Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: ptqa90
Thu gọn cột thông tin

[Kiếm Hiệp] Tố Thủ Kiếp | Ngọa Long Sinh (Hoàn thành)

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 6-9-2015 20:29:04 | Xem tất
HỒI 27 - SỰ BÍ MẬT TRỌNG ĐẠI
Điền Tú Linh đưa mắt nhìn hai người rồi nói:
- Những kẻ võ công tầm thường, một khi vào làm môn hạ cho Nam Cung thế gia, thì công lực có thể tăng lên gấp bội và sẽ suốt đời cúc cung tận tuỵ phục vụ cho Nam Cung thế gia, không bao giờ thay đổi. Đầu óc của họ chỉ biết có hai việc: một là, luyện vũ công; hai là, vâng mệnh đi giết người. Còn ngoài ra không biết gì khác nữa.
Bách Đại thừa dịp hỏi dồn:
- Từ xưa đến nay, những loại thuốc làm cho người ta mê lú, mất bản tính không phải là ít, nhưng chưa hề nghe đến có loại thuốc nào lại làm cho người ta phải tận trung, tận nghĩa với mình như thuốc của lệnh tổ bà đã cho những tay hào kiệt uống. Bần tăng tính rằng, lệnh tổ bà còn dùng thủ pháp độc môn kỳ bí nào khác nữa, có đúng chăng?
Tú Linh cau mày, cúi đầu không nói gì nữa.
Bách Đại lại trầm giọng nói:
- Đó tuy chỉ là lời ức đoán nhưng bần tăng dám chắc là không sai sự thật là bao nhiêu.
Tú Linh chợt ngẩng đầu, đáp:
- Đại sư đoán quả không sai!
Bách Đại đôi mắt long lanh, hỏi:
- Lệnh tổ bà dùng phương pháp gì? Phu nhân có thể cho bần tăng biết được không?
Tú Linh thở dài:
- Lão tổ bà tôi học rộng nhớ nhiều, tri thức phong phú, khắp gầm trời này có lẽ không có được người thứ hai. Chính tôi cũng không hiểu là thủ pháp ấy do tổ bà tôi tự sáng chế ra, hay là theo một võ lâm bí kíp nào thất truyền đã lâu đời, cũng không rõ nữa.
Bách Đại tuy không nói ra, nhưng trong lòng vẫn nghi hoặc, không biết nàng nói thực hay nói dối.
Bách Nhẫn từ nãy giờ vẫn ngồi yên, lúc này mới lên tiếng:
- Điều làm cho lão nạp băn khoăn nhất là nhà Nam Cung thế gia vốn dĩ đã là lãnh tụ võ lâm. Vì cớ gì lệnh tổ bà lại muốn làm cỏ hết thẩy bọn võ lâm đồng đạo như vậy.
Tú Linh buồn bã, khẽ đáp:
- Con không kể lỗi cha, vợ không nói xấu chồng, tổ bà tôi dù sao cũng là bậc trên, nên có nhiều điều, tôi nói ra không tiện.
Nàng ngừng một lát, rồi thở dài nói tiếp:
- Chẳng giấu gì hai vị, tổ bà tôi thần trí hình như cũng không được sáng suốt lắm, tựa hồ đối với ai bà cũng thù, cũng ghét, có khi còn thù ghét cả chính bản thân mình …
Bách Nhẫn, Bách Đại bất giác cùng rùng mình. Ba người đều im lặng một lúc. Bách Nhẫn đại sư mới thở dài, nói:
- Hận thù …hận thù, ôi!...
Tú Linh từ từ cúi đầu xuống, nói:
- Bà không hề tin cậy một ai. Ngay đến bọn chúng tôi là con cháu dâu chí thân cũng vậy. Trong nhà chỉ có vị phu nhân đời thứ hai là còn gần gũi với bà hơn cả, vậy mà chính ngay vị phu nhân ấy trong mình vẫn bị chất độc phục sẵn như chúng tôi, bất cứ lúc nào tổ bà chỉ cần vẫy tay một cái là chúng tôi sẽ chết ngay tức khắc, không còn cách gì cứu chữa được nữa.
Nói tới đây, hình như nàng bị xúc động mạnh, nên giọng nói hơi run run, đôi má ửng hồng.
Giây phút yên lặng trôi qua, Tú Linh chợt quay lại nhìn Lan Cô nằm trên giường, run run nói:
- Hai vị đại sư có biết người nằm trên giường kia là ai không?
Bách Nhẫn, Bách Đại cùng kinh ngạc, lắc đầu. Bốn con mắt cùng đăm đăm nhìn Điền Tú Linh, ra ý hỏi. Tú Linh mỉm cười buồn bã nói:
- Ở đây, chúng tôi đều gọi nàng là Lan Cô. Nhưng “Lan Cô” chỉ là một cái tên mà mãi sau này tổ bà tôi mới đặt cho nàng, thực ra thì nàng còn có tên họ khác.
Bách Đại vội hỏi:
- Phu nhân có thể cho chúng tôi biết tên thật của nàng ta được không?
Tú Linh thủng thỉnh đáp:
- Tên họ của nàng, có lẽ trong giới võ lâm không một ai không biết. Hai vị đại sư chắc thế nào cũng đã từng nghe thấy.
Bách Đại vội hỏi:
- Ai?
Điền Tú Linh đôi mắt sáng lên, nói một cách rất thong thả:
- Đại sư có biết cách đây đã lâu lắm, trong võ lâm có một vị nữ ma đầu rất thích mặc áo đỏ, tên gọi là …
Bách Nhẫn vội giật mình, ngắt lời:
- Phu nhân nói thế, có lẽ vị này trước kia đã từng chỉ một phẩy tay đã hạ sát thất kiệt, và trong khi chuyện trò cười nói đã độc sát luôn mười bảy cao thủ võ lâm đương thời, vị này là …
Hình như cả Bách Nhẫn đại sư lẫn Điền Tú Linh đều không muốn nhắc đến tên “người ấy” nên chỉ nói đến đấy thì cùng ngừng lại.
Không khí trong phòng lúc này thật nặng nề, khó thở. Một lúc khá lâu, Bách Nhẫn mới thở dài, nói tiếp:
- Lệnh tổ bà thật là bực kỳ tài, một vị nữ ma đầu như vậy, mà cũng thu phục nổi.
Tú Linh thủng thỉnh nói:
- Tổ bà tôi sau khi tìm được bà ta, liền dùng đủ các thứ thuốc, các loại thủ pháp, làm cho bà tai quên hết mọi sự, chỉ biết luyện võ, chỉ biết liều chết phụng sự lão tổ bà …
Nàng lại đưa mắt nhìn Lan Cô, nói tiếp:
- Bà ta không những quên cả tên tuổi lai lịch, thậm chí còn quên cả tình dục, thời gian, sở dĩ bà ta trẻ mãi như thế là vì óc bà ta không nghĩ đến chuyện thời gian và sự sống chết.
Nàng thở dài một tiếng, rồi nói tiếp:
- Cũng bởi cớ ấy, nên bà ta đối với sự sống chết của kẻ khác cũng không bao giờ để ý.
Nàng giải thích bằng một giọng cực kỳ êm ái, ngọt ngào, khiến cho một việc xấu xa, hung ác đó chẳng những đã được bao trùm bằng một màu sắc diễm lệ, thần bí mà còn làm cho nó bao gồm một triết lý cao siêu riêng biệt nữa.
Bách Nhẫn, Bách Đại ngẩn mặt nhìn nhau, cùng ngồi ngây người ra, không biết nói gì nữa.
Tú Linh lại nói:
- Nếu nàng khôi phục được trí nhớ, nhớ lại tất cả những sự sống chết, biệt ly, cùng bao nhiêu tình cảm đau thương, khổ não, vui buồn, thì chắc sẽ không dám khinh thường sự sống chết của con người đến thế.
Bách Nhẫn thở dài nói:
- Thiện tai, thiện tai! Nữ thí chủ quả là người có tâm huyết. Thủ đoạn của Lan Cô độc ác như vậy, người đời ai chẳng cho là vì Nam Cung phu nhân dùng dược vật để kích thích cái thiên tính hung độc của bà ta lên, mà có ngờ đâu bản tính con người ai cũng lương thiện, mà Nam Cung phu nhân chỉ dùng dược vật làm cho người ta mê lú cái bản tính ấy thôi.
Tú Linh cười một cách buồn bã:
- Đại sư nói chí phải! Chỉ tiếc rằng dù có Đức Quan Âm Bồ Tát hiện lên thuyết pháp cũng không thể làm cho bà ta khôi phục lại bản tính được nữa.
Bách Đại nghiêm trang nói:
- Phu nhân nói thế, chẳng khỏi quá bi quan …
Ông nói chưa dứt lời, chợt nghe bên cạnh có tiếng cười, nói chen vào:
- Phải! Quả là bi quan thái quá!
Thì ra không biết Nhâm Vô Tâm đã tỉnh lại từ bao giờ, chỉ vì hai người đang mãi say sưa nghe câu chuyện kể của Điền Tú Linh nên không ai để ý.
Bách Nhẫn giật mình ngoảnh lại, mừng rỡ:
- Nhâm tướng công đã khỏi rồi đấy ư?
Nhâm Vô Tâm cười, vươn vai đứng lên nói:
- Tuy chưa thật khỏi, nhưng cũng gần khỏi.
Rồi chàng chắp tay vái Điền Tú Linh, mỉm cười nói:
- Tại hạ khỏi bệnh toàn là nhờ ơn của phu nhân ban cho. Tại hạ xin đa tạ!
Điền Tú Linh cũng mỉm cười, đứng lên đáp lễ:
- Tướng công có lẽ số còn trường thọ, nên trời mới mượn tay bà má tiện thiếp cứu giúp, chứ tiện thiếp có công gì đâu, mà dám nhận tạ.
Nhâm Vô Tâm đảo mắt nhìn quanh nhà, rồi hỏi:
- Chẳng hay Tứ phu nhân đi đâu rồi?
Điền Tú Linh chỉ đáp vắn tắt:
- Bà má tôi vừa hết phiên trực, nên đã cùng Diệp Sương Y về nhà trong rồi.
Nhâm Vô Tâm lại nói với Bách Nhẫn, Bách Đại:
- Bây giờ chúng ta nên rút lui cho mau, ở lại sợ lộ tông tích, lại gây thêm phiền phức cho các vị phu nhân.
Bách Nhẫn gật đầu nói:
- Phải đó! Ta không nên nấn ná ở đây lâu.
Điền Tú Linh thở dài:
- Ba vị đi, tiện thiếp cũng không dám giữ, chỉ mong sau này có phen gặp gỡ, xin các vị cứ coi như chưa gặp thiếp bao giờ, thì may cho thiếp lắm!
Ba người không biết nói sao, chỉ biết vòng tay thi lễ rồi lần lượt lui ra. Khi đã ra tới cửa ngoài, Nhâm Vô Tâm chợt đứng sững lại, ngập ngừng nói với Tú Linh:
- Cứ theo những lời giang hồ đồn đại thì thiếu chủ nhân của nhà Nam Cung thế gia đã bị hại từ lâu, nhưng kỳ thực …
Điền Tú Linh sắc mặt chợt hốt hoảng, nụ cười trên môi vụt tắt biến, run run hỏi:
- Kỳ thực … kỳ thực làm sao? Xin tướng công nói cho tiện thiếp nghe.
Nhâm Vô Tâm do dự một lát, rồi quả quyết đáp:
- Theo như tại hạ biết thì thiếu chủ nhân đời thứ năm của Nam Cung thế gia tuy gặp nguy nan, nhưng vẫn chưa đến nỗi phải bỏ mạng.
Điền Tú Linh vừa nghe đến đây, trống ngực chợt đập thình thịch, sắc mặt tái mét, hỏi dồn:
- Thực … thực thế à?
Bách Nhẫn, Bách Đại đã đi được vài bước, cũng giật mình đứng sững lại, lắng tai nghe.
Nhâm Vô Tâm nghiêm sắc mặt:
- Tại hạ tuy không dám xác định, nhưng mười phần cũng chắc được ba, bốn, nếu không thì đâu dám nói liều?
Tú Linh vừa sợ, vừa mừng, vội hỏi:
- Nhâm tướng công có biết hiện giờ chàng đang ở đâu không?
Giọng nàng hơi run run, tỏ ra đã xúc động mãnh liệt. Nhâm Vô Tâm thủng thỉnh đáp:
- Đó là một việc tối ư bí mật, trên đời này hoạ chăng chỉ có hai vị lão nhân biết rõ sự thực, còn tại hạ chẳng qua cũng chỉ biết có thế thôi.
Tú Linh vội hỏi:
- Hai vị lão nhân đó là ai?
Nhâm Vô Tâm nói dằn từng tiếng một:
- Tử Cốc Nhị Kỳ! Phu nhân có nghe thấy cái danh ấy bao giờ chưa?
Tú Linh ngẩn người, lẩm bẩm:
- Tử Cốc Nhị Kỳ …. Tử Cốc Nhị Kỳ …
Nàng vừa lẩm nhẩm, vừa đưa mắt hết nhìn Bách Nhẫn lại nhìn Bách Đại. Hai vị đại sư cũng lắc đầu, cười một cách gượng gạo.
Nhâm Vô Tâm nói:
- Tại hạ cũng chắc là phu nhân không biết. Hai vị lão nhân đó có thể nói là vũ công thiên hạ vô địch, kiến văn thì uyên bác vô cùng.
Bách Đại liền nói:
- Hai vị ấy chắc trước kia cũng có một đoạn lịch sử huy hoàng, rực rỡ, nhưng bây giờ vì đã mai danh ẩn tích lâu ngày nên không còn ai nhớ đến nữa! Vì thế nên chính bần tăng cũng không biết.
Nhâm Vô Tâm gật đầu:
- Đại sư đoán chắc không sai! Điều ấy tại hạ cũng không rõ lắm!
Tú Linh lại hỏi:
- Tử cốc ở đâu? Tướng công có thể cho tiện thiếp biết được không?
Nhâm Vô Tâm lắc đầu:
- Xin thứ lỗi, tại hạ không thể nói được!
Tú Linh ứa nước mắt, nói:
- Nhâm tướng công nếu thương tôi là kẻ cơ khổ linh đinh thì xin làm phước trỏ đường cho tôi. Ơn ấy tôi quyết chẳng bao giờ dám quên.
Nhâm Vô Tâm ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Nếu phu nhân muốn đi thì tại hạ có thể đưa phu nhân lên Tử Cốc được!
Tú Linh vui mừng, nói:
- Thực ư?
Nhâm Vô Tâm quả quyết nói:
- Tại hạ khi nào dám nói dối phu nhân!
Tú Linh hớn hở:
- Nếu vậy tiện thiếp xin đa tạ tướng công, và xin được đi theo tướng công ngay bây giờ …
Đang nói chợt nàng ngừng bặt, cúi đầu buồn bã, tiếp:
- À, mà tiện thiếp còn vướng mấy việc chưa thu xếp xong. Vì vậy, chưa thể đi ngay được. Làm thế nào bây giờ?
Nhâm Vô Tâm nói:
- Nếu phu nhân chưa thu xếp xong, tại hạ có thể dời lại được. Lúc nào phu nhân xong việc thì chúng ta sẽ cùng đi.
Tú Linh lại tươi cười nói:
- Vậy thì hay lắm! Xin tướng công biên cho một địa chỉ, trong vòng năm ngày, tiện thiếp xin đến bái kiến.
Nhâm Vô Tâm nói:
- Cách đây mười dặm có một toà tiểu miếu, ba hôm nữa tại hạ sẽ đến đó chờ phu nhân.
Tú Linh đáp:
- Tiện thiếp xin y hẹn!
Nhâm Vô Tâm gửi lời cảm tạ đến Trần Phượng Trinh, rồi chắp tay cáo biệt, đoạn cùng Bách Nhẫn, Bách Đại sánh vai đi ra. Điền Tú Linh còn đứng trông theo, mãi tới khi bóng ba người đã khuất hẳn, mới ngậm ngùi quay gót trở vào.
Bọn Nhâm Vô Tâm ra khỏi căn nhà lá, liền trổ thuật khinh công chạy thẳng một mạch hơn mười dặm, tới một sườn núi, hình thế cực kỳ cheo leo hiểm trở.
Lúc này, vừng đông đã rạng, gió mát hiu hiu, quang cảnh xung quanh thật âm u tĩnh mịch.
Nhâm Vô Tâm chợt dừng chân lại, thở ra một hơi dài nói:
- Chỗ này kín đáo yên tĩnh, ta hãy nghỉ chân một lát. Tại hạ còn có mấy việc quan trọng, cần phó thác hai vị đại sư.
Bách Nhẫn liền nói:
- Xin tướng công cứ nói!
Nhâm Vô Tâm nói:
- Sự dụng tâm của Nam Cung phu nhân đã sáng tỏ như ban ngày, nếu ta không kịp thời chặn lại thì một cuộc tàn sát thảm khốc trong giới võ lâm tất không sao tránh khỏi. Nhưng nếu muốn ngăn chặn hành động điên cuồng của Nam Cung phu nhân mà chỉ bằng vào sức mấy người chúng ta, liệu có thể được không?
Bách Nhẫn lắc đầu nói:
- Cố nhiên là không được. Nhâm tướng công có cao kiến gì xin cứ cho biết.
Nhâm Vô Tâm nói:
- Bởi những lẽ đó nên tại hạ định vào Tử Cốc một lần nữa.
Bách Nhẫn đại sư liền hỏi:
- Tử Cốc Nhị Kỳ tất nhiên có mối giao tình sâu đậm với Nhâm tướng công, có phải không?
Nhâm Vô Tâm đáp:
- Hai vị ấy đối với tại hạ đều có cái ơn truyền nghệ, chỉ đáng tiếc là cả hai đều không thể rời khỏi Tử Cốc được. Nhưng tại hạ thiết tưởng, trên đời này trừ hai vị ấy ra thì không còn nhân vật nào có thể đối đầu với Nam Cung phu nhân được nữa.
Bách Đại nói:
- Khi nào gặp hai vị đó, tướng công nên hỏi cách đối phó với Lan Cô như thế nào? Theo ý bần tăng thì trong nhà Nam Cung thế gia thì chỉ có Lan Cô là đáng sợ hơn cả.
Nhâm Vô Tâm đáp:
- Điều đó đại sư khỏi cần căn dặn thì tại hạ cũng nhớ. Việc tại hạ định uỷ thác với hai vị đại sư, là sau khi tại hạ đi khỏi thì nhờ hai vị chủ trì đại cuộc cho.
Bách Nhẫn nói:
- Chỉ sợ chúng tôi tài thô học thiển, không gánh vác nổi trách nhiệm chăng?
Nhâm Vô Tâm nói:
- Vô luận người nào cũng không dám khoe là có thể chống cự nổi với Nam Cung thế gia. Hai vị đại sư không cần phải lo, tình thế này, ta chỉ biết xuất tận lực tận trí, còn thành bại thế nào là do trời định.
Bách Nhẫn nói:
- Đã vậy xin tướng công cứ sai bảo. Lão nạp quyết không dám từ nan.
Nhâm Vô Tâm nói:
- Việc này cũng là vạn bất đắc dĩ, hai vị có thể thay tục trang mấy hôm để đánh lạc hướng điều tra của Nam Cung thế gia được không?
Bách Nhẫn còn đang do dự, chưa kịp trả lời thì Bách Đại đã nói đỡ:
- Đại sư huynh bần tăng là chưởng môn Thiếu Lâm Tự nên có trách nhiệm quản lý môn hộ, thống xuất mấy ngàn đệ tử, nên nhất cử nhất động đều có ảnh hưởng đến tai mắt võ lâm, vì thế khi hành sự phải hết sức tránh những gì có thể vượt qua quy cũ của bản phái. Nhâm tướng công nếu muốn sư huynh bần tăng cải trang, thì thực quả là một điều khó khăn.
Nhâm Vô Tâm mỉm cười, ngượng nghịu:
- Tại hạ …
Bách Đại vội xua tay, ngắt lời:
- Nếu việc này vào thế bất đắc dĩ, không thể làm thế nào khác được thì một mình bần tăng xin đảm nhận hết. Một mình bần tăng tuy không thể làm vừa ý Nhâm tướng công, nhưng bần tăng nguyện xin cố gắng.
Nhâm Vô Tâm kính cẩn đáp:
- Đại sư chịu tòng quyền như vậy. Tại hạ chỉ biết thay mặt võ lâm đồng đạo kính tạ một lễ.
Bách Đại nói:
- Bần tăng không dám. Nhâm tướng công có cần gì thì xin cứ nói thẳng.
Nhâm Vô Tâm trầm ngâm một lát, rồi nói:
- Hiện nay, võ lâm trong thiên hạ chia thành hai tập đoàn. Một tập đoàn phải lấy Nam Cung thế gia làm trung tâm, do Nam Cung phu nhân thống lãnh. Còn một tập đoàn là do những cao thủ võ lâm không sợ cường quyền, không muốn cam tâm làm thân tôi mọi như chúng ta đây, kết hợp lại mà thành. Hai khối tập đoàn đó bờ cõi đã phân minh, ranh giới đã quyết định, trông bề ngoài thì tưởng là hai bên đều ở thế quân bình, không ai kém ai, nhưng thực ra thì thực lực của chúng ta so với Nam Cung thế gia còn cách nhau một trời một vực. Tình huống đó, lúc này còn chưa rõ lắm, chỉ vì hai bên chưa thực sự đụng độ với nhau một trận lớn nào cả. Vậy nên kế hoạch của chúng ta lúc này là phải gấp rút chuẩn bị mọi mặt, mới kịp thời đối phó với tình thế.
Bách Nhẫn, Bách Đại đều gật đầu, công nhận là phải, nhưng không ai ngắt lời. Nhâm Vô Tâm lại tiếp:
- Công lực của Nam Cung phu nhân không nói làm gì, chỉ riêng bảy mươi hai tên Địa Sát, thuộc hạ của mụ, võ công cũng đã đủ kinh hồn. Trong số đó, có kẻ bị Nam Cung phu nhân cho uống thuốc độc, làm mê lú mất bản tính, có kẻ vì khiếp sợ uy thế của Nam Cung thế gia mà phải theo, lại cũng có kẻ bị viễn ảnh tương lại dụ hoặc, mà cam tâm tình nguyện làm tôi tớ cho mụ.Tỷ dụ như phe Cái Bang có Xà Thần Khang Tổ, phe Hoàng Giáo có Thiên Thủ Như Lai Phổ Phan,phái Nam Hải Kiếm Pháp có Mộ Dung Phi… Bọn này đồng tâm nhất trí vì Nam Cung phu nhân tranh đoạt thiên hạ. Họ tin tưởng rằng, một mai thành công, bọn họ sẽ trở nên khai quốc công thần của nhà Nam Cung thế gia. Vậy nên bọn họ không hề tiếc công sức, tiếc tính mạng, mà dốc lực chống đối với bọn ta.
Trong khi nói, ba người đã đi tới một toà thạch động. Lúc này, trời đã gần trưa, nhưng vì là giữa mùa đông, nên trời vẫn còn lạnh như cắt thịt.
Ngẩng đầu trông lên chỉ thấy mây đen u ám, che khuất cả ánh dương. Tiết trời có vẻ như sắp có trận mưa tuyết, mà thường thường trước khi tuyết xuống, thiên khí vẫn rất dễ làm cho người ta cảm thấy bâng khuâng, buồn bã. Sắc mặt của Nhâm Vô Tâm chính hợp với sắc trời đó.
Chàng thở dài nói tiếp:
- Tuy nhiên, đáng sợ nhất là hạng người bị Nam Cung phu nhân dùng dược vật khống chế, bọn ấy đều công lực cao cường, thậm chí cả Trung Nguyên Tứ Quân Tử, Ngôn Phượng Cương, Lỗ Bình, địa vị toàn là tôn chủ một phái, lúc này họ đã quên hết dĩ vãng, trong bụng chỉ còn biết liều mạng chống lại bọn ta, mà mình thì không thể không lý đến thân thể địa vị với cái thanh danh hiệp nghĩa trước kia của họ được. Vì thế, trong lúc động thủ lại càng thêm khó cho mình …
Bách Nhẫn nghe đến đây, chợt buột miệng ngắt lời:
- Tướng công kiến giải thật là thấu đáo từ chân tơ, kẽ tóc. Vậy mà từ trước đến giờ, bần tăng chưa từng nghĩ đến điều đó.
Nhâm Vô Tâm lại tiếp:
- Giả sử thực lực của chúng ta có thể tương đương với họ đi chăng nữa, thì tình thế đó cũng đã bất lợi cho ta rồi, huống hồ bên ta những người có thể đương đầu với Thất Thập Nhị Sát, hoạ chăng chỉ có hai vị đại sư và năm, bảy vị bên phái Võ Đang mà thôi. Vậy thì đến lúc hai bên đương đầu, ta làm sao có thể thắng được họ?
Bách Nhẫn, Bách Đại nghe bấy nhiêu lời, đều có cảm tưởng như đang bị tảng đá nặng ngàn cân từ từ đè lên trái tim, tức hơi không thở được nữa.
Tiền đồ thật là mịt mù u ám, không trông thấy một tia ánh sáng nào, có thể bám víu được. Hai vị cao tăng tuy đã đặt sự sống chết ra ngoài cuộc đời, mà lúc này cũng không khỏi vì kiếp nạn của cõi hồng trần mà lo âu thấp thỏm.
Im lặng một lúc, Nhâm Vô Tâm lại thủng thỉnh:
- Trước cục diện gian khổ này, bên ta chỉ có một hy vọng thủ thắng, ấy là phải tìm cách gì để khôi phục lại thần trí cho bọn võ lâm cao thủ kia. Do đó, tại hạ mới nghĩ đủ thiên phương bách kế, mời mấy chục vị danh y đương thời tụ hợp lại một chỗ, nghiêm cứu, tìm tòi phương cách giải độc, lại mời mấy chục võ lâm cao thủ về môn điểm huyệt, nghiêm cứu xem Nam Cung phu nhân đã dùng thủ pháp gì, và điểm vào những huyệt bí mật nào trên mình nạn nhân.
Lúc này quả nhiên trời đã có tuyết bay phơi phới như mưa bụi. Nhâm Vô Tâm lấy tay phủi những hoa tuyết bám trên vai áo, rồi nói tiếp:
- Nhưng công tác đó, không những tổn phí bao nhiêu nhân lực vật lực, hơn nữa, lại không biết còn hao phí bao nhiêu thời gian nữa? Và cứ nghe những tin tức do Diệp cô nương đem lại mới đây, thì Nam Cung phu nhân đã luyện thành công mấy môn tuyệt kỹ thần công. Những phương pháp nghiên cứu của ta, dù có cơ hội thành tụ, nhưng thời gian không cho phép, cũng chẳng làm thế nào được …Vì thế nên theo ý của tại hạ, chúng ta hãy tìm đủ mọi cách quấy rối Nam Cung phu nhân, làm cho mụ không thể tập trung, chú ý vào thời giờ luyện công được nữa. Ta cứ kéo dài ngày thành công của mụ được thêm ngày nào hay ngày nấy. Có thế may ra ta mới có đủ thời giờ sửa soạn và xếp đặt công việc.
Bách Đại gật đầu:
- Ý kiến hay lắm! Ta cứ theo thế mà thi hành.
Nhâm Vô Tâm thở dài nói:
- Trước kia, tại hạ những tưởng Nam Cung phu nhân không hề hay biết về những dự mưu của tại hạ, dù đâu mụ đã thấu triệt hết mọi việc. Có điều, mụ đã biết rõ lực lượng của mình không có gì, nên mụ không thèm để ý. Trừ phi bây giờ, thực lực của chúng ta thốt nhiên tăng cường, đủ để uy hiếp mụ, mới bắt buộc được mụ phải chú ý phòng ngừa.
Chàng đưa mắt nhìn khắp bốn phía, rồi lại tiếp:
- Nhưng bọn ta hiện thời chỉ gồm mấy người, mà đại đa số lại đã mai danh ẩn tích, trong các núi sâu rừng thẳm, còn biết đâu mà tìm? Do thế tại hạ mới phải nghĩ tới cách tòng quyền là mời hai vị đại sư và các vị đạo trưởng Võ Đang cải trang, luôn luôn thay đổi y phục, hình dạng, khiêu khích bọn Thất Thập Nhị Sát, cốt làm cho Nam Cung phu nhân nghĩ rằng các vị cao thủ võ lâm lánh đời đã lâu, bây giờ lại xuất hiện và hợp lực với bọn ta. Những biến hoá đột ngột đó, tất làm cho mụ phải kinh hoàng, không biết rõ thực lực của ta ra sao, nên sẽ phải hao phí tâm huyết dò xét điều tra, cuộc luyện công vì thế sẽ phải kéo dài thêm nhiều ngày nữa.
Chàng nói một hơi thao thao bất tuyệt. Bách Nhẫn, Bách Đại nghe xong, trong bụng cũng phải phục thầm.
Nhâm Vô Tâm thở ra một hơi dài, đoạn lại tươi cười nói tiếp:
- Tại hạ đã nói hết chân tình và mọi việc cần phải uỷ thác cho các vị. Bây giờ tại hạ phải gặp Huyền Chân đạo trưởng, rồi mới lên Tử Cốc điều tra thêm về những việc bí ẩn của nhà Nam Cung thế gia.
Bách Nhân cung kính nói:
- Sau khi tướng công nhập cốc, Bách Đại sư đệ sẽ thay tướng công gánh lấy cái trách nhiệm nặng nhọc ấy, xin tướng công cứ an tâm.
Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói:
- Tại hạ đã cho người đi đón Huyền Chân đạo trưởng từ hôm qua, chắc bây giờ cũng đã tới nơi rồi, chúng ta về thôi, kẻo đạo trưởng đợi
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-9-2015 20:50:58 | Xem tất
HỒI 28 - BÀY MƯU ĐỊNH KẾ
Ba người cùng đứng lên, sửa lại xiêm áo, rồi dắt tay nhau trở về thạch động.
Lúc này Huyền Chân đạo trưởng đã tới, được Cù Thức Biểu đưa vào một gian thạch động, ngồi xem sách, chờ chủ nhân về.
Mọi người gặp nhau đều vui mừng thăm hỏi và cùng cảm khái, thở than. Giây lâu, Nhâm Vô Tâm mới đem kế hoạch vừa rồi thuật lại cho Huyền Chân đạo trưởng nghe.
Huyền Chân đạo trưởng nghĩ một hồi, rồi thủng thỉnh nói:
- Bao nhiêu đời chưởng môn phái Võ Đương, tuy chưa từng nghe nói ai có thuật dịch dung cải trang bao giờ, nhưng việc này quan hệ rất lớn đến vận mệnh toàn thể võ lâm, bần đạo đành phải tòng quyền. Lần này, bần đạo sẽ sai đệ tử Huyền Quang đi suốt ngày đêm về Vũ Đương triệu tập những tay cao thủ, còn bần đạo cũng xin dốc toàn lực hiệu lạo. Nhâm tướng công muốn phân phó việc gì, bần đạo cũng xin gắng sức.
Nhâm Vô Tâm mừng lắm, không biết phải nói thế nào để tỏ lòng biết ơn.
Bách Nhẫn trầm ngâm một lát, chợt ngẩng lên nói:
- Nếu Huyền Chân đạo huynh đã tòng quyền thì tại sao bần tăng còn khư khư giữ theo quy cũ, chẳng hoá ra không thông quyền đạt biến lắm sao? Việc này nếu vong linh các vị tổ tiên bản phái có biết, chắc cũng sẵn lòng tha thứ cho bần tăng.
Nói đến đây, Bách Nhẫn lại quay lại hỏi Bách Đại:
- Sư đệ nghĩ thế có phải không?
Bách Đại mở to đôi mắt, dường như muốn nói gì, nhưng không biết nghĩ sao, lại chỉ thở dài một tiếng, rồi cúi đầu ngồi yên.
Nhâm Vô Tâm vừa phấn khởi, vừa cảm động, vội đứng lên hướng vào Bách Nhẫn đại sư và Huyền Chân đạo trưởng vái dài một vái, nói:
- Hai vị chưởng môn chịu hy sinh vì đại nghĩa như vậy, thật khiến cho tại hạ cảm kích vô cùng!
Hai vị chưởng môn cũng vội đứng lên đáp lễ. Huyền Chân đạo trưởng nói:
- Nhâm tướng công đã vì võ lâm đồng đạo xả thân, xem thường sống chết. Bọn bần tăng chẳng qua cũng chỉ cống hiến đôi chút tài hèn, xá gì mà đáng kể.
oOo
Nhâm Vô Tâm còn được hai ngày nhàn hạ, bèn ở lại thạch động, để các vị danh ý chẩn mạch và bốc thuốc trị thương.
Sáng ngày thứ ba, chàng mới cáo từ mọi người, rồi tới ngôi miếu nhỏ, chờ đón Điền Tú Linh.
Vì trong đám danh y có mấy cao thủ chuyên môn về thuật dịch dung, nên bọn Bách Nhẫn, Bách Đại, Huyền Chân đều phải ở lại mấy ngày, để chờ cải hoàn diện mạo, rồi mới chia nhau đi thi hành nhiệm vụ.
Nhâm Vô Tâm ra khỏi động, xuyên qua cánh đồng cỏ đã bị tuyết phủ trắng xoá. Lúc này, mưa tuyết đã tạnh nhưng bầu trời vẫn còn mù mịt, trước mắt chỉ còn một màu trắng xoá như giải bạc.
Chàng lướt qua cánh đồng, mà chân không hề chạm lên mặt tuyết. Đi được mấy dặm, đã thấy dưới chân sườn núi, ẩn trong một khu rừng rậm, cây cối đều bị tuyết phủ, lộ ra một toà miếu nhỏ.
Chàng đã đem theo rượu và lương khô, ngồi trong cổ miếu vừa ăn vừa đợi. Lúc này, bốn bề vắng lặng vì đang tiết nghiêm đông, nên cả đến những tiếng chim chóc, côn trùng cũng biến mất. Nhâm Vô Tâm đã quen sống tĩnh mịch nên cũng không lấy thế làm khó chịu.
Nhưng chàng chờ mãi đến đêm hôm thứ ba, cũng không thấy tăm tích Điền Tú Linh đâu cả. Tính chàng tuy trầm tĩnh nhưng lúc này cũng không khỏi nóng nẩy, bồn chồn, đoán là có lẽ đã có cớ sự gì xảy ra cho nàng chăng?
Chờ tới canh khuya, tuyết tan, mây tạnh, nền trời đã hiện lên mấy điểm hàn tinh. Nhâm Vô Tâm bước ra cửa miếu, đưa mắt nhìn khắp bốn phía, chỉ thấy ánh sao soi xuống mặt đất, óng ánh như rắc thuỷ tinh.
Chàng đứng ngắm vơ vẩn một lúc, đã toan quay vào, chợt thoáng trông thấy về mé phải có một bóng đen, đang chuyển động rất nhanh trên bãi cỏ trắng như bạc.
Chàng tưởng là Điền Tú Linh đã đến, bèn quay lưng lại, chú ý đứng chờ. Dưới ánh sao khuya, chỉ thấy cái bóng đi nhanh như cỡi gió, nháy mắt đã lờ mờ nhận ra hình dáng, quả đúng là nữ tử.
Nhâm Vô Tâm ngạc nhiên nghĩ thầm: “Không ngờ Điền cô nương lại có môn khinh công tuyệt đỉnh như vậy?”
Nhưng chàng vừa nghĩ tới đó, chợt lại giật mình, vì chàng vừa trông rõ người con gái đó không phải là Điền Tú Linh mà lại chính là Lan Cô, một người “độc” thần bí của nhà Nam Cung.
Nàng mặc một chiếc áo bào đen dài chấm gót, tóc để xoã hai bên vai. Tóc và tà áo nàng tung bay phấp phới trong luồng gió lạnh, nhưng thân hình nàng vẫn không hề có một động tác gì hết, vai vẫn thẳng, lưng vẫn ngay, chân vẫn không nhấc, thật đúng như một bóng ma đang cỡi gió mà bay đến.
Bộ mặt trắng xanh của nàng ẩn trong mớ tóc đen, làm cho màu da trở nên xanh bóng, trông lại càng dễ sợ, nhưng tất cả những vẻ ma quái rùng rợn ấy, vẫn không che hết những nét mỹ lệ trên khuôn mặt thần bí của nàng.
Nhâm Vô Tâm mục lực rất tinh nên từ đằng xa, chàng đã trông rõ trên khuôn mặt đẹp của Lan Cô vẫn có một thần sắc ngây ngô, ngơ ngác, miệng đang lẩm nhẩm, không biết đang nói câu gì.
Nhâm Vô Tâm vội nhảy về phía sau một cây cổ thụ, đứng nấp chờ. Chỉ trong nháy mắt đã thấy Lan Cô đi vượt qua, hai bàn tay nàng thu vào trong tay áo, đôi mắt ngây ngô vẫn nhìn thẳng về phía trước, hình như không hề trông thấy cảnh vật xung quanh.
Miệng nàng vẫn lẩm bẩm nói. Nhâm Vô Tâm đã cố lắng tai, nhưng cũng chỉ nghe loáng thoáng, câu được câu mất:
- Gọi họ ra, rồi lập tức giết chết… bất cứ ai, bất cứ việc gì đều không ngăn nổi ta… Gọi họ ra rồi giết chết ngay… bất cứ ai… bất cứ việc gì…
Nàng cứ nói đi nói lại chỉ hai câu ấy thôi. Lúc này cảnh vật xung quanh vắng vẻ yên tĩnh nên dù nàng đã đi xa mà tiếng nói vẫn còn nghe rõ.
Nhâm Vô Tâm rùng mình kinh sợ, tự nghĩ: “Chắc mụ lại được lệnh đi giết ai đây? “Họ” là ai? Ai là nạn nhân của mụ đêm nay?”
Chàng định chạy theo để xem Lan Cô đi đâu nhưng chỉ trong giây phút do dự, Lan Cô đã chạy biến đi tận đâu, trên mặt tuyết cũng không thấy dấu chân để lại.
Nhâm Vô Tâm đứng thừ người ra một lúc, trong bụng băn khoăn, không biết lát nữa đây, người nào sẽ phải bỏ mạng vì đôi bàn tay ngà ngọc nõn nà kia.
Chàng thở dài, lủi thủi quay về ngôi miếu nhỏ, nhưng vừa đi được vài bước, chợt lại nghe tiếng tà áo bây phần phật ở phía sau.
Nhâm Vô Tâm hốt hoảng quay lại, đã thấy Lan Cô vùn vụt chạy về, đôi mắt vẫn ngơ ngác, miệng vẫn lẩm bẩm, và hai bàn tay vẫn giấu vào bên trong ống tay áo.
Nhâm Vô Tâm kinh sợ, nghĩ thầm: “Mụ đi giết ai mà nhanh đến thế? Từ nãy đến giờ có lẽ chưa thổi chín nồi cơm”. Chàng vừa nhảy tránh vào sau một bụi cây, thì Lan Cô cũng vừa lướt qua bên cạnh, thân hình lẹ như một luồng chớp.
Giữa lúc ấy chợt nghe có tiếng sói tru, rồi một con sói xám không biết từ đâu đã nhảy qua một tảng đá lớn, xông tới trước mặt Lan Cô. Lan Cô vẫn lẩm bẩm: “Bất kì ai, bất kì việc gì… cũng không ngăn cản nổi ta…”
Rồi cũng không rõ nàng làm cách nào, mà bàn tay phải vừa nhẹ nhàng đưa lên, con vật đã bị hất tung lên cao, chỉ kịp kêu oẳng oẳng mấy tiếng, thân hình bắn ra tới hai trượng, rồi như một cái bị gạo, rơi phịch xuống đất. Tức thì một khoảng tuyết trắng đã thấm đẫm những máu sói.
Lan Cô vẫn điềm nhiên đi thẳng, hình như nàng không hề có chút mảy may cảm giác. Tà áo đen vẫn phơi phới tung bay, chỉ thoáng chốc đã chìm dần vào đêm tối.
Nhâm Vô Tâm bước tới bên con sói, cúi xuống xem xét một lúc, rồi lắc đầu lẩm bẩm:
- Võ công cao thật! Thủ pháp giỏi thật!
Nhâm Vô Tâm tuy võ công cũng đã vào bậc siêu đẳng mà cũng không nghĩ ra phương pháp chống trả với ngọn đòn quái ác vừa rồi. Giữa lúc chàng đang nghĩ ngợi, chợt lại nghe tiếng tà áo Lan Cô bay phần phật, chàng vội ngẩng nhìn lên thì bóng nàng chỉ còn cách chỗ chàng đứng hơn mười trượng.
Lan Cô cứ đi đi lại lại như thế, ước tới bốn, năm lần. Nhưng đến lần cuối cùng thì nàng không đi thẳng nữa, mà lại đi vòng xung quanh ngôi miếu.
Nhâm Vô Tâm lấy làm lạ, không hiểu mụ làm thế là có dụng ý gì?
Chợt lại nghe từ phía xa xa có tiếng sáo văng vẳng truyền lại. Tiếng sáo rất nhỏ, nhỏ đến nỗi nếu cảnh vật xung quanh lúc này không cực kỳ yên tĩnh và Nhâm Vô Tâm không đang chú ý lắng nghe thì dù thính tai đến đâu cũng không thể nghe thấy được.
Tiếng sáo nổi lên không bao lâu, thì lại thấy một cái bóng trắng vùn vụt, chạy đến ngôi cổ miếu. Mà cái bóng ấy di chuyển cũng rất nhanh, tà áo bay phấp phới, chỉ mấy lần nhô lên hụp xuống, là đã tới gần toà miếu. Người đó chính là Điền Tú Linh, đệ ngũ đại phu nhân của nhà Nam Cung thế gia.
Khuôn mặt thanh tú của nàng lúc này đã tái nhợt, hình như nàng đang lo lắng hoảng hốt vì một sự việc, vừa đi vừa trông sau ngó trước, tựa hồ như sợ bị ai theo đuổi.
Nhâm Vô Tâm vội nhảy ra, khẽ gọi:
- Điền cô nương, Nhâm Vô Tâm đây!
Điền Tú Linh ngực vẫn còn phập phồng thở mạnh, trên môi đã cố gắng nở một nụ cười gượng gạo, nói:
- Tiện thiếp đến chậm quá! Làm phiền Nhâm tướng công phải chờ lâu.
Nhâm Vô Tâm khẽ hỏi:
- Hay đã có sự gì xảy ra chăng?
Điền Tú Linh buồn bã gật đầu:
- Tiện thiếp đã sợ không thể theo tướng công lên Tử Cốc được.
Nhâm Vô Tâm vội hỏi:
- Sao thế?
Tú Linh nói:
- Tổ bà tôi đã bắt đầu nghi ngờ tôi, nếu thấy tôi đi ra ngoài lâu quá, thì thế nào tổ bà tôi cũng nêu sự bí mật của tôi ra. Chừng đó thì không những tôi không giữ toàn được mạng mà cả bà má tôi cũng nguy hiểm nữa.
Trong khi Tú Linh đang nói, thì từ phía xa xa, chợt lại nổi lên mấy tiếng sáo, nhưng chỉ thoáng chốc lại im bặt.
Nhâm Vô Tâm thì thào:
- Điền cô nương có biết Lan Cô…
Chàng nói chưa dứt lời, chợt nghe có tiếng ai gọi:
- Ngũ phu nhân…. Ngũ phu nhân…
Tiếng gọi vừa buồn thảm, vừa giận dữ, như khóc như gào, nghe lạnh cả tóc gáy.
Nhâm Vô Tâm trong óc vừa thoáng nhớ tới câu Lan Cô lẩm bẩm vừa rồi:
- Gọi chúng nó ra, lập tức giết ngay…
Chàng sợ toát mồ hôi, vội giơ tay xua xua, thì thào:
- Im! Đừng thưa!
Lúc mới đầu, nghe tiếng gọi, Tú Linh đã suýt buột miệng thưa lên, may Nhâm Vô Tâm đã kịp thời chặn lại. Lúc này, nàng mới chợt nhớ tới hoàn cảnh của mình. Tức thì, sắc mặt tái nhợt, cắt không ra một giọt máu.
Tiếng gọi lúc xa lúc gần, lúc đứt lúc nối, đêm hôm thanh vắng, đứng giữa cánh đồng hoang, nghe chẳng khác gì tiếng hú.
Gọi mãi “ngũ phu nhân” không thấy thưa, chợt người đó lại đổi giọng:
- Nhâm Vô Tâm… Nhâm Vô Tâm…
Nhâm Vô Tâm chỉ cảm thấy ruột gan đảo lộn, hồn vía cơ hồ cũng theo tiếng gọi ai oán, thê lương đó mà phơi phới bay đi. Chàng đành nghiến chặt hai hàm răng lại, cho khỏi bặt lên tiếng thưa, nhưng quả tim vẫn đập thình thịch, không sao tự chủ được.
Chàng sợ không sao kìm hãm được nổi, liền vận khí hành công, dùng tâm pháp thượng thừa nội công, trấn tỉnh tâm thần, chàng lại sợ Điền Tú Linh nội lực tu dưỡng chưa đủ, lỡ buột miệng thưa lên chăng, bèn lấy tay bịt chặt miệng nàng lại.
Trong bóng tối mờ mờ, tuy không rõ sắc diện của Tú Linh, nhưng tay chàng đặt lên miệng nàng thấy da nóng hôi hổi, hơi thở cũng mỗi lúc một nhanh, mà cái tiếng gọi cũng mỗi lúc một gần.
Nhâm Vô Tâm thốt nhiên vận đề chân khí, kéo Tú Linh vào một góc tối trong xó miếu. Lúc này đã thấy Lan Cô phơi phới theo chiều gió bay lại, miệng vẫn luôn luôn kêu gọi tên hai người.
Nhâm Vô Tâm đứng trong bóng tối, nín thở nhìn ra, thấy sắc mặt nàng không có vẻ hờn giận, cũng không có vẻ bi thương, nhưng nếu lúc đó có người nào vô phúc thưa lên một tiếng, thì chắc chết ngay với nàng, không còn hồ nghi gì nữa.
Từ bấy giờ cho đến sáng, Lan Cô cứ chập chờn bay qua bay lại xung quanh ngôi miếu, miệng vẫn luôn luôn kêu gọi không ngừng.
Đôi mất thất thần của nàng lúc nào cũng đăm đăm nhìn thẳng về phía trước, tưởng chừng như nếu có người đừng bên cạnh chắc nàng cũng không hay.
Sao đã dần dần tắt, tiết trời mỗi lúc một giá buốt thêm. Trong màn sương mai nhờ nhờ như màu sữa loãng, đột nhiên lại nổi lên một tiếng sáo.
Lan Cô chợt quay mình, phơi phới bay về hướng phát ra tiếng sáo, miệng vẫn không ngừng kêu gọi. Mãi tới lúc cái bóng đen của nàng hoàn toàn mất hút, Nhâm Vô Tâm mới thở ra một hơi dài, buông tay xuống, chỉ thấy mồ hôi đã đầm đìa đầy trán, còn Điền Tú Linh thì ngã khuỵu ngay xuống đất.
Nhâm Vô Tâm vừa bị nội thương mới khỏi, lại phải dùng nội công chiến đấu một thời gian khá lâu, đến nỗi tâm thần mỏi mệt rã rời. Chàng lẳng lặng điều tức giây lâu, rồi mới thở dài nói:
- Nguy hiểm quá!
Điền Tú Linh buồn rầu nói:
- Không ngờ Tổ bà tôi lại sai khiến được Lan Cô học đại pháp ma thu hồn. Xem chừng mấy môn thần công kỳ bí của Tổ bà tôi cũng đã thành công cả rồi.
Nàng lại thở dài một tiếng ai oán:
- Nếu Tổ bà tôi đã sai khiến Lan Cô đi giết tôi tức là đã biết tôi bội phản… nhưng không hiểu tại sao bà lại biết?
Nhâm Vô Tâm nói:
- Cái tài của Nam Cung phu nhân thực không ai lường nổi. Chắc bà ta dùng một thuật gần giống như bí pháp “Nhiếp Tâm Thuật” để khống chế tâm thần của Lan Cô, rồi lại dùng tiếng sáo để chỉ huy nàng.
Tú Linh gật đầu:
- Theo chỗ tôi biết thì Tổ bà tôi dùng thủ pháp thần bí điểm vào một huyệt đạo trên mình Lan Cô. Huyệt đạo này từ quả tim ăn thông lên tận óc, làm cho người bị điểm mê man đi. Nhưng trong khi mê, thế nào cũng có lúc bất thần tỉnh lại giây lát. Tổ bà tôi lợi dụng giây lát đó để truyền bảo mệnh lệnh, rồi lập tức buông tay ra, thế là từ đấy trong óc người bị điểm chỉ còn nhớ mỗi một việc, và sẽ cố sức làm cho bằng được việc ấy, trời cũng không thể cản nổi.
Nhâm Vô Tâm nói:
- Tại hạ sợ việc này không chỉ giản dị như thế. Tất nhiên còn có phương pháp khác nữa, mà cái phương pháp ấy mới chính là then chốt của vụ bí mật này. Nếu tại hạ dò ra được cái then chốt ấy thì thế nào tại hạ cũng lấy lại được trí nhớ cho Lan Cô.
Tú Linh mỉm cười buồn bã:
- Lan Cô là vũ khí lợi hại nhất của Tổ bà tôi, cái then chốt bí mật ấy cố nhiên bà phải giữ gìn cho cẩn thận, đời nào lại để lộ cho người ngoài biết được?
Nhâm Vô Tâm thong thả đứng lên:
- Bây giờ tại hạ phải lên Tử Cốc, còn cô nương định tính thế nào?
Tú Linh thở dài nói:
- Tiện thiếp bây giờ trở thành một kẻ không cửa không nhà, bơ vơ cô độc. Tổ bà thiếp đã biết thiếp bội phản, chắc không khi nào chịu buông tha…
Nàng vừa nói vừa ứa nước mắt, Nhâm Vô Tâm trong bụng cũng băn khoăn, nhưng không biết nói câu gì để an ủi nàng, đành cứ đứng thừ người ra. Một lát sau, Điền Tú Linh lại ai oán nói tiếp:
- Vả lại, tiện thiếp đã bị tổ bà ngầm cho uống thuốc độc, không biết độc phát lúc nào? Vì những lẽ đó mà tiện thiếp thật không nỡ làm luỵ Nhâm tướng công, theo tướng công đi bây giờ, chẳng qua chỉ làm lỡ việc lớn…
Nhâm Vô Tâm nghiêm sắc mặt:
- Sao cô nương lại nói vậy? Đừng nói cô nương vì bọn chúng tôi mà bị lệnh tổ bà nghi kỵ, dù cho cô nương với chúng tôi không quen thuộc gì thì chúng tôi cũng không thể khoanh tay ngồi yên, đưa mắt nhìn cô nương vì việc nhà của Nam Cung thế gia mà bị dày vò, ức hiếp như thế được!
Điền Tú Linh đôi mắt đang âu sầu, ai oán chợt sáng hẳn lên. Nàng sống trong gia đình Nam Cung, mắt lúc nào cũng chỉ trông thấy những kẻ thâm trầm, giảo quyệt, tai chỉ nghe những chuyện lừa lọc đảo điên, dẫu thân thiết như tỉ muội, mẫu tử cũng không bao giờ nói với nhau được một lời chân thật, dốc tự đáy lòng.
Nàng thật không sao ngờ được là trên đời lại còn có những người không nghĩ đến lợi hại, không tính đến việc thành bại, nếu là việc tín nghĩa thì dù phải nhảy vào chỗ nước lửa cũng không từ. Nên nàng cứ đứng ngẩn người ra, đăm đăm nhìn Nhâm Vô Tâm một lúc, rồi mới thở dài nói:
- Nhâm tướng công còn vui lòng đưa tiện thiếp lên Tử Cốc nữa hay sao?
Nhâm Vô Tâm quả quyết gật đầu:
- Cố nhiên!
Tú Linh chớp mau đôi mắt, thỏ thẻ:
- Nhưng hoàn cảnh của tiện thiếp lúc này, e rằng không giúp được công tử việc gì cả.
Nhâm Vô Tâm mỉm cười:
- Quân tử nhất ngôn! Điền cô nương không cần thắc mắc gì cả. Nào, chúng ta đi thôi!
Tú Linh trái tim như bị kích thích mạnh, một lát sau mới bình tĩnh lại được, bèn vội đứng lên sửa lại khăn áo chỉnh tề. Hai người đi trên quãng đường đầy tuyết một lúc, thân hình đều nhanh như một làn gió, nháy mắt đã tới con đường nhập cốc bí mật. Chỉ thấy hai cái bóng từ phía bên cạnh đang chạy như bay tới.
Trong hai người, có một người tầm vóc cao lớn, mình mặc áo tú tài màu lam, sắc mặt như người ốm.
Còn một người thì da dẻ hồng hào, tinh thần mạnh mẽ, mình mặc áo gấm, tuổi trạc cỡ trung niên, nhác trông ra vẻ một vị phú thương đang hồi làm ăn phát đạt.
Hai người một giàu, một nghèo, một người học trò, một người lái buôn, trông thật không tương xứng một chút nào. Duy thân pháp thì đều cực kỳ thần tốc, chỉ vài lần nhô lên hụp xuống là đã bay tới trước mặt Nhâm Vô Tâm.
Điền Tú Linh lúc này giống như một con chim phải cung, vừa trông thấy hai bóng người, quả tim tưởng như đã ngừng đập, bèn dừng lại, hỏi nhỏ:
- Hai người này có vẻ bất chính, Nhâm tướng công phải cẩn thận mới được.
Nói chưa dứt lời, hai người đó đã bước đến bên cạnh. Người áo lam nhìn Nhâm Vô Tâm cười gọi:
- Nhâm tướng công!
Nhâm Vô Tâm sắc mặt vẫn điềm tĩnh như thường, chỉ giơ tay xua xua, ra ý bảo người kia đừng nói. Điền Tú Linh thấy thế rất đỗi kinh ngạc, không hiểu sao Nhâm Vô Tâm lại quen hai người hành tung quỉ bí như vậy. Nàng còn đang nghi nghi hoặc hoặc, đã thấy người áo gấm nhìn nàng mỉm cười chào:
- Điền cô nương!
Tú Linh giật mình kinh hãi, nhủ thầm: “Sao bọn này lại biết lai lịch của mình? Hay Tổ bà đã phái họ đến theo dõi mình chăng?” Nàng vừa nghĩ vừa bước lùi lại một bước rồi giơ tay phóng ra một chưởng.
Võ công Nam Cung thế gia quả nhiên cực kỳ quái dị, chưởng thế đánh ra, nội lực âm nhu, chưởng ảnh huyền ảo, không biết là sau chiêu đó còn ẩn tàn bao nhiêu chiêu thế lợi hại nữa.
Không ngờ người áo gấm chỉ cười ha hả:
- Điền cô nương có lẽ không nhận ra lão nạp hay sao?
Vừa nói vừa xoay người đi nửa vòng, giơ tay áo bào khẽ phẩy một cái, tức thì tránh thoát một chưởng của Điền Tú Linh.
Tú Linh còn đang ngẩn người, Nhâm Vô Tâm đã cười nói:
- Cái thuật dịch dung của mấy vị thần y kể cũng thánh thật! Cả đến Điền cô nương cũng không nhận ra đại sư, thì dám chắc trên đời này không còn ai có thể nhận ra được nữa!
Tú Linh ngơ ngác, chẳng hiểu đầu đuôi ra làm sao. Kế lại đưa mắt nhìn kỹ người khách lạ, lúc này mới thấy mặt mũi ông ta quả hao hao giống Bách Đại đại sư thật.
Nàng bất giác thở ra một hơi dài, nhưng trong bụng vẫn nửa tin nửa ngờ, rụt rè hỏi:
- Phải… phải Bách Đại đại sư không?
Người áo gấm chắp tay, mỉm cười nói:
- Chính thị là bần tăng!
Ông quên mất là mình đã cải trang, vẫn thủ lễ theo kiểu của nhà chùa.
Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói:
- Đại sư chớ quên là từ lần sau gặp ai chỉ vái chào thôi, đừng chắp tay niệm phật thế nữa.
Bách Đại bật cười nói:
- Vậy tại sao tướng công vẫn gọi bần tăng là “đại sư”?
Lúc này, Điền Tú Linh mới tươi cười nói:
- Xin đại sư thứ cho tiện thiếp cái tội lỗ mãng vừa rồi.
Nói đến đây, nàng chợt ngừng lại, đưa mắt nhìn người mặc áo lam. Bách Đại vội cười, nói:
- Vị này là Huyền Chân đạo trưởng, chưởng môn phái Võ Đương.
Tú Linh “à” một tiếng, rồi lại lùi mấy bước, nghiêng mình nói:
- Vãn bối được nghe danh đạo trưởng đã lâu.
Huyền Chân cũng cúi đầu đáp lễ, Nhâm Vô Tâm hỏi:
- Bách Nhẫn đại sư và lệnh đệ Huyền Quang đạo trưởng có lẽ vẫn còn ở trong thạch động?
Huyền Chân cười nói:
- Tệ sư đệ đã theo Bách Nhẫn đại sư đi trước rồi. Bách Nhẫn đại sư cải trang thành một vị quan lớn mặc thường phục đi du ngoạn sơn thuỷ. Tinh thần khí độ giống y như hệt. Tệ sư đệ thì giả làm một thuộc hạ theo hầu, trông cũng xứng lắm.
Mọi người đều cười, Bách Đại nói:
- Bây giờ chúng tôi xin đi trước.
Nhâm Vô Tâm gật đầu nói:
- Việc này nguy hiểm rất lớn, xin hai vị giữ gìn cẩn thận cho.
Bách Đại cười nói:
- Bần tăng… ấy quên, tại hạ biết lắm!
Đôi bên chắp tay vái chào rồi cùng quay đi.
Điền Tú Linh thở dài nói:
- Không ngờ mấy vị cao nhân, danh tiếng lẫy lừng thiên hạ, còn là tôn chủ một phái mà cũng chịu ủy khuất, thây đổi hình dạng như ai.
Nhâm Vô Tâm cũng chép miệng nói:
- Đó chính là những bậc xuất gia từ bi đạo đức, tạo phú cho chúng sinh, tuy phải thay hình đổi dạng, nhưng ngẩng lên không thẹn với trời, cúi xuống không hổ với người. Nhâm mỗ này thật khâm phục họ sát đất…
Nói xong chàng đưa Tú Linh vào căn động bí mật. Tú Linh thấy mấy ông già đầu tóc bạc phơ mà vẫn cứ cắm đầu cắm cổ mải miết làm việc, trong lòng cũng không khỏi bồi hồi cảm động.
Vào thạch thất, Cù Thức Biểu ra đón, hạ thấp giọng:
- Nhâm công tử quên rồi ư?
Nhâm Vô Tâm sửng sốt:
- Quên gì cơ?
Cù Thức Biểu đáp:
- Chỗ này đã bị Nam Cung thế gia phát hiện, vì thế nên vị nữ ma đầu ấy mới biết mà tìm đến. Bây giờ công tử phải tính cách gì đi chứ.
Nhâm Vô Tâm nghĩ một lúc rồi nói:
- Tại hạ vẫn định tìm một chỗ bí mật an toàn khác, để mời các vị tiền bối tới đó nhưng sau nghĩ lại việc này cần phải suy xét cho chính chắn đã.
Cù Thức Biểu có vẻ giận:
- Còn phải suy xét việc gì nữa?
Nhâm Vô Tâm nói:
- Tại hạ nghĩ chỉ còn cách ở lại đây là tốt nhất!
Cù Thức Biểu sửng sốt:
- Thế nào? Tướng công nói thế là nghĩa làm sao?
Nhâm Vô Tâm thủng thỉnh đáp:
- Vì người nhà Nam Cung thế gia chắc sẽ đoán rằng chỗ bí mật của ta đã bị họ phát giác, tất thế nào ta cũng phải dời đi chỗ khác. Bây giờ có lẽ họ đã mai phục cả bốn bề, để chờ xem động tĩnh của ta ra sao. Nếu ta dời đi lúc này là trúng với dự liệu của họ.
Cù Biểu Thức gật đầu:
- Rất có thể!
Nhâm Vô Tâm nói tiếp:
- Hai bên đấu trận, cần nhất là đừng để hành động của mình lọt vào ức đoán của địch thủ, họ đoán mình đi thì mình không đi. Nam Cung phu nhân dù thông minh đến đâu cũng không ngờ rằng mình táo gan ở lại.
Chàng ngừng một lát, rồi tiếp tục:
- Để lát nữa, tại hạ sẽ dàn một nghi trận, khiến cho họ tưởng chúng ta đã đi cả rồi, luôn thể ta còn dụ họ vào một lối khác nữa.
Cù Thức Biểu trầm ngâm một lát rồi nói:
- Kế ấy dẫu hay, nhưng quá mạo hiểm, ngộ nhỡ…
Nhâm Vô Tâm ngắt lời:
- Kế ấy nếu dùng để đối phó với những người ngay thẳng thì quả thật là quá ư mạo hiểm, nhưng đối với những người khôn ngoan, xảo quyệt trong Nam Cung thế gia thì lại đắc dụng vô cùng, bọn họ đoán là chúng ta đã dọn đi, dù có muốn kiểm soát, cũng chỉ đứng phía ngoài xem xét qua loa cho xong chuyện, chớ quyết không chịu vào tận nơi để tìm tòi kỹ lưỡng, vì họ đã yên trí là họ liệu việc không thể sai được. Phương pháp đó tuy có hơi mạo hiểm thực, nhưng còn an toàn hơn là dọn đi nơi khác.
Cù Thức Biểu ngẫm nghĩ một lát, chợt gật gù khen:
- Có lý lắm!
Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói:
- Muốn đánh lừa những hạng người cực kỳ gian hoạt thì nên dùng những biện pháp cực kỳ thiển cận. Cái đạo lý ấy mới nghe cứ tưởng là không phải, nhưng kỳ thực thì chính xác vô cùng.
Cù Thức Biểu tươi cười nói:
- Quả đúng như vậy!
Tú Linh đứng một bên cũng bật cười góp ý:
- Có lẽ Gia Cát Khổng Minh ngày xưa cũng dùng cách ấy để đối phó với lão gian hùng Tư Mã Ý. Nếu đổi địa vị Tư Mã Ý là Trương Dực Đức, biết rõ là toà thành bỏ trống cứ vẫn tiến vào, thì Gia Cát Lượng không thể dùng cái kế ấy được.
Nhâm Vô Tâm cười:
- Không ngờ Điền cô nương cũng thuộc làu những sự tích đã được truyền tụng trong nhân gian như vậy.
Điền Tú Linh thở dài:
- Lúc nào rảnh rỗi, tiện thiếp cũng xem truyện cho tiêu khiển, chứ còn biết làm gì hơn…
Nhâm Vô Tâm biết những câu đó đã gợi cho nàng nhớ đến hoàn cảnh tịch mịch cô đơn mà cảm khái, bèn quay sang nói với Cù Thức Biểu nhờ dịch dung cho nàng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-9-2015 20:53:51 | Xem tất
HỒI 29 - RỦ NHAU LÀM BẬY
Cù Thức Biểu nhìn Điền Tú Linh một lát rồi hỏi:
- Không biết tướng công định cải trang cho cô nương đây thành hạng người nào?
Vô Tâm cười nói:
- Tuỳ ý tiên sinh.
Tú Linh cười:
- Lão tiền bối cứ dịch dung cho tiện thiếp thành một nam tử vì tiện thiếp còn phải đi cùng đường với Nhâm tướng công.
Cù Thức Biểu ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Nữ cải nam trang, tuy bề ngoài có giống nhưng cử chỉ nói năng vẫn không giấu được ai. Nhưng thôi được, để ta thử cố xem. Mời cô nương theo lão phu sang bên này. Nhâm tướng công hãy đứng đây đợi một lát.
Điền Tú Linh vâng lời, theo ông ta ra khỏi thạch ốc.
Một lát sau lại thấy ông già khác, tay xách chiếc khăn gói bằng vải lam, bước vào. Nhâm Vô Tâm ngẩng trông lên, thấy ông già ấy chính là Thi Thuý Phong, một vị danh y quê Hà Sóc, liền đứng lên đón, lão cười nói:
- Nhâm tướng công hãy thay bộ y phục này vào đi. Lão phu sẽ xin vì tướng công mà sửa đổi nét mặt cho khác đi một chút..
Trong khăn gói, có một bộ y phục học trò bằng vải màu lam nhạt, giầy tất đủ cả. Nhâm Vô Tâm vội cởi áo cũ thay vào áo mới, rồi ngồi xuống ghế đá cho Thi Thúy Phong hoá trang.
Thi Thuý Phong lấy trong mình ra một chiếc hộp sắt, đặt lên bàn, cười nói:
- Xin tướng công hãy tạm nhắm mắt lại, để lão phu bắt đầu.
Vô Tâm theo lời nhắm mắt lại, chỉ thấy hai tay Thi Thuý Phong nhè nhẹ đưa đi đưa lại trên mặt mình, dần dần chàng cảm thấy da mặt nhờn nhờn ươn ướt, nhưng chỉ một lát là khô ráo dễ chịu ngay. Kế lại nghe Thi Thuý Phong cười nói:
- Xong rồi!
Vô Tâm cũng cười hỏi:
- Xong rồi kia à? Nhanh thế?
Rồi chàng mở mắt ra, đỡ lấy tấm gương trên tay Thi Thúy Phong, đưa lên mặt soi, chỉ thấy trong gương hiện ra khuôn mặt già nua gầy guộc, râu mọc lún phún đầy cầm, rõ ra một chàng tú tài kiết xác, thân già trước tuổi, còn đâu là chàng hiệp sĩ Nhâm Vô Tâm hoà hoa phong nhã mọi khi nữa.
Nhâm Vô Tâm thán phục vô cùng, vừa cười vừa nói:
- Tiên sinh diệu thuật vô song, đáng phục, đáng phục!
Thi Thuý Phong mỉm cười hỏi:
- Nhâm tướng công có biết tại sao lão phu lại hoá trang cho tướng công một hình dạng xấu xí, tiều tuỵ như vậy không?
Nhâm Vô Tâm ngẩn người ra một lúc, rồi lắc đầu cười gượng, Thi Thuý Phong liền giải thích:
- Trong giang hồ hiện thời không thiếu gì gái dâm đãng lẳng lơ, tướng công cải trang như thế này sẽ tránh được bao nhiêu là điều phiền phức.
Nhâm Vô Tâm bật cười:
- Lão tiền bối quả thực là dày dạn kinh nghiệm giang hồ, nhưng tại hạ…
Chàng vừa nói đến đây đã nghe tiếng Cù Thức Biểu cười ha hả, từ ngoài cửa nói vào:
- Nhâm tướng công không biết những câu chuyện phong lưu giai thoại của Thi lão tiên sinh lúc thiếu thời à? Nếu không thế thì làm sao có những kinh nghiệm hay ho ấy?
Mọi người đều cất tiếng cười vang. Trong khi đó Cù Thức Biểu đã dắt một chú tiểu đồng đội mũ nhỏ, mặc áo xanh bước vào. Chú tiểu đồng này mày rậm, mắt to, sắc mặt đầy vẻ ngây thơ thành thật, tuổi chỉ vào cỡ mười ba, mười bốn. Dầu người tinh mắt đến đâu cũng không thể nhận ra đó chính là Điền Tú Linh, đệ ngũ phu nhân của nhà Nam Cung thế gia nữa.
Điền Tú Linh đảo mắt nhìn quanh phòng một lượt, rồi cất giọng thỏ thẻ:
- Kỷ nhi xin đợi lệnh Nhâm tướng công sai bảo.
Cù Thức Biểu cười nói:
- Nhâm tướng công xem thử Điền cô nương cải trang có giống không?
Nhâm Vô Tâm vỗ tay cười sằng sặc bảo:
- Khéo quá! Tuyệt quá! Dù Nam Cung phu nhân có trông thấy, chắc cũng không thể nhận ra được.
Đoạn chàng chắp tay vái nàng một vái, nói:
- Thế này thì thật là uỷ khuất cho Điền cô nương quá!
Tú Linh mỉm cười nói:
- Huyền Quang đạo trưởng địa vị tôn quí như vậy mà còn hoá trang làm người hầu cho Bách Nhẫn đại sư, huống hồ tiện thiếp có xá kể gì? Xin tướng công đừng bận tâm đến điều ấy.
Nhâm Vô Tâm thở dài:
- Bọn ta tuy sức không thắng nổi Nam Cung phu nhân, nhưng chí khí thì còn vượt mụ xa. Hay dở gì thì ta cũng phải liều mạng với mụ một chuyến, dù không thắng được mụ, ít nhất cũng làm cho mụ thất điên bát đảo mới nghe.
Rồi chàng lại nói với hai vị danh y:
- Bây giờ xin hai vị xếp cho một số y phục cũ và vài món đồ nghề dùng để chế thuốc, cần nhất là ít dược liệu quí giá và mấy cái đơn thuốc bỏ đi, cho vào cái hộp bằng sắt, nhưng phải là cái hộp đẹp, chế tạo tinh xảo, để người ta vừa trông thấy là biết ngay bên trong đựng vật gì quí giá.
Thi Thuý Phong ngạc nhiên, không hiểu chàng cần dùng mấy vật ấy làm gì.
Cù Thức Biểu cười hỏi:
- Có phải Nhâm tướng công định dùng những vật đó để đánh lạc hướng đối phương chăng?
Nhâm Vô Tâm đáp:
- Vâng, đúng thế!
Cù Thúc Biểu liền đáp:
- Những vật đó thì đã có sẵn, để lão phu đi lấy cho tướng công.
Nói xong hấp tấp kéo tay Thi Thuý Phong đi ra khỏi phòng.
Chỉ trong chốc lát, hai người đã đem đủ những đồ cần dùng đến.
Thi Thuý Phong cười nói:
- Chiếc hộp này là gia bảo của Thạch tiên sinh ở Kinh Đô. Chỉ nội chiếc hộp không cũng đã quí giá lắm rồi, huống hồ bên trong lại còn bao nhiêu là thuốc quí nữa.
Nhâm Vô Tâm nghiêng người cảm tạ, lại dặn Điền Tú Linh chờ đợi trong giây lát, rồi cầm hộp và các thứ ra khỏi cửa..
Chỉ trong phút chốc, chàng đã ra khỏi động bí mật, xem xét khắp bốn phía trong khoảng chu vi chừng vài chục trượng. Khi biết chắc là không có ai theo dõi, chàng mới đi mạnh chân ra con đường chính, giẫm đạp bừa lên cây cỏ, làm thành nhiều vết chân, để ai trông thấy cũng tưởng là vừa có một bọn người đông đúc vừa ra khỏi động.
Sau đó chàng lại đem sống áo và các đồ dùng làm thuốc vứt rải rác ở các bụi cây ở hai bên vệ đường.
Những dấu chân trên mặt đất chỉ có đi mà không có về, vì lúc trở về chàng đều trổ thuật khinh công, chân không chấm xuống đất. Với các vật dụng vung vãi lung tung, đủ chứng tỏ là những người trong động đều đã đi chỗ khác và trong lúc vội vàng đã đánh rơi rất nhiều đồ vật.
Chàng dàn nghi trận ra xa tới hơn một dặm, lại cẩn thận kiểm soát một lượt, rồi mới yên trí ra về.
Sau đó, chàng còn đem những cỏ khô, dây mây và những tảng đá trước kia vẫn dùng để lấp lối vào động, dẹp hết ra cả hai bên, trong động đã không có người thì hà tất cần gì phải che đậy.
Làm xong bấy nhiêu việc, chỉ hết chừng ba bốn giờ, lúc này mặt trời đã lặn, sao hôm đã lác đác một vài ngôi, sắc trời có vẻ u ám.
Trong động, Cù Thức Biểu, Thi Thuý Phong cùng Điền Tú Linh chờ lâu sốt ruột, đã sai người dọn cơm, vừa ăn vừa đợi. Trong khi ăn, Điền Tú Linh vẫn mặt ủ mày chau, biếng cười biếng nói. Một lát, nàng chợt ngẩng lên hỏi hai vị danh y:
- Hai vị tiền bối có biết trên đời này có một loại độc dược mà người uống vào vẫn vô sự, nhưng khi nào người hạ độc muốn cho nó phát ra thì nó sẽ phát ra không?
Thi Thúy Phong ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Lão phu đã phí mất ba chục năm tâm huyết, nghiêm cứu các loại độc dược trên đời này, mãi tới bây giờ vẫn chưa thấy có loại độc dược lạ nào như vậy.
Cù Thức Biểu nói tiếp:
- Theo lời Điền cô nương nói thì có lẽ loại độc dược ấy chính là một loại trùng độc ở Miêu Cương?
Tú Linh vội hỏi:
- Người bị trúng trùng độc, người khác có thể xem mà biết được không?
Cù Thức Biểu nói:
- Lão phu tuy không có thuốc chữa chứng đó, nhưng có thể xem biết được.
Tú Linh ngập ngừng:
- Vậy nhờ tiền bối xem dùm coi có phải vãn bối đã bị trúng loại trùng độc ấy không?
Cù Thức Biểu nhìn nàng một lát, rồi lắc đầu:
- Cô nương thần khí sung túc, mắt trong và sáng thế kia, quyết không phải là người bị trúng trùng độc. Cô nương thấy trong người thế nào mà lại cho rằng mình bị trúng trùng độc?
Tú Linh thở dài:
- Đó chính là một sự bí mật giữa cụ, bà, con, cháu dâu nhà Nam Cung chúng tôi. Vì tổ bà tôi không hề tín nhiệm một ai, bà lại sợ chúng tôi bội phản, nên đã bắt chúng tôi uống thuốc độc trước.
Hai vị danh y đưa mắt nhìn nhau, lẳng lặng.
Một lát sau, Cù Thức Biểu mới nói:
- Xin cô nương đưa tay để lão phu coi thử mạch xem sao.
Tú Linh vội đưa tay ra, Cù Thức Biểu dùng hai ngón tay để bắt mạch cho nàng, thái độ cực kỳ thận trọng. Một lúc lâu ông mới buông tay, ngẩng lên nói với Thi Thúy Phong:
- Mời Thi huynh xem thử.
Thi Thúy Phong bước lại gần, rồi cũng đặt tay lên mạch nàng.
Xem xong ông lại hỏi Cù Thức Biểu:
- Cù huynh thấy thế nào?
Cù Thức Biểu lắc đầu:
- Tiểu đệ không thấy triệu chứng gì là Điền cô nương đã bị trúng độc.
Thi Thuý Phong cũng nói:
- Mạch của cô nương rất bình thường, không có gì khác lạ, cả hai chúng tôi cùng đồng ý như nhau, dám chắc người khác xem cũng thế thôi.
Tú Linh ấp úng:
- Thế hay là… có khi tiện nữ chưa bị trúng độc?
Thi Thuý Phong bèn nói:
- Điều ấy cũng không thể quyết đoán được, có khi Nam Cung phu nhân đã chế ra được một thứ thuốc độc riêng, người uống phải sau một khoảng thời gian chừng độ hai ba năm mới phát ra, cũng chưa biết chừng.
Tú Linh buồn bã:
- Tiện thiếp dẫu chết cũng chẳng tiếc gì, nhưng thực không muốn chết trước khi mọi sự việc chưa được làm sáng tỏ.
Vừa nói tới đây, Nhâm Vô Tâm vừa bước vào, trên vạt áo của chàng dính đầy bùn đất và cỏ may.
Cù Thức Biểu cười nói:
- Nhâm tướng công đi đâu về mà trông cỏ vẻ vất vả vậy? Hãy ngồi xuống đây uống vài chén rượu cho ấm bụng đã.
Nhâm Vô Tâm ngồi vào bàn, ăn uống một chút, rồi nhìn Điền Tú Linh cười nói:
- Kỳ nhi, chúng ta phải đi ngay bây giờ.
Tú Linh ngây người ra một lúc, mới chợt nhớ là chàng gọi mình, bèn bật cười đáp:
- Xin tuỳ lệnh tướng công!
Nhâm Vô Tâm lại nói với Cù Thức Biểu và Thi Thúy Phong:
- Tại hạ đã bố trí bên ngoài xong xuôi rồi. Nhưng các vị cũng nên cẩn thận bỏ bớt một gian thạch thất bên ngoài, đừng dùng gì tới, cửa ngõ lấp hết đi. Sau khi tại hạ đi rồi, cũng nên đốt một ít cây khô ở trước động cho có dấu vết tàn phá, thế là không còn lo gì nữa.
Nhâm Vô Tâm nói xong, chắp tay cáo từ. Mấy tên tiểu đồng hầu cận chàng đã sửa soạn sẵn hai gói hành lý cầm ra trao cho Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh mỗi người một gói.
Lúc này, các vị lão nhân và mấy người trong động đều tề tựu đông đủ, cùng đưa tiễn hai người ra tới cổng ngoài, rồi mới từ biệt.
Ra khỏi cửa động, Tú Linh quay đầu lại, quả thấy quang cảnh nơi đây giống hệt như một nơi vừa có đám đông người đi qua.
Hai người đi lẩn vào trong bóng đêm, chợt thấy phía trước mặt loé lên một tia lửa, bèn vội vàng nhảy tránh về một bên. Nhâm Vô Tâm thấy bên đường có một cây tùng bách, lá rườm rà, bèn đưa tay ra hiệu cho Tú Linh, rồi cả hai cùng nhảy lên cây, ngồi nấp vào trong đám lá rậm.
Vừa ngồi yên một lát, lại thấy ánh lửa loé lên lần nữa, trước mắt đã hiện ra hai người đàn ông, một người câm cây hoả tập, còn một người cầm lưỡi chuỷ đang đi như bay trên mặt tuyết, thỉnh thoảng dừng lại như muốn tìm kiếm vật gì.
Tuy ánh lửa chập chờn, lúc mờ lúc tỏ nhưng nhờ được bầu trời đầy sao phản ánh lên mặt tuyết, nên trong vòng ba thước còn có thể nhận diện được sự vật. Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh ngồi trên cây trông xuống, đã thấy rõ hai người đàn ông cùng mặc y phục dạ hành, một người chân tay thô lớn, bàn tay rất dài, trông có vẻ như một cao thủ về môn ngoại công. Còn một người thì tầm vóc thấp bé, thân pháp nhanh nhẹn nhẹ nhàng, trên mặt hai người đều che một miếng vải đen.
Nhâm Vô Tâm nhìn kỹ một lát, rồi dùng công phu “truyền âm nhập mật” hỏi Điền Tú Linh:
- Cô nương đã luyện công phu “ truyền âm nhập mật” chưa?
Tú Linh lắc đầu. Chàng lại nói:
- Nếu vậy, tại hạ hỏi điều gì thì cô nương cũng chỉ cần gật hay lắc đầu cũng đủ.
Tú Linh gật đầu. Chàng hỏi:
- Người cao lớn kia hình như thuộc về Bắc Phái, tên là Ác Thiên Vương Lý Bá…
Tú Linh không đợi chàng nói hết, đã vội gật lấy gật để. Vô Tâm lại nói:
- Còn người thấp bé kia không biết có phải là Hoàng Phủ Thiếu Hồng, người đời thường gọi Tứ Bát Thuý Hoa Điệp,một caothủ nổi danh khắp lục tỉnh phía Bắc phải không?
Tú Linh lại gật đầu, sắc mặt lộ vẻ kinh dị, nghĩ thầm:
- Nhâm Vô Tâm quả là bậc kỳ tài. Chàng đối với hảo sĩ trong thiên hạ, sao mà biết rành mạch đến thế?
Lại nghe Nhâm Vô Tâm hỏi:
- Hai người này đều là nhân vật trong Thất Thập Nhị Địa Sát của Nam Cung thế gia chăng?
Tú Linh lại gật đầu. Lúc này, Lý Bá hình như phát hiện được cái gì, bèn cầm hoả tập giơ cao lên, gọi khẽ:
- Hoàng Phủ huynh lại đây xem thử cái này là cái gì?
Hoàng Phủ Thiếu Hồng nhảy tới bên cạnh hắn. Lý Bá cúi xuống, nhặt trong bụi mây khô ra một chiếc hộp sắt, trên nắp hộp chạm mấy viên ngọc quí, dưới ánh sao trong lóng lánh như kim cương.
Hắn đưa cho Hoàng Phủ Thiếu Hồng xem, rồi nói bằng một giọng hơi có vẻ xúc động:
- Cái hộp trông có vẻ quí giá, không biết bên trong đựng gì?
Hoàng Phủ Thiếu Hồng cau mày, không đáp, chợt cầm lưỡi chuỷ sáng loáng như nước, vung lên chém một nhát vào chiếc khoá đồng, rồi mở nắp hộp ra. Hai người cùng ngồi xuống bới bới tìm tìm trong hộp một lát, Lý Bá chợt thở dài nói:
- Mấy lão già này chạy trốn như đoàn chuột, đến nỗi có cái hộp quý cũng đánh rơi.
Hoàng Phủ Thiếu Hồng nói:
- Những vật này là cần câu cơm của họ, không hiểu sao họ lại vứt đi?
Lý Bá lắc đầu cười:
- Huynh đệ nói thế không đúng! Chắc hẳn bọn họ sợ có người theo đuổi, trong lúc vội vàng, chỉ mãi chạy cho nhanh, đâu còn thời giờ kiểm soát đồ vật, nên mới bỏ mất chiếc hộp quí giá thế này, chứ đâu phải họ vứt đi.
Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh chỉ đưa mắt nhìn nhau cười. Giữa lúc ấy chợt thấy một bóng đen vừa cao vừa gầy từ xa chạy đến. Cái bóng này cũng bịt mặt bằng một chiếc khăn đen, chỉ để lộ hai con mắt sáng quắt như điện. Hắn đi đã gần tới sau lưng Lý Bá và Hoàng Phủ Thiếu Hồng, mà hai người này vẫn không biết gì cả. Đủ hiểu khinh công của hắn cao đến bực nào.
Gã tiến sát đến sau lưng Hoàng Phủ Thiếu Hồng, đôi mắt đăm đăm nhìn chiếc hộp trong tay Lý Bá, lẳng lặng không nói gì. Lý Bá và Hoàng Phủ Thiếu Hồng vẫn không biết có người đứng sau lưng, đầu óc hình như để cả vào chiếc hộp sắt. Một lát, Lý Bá chợt cười khẽ nói:
- Những dược liệu và mấy cái đơn thuốc này chắc toàn là vật quí. Chi bằng chúng ta đem thẳng về, đừng để người khác tranh mất công.
Hoàng Phủ Thiếu Hồng hỏi:
- Đem thẳng về đâu?
Lý Bá cười nói:
- Đưa thẳng về cho Nam Cung phu nhân, chứ còn đem về đâu nữa? Nếu được lão phu nhân cao hứng, chưa biết chừng…
Hoàng Phủ Thiếu Hồng liền ngắt lời:
- Nhưng hành động của chúng ta hôm nay thuộc về Điạ Xương cai quản, mình không nói qua lão ta một tiếng thì sao được?
Lý Bá thở dài:
- Hoàng Phủ huynh, chúng ta đều là những nhân vật có tiếng tăm hiển hách trong giang hồ, từ ngày vào làm môn hạ của Nam Cung thế gia, không những phải chịu sự cai quản của người khác mà địa vị còn dưới cả anh đầu lĩnh hạng bét. Ngay cả Nam Cung phu nhân, mặt mũi thế nào, mình cũng chưa được biết, vậy thì hà tất gì phải trung thành như vậy!
Hoàng Phủ Thiếu Hồng đáp:
- Lão phu nhân bận trăm công nghìn việc, thì giờ đâu mà tiếp chúng ta.
Lý Bá cười nhạt:
- Thế sao lão Địa Xương Tiêu Nhị thì muốn vào hầu lão phu nhân lúc nào cũng được?
Hoàng Phủ Thiếu Hồng đáp:
- Người ta là đầu lĩnh, mình bì thế nào được.
Lý Bá lạnh lùng nói:
- Ấy đó, chính vì lẽ ấy, tiểu đệ mới bàn với đại huynh về việc đem thẳng chiếc hộp này đến chỗ của lão phu nhân, để phu nhân biết huynh đệ mình là người mẫn cán, rồi ta sẽ thừa dịp bắt cẳng lão quỉ ốm kia đi, có phải là nhất cử lưỡng tiện không? Nếu bây giờ ta đem cái hộp này nộp qua tay lão, lão nhận là công lão thì huynh đệ ta còn xơ múi gì nữa.
Nhâm Vô Tâm nghe đến đây liền quay lại nhìn về người áo đen đứng phía sau Hoàng Phủ Thiếu Hồng, thấy mắt hắn ánh lên một tia sáng dữ dội, liền nghĩ bụng: “Tên này có lẽ là một trong sáu tên đầu lĩnh Thất Thập Nhị Địa Sát đây chăng? Nếu đúng thì phen này tên Lý Bá sẽ phải chết với hắn?”
Kế lại nghe Hoàng Phủ Thiếu Hồng bảo:
- Lý huynh nếu quả định làm thế thì tiểu đệ quyết không làm theo.
Lý Bá biến sắc nói:
- Sao vậy?
Hoàng Phủ Thiếu Hồng cười nhạt:
- Tiểu đệ nghĩ tình huynh đệ đã chơi với nhau bao nhiêu ngày, nên không khi nào lại tố cáo chuyện này với ai. Lý huynh muốn vào yết kiến Nam Cung phu nhân thì xin cứ tuỳ tiện.
Lý Bá ngẩn người ra một lát, rồi chợt giậm chân xuống đất, giận dữ nói:
- À, thì ra ta không có mắt…
Vừa nói đến đây, chợt nghe phía sau có một giọng nói lạnh như thép vang lên:
- Đúng đó! Quả là nhà ngươi không có mắt thật!
Cái tiếng nói đó, thật chẳng khác gì mũi dao nhọn đâm suốt trái tim Lý Bá. Lý Bá rùng mình, quay phắt đầu lại, mục quang chạm phải luồng nhãn tuyến đầy sát khí của hắc y nhân, tức thì chiếc hộp sắt rơi xuống đất, đánh “bộp” một tiếng.
Hoàng Phủ Thiếu Hồng cũng giật mình quay lại, thốt lên một tiếng kinh hoàng, nhưng đôi mắt hắn không thấy lộ vẻ gì là khủng khiếp. Có lẽ hắn đã biết người áo đen đến đó từ lâu nhưng vì muốn bảo toàn tính mạng và địa vị nên cam tâm bán rẻ bằng hữu.
Gã áo đen trừng mắt nhìn Lý Bá một lúc, rồi thốt nhiên cúi xuống nhặt chiếc hộp, mở ra xem qua một lượt rồi đặt xuống trước mặt Lý Bá.
Lý Bá ấp úng:
- Cái… cái này…
Gã áo đen hừ một tiếng, lạnh lùng cười:
- Lý huynh đã muốn đem cái hộp này nộp tận tay lão phu nhân thì cứ tự tiện đem ngay đi.
Lý Bá lùi lại một bước, lắp bắp bào chữa:
- Vừa rồi… vừa rồi… tại hạ chỉ là nói đùa… nói đùa…
Gã áo đen dịu giọng nói:
- Giữa chúng ta, chức vị tuy có kẻ trên người dưới, nhưng đều trung thành với Nam Cung thế gia, tình nghĩa như huynh đệ, ai đưa đi cũng chẳng thế.
Hắn cười khanh khách mấy tiếng, rồi lại nói tiếp:
- Vả lại, chúng ta còn phải ở đây để tra xét, nếu Lý huynh chịu mang cái hộp này về trước, để phu nhân khỏi trông đợi thì càng hay lắm.
Lý Bá chớp chớp đôi mắt, ấp úng:
- Nhưng… nhưng…
Người áo đen cười ha hả:
- Lý huynh đừng từ chối nữa. Tại hạ chỉ hơi áy náy một chút, chứ tuyệt nhiên không có gì khác, Lý huynh đừng ngại.
Lý Bá vẫn đứng yên, không dám động đậy, mắt hết nhìn gã áo đen lại nhìn Hoàng Phủ Thiếu Hồng.
Hoàng Phủ Thiếu Hồng chỉ đưa mắt nhìn ra phía xa, chẳng nói năng gì.
Lý Bá không biết nghĩ sao, chợt ngẩng đầu lên nói bằng giọng quả quyết:
- Đầu lĩnh đã sai bảo, thuộc hạ xin vâng lệnh nhưng chẳng hay đầu lĩnh còn sai bảo gì nữa không?
Gã áo đen lắc đầu:
- Không còn việc gì khác nữa.
Lý Bá hỏi:
- Lúc trở về, thuộc hạ có còn phải đến đây nữa không?
Người áo đen lắc đầu, Lý Bá cúi xuống lấy chiếc hộp, rồi thủng thỉnh quay đi. Người áo đen luôn miệng cười khẩy, chờ cho Lý Bá quay đi liền giơ hữu thủ phóng một chưởng vào sau lưng hắn.
Một chưởng ấy bề ngoài trông nhẹ như không, vậy mà cả thân hình cao lớn lực lưỡng của Lý Bá không sao chịu nổi, hắn chỉ kịp “hự” một tiếng, rồi ngã ngay xuống đất, chiếc hộp văng đi một nơi, máu đỏ loang ra khắp mặt tuyết.
Gã áo đen cười sằng sặc:
- Lý Bá ơi Lý Bá! Ngươi đừng trách ai, chỉ nên trách mình chọn bằng hữu không tin, nếu Hoàng Phủ Thiếu Hồng bảo ngươi trước, thì ngươi đâu đến nỗi phải bỏ mạng tại đây.
Hoàng Phủ Thiếu Hồng từ nãy đến giờ vẫn đóng vai khách bàng quan, lúc này mới giật mình kinh hãi nói:
- Sao… sao đầu lĩnh lại nói vậy?
Thiếu Hồng cúi đầu, không biết nói gì nữa.
Gã áo đen lại lạnh lùng nói tiếp:
- Ta vừa tới đây, ngươi đã biết ngay, còn vờ làm bộ không trông thấy. Phen này ta giết Lý Bá, chắc ngươi khoái lắm nhỉ?
Thiếu Hồng lẳng lặng một lát, chợt ngẩng lên cười nói:
- Đại Kha xét quả không sai, thuộc hạ đã biết Lý Bá có lòng muốn phản Đại Kha từ lâu, nên mới để mặc cho hắn tự nói ra, để Đại Kha liệu bề mà đối phó.
Người áo đen lạnh lùng nói:
- À thì ra thế? Chứ không phải người thù ghét gì Lý Bá?
Thiếu Hồng cúi đầu nói:
- Thuộc hạ đối với Đại Kha lúc nào cũng một lòng một dạ, xin Đại Kha đừng ngờ.
Gã áo đen cười ha hả rồi nói:
- Tên Lý Bá chết ở đây là do Nhâm Vô Tâm sát hại, phải thế không?
Thiếu Hồng vội đáp:
- Phải phải, chính mắt thuộc hạ trông thấy.
Nhâm Vô Tâm ngồi trên cây, bất giác rủa thầm một tiếng, chợt nghe gã áo đen cười ha hả nói:
- Thì ra chính mắt ngươi trông thấy. Nhưng tại sao Nhâm Vô Tâm lại sát hại Lý Bá?
Thiếu Hồng chớp mau đôi mắt, rồi nói luôn một hơi:
- Nhâm Vô Tâm bảo hộ mấy lão già đi trốn, mấy lão già đi rồi, Nhâm Vô Tâm ở lại đoạn hậu, vừa gặp Lý Bá nấp trong bụi cây nhìn ra, hắn liền phóng chưởng đánh chết.
Người áo đen nói:
- Nếu thế thì hoá ra Lý Bá vì trung thành mà chết? Như thế công lao to lắm!
Thiếu Hồng mỉm cười:
- Người đã chết rồi, dù có công lớn cũng chẳng làm gì. Cái hộp kia là do Đại Kha phải hết sức chiến đầu với quần ma mới giành được.
Người áo đen cười ha hả:
- Đúng đúng! Cái hộp ấy là do ta giành được. Nhưng nếu lão phu nhân lại hỏi ta vì sao giành được chiếc hộp mà lại không biết bọn chúng chạy đi đâu, thì biết nói sao?
Thiếu Hồng ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:
- Bọn họ đi đâu thì trừ Nhâm Vô Tâm ra, đến mấy lão già mà hắn đưa đi cũng còn không biết, huống hồ người ngoài? Vả lại, Nhâm Vô Tâm võ công cao quá, ai mà bắt được hắn?
Nhâm Vô Tâm cười thầm, tự nghĩ: “Quá khen!”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-9-2015 21:07:45 | Xem tất
HỒI 30 -
Gã áo đen lại cười ha hả nói:
- Đúng đúng! Nhâm Vô Tâm võ công cao lắm, thật là quỉ khốc thần sầu, nhưng mà… lão phu nhân dặn ta chỉ giữ việc theo dõi xem bọn chúng di cư đi đâu, tại sao ta lại ra mặt cướp bảo vật của họ?
Thiếu Hồng nhăn nhở cười lớn:
- Vì hành tung của bọn ta đã bị Lý Bá làm bại lộ rồi mà. Nhâm Vô Tâm là hạng người nào, há chịu để chúng ta theo dõi? Trước tình thế đó, Đại Kha chỉ còn cách liều mạng mạo hiểm đoạt lấy chiếc hộp bí mật trong tay hắn.
Gã áo đen vỗ tay cười hơ hớ:
- Đúng, đúng! Diệu, diệu! Câu chuyện bịa ấy thực là hợp tình hợp lý, không còn khe hở chỗ nào! Lát nữa ngươi cứ thế mà nói, nghe không? hi hi…
Chợt nghe từ xa xa có tiếng cười, nói góp:
- Chuyện gì mà hợp lý thế? Và nói cho ai nghe…
Tiếp theo tiếng nói là một bóng người vừa thấp vừa béo, chân tay ngắn ngủn bay vèo đến.
Người này cũng vận y phục đen, mặt bịt vuông lụa đen như ba người trước, chỉ để lộ hai con mắt ti hí nhìn ra.
Khi tới trước mặt hai người, gã béo lùn vẫn cười, nói tiếp:
- Tiểu đệ nghe đồn Hoàng Phủ huynh có cái lưỡi Tô Tần từ lâu, huynh mới bịa ra chuyện gì hay thế? Huynh có thể kể cho tiểu đệ nghe được không?
Thiếu Hồng gượng cười nói:
- Nào có chuyện gì đâu?
Gã béo lùn lại cười nói:
- Đêm đông lạnh lẽo không có rượu uống thì ta nói chuyện vui cũng đủ quên rét, sao Hoàng Phủ huynh lại không chịu…
Người áo đen gầy lạnh lùng ngắt lời:
- Hãy nói việc chính đã, rồi sẽ nói chuyện chơi sau, ngươi đi tra xét chung quanh đây có thấy gì lạ không?
Gã béo lùn nói:
- Bọn lão già trong động này đã trốn hết rồi, thuộc hạ vào trong đó chỉ thấy cây cối ngã nghiêng, mà còn thấy cả vết cháy nữa.
Gã áo đen cao gầy hỏi:
- Ngươi có vào tận trong động tra xét không?
Gã béo lùn đáp:
- Thuộc hạ đã vào tận nơi tra xét tường tận rồi. Bọn họ trước khi đi đã thiêu huỷ mấy căn động, và còn nhận thấy dấu chân rất nhiều người đi thẳng tới con đường này.
Nhâm Vô Tâm ngẫm nghĩ cười thầm: “Người ta thường bảo người lùn hay làm biếng, quả thực không sai. Hắn vừa làm biếng vừa nói dối, thành ra lại có lợi cho mình.”
Người áo đen gật đầu. Gã lùn lại quay qua hỏi Thiếu Hồng:
- Hoàng Phủ huynh…
Hoàng Phủ Thiếu Hồng cười ngắt lời:
- Huynh đài muốn nghe chuyện gì? Chuyện của tiểu đệ kia kia…
Gã lùn miệng thì hỏi: “Đâu?”, mắt thì nhìn theo tay hắn trỏ.
Thiều Hồng đáp: “Ở kia!”, tay thốt nhiên hạ thấp xuống, điểm ngay vào huyệt Hoa Cái của gã lùn.
Huyệt này ở dưới cuống họng, bốn tấc sáu phân, chính là Hoa Cái của ngũ tạng, một trong sáu tử huyệt của con người, nếu bị điểm trúng, thì huyết sẽ đọng lại ở trái tim, nhất định phải chết.
Gã lùn chợt quay phắt lại, đôi mắt trợn ngược, tưởng như lòi cả con ngươi ra ngoài, vừa định quát hỏi, nhưng tiếng quát chưa thốt ra khỏi cuống họng thì thân hình đã ngã xuống.
Gã áo đen lạnh lùng cười nói:
- Tên này cũng bị Nhâm Vô Tâm giết chết ư?
Thiếu Hồng lắc đầu cười nói:
- Không phải! Hắn bị một cao thủ cùng đi với Nhâm Vô Tâm sát hại. Nếu không vì có nhiều cao thủ đi hộ tống mấy lão già thì Đại Kha đã có thể tóm được cả bọn rồi, đâu phải chỉ có cướp được cái hộp.
Gã áo đen vỗ vai hắn, cười khì khì:
- Hiền đệ quả không hổ là hiền đệ của ngu huynh! Trong số bảy mươi hai vị hào kiệt của nhà Nam Cung thế gia, có lẽ chỉ mỗi mình hiền đệ là xứng đáng làm tri kỷ của ngu huynh mà thôi.
Thiếu Hồng đôi mắt long lanh, nhưng lại vội cúi đầu xuống, cười nói:
- Tiểu đệ khi nào dám nhận là tri kỉ của Đại Kha, chẳng qua chỉ một lòng trung thành với Đại Kha mà thôi!
Người áo đen trầm ngâm một lát rồi nói:
- Bẩy mươi hai vị hào kiệt chúng ta lẽ ra phải có sáu vị đầu lĩnh, nhưng hiện thời mới có hai, nếu hiền đệ không chê, thì để ngu huynh tiến cử với lão phu nhân.
Thiếu Hồng nói to:
- Đại Kha có ý tài bồi, tiểu đệ không bao giờ dám quên ơn!
Gã áo đen cười ha hả một hồi rồi nói:
- Chúng ta đừng chơi nhàn nhã như thế này, lát nữa về nói với bọn họ rằng chúng ta vừa huyết chiến một trận với Nhâm Vô Tâm cũng thật khó tin.
Thiếu Hồng ngẫm nghĩ một lát, rồi ngẩng lên nói:
- Điều đó cũng dễ!
Nói xong nhảy lên, bất thình lình phóng một chưởng vào vai người áo đen. Thân hình hắn nhanh như một con cắt, tiếng nói chưa dứt, tay phải hắn đã đập vào vai người áo đen. Không ngờ người áo đen thân pháp còn nhanh hơn, cái thân hình gầy guộc của hắn lập tức theo đà chưởng phong bay vèo đi.
Hắn nổi giận sừng sộ hỏi:
- Làm cái gì thế?
Vừa nói đến đây, như chợt nghĩ ra, hắn lại cười xoà nói tiếp:
- Ừ, thế mà hay, chúng ta giả vờ đánh nhau một trận, cho nó có vẻ thực hơn.
Rồi hắn quay mình xông tới, thân hình chập chờn bay qua bay lại, thoắt cái đã được bảy chiêu. Hai người chiến đấu tới mấy chục chiêu, rồi mới phủi tay cười xòa. Đoạn mỗi người cúi xuống, ôm xốc một cái xác lên, trổ thuật khinh công, chạy biến vào trong đêm tối.
Trên cành cây, Tú Linh đã được chứng kiến từ đầu đến cuối tấn bi hài kịch hiếm có ấy, chờ cho hai người đi đã xa, nàng mới thở ra một hơi dài, nói:
- Tiện thiếp những tưởng bọn Thất Thập Nhị Sát đều thề chết trung thành với Tổ bà, ai ngờ… hừ! Cơ trí thâm trầm, thủ đoạn ghê gớm như Tổ bà mà cũng không làm cho bọn thủ hạ trung thành hoàn toàn được, thì đủ biết muốn làm một vị minh chủ võ lâm đâu phải dễ.
Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói:
- Từ xưa đến nay, những người làm nên nghiệp bá, có thể chia làm ba loại: một là, bụng dạ quảng đại, lấy đức làm người phục, khiến cho những kẻ thủ hạ đều được hưởng ơn mưa móc. Hạng này thì hiếm lắm; hai là, cố làm ra vẻ nhân nghĩa, dùng quyền thuật mà thu phục nhân tâm, khiến cho người ta phải hết lòng tận trung với mình, đó cũng đáng gọi là nhân kiệt. Hán Cao Tổ khi xưa dùng Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín cũng theo lối ấy.
Chàng ngừng giây lát rồi nói tiếp:
- Còn những kẻ chỉ lấy uy thế lấn hiếp người ta, dùng sức mạnh ép người ta, hoặc dùng thủ đoạn tàn độc khiến cho người ta sợ hãi, khiếp đảm mà phải theo, thì đó là hạ sách. Cách này lúc đầu có thể bắt buộc người ta theo mình được, nhưng rồi chỉ trong một thời gian, thế nào cũng bị chúng phản lại. Ta cứ xem Kiệt, Trụ, Tần thì đủ rõ.
Tú Linh than rằng:
- Vậy thì thủ đoạn ấy thành công cũng chóng mà hại cũng nhanh.
Nhâm Vô Tâm gật đầu nói:
- Đúng vậy! Lệnh tổ bà muốn nhanh chóng hoàn thành nghiệp bá nên mới dùng thủ pháp ấy. Có lẽ cùng là sự bất đắc dĩ. Nhưng có biết đâu rằng con đê đắp vội, tất phải dễ vỡ, mà một khi đã vỡ thì không còn cách gì hàn gắn được nữa.
Tú Linh ngồi ngẩn người ra một lát, không biết nói gì. Nàng tuy đã bội phản nhà Nam Cung nhưng không dễ gì trong phút chốc đã cắt đứt được thân tình. Lúc này, quả nàng cũng đang lo cho sự thành bại của nhà Nam Cung.
Nhâm Vô Tâm lẳng lặng hồi lâu, rồi lại nói:
- Người áo đen vừa rồi võ công cao lắm, lai lịch tất không phải tầm thường…
Tú Linh ngắt lời:
- Tiện thiếp cũng không rõ. Tuy nhiên, theo ý tiện thiếp thì người ấy tuy võ công cao, lai lịch quỉ bí nhưng tâm địa không đến nỗi nham hiểm, xảo quyệt như tên Hoàng Phủ Thiếu Hồng. Tên ấy mới thật đáng sợ!
Vô Tâm mỉm cười:
- Cô nương cho rằng người áo đen tâm cơ không bằng Hoàng Phủ Thiếu Hồng sao? Nếu vậy thì cô nương lầm to.
Tú Linh tươi cười nói:
- Lần này thì nhất định tướng công đoán sai. Tên Hoàng Phủ Thiếu Hồng nói đến nỗi gã áo đen khâm phục sát đất, tướng công không thấy ư?
Vô Tâm cười nói:
- Bề ngoài nhìn vào thì tưởng thế, nhưng kỳ thực thì gã áo đen làm gì mà không thấu suốt ruột gan tên Hoàng Phủ Thiếu Hồng? Có điều hắn muốn lợi dụng tên kia, nên mới giả vờ làm bộ ngu xuẩn, để tên kia khỏi đề phòng…
Chàng ngừng một lát, nói tiếp:
- Tuy nhiên, hắn cũng không muốn để Hoàng Phủ Thiếu Hồng coi thường hắn, vì nếu để gã coi thường thì chưa chắc gã đã chịu phục tòng mệnh lệnh. Do thế, hắn mới dùng võ công để trấn áp Hoàng Phủ Thiếu Hồng, cô nương thử nghĩ xem một người âm trầm giảo hoạt như hắn, làm sao có thể thua Hoàng Phủ Thiếu Hồng được?
Tú Linh gật đầu, chịu là chàng nói đúng. Lúc này, trời đã gần sáng, bức màn đêm đã từ từ hé ra một góc. Chờ cho trời sáng, hai người mới nhảy xuống, nhắm phía mặt trời mọc tiếng lên. Vừa đi được một quãng, chợt nghe tiếng vó ngựa rầm rập từ đằng xa chạy đến. Tú Linh sợ hãi nói:
- Lại có người tới, chúng ta phải tìm chỗ nấp ngay mới được.
Vô Tâm cười nói:
- Bây giờ hai chúng ta đang đóng vai hai thầy trò đạp tuyết tìm mai, việc gì phải trốn?
Tú Linh ngần ngừ:
- Không biết mình cải trang có giống không?
Vô Tâm cười đáp:
- Cù Thức Biểu tinh tế, cẩn thận lắm, trong bao phục này chắc có đủ các đồ cần dùng.
Tú Linh cởi bao phục ra, quả thấy bên trong có đủ sách vở, giấy bút. Vô Tâm bèn cầm lấy một quyển thơ thì một đàn thiện mã đã rầm rầm kéo đến.
Vó ngựa như sắt, dẫm nát cả những tảng tuyết đóng thành băng, phía sau đàn ngựa, tuyết bắn lên phơi phới như phun hoa. Những người ngồi trên mình ngựa, kỹ thuật đều rất tinh vi, nên mặc dù ngựa phi nước kiệu mà họ vẫn ngồi vững như bàn thạch.
Nhâm Vô Tâm tay cầm cuốn sách, vừa đi vừa ngâm, mắt vẫn không buồn nhìn lên. Chợt nghe một tiếng quát hỏi, rồi một gã đại hán mặc áo gấm ngồi trên lưng con ngựa trắng, tay phải cầm chiếc roi vung lên, tay trái gò dây cương lại, tức thì con ngựa nhảy chồm hai chân trước lên như người đứng, miệng hí vang trời.
Nhâm Vô Tâm có ý làm ra vẻ sợ hãi, lùi lại mấy bước, trừng mắt nhìn người cưỡi ngựa.
Người cưỡi ngựa nhảy vụt xuống đất, bước tới trước mặt Vô Tâm, hỏi:
- Huynh đệ tại hạ đi lạc đường, không nhận rõ phương hướng, không biết Nam Cung thế gia ở đâu, mong các hạ làm ơn chỉ dùm.
Nhâm Vô Tâm làm bộ ngơ ngác, hỏi lại:
- Nam Cung thế gia à? Nam Cung thế gia là cái gì cơ?
Gã đại hán sầm mặt gắt:
- Bằng hữu cố tình giả đò ngớ ngẩn, định che mắt ai?
Hắn nói tiếng Quan Đông, lại nhân lúc nóng giận nên nói líu tíu chẳng biết đằng nào mà nghe. Nhâm Vô Tâm ngẫm nghĩ cười thầm, nhưng ngoài mặt vẫn giả bộ ngây ngô đáp:
- Tiểu sinh chỉ biết có họ Nguyên, họ Bạch, họ Lý với Lý Bạch, Đỗ Phủ mà thôi. Còn Nam Cung thế gia là ai, quả tiểu sinh không hiểu.
Gã đại hán cười nhạt:
- Nam Cung thế gia ở ngay gần đây, trời xuống tuyết lớn, mà vừa mới bảnh mắt, ngươi đã len lén tới đây ngao du, lại còn leo lẻo chối không biết Nam Cung thế gia là cái gì! Ha ha…, bằng hữu đóng kịch tài lắm!
Hắn lùi lại phía sau, cầm cây roi vung lên, hô to:
- Các huynh đệ, mau vây tên này lại!
Vô Tâm nói bằng giọng run run:
- Tiểu sinh đến đây chỉ định đạp tuyết tầm mai, tuyệt không có một hành vi nào mờ ám, các vị hảo hán lầm rồi.
Chàng nói chưa dứt câu thì sáu con ngựa đã xong lại, vây kín hai người vào giữa.
Gã mặc áo gấm vừa rồi, cười nhạt nói:
- Trời rét thế này mà còn có nhã hứng đạp tuyết tầm mai, thì trừ khi là người điên hử?
Nhâm Vô Tâm thở dài nói:
- Văn võ hai đường, tính tình khác biệt, thói quen của văn nhân, không phải các vị hảo sĩ võ lâm có thể hiểu được. Tin hay không, thì xin tuỳ ở các vị.
Người áo gấm lại quát:
- Không tin!
Nhâm Vô Tâm nói:
- Các vị không tin, tiểu sinh cũng đành, chứ nào biết làm sao! Hảo sĩ võ lâm giong ngựa giang hồ, lấy sự báo ân trả oán chém giết làm vui, nhưng văn nhân chúng tôi lại lấy câu thơ chén rượu, đạp tuyết tầm mai làm thú. Hảo hán có tin không?
Người áo gấm lại quát:
- Không tin!
Vô Tâm thở dài nói:
- Chúng tôi là những kẻ văn nhân, sức không trói nổi con gà, gặp các vị võ hiệp hảo hán, dẫu có lý cũng không biết nói thế nào cho rõ được.
Tú Linh đứng bên cũng thở dài, nói góp:
- Thật đúng là có lý cũng chẳng biết nói thế nào cho rõ!
Gã áo gấm cười nhạt:
- Ta chỉ cần ngươi nói cho ta biết rõ lai lịch.
Nhâm Vô Tâm giật mình nhưng ngoài miệng vẫn giữ giọng ngây ngô, hỏi:
- Lai lịch gì? Tiểu sinh chỉ là một kẻ…
Người áo gấm lại cười, ngắt lời:
- Chỉ là một kẻ thư sinh, phải không? Hà hà, ngươi đừng cho ta là một thằng ngốc, kỳ thực ngươi mới chính là thằng đại ngốc.
Nhâm Vô Tâm hỏi:
- Thế là thế nào? Tiểu sinh quả thực không hiểu.
Gã áo gấm cười ha hả:
- Kẻ văn nhân đạp tuyết tầm mai, mà lại biết cả thuật khinh công đạp tuyết không ngấn ư?
Nhâm Vô Tâm giật mình, nhưng vẫn cố giữ vẻ trấn tỉnh:
- Hảo hán nói thế là thế nào? Tiểu sinh vẫn chưa hiểu.
Tú Linh cũng nói góp:
- Công tử tôi có biết khinh công khinh kiết gì đâu? Hảo hán đừng lầm…
Người áo gấm cười sằng sặc:
- Công tử ngươi đến đây đạp tuyết tầm mai, sao trên đôi giầy đó vẫn sạch trơn, không dính dấu tuyết?
Nhâm Vô Tâm đơ cổ, không biết cãi thế nào, bất giác nhìn xuống đôi giầy, quả thấy giầy vẫn sạch trơn như mới, còn đang lúng túng, đã thấy bảy đại hán từ trên lưng ngựa nhảy cả xuống, tay phải cầm cây roi, luôn luôn vung vẩy, mười bốn con mắt sắc như dao dồn cả lên mặt chàng.
Gã áo gấm lại cười nói:
- Ba mươi hai lộ hảo hán ở Quan Đông cũng chẳng thiếu gì kẻ gian ngoa giảo quyệt, nhưng chưa từng có kẻ nào dám giở trò trước mặt huynh đệ ta. Bằng hữu nên nói thật đi thì hơn.
Nhâm Vô Tâm cười nói:
- Ngươi muốn tại hạ nói thật cái gì?
Gã áo gấm nghiêm nét mặt nói:
- Ngươi có phải là môn hạ của Nam Cung thế gia không?
Nhâm Vô Tâm lắc đầu:
- Không phải!
Gã đại hán sừng sộ:
- Ngươi vẫn còn chối, phải không? Ta lại hỏi ngươi lần nữa, nếu không phải thì tại sao ngươi lại loanh quanh dối trá như vậy?
Vô Tâm cười khanh khách:
- Nam Cung thế gia tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm mấy chục năm nay, chủ nhân nhà ấy, năm đời đều vì công đạo võ lâm phấn đấu mà thác, thật không hổ cái tiếng “Võ lâm đệ nhất gia”! Nếu tại hạ là môn hạ nhà Nam Cung thì việc gì phải chối?
Người áo gấm hừ một tiếng rồi nói:
- Đã vậy, tại sao vừa rồi ta hỏi thăm nhà Nam Cung thế gia, ngươi lại giả vờ làm như chưa từng nghe thấy tên ấy bao giờ, là nghĩa gì?
Vô Tâm chưa kịp trả lời thì gã lại tiếp:
- Ta không cần biết ngươi có phải là người nhà Nam Cung thế gia hay không, nhưng đã nói dối như vậy thì cũng không phải là hạng người tử tế.
Nói xong, hắn lại vung roi, quát:
- Các huynh đệ mau bắt tên này lại, để ta tra hỏi cho rõ ràng!
Sáu người kia cùng dạ ran một tiếng, rồi cầm roi xông vào, Nhâm Vô Tâm cau mày hỏi:
- Các vị muốn động thủ thật ư?
Gã áo gấm cười sằng sặc nói:
- Các ngươi không nghe thấy người ta thường có câu rằng: “Quan Đông có bảy ngọn Phá Lục Tiên, dưới đánh ma quỉ, trên đánh tiên” à? Địa vị của bảy huynh đệ ta như thế nào, mà nói đến động thủ lại còn phải hỏi giả hay thật?
Tú Linh không đợi Nhâm Vô Tâm lên tiếng, lập tức quát:
- Mặc kệ Phá Lục Tiên với Phá Lưỡng Tiên của các ngươi! Các ngươi muốn động thủ thì cứ động thủ đi!
Nhâm Vô Tâm thầm nghĩ: “Điền cô nương vẫn còn cái thói thiên kim tiểu thơ, việc gì cũng không chịu nhường nhịn. Trận đánh nhau hôm nay thật là oan uổng!”
Trong khi ấy, ba ngọn roi của đối phương đã vung tới. Thì ra bảy cây roi này đều tết bằng tóc, buộc bằng dây vàng, có thể vừa dùng làm roi ngựa, vừa dùng làm binh khí. Nếu lại đem nội lực dồn lên ngọn roi, thì đứng đằng xa có thể điểm lên các đại huyệt khắp trên mình địch thủ. Cán roi có mũi nhọn, nếu đánh xáp lá cà thì quay cán lại làm thành mũi chuỷ, thật là một món binh khí ngoại môn gồm cả nhuyễn ngạnh, đánh xa đánh gần cũng đều thuận tiện.
Nhâm Vô Tâm luôn luôn né tránh trong chưởng ảnh, ngọn roi, chàng không muốn đánh lại mà cũng không muốn nói rõ cho họ khỏi ngộ nhận. Giữa lúc ấy, chợt lại nghe tiếng vó ngựa rầm rập chạy đến, thoáng chốc đã tới gần.
Vô Tâm liếc mắt trông thấy một đoàn năm kỵ sĩ, đi đầu là một con la nhỏ lông xanh, xương xẩu gồ ghề, đuôi trụi, tai ngắn, trông chẳng thuận mắt chút nào nhưng cước lực của nó có lẽ còn nhanh hơn cả tuấn mã. Theo sau là bốn con vừa lừa vừa ngựa, ngựa thì ngựa tồi còn lừa thì cũng lừa ốm, trong bề ngoài, không ai có thể biết rằng sức chúng chạy nhanh không kém gì ngựa thiên lý.
Người cưỡi la, đầu trọc, lông mày ngắn, thân hình gầy ốm, khuôn mặt xám ngoét, mũi lớn, miệng rộng ngoắc lên tới gần mang tai. Lão mặc bộ áo mà da đồng, rách mướp, lưng còn thắt chiếc dây lụa màu lam, trông tựa như một ông sư kiết xác, ngày ngày cầm bát đi khất thực. Người nào la ấy, trông thật tương xứng một cách khôi hài.
Hàng thứ nhì là một con lừa hoa, trên lưng đã không có yên cương, lại còn đặt ngang lù lù hai túi vải to kếch. Một ông già tóc bạc, thân thể khô đét, quần áo lam lũ, ngồi chễm chệ trên hai cái túi, chân bỏ thõng chạm xuống tận đất, đứng phía sau trông giống như trẻ con cưỡi chó, mà đứng mé bên thì lại trông giống như con la có sáu chân.
Hàng thứ ba là hai con lừa lông đen nhánh như đồng lum, hình dạng màu lông, cao thấp giống nhau như hệt. Người ngồi trên lưng lừa đều bụng lớn, mặt tròn, da dẻ hồng hào, tuy đầu tóc đã bạc phơ mà thái độ chẳng khác gì trẻ con, vừa đi vừa cười đùa nhí nhảnh. Hai người đã giống nhau như hai giọt nước, lại cưỡi hai con lừa giống nhau sánh vai cùng đi, khiến cho ai trông thấy cũng tưởng là mình hoa mắt, trông một người hoá ra hai.
Con ngựa đi hàng thứ tư, hình thù càng cổ quái, đó là một giống ngựa chân thấp, còn thấp hơn cả con la, người ngồi trên lưng ngựa là một ông già râu quai nón, người cao như cây phướn, mắt tròn, mày rậm, râu cứng như rễ tre, áo thì vừa chật vừa ngắn, tay áo không dài quá khuỷu tay, ống quần không che kín đầu gối, hai cánh tay gân nổi lên như gân chảo. Trông lão ta tuổi đã gần bảy mươi, mà sức lực còn khoẻ mạnh hơn trai tráng.
Bọn Quan Đông Thất Tiên cũng nhận ra hình dạng kỳ quái của bọn người mới tới, nhưng tay vẫn không ngừng liên thủ tấn công Vô Tâm và Tú Linh.
Lão già cưỡi la đi đầu thấy hai bên đánh nhau, bèn ngoái đầu trông lại, người cưỡi lừa đi hàng thứ nhì, sắc mặt tỉnh bơ như không trông thấy. Còn lão già béo lùn đi hàng thứ ba lại quay đầu cười nói với người bên cạnh:
- Bùi lão nhị trông kìa, ở đây người ta dùng cả roi ngựa đánh người, mà đánh lại không trúng, mới tức cười chứ! hì, hì…
Lão già bên cạnh cũng cười khanh khách:
- Đánh trúng hay không trúng, không thành vấn đề, có điều bảy người đánh hai trông chướng mắt quá, phải không Bùi lão đại?
Bùi lão đại cười ha hả:
- Chẳng cần chúng mình phải lắm lời, coi chừng có người đã nhịn không nổi nữa rồi kia kìa!
Câu nói chưa dứt, ông già cưỡi ngựa đi hàng thứ tư đã vỗ tay vào vế ngựa đánh “bộp” một tiếng, con ngựa tức thì vượt qua bốn người, xông vào bọn Quan Đông Thất Tiên.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-9-2015 21:31:31 | Xem tất
HỒI 31 - CÁI BANG NGŨ LÃO
Ông ta vừa phóng ngựa xông vào đám đánh nhau, vừa hét vang như sấm:
- Dừng cả lại! Bảy người đánh hai mà không biết xấu à?
Gã áo gấm trong bọn Quan Đông Thất tiên nổi giận nói:
- Ai khiến ngươi chõ mõm vào việc người ta?
Gã vừa mắng vừa vung tít ngọn roi lên như mưa bụi, điểm vào ba đại huyệt bên sườn ông già. Ông già không thèm nhìn chỉ đưa tay bắt lấy ngọn roi, cười ha hả quát:
- Nằm xuống!
Vừa quát vừa cầm ngọn roi giật mạnh. Gã áo gấm tay vẫn nắm vững đốc roi, thân hình không hề nhúc nhích. Ông già nóng tiết hét:
- À giỏi!
Chỉ trong nháy mắt đã thấy ba ngọn roi khác đồng thời đánh tới, ông già ngã người về phía sau, hai chân kẹp chặt lấy sườn ngựa, con ngựa gầy hí lên một tiếng đứng thẳng lên như người, thành thử nửa mình bên trên của ông già gần chấm tới mặt đất.
Chỉ nghe tiếng roi vun vút quật ngang trước mặt và hai bên đầu ông già. Ông xoay nghiêng bàn tay quét trúng chân hai gã đại hán, tay trái vẫn nắm chắc ngọn roi của người áo gấm, gắng sức giật mạnh.
Người áo gấm thân hình hơi ngã về phía sau, chân vẫn đứng vững, gân cánh tay nổi lên lớn như chiếc đũa, những đốt ngón tay trên bàn tay nắm cán roi đã biến ra màu trắng xanh. Chợt nghe một tiếng “phựt” cây roi dài bằng tóc bện lẫn với sợi chỉ vàng đã đứt rời ra làm ba đoạn.
Gã đại hán áo gấm không đứng vững được nữa, thân hình lập tức ngã ngửa ra phía sau. Ông già vẫn ngồi nghiêng trên mình con ngựa đứng, lúc này thốt nhiên bị mất thăng bằng, thân hình cũng bị nghiêng đi rồi cả người lẫn ngựa đều đổ nhào sang bên cạnh. Ông ta chống khuỷu tay xuống đất, thân hình bật thẳng lên không, lộn ngược người lại, bay về phía sau tới hơn một trượng.
Con ngựa lúc sắp ngã, kinh sợ hí rầm lên. Nhâm Vô Tâm bay vụt tới đỡ lấy hai chân trước con ngựa, đặt nó đứng xuống đất. Con ngựa hình như sợ quá, lại hí lên một hồi toan nhảy ra ngoài, Nhâm Vô Tâm sẽ đưa tay vỗ nhẹ lên mình nó vài cái, tức thì con ngựa đứng yên, không cựa quậy nữa. Ông già cưỡi la buột miệng nói:
- Thế mới thật là chân công phu!
Ông già tóc bạc cưỡi lừa hoa sắc mặt lạnh như tiền, lúc này cũng hơi biến sắc mặt, lẩm bẩm: “Đúng thế!”
Bọn Quan Đông Thất tiên đứng xúm lại, vây xung quanh người bị thương ở chân. Gã đại hán áo gấm tay vẫn cầm lăm lăm đoạn roi đứt, trừng mắt nhìn ông già râu quai nón, ông già cũng quắc mắt nhìn lại. Hai người cùng thân hình cao lớn uy mãnh, mặt mũi thần tình cũng nhiều chỗ hơi giống nhau. Nhưng người áo gấm thì sắc mặt hầm hầm đầy vẻ giận dữ, còn ông già râu quai nón miệng chỉ hơi tủm tỉm nói:
- Hảo tiểu tử, gân sức quả nhiên cứng cáp, xem chừng công phu ngoại môn của ngươi cũng được tới tám thành hỏa hầu chứ không ít!
Gã áo gấm quát:
- Ngươi hãy thử lại lần nữa xem?
Ông già vuốt râu cười khì khì:
- Lão ngần này tuổi đầu, ai lại đi đánh nhau với trẻ con!
Người áo gấm trợn mắt, sửng cồ:
- Vừa rồi không đánh nhau là gì?
Ông già cười:
- Vừa rồi lão chỉ ngứa mắt vì trông thấy tụi ngươi cậy đông người xúm vào bắt nạt kẻ cô thế, nên mới trừng phạt một chút chứ nếu các ngươi cứ một chọi một thì đã chẳng có chuyện.
Người áo gấm còn chưa biết nói gì, lão nhân đã tiếp:
- Lão phu sinh bình vẫn có tính cứu khốn phò nguy, bênh thiện diệt ác. Hai phe các ngươi đánh nhau vì cớ gì, mau kể cho lão nghe, nếu xét ra ngươi phải có lẽ lão sẽ giúp ngươi một tay cũng nên.
Người áo gấm nổi giận nói:
- Ai khiến cái thứ ngươi giúp? Việc riêng của anh em ta, xưa nay vốn không thích cho người ngoài nhúng vào! Ngươi biết điều thì tránh ra cho được việc!
Ông già cười ha hả:
- Ngươi không thích người ngoài nhúng tay vào chuyện riêng của tụi ngươi, nhưng lão cứ thích nhúng tay vào. Ngươi làm gì lão?
Người áo gấm giận lắm, chẳng nói chẳng rằng thốt nhiên nhảy lên, thoi một quyền vào giữa mặt ông già, tay phải cầm đốc roi có lưỡi chủy dùng chiêu thức “Huyền điểu lạc sa”, “Khổng tước dịch vũ”, “Phượng hoàng triển xí” liên tiếp ba chiêu, chia ra đánh vào đầu vai và sáu huyệt lớn trên sườn ông già, cách biến chiêu nhanh như điện chớp.
Hắn đã dốc hết toàn lực vào mấy chiêu đó, đứng ngoài chỉ trông thấy trong luồng gió mạnh vù vù, kèm theo những đốm sao lấp loáng, bao trùm thân hình ông già vào giữa.
Ông già mặt lạnh như tiền, thân hình vững như trái núi, chờ cho những đốm ngân tinh tới gần hai chân thốt nhiên trôi vèo đi tới sáu bảy thước, hai tay buông thõng xuống, khuỷu tay đặt sát vào eo lưng, cổ tay đặt sát vào bắp vế ngón tay cong lên. Trông bề ngoài thì tưởng là ông ta không có ý trả đòn, kỳ thực thì bàn tay đã vào thế tính hạ độc thủ.
Thân hình ông ta vừa chuyển động thì hai ông già mặt mũi hồng hào đã biến sắc mặt bảo nhau:
- Chết rồi, lão Ngũ đã nổi nóng muốn giết người!
Nói xong hai thân hình đã phơi phới từ trên lưng lừa, lăng không bay xuống. Người bên trái thân hình lẹ như mũi tên bắn, lao tới sau lưng ông già râu quai nón, cười hềnh hệch nói:
- Lão Ngũ đừng nóng, ngươi thử cười đi xem nào!
Vừa nói vừa lấy hai ngón tay cù vào hai bên nách ông già, ông già quả nhiên bật cười ha hả, thân hình co quắp lại. Thì ra ông già này tính nóng như lửa, trời không sợ đất không kiêng, bình sinh chỉ có sợ mỗi một thứ là nhột!
Ông lùn đứng bên phải thân pháp cũng cực kỳ nhanh nhẹn, người nhẹ như một nắm bông gòn bay xuống giữa chỗ ông già và người áo gấm, phất ống tay áo ngăn không cho người áo gấm xông lên. Người áo gấm chỉ thấy một nguồn sức mạnh nhu hòa, từ trong ống tay áo của ông già lùn phóng ra đẩy mình lùi lại mấy bước. Chợt lại nghe ông ta cười ha hả nói:
- Lão Ngũ, người ta tên họ là gì ngươi còn chưa biết, sao đã định giết chết người ta? Thật là chuyện tức cười!
Người áo gấm nổi giận nói:
- Ai thua ai được chưa rõ ràng, làm sao đã biết là lão giết được ta?
Lão lùn cười hi hí nói:
- Thôi đừng làm ồn lên nữa!
Ông già râu quai nón lúc này cũng đã hết nhột nín cười, trỏ tay vào mặt gã áo gấm quát to:
- Nếu không có hai người này, thì ngươi đã chết mất ngáp rồi con ơi!
Hai người lại xông vào định đánh nữa. Ông già lùn đứng giữa dang hai tay ra cản hai người lại, cười nói với ông già râu quai nón:
- Ngươi muốn dính vào chuyện người khác hay muốn đánh nhau thì mặc kệ ngươi, nhưng trước hết ngươi phải hỏi cho rõ ràng xem hai bên, bên nào thiện bên nào ác đã, rồi hãy ra tay mới được chứ?
Ông già nổi giận hét vang như sấm:
- Ta không muốn đánh nhau nhưng tên kia thật là vô lễ khả ố, hắn đối với lão còn hoành hành bá đạo như vậy, đủ hiểu hắn đối với người khác thế nào, việc gì còn phải hỏi!
Lão lại trỏ Nhâm Vô Tâm nói tiếp:
- Ngươi coi người ta nho nhã lịch sự thế kia, đâu có phải là người ác?Các ngươi đừng can ta, thế nào ta cũng phải can thiệp vào chuyện này kỳ được mới nghe.
Ông già lùn cười nói:
- Mặt ác bụng chưa chắc đã ác, mặt hiền bụng chưa chắc đã hiền, đừng có tưởng bở!
Ông già trừng mắt hỏi:
- Ai bảo thế?
Ông già lùn cười ha hả nói:
- Trên đời này không còn ai ngang ngạnh bá đạo cho bằng ngươi, vậy ngươi cũng tự nhận là kẻ ác chăng?
Ông già râu quai nón đứng ngẩn người ra, không biết trả lời thế nào. Ông già đầu trọc từ nãy vẫn ngồi yên trên mình la, lúc này mới quay lại mỉm cười nói với ông già tóc bạc:
- Tính lão Ngũ chỉ có Bài lão Tam trị nổi, nếu không có vị khắc tinh ấy ở đây thì bọn mình cũng đến thúc thủ, không làm gì được hắn.
Nét mặt lạnh lùng của ông già tóc bạc lúc này mới hơi thoáng nở một nụ cười. Ông già cưỡi la lại nói:
- Hai phe kia hình như cũng là những nhân vật có lai lịch, hiền đệ thử ra hỏi lại xem sao!
Ông già tóc bạc vâng lời nhảy xuống đất, thủng thỉnh bước lại gần chỗ ba ông già đồng bọn rồi ngoảnh về phía Quan Đông Thất tiên, chắp tay nói:
- Các vị có thể cho lão hủ biết đại danh được không?
Gã áo gấm tỏ vẻ ngần ngừ, chưa kịp trả lời ông già tóc bạc đã mỉm cười nói tiếp:
- Việc này anh em tôi đã nhúng tay vào, quyết không chịu nửa chừng bỏ dở nên lão phu mới mạo muội thỉnh giáo quí danh, lai lịch các vị. Các vị đã là bậc giang hồ hào kiệt, thiết tưởng cũng thông cảm những nỗi khổ tâm cho chúng tôi…!
Ông nói năng đã uyển chuyển từ tốn, thái độ lại nghiêm trang cung kính, vô hình trung đã biểu lộ một uy lực đủ bắt buộc người khác phải tuân theo. Nhâm Vô Tâm đứng ngoài cũng bất giác tấm tắc khen thầm: “Lời nói thật lịch sự, thủ đoạn thật cao minh! Người như vậy mà còn phải nghe theo mệnh lệnh của kẻ khác, thì đủ biết ông già đầu trọc kia hành động còn cao hơn bậc nữa.”
Người áo gấm nghe ông già nói xong cũng chấp tay thi lễ, mỉm cười nói:
- Anh em tôi không phải là hạng người vô lễ, chỉ vì bình sinh không quen chịu khuất phục ai!
Kế lại vỗ vào ngực nói:
- Tại hạ là Kim Thừa Tín. Bọn bảy anh em tôi tức là “Quan Đông Thất điều phá lục tiên”. Các hạ cứ đem bảy chữ ấy hỏi thăm trong đám giang hồ, sẽ biết chúng tôi là hạng người nào.
Ông già tóc bạc quay lại bảo ông già râu quai nón:
- Danh tiếng hào hiệp của anh em họ Kim quả đã vang dậy xa gần, Ngũ đệ có lẽ lầm chăng?
Đoạn ông ta lại bước tới gần Nhâm Vô Tâm chắp tay cười hỏi:
- Xin các hạ cho biết đại danh.
Vô Tâm cười nói:
- Tại hạ chỉ là một tên vô danh tiểu tốt trong giang hồ, tên tuổi tưởng không cần phải nói.
Ông già sầm nét mặt lại nói:
- Các hạ tuy anh hoa không lộ ra ngoài nhưng vừa rồi một tay chống lại “Quan Đông Thất tiên”, thân thủ đó che sao nổi mắt lão phu?
Vô Tâm mỉm cười nói:
- Các hạ lầm rồi!
Ông già quắc mắt nói:
- Không dám nói tên tuổi tất phải có gian ý! Lão phu nhất định phải yêu cầu các hạ giải thích cho minh bạch.
Vô Tâm chưa kịp trả lời, Tú Linh đứng sau lưng chàng thốt nhiên bước ra, cười nhạt nói:
- Chống được “Quan Đông Thất tiên” cứ gì phải có thân thủ ghê gớm, có thân thủ ghê gớm cứ gì phải có danh tiếng lừng lẫy giang hồ, có danh tiếng lừng lẫy trong giang hồ, cũng cứ gì nhất định phải khai tên tuổi trước mặt các hạ! Còn phải giải thích gì nữa?
Ông già nhướng cao lông mày, ánh mắt càng lạnh như thép, miệng vẫn mỉm cười nói:
- Chú tiểu quản gia này miệng lưỡi sắc bén nhỉ?
Tú Linh thản nhiên nói:
- Đạo lý rành rành ra đấy, dù đứa trẻ lên ba cũng biết nói, và dù người đầu óc ngu tối đến đâu cũng phải nghe ra, cứ gì phải có miệng lưỡi sắc bén mới nói được!
Nàng nói một thôi một hồi rồi cũng không thèm nhìn ai, chỉ quay lại nói với Vô Tâm:
- Tướng công, ta đi đi thôi, nói chuyện với những người không cần giảng đạo lý, chỉ mất thì giờ và càng thêm tức mình!
Vừa nói dứt lời, bọn “Quan Đông Thất tiên” đã đổ xô ra chắn ngang giữa lối, không cho nàng đi. Tú Linh nổi giận hỏi:
- Các ngươi giữ ta làm gì? Còn muốn đánh nhau nữa chăng?
Kim Thừa Tín cười nhạt, lạnh lùng đáp:
- Đã hẳn!
Tú Linh nhướng mày nói:
- Muốn đánh nhau thì cứ việc ra tay đi! Tại hạ sẵn lòng lĩnh giáo!
Ông già đầu bạc nói với Kim Thừa Tín:
- Lần này các hạ khỏi cần phải ra tay, đã có anh em chúng tôi!
Kim Thừa Tín lắc đầu nói:
- Anh em tôi tới đây đã liều một chết, nếu không làm xong việc này, chúng tôi cũng không tính đến chuyện trở về Quan Đông nữa.
Hắn đã yên trí Nhâm Vô Tâm là người trong Nam Cung thế gia, lại thấy năm vị lão nhân hành tung quỉ bí, chỉ sợ có liên quan gì với Nam Cung thế gia nên không muốn nói rõ. Ông già râu quai nón sốt ruột, hét vang như sấm:
- Việc gì mà ghê gớm thế?Tại sao các vị không dám nói thật? Hay là…
Ông già đầu bạc xua tay ngăn không cho lão nói, chỉ bảo Kim Thừa Tín:
- Chưa biết chừng anh em các hạ tới đây lại cùng chung một mục đích với chúng tôi cũng nên.
Kim Thừa Tín hỏi:
- Các hạ thử nói trước xem có đúng không nào?
Ông già đưa mắt nhìn quanh một lượt rồi thò tay vào mình lấy ra một cục than, viết lên lòng bàn tay hai chữ đoạn lại đưa cục than cho Kim Thừa Tín nói:
- Các hạ đem mục đích của mình viết lên bàn tay, để chúng ta thử so xem.
Kim Thừa Tín cầm lấy cục than, ngần ngừ đưa mắt nhìn bọn anh em một lượt, như muốn thăm dò ý kiến. Sáu người kia tuy không ai nói gì nhưng đều gật đầu tỏ vẻ đồng ý.
Kim Thừa Tín cũng viết vào lòng bàn tay hai chữ, rồi bước tới trước mặt ông già đầu bạc nói:
- Tôi viết xong rồi!
Ông già cười nói:
- Bây giờ chúng ta cùng mở tay ra xem.
Nói chưa dứt lời, hai nắm tay đều đồng thời xòe cả ra. Chỉ thấy một bàn tay trắng, một bàn tay đen, một bàn tay thô và một bàn tay thanh tú, mỗi bàn tay đều có hai chữ “Nam Cung”. Ông già râu quai nón xem xong hai bàn tay, thốt nhiên biến sắc mặt quắc mắt nhìn Nhâm Vô Tâm.
Kim Thừa Tín cũng tái mặt nói:
- Năm vị đến đây cũng là vì việc Nam Cung thế gia ư?
Ông già tóc trắng gật đầu, trỏ Nhâm Vô Tâm hỏi:
- Người kia có phải là…
Kim Thừa Tín lớn tiếng đáp:
- Hắn là môn hạ Nam Cung thế gia.
Ông già râu quai nón mắt trợn tròn xoe, râu dựng đứng lên như lông nhím, thét vang như sấm:
- Tiểu tử giỏi thật! Vậy mà ta cứ ngỡ ngươi là người tử tế, dè đâu mi lại là môn hạ của Nam Cung thế gia?
Nói chưa dứt lời, mười đầu ngón tay đã khum lại rồi cả cái thân hình cao lớn kèm theo một luồng kình phong, đón đầu Nhâm Vô Tâm xông tới. Nhâm Vô Tâm né mình tránh thoát hai thế, chợt nghe bên cạnh có tiếng nói:
- Chà, thân pháp nhanh quá!
Thì ra hai anh em ông già lùn đã từ hai phía đánh dồn tới. Lúc này trên miệng hai người đã tắt nụ cười, động tác nhanh như chớp đánh vào hai vai Nhâm Vô Tâm, bộ vị xuất thủ thật là kỳ lạ lanh lẹ. Giữa lúc đó, ông già râu quai nón xoay mạnh thân hình, nhấc cao một bàn chân quét ngang vào hai đầu gối Nhâm Vô Tâm.
Nhâm Vô Tâm cười nói:
- À thì ra “Cái Bang Ngũ lão” cũng cậy đông lấn kẻ cô thế, chẳng khác gì những quân vô sỉ.
Chàng vừa cười vừa rụt vai lại, nhảy vụt lên không, hai chân hơi co về, đứng dưới trông lên giống như một con hạc đang nghiêng cánh bay lượn trên mây. Ông già râu quai nón gầm lên một tiếng, vừa toan nhảy theo chợt thấy ông già đầu bạc quát:
- Khoan đã!
Rồi nhảy đến trước mặt ông già râu quai nón, ngay lúc đó Nhâm Vô Tâm cũng vừa phơi phới rơi xuống đất, nhìn ông già đầu trọc vòng tay cười nói:
- Các hạ thật là người mát tính, bên kia ồn ào như thế mà các hạ vẫn ngồi yên được!
Ông già ngoác cái mồm cá ngão ra, cười ha hả nói:
- Lão phu quả càng ngày càng lười thật!
Vô Tâm lại hỏi:
- Việc này chẳng lẽ các hạ không lý gì đến sao?
Lão lại cười ha hả:
- Bọn anh em lão còn mạnh hơn lão nhiều, việc gì phải cần lão nhúng vào. Lão Nhị hãy lại nói chuyện với vị công tử này đi, hỏi hắn tại sao hắn mới tí tuổi đầu đã biết rõ lai lịch của anh em ta? Và cũng hỏi xem hắn có phải là môn hạ Nam Cung thế gia thật không?
Kim Thừa Tín nói to:
- Việc gì còn phải hỏi? Tôi đã biết rõ hành tung của hắn rồi, hắn không còn chối vào đâu được nữa…
Ông già tóc bạc xua tay ngắt lời:
- Các hạ đừng vội võ đoán. Đại kha tôi không hay nói, mà đã nói thì tất không sai.
Nhâm Vô Tâm lại cười nói với ông già đầu trọc:
- Các vị tiền bối trong giang hồ thường nói rằng: “Cái Bang Ngũ lão” duy có lão Đại là “không phong không mang”. Nhưng bữa nay tại hạ xem ra thì bốn chữ “không phong không mang” phải đổi là “Không lộ phong mang” mới đúng!
Chàng không biết rằng câu nói của chàng vẫn chưa được đúng hẳn, vì lão trọc đầu cũng không phải là không lộ phong mang, lão chỉ đem cái phong mang của lão cho bọn đàn em mượn, thế thôi.
Ông già đầu trọc miệng như hơi mỉm cười nói:
- Thế mới lại kỳ nữa! Người còn ít tuổi như vậy mà sao lại biết lắm chuyện của những người già trong giang hồ thế? Nào lại đây! Lão Nhị tiếp chuyện hắn đi.
Ông ta cứ giục đi giục lại lão Nhị ra tiếp Nhâm Vô Tâm nghe thì hình như không có nghĩa lý gì, kỳ thực trong mấy câu ấy ông ta đã nêu lên cái vấn đề cốt yếu của câu chuyện.
Không ngờ Nhâm Vô Tâm hình như chỉ thích nói chuyện riêng với ông ta, nên không đợi ông già đầu bạc hỏi vẫn điềm nhiên nói với lão Đại:
- Tại hạ không những am hiểu nhiều chuyện của các bậc tiền bối, mà cả những chuyện của vũ lâm đương thời tại hạ cũng rõ như nhìn vào bàn tay vậy.
Chàng nhìn khắp mọi người một lượt, rồi lại tiếp:
- Ngay như chư vị tới đây có mục đích gì, các hạ không cần nói ra tại hạ cũng biết.
Ông già đầu trọc cười hỏi:
- Các hạ cứ nói ta nghe thử, coi có đúng không?
Nhâm Vô Tâm thủng thỉnh nói:
- Mười chín năm về trước, thiếu chủ nhân đời thứ tư nhà Nam Cung thế gia bị giết chết. Vũ lâm thiên hạ họp đại hội ở Động Đình, Lãnh Diện Bạch Mi Truy phong tẩu Âu Dương Đình Âu Dương nhị hiệp trong ngũ lão, đang đêm sấn vào Động Đình cùng đại hiệp đương thời Động Đình là “Cửu sĩ ông” Ông Bình đấu luôn ba chưởng, gây nên cuộc huyết chiến trên Quân Sơn giữa hai bang “Động Đình” và “Cái Bang”. Tam hiệp trong ngũ lão có hai anh em Bùi thị song phi kiếm và Triệu ngũ hiệp một mình cử nổi cái đỉnh ngàn cân, quần hào ở bang Động Đình tức giận, bèn thiết kế đốt Quân Sơn thiêu bọn Cái Bang ở Quân Sơn tuyệt bắc. May sao các hạ ở ngoài biên tái xa xôi ngàn dặm nghe biết tin ấy, bèn đi suốt ngày đêm trở về, dọc đường đổi ngựa tới mười lăm lần…
Chàng thở một hơi rồi lại tiếp:
- Khi các hạ về đến nơi thì hai bên đã đi đến chỗ lưỡng bại câu thương. Các hạ chỉ dùng hai ba câu là giải quyết xong cục diện nguy cấp đó, bắt “Động Đình đại hiệp” phải thân hành đem quần hào Động Đình tiễn bọn anh hùng Cái Bang ra quan ải. Nhưng Cái Bang Ngũ lão sau khi về bang, cũng lập tức qui ẩn rút lui ra khỏi giang hồ.
Chàng nói thao thao bất tuyệt một hồi, câu chuyện vũ lâm cách đây đã mười chín năm trời, mà chàng thuật lại rõ ràng trơn tru như chính mình là người trong cuộc. Cái Bang ngũ lão nghe xong sắc mặt đều lộ vẻ xúc động, mơ màng như đang thả hồn về dĩ vãng.
Chờ chàng nói xong, ông già đầu trọc mới lắc đầu cười:
- Chuyện này có lẽ chính lão phu cũng không còn nhớ được rõ lắm.
Vô Tâm lại chắp tay cười nói:
- Cái Bang Ngũ lão quả là những người biết giữ tín nghĩa, sau khi qui ẩn tuyệt không hỏi gì đến chuyện giang hồ, phen này bỗng dưng lại xuất hiện ở đây tất nhiên phải vì một vấn đề gì quan trọng có liên can đến sự sống chết, mất còn của Cái Bang.
Lão già đầu trọc mỉm cười hỏi:
- Việc ấy là việc gì?
Nhâm Vô Tâm nhấn mạnh từng tiếng:
- Xà Thần Khang Tổ!
Ông già trọc đầu chợt nghiêm sắc mặt hỏi:
- Các hạ còn biết những gì nữa?
Vô Tâm thủng thỉnh đáp:
- Mười chín năm trước, Xà Thần Khang Tổ vì hành vi không đứng đắn nên bị sư đệ tiếp chưởng môn hộ Cái Bang. Vì việc đó mà lúc nào hắn cũng canh cánh bên lòng, mãi tới mười chín năm sau hắn mới báo thù.
Cái Bang ngũ lão thôi không cười cợt nữa, Quan Đông Thất tiên nghe câu chuyện bí mật của vũ lâm xong, sắc mặt cũng đều lộ vẻ xúc động. Vô Tâm lại nói tiếp:
- Hồi năm ngoái Bang chủ Cái Bang thốt nhiên kêu là bị bệnh nặng, triệu hết mười lăm đại đệ tử về Tổng đàn, từ đấy trong giang hồ không còn ai trông thấy vị Bang chủ ấy đâu nữa. Người ta cho rằng ông ta còn đau chưa khỏi, kỳ thực…
Chàng nói tới đấy chợt ngừng lại, đưa mắt nhìn Cái Bang Ngũ lão, thấy sắc mặt người nào cũng lộ vẻ trầm trọng, tập trung hết tinh thần nghe chàng nói. Kim Thừa Tín sốt ruột hỏi:
- Kỳ thực làm sao?
Vô Tâm thở dài đáp:
- Kỳ thực ông ta chết đã lâu rồi!
Quan Đông Thất tiên đều rùng mình, buột miệng kêu lên một tiếng. Bang chủ cái Bang từ trần đó là một tin cực kỳ trọng đại, vậy mà trong giang hồ tuyệt không một ai biết, làm gì mà bọn họ không khỏi kinh ngạc? Ông già râu quai nón thốt nhiên sầm mặt quát to:
- Đó là việc bí mật của bản bang, ngươi làm sao mà biết?
Vô Tâm nói:
- Trước khi tổng đàn Cái Bang chưa ra lệnh triệu hồi mười lăm đại đệ tử, Lăng bang chủ đã chết về tay Xà Thần Khang Tổ. Vì thế Tổng đàn mới phái người đi gấp ngày đêm triệu mười lăm đại đệ tử về để lo việc hậu sự. Sau khi đã bàn luận kỹ càng, mới quyết định bắt hung thủ là Khang Tổ về Tổng đàn để thi hành môn quy. Nhưng trước khi chưa bắt được hung thủ, cũng giấu không tuyên bố cái tin Lăng bang chủ từ trần cho thiên hạ biết vội.
Chàng ngừng một lát rồi lại tiếp:
- Nhưng từ đó không ai biết tung tích Khang Tổ đâu nữa, đệ tử cái Bang tuy đã rải tai mắt khắp thiên hạ mà trong một thời gian vẫn không sao tìm thấy hắn. Mười lăm đệ tử đều phải bó tay không còn cách gì hơn nữa, đang đêm đành phải tìm lên động Thanh âm nham Hàn giản trên “Thiên mục tuyệt đỉnh” báo cáo với Cái Bang Ngũ lão và năn nỉ Ngũ lão hạ sơn. Vì thế nên giang hồ lúc này mới lại được thấy hiệp tung Cái Bang ngũ lão.
Ông già râu quai nón mắt trợn tròn xoe, kêu rầm lên:
- Quái thật! Quái thật! Ngươi đứng đâu mà trông thấy?
Ông già tóc bạc chính là Lãnh Diện Bạch mi Truy Phong Tẩu Âu Dương Đình sắc mặt trầm trọng, sẵng giọng nói:
- Ngũ đệ đừng ngắt lời, cứ để hắn nói nốt.
Vô Tâm nói tiếp:
- Khốn nỗi Cái Bang Ngũ lão vũ công tuy cao nhưng lại không có tài tiên tri, tuy chịu hạ sơn về Tổng đàn Cái Bang nhưng chưa điều tra được tin tức của Khang Tổ. Lúc này nếu không nhờ có Bạch Đại tiên sinh và Âu Dương nhị hiệp đứng trong ngầm giữ trọng trách điều khiển, thì mấy ngàn đệ tử Cái Bang chắc đã hóa thành cục thế rồng không đầu, mà Tổng đàn cái Bang trước sau vẫn không dám tuyên bố về cái chết của Bang chủ, vì sợ làm chấn động giang hồ lại còn sợ làm cho lòng quân ly tán…
Ông già râu quai nón kinh sợ nghĩ thầm: “Không hiểu sao hắn còn biết cả tới ruột gan của đại kha ta nữa?”
Vô Tâm vẫn tiếp tục kể:
- Mãi tới trước đây hơn một tháng, Tổng đàn Cái Bang mới đột nhiên nhận được một tin kinh hồn, đó là tin Xà Thần Khang Tổ đã đầu thân vào Nam Cung thế gia, làm một chân trong “Thất thập nhị địa sát”. Cái Bang Ngũ lão kinh sợ một mặt đưa thư sang Động Đình giải thích cái cớ phải phá lời thề lại xuất hiện giang hồ, một mặt thu xếp hành lý lập tức lên đường truy nã hung thủ. Đó là nguyên nhân xui khiến các vị tới đây bữa nay, tại hạ mạo muội trình bày không biết có đúng sự thực không?
Hai ông già béo lùn chính là anh em Đinh thị đưa mắt nhìn ông già đầu trọc là Bạch Đại tiên sinh. Bạch Đại tiên sinh lại đưa mắt nhìn Âu Dương Đình.
Âu Dương Đình cau mày nói:
- Tại sao nhà ngươi lại biết rõ ràng như vậy?
Vô Tâm cười nói:
- Tại hạ không những chỉ biết việc ấy mà còn biết rằng “Phá vân thất tiên” sở dĩ đến đây hôm nay vì cớ Đường Thông, một người bạn thế giao của các vị bị Nam Cung thế gia hãm hại mà Đường lão thái đã đem tin tức truyền tới Quan Đông. Nếu không thì sao tự nhiên các vị lại bỏ cả ba trăm mẫu đất chăn nuôi mục súc, lần mò vào Quan Nội làm gì?
Quan Đông thất tiên lại càng kinh ngạc, Kim Thừa Tín vội hỏi:
- Việc đó tại sao các hạ biết?
Vô Tâm thủng thỉnh đáp:
- Các vị đừng hỏi tại sao tại hạ lại biết vội, các vị chỉ cần trả lời là tại hạ nói thế có đúng không?
Âu Dương Đình cau mày hỏi:
- Đúng thì làm sao? Mà không đúng thì làm sao?
Vô Tâm cười nói:
- Nếu như các vị nhận thấy là tại hạ nói đúng, thì xin các vị nghe tại hạ khuyên một câu.
Âu Dương Đình hỏi:
- Câu gì, các hạ cứ thử nói cho chúng ta nghe thử.
Ông nói bằng một giọng dè dặt, ôn tồn không ra nhận lời mà cũng không ra không. Vô Tâm nghĩ thầm: “Ông già này lợi hại thật!” bất giác chàng cũng phải đắn đo một lúc rồi mới chậm rãi lên tiếng:
- Tại hạ chỉ khuyên các vị không nên khinh cử vọng động, và nhất là đừng có cứ thế này vào thẳng nhà Nam Cung thế gia sinh sự.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-9-2015 21:37:58 | Xem tất
HỒI 32 - CAO THỦ GIAO ĐẤU
Mọi người đều lẳng lặng chờ nghe Âu Dương Đình trả lời vì “Phá Vân Thất Tiên” đã nhận thấy “Lãnh diện bạch mi Truy phong tẩu” là người cơ trí thông minh, chủ ý của ông ta tất không đến nỗi lầm lẫn. Âu Dương Đình trầm ngâm một lát rồi thủng thỉnh nói:
- Các hạ nói thế tất không phải là không có nguyên cớ, nhưng các hạ có thể giải thích rõ ràng hơn được không?
Vô Tâm nói:
- Tiềm lực của Nam Cung thế gia lớn lắm, rất có thể cách xa với ý liệu của các vị nhiều. Nếu các vị không đắn đo cẩn thận mà cứ làm bừa đi, tôi e rằng đả thảo kinh xà không những vô ích mà còn ảnh hưởng tới đại cuộc nữa.
Âu Dương Đình đôi mắt chợt sáng hẳn lên, hỏi:
- Đại cuộc gì?
Vô Tâm dằn mạnh từng tiếng:
- Chủ trì chính nghĩa vũ lâm, giải cứu đồng đạo bị hại, phá âm mưu của Nam Cung thế gia, báo thù cho những anh hùng hào kiệt bị chết oan, như thế không phải là đại cuộc ư?
 Dương Đình lại hỏi:
- Thế nào mới không phải là khinh cử vọng động?
Vô Tâm nói luôn:
- Các vị cần phải kín đáo đợi thời cơ, khi nào thấy có người nông nổi muốn vọng động thì ta phải hết sức ngăn cản.
Âu Dương Đình hỏi:
- Bao giờ tới thời cơ?
Vô Tâm nói:
- Khi nào thời cơ đến, tại hạ sẽ lập tức thông báo tới các vị.
Âu Dương Đình ngẫm nghĩ giây lâu rồi mới ngẩng lên nói với Bạch Đại tiên sinh:
- Việc này xin tùy đại kha quyết định.
Bạch Đại tiên sinh cũng cau lông mày trầm ngâm một lát rồi nói:
- Vị tướng công này nói cũng có lý…
Ông vừa nói đến đấy, chợt nghe ông già râu quai nón kêu to:
- Mặc dù hắn nói có lý hay vô lý, anh em ta không thể hoàn toàn tin lời một người hành tung quỉ bí, lai lịch mờ ám mà quyết định đại sự được!
Kim Thừa Tín cũng nói:
- Câu nói của lão tiền bối cũng trúng tâm lý tại hạ. Bảy anh em tôi hoàn toàn đồng ý với tiền bối.
Âu Dương Đình trên môi thoáng nở một nụ cười, rõ ràng là ông ta cũng tán thành ý kiến ấy. Bạch Đại tiên sinh nhướng cao lông mày, nói với Vô Tâm:
- Các hạ đã nghe rõ chưa? Dù các hạ có tài biện luận đến đâu, cũng khó lòng làm cho chúng tôi tâm phục.
Vô Tâm mỉm cười nói:
- Nếu thế tất các vị muốn bắt tại hạ phải nói ra mấy chuyện kinh hồn?
Bạch Đại tiên sinh nói:
- Hãy chờ xem câu chuyện của các hạ kinh hồn đến bực nào đã!
Vô Tâm ngửa mặt lên trời cười ha hả nói:
- Cái Bang ngũ lão xưa nay ngang dọc giang hồ, những chuyện kinh hồn tất nhiên trông thấy cũng nhiều. Tại hạ dẫu có nói đến rách lưỡi, cũng vị tất đã làm cho các vị hồi tâm chuyển ý. Nhưng nếu các vị cứ nhất quyết muốn đi, thì tối thiểu vũ công cũng phải thắng tại hạ, mới đủ tư cách…
Chàng đưa mắt nhìn khắp mọi người một lượt, rồi lại tiếp:
- Vì nếu không thế chẳng khác xua dê vào miệng cọp, chỉ có đi mà không có về…
Ông già râu quai nón nổi giận đùng đùng quát:
- Được rồi, để lão phu thử đấu với ngươi mấy hiệp, xem vũ công của ngươi cao đến bậc nào mà dám huênh hoang khoác lác!
Vô Tâm lạnh lùng nói:
- Các hạ đừng trách tại hạ ăn nói lỗ mãng, chớ vũ công của các hạ dẫu đấu với tên thư đồng của tại hạ đây, cũng còn kém một bực.
Ông già râu quai nón tức là Triệu Liệt Bân tóc râu dựng ngược, hét vang như sấm:
- Hừ, mẹ kiếp! Lão phu chỉ cần dùng ba chiêu là đủ bắt nó ngã sang Đông, nó quyết không dám trái lệnh ngã sang Tây cho mà coi!
Nhâm Vô Tâm biết cục diện hôm nay nếu không lấy vũ công trấn áp bọn họ, thì khó lòng mà bắt buộc họ phải theo ý mình, nên mới cố khiêu khích làm cho lão Triệu phải giận sôi sùng sục.
Lúc này chàng lại cười nhạt nói:
- Đừng nói ba chiêu, cứ đấu đủ ba trăm chiêu, nếu các hạ thắng được hắn, tại hạ xin cúi đầu nhận tội.
Triệu Liệt Bân giận lắm, day tay mắm miệng, nhấp nhỏm chỉ định xông ra. Vô Tâm xua tay nói:
- Khoan đã!
Rồi chàng đưa mắt nhìn khắp mọi người hỏi:
- Vị nào có nhã hứng, muốn đấu với tại hạ?
Bạch Đại tiên sinh thủng thỉnh đứng lên nói:
- Nhị đệ, lần này ta phải tự ra tay mới được.
Âu Dương Đình khom lưng đáp:
- Đại kha nên cẩn thận!
Bạch Đại tiên sinh xốc lại cổ áo, ngưng thần tĩnh khí bước tới trước mặt Nhâm Vô Tâm. Triệu Liệt Bân kêu to:
- Để tiểu đệ giáo huấn tên này, rồi đại kha sẽ động thủ!
Vừa nói lão vừa nhảy vọt tới trước mặt Tú Linh, xuất chiêu cực kỳ lăng lệ, quả nhiên thế như bạt núi băng ngàn. Tú Linh vẫn đứng yên, chờ cho đối phương đánh tới mới nhẹ nhàng xoay mình tránh thoát, miệng vẫn mỉm cười hỏi:
- Ngươi có muốn ta nhường trước ba chiêu không?
Vừa nói dứt lời, chợt nghe Nhâm Vô Tâm dùng thuật “Truyền âm nhập mật” nói vào tai:
- Người này có thần lực, nội ngoại công phu đã đạt tới bực lô hỏa thuần thanh, cô nương chớ coi thường, ta chỉ nên dùng thân pháp linh xảo mà trốn tránh, cốt làm tiêu hao chân lực của hắn, chọc cho hắn tức giận điên cuồng, nếu qua được ba trăm chiêu thì tức là mình thắng.
Tú Linh nhìn chàng bằng cặp mắt long lanh, miệng cười tủm tỉm, tỏ ý là mình đã hiểu lời chàng nói. Chỉ trong nháy mắt Triệu Liệt Bân đã tấn công được hai chục chiêu, khí thế hung mãnh như mưa gầm gió thét, mới trông thì tưởng là không có lề lối gì cả, kỳ thực thì mỗi chiêu mỗi thức đều tinh diệu tuyệt vời bao gồm cả thô hào và tế nhị.
Tú Linh nhớ lời Vô Tâm dặn quả nhiên chỉ dùng thân pháp nhẹ nhàng, chập chờn lẩn tránh trong màn chưởng ảnh của đối phương. Thỉnh thoảng cũng có đánh ra một chiêu nhưng chỉ đánh đến nửa chừng lại thu về, bộ vị xuất chiêu của nàng rất kỳ lạ, ít thấy ở trong vũ lâm.
Chiêu thức của Triệu Liệt Bân khác nào như nước sông Trường Giang cuồn cuộn chảy xuống không ngừng. Nhưng Điền Tú Linh thân hình khéo léo, chẳng khác gì con cá “lư” bơi ngược dòng sông, dẫu dồn hết nước sông cũng không ngăn cản nổi.
Bọn Cái Bang đứng ngoài xem, sắc mặt đều lộ vẻ âm trầm, bốn mặt chỉ nghe thấy tiếng quyền phong vù vù, áo quần phấp phới, lừa kêu dậy đất, ngựa hí vang trời, không khí đấu trường mười phần nghiêm trọng.
Bạch Đại tiên sinh đang lắng hết tinh thần theo dõi trận đấu, chợt nghe Âu Dương Đình dùng thuật “Truyền âm nhập mật” nói:
- Không ngờ một tên thư đồng oắt tì mà công phu đã cao thâm tới bực ấy? Anh chàng công tử kia xem chừng cũng không phải tay vừa. Lát nữa đại kha đấu với hắn cũng nên lưu ý.
Bạch Đại tiên sinh gật đầu. Bùi lão tam chợt nói:
- Tên thư đồng chiêu thức quả có mới lạ quỉ bí nhưng có vẻ hơi yếu, giống như con gái. Nếu vị công tử kia lát nữa cũng dùng những chiêu thức đó, đại kha chỉ nên dùng những chiêu hùng hồn trầm ổn mà đối địch, lấy chậm chế nhanh, lấy cương khắc nhu tất phải thắng.
Bạch Đại tiên sinh cũng gật đầu nhưng không nói gì cả.
Trong lúc ấy Điền Tú Linh với lão Triệu càng đấu càng mãnh liệt, trải qua một thời gian gắng sức mà chiêu thức của Triệu Liệt Bân vẫn không hề giảm sút, lực lượng chân khí tiềm tàng trong nội thể của ông ta giống như nước nguồn, nguyên nguyên bất tuyệt, dùng không cạn, lấy không hết.
Tú Linh nghĩ thầm: “Ông già này nội lực thật kinh hồn, coi chừng ông ta có thể đấu một ngày một đêm nữa cũng được. Nội lực của ta không đủ, làm sao mà chống cự lại được? Chi bằng ta dùng chiêu thức quỉ bí, cố thắng lấy một chiêu xem sao?”
Nàng nghĩ tới đấy bất giác quên phứt cả lời dặn của Nhâm Vô Tâm. Giữa lúc đó lại thấy Triệu Liệt Bân cong năm ngón tay lên như cái thùng, dùng chiêu “Xích thủ bát long” chĩa ra túm lấy vai bên trái và sườn bên phải của Tú Linh.
Chiêu thức của ông ta vốn dĩ vẫn uy mãnh cương liệt, lần này lại thấy đối phương từ lúc đánh đến giờ chưa tùng hồi thủ lần nào, lại càng không cần gìn giữ, bèn vươn hai tay đánh ra hai nơi, thành thử trước ngực bỏ trống.
Tú Linh không hề do dự lập tức xoay mình lại đánh ra một chưởng, xuyên qua chi phong của Triệu Liệt Bân, tay trái cong lại đánh vào uyển mạch của lão. Triệu Liệt Bân quát to một tiếng, hai bàn tay cùng khép lại giữ không môn, bắt tay địch, biến chiêu nhanh như điện chớp.
Tú Linh mừng thầm nghĩ bụng: “Chính ta chỉ cần có thế”. Nàng vừa nghĩ xong, lập tức cũng biến chiêu, tới khi chiêu của Triệu Liệt Bân dùng đã hết đà, nàng mới thốt nhiên hạ tay phải xuống vạch chéo một nhát theo hình nửa vầng trăng, điểm thật nhanh vào đại huyệt “Khúc trì” ở hai khuỷu tay của Triệu Liệt Bân, tay trái vung lên nghiêng bàn tay chặn đường tháo lui của đối thủ.
Một chiêu ấy gồm cả công lẫn thủ, bề ngoài trông tuy không có gì là đặc biệt, kỳ thực thì kỳ quỉ vô cùng, dù chưởng chiêu của Triệu Liệt Bân biến hóa thế nào cũng khó lòng tránh thoát được chiêu “Thiên la địa võng” ấy.
Chỉ thấy Triệu Liệt Bân buông thõng hai tay xuống, ép sát vào thắt lưng và hai bên đùi. Tú Linh thấy đối phương tuy tránh được chiêu ấy, nhưng toàn thân từ trên xuống dưới sơ hở rất nhiều, trong bụng càng mừng nghĩ thầm: “Biến chiêu cái kiểu ấy, chỉ tổ mua lấy cái chết”. Hai tay lập tức đưa lên định hạ sát thủ.
Không ngờ trong khoảng thời gian nháy mắt đó, Triệu Liệt Bân thốt nhiên đứng thẳng người như cây gỗ, ngã về phía sau hai chân thừa thế đá liên tiếp luôn bảy cái. Đại phàm công phu “Thiết bản kiều” toàn nhờ ở sự vững chắc, hai chân phải như đóng đinh xuống đất, thân hình mới không bị đổ. Không ngờ trong trường hợp ấy, Triệu Liệt Bân vẫn còn có thể giơ chân đá địch thủ được.
Tú Linh đã cầm chắc phần thắng nên sơ ý không đề phòng, lúc này trong bụng kinh sợ, chân tay luống cuống, đành phải nhảy lùi lại mấy bước. Không dè Triệu Liệt Bân trong khi đá liên hoàn luôn bảy đá, thân hình đã từ từ đứng dậy, đá tới cái thứ năm thì hai cánh tay đặt sát hai bên đùi lúc nãy, thốt nhiên vung lên phối hợp với công thế của đôi chân, chia ra đánh vào đầu bên trái và sườn bên phải của Tú Linh.
Chỉ trong thoáng chốc, một chiêu ông ta đã biến đổi tới bốn thức, đánh vào năm nơi trên, giữa, dưới, bên trái, bên phải của địch thủ. Tú Linh sợ quá liệu khó lòng tránh thoát, trong bụng chợt nảy ý ác, định thi triển một chiêu cực kỳ lang độc quyết cùng đối phương đồng quy ư tận. Nhưng vì nàng dùng sức còn kém đối phương xa, nên phần thua đã nắm chắc.
Giữa lúc Nhâm Vô Tâm vừa biến sắc mặt định xông vào, thì Bạch Đại tiên sinh đã nhanh như một mũi tên lao vụt tới, miệng thì quát:
- Dừng lại!
Hai tay đã dang ra ngăn giữa Triệu Liệt Bân và Điền Tú Linh. Tú Linh thừa dịp bước lùi lại phía sau, Triệu Liệt Bân cũng bị Bạch Đại tiên sinh đẩy ra khỏi vòng chiến. Ta nên biết ông ta đã giao du với Triệu Liệt Bân mấy chục năm trời, cùng tập vũ công một nhà, nên chiêu thức gia số của Triệu Liệt Bân thế nào, ông đã biết rõ lắm nên vừa ra tay giải ngay được nguy cơ, nếu là người khác dù vũ công có cao hơn ông ta, cũng không thể chỉ trong nháy mắt đã gỡ ngay được chiêu thức của hai người đang quyết liều một sống một chết.
Triệu Liệt Bân quát to một tiếng, lảo đảo lùi lại mấy bước mới đứng vững thân hình, miệng còn nghiến ngẫm:
- Đại kha kỳ quá, tiểu đệ rõ ràng đã thắng đến nơi rồi, sao đại kha lại xuất thủ bang trợ địch nhân?
Bạch Đại tiên sinh mỉm cười nói:
- Trong vòng ba trăm chiêu, nếu tiểu đệ không thắng nổi người ta thì kể như là thua rồi!
Triệu Liệt Bân ngẩn người hỏi:
- Không lẽ đã quá ba trăm chiêu rồi cơ à?
Bạch Đại tiên sinh thủng thỉnh đáp:
- Khi hiền đệ đá tới cái thứ tư thì đã được ba trăm linh một chiêu rồi.
Vô Tâm bất giác khâm phục vô cùng, tự nghĩ: “Bạch Đại tiên sinh quả là một bậc nhân kiệt, xử sự không những đã chính trực vô tư mà nhỡn quang cũng minh mẫn hiếm có, đáng kính đáng phục!”
Triệu Liệt Bân chớp chớp đôi mắt cười một cách gượng gạo:
- Ba trăm chiêu, trời sao mà chóng quá vậy? Tiểu đệ cứ yên trí là mới có mấy chục chiêu thôi chứ!
Bạch Đại tiên sinh cười nói:
- Tại hiền đệ chuyên chú vào chiêu thức đối địch quá nên mới quên hết mọi sự. Nhưng đối phương mới một tí tuổi đầu đã làm cho hiền đệ phải chú hết tinh thần chống chọi, vẫn không thắng nổi, nội một điểm đó cũng đủ thấy hiền đệ thua rồi, dẫu có hạ độc thủ để cần lấy thắng cũng chẳng vẻ vang gì!
Triệu Liệt Bân đỏ mặt tía tai cúi đầu lẳng lặng, xem chừng trong bụng ông ta lấy làm khó chịu lắm. Tú Linh lại cảm thấy bất nhẫn, thỏ thẻ nói:
- Thực ra thì vũ công của Triệu đại hiệp còn cao hơn tôi nhiều lắm, tôi đâu có…
Vô Tâm cười ha hả ngắt lời:
- Ngươi biết thế thì tốt lắm, nếu lúc đầu ngươi dám trả đòn ngay thì chỉ trong vòng ba chục chiêu đã thua rồi!
Triệu Liệt Bân ngẩng lên trông chàng bằng một đôi mắt chứa chan cảm kích, chợt vùng cười ha hả:
- Rõ ràng là lão phu thua rồi, công tử hà tất còn phải thếp vàng vào mặt lão nữa! Từ nhỏ đến giờ lão đánh nhau có cả trăm ngàn trận, thua có được có, việc gì phải bận tâm?
Vô Tâm cũng thầm phục ông ta là người sảng khoái, chợt lại nghe Bạch Đại tiên sinh mỉm cười nói:
- Quí quản gia đã cao minh như vậy, công tử vũ công tất phải kinh người? Xin cho lão phu thỉnh giáo mấy chiêu tuyệt kỹ.
Vô Tâm cũng mỉm cười bước lên mấy bước, Bạch Đại tiên sinh nói:
- Lão phu hơn tuổi, xin nhường công tử xuất thủ trước!
Vô Tâm nói:
- Nếu vậy tại hạ xin thất lễ!
Rồi chàng bước ngang ra ba bước, đặt tay trước ngực ngưng thần đợi địch. Hai người đối diện nhìn nhau một lúc, chưa ai chịu ra tay trước. Lúc này mọi người đều đã đứng lùi ra xa hơn một trượng, quây thành vòng tròn, nín thở chờ hai cao thủ lâm trận. Không khí thật trầm trọng, trong ngoài im phăng phắc, thậm chí nghe rõ cả hơi thở của từng người.
Chợt nghe “vút” một tiếng, thì ra Bạch Đại tiên sinh thân hình đã bay xa bảy bước, ngón tay trái nhè nhẹ búng một luồng chỉ phong vun vút xé luồng không khí bay ra.
Chiêu “Đàn chỉ thần thông” nguyên là một chiêu dùng để dụ địch, tuy không hại được đối phương nhưng có thể nhử cho đối phương hốt hoảng đón đỡ, mình sẽ thừa thế phản kích. Đó chính là cái lối người đi săn ném đá cho chim sợ bay ra khỏi rừng, để dễ giương cung bắn. Bạch Đại tiên sinh quả xứng đáng là tuyệt đại cao thủ, kinh nghiệm giang hồ thật lão luyện.
Không ngờ Vô Tâm tuổi tuy còn nhỏ nhưng tâm cơ trầm ổn, lúc lâm địch vẫn ung dung đối phó, không hề hấp tấp luống cuống, khi thấy chỉ phong đưa tới chàng vẫn đứng yên không tránh, mục quang vẫn chiếu thẳng vào Bạch Đại tiên sinh.
Chỉ nghe vèo một tiếng chỉ phong đã tan biến vào không khí, hai người lại đối diện nhìn nhau. Giây lâu, cả hai mới dần dần nhúc nhích bước đi, họ đều cố tình di chuyển thân hình làm mê hoặc nhỡn quang của đối phương, rồi mới dùng định lực trầm ổn của mình, bức đối phương phải phân tán tinh thần, chờ đối phương phân tán tinh thần sau đó mới dùng chiêu thức lăng lệ ào ạt tấn công, làm cho đối phương trở tay không kịp vì thế hai người cùng co hai cánh tay lại, lấy bàn tay hộ trụ thân thể, con mắt không dám rời nhau khoảnh khắc.
Giữa bầu không khí căng thẳng đến tột độ đó, không ai để ý đến mấy cái bóng đỏ vừa hiện ra trên nền tuyết trắng ở cách đấy một quãng xa xa. Thời gian qua một lúc khá lâu, tâm thần mỗi người càng lúc càng trở nên trầm trọng. Cũng trong khi ấy, những cái bóng đỏ đã tiến lại gần chỉ còn cách chừng vài trượng. Thì ra đó là bốn vị Lạt ma áo đỏ.
Bốn vị cao tăng đưa cặp mắt sắc như dao nhìn khắp mọi người một lượt, nét mặt đều lộ vẻ kinh ngạc, đứng dừng cả lại xem. Chợt nghe Nhâm Vô Tâm quát sẽ một tiếng, thân hình vụt nhảy lên không.
Mọi người đều ngẩng đầu nhìn theo chỉ thấy tà áo chàng tung bay phấp phới, đứng dưới trông lên không nhận rõ bộ vị chưởng thế của chàng ở đâu nữa. Bạch Đại tiên sinh cũng hơi biến sắc mặt, thân hình bay vèo đi như một đám mây, cuốn ra khỏi vị trí. Vô Tâm nhảy lên cao tới ba trượng, chợt lộn người lại hai tay dang ra, nhằm đầu Bạch Đại tiên sinh nhảy xuống.
Thân hình của chàng cực kỳ mềm mại nhẹ nhàng, không khác gì một con rồng đang uốn khúc nhào lộn trên không, quả thật vô cùng đẹp mắt. Bọn Cái Bang tứ lão đều đưa mắt nhìn nhau vừa kính phục, vừa lo lắng.
Bọn Quan Đông thất tiên trố mắt ra nhìn, xương sống lạnh toát. Điền Tú Linh quả tim cũng đập thình thình, vì lần này là lần thứ nhất mới được trông thấy Nhâm Vô Tâm thi triển thân pháp kinh hồn như vậy. Ngay cả bốn vị Lạt ma hồng y đứng ngoài xem cũng cảm thấy kinh dị, không ngờ vũ lâm quan nội lại có những cao thủ tuyệt vời như thế.
Chỉ trong nháy mắt đã thấy Vô Tâm lăng không đưa hai chưởng ra, mới trông thì tưởng là “Thất cầm thần chưởng” của Bắc Thiên sơn, nhưng nhìn kỹ thì chiêu thức còn cao hơn chưởng pháp Thiên sơn nhiều. Bạch Đại tiên sinh càng đánh càng nhanh, thốt nhiên vung mạnh hai tay, thân hình đã nhẩy lên khỏi mặt đất.
Tình hình lúc đó viết ra thì tỉ mỉ dài dòng, kỳ thực sự việc xảy ra chỉ trong chớp mắt. Trong lúc hai người một lên một xuống gặp nhau giữa lưng chừng trong một thời gian chớp nhoáng, người ta chỉ nghe thấy tiếng chưởng liên tiếp đánh ra vù vù.
Người không tinh ý tưởng là chỉ có một chưởng, thực ra trong cái chớp nhoáng đó, hai người đã trao đổi với nhau tới mấy chưởng. Mọi người ngẩng đầu trông theo thẩy đều giật mình biến sắc, nhưng ngay lúc đó hai bóng người đã dời ra hai ngả.
Nhâm Vô Tâm áo quần phấp phới lộn đi một vòng, rồi nhẹ nhàng rơi xuống đứng vào chỗ cũ. Bạch Đại tiên sinh thì bay ra tới hơn một trượng rồi mới rơi xuống, sắc mặt tươi tỉnh vừa rồi phút chốc đã biến thành u uất, ngực cũng phập phồng thở mạnh. Bọn người đứng xem toàn là hạng cao thủ, nên đã nhận ra Bạch Đại tiên sinh chân lực đã bị thương nhẹ đang phải vận khí điều tức.
Nhâm Vô Tâm cũng không thừa thế truy kích, đủ hiểu là chàng vẫn có ý nhường. Âu Dương Đình mắt sáng như điện đã thấy rõ tình hình, trong bụng ông ta tuy cũng cảm kích Vô Tâm là người có độ lượng, nhưng vì thanh danh Cái Bang ngũ lão mấy chục năm trời nên không muốn cho Bạch Đại tiên sinh nhận thua ngay, chỉ lẳng lặng đứng im.
Bạch Đại tiên sinh vừa điều tức xong, chợt lại xông vào tay trái dùng quyền, tay phải dùng chưởng đánh thẳng vào ngực và bụng Vô Tâm. Ông ta không nỡ phụ lòng mong mỏi của Âu Dương Đình, trong bụng tuy biết là vừa rồi mình đã bị thua nên lòng tranh thắng cũng bị sự xấu hổ làm nhụt bớt, vì vậy trong khi ra tay cũng không dè dặt quá như trước nữa.
Không ngờ trong bụng đã không lưu ý đến sự được thua, thì chiêu thức cũng trở nên linh lợi nhẹ nhàng, chỉ trong nháy mắt ông ta đã tấn công được bảy chiêu. Vô Tâm đã nắm chắc phần thắng, nhưng lúc này cũng không dám sơ hốt, trước hết lấy thế cho vững ung dung đón đỡ, chiêu thức thật là kín đáo không còn sơ hở nào.
Âu Dương Đình thấy chàng thủ thế nghiêm mật như vậy, bất giác cũng phải khen thầm. Thoắt chàng đã hồi thủ được ba chiêu, từ thủ biến ra công chiêu thức biến hóa, chỉ hay ở chỗ tự nhiên, không một vẻ gì là gượng ép. Đấu hết mười chiêu, Bạch Đại tiên sinh và Âu Dương Đình đều nhận ra rằng vũ công chiêu thức của chàng khác hẳn tên thư đồng lúc nãy.
Càng làm cho người ta kinh sợ hơn nữa là chiêu thức của chàng tuy đã tới tuyệt đỉnh của bốn chữ “lăng lệ, tấn tốc”, nhưng mỗi khi phóng chưởng hình như chàng vẫn chưa dùng hết sức, không ai hiểu trong mình chàng thiếu niên còn ẩn tàng bao nhiêu tiềm lực?
Đàn ngựa đứng trên mặt tuyết vì bị rét cóng, kêu không thành tiếng lúc này cũng bị kinh hoảng bởi hai đấu thủ thân hình bay qua lộn lại, chưởng phong chưởng ảnh vù vù nhấp nhoáng, bèn nhẩy loạn cả lên, chân gõ xuống đất cồm cộp, làm cho tuyết dưới đất bắn lên như mưa.
Trong lúc đàn ngựa lừa nhốn nháo kinh hoàng như thế, thì bọn người đứng xem trái lại, người nào cũng đứng ngây như pho tượng đá, bao nhiêu tinh thần đều đổ dồn cả vào chiến trường. Bên ngoài xảy ra sự gì họ cũng không biết, thậm chí đến bốn vị Lạt ma áo đỏ chỉ đứng cách họ có hơn một trượng, mà cũng không một người nào chú ý.
Vô Tâm và Bạch Đại tiên sinh chiêu thức đều cực kỳ thần tốc, chỉ trong khoảnh khắc đã đấu được mấy trăm chiêu. Tấm áo dài màu da đồng của Bạch Đại tiên sinh lúc này đã ướt đẫm mồ hôi dính sát vào lưng. Nhâm Vô Tâm thì sắc mặt vẫn giữ vẻ ung dung bình tĩnh. Tú Linh trông theo thân hình tiêu sái của chàng, bất giác trên môi cũng nở nụ cười tán thưởng.
Bọn “Phá Vân Thất Tiên” sắc mặt đều lộ vẻ kinh ngạc, họ đã từng nghe thanh danh “Cái Bang ngũ lão” từ lâu, mà ai có ngờ đâu một cao thủ danh tiếng lừng lẫy giang hồ như Bạch Đại tiên sinh mà lại bị thua bởi một kẻ thiếu niên vô danh tiểu tốt như Nhâm Vô Tâm.
Tú Linh ngẩng đầu nhìn bọn Cái Bang tứ lão còn lại, thấy sắc mặt bốn người đều tỏ vẻ nóng lòng sốt ruột, bất giác than thầm: “Mấy vị tiền bối trong Cái Bang ngũ lão thật đáng kính đáng phục, nếu phải là người khác thì khi thấy đại kha sắp bị thua đến nơi, tất phải xông vào đánh hôi để gỡ thể diện, nhưng đằng này họ chỉ đứng ngoài bực tức ngấm ngầm thôi, đủ hiểu họ là hạng người thế nào?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-9-2015 21:46:20 | Xem tất
HỒI 33 - BIỆN LUẬN THẮNG BẠI
Chợt thấy Triệu Liệt Bân mở banh vạt áo trước ngực ra, kêu rầm lên:
- Đại kha!
Tiếng thét vang như sấm làm cho mọi người đều giật mình, đàn ngựa cũng hoảng hốt đứng dừng cả lại ngơ ngác. Triệu Liệt Bân nghiến răng xé nát vạt áo ra từng mảnh, hình như ông ta cốt làm thế cho hả giận, miệng thì rít lên:
- Đại kha…. rõ ràng đại kha sắp thua rồi, còn cố gắng gượng chống đỡ làm gì nữa?
Âu Dương Đình và anh em Bùi thị đều cúi gầm mặt xuống, không ai dám nhìn vào mặt ông ta. Giữa lúc ấy, Nhâm Vô Tâm chợt tà tà bay lên, áo quần phơi phới rồi như một cánh chim hồng, đậu xuống cách đấy chừng ba trượng.
Bạch Đại tiên sinh dùng một chiêu “Vân long thám chảo” vừa đánh tới nửa chừng lại lập tức thu chưởng thế lại, năm ngón tay cong cong với lên trên không, thân hình đứng thẳng như cây gỗ, ý chừng ông ta muốn với lấy cái thanh danh chế thắng bất bại mà ông ta vừa để tuột tay rơi mất.
Một phút lặng lẽ trôi qua.
Bạch Đại tiên sinh vẫn đứng đờ người ra như chết đứng, không hề động cựa. Triệu Liệt Bân thốt nhiên khóc oà lên, rồi tung mình nhảy vụt tới chân Bạch Đại tiên sinh. Anh em Bùi thị và Âu Dương Đình bất tri bất giác cũng tiến cả tới bên Bạch Đại tiên sinh.
Bùi Tam vỗ vào vai Triệu Liệt Bân ôn tồn nói:
- Ngũ đệ, thắng bại là việc thường của con nhà tướng, câu ấy chính miệng ngũ đệ vẫn thường nói, đã quên rồi ư?
Triệu Liệt Bân nổi giận, kêu rống lên như cái còi:
- Ta thua đến hàng nghìn lần cũng không sao, nhưng đại kha thì không thể thua được! Không thể thua được!
Bùi Tam cười nói:
- Sao Ngũ đệ ngốc thế, đại kha cũng là người, thiên hạ chỉ có Tiên Phật mới không bao giờ thua, chớ còn người thường thì chưa từng có ai lại vĩnh viễn không thua bao giờ.
Ngoài mặt tuy ông ta vẫn cố giữ vẻ tươi cười, ôn tồn khuyên giải Triệu Liệt Bân nhưng hai khóe mắt ông ta cũng thấy long lanh ngấn lệ. Nhân vì Bạch Đại tiên sinh tượng trưng cho quang vinh Cái Bang, ngẫu tượng cho hết thảy đệ tử Cái Bang, mà bao nhiêu cái tượng trưng cho quang vinh, ngẫu tượng cho tôn phái ở cõi đời này đều không thể thua được, vĩnh viễn không thể thua được!
Giữa lúc bầu không khí bi ai thống khổ đang bao trùm lên đầu bọn Cái Bang ngũ lão, thì Nhâm Vô Tâm chợt cất tiếng cười khanh khách. Triệu Liệt Bân cơn giận càng bốc lên ngùn ngụt, quát lớn:
- Ngươi thắng thì cứ việc thắng, còn cười nỗi gì?
Nhâm Vô Tâm cao giọng nói:
- Tại hạ chỉ cười các hạ, chớ có cười gì đâu!
Triệu Liệt Bân trợn mắt quát:
- Triệu mỗ thà bị ngươi đâm cho một đao, còn hơn là bị ngươi cười!
Vô Tâm mỉm cười nói:
- Bạch Đại tiên sinh bị thua bao giờ, mà các vị cứ nhất định buộc ông ấy phải nhận thua, còn gì tức cười hơn nữa?
Triệu Liệt Bân ngẩn người một lúc, rồi lại giận dữ nói:
- Ai khiến ngươi giả nhân giả nghĩa…
Vô Tâm nghiêm sắc mặt nói:
- Tại hạ bình sinh chưa từng nói dối bao giờ, sao các hạ lại bảo là tại hạ giả nhân giả nghĩa? Nếu quả tại hạ thắng được “Cái Bang ngũ lão” thì đó chính là một điều vẻ vang danh giá cho tại hạ, chớ có nhục nhã gì đâu mà phải chối?
Triệu Liệt Bân không biết nói sao, lại quay ra nhìn Bạch Đại tiên sinh. Lúc này bốn vị Hồng y lạt ma thừa lúc chiến trường đang lộn xộn kẻ khóc người cười, đã lén bước đến tận nơi mà vẫn không ai hay biết.
Nghe Nhâm Vô Tâm nói vậy, không những Triệu Liệt Bân đã ngơ ngác quay lại nhìn Bạch Đại tiên sinh, mà tất cả bao nhiêu cặp mắt của mọi người cũng đều đổ dồn về phía ông ta. Bạch Đại tiên sinh bỏ hai tay xuống, cười một cách gượng gạo nói:
- Chính thế, ta đã thua đâu!
Điền Tú Linh cau mày trong bụng không phục, “Phá vân thất tiên” cũng ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau. Bạch Đại tiên sinh thủng thỉnh nói:
- Nhưng ta sở dĩ chưa thua là vì vị công tử ấy nới tay đó thôi, chỉ trong vòng mười lăm chiêu nữa ta sẽ hết hy vọng, và năm mươi chiêu nữa ta sẽ không còn sức trả đòn. Đứng trong tình trạng ấy, ai mà không nhận thấy thế? Công tử nói như vậy, càng làm cho anh em tôi khó xử.
Vô Tâm mỉm cười nói:
- Dẫu trông bề ngoài thì như thế nhưng thực tế lại khác, hiền huynh đệ chỉ biết có một mà không biết đến hai.
Bạch Đại tiên sinh nói:
- Thực tế khác ở chỗ nào, tại hạ thật không hiểu.
Vô Tâm nhìn khắp mọi người một lượt, rồi thủng thỉnh đáp:
- Hiền huynh đệ tất cũng biết rằng, trước khi tại hạ động thủ đã hiểu rõ hết vũ công và chiêu thức biến hoá của Bạch Đại tiên sinh, mà tiên sinh thì chưa hề biết một tí gì về vũ công, chiêu thức của tại hạ. Trong khi hai bên giao đấu nếu mình biết rõ vũ công của đối phương, thì ấy là đã chiếm được tiên cơ chế địch rồi, cố nhiên như vậy thì phần thắng tất phải nhiều hơn phần bại. Tại hạ chỉ được lợi một điểm đó, nhưng như thế sao gọi là thắng được?
“Phá vân thất tiên” lúc này mới hiểu ra bất giác cùng đưa mắt nhìn nhau cười mỉm. Nhưng Bạch Đại tiên sinh lại lắc đầu thở dài:
- Đức độ của công tử thật đáng cho lão hủ phải cảm kích. Nhưng thà rằng công tử bịa ra một lý do gì khác để an ủi tại hạ, hoặc giả tại hạ còn có thể mượn cớ đó tự an ủi lừa dối mình cho xong, đằng này công tử lại nêu lên cái lý do ấy, làm cho tại hạ tự dối mình cũng không thể được nữa!
Vô Tâm cau mày nói:
- Câu nói của tại hạ toàn là sự thực, sao tiền bối còn ngờ?
Bạch Đại tiên sinh cười một cách gượng gạo:
- Mấy chiêu thức vừa rồi là do mấy năm gần đây lão phu mới tự sáng chế, chưa dám đem ra giang hồ thi triển, dẫu đến đệ tử bản bang cũng chưa trông thấy, công tử làm sao mà biết được?
Vô Tâm cười nói:
- Môn chưởng pháp vũ công của tiền bối sáng chế ra, không lẽ trên đời này không còn ai biết nữa hay sao?
Bạch Đại tiên sinh đáp:
- Trừ năm anh em lão hủ, ngoài ra quyết không còn ai biết nữa.
Vô Tâm thủng thỉnh nói:
- Năm xưa tiền bối du hiệp giang hồ thường để tâm ghi nhận những chỗ tinh vi tột bực trong các chiêu thức của các môn phái vũ lâm đương thời, sau khi quy ẩn mới đem những điều đã ghi nhận được hợp cả lại làm một, cái gì hay thì giữ lại cái gì dở thì bỏ đi, rồi nhân đó mà sáng chế ra môn chưởng pháp vừa rồi…
Chàng vừa nói tới đó, Triệu Liệt Bân đã trợn mắt kêu lên:
- Quái thật, những việc đó chính lão phu còn chưa biết rõ ràng, làm sao ngươi lại nói được rành mạch đến thế?
Nhâm Vô Tâm không trả lời, vẫn tiếp tục nói tiếp:
- Nhưng trong khi sáng chế môn chưởng pháp đó, ngẫu nhiên đôi khi gặp những chỗ khó khăn không giải quyết được, tất nhiên tiền bối cũng có thỉnh giáo một vị bằng hữu nào chớ chẳng không?
Bạch Đại tiên sinh chợt biến sắc mặt kinh ngạc nói:
- Quả có chuyện ấy thật, nhưng sao…
Vô Tâm cười nói:
- Tiền bối có thỉnh giáo ai thì người đó tất phải biết rõ môn chưởng pháp của tiền bối chứ!
Bạch Đại tiên sinh sắc mặt chợt đổi ra vẻ kính cẩn, nghiêm trang nói:
- Nhưng vị tiền bối mà lão hủ thỉnh giáo ấy, tuy học vấn uyên bác kinh nhân nhưng trong giang hồ tuyệt không một ai biết chỗ ở của Ngài, công tử dù có nói là đã từng được nghe Ngài nói về môn chưởng pháp đó, lão hủ cũng nhất định không tin!
Ngừng một lát, ông lại tiếp:
- Trừ phi công tử nói ra được tên tuổi vị lão nhân ấy, lão hủ mới hết nghi ngờ.
Vô Tâm mỉm cười, nói dằn từng tiếng:
- Tử Cốc nhị kỳ!
Cái Bang ngũ lão và Điền Tú Linh nghe xong đều giật mình kinh sợ, còn anh em Kim Thừa Tín thì chỉ ngơ ngác nhìn nhau, không biết Tử Cốc nhị kỳ là ai? Ai là Tử Cốc nhị kỳ?
Bạch Đại tiên sinh đôi mắt sáng hẳn lên, hấp tấp hỏi:
- À công tử có phải là…
Thốt nhiên ông lại lắc đầu quầy quậy:
- À mà không phải, không phải!
Vô Tâm cười hỏi:
- Cái gì không phải?
Bạch Đại tiên sinh nói:
- Lão hủ đã được nghe lão nhân gia nói về “hắn” nhưng ngài tả hình dạng “hắn” không giống công tử tí nào!
Vô Tâm mỉm cười nói:
- Tiên sinh lịch lãm giang hồ như vậy, há lại không nghe nói đến thuật dịch dung bao giờ sao?
Bạch Đại tiên sinh cả mừng, cười nói:
- Thế thì phải rồi, phải rồi! Nhưng sao vừa rồi công tử không nói rõ tên họ lai lịch ra lại cứ nhất định bắt lão phu phải bêu xấu!
Vô Tâm cười nói:
- Nếu vừa rồi tại hạ nói rõ tiện danh thì chưa chắc các hạ đã chịu tin.
Bạch Đại tiên sinh cười ha hả, khom mình vái một vái rồi nói:
- Lão hủ ở ngoài biên ải xa xôi ngàn dặm, không ngờ hôm nay may mắn lại được gặp công tử, chuyến đi này thật không đến nỗi uổng phí!
Mọi người đứng ngoài nghe hai người nói chuyện đều ngẩn ngơ chẳng hiểu nghĩa lý gì cả. Triệu Liệt Bân sốt ruột không sao nhịn nổi, buột miệng hỏi:
- Đại kha vừa nói vị tiền bối Tử cốc, nói “hắn” là ai thế?
Bạch Đại tiên sinh cười ha hả:
- “Hắn” là một vị kỳ đại cao nhân, và vị cao nhân ấy lúc này hiện đang đứng trước mặt chúng ta đây.
Triệu Liệt Bân đưa mắt nhìn Nhâm Vô Tâm lẳng lặng không nói gì, nhưng sắc mặt vẫn lộ vẻ nghi hoặc. Vô Tâm cũng chắp tay vái trả Bạch Đại tiên sinh, mỉm cười nói:
- Tiên sinh quá khen, tại hạ đâu dám nhận.
Kim Thừa Tín buột miệng kêu lên:
- Các vị nói chuyện từ nãy đến giờ, anh em tôi chẳng hiểu gì cả! Rút cuộc thì vị này là ai?
Bạch Đại nói:
- Hiền huynh đệ cũng là những bậc hiệp nghĩa quân tử, lão hủ nói rõ cũng không sao. Để lão hủ xin giới thiệu vị này là…
Nhâm Vô Tâm vội ngắt lời:
- Lão tiên sinh cứ để tại hạ tự giới thiệu lấy, tiện danh là Nhâm Vô Tâm.
Cái Bang tứ lão và Phá vân thất tiên đều đứng ngẩn người ra. Một lát sau chợt nghe Kim Thừa Tín cười ha hả nói:
- Nhâm Vô Tâm…Nhâm Vô Tâm…không ngờ hôm nay anh em tôi lại gặp Nhâm Vô Tâm!
Bạch Đại tiên sinh ngạc nhiên hỏi:
- Các vị cũng biết tiếng Nhâm công tử hay sao?
Nhâm Vô Tâm không chờ Kim Thừa Tín trả lời, vội nói:
- Tại ha vừa xuất đạo chưa được bao lâu đã có người biết tới tiện danh, thật là một điều vinh hạnh lớn lao cho tại hạ.
Kim Thừa Tín cười nói:
- Công tử xuất đạo tuy chưa lâu, nhưng lão ô bách tuế không bằng phượng hoàng sơ sinh, điều ấy cũng không lấy gì làm lạ.
Nhâm Vô Tâm lại chắp tay vái một vái rồi nói:
- Đa tạ các vị quá khen. bây giờ tại hạ chỉ xin thỉnh cầu các vị một điều, là việc đối phó với nhà Nam Cung thế gia xin các vị hãy cố gắng ẩn nhẫn ít lâu, đợi lúc nào thời cơ chín mùi, lúc ấy nghĩa kỳ của các vị chỉ đến đâu, gian đảng sẽ tan đến đấy, như vậy mới gọi là “Nhất cử thành công”.
Kim Thừa Tín nói:
- Công tử nói dẫu phải nhưng anh em chúng tôi đã cất công lặn lội tới đây, bây giờ lại bảo chờ lại, vậy thì trong thời gian đó chúng tôi biết làm cái gì? Và ở đâu?
Nhâm Vô Tâm lấy trong mình ra một thanh giản thiếp, đưa cho Kim Thừa Tín nói:
- Quí vị tìm người có tên trong đây đưa cho hắn thanh giản thiếp này, hắn sẽ thu xếp tất cả mọi việc cho quý vị.
Kim Thừa Tín đỡ lấy thanh giản thiếp, rồi nói:
- Còn công tử định đi đâu bây giờ?
Vô Tâm nói:
- Tại hạ phải lên Tử Cốc bái kiến Nhị Kỳ.
Vừa nói tới đấy chợt nghe xa xa có tiếng âm nhạc réo rắt. Mọi người đều lắng tai nghe. Tiếng nhạc thật là kỳ lạ, nghe không ra tiếng đàn, tiếng sáo mà cũng không ra tiếng trống, tiếng thanh la, trong những khúc điệu bi ai hùng tráng lại còn xen lẫn cái ý vị thần bí và trang nghiêm, khiến cho người nghe đều cảm thấy máu nóng sôi lên không sao nén lại được.
Bạch Đại tiên sinh cau mày nói:
- Tiếng âm nhạc cực kỳ quái gở, chúng ta hãy tạm tránh đi là hơn.
Triệu Liệt Bân kêu to:
- Đường đường nam tử, hách hách trượng phu, sợ gì ai mà phải tránh?
Bạch Đại tiên sinh sa sầm mặt nói:
- Ngũ đệ, lúc này không phải là lúc để cho ngươi sinh cường! Phải hỏi ý kiến Nhâm công tử xem đã.
Nhâm Vô Tâm tươi cười nói:
- Tại hạ cũng muốn xem cho biết cái tiếng âm nhạc kỳ quái ấy có ý nghĩa gì…
Chợt nghe Triệu Liệt Bân reo to:
- Đến rồi!
Mọi người ngẩng trông lên quả thấy từ phía xa xa, lẩn trong đám bụi mịt mù có nhiều bóng đỏ đang từ từ tiến lại. Bạch Đại tiên sinh nhìn kỹ một lúc rồi nói:
- Những người này có lẽ là khách ở Quan ngoại mới đến cả?
Vô Tâm nói:
- Hay là bọn Lạt ma cao tăng trong đảng Hồng y chăng?
Trong khi mọi người đang xôn xao bàn tán thì bọn người áo đỏ đã tiến đến gần. Bốn vị Hồng y lạt ma thân hình cao lớn lực lưỡng đi trước dẫn đường, bước nhanh như bay, mỗi người trên tay đều cầm một thứ nhạc khí hình thù cổ quái, cái tiếng nhạc kỳ dị vừa rồi là do nhạc khí ấy phát ra.
Sau lưng bốn người ấy lại còn sáu người nữa cũng mặc áo đỏ, tầm vóc còn cao hơn bốn người trước tới một cái đầu, mười hai cánh tay dài như tay vượn, khiêng hai cái đòn tre trên đòn buộc một chiếc ghế bọc lụa đỏ, một vị Hồng Y lạt ma thân thể mập ú như người phù thủng, ngồi xếp bằng tròn trên ghế, hai mắt nhắm nghiền như đang ngủ say.
Cái Bang ngũ lão và Phá vân thất tiên tuy đã từng gặp nhiều quái nhân, nhưng quả chưa hề thấy người nào kỳ cục đến thế. Triệu Liệt Bân cười thầm nói sẽ:
- Ông già béo kia nặng thịt quá đến nỗi không đi nỗi, phải nhờ người khiêng. Đã vậy sao không nằm ở miếu Lạt ma mà ngủ lỳ cho sướng đời, ai bắt đến đây mà chịu tội?
Ông ta đang cao hứng nói ba hoa chợt nghe Âu Dương Đình “suỵt” một tiếng liền im bặt, không dám nói nữa. Đoàn người áo đỏ khi tới cách bọn đông người chừng hơn một trượng đều dừng cả lại, bốn người đi đầu chia ra đứng thành hai hàng, sáu người đi sau cũng đặt chiếc cáng xuống đất.
Tiếng nhạc cũng vừa ngừng lại, ông già béo mắt vẫn nhắm nghiền, uể oải hỏi:
- Đến chưa?
Bốn người đứng phía trước khom lưng nói:
- Hồi bẩm sư phụ, đến rồi ạ!
Lúc này lão mới vươn vai, ngáp một cái thật dài rồi từ từ mở mắt ra. Da mặt ông ta hồng hào tươi tốt, lông mi thưa mà dài, đôi mắt tuy đã mở nhưng dưới hàng lông mi trông chỉ ti hí như một nét vạch. Ông ta nhìn ngang ngửa một lượt rồi mới thủng thỉnh hỏi:
- Ở đâu?
Một người chỉ vào Nhâm Vô Tâm kính cẩn thưa:
- Đằng kia ạ.
Thì ra bốn người áo đỏ dẫn lộ đó chính là bốn vị Hồng y lạt ma mà các vị độc giả đã thấy từ lúc quần hào mới khởi sự tranh chấp. Sau khi đã nghe rõ lai lịch của hai phe rồi, mới len lén bỏ đi đưa vị lão Lạt ma đến.
Nhâm Vô Tâm rất lấy làm ngạc nhiên, không hiểu mấy vị Lạt ma này tìm mình để làm gì. Chợt thấy đôi mắt ti hí của lão Lạt ma phóng ra một tia hào quang sáng chói nhưng chỉ thoáng cái lại tan biến, lão lắc đầu một cách uể oải nói:
- Kỳ quái, kỳ quái!
Triệu Liệt Bân bất giác ngứa miệng hỏi:
- Kỳ quái cái gì?
Lão Lạt ma nhếch môi cười:
- Trước khi tới đây, lão tăng đã nghe người ta nói có mấy tay cực kỳ lợi hại, nhưng cứ mắt lão tăng xem ra thì chẳng có gì là ghê gớm cả.
Giọng nói của ông ta tuy uể oải như không có hơi, nhưng ông ta nói tiếng Hán rất lưu loát. Triệu Liệt Bân tuổi tuy đã gần bảy chục nhưng tính tình vẫn không khác gì hồi niên thiếu, đã nóng nảy lại hay có tính hiếu kỳ, nghe lão Lạt ma nói không sao nhịn nổi lại hỏi:
- Mấy nhân vật mà ngươi nói đó là những ai, thử nói cho ta nghe xem có phải người ta đánh lừa ngươi không?
Lão Lạt ma cười nói:
- Lão tăng không quen biết ngươi tại sao lại phải mất thì giờ nói cho ngươi nghe? Và chuyện này ngươi nghe chẳng những không được lợi gì mà lại còn khổ vì tức nữa.
Triệu Liệt Bân kinh ngạc nói:
- Việc gì mà tức?
Lão Lạt ma cười ha hả:
- Ngươi thật muốn ta nói cho nghe ư?
Triệu Liệt Bân sợ đại kha ngăn trở, vội bước tới đứng bên Phá vân thất tiên nói to:
- Cố nhiên, ngươi cứ nói đi!
Lão Lạt ma cười sằng sặc nói:
- Ta nghe người ta đồn “Cái Bang ngũ lão” ở Trung Nguyên vũ công tuyệt giỏi, hay đâu chỉ toàn là đồ giá áo túi cơm đánh một thằng bé con cũng không nổi! Lão tăng lại vừa nghe bọn đồ đệ nói ở đây có mấy cao thủ rất cừ, lão tăng mới không từ lao khổ chạy vội tới đây, nếu biết thế này thì thà nằm khoèo ở nhà ngủ còn sướng hơn.
Triệu Liệt Bân giận quá râu tóc dựng ngược, mắt trợn tròn xoe nhưng không biết nói thế nào để đối lại. Lão nghĩ một lát thốt nhiên vùng cười ha hả nói:
- Trông ngươi giống như sắp bị đem đi cúng thần, đã phải nằm trên cáng cho người ta khiêng mà vẫn còn kêu là lao khổ, nghĩ thật tức cười! Ha ha..
Lão Lạt ma nói:
- Có phải nhà ngươi chửi lão tăng giống như con lợn bị người ta khiêng đi cúng thần phải không?
Triệu Liệt Bân cười chán lại ngửa mặt lên trời “phì” một tiếng không thèm trả lời. Lão Lạt ma chẳng những không giận lại cười sằng sặc nói:
- Nếu bụng dạ lão tăng không rộng rãi thì làm sao lại được phát phúc thế này? Ngươi ăn nói tuy hỗn hào, nhưng lão tăng cũng không thèm chấp. Các con, ta đi thôi!
Triệu Liệt Bân quát to:
- Hãy thong thả!
Lão Lạt ma cười nói:
- Ngươi còn muốn gì nữa, cứ nói đi!
Triệu Liệt Bân ngẩn người không biết nói sao. Lão Lạt ma lại cười nói:
- Ngươi tức làm gì cho tổn thọ? Lão tăng chỉ định đến đây tìm một người không thấy thì đi, chớ còn ở đây làm gì?
Vừa nói dứt lời sáu gã đại hán đã đặt đòn cáng lên tay quay lưng đi luôn. Nhâm Vô Tâm chợt nghĩ ra một việc, vội nói to:
- Đại sư định tìm ai xin cứ cho biết, may ra tại hạ có thể mách giúp được!
Lão Lạt ma lắc đầu nói:
- Ngươi không thể biết được đâu…
Nói chưa dứt lời chợt thấy đàn ngựa hý rầm lên, rồi chạy ra bốn phía. Đoàn ngựa này toàn là giống lương câu ở Quan ngoại, đã được anh em Phá vân thất tiên huấn luyện từ lâu, ngày thường không bao giờ phải buộc dây cương;còn những lừa ngựa của Cái Bang ngũ lão bề ngoài trông tuy xấu xí nhưng kì thực đều là loại dị thú, hàng vạn con mới lựa được một. Vì thế nên vừa rồi trong lúc hai bên đấu nhau, quyền phong chưởng ảnh như gió thét mưa gào mà chúng vẫn nghiễm nhiên không sợ. Lúc này thốt nhiên con nào con nấy đều bỏ hàng ngũ chạy loạn xạ, làm cho Cái Bang ngũ lão và Phá vân thất tiên sợ tái mặt.
Không ngờ đàn lừa ngựa vừa chạy đi một quãng bỗng lại kêu lên một tiếng thê thảm, rồi từ từ ngã lăn xuống đất. Mọi người đều kinh sợ, đổ xô lên xem. Chợt nghe lão Lạt ma quát to:
- Không được chạm vào!
Vừa rồi lão nói không ra hơi, vậy mà lúc này tiếng quát của lão vang dội như một tiếng sét nổ lưng trời. Mọi người còn đang ngơ ngác, đã thấy lão Lạt ma vò đầu cười gượng:
- Lão tăng đã lười không muốn sinh sự, không ngờ vẫn không tránh khỏi lôi thôi, muốn thoát thân cũng không được nữa!
Rồi trỏ đàn ngựa nằm dưới đất nói:
- Các ngươi thử xem kia là cái gì?
Mọi người đều chú ý nhìn, chỉ thấy trong chỗ tuyết tạo thành nước hiện ra vô số những rắn nhỏ màu xanh xám, dài không đầy một thước, đầu giống như lưỡi thuổng trông rõ là một loại rắn độc kinh khủng.
Lúc này đàn rắn độc đều lần lượt bò lên bụng những con lừa ngựa, chui từ bên này qua bên kia nhanh như gió, chỉ trong khoảnh khắc mười một con vừa lừa vừa ngựa đã bị chúng hút hết máu thịt, chỉ còn trơ lại một ít xương và da.
Mọi người trông thấy đều rụng rời hết vía, sắc mặt tái mét. Cái Bang ngũ lão và Phá vân thất tiên lại càng đau ruột, Triệu Liệt Bân và Kim Thừa Tín đồng thời cùng thét lên một tiếng song song nhảy lên, nhưng đều bị người bên cạnh giữ lại. Lão Lạt ma cũng lắc đầu lắc cổ than thở:
- Không ngờ Trung thổ cũng có nhân vật khua rắn ăn thịt thú…
Lão đưa mắt nhìn quanh một lượt nói tiếp:
- Các vị có biết người ấy là ai không?
Vô Tâm đưa mắt nhìn Bạch Đại tiên sinh, lẳng lặng không nói gì cả. Bạch Đại tiên sinh sắc mặt đầy vẻ đau khổ tức giận, giậm chân nói:
- Nghiệp chướng, nghiệp chướng! Không lẽ lại là hắn?
Vô Tâm cũng nói:
- Nhất định là hắn!
Lão Lạt ma và Phá vân thất tiên đồng thời buột miệng hỏi:
- “Hắn” là ai vậy?
Vô Tâm thở dài nói:
- Trên đời này hiện thời trừ “Xà Thần” Khang Tổ ra thì còn ai vào đấy?
Chàng đưa mắt nhìn Cái Bang ngũ lão nói nhỏ:
- Lúc này các vị lại càng không nên ra mặt.
Bạch Đại tiên sinh cau mày nghĩ ngợi một lúc rồi thở dài:
- Nếu không ra mặt thì làm thế nào?
Vô Tâm quả quyết:
- Chạy!
Lão Lạt ma xua lấy tay vò đầu mỉm cười nói:
- Nhìn ra xung quanh mà xem, chỉ sợ khó lòng đi thoát.
Bốn mặt lúc này quả nhiên đã bị rắn vây kín, hơi tanh nồng nặc làm cho người ta ngửi thấy phải buồn nôn. Trận rắn tầng tầng lớp lớp vây thành một vòng tròn, không biết bao nhiêu con rắn nằm la liệt khắp mặt đất rộng tới khoảng hai ba trượng, trừ người khinh công tuyệt giỏi còn thì không ai có thể vượt qua được.
Vô Tâm nhìn khắp trận rắn một lượt, rồi lẩm bẩm nói một mình:
- Khang Tổ thủ đoạn độc thật! Làm sao mà cả ngần này người cùng vượt qua được bây giờ?
Chợt nghe Triệu Liệt Bân nói:
- Những con rắn này hình như chết cả rồi hay sao mà cứ nằm lỳ một chỗ, không cựa quậy lên xuống gì thế kia?
Âu Dương Đình lắc đầu nói:
- Đàn rắn lúc này tuy nằm im nhưng nếu ta chạm vào chúng, chúng sẽ lập tức nhảy lên nha nhao như một đám loạn tiễn, mình khó lòng khỏi bị trúng độc.
Kim Thừa Tín trợn mắt hỏi:
- Thế kia à?
Âu Dương Đình thở dài nói:
- Cứ xem vừa rồi lúc những con lừa ngựa bị rắn cắn, chạy đi chưa đầy bảy bước đã lăn ra chết cả, giả sử mình có vận nội lực kháng cự lại cũng khó lòng tránh khỏi.
Triệu Liệt Bân tức quá chửi rầm lên:
- Không ngờ bản lãnh dạy rắn của thằng cha Khang Tổ càng ngày lại càng lợi hại đến thế. Chỉ giận vì anh em mình xưa nay không thèm học cái công phu bẩn thỉu đó, nên bây giờ mới không biết phá cách nào.
Kim Thừa Tín đứng ngẩn ra một lát, rồi chép miệng nói:
- Bây giờ phải tìm cách gì nhảy ra khỏi đây mà không chạm đến đàn rắn?
Vô Tâm quay lại nhìn lão Lạt ma thấy lão vẫn tủm tỉm cười, hình như trong bụng đã yên trí lắm bèn vòng tay cười nói:
- Đại sư có cao kiến gì không?
Lão Lạt ma cười đáp:
- Có thì vẫn có!
Vô Tâm nói:
- Vậy xin đại sư dạy cho.
Lão Lạt ma nói:
- Xem chừng vũ công của ngươi cũng vào bậc khá, vậy hãy ở lại để cùng lão tăng đoạn hậu.
Vô Tâm gật đầu nói:
- Còn những người khác thì sao?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-9-2015 21:48:39 | Xem tất
HỒI 34 - ĐÀN RẮN CÙNG BAY
Lão Lạt ma vỗ hai tay vào nhau nói mấy câu tiếng Phạn, sáu vị Lạt ma cao lớn lập tức buông đòn trúc xuống rồi tháo chiếc ghế ra. Ba người đứng phía trái quỳ hai chân xuống, hai người khác rảo bước chạy tới, hai tay chống vào vai ba người rồi nhảy phắt lên, người đứng bên trái chân phải dẫm lên vai bên trái người quỳ giữa, chân trái thì dẫm lên vai phải một người khác. Người đứng bên phải cũng làm thế.
Còn người đứng sau cùng, tay cầm cây gậy trúc dài hai thước rưỡi, một đầu chấm xuống đất, cả thân hình cao lớn lú tới lưng chừng cây, hai chân đặt vào vai hai người trên rồi đứng thẳng lên.
Ba người quỳ dưới đất giang thẳng hai cánh tay nắm lấy nhau, rồi ráng hết sức bình sinh từ từ đứng dậy. Sáu người hình như đã được huấn luyện về môn này từ lâu, nên trông họ đứng rất vững vàng sừng sững như một tòa núi. Mỗi người thân hình đều cao tới hơn chín thước, nên khi họ xếp thành tòa tháp, thì từ vai người đứng trên cùng tối thiểu cũng cách mặt đất tới hơn một trượng rưỡi.
Vô Tâm ngẩng đầu trông lên chỉ thấy người ấy đặt ngang cây trúc lên vai, đầu trước ngọn trúc đã vào đúng giữa trận rắn, chỉ vì cách mặt đất xa quá nên đàn rắn vẫn không bị đánh động.
Lão Lạt ma cười nói:
- Lão tăng đã vì các vị xây thành một tòa thiết tháp, các vị chỉ việc leo lên cây trúc kia nhảy ra ngoài, dù đàn rắn có đông hơn nữa cũng không sợ.
Phá vân thất tiên há mồm trợn mắt, vừa sợ vừa mừng. Vô Tâm vỗ tay khen:
- Diệu kế của đại sư ít ai sánh kịp, tại hạ xin đa tạ trước.
Lão Lạt ma cười nói:
- Diệu kế thì quả là diệu kế, nhưng lão tăng không có kiệu ngồi nữa.
Vô Tâm hỏi:
- Tại hạ và đại sư đoạn hậu đã đành, nhưng sau khi mọi người đi rồi, mấy vị cao túc của đại sư làm sao chạy được?
Lão Lạt ma cười nói:
- Lão tăng đã có cách, các hạ không cần phải lo.
Vô Tâm quay lại nói với bọn “Phá vân thất tiên”:
- Xin mời các vị đi trước, ta phải mau lên kẻo Khang Tổ kéo người tới thì không kịp chạy nữa!
“Phá vân thất tiên” biết là tình hình khẩn cấp nên cũng không khiêm nhượng. Kim Thừa Tín chỉ dặn anh em;
- Để ngu huynh đi trước dẫn đường cho các vị hiền đệ.
Nói xong lập tức nhảy lên vai một người đứng dưới cùng, quả nhiên thấy vững như đứng dưới đất bèn không nghi ngờ gì nữa, thoăn thoắt nhảy lên hết tầng thứ hai rồi đến tầng trên cùng. Lấy bàn chân nhún nhún cây trúc thử xem có chắc không rồi mới dám bước lên.
Chỉ thấy cây trúc hơi rung rung, thân hình Kim Thừa Tín đã leo tới ngọn cây trúc, ngọn trúc sẽ bật lên, hắn theo đà lăng không nhảy vọt ra phía ngoài tới hơn bốn trượng, quả nhiên đã ra khỏi đàn rắn. Sáu người còn lại thấy huynh trưởng đã thoát hiểm bèn khom mình vái lão Lạt ma nói:
- Đa tạ đại sư!
Sáu người này sắc mặt đều cương quyết, thái độ điềm đạm ít cười ít nói, lúc này dẫu phải mở mồm cảm ơn nhưng cũng chỉ nói vừa đủ, không thừa ra một chữ. Lão Lạt ma hình như cũng ngại nói, chỉ uể oải mỉm cười phẩy tay mấy cái. Vô Tâm ngẫm nghĩ cười thầm: “Mấy người này sao mà giống tính nhau thế? Giá họ ở chung một nhà, chắc suốt ngày không ai nghe thấy tiếng cười nói. Nhưng nếu có thêm Triệu ngũ hiệp vào, thì tình cảnh thật thảm quá! ”
Trong lúc ấy sáu người đã lần lượt trèo lên vai sáu vị Lạt ma rồi leo lên cây trúc nhảy ra khỏi trận rắn một cách cực kỳ lanh lẹ nhẹ nhàng. Anh em Phá vân thất tiên đã hoàn toàn thoát ly khỏi trận rắn, lão Lạt ma mới cười hì hì nhìn Cái Bang ngũ lão. Triệu Liệt Bân trừng mắt quát to:
- Ngươi nhìn cái gì? Anh em ta không cần phải nhờ tới cái trò xiếc ấy mà vẫn có thể sống được, không tin ngươi thử chờ xem.
Lão Lạt ma vẫn cười hì hì, không nói gì cả. Bạch Đại tiên sinh mỉm cười nói:
- Lão phu thử đi trước xem sao!
Nói xong hướng về sáu vị Lạt ma đứng làm tháp, chấp tay nói:
- Xin phiền các vị.
Đoạn nhẹ nhàng tung mình nhảy lên rồi cũng theo lối Phá vân thất tiên, thoát ra ngoài trận rắn. Triệu Liệt Bân cứ đứng ngây người ra. Bùi Tam tiên sinh cười nói:
- Đại kha đã đi bằng lối đó, lão Ngũ định thế nào?
Triệu Liệt Bân lúng túng:
- Cái ấy…cái ấy…
Vừa nói vừa ngước mắt nhìn lên, đã thấy Âu Dương Đình nhảy lên cành trúc. Bùi Tam nói:
- Người ta có bụng tốt, lão Ngũ nếu không bái lĩnh chẳng hóa phụ lòng người ta hay sao?
Triệu Liệt Bân thốt nhiên cười ha hả:
- Đại kha, nhị kha đã làm như vậy, tiểu đệ còn biết làm sao?
Vô Tâm trong bụng cũng phải phục thầm, nghĩ bụng: “Bạch Đại tiên sinh thật là người khiêm cung quân tử, nếu trong vũ lâm có nhiều người như vậy, còn ai dám khinh thường?”
Còn đang nghĩ ngợi, chợt nghe Tú Linh se sẽ gọi:
- Công tử!
Vô Tâm ngẩng đầu trông lên đã thấy bọn Cái Bang ngũ lão đi hết rồi, bèn nói nhỏ:
- Tôi còn phải ở lại đoạn hậu, cô nương cứ đi trước đi.
Tú Linh chớp mau đôi mắt, hết nhìn sáu vị Lạt ma lại nhìn đôi chân bé nhỏ, không biết nghĩ làm sao!
Vô Tâm chợt nghĩ ra, bất giác cũng ngần ngừ không biết quyết định thế nào. lão Lạt ma nhìn hai người một lúc, rồi mỉm cười hỏi:
- Chú tiểu đồng kia sao không đi đi còn đợi gì nữa?
Vô Tâm chấp tay cười nói:
- Hắn thân phận hèn mọn, đâu dám hỗn thế?
Lão Lạt ma cười hềnh hệch, đôi mắt lim dim nói:
- Nếu vậy thì làm thế nào? Chẳng lẽ lại bỏ hắn lại đây cho rắn ăn hay sao?
Vô Tâm lấy xoa má rồi lại nhìn Tú Linh, vừa hay cũng bắt gặp cặp mắt Tú Linh đưa lên nhìn mình, chàng chợt nghĩ: “Tú Linh khinh công rất giỏi, có lẽ nàng có thể tự nhảy qua được, vì nàng không muốn biểu lộ thân phận nên mới phải hỏi ý mình đây.” Nghĩ vậy chàng liền mỉm cười nói với lão Lạt ma:
- Tên thư đồng của tại hạ từ nhỏ luyện võ công, võ công tuy không cao nhưng môn khinh công cũng có vài phần hỏa hầu, chi bằng để hắn tự nhảy ra, đỡ phải mạo phạm tới các vị cao túc của đại sư.
Lão Lạt ma gật đầu cười nói:
- Thế thì tốt lắm. Hắn thân phận thấp hèn, chỉ có cách ấy là hay hơn cả.
Tú Linh giận lắm, nghĩ thầm: “Nhâm tướng công nói là thân phận hèn mọn là lời nói khách sáo, không ngờ hắn là một kẻ xuất gia mà cũng làm phách như vậy. Lý ra những kẻ tu hành phải coi chúng sinh bình đẳng mới phải, cớ sao lại còn phân biệt kẻ hơn người kém? ”
Nàng trừng mắt giận dữ nhìn lão Lạt ma, nhưng cặp mắt lão vẫn lim dim nửa nhắm nửa mở, tuy rằng lão đứng đấy mà trông chẳng khác gì người đang buồn ngủ, ai muốn ngắm nghía thế nào lão cũng hình như không trông thấy.
Tú Linh trong bụng tuy uất hận nhưng cũng không biết làm gì hơn được. Nàng đành quay đi dẫm mạnh chân xuống đất, thân hình lập tức tà tà bay lên trông như một mũi hỏa tiễn, lao thẳng ra ngoài. Bao nhiêu tức giận nàng trút cả vào cái thế đó, thân pháp nhanh như luồng chớp nhưng vừa bay ra tới ngoài hai trượng, thân hình tự nhiên cứ chìm dần xuống, có vẻ như sắp rơi vào đàn rắn, làm cho mấy vị Lạt ma đều hồi hộp lo thay cho nàng.
Không ngờ chỉ trong nháy mắt hai tay nàng chợt dang ra hai bên, giữa lúc thân thể sắp sửa rơi xuống thốt nhiên lại nghiêng người lượn đi một vòng, rồi rơi ra ngoài trận rắn. Bọn Hồng y Lạt ma đều thở ra một hơi dài, như người vừa trút được gánh nặng. Lão Lạt ma chỉ mỉm cười nói:
- Thân pháp đẹp lắm!
Vô Tâm cố ý khiêm tốn, mỉm cười nói:
- Đại sư quá khen!
Lúc này bốn vị Lạt ma tay cầm nhạc khí đã nhảy ra khỏi trận rắn, cả sáu vị đứng làm tháp vừa rồi cũng đã lần lượt nhảy xuống đất. Người thứ nhất tay cầm gậy trúc chạy nhanh lên hai bước, chống đầu gậy xuống đất, thuận đà hai chân lăng không nhảy vọt ra ngoài, cây gậy lại ngã về phía sau. Kế đó năm người kia cũng lần lượt nhảy ra theo lối ấy.
Vô Tâm bất giác tắc lưỡi khen:
- Công phu khá thật!
Lão Lạt ma đắc ý cười nói:
- Sáu tên đồ đệ của lão hoà thượng ngoài mặt trông tuy ngu xuẩn, kỳ thực đều hữu dụng cả. Lão hoà thượng nếu cho chúng ra hành đạo giang hồ, chắc chắn không đầy nửa năm chúng cũng chiếm được chút ít danh vọng.
Câu nói của lão tuy đầy vẻ kiêu ngạo ngông cuồng nhưng Nhâm Vô Tâm cũng không lấy thế làm để bụng, vì chàng cũng nhận thấy lão có đủ điều kiện và lý do để mà kiêu ngạo.
Lão Lạt ma lại nheo cặp mắt ti hí, cười nói:
- Các hạ có biết tại sao lão tăng lại giữ các hạ cùng ở lại đoạn hậu không?
Rồi không đợi Vô Tâm trả lời, lão lại tiếp:
- Vì lão trông những con rắn độc này thật đáng ghét, nên mới tìm cách trừ tuyệt chúng đi, mới định nhờ các hạ giúp vào một tay.
Vô Tâm đôi mắt sáng ngời cười nói:
- Chính tại hạ cũng có ý ấy. Không biết đại sư định hạ thủ cách nào?
Lão Lạt ma cười đáp:
- Lúc này mọi người đã đi khỏi, không sợ chúng cắn ai nữa. Vậy ta hãy khua cho chúng xông cả vào đây, xem chúng có cắn chết được lão hòa thượng hay chính lão hòa thượng tiễn chúng quy Tây?
Vô Tâm cười ha hả:
- Hay, hay, kế hay lắm! Chẳng mấy khi tại hạ được xem người đấu với rắn, thật là một kỳ quan không tiền khoáng hậu!
Hàng ngàn con rắn độc xông vào tấn công thật là một sự tối ư nguy hiểm, vậy mà hai người đối đáp với nhau y như sắp được xem một trò chơi kỳ lạ thích thú. Lão hòa thượng nhìn chàng gật đầu cười mỉm:
- Lão hòa thượng vừa tới Trung Nguyên đã gặp ngay một thiếu niên như ngươi, chắc là lão hòa thượng đã đến hồi may mắn.
Vô Tâm hỏi dò:
- Không biết đại sư vào quan chuyến này là vì việc gì?
Lão Lạt ma nói;
- Lão tới đây là vì có hẹn.
Lão ngừng một lát rồi lại mỉm cười nói tiếp:
- Mong rằng người hẹn với lão cũng có một vài phần giống ngươi, nếu không thì lão không khỏi thất vọng.
Vô Tâm vừa toan hỏi nữa đã thấy lão Lạt ma ngồi xếp bằng tròn dưới đất, miệng thì nói:
- Hai người chúng ta vũ công không giống nhau thì cách đối phó với đàn rắn độc, tất mỗi người cũng có thủ đoạn riêng vì thế ta cứ tự ý, ai muốn làm cách nào đối phó với đàn rắn thì làm.
Lão ngẩng lên nhìn Vô Tâm rồi lại nói:
- Nhưng nếu ngươi không mười phần tự tin thì tốt hơn hết là cứ đứng yên còn hơn.
Vô Tâm mỉm cười:
- Đại sư cứ yên tâm, tại hạ không đến nỗi bị rắn cắn đâu.
Lão Lạt ma ngồi xếp bằng tròn, lòng bàn chân đặt ngửa, hai đầu gối để hờ trên mặt đất. Cái lối ngồi như thế Trung Nguyên quả chưa ai luyện bao giờ. Lão cởi chiếc áo cà sa đỏ ra, từ vai trở xuống nung núc những thịt, da dẻ nhẵn bóng, trông giống như một pho tượng Phật, chỉ khác vì hai con mắt nhắm nghiền, sắc mặt trầm trọng, những nét tươi cười đã biến đâu mất.
Vô Tâm còn đang lấy làm kỳ quái, không hiểu lão dụ rắn bằng cách nào chợt thấy lão vung tay một cái, cỗ tràng hạt đeo trên cổ tay lão đứt tung ra, bắn tung đi tứ phía mỗi nơi một hạt.
Tức thì có đến mấy chục con rắn độc bị hột tràng hạt ném phải nằm chết quay lơ, còn những con rắn sống đều ngóc đầu dậy nhao nhao nhảy lên, trông như đàn châu chấu bay rào rào về phía hai người. Lão Lạt ma vẫn ngồi yên hai mắt nhắm nghiền, hình như không phòng bị gì cả.
Vô Tâm sợ hãi vừa toan nhảy ra tiếp cứu bất đồ đã có mấy chục con lao thẳng về phía chàng, lưỡi đỏ thè lè, hơi tanh nồng nặc. Vô Tâm không còn thì giờ ngó đến lão hòa thượng nữa, đành phải giơ hai tay phóng ra một luồng chưởng phong cực kỳ mãnh liệt. Nội lực của chàng rất thâm hậu, nên đã biến luồng chưởng phong vô hình thành ra vật hữu hình.
Chỉ thấy luồng chưởng phong đi đến đâu, đàn rắn đang bay ào ào như thác cuốn chợt như bị một bức tường sắt ngăn lại, hất ngược trở về. Mười mấy con đi trước đều bị nát ra như tương, mùi máu rắn tanh nồng xông lên ngạt mũi.
Những con rắn độc này không biết có phải đều bị thuốc mê làm cho lú lấp, hay là vì giống vật vô tri nên không hề biết sợ chết là gì, cứ lớp nọ chết đi thì lớp kia lại ào tới chẳng khác gì dòng nước thủy triều, xô vào bờ hết đợt này tới đợt khác, tưởng như không bao giờ hết.
Lúc này ta mới thấy rõ chưởng lực của Nhâm Vô Tâm hỏa hầu quả thật kinh hồn, ít ai ngờ tới. Chỉ trong nháy mắt quanh mình chàng đã chất đầy xác và máu rắn, nhưng nếu chưởng phong của chàng chỉ hơi chậm một chút mà bị một hai con rắn lọt vào, thì vũ công của chàng dù cao đến đâu cũng không thể thoát chết được.
Sau khi đã phóng luôn năm chưởng, chàng mới có thì giờ liếc mắt nhìn lão Lạt ma thấy lão vẫn ngồi yên như cũ, hai tay bưng lấy mặt nhưng cả cái thân hình trần trùng trục của lão đã bị rắn độc bâu kín, những con rắn tới sau vẫn cứ xông lại, con nọ nối đuôi con kia há mồm ngoạm vào lớp da trắng hồng của lão. Thân hình của lão tuy to lớn nhưng không có một chỗ nào không bị miệng rắn cắn vào.
Nhâm Vô Tâm hoảng hốt nghĩ thầm: “Một vị thế ngoại cao nhân như vậy sao bỗng dưng lại cam tâm liều chết với đàn rắn thế kia?”
Ý chàng cho rằng vị Lạt ma này tất bôi thuốc độc vào mình để cho đàn rắn cắn, ông ta tuy chết đàn rắn quyết cũng không sống. Nhưng nếu đem tính mạng một vị cao nhân như ông ta đổi lấy mạng đàn rắn thì thật cũng đáng tiếc.
Lúc này Nhâm Vô Tâm đã không còn thì giờ đau xót nữa, vì những con rắn khác đã nhao nhao xông lại phía chàng. Vô Tâm quát to một tiếng, tay đã rút trong mình ra một ống địch bằng ngọc.
Chàng xoay mình một vòng cầm ống địch quét ngang một lượt, ánh ngọc lấp lánh lập tức trùm kín thân thể, những con rắn độc chạm vào ánh sáng đó không khác gì bị một lưỡi dao sắc chém đứt làm ba bốn đoạn, máu bắn vọt lên hơi tanh lộn mửa. Chàng đã định chạy đến bên vị Lạt ma, nếu ông ta quả chết hẳn rồi chàng sẽ mai táng tử tế, khỏi bị đàn rắn hút hết máu thịt.
Trong khi nghĩ ngợi, thân hình chàng đã di chuyển tới bên cạnh lão Lạt ma. Nhưng khi chàng ngẩng trông lên, chợt lại giật mình đứng sững lại. Số là vị Lạt ma vẫn không chết, ông ta chỉ rung hai cánh tay một cái, đàn rắn đang ở trên mình ông không những đều lả tả rơi xuống đất, không động cựa được nữa mà da thịt ông ta vẫn nhẵn bóng như gương, suốt mình không hề có một vết răn cắn.
Lão Lạt ma mở mắt nhìn Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói:
- Lão hòa thượng đã giết chết không biết bao nhiêu rắn nhưng đã hết đâu!
Nói xong hai mắt khép lại, hai tay lại ôm lấy mặt, những con rắn còn sống sót vẫn tới tấp nhảy vào bâu lấy ông ta. Nhâm Vô Tâm vừa sợ vừa lạ, chàng tuy là người biết nhiều hiểu rộng nhưng chưa từng thấy loại vũ công nào kỳ dị như thế bao giờ, và cũng chưa hề nghĩ tới là trên đời lại có phương pháp giết rắn quái gở như vậy.
Thấy đàn rắn cũng còn nhiều, chàng sốt ruột vung chiếc địch lên, thi triển nguồn nội lực vô biên ra sức giết rắn. Bên kia lão Lạt ma cứ chốc chốc lại rũ ra một loạt rắn chết. Ông ta thấy chưởng phong nội lực của Vô Tâm hùng mạnh như vậy, trong bụng cũng lấy làm kỳ.
Thốt nhiên ở bên kia đàn rắn, có tiếng gọi thất thanh:
- Công tử, Nhâm công tử…
Tiếng gọi trong trẻo rõ là tiếng Điền Tú Linh. Nàng tuy đã cố gắng đổi giọng nhưng lúc này có lẽ vì quá lo lắng sợ hãi, nên tiếng kêu vẫn không giấu được giọng con gái. Vô Tâm biết những người đã thoát đứng bên kia, thấy lâu quá mình không ra nên sốt ruột. Tuy nhiên đàn rắn lúc này hãy còn nhiều, dẫu có muốn bỏ đi cũng không sao được.
Giũa lúc ấy, chợt lại nghe lão Lạt ma cười hà hà, đứng phắt dậy nói:
- Chúng ta nên đi thôi, đừng để người khác chờ lâu sốt ruột. Và đàn rắn không còn bao nhiêu nữa!
Nói xong ông ta tung mình nhảy vọt lên không, trên mình ông hãy còn mười mấy con rắn lúc này mới lả tả rơi xuống đất. Nhâm Vô Tâm cũng ráng sức phóng thêm một chưởng cuối cùng nữa, rồi mới nhảy lên theo. Hai người vừa nhảy lên đã thấy đoàn người bên kia chạy lại tìm.
Người bồn chồn lo lắng nhất là Tú Linh, nhưng khi nàng trông thấy Vô Tâm bình yên trở về, sắc mặt nàng lại trở nên lãnh đạm. Vô Tâm thấy thế kinh sợ, nghĩ thầm: “Mình phải cẩn thận mới được, kẻo lại vì vô tâm mà vướng vào tình nghiệt thì nguy lắm.”
Chàng làm như không để ý tới nàng, chỉ nói chung với tất cả mọi người:
- Ta không nên nấn ná ở đây, chạy mau!
Mọi người đối với chàng lúc này đã tin phục mười phần, nên khi nghe chàng dục đều lập tức chạy theo. Đàn rắn cũng nhao nhao quay lại đuổi nhưng mọi người đã chạy xa rồi.
Chạy chừng nguội chén trà nóng, xem chừng đã cách trận rắn một khoảng khá xa, Nhâm Vô Tâm mới đi thong thả lại, mọi người cũng chậm bước theo. Chàng nói:
- Xin các vị cứ chiếu theo lời dặn trong thanh giản mà hành sự, tại hạ lúc này xin cùng các vị chia tay.
Bạch Đại tiên sinh hỏi:
- Bao giờ ta lại gặp nhau?
Vô Tâm nói:
- Ngày gặp nhau tức là ngày cử sự.
Bạch Đại tiên sinh tinh thần phấn chấn nói:
- Được…
Nói xong rảo bước đi lên trước. Nhâm Vô Tâm đứng lại cáo từ và dặn dò khắp mọi người một lượt, rồi mới thấy lão Lạt ma lạch bạch đi tới, vừa đi vừa lẩm bẩm:
- Lão hòa thượng rất sợ đi bộ, bây giờ lại phải tìm cách gì kiếm mấy cây tre và cái ghế êm mới được.
Điền Tú Linh vẫn còn oán giận vì mấy câu khinh miệt của ông ta vừa rồi, bèn lạnh lùng hỏi:
- Nếu đi không nổi thì đi ngay đi cho sớm, còn nấn ná ở đây làm gì nữa?
Rồi nàng quay lại bảo Vô Tâm:
- Công tử, chúng ta cũng nên đi đi thôi!
Lão Lạt ma làm như không nghe thấy câu châm chọc của Tú Linh, chỉ đứng lại nói:
- Hãy khoan, lão hoà thượng còn muốn hỏi các hạ một câu.
Vô Tâm cười nói:
- Tại hạ cũng đang muốn thỉnh giáo đại sư, không hiểu vừa rồi đại sư thi triển môn thần bí gì mà…
Lão Lạt ma xua tay ngắt lời chàng nói:
- Nếu lão hòa thượng muốn hỏi vũ công lai lịch của các hạ, các hạ có nói không?
Nhâm Vô Tâm trầm ngâm một lát rồi vò đầu bứt tai nói:
- Chỉ sợ tại hạ khó nói lắm.
Lão Lạt ma cười ha hả:
- Nếu vậy thì lão hòa thượng khi nào lại muốn khai lai lịch của mình ra?
Vô Tâm thở dài chấp tay nói:
- Có phải thế, tại hạ đành xin cáo từ vậy.
Tú Linh cũng phụ họa:
- Phải đấy, ta đi thôi!
Dứt lời nàng xăm xăm tiến lên trước, không ngờ lão Lạt ma đã bước lên đứng chắn ngang trước mặt không cho nàng đi. Tú Linh giật mình kinh sợ nói:
- Ngươi định làm trò gì thế này?
Lão Lạt ma cười hì hì đáp:
- Lão hòa thượng chỉ muốn hỏi thăm hai vị một người, hai vị dừng lại một chút không được sao?
Vô Tâm vội nói:
- Xin đại sư cứ hỏi, nếu tại hạ biết quyết không dám giấu.
Lão Lạt ma nghiêm trang nói:
- Người ấy xuất hiện giang hồ chưa được bao lâu, nhưng không khác gì một ngôi tuệ tinh sáng chói giữa trời đêm. Lão hòa thượng xa xôi vạn dặm cũng được nghe danh, các vị thường đi lại Trung Nguyên chắc là phải biết.
Tú Linh đưa mắt nhìn Vô Tâm rồi buột miệng hỏi:
- Người ấy tên gì?
Lão Lạt ma đằng hắng một tiếng rồi nói:
- Tên hắn là Nhâm Vô Tâm.
Tú Linh đôi mắt long lanh vội hỏi:
- Nhưng đại sư tìm người ấy làm gì?
Lão Lạt ma nói:
- Lão hòa thượng không ngại xa xôi tới đây tìm hắn, là vì có chút việc cần. Nếu hai vị biết hắn ở đâu, xin làm ơn chỉ giùm.
Nhâm Vô Tâm nói:
- Đại sư có thể cho tại hạ biết việc cần ấy là việc gì được không?
Lão Lạt ma cười nói:
- Hắn hẹn lão tăng tới đây, lúc này chắc hắn cũng nóng lòng sốt ruột đợi lão. Hai vị nếu biết hắn ở đâu thì mau báo cho lão biết.
Vô Tâm ngẩn người một lát rồi nói:
- Nếu hắn hẹn đại sư thì sao không hẹn rõ nơi nào để hai bên gặp mặt?
Lão Lạt ma thở dài nói:
- Thế sự biến thiên, nào ai học đến chữ ngờ…
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-9-2015 21:49:44 | Xem tất
HỒI 35 - MA GIÀ PHÁP VƯƠNG
Nhâm Vô Tâm chợt giật mình tái mặt hỏi:
- Đại sư nói thế, có phải là vì người dẫn đường đã bị hại rồi không?
Lão Lạt Ma đôi mắt bỗng sáng hẳn lên, hấp tấp hỏi lại:
- Sao các hạ biết?
Vô Tâm đăm đăm nhìn vào mặt lão, rồi hỏi:
- Không biết đại sư với Thiên Trúc kỳ tăng Ma Già Pháp Vương là thế nào?
Lão Lạt Ma đáp:
- Lão hoà thượng chính là Ma Già.
Vô Tâm cau mặt hỏi:
- Ma Già Pháp Vương là kỳ tăng ở Thiên Trúc, mà đại sư thì hình như ở Tạng Biên, chớ không giống người Thiên Trúc. Thế là tại sao?
Ma Già Pháp Vương nói:
- Lão tăng ở núi Thần Sơn, biên giới Tây Tạng từ nhỏ. Người đời đồn lão là người Phật quốc Thiên Trúc, đó là nói sai.
Vô Tâm ngẫm nghĩ một lúc, rồi lại hỏi:
- Nếu vậy thì đại sư cùng đi với Độc Hành lão nhân lại đây phải không?
Ma Già Pháp Vương thủng thỉnh đáp:
- Đúng thế, ba mươi năm trước, lão tăng đã từng gặp Độc Hành Ông một lần. Lần này ông ta không từ thiên tân vạn khổ tới Thần Sơn tìm lão, mời lão đến đây. Nhưng chẳng may ông bạn cũ của lão lại không may bị chết ở dọc đường, vì thế nên lão tăng đành chịu, không làm cách gì tìm được Nhâm Vô Tâm nữa.
Vô Tâm đứng lặng người đi một lát, rồi mới thở dài nói:
- Vị... vị tiền bối ấy võ công tuyệt thế, làm sao bỗng dưng lại chết được?
Ma Già Pháp Vương thở dài than rằng:
- Độc Hành Tẩu võ công dù có quán tuyệt trần hoàn, cũng không tránh được số trời. Chỉ đáng tiếc một điều là hắn chết hơi hấp tấp quá!
Vô Tâm ngẩn người hỏi:
- Có lẽ vì Độc Hành tiền bối đi đường xa vất vả quá, nên lao lực mà chết chăng?
Ma Già Pháp Vương gật đầu:
- Đó cũng là một nguyên nhân. Nhưng vì hắn chết bất thần, nên không kịp nói cho lão tăng biết là nên đến đâu tìm Nhâm Vô Tâm. Lão tăng mới phải đi hỏi thăm vớ vẩn thế này.
Nhâm Vô Tâm cúi mình kính cẩn nói:
- Tại hạ chính là Nhâm Vô Tâm.
Ma Già Pháp Vương thoạt nghe thì đứng ngây người ra, rồi thốt nhiên nổi giận đùng đùng nói:
- À giỏi! Ngươi hẹn lão tăng tới đây rồi lại cố ý giấu giếm không chịu lộ diện là cớ làm sao?
Vô Tâm cười gượng:
- Tại hạ nghe Độc Hành lão nhân nói thì đại sư là một người gầy gò, tính nóng như lửa, nay thấy đại sư không những tầm vóc đã khác, tính tình cũng lại không giống, nên tại hạ không dám nhận liều.
Ma Già Pháp Vương sắc mặt đã hết giận, lại cười hì hì nói:
- Đúng, đúng! Ba mươi năm trước, lão hoà thượng tầm vóc tính tình quả đúng thế thật. Nhưng ba mươi năm sau này lão hoà thượng đã hối về cái tính nóng nảy đó, nên mới cố gắng tu tỉnh, bất cứ việc gì cũng chỉ lấy nụ cười ứng phó...
Chợt ông vỗ bình bịch vào bụng, cười ha hả tiếp:
- Vì tính tình lão đã thay đổi, nên thân thể mới phát phì ra thế này. Do đó chính cố nhân năm xưa, thốt nhiên gặp mặt cũng không nhận ra được nữa.
Vô Tâm nghiêm trang nói:
- Đại sư dã thay đổi được tâm tính, tất là đã tham thấy được diệu đế từ bi của Ngã Phật, thật là đáng mừng.
Ma Già Pháp Vương nhìn suốt từ đầu tới chân Vô Tâm một lượt rồi nói:
- Không ngờ Độc Hành ông suốt đời đi một mình mà cũng biết nói quá sự thật. Hắn nói công tử không những học vấn uyên bác, võ công cao tuyệt mà phẩm mạo lại cũng khác chúng nữa. Hai câu trước hắn nói đúng, nhưng còn câu thứ ba thì hì hì... hắn tả sai quá... hì hì...
Vô Tâm mỉm cười nói:
- Đại sư đừng nên quên là võ lâm Trung Nguyên phần nhiều đều giỏi về môn dịch dung.
Ma Già Pháp Vương ngẩn người ra một lát, rồi vùng cười to nói:
- Có lẽ lão hoà thượng trông thấy vị thư đồng của công tử đây, cũng đã đoán ra điều ấy!
Tú Linh bất giác đỏ bừng mặt, sượng sùng cúi xuống, mân mê giải áo, không hiểu tại sao lão lại biết mình cải dạng.
Vô Tâm cũng kinh ngạc, thầm phục lão tinh mắt. Chàng cứ đứng ngây người không biết nói lại làm sao.
Ma Già Pháp Vương thôi không cười cợt nữa, chỉ hỏi bằng một giọng đứng đắn:
- Công tử đã dịch dung mà đi, chắc phải có sự gì quan trọng. Có lẽ cũng là vì việc Nam Cung thế gia chăng?
Vô Tâm đáp:
- Chính thế!
Chàng nói chưa dứt lời, lão Lạt Ma lại hỏi:
- Lão tăng đã nghe Độc Hành Tẩu nói chuyện, nhưng dọc đường không nghe được tin tức gì liên quan đến sự bí mật trong nhà Nam Cung thế gia, thế là tại sao?
Vô Tâm thở dài nói:
- Như thế đại sư đủ hiểu là Nam Cung thế gia hành động bí mật đến thế nào? Nếu không thì khi nào tại hạ dám phiền đến pháp giá của đại sư?
Nói xong chàng lại đem những việc các cao thủ võ lâm bị Nam Cung phu nhân dùng độc dược làm cho mê loạn tâm trí để thu phục làm tay sai và giam vào thạch thất, lại luyện cho Lan Cô thành một thứ khí giới giết người quỷ bí như thế nào, nói hết cho Ma Già Pháp Vương nghe.
Ma Già Pháp Vương cau mày ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:
- Từ bé đến giờ, lão tăng mới nghe câu chuyện kỳ lạ ấy là một. Hiện thời lão tăng cũng chịu không hiểu ra làm sao, nhưng lão tăng có thể đoán chắc rằng chỉ cần một thời gian, lão tăng có thể khám phá ra là vì cớ gì đã khiến cho người ta tạo nên những sự quỷ bí ấy. Lúc này lão tăng đã nhất định sẽ cũng người ấy đấu chí đến cùng.
Vô Tâm nghiêng mình nói:
- Đại sư từ bi cứu thế, thật đánh kính, đáng phục! Tại hạ xin vì võ lâm Trung Nguyên bái tạ trước. Nhưng lúc này thời cơ đã gấp lắm, không biết đại sư có...
Ma Già Pháp Vương ngắt lời:
- Liệu ba tháng nữa có kịp không?
Vô Tâm gật đầu nói:
- May ra có thể. Nhưng đại sư có cần tại hạ giúp một tay không?
Ma Già Pháp Vương nói:
- Chúng ta nên chia ra mà hành động có lẽ tốt hơn. Sau ba tháng nữa, ta sẽ hẹn chỗ gặp nhau.
Vô Tâm lấy trong mình ra một thanh giản thiếp, đưa cho Pháp Vương nói:
- Bất cứ lúc nào, đại sư có cần gì, xin cứ chiếu theo địa chỉ biên ở đây mà tới, tự khắc sẽ có người thu xếp mọi việc theo ý đại sư. Bây giờ tại hạ có việc gấp, cần phải đi ngay. Ba tháng nữa họp mặt, lúc ấy sẽ có rượu ngon kính thỉnh đại sư.
Pháp Vương cười nói:
- Được. Lão tăng xin chờ các hạ.
Ông vừa nói vừa cầm lấy thanh giản thiếp. Hai bên cùng chắp tay cáo biệt.
Khi bọn Hoàng Y Lạt Ma đi đã xa rồi, Tú Linh thở dài nói:
- Công tử thật có duyên, cả đến bọn lão quái vật kia cũng hết lòng tin phục. Mấy chục năm nay trong giang hồ, trừ cảm thấy ra, có lẽ không còn người thứ hai nữa.
Vô Tâm mỉm cười nói:
- Lấy thành thực đãi người, tự nhiên người cũng sẽ lấy thành thực đáp lại...
Chàng chợt ngẩng đầu trông trời, rồi nói:
- Điền cô nương, chúng ta dùng dằng ở đây đâu quá rồi. Phải đi nhanh lên mới được.
Nói xong phất ống tay áo đi lên trước.
Vừa đi được mấy dặm, Tú Linh chợt nhăn nhó kêu:
- Ôi! Dù có muốn đi đến đâu nữa thì cũng phải ăn, bụng đói thì chân còn lê sao nổi?
Vô Tâm bật cười nói:
- Trong bao phục có một ít lương khô, cô nương hãy lấy ra ăn tạm cho đỡ đói.
Điền Tú Linh mở gói lấy lương khô ra ăn, nhưng lòng nàng lúc này còn mang nặng một bầu tâm sự, lại thấy Nhâm Vô Tâm đối xử có vẻ lãnh đạm, khác hẳn lúc trước, lại càng cảm thấy bất mãn, không thiết gì ăn uống nữa, bèn chỉ ăn qua loa vài miếng, rồi cất ngay đi.
Trong khi ấy, Nhâm Vô Tâm vẫn đưa cặp mắt lạnh lùng nhìn ra phía trước, như quên không biết có nàng đứng bên cạnh.
Ngày đông ngắn ngủi, lúc này trời đã nhá nhem tối. Tú Linh đang đi, thốt nhiên thở dài lẩm bẩm:
- Chỉ đáng thương cho vị Độc Hành lão nhân, vì người bạn mà nghìn dặm bôn ba, thiên tân vạn khổ, đến nỗi lao tâm lao lực mà chết. Nhưng nào người ta có thèm nghĩ đến đâu?
Nàng tuy chỉ lẩm bẩm một mình, nhưng kỳ thực cố ý nói cho Vô Tâm nghe thấy.
Vô Tâm lờ như không nghe tiếng, chỉ thầm thở dài trong bụng. Lúc này chàng đã phải đem hết tâm thần cống hiến cho cuộc chiến đấu liên quan đến chính khí tồn vong của võ lâm, tình thế khẩn cấp này không cho chàng thương xót ai vì thương xót rất dễ phân thần, và cũng rất dễ làm cho người ta mất hết chí tranh đấu.
Đêm đã tối, tiết trời càng lạnh ngắt. Tú Linh lại kêu lên:
- Tôi mệt quá, không sao đi nổi nữa rồi, có tìm chỗ nào nghỉ chân được một lúc không?
Vô Tâm sẽ thở dài, trỏ tay ra phía trước nói:
- Đằng kia có chỗ nghỉ.
Hai người đi men theo bờ sông một lúc, tới một chỗ khúc sông ăn lõm vào, quả thấy một con thuyền nhỏ buộc sẵn ở đó.
Trong thuyền đèn vẫn còn sáng, văng vẳng nghe trong khoang có tiếng ngâm thơ.
Vô Tâm chúm môi huýt sáo một tiếng. Tiếng sáo vừa sắc vừa ngắn, thoạt nghe tưởng như tiếng côn trùng kêu.
Tiếng sáo vừa dứt, tiếng ngâm thơ trong thuyền cũng im bặt, rồi một gã đại hán mặc áo ngắn đi chân trần, từ trong khoang chui ra, gọi sẽ:
- Có phải Nhâm công tử đó không?
Tiếng gọi như reo mừng, hình như gã có ý chờ chàng đã lâu. Vô Tâm cũng mỉm cười nói nhỏ:
- Đêm tối dòng sông lạnh, thắp nến ngâm cổ thi. Cao huynh nhã hứng cao quá, tiểu đệ muốn theo cũng không được!
Vừa nói vừa nhẹ nhàng nhảy lên thuyền. Gã đại hán chính là Cao Giao. Khi nghe Vô Tâm nói thế, gã cười đáp:
- Nếu không có công tử, thì lúc này thừa dịp đêm tối. Cao mỗ đã đi giết người cướp của rồi, còn làm gì có thì giờ ngồi đây thưởng thức cái thú chong đèn đọc sách nữa?
Vô Tâm cười nói:
- Từ đêm tối vung dao tới chong đèn đọc sách, cách nhau một đoạn đường đầy gian tân khổ sở, xa lăng lắc, vậy mà Cao huynh có can đảm vượt qua được, thật là đáng kính đáng phục, tiểu đệ thực không bằng.
Cao Giao nói:
- Công tử đừng nói thế, khiến cho Cao mỗ phải then chết. Tiểu đệ muốn gặp công tử, nên cắm thuyền ở đây chờ đã mấy đêm. Ngoài ra tiểu đệ còn sắm sẵn cả rượu ngon cá tươi, chỉ đợi công tử đến là cùng thống ẩm.
Hai người cười cười nói nói, dắt nhau vào thuyền, còn Điền Tú Linh thì vẫn đứng trơ một mình ở ngoài mũi.
Tú Linh đứng ngoài thuyền một lúc, trong bụng vừa giận vừa buồn. Chợt nghe Vô Tâm gọi:
- Điền huynh đệ!
Tú Linh giận dữ nói to:
- Tôi ngửi hơi rượu không quen, chờ lát nữa các vị uống rượu xong, tôi sẽ vào.
Vô Tâm nói:
- Thuyền này tuy nhỏ, nhưng còn có khoang trong, huynh đệ vào trong này nghỉ cũng tiện.
Tú Linh “hừ” một tiếng, rảo bước đi vào, chỉ thấy trong thuyền rượu thịt bầy la liệt, khói bay nghi ngút, toàn là những món ăn quý giá của đêm đông lạnh lẽo. Nhưng lại nghe Vô Tâm nói:
- Điền huynh đệ đã không ngửi quen hơi rượu, tại hạ cũng không dám ép. Huynh đệ có đói, để nhờ Cao huynh dọn thêm vài món khác vào khoang trong.
Tú Linh nói to:
- Thôi hà tất phải phiền...
Lúc này Cao Giao đã mở cửa khoang trong, nàng nện mạnh gót chân đi vào, hai hàng nước mắt cũng theo bước chân thánh thót nhỏ xuống.
Cao Giao nhè nhẹ khép cửa lại, rồi lại trở ra ngồi vào bàn. Hắn biết Vô Tâm hành tung như con thần long, ẩn hiện biến hoá vô cùng, nên thấy chàng dịch dung cũng coi làm thường, nhưng thái độ của Điền Tú Linh lại làm cho hắn ngạc nhiên, bèn sẽ ghé lại gần Vô Tâm, thì thào hỏi:
- Vị huynh đệ vừa rồi hình như có vẻ giận dỗi điều gì? Sao Nhâm công tử không giới thiệu với tại hạ?
Nhâm Vô Tâm chỉ thở dài, lắc đầu cười gượng. Chàng thấy cử chỉ thần thái của Tú Linh, trong bụng đã biết rõ mười phần, bất giác băn khoăn tự nhủ: “Ta biết làm thế nào bây giờ? Để cho nàng giận cũng phiền, mà để cho nàng yêu lại càng khổ hơn! Thật là oan nghiệt!”
Cao Giao cũng là một tay lão luyện giang hồ, thấy chàng hình như có một nỗi khổ tâm khó nói, nên cũng thôi không hỏi nữa, chỉ ân cần chuốc rượu.
Tú Linh nằm trong khoang, lòng đầy uất ức, tự nghĩ: “Hắn dẫu là một vị kỳ hiệp đương thời, nhưng cũng không thể khinh ta như vậy được? Ta tuy cầu hắn dẫn lên Tử Cốc nhưng cũng là do hắn tình nguyện, nào có phải ta ép buộc hắn cho cam?”
Nàng tuy mỏi mệt, nhưng cũng trằn trọc không sao ngủ yên, nghe bên ngoài tiếng uống rượu, cười nói đã dần dần yên tĩnh, bốn bề gió thổi ào ào, sóng va vào mạn thuyền ồm ộp, cũng không biết là đêm còn khuya hay sớm.
Nàng sốt ruột vùng ngồi dậy, mở hé cửa sổ, thò đầu nhìn ra, chỉ thấy bên ngoài ngọn đèn leo lét. Cao Giao nằm phục xuống bàn ngủ, Nhâm Vô Tâm thì đang ngồi dưới đèn viết thư, thỉnh thoảng lại dừng bút thở dài.
Lại một lúc nữa, chàng lấy tay lay lay Cao Giao, trao phong thư vừa viết cho hắn, nói nhỏ:
- Phong thư này xin Cao huynh làm ơn đưa cho Đường thái thái hộ.
Cao Giao tiếp lấy phong thư, lại cau mày nói:
- Công tử suốt ngày vất vả, bây giờ còn chưa đi nghỉ ư?
Vô Tâm lắc đầu mỉm cười:
- Lần này tiểu đệ trở lại Tử Cốc, ít ra cũng phải nửa tháng hoặc một tháng mới về. Nếu không thu xếp công việc cho xong xuôi thì làm sao yên tâm được? Vả chăng...
Chàng cười gượng, rồi lại tiếp:
- Lại còn nhiều vấn đề, tiểu đệ cần phải suy nghĩ cho ra. Cũng may tôi không ngủ đã quen rồi, mùi vị cái giường thế nào, có lẽ cũng quên cả...
Tú Linh nghe chàng nói vậy, trong bụng cũng cảm thấy thê lương.
Người trong giang hồ chỉ biết Nhâm Vô Tâm kỳ công cái thế hiệp cốt anh phong, nhưng có ai trông thấy cái cảnh chàng suốt ngày bôn ba, suốt đêm không ngủ đâu?
Nàng khép đôi rèm mui lại, nghĩ thầm: “Chàng khó nhọc như vậy để làm gì? Chẳng qua cũng chỉ vì chính khí của võ lâm, chớ có phải vì chàng đâu? Một bực anh hùng hiệp sĩ như vậy, chỉ những nỗi thống khổ với cái gánh nặng chàng đang mang, cũng đã đủ mệt lắm rồi, ta còn khiêu khích chàng làm gì nữa? Huống hồ chàng đã không từ nguy hiểm đưa ta lên Tử Cốc, ta đã không chia xẻ với chàng gánh nặng đó thì thôi, sao lại còn chồng nặng thêm lên nữa?”
Nghĩ tới đấy, nàng chợt rùng mình, nghĩ tiếp: “Nhưng xưa nay ta có phải là người thế đâu? Mà việc này ta đã biết rõ như thế rồi mà... Sao ta lại vì một chuyện nhỏ mọn ấy mà giận dỗi chàng? Hay là... hay là ta đã có tình ý gì với chàng chăng? Chẳng có thế sao vừa thấy chàng ra mặt lãnh đạm, ta đã uất ức, như không sao chịu nổi?”
Nàng chợt thấy hai lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, cặp má nóng bừng. Nàng hồi tưởng lại những ngày đã qua. Nhâm Vô Tâm mỗi một cử chỉ, mỗi một lời nói thật đã khiến cho các cô thiếu nữ phải say mê. Vậy mà mới có từ sáng đến giờ, thái độ chàng vụt trở nên lạnh lùng, cứng cỏi, phải chăng chàng cũng nhận thấy những sự gần gũi thân mật với một thiếu nữ rất có thể nguy hiểm, nên phải cố tình lảng tránh?
Tú Linh càng nghĩ càng sợ, không biết làm thế nào để chế ngự con tim của mình? Nàng lùi lại phía giường ngủ, ngồi xuống, ngẩn ngơ suy nghĩ.
Không biết đã trải qua bao lâu, chợt nghe tiếng Nhâm Vô Tâm gọi ở phía ngoài:
- Điền cô nương... đã dậy chưa?
Điền Tú Linh mắm môi, quả quyết đứng dậy, sửa lại khăn áo, tươi cười đẩy cửa bước ra. Lúc này nàng đã quyết tâm quên hết những chuyện vừa qua.
Trên bàn vẫn còn mấy món ăn tinh khiết và một bát cháo nóng khói bốc nghi ngút, để phần nàng.
Tú Linh cười một cách rất tươi, khép tà áo nói:
- Công tử đãi tiện thiếp quá hậu, tiện thiếp thật không xứng đáng!
Vô Tâm ngẩn người, không biết nói lại làm sao. Chàng thấy Tú Linh mới có một đêm mà thái độ đã cải biến như vậy, trong bụng rất lấy làm kinh dị, nghĩ thầm: “Nữ tử tính nết dễ thay đổi thật!”
Cao Giao lại càng kinh ngạc, chỉ mở to đôi mắt, ngây người ra nhìn Tú Linh, cười thầm: “À, thì ra vị “huynh đệ” này lại là con gái. Hèn gì...” Hắn vừa nghĩ vừa cúi gầm mặt xuống, không dám ngẩng lên nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-9-2015 21:53:06 | Xem tất
HỒI 36 - KINH HỒN DỤC ĐOẠN
Tú Linh rửa mặt qua loa, rồi lấy chén đũa mời Nhâm Vô Tâm và Cao Giao cùng ăn. Vô Tâm thấy nàng đột nhiên trở nên vui vẻ dễ dàng, nói cười luôn miệng, trong bụng cũng được an ủi phần nào.
Cao Giao tuy không muốn hỏi rõ, nhưng miệng vẫn đằng hắng luôn luôn, mãi tới khi Nhâm Vô Tâm cáo từ, hắn đưa tiễn hai người lên bờ, mới nhìn Vô Tâm bằng một đôi mắt hóm hỉnh, rỉ tai cười nói:
- Xin mừng công tử nhé, từ nay trở đi trong lúc phiêu du giang hồ không đến nỗi cô đơn tịch mịch.
Vô Tâm chỉ cười gượng, nhân vì trong chốc lát không thể làm cách nào giải thích cho hắn hiểu được.
Hai người lại trông về hướng tây mà đi, ngày hôm ấy đã tới cổ thành Tràng An phía bắc núi Chung Nam.
Con đường này là đường cái lớn, xưa nay vẫn tấp nập kẻ đi người lại, nhưng rất ít khi trông thấy bóng dáng những khách giang hồ hào kiệt, nhưng mấy hôm gần đây, tình hình lại khác hẳn, xe cộ lừa ngựa không biết biến đâu mất hết, đường xá bỗng dưng trở nên vắng ngắt, hoạ hoằn mới có dăm ba gã đại hán đeo kiếm cầm roi, mặt mũi quần áo dính đầy cát bụi, đi lại một cách hấp tấp vội vàng thoáng chốc đã mất hút.
Những vụ án mất tích một cách ly kỳ thần trí của các vị võ lâm cao thủ mỗi ngày một chồng chất lên mãi, đã làm chấn động giang hồ, lòng người đều nơm nớp lo âu và có cảm tưởng như trong võ lâm sắp xảy ra một biến cố cực kỳ ghê gớm.
Tràng An, một đô thành cổ lỗ, vẫn tấp nập và vội vã như xưa, bất cứ một đại sự nào xảy ra cho võ lâm, cũng không ảnh hưởng gì tới bách tính ở trong thành, giữa những nhân vật giang hồ với thường dân, đời sống hình như đều có một thế giới riêng biệt, không ai động chạm đến ai.
Dọc đường Nhâm Vô Tâm đi đứng ung dung, không tỏ vẻ gì vội vã, nhưng mỗi khi đêm khuya canh vắng, chờ cho Tú Linh ngủ yên, chàng mới len lén bỏ đi, tới gần sáng, lại mang bộ mặt bơ phờ mệt mỏi trở về. Không ai đoán được là trong đêm đó chàng đã đi đâu, và làm những việc gì?
Tú Linh vẫn hết sức giữ gìn đối với chàng. Lúc nào cũng tỏ vẻ đứng đắn và lễ độ, thấy chàng cử chỉ khác thường, trong bụng tuy lấy làm lạ, nhưng cũng không hỏi.
Nhiều khi nàng cũng lo thay cho sức khoẻ của Vô Tâm, sợ chàng vì quá lao lực mà sinh bệnh. Nhưng sau thấy mỗi khi đi về, dáng điệu chàng dẫu mệt mỏi, phờ phạc, nhưng chỉ cần xếp bằng ngồi điều tức một lúc, là tinh thần chàng lại hồi phục ngay.
Nhưng một hôm tới thành Tràng An, thái độ của chàng lộ vẻ bồn chồn lo lắng.
Chàng không vào thành, mà lại tìm ra trọ trong một quán rượu tồi tàn ở dưới chân núi Chung Nam.
Chiều hôm ấy, chàng chợt phá lệ gọi lấy hai cân rượu nặng rồi ngượng nghịu cười nói với Tú Linh:
- Nếu cô nương không chịu được hơi rượu, tại hạ có thể bưng vào trong kia uống cũng được.
Tú Linh nở một nụ cười duyên dáng, đáp:
- Đó chỉ là vì tiện thiếp gặp lúc trong mình không được khoan khoái, nên không muốn ngửi hơi rượu, chớ kỳ thực thiếp cũng biết uống. Bữa nay công tử có hứng, tiện thiếp xin tiếp công tử vài chén.
Chàng mừng lắm, liền rót rượu ra hai chén, mời Tú Linh, tự mình cũng uống luôn ba bốn chén lớn. Nhưng trong lúc uống rượu, chàng vẫn luôn luôn nhìn ra cửa sổ xem sắc trời và lắng tai nghe động tĩnh, hình như sắp có sự quan trọng gì xảy ra.
Tuy nhiên, chàng không nói, Tú Linh cũng không hỏi, chỉ nên luôn để ý dò xét hành động của chàng.
Chợt nghe bên ngoài canh đã điểm hai, Vô Tâm thốt nhiên đặt mạnh chén xuống bàn, đứng lên nói:
- Khuya rồi, cô nương cũng nên đi nghỉ thôi!
Tú Linh gật đầu. Đêm nay nàng cũng muốn giúp chàng một tay, nhưng biết là không khi nào chàng chịu nghe, nên chỉ thở dài nói:
- Mong rằng đêm nay công việc của công tử tiến hành đều gặp may mắn.
Vô Tâm sửng sốt, chợt lại cười gượng nói:
- Cô nương đã biết những gì rồi?
Tú Linh điềm nhiên đáp:
- Tiện thiếp chỉ biết đêm nay tất có việc quan trọng, còn thì chẳng biết gì hơn nữa.
Vô Tâm ngửng mặt lên trần nhà thở dài nói:
- Trong khi đi đường, tại hạ quả đã dò xét được rất nhiều tin tức, biết rằng đêm nay...
Nói tới đây, chàng chợt ngừng lại, một lát lại tươi cười nói:
- Cô nương cứ yên tâm, dù có sự gì nguy hiểm, cũng không đáng sợ.
Nói xong chắp tay vái chào, rồi quay mình đi luôn, Tú Linh đẩy rộng hai cánh cửa sổ nhìn theo, thấy bóng chàng đã khuất vào trong đêm tối.
Đêm hôm ấy, nàng trằn trọc mãi không sao ngủ được, mỗi khi chợp mắt đi là lại tưởng như trông thấy Nhâm Vô Tâm đứng trước mặt mình, khắp người đầy tuyết, và bà tổ nàng đang cười the thé như người điên. Nàng lại giật mình, hốt hoảng ngồi dậy, xa xa có tiếng gà gáy liên hồi, ngoài cửa sổ đã thấy lờ mờ ánh sáng.
Thời gian mỗi khắc qua đi là sự lo lắng của Tú Linh lại chồng thêm một lớp. Trời đã sáng rõ, lẽ ra giờ này Vô Tâm đã trở về rồi, làm sao bây giờ còn chưa thấy?
Chợt nghe cánh cửa sổ có tiếng gõ nhè nhẹ, Tú Linh mừng cuống, đứng phắt dậy, tự nhủ: “À, chàng đã về!”
Nàng đẩy cánh cửa sổ nhìn ra. Bên ngoài là một cái sân nhỏ, lúc này còn phủ kín sương đêm, con mèo tam thể của nhà trọ đang nằm co ro ở góc tường, ý chừng sợ rét? Nàng ngó quanh ngó quẩn, chẳng thấy bóng dáng Vô Tâm đâu cả, tiếng động vừa rồi, có lẽ là do chiếc lá rơi chạm vào cánh cửa.
Căn phòng đối diện lúc này cũng vừa mở cửa, một chàng văn sĩ kiết thủng thỉnh bước ra,tay xốc tà áo, mắt đăm đăm nhìn lớp sương dầy còn phủ trên sàn, miệng ngâm thơ ư ử.
Tú Linh tuyệt vọng, khép cửa quay vào. Ngoài sân đã nghe tiếng chân người đi lại rộn rịp, sương đã tan dần.
Nàng vừa nóng lòng sốt ruột, vừa sợ hãi lo lắng, không biết tại sao Vô Tâm chưa về? Hay là... hay là... Nàng không dám nghĩ tiếp nữa, vội vàng sửa qua xiêm áo, rồi mở cửa bước ra sân, tự nghĩ: “Không biết Vô Tâm đi đâu? Rất có thể chàng đã bị tai nạn gì rồi?” Nàng băn khoăn không biết làm thế nào? Ngồi im mà chờ thì sốt ruột, không chịu nổi, mà đi tìm thì tìm ở đâu?
Nàng chợt rùng mình, khắp người lạnh toát, giữa lúc ấy chợt nghe ngoài viện có tiếng niệm Phật nho nhỏ, rồi hai người đạo sĩ mặc áo lam sóng vai bước vào.
Hai người này đều râu dài, tóc màu tro, sắc mặt cực kỳ trầm trọng. Điền Tú Linh quay lại nhìn bọn họ, cũng vừa bắt gặp họ đang đăm đăm nhìn mình.
Tú Linh chột dạ, quả tim đập thình thịch, buột miệng hỏi:
- Hai vị đạo trưởng định tìm ai?
Hai đạo nhân đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng thủng thỉnh bước lại phía nàng, người bên phải sẽ hỏi:
- Có phải đàn việt đang đợi một người không?
Tú Linh đặt tay lên ngực cho đỡ hồi hộp, rồi rụt rè đáp:
- Dạ phải!
Một đạo sĩ nói:
- Người mà đàn việt đang đợi, có nhờ chúng tôi nói với đàn việt là đừng nên ở đây chờ ông ta nữa.
Tú Linh sợ run lên,tái mặt hỏi:
- Chàng... chàng làm sao mà bảo tôi đừng chờ nữa.
Đạo nhân cúi đầu nói:
- Nếu đàn việt muốn gặp ông ta, thì nên thu xếp hành lý theo bần đạo đi, tới nơi sẽ biết.
Tú Linh nói:
- Được!
Nàng chỉ nói một tiếng, rồi lập tức chạy vụt về phòng. Nhưng vừa tới cửa phòng, thốt nhiên lại quay lại, đăm đăm nhìn hai đạo sĩ, hạ giọng hỏi:
- Xin hai vị cho biết đại danh!
Một đạo sĩ nói:
- Bần đạo là kẻ xuất gia, tiện danh không đáng kể. Xin đàn việt thu xếp hành lý mau lên.
Tú Linh chớp chớp đôi mắt, chợt cười nhạt nói:
- Nếu hai đạo trưởng không cho biết rõ nguyên cớ và lai lịch thì làm sao tôi có thể cứ nhắm mắt đi theo hai vị được?
Hai đạo nhân lộ vẻ do dự, rồi lại đưa mắt nhìn nhau, như ngầm hỏi ý kiến. Rồi người bên trái trả lời:
- Bần đạo pháp hiệu Thanh Thạch!
Người bên phải nói:
- Bần đạo là Thanh Tùng.
Hai người đều hết sức dè dặt, trước khi nói câu gì lại đưa mắt ngầm hỏi ý nhau, rồi mới lên tiếng, nhưng cũng chỉ trả lời vừa đủ, không nói thừa ra một chữ.
Tú Linh vẫn lạnh lùng nói:
- Vậy các đạo trưởng có biết tôi đang chờ ai không?
Thanh Tùng sắc mặt đang trầm trọng, chợt thoáng hiện ra cười nói:
- Đàn việt cẩn thận thực...
Thanh Thạch đạo nhân bỗng ngắt lời:
- Nhưng việc này không phải tầm thường, chúng tôi lại cũng phải cẩn thận hơn nữa. Giờ khắc này không thể nói rõ tên tuổi của người ấy ra được.
Tú Linh nói:
- Đạo trưởng chỉ cần nói một chữ trong tên người ấy cũng được.
Thanh Thạch đạo nhân nói:
- Chúng ta chỉ cần “tâm” chiếu là đủ, hà tất phải nói ra.
Tú Linh nghĩ thầm: “Tâm chiếu... Tâm... đúng rồi, chắc chắn là Nhâm Vô Tâm”.
Nàng nói:
- Hai vị chờ tôi một lát!
Nói xong lập tức chạy vào phòng thu xếp. Chỉ trong khoảnh khắc đã đeo khăn gói đi ra, nói:
- Xin hai vị đi trước, tôi sẽ theo sau.
Hai vị đạo trưởng chỉ nói một câu: “Thất lễ.” rồi song song bước ra cửa quán. Tú Linh vội vàng tính trả tiền trọ, rồi cũng theo ra. Ba người cùng trông về hướng nam mà đi.
Trong khi đi đường, Tú Linh hỏi dò về cận trạng của Vô Tâm và hiện chàng đang ở đây, hai vị đạo sĩ cũng nhất định không nói, trước sau chỉ đáp một câu: “Đến nơi sẽ biết.” Tú Linh tức quá, những cũng đành chịu, không biết làm gì hơn!
Đi một lúc lâu, thời gian vào khoảng thổi chín nồi cơm, trước mắt Điền Tú Linh chợt hiện ra toà núi Chung Nam nguy nga chót vót. Nàng đoán chắc là hai vị đạo sĩ này tất vừa ở Chung Nam xuống, bèn hỏi:
- Có phải Nhâm tướng công ở trên núi không?
Lần này hai đạo sĩ mới gật đầu đáp:
- Phải!
Nói rồi cùng xăm xăm bước lên con đường lên núi.
Lại đi chừng một lúc lâu nữa, vòng qua mấy lớp đường vòng, Thanh Thạch đạo nhân chợt nói:
- Sắp tới rồi!
Tú Linh ngẩng lên chỉ thấy phía trước mặt hiện ra một toà đạo quan nguy nga cổ lỗ, toạ lạc trên một khoảng đất phẳng trên sườn núi, xung quanh bao bọc bởi những ngọn núi cao chót vót, lưng dựa vào mỏm núi cao nhất, mặt quay về phía đông nam, trước cửa có tấm hoành phi đề năm chữ lớn: “Chung Nam Huyền Diệu Quan.”
Tú Linh nhớ mang máng hình như đã từng nghe người ta nói Huyền Diệu Quan là nơi phát nguyên ra kiếm phái Chung Nam, nay mới được trông thấy, quả nhiên có một khí tượng trang nghiêm đặc biệt.
Trước cửa quan có mấy đạo sĩ mặc áo vải màu lam ngắn đang xách nước cọ rửa những bực thềm đá và cánh cửa, mặt người nào cũng lộ vẻ đau đớn bàng hoàng. Tú Linh chột dạ nghĩ thầm: “Có lẽ bọn này đang cọ rửa vết máu chăng?”
Lúc này lại thấy mấy chục đạo sĩ trẻ tuổi mặc áo xanh búi tóc xúm xít khiêng năm cỗ áo quan sơn đen từ trong Quan đi ra, trông thấy Thanh Thạch, Thanh Tùng đều cúi đầu chào.
Thanh Thạch đạo nhân gật đầu, sắc mặt càng trầm trọng, chân bước chậm lại, nói với Tú Linh:
- Bần đạo đưa đàn việt vào Quan, nhưng trước khi gặp Nhâm tướng công, đàn việt có trông thấy gì lạ cũng đừng hỏi.
Tú Linh lúc này đã sợ tới cực điểm, chưa nghe đạo sĩ nói dứt câu, nàng đã gật lấy gật để, chỉ muốn lập tức nhảy ngay vào Quan, đạo sĩ muốn ra điều kiện gì nàng cũng chịu hết.
Nàng theo hai đạo sĩ vào Quan, ngước mắt nhìn, lại thấy hãy còn mấy cái xác nằm ở trong sân, nhưng đều phủ một mảnh vải gai kín từ đầu xuống đến ống chân, nên không trông rõ mặt.
Tú Linh vì đã hứa trước với Thanh Thạch, nên không dám hỏi, nhưng quả tim vẫn đập thình thịch, bất giác lẩm nhẩm khấn thầm cầu cho Vô Tâm được vô sự.
Đi qua đại điện, hai vị đạo sĩ vẫn không dừng lại, Tú Linh đưa mắt nhìn qua, thấy những pho tượng và án thờ hình như vừa được kê xếp lại, nhưng có nhiều chỗ vẫn còn trông thấy những vết sứt mẻ, trông đó đủ hiểu toà đạo quan này đêm qua chắc đã xảy ra một vụ ác đấu dữ dội.
Đi qua tiền điện, lại tới một cái sân rất rộng, hai bên có hai dãy sương phòng, nhưng đều im lặng như tờ, đâu đây như ẩn náu một khí tượng vô cùng trầm trọng.
Góc sân bên trái còn có một cái cửa tròn, bốn đạo nhân cầm kiếm đứng canh cửa, cặp mắt người nào cũng quắc lên như nảy lửa, sát khí đằng đằng. Vừa trông thấy Thanh Thạch, Thanh Tùng đều cúi đầu làm lễ, rồi tránh ra hai bên nhường lối.
Trong cửa lại còn một lớp sân nhỏ, qua những bụi trúc thưa, thấp thoáng còn trông thấy một dãy sương phòng tinh trí, chắc là chỗ ở của vị chưởng môn.
Thanh Thạch, Thanh Tùng đưa Tú Linh tới trước dãy sương phòng, rồi do Thanh Thạch đạo nhân nghiêng mình cung kính nói:
- Khải bẩm chưởng môn sư huynh, tiểu đệ đã mời vị đàn việt ấy tới đây.
Bên trong lập tức có tiếng một ông già nói:
- Mời vào trong này.
Thanh Thạch đạo nhân sẽ nghiêng mình nói với Tú Linh:
- Xin mời.
Tú Linh cố gắng định thần, tự vén rèm bước vào.
Trong phòng có một vị đạo nhân râu tóc trắng như cước, ngồi xếp bằng tròn trên ván sàng, sắc mặt trắng nhợt, tưởng như cắt không được một giọt máu, tay trái bị thương, quấn bằng mảnh vải trắng, trông ngoài áo bào vẫn lờ mờ nhận thấy, tay phải đạo nhân còn cầm một thanh kiếm, lưỡi sắc như nước, trông lại càng rõ vẻ uy nghiêm.
Tú Linh bất giác quỳ xuống, lễ phép hỏi:
- Dám hỏi đạo trưởng, Nhâm tướng công hiện nay ở đâu?
Đạo trưởng đôi mắt long lanh, đăm đăm nhìn nàng một lúc rồi hỏi:
- Đàn việt có phải là người nhà Nhâm tướng công không?
Tú Linh cung kính đáp:
- Vãn bối chính là người cùng đi với Nhâm tướng công!
Đạo nhân thốt nhiên thở dài một tiếng, rồi nói:
- Được!
Đoạn thủng thỉnh bước xuống khỏi vân sàng, đi vào một cửa bên, tay vén rèm nói với Tú Linh:
- Mời đàn việt vào, Nhâm tướng công hiện ở trong này.
Tú Linh càng cảm thấy hồi hộp, buột miệng kêu to:
- Nhâm tướng công! Nhâm tướng công!
Rồi nàng đứng phắt dậy, xăm xăm chạy vào. Nhưng vừa bước tới cửa phòng, nàng chợt lặng người, choáng váng đứng sững lại.
Thì ra nàng đã trông thấy trong phòng bốn bề rèm che kín mít, không có ánh sáng mặt trời, nhưng bên trong lại thắp mấy cây bạch lạp.
Dưới ánh nến chập chờn, trên chiếc bàn gỗ trước mặt, nàng đã nhận rõ một cỗ quan tài còn mới. Phía trước quan tài còn bày đủ hương hoa lễ vật, ngoài ra không thấy một người nào khác nữa.
Tú Linh lạnh toát cả người, chân tay bủn rủn, lắp bắp hỏi:
- Nhâm... Nhâm Vô... Vô Tâm ở... ở đây ư?
Đạo nhân từ từ gật đầu, sẽ nói:
- Chính đấy!
Tú Linh chỉ nghe như một tiếng sét nổ bên tai, ngực như bị một vật gì nặng tới ngàn cân đè lên, chân đứng không vững, chỉ lảo đảo mấy bước rồi ngã ngồi xuống đất, hai mắt trợn trừng nhìn vào cỗ quan tài, nước mắt tuôn ra như suối.
Cái lối khóc thầm ấy còn đau khổ gấp vạn lần khi khóc thành tiếng. Vị đạo trưởng tóc bạc hình như có vẻ ngạc nhiên, sẽ nói:
- Đàn việt hà tất phải đau thương quá lắm vậy!
Tú Linh lúc này còn để ý đâu đến những lời khuyên nhủ của ông ta. Nàng chỉ lặng đi một lúc, rồi nhảy một bước tới bên áo quan, lăn ra, vừa khóc vừa nói:
- Nhâm tướng công, Nhâm tướng công làm sao lại chết được?... Tướng công đừng chết... đừng chết! Nếu tướng công chết, tôi còn sống làm gì nữa?
Bao nhiêu những nỗi đau thương ai oán, bị nàng cố gắng đè nén bấy lâu, lúc này mới được dịp nổ bung ra, nàng không nghĩ gì đến sự có người lạ đứng bên cạnh, cứ việc lăn lộn gào khóc kể lể:
- Nhâm tướng công ôi! Tướng công chết, tôi cũng không sống được nữa!
Thốt nhiên bên tai nàng chợt văng vẳng có tiếng gọi:
- Điền cô nương! Điền cô nương!
Tiếng gọi vừa quen thuộc, vừa xa xôi, rõ ràng là tiếng Nhâm Vô Tâm.
Tú Linh giật mình, vội ngẩng đầu lên, nhìn trừng trừng vào cỗ áo quan.
Chỉ thấy nắp cỗ áo quan sơn đen, lúc này đã từ từ cất cao lên, để lộ ra hai cánh tay trắng bệch. Sau đó nàng lại trông thấy sắc mặt nhợt nhạt của Nhâm Vô Tâm, đang cố quay lại nhìn về phía nàng.
Chỉ trong phút chốc, bao nhiêu những nỗi mừng, sợ, thẹn, giận, dồn dập quay cuồng trong óc nàng, đến nỗi chính nàng cũng không sao phân biệt nổi tâm ý của mình nữa.
Nàng sững sờ nhìn Vô Tâm một lúc, rồi thốt nhiên đứng vùng dậy, ù té chạy ra khỏi phòng.
Vị đạo trưởng chắp tay trước ngực, chắn không cho nàng ra, hỏi bằng một giọng hiền hoà:
- Đàn việt đã muốn gặp Nhâm tướng công, cớ sao lại bỏ chạy?
Tú Linh lấy ống tay áo lau nước mắt, cười nhạt:
- Hừ! Không ngờ một vị chưởng môn Chung Nam mà cũng chẳng khác gì tụi lưu manh hiểm độc!
Đạo nhân ngẩn người, hỏi:
- Tại sao đàn việt lại thoá mạ bần đạo như vậy?
Tú Linh sẵng giọng nói:
- Tôi hãy hỏi đạo trưởng, tại sao đạo trưởng lại đánh lừa tôi? Có phải là cố ý định bêu xấu tôi ở trước mặc các người không? Ừ, thì thế đấy, nếu Nhâm Vô Tâm chết, tôi cũng không sống. Nhưng bây giờ hắn chưa chết, tôi sẽ đi! Nào thôi, tránh ra để tôi đi!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách