trọng dừng lại ở bức thư trên tay, thấy bên trên đề mấy sáu chữ hết sức khách khí và giữ khoảng cách: “Khấu Trọng tiên sinh nhã giám”, trong lòng cảm thấy nhói đau, nhưng vẫn cố gắng nở một nụ cười nói: “thì ra mỹ nhân trường chủ đã coi ta là người nhà, chỉ không biết là nàng cho ta thân phận gì vậy? Hơn nữa nếu trường chủ đích thân chấp hành gia pháp với ta thì còn gì bằng, hì hì, cảm giác mà ngọc thủ của nàng chạm vào cổ ta, e rằng cả đời này ta cũng không quên được”.
Thương Tú Tuần đỏ bừng mặt, tức giận nói: “Nếu ngươi còn hồ ngôn loạn ngữ nữa, ta sẽ lập tức dẫn binh mã trở về mục trường, không thèm để ý đến ngươi nữa”.
Khấu Trọng trầm ngâm giây lát, rồi lấy phong thư nhét chung vào một chỗ với cuốn sách của Lỗ Diệu Tử, cất vào trong mình, sau đó chán nản ngồi xuống một tảng đá lớn bên cạnh bờ suối, chỉ tay vào tảng đá đối diện nói: “Ngồi xuống nói chuyện một lát được không?”.
Khi Thương Tú Tuần vui vẻ ngồi xuống, Khấu Trọng liền lấy lương khô ra đưa cho nàng, mỉm cười nói: “Xin trường chủ nể mặt, thần thái lúc nàng ăn là đẹp nhất trên thế gian này đó”.
Thương Tú Tuần đón lấy miếng lương khô của gã, cười hì hì hỏi: “Làm sao mà đẹp chứ? Chỉ có ngươi mới nói vậy thôi”.
Khấu Trọng sớm đã hiểu rõ tính cách của nàng, tuy thích cao cao tại thượng, nhưng trong lòng lại hết sức khô khan và tịch mịch, nghĩ ngợi giây lát rồi dịu dàng nói: “Như lúc ta đây ăn, chỉ là hổ lốn đổ vào bụng cho no là xong, nhưng lúc trường chủ ăn, thần tình lại đáng yêu vô cùng, vừa tràn đầy vẻ hiếu kỳ tìm hiểu, lại như muốn ăn mà không nỡ nếu là mỹ thực thì lại càng trân trọng, tư thái lúc ăn lại càng đẹp hơn bội phần, còn mang theo vẻ ngây thơ thuần chất của nữ hài tử nữa. Ôi! Rốt cuộc nàng có chịu ăn cho ta xem hay không, hay là để ta phải động thủ ép nàng hả? Nếu ta mà làm được vậy, nhất định sẽ còn vinh dự hơn cả nhất thống được thiên hạ nữa. Hà, chi bằng nàng lấy ta về làm chồng đi, như vậy ngày nào ta cũng sẽ làm đồ ngon cho nàng ăn!”.
Thương Tú Tuần ôm bụng cười ngất, nhẹ giọng mắng: “Lúc nhàn rỗi vô sự tìm ngươi giải buồn đúng là một chuyện hay, chuyện gì cũng bị ngươi nói cho loạn hết cả lên, làm gì có chuyện muốn ăn lại không nỡ chứ? Với lại làm gì có chuyện nữ nhân lấy nam nhân về chứ, ngươi tưởng ta là Đông Minh công chúa chắc?”.
Khấu Trọng thấy nàng cười như nắc nẻ, lại không hề để bụng câu nói đùa của gã, thì lấy làm vui vẻ nói: “Mỹ nhân trường chủ khuê môn bất xuất, vậy mà cả chuyện nam gả cho nữ ở Đông Minh Phái cũng không giấu được nàng, đúng là thần thông quảng đại”.
Thương Tú Tuần rõ ràng là rất vui vẻ, đắc ý dương dương lườm gã một cái nói: “Đừng quên rằng Lỗ Diệu Tử rất thích nói chuyện với mẹ ta khi đánh cờ, mà mẹ ta thì thích nhất là kể những chuyện kỳ lạ quái dị mà lão nói cho ta nghe”.
Khấu Trọng động tâm nói: “Trường chủ có biết Tà Phái Bát Đại Cao Thủ không?”.
Thương Tú Tuần ưỡn ngực lên, kiêu ngạo nói: “Đương nhiên là biết”.
Khấu Trọng cười hì hì nói: “Ta đang tìm hiểu về chuyện này, mau nói ra thử xem nào”.
Thương Tú Tuần cười cười ngẩng đầu lên, ra vẻ suy nghĩ rồi chậm rãi đáp: “Người trong tà đạo hành sự bí hiểm khôn lường, vì vậy những người biết chuyện này quả thật hiếm vô cùng, cho dù là cao thủ xuất thân trong lưỡng phái lục đạo của ma môn cũng tìm thiên phương bách kế để ẩn giấu xuất thân lai lịch của mình, tránh để những kẻ tự cho mình là người trong chính đạo bao vây tấn công”.
Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Cái gì là lưỡng phái lục đạo chứ?”.
Thương Tú Tuần đáp: “Lưỡng phái chính là Âm Quý Phái và Hoa Gián Phái...”.
Khấu Trọng càng thêm ngạc nhiên: “Hoa Gián Phái, cái tên này có vẻ tương đối dễ nghe, nhưng ta chưa từng nghe ai nhắc đến cả”.
Thương Tú Tuần nói: “Lưỡng phái xưa nay đều do Âm Quý Phái đứng đầu, nhưng đó hoàn toàn không phải vì Hoa Gián Phái không bằng Âm Quý Phái, mà chỉ vì Hoa Gián Phái mỗi đời chỉ truyền có một người. Vì vậy thân phận vô cùng bí mật, cả người trong ma môn cũng không biết được ai là truyền nhân của Hoa Gián Phái”.
Khấu Trọng không hiểu nói: “Giả như truyền nhân này vì luyện công sai đường mà chết đi, hoặc giả đột nhiên bạo tử, vậy thì không phải sẽ thất truyền hay sao. Tuy chuyện này rất hiếm gặp, nhưng năm rộng tháng dài, thế nào cũng khó tránh khỏi”.
Thương Tú Tuần bực bội nói: “Ngươi giỏi nhất là bới móc chuyện vớ vẩn, người ta tự nhiên phải có cách phòng ngừa chứ! Bọn họ có một người gọi là Hộ Pháp Tôn Giả, chuyên trách bảo tồn bút ký tâm đắc của truyền nhân các đời và kinh điển trong phái, để bảo đảm cho Hoa Gián Phái không bị tuyệt truyền”.
Khấu Trọng cười khổ nói: “Vậy thì không phải mỗi đời chỉ có một truyền nhân, mà phải ít nhất là hai người. Nàng đừng bảo ta nói mát đấy nhé!”.
Thương Tú Tuần nói: “Ngươi chẳng hiểu gì hết cả! Hộ Pháp Tôn Giả này không phải là người trong Hoa Gián Phái, chỉ là thay mặt bảo quản điển tịch mà thôi. Nói một cách nghiêm khắc, thì người này chỉ biết được nơi cất giấu điển tịch mà thôi, hơn nữa còn phải là nữ nhi nữa. Bởi vì võ công của Hoa Gián Phái chỉ nam nhân mới có thể luyện được, nếu nữ tử miễn cưỡng tu luyện, tất sẽ rước họa vào thân”.
Khấu Trọng nghe mà tròn mắt há hốc miệng ra: “Hoa Gián Phái này thật là cổ quái, truyền nhân của nó chắc nhất định sẽ là quái nhân quái dị. Ôi! Trường chủ thật đẹp!”.
Mặt trời mọc lên phía sau lưng Thương Tú Tuần, bao bọc nàng trong ánh dương quang rực rỡ, làm cho vẻ đẹp của nàng tăng lên gấp bội, khiến Khấu Trọng không kìm nén nổi mà buột miệng thốt lên.
Thương Tú Tuần khẽ nhíu mày nói: “Đừng nói lảng sang chuyện khác nữa, truyền nhân của Hoa Gián Phái không phải là trời sinh ra đã cô độc, mà là theo đuổi sự cô độc, bởi vì Hoa Gián Phái có một tín niệm, chính là quan hệ giữa người với người đều là dư thừa và chẳng hề có ý nghĩa gì. Đó chính là tư tưởng “lão tử bất tương vãng lao” của Lão Tử Lý Nhĩ được suy diễn thêm một bước”.
Khấu Trọng lấy làm hứng thú hỏi tiếp: “Tư tưởng cực đoan mà lại lấy một cái tên ướt át như vậy, đúng là quái dị. Trường chủ có biết truyền nhân đời này của Hoa Gián Phái là ai không? Có phải cũng là một trong tà phái bát đại cao thủ không?”.
Thương Tú Tuần nhún vai lắc đầu nói: “Từ đầu ta đã nói là cả người trong ma môn cũng không biết mà, huống hồ người kể chuyện này cho ta lại không phải là người trong ma môn nữa. Có điều, Lỗ Diệu Tử thì đoán truyền nhân đời trước chính là người đã làm cho Bích Tú Tâm của Từ Hàng Tịnh Trai phải động phàm tâm, Thạch Chi Hiên. Bởi vì đệ tử Hoa Gián Phái đời nào cũng giống công tử quyền quý, tuấn tú phong lưu, như vậy mới có thể chao lượn giữa muôn hoa, lấy vô tình đối hữu tình, làm thương tâm hết thảy nữ tử trong thiên hạ. Hừ, sắc mặt ngươi sao lại trở nên khó coi như thế chứ?”.
Khấu Trọng hít sâu một hơi: “Ta biết truyền nhân đời này của Hoa Gián Phái là ai rồi”.
Lúc Từ Tử Lăng và Tuyên Vĩnh thúc ngựa tuần thị bên bờ Đông Chương Thủy, quá nửa đều đã đến giai đoạn hoàn thành, hi vọng trước khi địch nhân tới, có thể tranh thủ chút thời gian nghỉ ngơi. Hai người đứng trên đồi cao, dõi mắt nhìn quanh tứ bề. Tuyên Vĩnh đột nhiên hỏi: “Từ gia đang tuổi tráng niên, đúng ra phải là lúc nam nhi chí tại bốn phương, tại sao lại có ý thoái ẩn, nếu ngài đồng ý trợ giúp Thiếu Soái, thiên hạ anh hùng thử hỏi còn ai có thể tranh phong với hai vị nữa?”.
Từ Tử Lăng phóng mắt ngắm nhìn thủy sắc sơn quang, dưới bóng cây rậm rạp hai bên bờ, dòng sông giống như một dải lụa dài của tiên nữ buông xuống, ngoằn ngoèo trải dài từ nam xuống bắc, tăng thêm tình ý vô hạn cho đại địa, bèn thở dài nói: “Mỗi người đều có lý tưởng và theo đuổi khác nhau, giả như hiện giờ những kẻ tranh thiên hạ đều như Tào Ứng Long, Chu Xán, Tiêu Tiễn, Vương Thế Sung thì ta nhất định sẽ cùng Khấu Trọng kề vai tác chiến đến cùng, nhưng trong quần hùng cũng có những kẻ hiệp nghĩa như Lưu Hắc Thát, Lý Thế Dân, ta không thể đối địch với bọn họ được. Chỉ vì Khấu Trọng là huynh đệ của ta, nên ta mới để mình cuốn vào vòng xoáy tranh đoạt thiên hạ này mà thôi”.
Tuyên Vĩnh gật đầu nói: “Tâm địa của Từ gia đúng là khác với người thường, Lưu Hắc Thát đích thực là một nhân vật, nhưng Lý Thế Dân căn bản không phải là thái tử, cho dù là y đoạt được ngôi vị thái tử, thì dù sao cũng là người xuất thân từ cao môn quý tộc, lúc tranh thiên hạ thì lễ độ kính trọng những kẻ trợ giúp mình, nhưng sau khi được thiên hạ thì sẽ giở thói chim hết cất cung. Những kẻ xuất thân quyền quý, làm sao để ý tới sự sống chết của người dưới chứ”.
Từ Tử Lăng trầm mặc hồi lâu, rồi chậm rãi nói “Chuyện này mỗi người mỗi khác, không phải ta nói tốt cho Lý Thế Dân, mà chỉ nói một cách công bằng mà thôi. Giống như Hán Cao Tổ xuất thân chỉ là một đình trưởng nhỏ bé, sau khi có được thiên hạ, y cũng đại phong thân tộc làm vương, còn đối với các vương hầu được gia phong trong chiến tranh thì tâm lang thủ lạt, đến cả Hàn Tín cũng không tránh khỏi cái chết. Từ điểm này, có thể thấy chuyện này không hề liên quan gì để xuất thân cả”. Kế đó gã lại mỉm cười nói: “Nhưng có một chuyện có thể khẳng định Tuyên huynh đã lựa chọn đúng, đó chính là Khấu Trọng tuyệt đối không phải là hạng người như Lưu Bang”.
Tuyên Vĩnh nói: “Thời Tần Hán vẫn còn chưa xuất hiện cao môn đại phiệt. Bản thân tại hạ cũng từng bị lũ con cháu nhà thế phiệt ức hiếp, gia phụ cũng bị bọn chúng hại đến nỗi phải hàm oan mà chết. Nếu Đại Long Đầu không thu dưỡng, lại truyền cho võ nghệ, Tuyên Vĩnh này làm sao có được ngày hôm nay chứ”.
Từ Tử Lăng gật đầu đồng ý: “Quyền môn thế phiệt đích thực có một thời hoành hành, hại chết không ít người. Tuyên huynh có trí theo Khấu Trọng tranh bá thiên hạ cũng là chuyện tốt. Nam nhi sinh ra vào thời loạn thế, cũng nên làm ra sự nghiệp gì đó”.
Tuyên Vĩnh cao giọng nói: “Đại trượng phu nên lấy việc da ngựa bọc thây làm vinh dự, nếu bảo Tuyên Vĩnh này rụt đầu rụt cổ, tại hạ thà chết oanh liệt trên chiến trường còn hơn, có thể được theo Thiếu Soái đánh dẹp thiên hạ, đúng là chuyện thống khoái nhất trên đời”.
Thái dương đã lên đến giữa trời, chiếu sáng khắp đại địa.
Khấu Trọng chính là vầng mặt trời mới lên kia, nhất định sẽ có một ngày lên đến giữa trời.
Thương Tú Tuần từ phía sau đi lên bên cạnh Bạch Văn Nguyên và Khấu Trọng hỏi: “Theo dấu chân để lại thì tặc binh có lẽ không đi về hướng này đâu”.
Khấu Trọng lui lại một vài bước, đi song song với nàng, rồi giải thích: “Bởi vì ban ngày Tào tặc hạ trại nghỉ ngơi, hiện nay chúng ta chỉ kém chúng nửa ngày lộ trình, chỉ riêng tiếng vó ngựa cũng đủ làm chúng cảnh giác rồi, vì vậy phải đi đường vòng chặn đầu bọn chúng, đến tối khi chúng hành quân, chúng ta mới đột kích cướp lương thảo”.
Thương Tú Tuần hài lòng nói: “Coi như ngươi nói có lý”.
Khấu Trọng rất muốn hỏi thêm nàng về ma môn lưỡng đạo lục phái, nhưng vì phải giở hết tốc lực, nên đành phải tạm thời nén lại trong lòng.
Quá buổi hoàng hôn, bọn họ đã đi được một vòng lớn, từ sơn đạo vòng xuống bình nguyên, đi lên phía trước đoàn quân tặc khấu, nếu không phải có Bạch Văn Nguyên dẫn đường, thì cho dù có nghĩ ra được diệu kế này, cũng khó mà thực hiện được. Bởi vì chỉ cần đi sai một bước thì sẽ lạc đường, làm lỡ mất thời cơ.
Khấu Trọng quyết đoán chọn lấy một ngọn đồi, cho phục binh ẩn nấp phía sau, nằm chờ địch nhân đi qua.
Lúc gã và Thương Tú Tuần lên đỉnh đồi quan sát địa hình, lại thừa cơ hỏi thêm nàng về chuyện của Hoa Gián Phái: “Giả như Thạch Chi Hiên đúng là truyền nhân đời trước của Hoa Gián Phái, Bích Tú Tâm chung tình với y, vậy thì không phải Từ Hàng Tịnh Trai đã bại một trận vô cùng thảm hay sao?”.
Thương Tú Tuần trầm ngâm nói: “Sự tình dường như còn phức tạp hơn ngươi tưởng tượng nhiều, mẹ ta cũng từng nhiều lần thảo luận vấn đề này với Lỗ Diệu Tử. Nghe nói tình hình bên trong thế nào cả Lỗ Diệu Tử cũng không được rõ lắm, chỉ biết Thạch Chi Hiên có thể là cao thủ trác việt hiếm thấy của Hoa Gián Phái, so với Chúc Ngọc Nghiên và Tà Đế Hướng Vũ Điền tuyệt đối không hề thua kém. Ngươi có biết Hướng Vũ Điền là ai không?”.
Khấu Trọng nói: “Cũng vừa mới biết, ta còn biết rằng trên đời này có một thứ cổ quái gọi là Tà Đế Xá Lợi nữa cơ”.
Thương Tú Tuần lấy làm ngạc nhiên nói: “Làm sao ngươi biết được, chuyện này là một trong những chuyện bí mật nhất của Ma Môn, ngay cả người trong môn phái cũng không được nhắc đến mà”.
Khấu Trọng mỉm cười nói: “Ta biết được chuyện này là vì Lăng thiếu gia trong một lần cơ duyên xảo hợp đã gặp được nữ nhi của Bích Tú Tâm và Thạch Chi Hiên, Thạch Thanh Tuyền, bằng không thì cũng đâu biết được sự tồn tại của Tà Phái Bát Đại Cao Thủ mà hỏi trường chủ chứ?”.
Thương Tú Tuần chợt có một cảm giác hết sức kỳ lạ, dường như không thích nghe thấy hai cái tên Từ Tử Lăng và Thạch Thanh Tuyền cùng một lượt vậy, trầm ngâm không nói gì.
Sắc trời trở nên u ám, bầu trời đêm nhiều mây lơ thơ vài ánh sao mờ, mặt trăng vẫn còn chưa chịu lộ diện.
Khấu Trọng hưng phấn nói: “Ta hiểu rồi, không phải từ đầu nàng đã nói người của Hoa Gián Phái lấy vô tình đối đãi tình cảm của thế gian hay sao? Bích Tú Tâm nhất định là đã khiến cho vị cao thủ thiết thạch tâm trường của Hoa Gián Phái này động tình, như vậy coi như đã phá đi ma công của y. Nhưng vấn đề là địch nhân chân chính của Bích Tú Tâm là Chúc Ngọc Nghiên, vì vậy bà ta dùng phương pháp này thắng được Thạch Chi Hiên cũng không có tác dụng gì, thủy chung vẫn bại trong tay Chúc Ngọc Nghiên”.
Thương Tú Tuần cố dẹp bỏ hết những suy nghĩ phiền não ra khỏi đầu, điềm đạm nói: “Bích Tú Tâm đích thực là đã thất bại, công lực sút giảm đáng kể, nhưng đối thủ Âm Quý Phái của bà ta cũng có vấn đề tương tự”.
Khấu Trọng mừng rỡ hỏi: “Chúc Ngọc Nghiên có vấn đề gì?”.
Thương Tú Tuần lắc đầu: “Không phải Chúc Ngọc Nghiên, mà là nữ nhi của Chúc Ngọc Nghiên, vào đêm trước khi bà ta quyết chiến với Bích Tố Tâm, người này đã bỏ ra hải ngoại, làm cho Chúc Ngọc Nghiên tức giận đến suýt chút nữa tẩu hỏa nhập ma. Đó đã là chuyện của hai mươi năm trước rồi!”.
Khấu Trọng giật mình, đưa tay chộp vào khoảng không một cái, rồi nhắm mắt lẩm bẩm: “Ta đoán ra ai là nữ nhi của Chúc Ngọc Nghiên rồi! Hừ, từ sớm ta đã đoán ra rồi. Chẳng trách Biên Bất Phụ lại là phụ thân của nàng ta”.
Thương Tú Tuần tỏ vẻ bất mãn nói: “Lúc nãy thì ngươi nói đã biết truyền nhân đời này của Hoa Gián Phái là ai, đến giờ lại dựa vào mấy câu nói của ta mà đoán được thân phận của nữ nhi của Chúc Ngọc Nghiên, rốt cuộc người đó là ai? Mau nói ra xem nào!”.
Khấu Trọng hít sâu vào một hơi, dần dần khôi phục lại bình tĩnh: “Truyền nhân đời này của Hoa Gián Phái là ai thì ta vẫn chưa dám khẳng định chắc chắn, nhưng rất có khả năng là Đa Tình Công Tử Hầu Hi Bạch. Không biết Thạch Chi Hiên đã chết chưa nhỉ, nếu chưa chết thì lão đang ở đâu?”.
Thương Tú Tuần khẽ chun chun chiếc mũi thanh tú của mình, ra vẻ không vui nói: “Tại sao ngươi không bảo Từ Tử Lăng đi hỏi Thạch Thanh Tuyền, ta làm sao biết được chuyện trong nhà người ta chứ?”.
Khấu Trọng lần đầu tiên cảm nhận được sự ghen tỵ của Thương Tú Tuần với Thạch Thanh Tuyền, ngạc nhiên nhìn chăm chú vào gương mặt xinh đẹp của nàng, rồi phí cười nói: “Tử Lăng và Thạch Thanh Tuyền chỉ là bình thủy tương phùng, rất nhiều chuyện không tiện trực tiếp hỏi dò được”.
Thương Tú Tuần lườm gã một cái rồi cúi đầu nói: “Người ta làm sao biết được quan hệ của họ chứ! Ngươi nói xem nữ nhi của Chúc Ngọc Nghiên rốt cuộc là ai vậy?”.
Khấu Trọng tự tin mười phần đáp: “Ta có thể khẳng định đó chính là Đông Minh Phu Nhân, chỉ là không biết tại sao bà ta lại chịu gả cho kẻ trưởng bối xú danh truyền xa Biên Bất Phụ kia chứ, à không phải gọi là xú danh mật truyền mới đúng. Có điều Biên Bất Phụ đối với Loan Loan yêu nữ cũng có dã tâm nữa, từ điểm này có thể thấy người trong ma môn xưa nay đều không đếm xỉa đến luân thường bối phận, những chuyện không hợp tình hợp lý, đối với bọn chúng mới là chuyện hợp tình hợp lý nhất”.
Nghe Khấu Trọng nhắc đến tên Loan Loan, ánh mắt Thương Tú Tuần sáng rực lên ngọn lửa cừu hận, trầm giọng nói: “Các ngươi nhất định phải giúp ta giết chết con yêu nữ đó để báo mối huyết hải thâm cừu của Hạc bá và Bằng bá”.
Khấu Trọng gật đầu nói: “Chuyện này đương nhiên, chỉ cần còn một hơi thở, ta cũng tuyệt đối không bỏ qua cho bất cứ kẻ nào của Âm Quý Phái. Nhưng hiện giờ vẫn chưa phải lúc, chúng ta còn phải nhẫn nại thêm một thời gian nữa”.
Thương Tú Tuần còn tưởng rằng gã chỉ võ công của mình còn chưa đủ để khắc chế Loan Loan, nước mắt rưng rưng gật đầu đáp ứng. Khấu Trọng bất giác cảm thấy xung động, đây là lần đầu tiên gã thấy nữ tử tuyệt sắc kiên cường này có thần thái đáng thương như vậy, có thể thấy trong thâm tâm nàng chẳng những đã có ý dựa dẫm vào gã, mà còn hoàn toàn tín nhiệm gã nữa, suýt chút nữa thì đã vòng tay ôm chặt lấy nàng, nhưng rồi đột nhiên lại nghĩ đến chuyện nàng vì Từ Tử Lăng mà sinh lòng ghen tỵ với Thạch Thanh Tuyền, liền vội vàng áp chế dục vọng xuống, dịu dàng nói: “Đường đời xưa nay đều không hề bằng phẳng, lúc nào cũng có những chuyện không vừa ý, sinh ly tử biệt, bi hoan li hợp, tám chữ này đã nói lên tất cả”.
Thương Tú Tuần mau chóng trở lại trạng thái bình thường, ngại ngần nói: “Ta xưa nay chưa từng mềm yếu như vậy, không hiểu tại sao trước mặt ngươi lại trở nên yếu đuối như thế nữa. Ôi! Ta nói tới đâu rồi?”.
Chợt có tiếng vó ngựa vang lên.
Hai người nhìn về phía đó, chỉ thấy Lạc Phương đang thúc ngựa lao đến như bay, đưa tay ra hiệu địch nhân sắp tới gần.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

278#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 04:18:12 | Chỉ xem của tác giả
Hồi 265

Trận Chiến Chương Thủy


Toán đi qua đầu tiên là kỵ binh tiên phong của lũ tặc khấu. Chỉ có ba ngày bốn đêm, tặc quân của tam đại khấu đã từ đội hình không chỉnh tề biến thành toàn quân hỗn loạn, nhất thời cả bình nguyên rộng lớn toàn là những ánh đuốc tán loạn.
Không biết có phải vì chỉ còn cách Chương Thủy hai đêm hành trình, nên kẻ nào kẻ đó đều nôn nóng như chó nhà có tang, cho rằng chỉ cần qua sông là sẽ có thể ngủ yên một giấc, có điều cũng không thể trách chúng có suy nghĩ đó được.
Đối với phục kích chiến, Khấu Trọng đã trở thành đại hành gia, yếu quyết chính là lấy chuyên thắng loạn, lấy chỉnh tề để thắng phân tán.
Thương Tú Tuần ghé miệng bên tai gã thì thầm: “Hiện giờ tuy chúng ta chỉ có một nghìn người, nhưng ta đủ tự tin có thể đánh thắng được bọn chúng”.
Khấu Trọng lắc đầu đáp: “Lần này chúng ta không cần đánh thắng một trận, mà là phải triệt để tiêu diệt đám tặc khấu di hại nhân gian này đi, đồng thời còn phải giảm số thương vong của quân ta tới mức thấp nhất, như vậy mới thể hiện được bản lĩnh của ta”.
Đột nhiên nhớ lại chuyện cũ, gã liền thuận miệng hỏi: “Đào Thúc Thịnh làm sao lại bị đám lưu khấu này mua chuộc đến nỗi phản bội mục trường vậy?”.
Song mục Thương Tú Tuần lấp lánh hàn quang, lạnh lùng nói: “Tào Ứng Long làm sao mua chuộc được hắn chứ, kẻ mua chuộc hắn chính là Lý Mật”.
Nghi vấn của Khấu Trọng cuối cùng cũng được giải thích.
Bạch Văn Nguyên nấp sau tán cây, nhìn quân địch đi qua, thấp giọng nói: “Đội kỵ binh đi đầu và đội xe lương đi sau cùng cách nhau tới ba dặm, chỉ cần chúng ta động thủ thật nhanh, thì có thể triệt thoái trước khi kỵ đội của địch nhân quay lại cứu viện”.
Khấu Trọng hét lớn: “Lên ngựa!”.
Thương Tú Tuần vội vàng phát lệnh, nhanh tróng truyền đi.
Một ngàn chiến sĩ của mục trường, liền lập tức tung mình nhảy lên ngựa.
Mấy trăm người tay cầm đuốc sáng rực, chuẩn bị đốt xe lương của địch nhân.
Hơn trăm cỗ xe lương của địch nhân cuối cùng cũng đã xuất hiện trước mắt, hơn hai ngàn tặc binh bảo vệ xe lương đa phần đều là bộ binh, kỵ binh chỉ chưa đầy năm trăm người.
Khấu Trọng nhắm chuẩn thời cơ, bất ngờ gầm lên một tiếng, phóng ra từ trong khu rừng rậm trên đỉnh đồi, một mình một ngựa lao thẳng vào giữa đám xe lương của địch nhân.
Tỉnh Trung Nguyệt giơ cao quá đầu.
Thương Tú Tuần, Bạch Văn Nguyên, Lạc Phương và Hứa Dương theo sát phía sau gã, kế đó là một ngàn kỵ binh tinh nhuệ của mục trường, dùng thế trận hình quạt bao vây lấy đội xe lương của địch.
Đuốc cháy phừng phừng, chiếu sáng cả bầu trời đêm, càng làm thanh thế tăng lên gấp bội.
Đội ngũ của địch nhân lập tức rối loạn, những kẻ phản ứng tương đối nhanh đang định giương cung đáp tiễn thì cả trăm mũi tên đã rải xuống như mưa, nhất thời người rơi ngựa ngã, tán loạn như bầy kiến vỡ tổ.
Sự hỗn loạn mau chóng lan tràn như nước triều dâng, lan từ hậu quân đến trung quân rồi tiền quân của địch nhân. Đội tặc binh tung hoành khắp một dải Giang Bắc của Tào Ứng Long lập tức người ngựa dẫm đạp lên nhau mà tháo chạy.
Khấu Trọng dẫn đầu toàn quân xông thẳng vào trận địch, Tỉnh Trung Nguyệt hóa thành một đạo ánh sáng vàng chói lọi, vừa xuất đao đã chém bay bốn tên tặc binh thúc ngựa xông tới chặn đầu, rồi lao vào giữa địch quân, kẻ nào chặn đường lập tức ngã nhào. Lợi hại nhất là không cần chém trúng đối phương, mà chỉ riêng đao khí đã đủ khiến địch nhân thất khiếu chảy máu mà chết rồi.
Kỵ binh tinh nhuệ của Phi Mã Mục Trường như thiên binh bất ngờ lao xuống, cắt rời đoàn xe lương của địch nhân với trung quân, đẩy chúng rơi vào thế bị động tuyệt đối.
Hai cỗ xe đầu tiên đã bốc lửa, khói bay mù mịt khắp trời.
Thương Tú Tuần dùng một cây trường thương, xung quanh lại có một đám tướng lĩnh hộ vệ hai bên tả hữu, nên khí thế càng tăng lên bội phần, người đi đến đâu là địch nhân kêu lên thảm thiết rồi ngã xuống đến đấy.
Chỉ trong chốc lát, cả đội xe lương thảo của địch nhân đã bị bọn Khấu Trọng chia cắt làm mấy đoạn, tặc binh chạy tán loạn khắp nơi, đến cả những tên đánh xe cũng bỏ xe để giữ lấy mạng sống.
Xe lương đổ vật sang một bên, rồi lần lượt đều bị đốt cháy, cả vùng bình nguyên rộng lớn liền biến thành một biển lửa hừng hực.
Sát khí của Khấu Trọng mỗi lúc một lên cao, dẫn đầu hơn trăm người liên tiếp bức lui đám tặc binh quay lại cứu viện, đến khi thấy kỵ đội tiên phong do Tào Ứng Long dẫn đầu từ hai bên ép tới, gã mới hạ lệnh thu quân.
Cuộc tập kích đã kết thúc một cách viên mãn.
o0o
Từ Tử Lăng bẻ một cành cây lựu chắc chắn, to xù xì xuống, tốn nửa ngày thời gian dùng trủy thủ đẽo thành một cây trường côn dài gần trượng, nặng mà vừa tay, rất hợp tâm ý của gã. Giao đấu trên chiến trường không giống như tỷ đấu với cao thủ trên giang hồ, trường binh khí dù sao cũng chiếm được nhiều tiện nghi hơn một chút.
Lúc đẽo cây mộc côn này, lòng gã phẳng lặng như gương, tinh thần toàn bộ chuyên trú vào những chi tiết hết sức vi diệu trên thân côn, nơi nào cần thêm một đao, góc độ hạ đao thế nào, tất cả đều theo một đạo lý huyền diệu mà chính bản thân gã cũng không thể nào giải thích được, không hề có một chút sai sót nào, dù chỉ là rất nhỏ.
Sau khi hoàn thành, không hiểu sao gã lại có cảm giác huyết nhục tương liên với cây trường côn trong tay mình. Nhìn những vết cắt gọt thẳng tắp như có bàn tay quỷ thần trợ giúp, gã thấy giống mình vừa học được một bài học quý giá. Ít nhất thì từ sau khi Tố Tố qua đời, tinh thần gã chưa có lúc nào cảm thấy thỏa mãn như lúc này.
Khi mặt trời đã lên tới đỉnh đầu và đang dịch dần về phía Tây, thì Tuyên Vĩnh chạy dến báo cáo đã phát hiện hình bóng địch nhân.
Từ Tử Lăng đột nhiên đứng bật dậy khỏi tảng đá lớn đã ngồi cả nửa ngày trời, một tay thu trường côn lại sau lưng, hân hoan nói: “Khấu Trọng đã thành công rồi, nếu không bọn Tào Ứng Long làm sao chịu hành quân ban ngày như vậy chứ”.
Tuyên Vĩnh gật đầu nói: “Thám tử hồi báo, đội hình của địch nhân hết sức hỗn loạn, hoàn toàn giống như lũ chuột đang tháo chạy, lần này thì Tào Ứng Long cùng đường mạt lộ rồi”.
Án mắt y chợt dừng lại trên cây trường côn ló ra sau lưng Từ Tử Lăng.
Từ Tử Lăng mỉm cười đưa trường côn cho y xem, song mục thoáng hiện sát cơ, nhưng ngữ khí thì thập phần bình tĩnh: “Đêm nay ta sẽ dùng cây trường côn này lấy mạng chó của Tào Ứng Long”.
o0o
Đại quân do Thương Chấn dẫn đầu tràn lên như một đám mây lửa, sau khi hội sư với quân tiên phong của Khấu Trọng và Thương Tú Tuần thì lập tức tiến về Chương Thủy.
Sau khi biết tin quân ta đã đốt được lương thảo của Tào Ứng Long, sĩ khí dâng cao ngút trời, chúng tướng sĩ đều ngùn ngụt chiến ý.
Khấu Trọng quyết định thay đổi phương thức hành quân, chia quân tiên phong ra làm hai đội, mỗi đội hai ngàn người do Khấu Trọng và Liễu Tông Đạo soái lĩnh, Lạc Phương và Bạch Văn Nguyên làm phó tướng.
Thương Tú Tuần thì phụ trách trung quân, còn Thương Chấn đoạn hậu.
Khấu Trọng không hy vọng đuổi kịp bọn Tào Ứng Long trước khi chúng qua sông, bởi như vậy chỉ bức hắn làm con thú cùng đường quay ngược trở lại cắn người mà thôi.
Quá buổi hoàng hôn, đội quân tiên phong của Khấu Trọng và Lạc Phương lên tới một đỉnh núi có thể nhìn thấy được Chương Thủy thấp thoáng ở phía xa xa, chỉ thấy bên bờ Đông khắp nơi đều là bóng địch nhân kết thành trận thế, có vẻ như muốn liều mình quyết chiến một trận vậy.
Khấu Trọng cười ha hả nói: “Tào Ứng Long quả nhiên cũng có một hai chiêu, có điều lại phạm phải hai sai lầm vô cùng lớn”.
Lạc Phương ngạc nhiên nói: “Ta lại cảm thấy chiến lược hắn đang dùng vô cùng cao minh, nếu chúng ta cứ mạo hiểm tấn công, tất sẽ thương vong trầm trọng chứ chẳng nghi”.
Khấu Trọng phì cười đáp: “Hắn chỉ ra vẻ vậy thôi, đầu tiên là lương thảo của chúng đã bị chúng ta đốt sạch, thử hỏi bụng đói thì chiến đấu được bao lâu, chúng ta chỉ cần bao vây ở đây, thì cũng coi như dồn hắn vào chỗ chết rồi, đó là sai lầm thứ nhất”. Ngưng lại một chút rồi gã nói tiếp: “Sai lầm thứ hai, chính là hắn tưởng rằng ta không biết hắn đang đợi trời tối để lắp cầu nổi rồi lén lút qua sông, kế này vốn là rất tuyệt diệu, có điều là hắn không biết rằng ở bờ bên kia đã có sẵn phục binh để cung hầu tặc giá”.
Những người ở xung quanh nghe gã nói vậy đều phấn chấn tinh thần, đối với đám tặc khấu đã từng sát hại thân tộc bằng hữu của họ, không ai là không thống hận đến tận xương tủy, thề quyết tâm phải tiêu diệt bọn chúng cho bằng được.
Giờ khắc báo cừu cuối cùng đã tới.
Lạc Phương hưng phần hỏi: “Chúng ta nên tiến công vào lúc nào?”.
Khấu Trọng mỉm cười đáp: “Chuyện này để cho Từ Tử Lăng quyết định, khi người của chúng ta ở bờ bên kia đốt pháo hoa báo hiệu thì chính là lúc Tào tặc lấy máu ra để trả tất cả những món nợ trước đây của hắn”.
“Keng!”.
Khấu Trọng rút Tỉnh Trung Nguyệt ra, chỉ lên trời cao, hào tình bốc lên vạn trượng: “Đốt đuốc lên, cho người lên các đỉnh đồi canh giữ, chuẩn bị đào chiến hào, ta sẽ không cho một tên nào lọt lưới hết! Mục trường tất thắng, tặc binh tất bại!”.
Trong nháy mắt, cảnh tượng năm xưa ở Cảnh Lăng lại trùng hiện, chỉ khác biệt ở chỗ chuyển dịch từ thủ thành công mà thôi.
Chúng nhân hò reo vang dội.
Màn đêm buông xuống, Từ Tử Lăng treo mộc côn lên yên ngựa, đứng trong rừng cùng Tuyên Vĩnh giám thị nhất cử nhất động của địch nhân.
Tào quân ở bên bờ đối diện đã đốt mấy trăm cây đuốc, kết thành trận thế, đồng thời phái người ngầm qua sông kết cầu nổi.
Tuyên Vĩnh hơi lo lắng nói: “Nếu Tào Ứng Long cũng ra lệnh cho những kẻ qua sông kết thành trận thế ở bên này trước, vậy thì với binh lực của chúng ta hiện giờ e rằng không làm gì nổi hắn”.
Lúc này tám chiếc cầu nổi đã có năm chiếc hoàn thành, kỵ binh của đối phương cũng bắt đầu dắt ngựa qua sông, tình hình vô cùng khẩn bách.
Từ Tử Lăng mỉm cười nói: “Nếu là lúc bình thường, đích thực chúng ta không làm gì nổi hắn. Nhưng huynh thử nhìn kỹ bọn chúng mà xem, tên nào tên nấy đều lộ rõ vẻ mệt mỏi và đói khát, chỉ cần tám chiếc máy bắn đá kia của huynh có thể gây chút hỗn loạn, tỷ như bắn gãy một chiếc cầu nổi chẳng hạn, thì đảm bảo địch nhân sẽ không chiến mà tự bại, bất luận là có kết thành trận thế gì cũng chẳng có tác dụng”.
Tuyên Vĩnh nghe gã nói vậy thì tự tin trở lại, gật đầu nói: “Tại hạ đúng là có chút lo được lo mất. Chúng ta dưỡng sức chờ đợi, lại công kỳ vô bị, ta biết địch mà địch không biết ta, quả thực đã đứng ở thế bất bại. Hắc, trong giờ khắc đại chiến bất cứ lúc nào cũng có thể phát động mà Từ gia sao vẫn có thể thần định khí nhàn như vậy chứ?”.
Từ Tử Lăng điềm đạm nói: “Chỉ cần huynh có thể bỏ hết chuyện sinh tử thành bại sang một bên, thì tự nhiên sẽ làm được, cũng chỉ có như vậy, mới có thể phát huy được hết năng lực của mình”.
Tuyên Vĩnh lộ thần sắc kính phục, thấp giọng nói: “Tuyên Vĩnh đa tạ từ gia chỉ giáo”.
Tám chiếc cầu treo đã hoàn thành, trước sau chưa đến nửa canh giờ, số địch nhân qua sông đã tăng lên gấp bội, tràn cả ra thảo nguyên bên bờ phía Tây sông Chương Thủy.
Tuyệt đại đa số nhân mà đã không thể gắng gượng được, sau khi qua sông thì liền ngồi phịch xuống đất thở hồng hộc, chẳng hề có chút chiến ý.
Tuyên Vĩnh nói: “Chúng ta chuẩn bị tấn công được chưa?”.
Đôi mắt hổ của Từ Tử Lăng sáng rực lên: “Tào Ứng Long và Phòng Kiến Đỉnh đã qua sông rồi! Hướng Bá Tiên để dành cho Khấu Trọng vậy!”.
Kế đó gã liền quát lớn: “Đốt đuốc lên!”.
Tiếng trống trận và tù và cùng lúc vang lên.
Tiếng hò hét và tiếng những tảng đá lớn phá không rơi xuống ầm ầm bên bờ phía Đông, từ góc độ Khấu Trọng nhìn qua, chỉ thấy bên bờ tây có tới mấy ngàn ngọn đuốc, chiếu đỏ cả một góc trời, làm cho tám chiếc cầu nổi ở trong bóng tối đều hiện ra lồ lộ, khắp nơi nhân ảnh trùng trùng, tựa hồ như có thiên quân vạn mã vậy.
Thương Tú Tuần lấy làm ngạc nhiên hỏi: “Tại sao có nhiều người như vậy?”.
Khấu Trọng phì cười nói: “Hảo tiểu tử, không ngờ cũng biết hư trương thanh thế, cả ta cũng bị ngươi làm cho giật mình rồi!”. “Ầm!”.
Một tảng đá lớn rơi trúng cầu nổi, hơn trăm người bên trên lập tức lộn nhào xuống sông, dáng vẻ thảm hại vô cùng.
Cách đó không xa ở thượng du và hạ du cùng lúc xuất hiện hơn trăm cung tiễn thủ, vô tình rải những trận mưa tên dày đặc xuống đầu địch nhân.
Đám tặc binh ở hai bên bờ và trên cầu nổi trở nên tán loạn, liều mạng bỏ trốn, thế trận hầu như đã tan rã hoàn toàn.
“Bùng!”.
Pháo hiệu nổ bùng trên bầu trời tạo thành một đóa hoa rực rỡ. Khấu Trọng phấn chấn hô vang: “Tiến công!” Đại quân của mục trường xuất ra năm ngàn kỵ binh, mỗi tổ một ngàn người, lao xuống trận địch như năm cơn lốc xoáy khổng lồ.
Hơn mười ngọn đồi xung quanh đó đều sáng rực ánh đuốc, lửa cháy hừng hực, cả tinh nguyệt trên trời cũng phải ảm đạm thất sắc.
Trên bờ, dưới sông, thi thể chất thành từng đống.
Tám chiếc cầu nổi đã gãy mất năm, nhưng trận chém giết thì chỉ mới bắt đầu.
Quân Thiếu Soái và các chiến sĩ mục trường người nào cũng chít khăn vàng trên đầu, kẻ nào không chít khăn, thì đều giết sạch không tha.
Từ Tử Lăng và Tuyên Vĩnh mỗi người dẫn theo năm trăm quân, từ chỗ mai phục chia làm hai đạo xông vào tàn sát địch nhân, còn lại mấy trăm người khác, thì nấp ở sau những người cỏ, rải tên xuống đầu lũ tặc binh đang tháo chạy.
Để tiện chiến đấu, tất cả đều đã bỏ ngựa, chuyển thành bộ binh.
Từ Tử Lăng dẫn đầu sĩ tốt, tâm cảnh tiến nhập vào cảnh giới vô ngã, cây mộc côn dài hơn trượng đánh ra những sát chiêu lăng lệ tuyệt luân, bất luận hất, gạt, bổ, đâm, địch nhân trúng phải chiêu của gã đều văng người lên không rồi táng mạng đương trường, không kẻ nào có thể chịu được đến chiêu thứ hai.
Tặc binh đã như một nắm cát rời, kẻ chạy trốn thì chỉ lo chạy trốn, những kẻ không kịp chạy thì không kết nổi thành trận thế đội hình, chỉ có thể tụ lại thành nhóm năm ba tên một ngoan cố chống cự.
Có điều lũ tặc binh này nhân số đông hơn Thiếu Soái gấp bội, lại nhiều năm sống nơi đầu đao mũi kiếm, gặp đủ sóng gió trên đời, nên tuy là vừa mệt mỏi vừa đói khát, nhưng trong khoảnh khắc sinh tử này, chúng vẫn có thể miễn cưỡng liều chết chống cự đến cùng.
Từ Tử Lăng vốn đã nhằm hướng Tào Ứng Long và Phòng Kiến Đỉnh tiến tới, vừa đi vừa sát địch, nào ngờ cả ngàn tên địch từ phía bờ sông lại tràn tới, chỉ thấy trước mắt toàn là bóng địch nhân và đao quang kiếm ảnh, nào còn thấy bóng dáng của hai tên đầu sỏ kia đâu nữa.
“Bình!”.
Một tên tướng lĩnh võ công tương đối cao cường dùng trường mâu đỡ được ba côn của Từ Tử Lăng, cuối cùng bị gã xoay cổ tay hất mạnh, trường côn thu về rồi đẩy ra, xuyên qua kẽ hở của chiêu thức đối phương, làm cho lồng ngực y vỡ nát mà chết.
Nhưng chỉ một thoáng chốc bị đình trệ đó, sĩ tốt ở hai bên tả hữu của gã đã lập tức phải chống đỡ lại thế công liều mạng của địch nhân. Bên phía Thiếu Soái quân đã có bảy tám người thương vong ngã xuống, tình hình vô cùng ác liệt.
Từ Tử Lăng không kịp bi thương tưởng niệm cho những chiến sĩ tử thương, chỉ biết dồn hết oán hận vào địch nhân ở khắp bốn phương tám hướng, mộc côn lại lần nữa đại triển thần oai, kình khí cuồn cuộn đánh ra, mỗi một chiêu là địch nhân lại dạt ra xa một chút.
Bất cứ kẻ nào chỉ cần nằm trong phạm vi mà kình khí của trường côn che phủ, thì đều máu huyết tung tóe, không ai toàn mạng.
Dựa vào tuyệt đại cao thủ như gã dẫn đầu, nên đội quân chỉ hơn bốn trăm người đã thành công chia cắt địch nhân làm hai đoạn, tạo ra tình thế có lợi nhất cho đội quân còn lại của Tuyên Vĩnh.
Mưa tên từ chiến hào của Thiếu Soái không ngừng rải xuống đầu lũ tặc binh đang chạy chui lủi như chuột, số thi thể nằm bên bờ sông mỗi lúc một nhiều.
Quân ta thì chuyên chú, còn quân địch thì phân tán.
Tào quân tuy đông, nhưng quân tâm đã loạn, đã sớm rơi vào bại cục, Tào Ứng Long đã không còn cách nào vãn hồi được kiếp nạn này.
Đám tặc binh được bờ bên kia chỉ ước chừng hơn vạn, lúc trận phục kích bắt đầu, có gần ngàn tên đã quay đầu nhảy xuống sông, ý đồ đào tẩu lên thượng du hoặc hạ du, nhưng đều bị quân mai phục xạ tiễn hạ sát.
Cuộc tàn sát thảm khốc tưởng chừng như không bao giờ chấm dứt. Từ Tử Lăng và thuộc hạ tới chỗ nào là chỗ ấy như cành khô củi mục, thi thể địch nhân chất thành từng đóng lớn, khắp nơi đều là những cánh tay đứt đoạn và máu tươi đỏ rực, nhưng bốn phía vẫn còn vô số địch nhân, khiến cho gã chợt dâng lên cảm giác giết hoài không hết, tựa như mình đang hãm thân giữa bầy kiến, chỉ cần lơi tay một chút là địch nhân sẽ bức lại gần, liều chết phản kích, không phải ngươi chết thì sẽ là ta chết.
Đột nhiên gã cảm thấy áp lực giảm bớt, thì ra là đã đến sát bờ sông, ngước mắt nhìn lên, chỉ thấy tình hình chiến trận bên bờ đối diện cũng kịch liệt không kém gì bên mình.
Từ Tử Lăng thấy địch nhân tháo chạy về bốn phía như nước triều dâng, thoáng động tâm, dậm mạnh trường côn xuống đất, rồi mượn lực tung mình lên cao, dõi mắt quan sát toàn trường.
Chỉ thấy đội quân do gã dẫn đầu chỉ còn lại hơn ba trăm người, bên phía Tuyên Vĩnh cũng không hơn được bao nhiêu, nhưng đến giờ thì địch nhân cũng không dám đối đầu với họ nữa, mà chỉ chạy tứ tán khắp nơi.
Trong số địch nhân dang đào tẩu, có một nhóm chừng hơn trăm người, hai kẻ dẫn đầu chính là Tào Ứng Long và Phòng Kiến Đỉnh, Từ Tử Lăng mừng rỡ hú lên một tiếng, trầm mình hạ thân xuống mặt đất, dẫn theo thủ hạ giở hết tốc lực đuổi theo.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

279#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 04:20:08 | Chỉ xem của tác giả
Hồi 266

Điều Kiện Tha Mạng


Dưới sự yểm hộ của làn mưa tên, năm đội kỵ binh bên phía Khấu Trọng giống như năm con rồng lửa lao thẳng vào đám địch nhân chưa kịp qua sông, làm cho không khí trận chiến càng thêm kịch liệt.
Khấu Trọng đương nhiên là vẫn một mình xông lên phía trước, Tỉnh Trung Nguyệt sáng rực ánh vàng, đao bất hư phát, đi qua chỗ nào là có người kêu thảm ngã xuống chỗ đó, sát khí bốc lên làm thiên hôn địa ám, nhật nguyệt vô quang, trong chốc lát gã đã khiến lũ địch nhân vô tâm luyến chiến trở nên hỗn loạn, không thèm để ý đến nhau, mà chỉ nháo nhào bỏ chạy.
Dưới áp lực dữ dội của đại quân Phi Mã Mục Trường, địch nhân lần lượt nhảy xuống sông trốn chạy, hy vọng có thể thoát khỏi chốn luyện ngục nhân gian, lò sát sinh hàng loạt này.
Gã vừa chém bay một tên địch nhân, Lạc Phương ở bên cạnh đã kêu lên: “Hướng Bá Tiên!”.
Khấu Trọng tranh thủ liếc nhìn về phía tay y chỉ, thấy một đám tặc binh chừng mấy trăm người do một tên béo lùn hai tay cầm Cương Xỉ Hoàn mở đường dẫn đầu, đang phá vây chạy về phía hạ du.
Khấu Trọng dặn dò Lạc Phương thay mình chỉ huy quân sĩ, rồi hú dài một tiếng, tung mình bay lên khỏi mình ngựa, miệng quát vang: “Hướng Bá Tiên ngươi có chạy đằng trời, Khấu Trọng đến đây!”.
Hai câu này gã đã vận công lực để phát ra, nên lập tức làm át mọi tiếng chém giết trên chiến trường, tựa như một tiếng sấm động giữa trời quang vậy.
Quân sĩ mục trường và Thiếu Soái nghe tiếng thì sĩ khí tăng lên gấp bội, địch nhân thì táng đởm kinh tâm, càng sụp đổ nhanh hơn.
Lăng không bay được gần tám trượng, Khấu Trọng lại hoán khí, lướt đi thêm năm trượng nữa, trong nháy mắt đã đến phía trước Hướng Bá Tiên, vừa hạ thân xuống đất đã vung đao quét tròn một vòng, binh khí của sáu tên địch nhân đứng gần đó lập tức gãy đoạn, người thì bay ra xa, máu huyết đầm đìa. Một đao này lập tức làm những tên địch xung quanh đó khiếp sợ, chạy tản ra bốn phía như tránh ôn thần, để cho gã một không gian trống trải hiếm thấy trên chiến trường này.
Hướng Bá Tiên giờ mới phát giác ra mình đang đối mặt với Khấu Trọng, ở giữa không còn bất cứ ngăn trở nào, vội vàng ghìm cương ngựa dừng lại, lúc định ra lệnh cho thuộc hạ xông lên để hạ bớt nhuệ khí của đối phương, thì mới nhận ra rằng thủ hạ sau lưng mình đã chạy không còn một mống.
Khấu Trọng nở một nụ cười rực rỡ như ánh mặt trời buổi sớm, đôi mắt hổ xạ ra những đạo thần quang khiến người ta phải rùng mình, tựa hồ như đã nhìn xuyên thấu tận nơi sâu thẳm nhất trong lòng địch thủ, miệng quát lớn: “Quân bất nghĩa thủy chung vẫn là quân bất nghĩa, bình thường thì không nhận ra, nhưng lúc lâm nguy sẽ lập tức thấy rõ chân tướng. Hướng Bá Tiên ngươi đã xưa nay hoành hành bá đạo khiến cho cỏ còn không mọc được, nhưng ngươi có nghĩ rằng mình sẽ có ngày hôm nay không?”.
Hướng Bá Tiên đảo mắt một vòng, biết rằng đại thế đã mất, không ngờ lại trở nên hung hãn, tung người nhảy xuống chiến mã, song hoàn đập mạnh vào nhau phát ra một tiếng “keng” chói tai, cười khùng khục như điên cuồng nói: “Người khác sợ tên tiểu tử ngươi chứ Hướng Bá Tiên này coi ngươi không bằng con chó! Để ta giết ngươi trước rồi tìm những tên khác tính sổ sau!”.
Vừa nói y vừa trợn tròn hai mắt lên, chân đạp theo một bộ pháp kỳ dị, mau chóng tiếp cận Khấu Trọng, song hoàn kích ra như điện.
Khấu Trọng cao giọng hét một tiếng “hảo” rồi xuất chiêu ngạnh tiếp, đao chép ra như chớp giật, chặn đứng hai chiếc cương hoàn đang cắt tới từ góc độ khéo léo nhất, tựa như hai đóa hàn vân, tiếng đao hoàn chạm nhau vang lên liên miên bất tuyệt.
Sau hơn mười hoàn thì Hướng Bá Thiên đã không còn hơi sức để tiếp tục tấn công, bất ngờ dịch người sang trái.
Khấu Trọng thấy vậy thì phấn chấn tinh thần, đao thế bạo phát, cùng lúc cũng dịch người sang trái theo họ Hướng, Tỉnh Trung Nguyệt chém xả vào khe hở giữa hai chiếc cương hoàn. Một chiêu vốn hết sức bình phàm, nhưng nhờ có bộ pháp thần kỳ của gã mà hóa vụng thành xảo, trở nên bá đạo phi thường.
Hướng Bá Tiên đâu thể ngờ gã lại có kỳ chiêu như vậy, giấc mộng muốn giành lại thế công từ mặt bên lập tức tan thành mây khói, hấp tấp chập song hoàn lại, hy vọng có thể đỡ được đao thế của đối phương, sau đó nhảy xuống sông đào tẩu.
Chẳng ngờ Khấu Trọng bất ngờ hoán khí, Tỉnh Trung Nguyệt khựng lại giữa không trung trong giây lát. Chính khoảnh khắc ngắn ngủi đó, đã quyết định vận mệnh của Hướng Bá Tiên.
“Đang!”.
Song hoàn chạm vào nhau.
Tỉnh Trung Nguyệt giờ mới chuyển động, thế tựa bôn lôi chém thẳng vào chỗ tiếp giáp của hai chiếc kim hoàn.
Kình lực cuồn cuộn tuôn trào, Hướng Bá Tiên như chạm phải điện, song hoàn bị chấn bật sang hai bên. Lúc y định thoái lui thì trên ngực đã có thêm một đạo huyết tích.
Khấu Trọng thu đao lùi lại rồi gầm lên quát lớn: “Hướng Bá Tiên tội ác ngập đầu, giờ đã phải đền tội!”.
Tiếng hét như sấm vang vọng khắp cả bãi chiến trường.
“Đang, đang!”.
Song hoàn lần lượt rơi xuống đất.
Hướng Bá Tiên nhìn máu tuôn chảy từ ngực mình xuống mà không dám tin vào mắt mình, kêu lên một tiếng thảm thiết, rồi đổ vật người ra sau.
Từ Tử Lăng nhảy lên chiến mã, cùng hơn trăm người khác đuổi theo bọn Tào Ứng Long.
Cảnh vật vùn vụt lướt qua trước mắt.
Trên bình nguyên, bọn Tào Ứng Long còn khoảng hơn năm chục người, đang hoảng loạn tháo chạy về vùng núi phía Đông Nam.
Tào Ứng Long và Phòng Kiến Đỉnh công lực lẫn thân pháp đều cao minh hơn đám thủ hạ nên vượt lên phía trước hơn mười trượng, rất dễ nhận ra.
Đám tặc khấu thấy Từ Tử Lăng dẫn quân lính đuổi theo, biết gã chỉ muốn đối phó với hai tên đầu sỏ Tào Ứng Long và Phòng Kiến Đỉnh, nêu đều lợi dụng thời cơ chạy tản ra bốn phía, để giữ lấy mạng sống, tặc tính hiển lộ ra hết, hoàn toàn không nói gì đến trung nghĩa.
Từ Tử Lăng đương nhiên không thèm để ý đến đám vô danh tiểu tốt này, thấy còn khoảng mười dặm nữa mới đến khu núi, liền cố ý cho ngựa chậm lại, giữ khoảng cách chừng ba bốn chục trượng với bọn Tào Ứng Long và Phòng Kiến Đỉnh, vừa nhìn bộ dạng thảm hại của bọn chúng, vừa có thể khiến chúng hao tổn chân nguyên.
Thủ hạ phía sau không ngừng giương cung đáp tiễn, khiến cho hai tên ác tặc cứ phải lách tả tránh hữu, trông nhếch nhác vô cùng.
Đuổi được chừng bảy tám dặm nữa thì Tào Ứng Long cuối cùng cũng phát hiện được ý đồ của Từ Tử Lăng, tức giận gầm lên một tiếng, rồi hoành mâu đứng lại: “Kiến Đỉnh! Chúng ta liều mạng với hắn!”.
Chẳng ngờ Phòng Kiến Đỉnh coi lời y nói như gió thoảng bên tai, vẫn tiếp tục gia tăng tốc lực đào tẩu.
Chân khí của Từ Tử Lăng chảy khắp thân côn, kình lực bạo phát, cây trường côn giống như một sinh vật có linh tính, lao vút ra khỏi tay gã, lướt qua người Tào Ứng Long một cách vô thanh vô tức, đuổi theo Phòng Kiến Đỉnh. Nếu đổi lại là lúc bình thường, thì cho dù cây côn gỗ lao đi bằng lực xoáy của bản thân mà không mang theo tiếng rít gió, nhưng hạng cao thủ của Phòng Kiến Đỉnh ắt hẳn cũng có thể cảm nhận được nguy cơ đến gần mà tránh né. Nhưng y giờ đã như con chó nhà có tang, cả ngày lao lực không cần phải nói, vừa rồi lại liều mạng bỏ chạy, đích thực đã hao tổn lượng lớn chân nguyên, phản ứng đương nhiên không thể bì được với lúc cơ thể ở trạng thái sung mãn.
Nếu Tào Ứng Long lên tiếng cảnh báo, có lẽ y cũng có thể kịp thời tránh được mối họa sát thân này, nhưng Tào Ứng Long hận y bỏ mặc mình mà đào tẩu, làm sao chịu lên tiếng cứu y cho được?
Cây côn mang đầy kình lực lướt đi như một mũi tên, lao thẳng vào lưng Phòng Kiến Đỉnh, phá vỡ chân khí hộ thân, rồi xuyên qua lưng y, cắm ngập trong đó.
Phòng Kiến Đỉnh ngã bổ nhào xuống trong tiếng kêu thảm thiết, cây côn gỗ giống như cột trống trời chỉ thẳng lên bầu trời đêm, sau khi lắc lư mấy cái mới dừng lại, tình cảnh ngụy dị đến cực điểm.
Dưới ánh đuốc sáng rực, Thiếu Soái quân xếp thành trận thế hình cánh quạt, người người giương cung đáp tiễn, ngắm chuẩn mục tiêu.
Từ Tử Lăng tung mình nhảy xuống ngựa, nhìn sang phía Tào Ứng Long cười gằn nói: “Nếu ngươi lập thệ không đào tẩu, ta sẽ cho ngươi một cơ hội công bằng quyết đấu, bằng không ta lập hạ lệnh cho phóng tiễn”.
Sắc mặt tên đầu sỏ phỉ đồ biến đổi mấy lần, âm ám bất định, hồi lâu sau mới buông thõng hai tay, thở dài thê thảm nói: “Ta nhận bại rồi, chỉ cần ngươi chịu cho ta một sinh lộ, bao nhiêu tài vật cướp được trong nhiều năm ta sẽ dâng lại hết, từ nay thề không đặt chân vào giang hồ nữa”.
Từ Tử Lăng lắc đầu nói: “Loại tiền tài bất nghĩa đó đã nhuốm máu không biết bao nhiêu người vô tội, cho dù ngươi có dâng tặng ta vô điều kiện, ta cũng không cần”.
Tào Ứng Long tức giận gầm lên: “Con người ngươi sao cố chấp vậy, số tiền tài này có thể khiến ngàn vạn người an cư lạc nghiệp, xây dựng lại gia viên. Nếu ngươi không cần, thì có thể dùng để làm việc thiện cũng được. Từ huynh, mong huynh hãy suy nghĩ cho kỹ”.
Từ Tử Lăng cười dài: “Nói hay lắm! Vậy thì ta sẽ bắt sống ngươi, để xem hạng tham sinh úy tử như họ Tào ngươi có nếm nổi mùi vị của cực hình tàn khốc không? Ta cũng muốn biết ngoại trừ tài vật ra, ngươi có còn giấu diếm thứ gì quý giá hơn nữa không?”.
Tào Ứng Long trầm giọng nói: “Tham sống sợ chết là chuyện thường tình của con người, nhưng nếu ta biết rõ sẽ bị làm nhục, tự nhiên sẽ không để ngươi bắt sống. Như vậy được không, ngoại trừ tài vật ra, ta còn có một số tin tức bí mật nữa, chỉ cần sau khi nghe xong, ngươi cảm thấy xứng đáng, thì hãy thả ta đi”.
Từ Tử Lăng phì cười nói: “Tào Ứng Long ngươi muốn mượn chuyện này để kéo dài thời gian, hòng khôi phục nguyên khí thì đúng là uổng phí tâm cơ rồi”.
Tào Ứng Long vội nói: “Ngàn vạn lần chớ nên hiểm lầm, tin tức đầu tiên, chính là thân thế của Dương Hư Ngạn, nếu ngươi bỏ qua thì Thạch Thanh Tuyền sẽ rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục đó”.
Từ Tử Lăng giật mình: “Làm sao ngươi biết ta quen Thạch Thanh Tuyền?”.
Tào Ứng Long nói: “Vì vậy chắc ngươi cũng biết ta không hồ ngôn loạn ngữ, có chịu đồng ý giao dịch này không?”.
Song mục Từ Tử Lăng sáng rực lên như điện. Tào Ứng Long lại lặp lại một lần nữa: “Chỉ cần ngươi nghe xong, cảm thấy xứng đáng thì mới thả ta đi, vì vậy căn bản không cần ngại ta gạt ngươi”.
Từ Tử Lăng thầm thở dài, nhất thời không biết có nên tin lời tên ác nhân này mà để y sống lay lắt qua ngày hay không?
Khấu Trọng và Thương Tú Tuần lần lượt vượt qua cây cầu nổi duy nhất còn lại, hội hợp với Tuyên Vĩnh.
Lần này tuy đã thắng lợi toàn diện, lũ tặc khấu chỉ có chừng vài ngàn tên chạy thoát, nhưng bên phía Khấu Trọng cũng thương vong trầm trọng, mục trường tổn thất gần ngàn chiến sĩ, còn số mất mạng bên Thiếu Soái quân cũng lên tới năm trăm người, đó là còn chưa tính số người bị thương.
Đây chính là cái giá của chiến tranh.
Thương Tú Tuần thu hồi ánh mắt dò xét, quay sang hỏi Tuyên Vĩnh: “Từ Tử Lăng đâu?”.
Tuyên Vĩnh cung kính đáp: “Từ gia đang dẫn người truy sát Tào Ứng Long và Phòng Kiến Đỉnh”.
Thương Tú Tuần lại truy vấn: “Đuổi về hướng nào?”.
Tuyên Vĩnh chỉ tay ra hướng Đông Nam.
Dưới ánh mặt trời, bình nguyên trải dài ra vô cùng vô tận.
Thương Tú Tuần thúc ngựa phóng đi, miệng hô vang: “Chúng ta mau đi giúp y một tay”.
Khấu Trọng thoáng ngạc nhiên, rồi đuổi sát theo phía sau nàng, trong lòng chợt dâng lên cảm giác nửa chua chát lại nửa mừng vui.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

280#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 04:21:12 | Chỉ xem của tác giả
Hồi 267

Bí Mật Động Trời


Từ Tử Lăng không nói tiếng nào, chỉ dùng ánh mắt sắc bén của mình nhìn thẳng vào Tào Ứng Long, hồi lâu sau mới nói: “Tào Ứng Long ngươi xưa nay tâm lang thủ lạt, nổi tiếng liều mạng không sợ chết, đột nhiên lại trở nên tham sinh úy tử thế này, rõ ràng là có điều trá ngụy, Từ mỗ tuyệt đối không mắc bẫy đâu”.
Tào Ứng Long lộ ra biểu tình chán nản chua chát của kẻ kiêu hùng khí đoản, thở dài nói: “Cũng không trách được Từ huynh có ý nghĩ này, thậm chí trước đây có người nói với ta rằng Tào Ứng Long này sẽ vì sinh mạng mà nói chuyện điều kiện với kẻ khác, chính bản thân ta là kẻ đầu tiên không tin. Hà! Từ huynh có thể ra lệnh cho thủ hạ tạm thời lùi ra xa được không?”.
Từ Tử Lăng do dự giây lát rồi vẫy tay ra hiệu cho thủ hạ lùi lại, nhưng vẫn giữ thế bao vây, nghiêm cẩn đề phòng Tào Ứng Long chạy trốn, còn gã thì nhảy xuống chiến mã, đi đến trước mặt họ Tào. Dựa vào cảm giác linh mẫn của mình, gã biết đối phương không hề vận khí hành công để khôi phục lại nguyên khí đã hao tổn.
Tên tặc khấu đã hoành hành một thời này đột nhiên giống như già đi mấy chục tuổi vậy, thần thái mệt mỏi, tâm lực hao tổn, cười khổ nói: “Vừa rồi khi ta thấy Từ huynh dùng trường côn phóng xuyên qua bối tâm Phòng Kiến Đỉnh, trong lòng chợt sinh ra cảm giác buồn nản, biết rằng huynh là kẻ địch mà ta vĩnh viễn cũng không thể đánh bại. Trong sát na đó, muôn ngàn ý nghĩ lướt qua đầu ta, khiến Tào mỗ giống như kẻ vừa bừng tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng triền miên vậy, cảm thấy hai tay mình đều là máu tanh, tội nghiệt quá nặng, sau đó thì vạn niệm cùng tiêu tán, thấy mình sống không bằng chết”.
Từ Tử Lăng cười lạnh lùng nói: “Nếu thật sự là sống không bằng chết thì đâu cần phải nói điều kiện xin tha mạng với Từ mỗ làm gì”.
Tào Ứng Long gật đầu nói: “Cũng không trách Từ huynh châm chọc ta được, thực tình thì trong tình cảnh này, không hiểu sao khát vọng mà hai mươi năm nay ta luôn áp chế trong lòng lại dâng trào lên, vì tâm nguyện đó, nên ta mới mở miệng xin Từ huynh tha cho một mạng. Nếu Từ huynh sợ bị ta gạt, ta có thể tự động tán đi chín thành công lực, chỉ giữ lại một phần để giữ mạng phòng thân, như vậy thì huynh không cần phải lo hậu hoạn gì nữa, mà còn có thể kịp thời đi cứu Thạch Thanh Tuyền. Từ huynh nếu vẫn thấy không thể được, thì hãy lập tức xuất thủ lấy mạng ta cũng được, Tào mỗ quyết không hoàn thủ”.
Tào Ứng Long dường như đã biến thành một con người khác, ngữ khí tràn đầy vẻ chân thành phát ra từ tận nơi sâu thẳm trong nội tâm, cộng thêm thần tình rầu rĩ lúc y nói chuyện, khiến người ta hoàn toàn không có cách gì nghi ngờ thành ý của y.
Từ Tử Lăng cảm thấy vô cùng mâu thuẫn.
Luận những điều đã gây ra trong quá khứ, Tào Ứng Long cho dù chết một vạn lần cũng không thể đền tội, hơn nữa gã cũng sớm hạ quyết tâm, thề phải trừ bằng được tên ác tặc đầu sỏ này, nhưng vì Thạch Thanh Tuyền, gã có nên đồng ý vụ giao dịch này hay không?
Tào Ứng Long bình tĩnh nói: “Giả như Từ huynh nghe xong cho rằng điều Tào mỗ nói là không đáng, hoặc cảm thấy bản nhân có chỗ nào không thực lòng, bất cứ lúc nào cũng có thể hạ thủ lấy đi tính mạng của họ Tào này, ta đây tuyệt đối không phản kháng, lại càng không oán giận”.
Từ Tử Lăng ngạc nhiên nói: “Tào đương gia thật sự không sợ ta bất chấp những điều ngươi nói là thật hay giả, vẫn hạ thủ lấy mạng ngươi hay sao?”.
Tào Ứng Long cười khổ nói: “Vậy thì coi như trước khi chết ta đã nhìn lầm người, có chết cũng không oán hận được ai”.
Trong đầu Từ Tử Lăng hiện lên bóng dáng yêu kiều của Thạch Thanh Tuyền, gã trầm ngâm giây lát rồi gật đầu nói: “Được! Từ mỗ xin rửa tai cung kính lắng nghe!”.
Tào Ứng Long cúi đầu hồi lâu, rồi mới hạ thấp giọng nói: “Nếu không nói rõ từ đầu, chỉ sợ Từ huynh không tin. Cũng may là từ giờ đến lúc trời sáng vẫn còn một canh giờ nữa, chúng ta có đủ thời gian. Từ huynh đã từng nghe qua trong Ma Môn có lưỡng phái lục đạo chưa?”.
Từ Tử Lăng hiểu được ẩn ý trong lời nói của Tào Ứng Long, bởi vì nếu y thật sự hủy đi chín thành công lực, tất sẽ phải nhân lúc trời chưa sáng mà thoát khỏi hiểm địa, sau đó ẩn tích mai danh, để tránh khỏi sự báo phục của cừu nhân. Ít nhất thì người của Phi Mã Mục Trường cũng không chịu bỏ qua cho y, mà Từ Tử Lăng gã cũng không thể ngăn cản họ báo thù.
Từ Tử Lăng lắc đầu nói: “Ta mới chỉ nghe qua Tà Đạo Bát Đại Cao Thủ, còn chưa từng nghe là có lưỡng phái lục đạo gì cả, Âm Quý Phái chắc là một trong lưỡng phái đúng không?”
Tào Ứng Long gật đầu: “Âm Quý Phái phái được phong là Ma môn chi thủ, tất cả đều vì bọn họ sở hữu bảo thư Thiên Ma Bí Lục của Ma môn, bảo thư này cùng với Từ Hàng Kiếm Điển của Từ Hàng Tịnh Trai đều là kinh điển chí cao vô thượng của chính tà lưỡng đạo. Tà đạo thì phân thành lưỡng phái lục đạo, còn chính đạo thì chia thành Từ Hàng Tịnh Trai và Tịnh Niệm Thiền Viện”.
Từ Tử Lăng ngạc nhiên nói: “Tào đương gia có phải là người trong ma môn không?”.
Tào Ứng Long cười khổ: “Nếu không phải người trong Ma môn, thì sao có quan hệ với Dương Hư Ngạn được?”.
Thấy vẻ kinh dị thoáng hiện lên trên gương mặt tuấn tú của Từ Tử Lăng, y vội vàng nói: “Tuy ta xuất thân trong Ma môn, nhưng trong lòng lại hận sư môn đến tận xương tủy, tất cả đều vì sau khi thành niên, trong một lần ngẫu nhiên, ta đã phát hiện năm xưa lúc sư tôn thu ta làm đồ đệ, đã hạ độc thủ giết sạch phụ mẫu huynh đệ tỷ muội của ta, gọi đó là trảm tục duyên. Chính sự việc đó đã khiến cho lòng ta tràn đầy phẫn hận, nhưng lại không thể phản kháng, thế nên đành đem hết cừu hận trút lên đầu kẻ khác, đến ngày hôm nay mới tỉnh ngộ ra, quá khứ thật giống như một cơn ác mộng vậy”.
Từ Tử Lăng lần đầu tiên cảm thấy thương hại y, liền hỏi: “Lệnh sư là ai?”.
Hai mắt Tào Ứng Long sáng rực lên ngọn lửa thù hận, trầm giọng nói: “Y chính là nhân vật mà cả Từ Hàng Tịnh Trai cũng phải nể sợ mấy phần, Tà Vương Thạch Chi Hiên”.
Từ Tử Lăng thất thanh kêu lên: “Thạch Chi Hiên, đó không phải là sinh phụ của Thạch Thanh Tuyền hay sao?”.
Tào Ứng Long ngẩng đầu lên nhìn sắc trời, thở dài một tiếng rồi bắt đầu đi vào chủ đề chính cho kịp thời gian: “Trong vòng trăm năm trở lại đây, thiên hạ đại loạn, Ma môn cũng ứng vận mà sinh ra mấy đại nhân vật siêu quần bạt tụy, nổi bật nhất chính là Âm Hậu Chúc Ngọc Nghiên, Tà Đế Hướng Vũ Điền và Tà Vương Thạch Chi Hiên, luận danh khí thì Chúc Ngọc Nghiên là thịnh nhất, song nếu luận thực lực, hai người kia cũng tuyệt đối không kém hơn bà ta”.
Từ Tử Lăng thở hắt ra một hơi nói: “Trước khi Hướng Vũ Điền chết đi đã khôi phục lương tri, Thạch Chi Hiên và Bích Tú Tâm kết hợp, chắc cũng đã cải tà quy chính”.
Tào Ứng Long lộ ra nét mặt vừa kinh sợ vừa khinh bỉ: “Phì!” một tiếng rồi nói: “Thạch Chi Hiên là kẻ thiên sinh tà ác, sự diệt vong của Tùy triều, thiên hạ từ thống nhất biến thành phân loạn như ngày hôm nay, y là kẻ phải nhận trách nhiệm lớn nhất”.
Từ Tử Lăng ngạc nhiên nói: “Có chuyện này sao, Thạch Chi Hiên dựa vào bản lĩnh gì mà lật đổ Tùy triều chứ?”.
Tào Ứng Long nghiến răng kèn kẹt nói: “Thạch Chi Hiên còn có một thân phận khác, chính là đại thần được Dương Quảng sủng tín nhất, Bùi Cự, phụ trách việc mậu dịch trong ngoài nước. Chính là do y xúi dục, nên Dương Quảng mới làm ra chuyện điên rồ là mang quân viễn chinh Cao Lệ, để chuốc lấy thất bại thảm hại”.
Từ Tử Lăng giật mình kinh hãi.
Ngày đó ở Mạn Thanh Viện, Hình Mạc Phi đã từng nhắc đến người này, nói rằng y có viết ra một bộ Tây Vực Đồ Ký gồm ba quyển ký thuật phong tục tập quán của bốn mươi bốn nước ở Tây Vực, phần cuối cùng ở đoạn tự văn có ghi: “Hồn, Đột khả diệt”, làm cho Dương Quảng hưng binh viễn chinh Tây Vực, gây ra cảnh máu chảy thành sông, thây chất thành núi. Lần này Phục Khiên đông lai, cũng chính là vì muốn tìm họ Bùi này để tính sổ. Người này lại giỏi dùng gian kế, hô phong hoán vũ ở Tây Vực, làm cho Đột Quyết phân ly, tàn sát lẫn nhau, thây chất đầy nội. Dương Quảng cũng vì ba lần viễn chinh Cao Lệ mà dẫn đến phiến quân nổi lên khắp nơi, cuối cùng cũng bị diệt vong.
Tào Ứng Long gằn giọng nói: “Dương Quảng bất nhân vô đạo, tuy nói là có liên quan đến bản tính phản phúc của y, nhưng nếu không phải có Thạch Chi Hiên ở sau xúi bẩy, thì tuyệt đối không thể hủy diệt được cơ nghiệp hùng hậu mà Dương Kiên đã gầy dựng trong thời gian ngắn như vậy”.
Từ Tử Lăng bắt đầu cảm thấy ghê sợ: “Làm như vậy thì có lợi gì cho y chứ?”.
Tào Ứng Long thở dài: “Vấn đề là bất luận Văn Đế hay Dạng đế đều hết sức đề xướng phật giáo, xây dựng phật tự khắp toàn quốc, cho quảng bá kinh phật, tuyên dương phật giáo, thậm chí còn có thể nói là dùng sức mạnh của quốc gia để tuyên truyền phật giáo, việc này hoàn toàn đi ngược lại với tín niệm của Ma Môn, Thạch Chi Hiên làm sao có thể để cho họ Dương làm như vậy được. Nói cho cùng thì cuộc chiến giữa Từ Hàng Tịnh Trai và Ma môn, rốt cuộc cũng chỉ là cuộc tranh giành xem chính thống chi đạo thuộc về tay ai mà thôi”.
Từ Tử Lăng nghe mà tròn mắt há hốc miệng, không hiểu hỏi: “Nếu chỉ là muốn đối phó với Từ Hàng Tịnh Trai và Tịnh Niệm Thiền Viện, vậy tại sao các phái trong Ma môn không tập trung toàn lực, đánh một trận tiêu diệt hai môn phái này, mà lại phải để vạn dân cuốn vào vòng nước lửa này, nếu để cho ngoại tộc thừa cơ xâm lấn thì không phải là được không bằng mất hay sao?”.
Tào Ứng Long mỉm cười đáp: “Mục đích mà Ma môn theo đuổi chính là tuyệt tình tuyệt tính, luyện được công pháp chí cao thì sẽ tuyệt tử tuyệt tôn. Bọn họ cũng xem sinh mạng chỉ là tạm thời và hư ảo giống như Phật giáo, chỉ có điều là phương pháp phá mê của họ lại không phải là cứu nhân tế thế, mà là coi đạo đức lễ pháp như trò chơi, vì vậy vì mục đích, họ có thể bất chấp thủ đoạn, không bị bất kỳ ước thúc gì”.
Từ Tử Lăng thở dài nói: “Những chuyện trước đây Tào huynh làm, quả rất hợp với tôn chỉ của Ma môn”.
Tào Ứng Long chán nản nói: “Bởi vì ta được Ma môn rèn đúc nên, tất cả đều cảm thấy hết sức bình thường. Từ khi Hán Vũ Đế bài xích bách gia, độc tôn nho thuật, thì bắt đầu xuất hiện tranh giành đạo thống, thiên hạ bắt đầu có phân biệt chính tà. Đến khi yêu giáo Đông lai, dịch Hồ thư sang tiếng Hán thì sự tình lại càng phức tạp. Đối với các vị mà nói, tranh thiên hạ chỉ là tranh đoạt chính trị, còn đối với chúng ta thì đây lại là cuộc tranh giành đạo thống. Người hưng vượng thì ta trầm luân không thể ngóc đầu dậy, cho dù giờ ta đã tỉnh ngộ, ăn năn về những chuyện mình làm trước đây, nhưng đối với Phật giáo ngoại lai vẫn căm hận vô cùng. Hừ, Phật giáo cũng chỉ là diễn giảng yêu thư, khuếch trương yêu pháp, trí trá làm đạo trung dung mà thôi. Cái gì mà gây tội nghiệt trước, tương lai sẽ phải chịu quả báo, bố thí một đồng tiền, sẽ nhận được báo đáp gấp vạn gấp trăm chứ, tất cả đều chỉ là một lũ mê muội vọng cầu công đức mà thôi. Nếu thật sự là vạn pháp giai không, thì còn tham mê những thứ đó làm gì?”.
Từ Tử Lăng mới lần đầu nghe người khác bài xích Phật Giáo, những luận điệu này hiển nhiên là luôn ở bên cửa miệng của người trong Ma môn, vì vậy mà Tào Ứng Long vừa nhắc đến là đã thao thao bất tuyệt, nói như trường giang đại hải.
Tào Ứng Long lại nói tiếp: “Còn về chuyện muốn diệt Từ Hàng Tịnh Trai thì lại càng khó hơn. Âm Quý Phái xưa nay đấu tranh với Từ Hàng Tịnh Trai, nhưng thủy chung vẫn đều ở thế hạ phong. Hơn nữa Tịnh Trai đã vượt lên trên các tông giáo bình thường, trở thành thánh địa vô thượng của phật đạo lưỡng gia. Nếu có kẻ nào công nhiên công kích, bọn Ninh Đạo Kỳ hoặc đám cao tăng của Phật Môn Tứ Tông xưa nay vốn không hỏi chuyện trần tục tất sẽ nhúng tay can dự vào”.
Từ Tử Lăng chỉ biết há hốc miệng ra nghe y nói: “Phật Môn Tứ Tông là gì?”.
Tuy gã rất muốn trực tiếp hỏi luôn chuyện của Thạch Thanh Tuyền, nhưng lại không thể tự chủ được để cho chuyện nội tình của Ma môn thu hút. Đến giờ mới hiểu được tại sao họ Tào lại tự tin gã sẽ nghĩ rằng tin tức của y đáng giá, đủ để đổi lấy tính mạng. Nửa canh giờ đã trôi qua trong nháy mắt, tâm thần của Từ Tử Lăng đã hoàn toàn đặt vào cuộc đấu tranh tách biệt khỏi giang hồ hay chính trị nhưng lại có liên quan mật thiết với chúng này.
Tào Ứng Long lại ngước mắt nhìn sắc trời rồi đáp nhanh: “Tứ Tông chính là Thiên Đài Tông, Tam Luận Tông, Hoa Nghiêm Tông và Thiền Tông, chủ trì đều là những cao tăng võ công xuất phàm nhập thánh, đạo hành cao thâm vô lượng, hơn nữa lại chưa bao giờ nhúng tay vào những phân tranh của thế tục và võ lâm, đương nhiên là cũng không có kẻ nào dám đụng tới bọn họ. Ngoại lệ duy nhất chính là Thạch Chi Hiên, y đã từng lần lượt bái làm môn hạ của Gia Tường đại sư của của Tam Luận Tông và Đạo Ngôn đại sư trong Thiền Tông Tứ Tổ để học lén võ nghệ, trong Ma môn y cũng kiêm thông sở trường của hai nhà, nếu không phải Từ Hàng Tịnh Trai có nhân vật kiệt xuất như Bích Tú Tâm, e rằng cho dù Ninh Đạo Kỳ đích thân xuất thủ cũng vị tất đã chế phục được”.
Từ Tử Lăng thấy Tào Ứng Long hợp tác như vậy, thì bắt đầu tin rằng y có thành ý hối cải, đồng thời cũng có chút lo lắng cho an nguy của y, tuy rằng nghi vấn trùng trùng, nhưng lại không dám để câu chuyện đi quá xa, bèn vội vàng nói: “Dương Hư Ngạn và Thạch Chi Hiên có quan hệ gì? Tại sao y lại đi hại nhi nữ của Thạch Chi Hiên?”.
Tào Ứng Long đáp: “Nói một cách nghiêm khắc thì Dương Hư Ngạn chưa thể xem là người trong Ma môn, y có quan hệ với Ma môn, đều là do một tay Thạch Chi Hiên mà nên”.
Tào Ứng Long ngưng lại một chút như suy nghĩ gì đó, rồi ngẩng đầu lên dứt khoát nói: “Dương Hư Ngạn chính là cháu của Dương Kiên, con của Dương Dũng, cháu gọi Dương Quảng bằng chú”.
Từ Tử Lăng động dung thốt lên: “Thì ra là vậy!”.
Từ trước đến nay, gã và Khấu Trọng vẫn không thể nào hiểu rõ được thân phận thần bí của Dương Hư Ngạn, nên không hiểu sao y vừa nghe lệnh Dương Quảng lại vừa giúp đỡ người ngoài đối phó Dương Quảng. Nhưng nếu y đúng là con của Dương Dũng, vậy thì kẻ hại chết huynh trưởng tự lập làm đế kia chính là cừu nhân giết cha của y rồi.
Tào Ứng Long kể tiếp: “Thạch Chi Hiên đã ngầm cứu Dương Hư Ngạn, lấy thi thể của một đứa trẻ khác để thay vào. Có điều y cũng chẳng phải tốt đẹp gì, mà chỉ có ý đồ sau khi lật đổ Tùy triều sẽ giúp Dương Hư Ngạn khôi phục ngai vàng, còn mình thì ở phía sau khống chế. Chẳng ngờ sự tình lại có kỳ biến, y phát hiện cả tâm tính lẫn tư chất đều có thể kế tục được tuyệt học của y, thế nên đã thu làm đồ đệ, truyền cho võ công. Chuyện này ngoại trừ ta ra thì thiên hạ không người nào biết được, vì vậy ta mới dám mặt dày dùng nó làm điều kiện để trao đổi với Từ huynh”. Kế đó y liền nhắm nghiền hai mắt lại, các đốt xương trong cơ thể khẽ phát ra tiếng “rắc rắc”.
Từ Tử Lăng mới lần đầu chứng kiến bí pháp tán công của Ma môn, trong lòng lấy làm tiếc nuối thay cho Tào Ứng Long, nhưng cũng biết là mình không nên ngăn cản y làm vậy.
Tào Ứng Long từ từ nói: “Lúc Thạch Chi Hiên biết được thiên hạ đã đại loạn tới mức ngoài tầm khống chế của y, cũng vì một số nguyên nhân nào đó mà cả ta lẫn Dương Hư Ngạn đều không hay biết, đột nhiên mai danh ẩn tích, cơ hồ như đã biến mất trên cõi đời này vậy. Ta vốn không muốn liên thủ với Chu Xán và Tiêu Tiễn, nhưng Dương Hư Ngạn đã đích thân tới gặp, thuyết phục ta đối phó hai người. Chính y đã tiết lộ cho ta biết Từ huynh và Thạch Thanh Tuyền từng liên thủ đối phó bọn Vu Ô Quyển, còn nói nếu ta không mau chóng giải quyết hai người, có khi Thạch Thanh Tuyền sẽ đem những bí điển của Ma môn mà Thạch Chi Hiên giao cho nàng bảo quản đưa cho Từ huynh, vì vậy cần phải tốc chiến tốc quyết, tiến hành song song hai việc cùng một lúc, để ta đối phó Từ huynh và Khấu Trọng, còn y thì đến Tứ Xuyên gạt lấy kinh điển về tay. Tình tiết bên trong thế nào cả ta cũng không được rõ lắm. Chỉ biết rằng con người Dương Hư Ngạn này tàn ác không thua gì Thạch Chi Hiên, hơn nữa y còn tin chắc rằng chỉ sau khi giết chết Thạch Thanh Tuyền, Thạch Chi Hiên mới khôi phục lại “bản tính” mà xuất đầu lộ diện, giúp y tranh giành thiên hạ”. Nói đến đây, sắc mặt Tào Ứng Long đã trắng bệch như tờ giấy, miệng không ngừng thở hổn hển.
Từ Tử Lăng chợt sinh lòng bất nhẫn, vội cầm hai tay tên đại hung nhân đã từng hoành hành bá đạo, giết người như ngóe này lên, một mặt thăm dò xem y có thực sự tán công hay không, một mặt ngầm vận công khống chế, ngăn không cho y tiếp tục tán công, đồng thời kinh hãi hỏi: “Dương Hư Ngạn nói cho Tào huynh biết mưu gian này đã nhiều ngày nay, ta làm sao kịp ngăn cản chứ?”.
Tào Ứng Long được chân khí của gã truyền vào, sắc mặt bắt đầu có chút huyết khí, thở dài nói: “Ân huệ duy nhất của Thạch Chi Hiên với ta, chính là truyền thụ ma công. Hiện giờ công phu của ta đã hoàn trả lại hết, từ nay không còn nợ y bất cứ thứ gì nữa”.
Y thở dốc một hồi, rồi mới trả lời câu hỏi mà Từ Tử Lăng đang nóng lòng muốn biết: “Tên tiểu tử này không hiểu vì sao đã thọ nội thương rất nặng, cần phải tiềm tu một thời gian mới có thể đến Tứ Xuyên tìm Thạch Thanh Tuyền được, vì vậy nếu Từ huynh lập tức lên đường, rất có khả năng sẽ đến trước y một bước, hóa giải kiếp nạn này cho nàng ta”.
Lúc này thì Từ Tử Lăng đã không còn hoài nghi gì Tào Ứng Long nữa, buông thõng hai tay y xuống, chân thành hỏi: “Rốt cuộc là Tào huynh còn tâm nguyện gì chưa hoàn thành?”.
Tào Ứng Long cười khổ: “Từ huynh quả thực cao minh, đã nhận ra sau khi tán công ta chỉ còn miễn cưỡng sống được nửa năm một năm, có điều tâm nguyện này của ta chỉ có thể dựa vào bản thân mình để hoàn thành. Ôi, chuyện này nói ra gì thật dài lắm. Nhưng nói một cách đơn giản thì ta đã từng bội phản lại tôn chỉ của sư môn, cùng với một nữ tử nảy sinh luyến ái, còn sinh hạ một con gái nữa. Lần này chính là muốn vứt bỏ tất cả, đến gặp mẫu nữ họ một lần, để họ biết rằng ta có nỗi khổ riêng, chứ không phải thật lòng muốn bỏ rơi hai người bọn họ”.
Từ Tử Lăng nghe y nói mà ngây người ra tại chỗ, nếu như trước đây có người nói với gã Tào Ứng Long giết người không chớp mắt mà cũng thâm tình như vậy, quả thực là dù đánh chết gã cũng không thể nào tin được.
Từ Tử Lăng biết thời gian không nhiều, liền chúm môi ngọi ngựa đến, đồng thời hỏi: “Lưỡng phái lục đạo rốt cuộc là những phái hệ nào, quan hệ ra sao? Thạch Chi Hiên kiêm thông sở trường của môn phái nào?”.
Tào Ứng Long cảm kích nhận lấy sợi roi ngựa từ tay gã rồi nói: “Thiên Ma Bí tổng cộng chia làm sáu quyển, từ đây mới phát triển ra thành lưỡng phái lục đạo, mỗi phái đều có sở trường riêng, trong đó Thiên Ma Thuật là lợi hại nhất, Đạo Tâm Trủng Ma đại pháp là ngụy dị nhất, nhưng khi Thạch Chi Hiên dung hòa tâm pháp tối cao của Hoa Gián Phái và Bổ Thiên Các, sáng tạo ra kỳ công huyền ảo vô song có tên là Bất Tử Ấn thì ngay cả Chúc Ngọc Nghiên và Hướng Vũ Điền cũng phải thở dài thán phục”. Kế đó y lại nói: “Lưỡng phái là Âm Quý Phái và Hoa Gián Phái, lục đạo thì phân thành Tà Cực, Diệt Tình, Chân Truyền, Bổ Thiên, Thiên Liên, Ma Tướng. Trong đó Chân Truyền lại phân thành hai, lần lượt là Đạo Tổ Chân Truyền và Lão Quân Quan”.
Tào Ứng Long tung mình lên ngựa rồi nói: “Lần này từ biệt, sẽ không còn cơ hội gặp lại, Từ huynh hãy cẩn trọng với Dương Hư Ngạn, chỉ thêm một thời gian nữa, y ắt sẽ trở thành Thạch Chi Hiên thứ hai đó”.
Nói đoạn, Tào Ứng Long lại cho tay vào người lấy ra một miếng trúc giản, nhét vào tay Từ Tử Lăng, rồi mới thúc ngựa phóng đi. Thiếu Soái quân liền tản ra hai bên, để y thoát khỏi vòng vây.
Gần ngàn chiến sĩ của mục trường do Khấu Trọng và Thương Tú Tuần dẫn đầu lướt tới như một đám mây, vừa hay nhìn thấy Tào Ứng Long phóng vút đi, rồi biến thành một điểm nhỏ khuất dần nơi chân trời.
Thương Tú Tuần nghi hoặc nhìn theo bóng người đã đi xa tít tắp, đến bên cạnh Từ Tử Lăng hỏi: “Đó không phải là Tào Ứng Long đấy chứ?”.
Từ Tử Lăng thản nhiên đáp: “Chính là y!”.
Thương Tú Tuần thất thanh thốt lên: “Cái gì?”.
Khấu Trọng lúc này cũng thúc ngựa đến bên cạnh Từ Tử Lăng, rồi ghìm cương dừng lại, ánh mắt dịch dần từ hướng chạy của Tào Ứng Long sang chỗ thi thể có cắm cây mộc côn sau lưng của Phòng Kiến Đỉnh, không nói tiếng nào.
Thương Tú Tuần sa sầm nét mặt, nhìn chằm chằm vào Từ Tử Lăng hỏi: “Tại sao lại thả cho y đi?”.
Từ Tử Lăng cúi đầu liếc nhìn trúc giản trong tay, rồi cười khổ đáp: “Y dùng bí mật của Dương Hư Ngạn đổi lấy nửa năm sinh mạng, để có thể đi hoàn thành nốt tâm nguyện đã dang dở nhiều năm của mình”.
Thương Tú Tuần biến sắc nói: “Dương Hư Ngạn là cái thứ gì, mà có thể khiến cho Từ gia cho rằng còn quan trọng hơn cả huyết cừu của trăm ngàn chiến sĩ trong mục trường chứ?”.
Khấu Trọng vội vàng hòa giải: “Trường chủ bớt giận, Tử Lăng làm vậy ắt hẳn là có lý do của hắn”.
Thương Tú Tuần mặt lạnh như băng nói: “Ngươi đương nhiên phải giúp hắn rồi! Không phải ta tức giận, mà chỉ muốn có một giải thích vừa ý mà thôi”.
Lúc này trời đã bảnh sáng, trên thảo nguyên tuy có cả ngàn người đang đứng, nhưng người nào người nấy đều im lặng như ve sầu mùa đông, nín thờ chờ đợi.
Từ Tử Lăng ngước mắt lên nhìn thẳng vào gương mặt xinh đẹp nhưng phủ đầy sát khí của Thương Tú Tuần, cười khổ nói: “Ta vốn đã hạ quyết tâm không để Tào Ứng Long sống rời khỏi đây, nhưng chỉ vì y lấy một tin tức có liên quan đến sinh tử của một vị bằng hữu của tiểu đệ ra trao đổi, nên mới không thể không...”.
Thương Tú Tuầnhấp tấp ngắt lời gã: “Là bằng hữu gì?”.
Từ Tử Lăng thực thà đáp: “Là Thạch Thanh Tuyền, trường chủ đã nghe qua tên nàng bao giờ chưa?”.
Thương Tú Tuần ngây người, kế đó thì mặt không còn chút huyết sắc, Khấu Trọng thầm kêu hỏng bét, đang không biết bổ cứu thế nào thì vị trường chủ xinh đẹp này đã nói: “Thì ra là Thạch Thanh Tuyền, chẳng trách mà Từ Tử Lăng ngươi lại bỏ mặc huyết cừu của Phi Mã Mục Trường, còn thả cho tên ác tặc đáng chết ngàn vạn lần này nhập hải quy sơn, để y tiếp tục tàn hại bá tánh vô tội nữa. Hừ, coi như ta đã nhìn lầm ngươi!”.
Kế đó nàng lại quay sang nhìn Khấu Trọng, gằn giọng nói: “Hiện giờ ta đuổi theo Tào Ứng Long, ngươi đi hay là không đi!”.
Khấu Trọng ra vẻ khó xử nói: “Lăng thiếu gia vừa nói Tào Ứng Long chỉ còn lại nửa tính mạng, chắc không sống nổi quá nửa năm, trường chủ hà tất...”.
Thương Tú Tuần nhấn giọng nói từng chữ một: “Ta chỉ hỏi ngươi, đi hay là không đi!”.
Khấu Trọng cúi đầu buồn bã nói: “Lời của Lăng thiếu gia, cũng là ý của Khấu tiểu tử này, mong trường chủ bỏ quá!”.
Thương Tú Tuần thúc ngựa lên phía trước hơn mười bước, rồi vòng ngược trở lại, đảo mắt một vòng, phụng nhãn sáng rực lên, gật đầu nói liền ba tiếng: “hảo, hảo hảo!” rồi cao giọng nói: “Ân ân oán oán giữa chúng ta từ nay nhất đao lưỡng đoạn, sau này không còn liên quan gì đến nhau nữa! Các huynh đệ! Đi theo ta!”.
Thương Tú Tuần chẳng ngờ lại không đuổi theo Tào Ứng Long, mà quay ngược trở lại đường cũ, các chiến sĩ mục trường ngơ ngác nhìn nhau trong thoáng chốc rổi cũng đuổi sát theo sau nàng, đến như gió, đi cũng như gió, trong nháy mắt đã biến mất không còn một bóng, chỉ còn lại mình hai gã và hơn trăm binh sĩ của Thiếu Soái quân.
Khấu Trọng nhảy xuống ngựa, lắc đầu cười khổ nói: “Nữ nhân ghen tuông”.
Từ Tử Lăng ngượng ngùng thở dài: “Ta xin lỗi”.
Khấu Trọng vỗ mạnh lên vai gã rồi nói: “Cả đời này chỉ có hai huynh đệ, ngươi còn nói những lời đó làm gì? Không có Phi Mã Mục Trường thì thôi, có phải là ngày tận thế đâu mà phải sợ”.
Từ Tử Lăng bất giác cảm thấy một cảm giác ấm áp dâng lên từ tận sâu thẳm trong đáy lòng, cầm trúc giản dúi vào tay Khấu Trọng, thấp giọng nói: “Bên trong chắc là bản đồ dẫn đến nơi cất giấu tiền tài của Tứ Đại Khấu, đáng lẽ nó là của Dương Hư Ngạn, nhưng Tào Ứng Long đã tặng lại cho ta. Rảnh rỗi thì ngươi lấy ra xem thử coi có dùng được không”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách