Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: linh2511
Thu gọn cột thông tin

[Khác - Xuất Bản] Ngón Tay Mình Còn Thơm Mùi Oải Hương | Ngô Thị Giáng Uyên

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:34:42 | Xem tất
Tên của thủ đô nước Bỉ (Brussels trong tiếng Anh, Bruxelles trong tiếng Pháp, cũng là ngôn ngữ chính thức ở đây) bắt nguồn từ Broekzele, nghĩa là “ngôi làng trên đầm lầy”. Từ thế kỉ thứ 6 trở đi, dưới thời hoàng gia Habsburg thành phố phát triển nhanh như thổi và cùng với The Hague thay phiên làm thủ đô của Liên hiệp Vương quốc Hà Lan trước khi thành thủ đô của nước Bỉ độc lập vào thế kỉ 19. Ngày nay, có người rất tinh tế cho rằng Brussels là hiện thân của Bỉ: khiêm tốn, tự tin những không bao giờ cố gây ấn tượng. Với trụ sở chính của Liên minh châu Âu EU và khối NATO đặt ở đây, có lẽ Brussels bị “mang tiếng” là trung tâm nhàm chán và quan liêu cũng vì vậy. Tôi buồn cười nhớ lại năm ngoái, lúc nước Anh đang sôi sục bầu cử thủ tướng. Đảng bảo thủ Conservative kêu gọi “Nếu bạn không muốn Brussels sai bảo, hãy bỏ phiếu cho Conservative” để thu hút những cử tri nào cho rằng nước Anh mất đi bản sắc riêng do lệ thuộc quá nhiều vào EU. Tương tự, khi Hà Lan theo gót Pháp không thông qua Hiến pháp châu Âu (European Consitution) của EU, một anh chàng Hà Lan đã phát biểu trên diễn đàn của BBC: “Là người châu Âu đích thực không có nghĩa rằng chuyện gì cũng nghe lời Brussels”.

Nhưng tôi thấy tiếc cho những ai bỏ qua Brussels trong chuyến du lịch vòng quanh nước Bỉ. Grand Place là trung tâm thương mại của Brussels từ thời Trung cổ, mặc dù chỉ có tòa tháp Hôtel de Ville và một guildhouse (nhà dành riêng cho thợ thủ công làm nghề ở châu Âu thời xưa) thoát khỏi mưa bom suốt 36 tiếng đồng hồ của Pháp vào năm 1695. Hôtel de Ville không phải khách sạn như nhiều người lầm tưởng mà là tòa thị chính với kiến trúc bên ngoài gợi nhớ đến tháp đôi Sagranda Familia ở Barcerlona hoặc Stephansdom ở Vienna, nhưng bên trong khác hẳn với những căn phòng tráng lệ. Đặc biệt nhất là văn phòng chính quyền thành phố từ thế kỷ 16, dát vàng qua mấy trăm năm vẫn còn lộng lẫy, sàn lát gỗ sồi chạm ngà voi và trải thảm sờn. Thú vị hơn cả Hôtel de Ville kiểu Gothic là những guildhouse được xây lại vào thế kỉ 18 sao khi bị Pháp đánh bom, với những tháp thon thả chạm khắc đủ hình tượng độc đáo. Ngày nay, nhiều guildhouse trở thành những nhà hàng, quán cà phê sang trọng như muốn nhắc du khách nhớ đền thời vàng son của Bỉ.

Phía Nam quảng trường, trên đường Charles Buls là tấm plaque mạ vàng - một trong những tác phẩm theo trường phái Nghệ thuật Mới (Art Nouveau) đầu tiên của thành phố. Cạnh đó là bức tượng nằm, tạc nữ anh hùng thế kỉ 14 Everard’t Serclaes, du khách đến đây ai cũng sờ tay vào tượng để lấy may. Tôi cũng bắt chước sờ tay vào tượng xem thử năm nay có khá hơn năm trước đi du lịch bị đạo chích châu Âu chôm mất balô không.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:37:05 | Xem tất
Chúng tôi tản bộ đến khu phố Rue du Chêne và Rue de l’Étuve, anh Dũng kéo tay tôi, chỉ: “Đây, niềm tự hào của Brussela chỉ có bấy nhiêu đây thôi”. Xung quanh góc phố nhỏ đông đúc người cạnh những hiệu bán bánh quế, sôcôla và đồ lưu niệm, tượng chú bé Manneken Pis trông thật ngộ nghĩnh. Dù ngày nay đó chỉ là một bản copy của bức tượng gốc được Jerome Duquesnoy tạc vào những năm 1600s và đặt tại đây (đã bị mất trộm mấy lần) và Manneken Pis đã có mắt khắp thế giới, nhưng Brussles vẫn là nơi mọi người tìm đến xem hình ảnh buồn cười này.

Tôi rất thích khu phố phía sau lưng Grand Place, có những quán ăn ngoài trời che dù trắng đầy dân địa phương ăn uống rôm rả, những nghệ sĩ lang thang chơi đàn guitar và accordion. Khác xa với London, Paris, Amsterdam..., luôn rộn rã khách du lịch lôi vali xềnh xệch khắp nơi hay ngó nghiêng chụp ảnh, Brussels là thủ đô duy nhất tôi từng đến có nét địa phương rất đáng yêu mà chỉ có những vùng quê xa xôi còn giữ lại được. Dường như tôi là người lạ duy nhất trên con đường này. Mỗi lần tôi đưa máy ảnh lên, những người đang ăn uống lại ngước lên nhìn, cười khúc khích, có người còn vẫy tay chào, hay sửa lại tóc tai, như thể lần đầu tiên thấy khách du lịch vậy. Một anh chàng phục vụ còn vui vẻ vẫy tay gọi tôi từ xa, khoe trong quán có vẽ hình trên tường đẹp lắm, vào chụp đi. Điều này làm tôi yêu Brussels như yêu những người địa phương vui tính chất phác ở một ngôi làng nhỏ.

Brussels được ưu ái gọi là thủ đô của châu Âu (Capital of Europe) do trụ sở EU đặt ở đây và do vị trí địa lý thuận lời kết nối những thành phố khác của cựu lục địa. Vì thế Bỉ cũng lấy tên gọi ấy để làm chiến lược marketing du lịch. Nhưng mỗi lần nghĩ về Brussels, tôi không nhớ về một thành phố lớn với những tòa nhà chọc trời hay những đại lộ đầy xe ngang dọc mà nhớ hồn địa phương trên món bánh Waffle mới ra lò còn ấm nóng, vừa mềm vừa giòn, trên phủ lớp đường caramel, chocolate đun chảy và dâu tươi đỏ mọng hoặc kem tươi mới quết, trắng muốt mịn màng béo ngậy trông ngon lành không thể tả; những ngôi nhà cổ hoa nở đầy trên khung Waffle mới ra lò còn ấm nóng, vừa mềm vừa giòn, trên phủ lớp đường caramel, chocolate đun chảy và dâu tươi đỏ mọng hoặc kem tươi mới quết, trắng muốt mịn màng béo ngậy trông ngon lành không thể tả; những ngôi nhà cổ hoa nở đầy trên khung cửa sổ; những người dân thành phố mà đối với khách du lịch hồn nhiên như hàng xóm ở quê. Và tôi trìu mến gọi Brussels bằng cái tên tôi đặt: ngôi làng thủ đô...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:39:35 | Xem tất
Đức


Những mái nhà cổ tích, vườn bia và Sauerkraut
  
Trước khi đến Munich, tôi không ngờ thủ phủ vùng Bavaria lại đáng yêu như vậy. Trong tưởng tượng của tôi, đó là một thành phố công nghiệp hiện đại chỉ toàn những tòa nhà chọc trời và những làn xe BMW, Mercedes bóng lộn lao vun vút.

Nhưng đó chỉ là một phần của thành phố giàu có nhất nước Đức này, phần còn lại là những khu phố cổ mơ màng và những vườn bia (biergarten) nơi dân địa phương và du khách ngồi thưởng thức bia tươi nổi tiếng thế giới trong cái nắng châu Âu dìu dịu, rất đúng “tinh thần” chữ tiếng Đức Gemutlichkeit, nghĩa là vui vẻ, dễ chịu, thoải mái.

Chuyến đi Đức của tôi phẳng lặng và êm đềm như những thành phố, thị trấn xứ Alps với nhà gỗ nâu xinh xắn, tĩnh lặng và ngái ngủ nép mình bên rặng núi hùng vĩ chập chùng lướt qua xe lửa. Munich, Munchen trong tiếng Đức, là nơi cuối cùng tôi đến sau gần một tháng rong ruổi xuôi ngược Châu Âu, và quả là một trạm cuối đầy ấn tượng, đặc biệt nhất vẫn là sức quyến rũ kỳ lạ của quảng trường Marienplatz, trái tim của phố cổ Munich và đã hiện hữu trong không biết bao nhiêu tấm postcard nơi đây.

Tôi leo lên nhà thờ Alter Peter để ngắm trọn vẹn hình ảnh quảng trường trong nắng sớm mai. Phía trước tôi, bọn trẻ con người địa phương chừng tám, chín tuổi, reo hò nhộn nhạo và tranh nhau bước trên cầu thang bằng gỗ nhỏ hẹp chỉ vừa một người đi, trong khi cô giáo thở không ra hơi vì những bậc thang cao hun hút, không còn sức bảo học trò. Đến nơi ai cũng mệt bở hơi tai, nhưng toàn cảnh Neues Rathaus, tòa tháp kiểu neo-Gothic được xây dựng từ thế kỷ 19 kiêu hãnh vươn lên nền trời và những cửa sổ nhà thờ hoa tươi rực rỡ làm mọi người quên đi mệt mỏi. Phía đông quảng trường, tòa thị chính xưa Altes Rathaus được xây dựng từ thế kỷ 15, bị đánh bom chỉ còn là tàn tích và ngày nay dường như đã chìm vào lãng quên. Nhưng phần còn lại của quảng trường được bảo trì rất tốt: Từ trong những vòm sắt uốn lượn của nhà thờ Alter Peter nơi tôi đứng có thể nhìn thấy những mái nhà màu cam nhấp nhô đẹp như cổ tích, đến nỗi trong một giây tôi tưởng như có thể bắt gặp cô bé Lọ Lem, nàng Bạch Tuyết hay hoàng tử ếch trong truyện cổ Grimm bước ra từ những ngôi nhà xinh xắn nọ. Anh em Jacob và Wilhelm Grimm là niềm tự hào của nước Đức do đã có công gìn giữ những truyện dân gian cổ tích xưa, để ngày nay không chỉ quê hương họ mà cả thế giới biết ơn hai người đã làm sống lại những bức tranh sinh động và giàu lòng nhân ái, làm phong phú thêm tâm hồn trẻ thơ trên khắp hành tinh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:40:41 | Xem tất
Vốn không thích viện bảo tàng và gallery nghệ thuật nhưng tôi vẫn quyết định đến Alte Pinakothek, một trong những bảo tàng nghệ thuật xưa nhất và quan trọng nhất thế giới, dành nguyên một ngày lang thang qua khắp những căn phòng rộng treo hơn 800 kiệt tác của các danh họa Châu Âu, đại diện cho những chặng đường nghệ thuật từ thời Trung cổ đến cuối giai đoạn Rococo vào thế kỷ 18. Vào chủ nhật hàng tuần, chỉ với 1 euro (5.5 euro vào ngày thường) bạn có thể đắm mình trong lịch sử hội họa và chiêm ngưỡng những tác phẩm vĩ đại của nhân loại đến khi nào mỏi chân, mỏi mắt thì thôi.

Xưa nhất trong những bộ sưu tập là hội họa Ý, với tác phẩm nổi tiếng thế giới đại diện cho trường phái Gothic “Bữa ăn tối cuối cùng” của Giotto và những kiệt tác khác từ các trường phái Baroque và Phục hưng, trong đó có Leonardo da Vinci với “Đức mẹ đồng trinh và con”. Bộ sưu tập hội họa Đức nổi bật nhất vẫn là “Bốn vị tông đồ” của Durer, với những nét vẽ sắc sảo lột tả bốn nét mặt khác nhau thật sống động. Hội họa Hà Lan và vùng Flemish ở bảo tàng này có được bộ sưu tập lớn nhất thế giới của Rubens, người đã “hoàn thiện sự pha trộn giữa truyền thống duy thực của hội họa Flemish với sự tự do tưởng tượng và đề tài cổ điển của hội họa Phục hưng Ý”. Tôi thích sự trong trẻo và thánh thiện của bức “Đức mẹ và con trong vòng hoa”, với những thiên thần tóc xoăn bụ bẫm đáng yêu vờn xung quanh, hơn những bức khác mô tả cuộc chiến đẫm máu hay chúa Giê-su trên thánh giá của ông.

Ngoài ra không thể không kể đến những kiệt tác của các danh họa lỗi lạc khác như Rembrandt, Altdorfer, Boucher, Tizian, Murillo… Chỉ có điều hội họa cổ đại Châu Âu có không ít bức ảnh miêu tả người tự tử, bị treo cổ, bị đóng đinh… y như thật làm tôi sợ toát mồ hôi, tay chân run lẩy bẩy. Từ viện bảo tàng bước ra đường phố, đầu tôi choáng váng, mắt hoa lên, những cảm xúc đan xen lẫn lộn làm tôi ngơ ngẩn đến hàng giờ sau.

Nhưng những vườn bia nhộn nhịp ven đường với dân địa phương lười biếng ngồi nhấm nháp những ly bia lớn cỡ một lít từ những thùng bia tươi bằng gỗ nâu làm tôi trở về lại với Munich sống động và vui nhộn của hôm nay. Munich là tâm điểm của lễ hội bia Oktoberfest lớn nhất thế giới với bia chảy như suối, được tổ chức vào tháng 9 và tháng 10 hàng năm. Song không cần Oktoberfest, quanh năm suốt tháng bia vẫn là “quốc hồn quốc túy” của xứ sở này. Ngày xưa, không biết làm cách nào giữ bia lạnh trong mùa hè, thợ cất bia Munich đặt những thùng gỗ đựng bia mới ủ xuống hầm và trồng những cây dẻ lên trên, để những cành vươn dài xum xuê lá của cây dẻ tạo thành bóng râm mát giữ bia lúc nào cũng mát lạnh ngon lành. Ngày nay, tập tục đó đã giúp hình thành những vườn bia rất lớn, thường chứa được vài ngàn chỗ ngồi dưới bóng những cây dẻ xanh um. Ly bia ở Munich không dành cho người yếu tim, ly nhỏ nhất cũng đựng được cả lít và bạn đừng ngạc nhiên khi thấy dân địa phương uống mỗi người vài lít bia trong một buổi tối, đó chỉ là chuyện “thường ngày ở huyện”. Thường những vườn bia “chân chính” lúc nào cũng để trên bàn một rổ mây đựng đầy có ngọn bánh mì mới ra lò, dưa leo, xúc xích, thịt xông khói và những món truyền thống như phô mai Obatzda. Trang web chính thức của thành phố muenchen.de gọi những vườn bia là “nơi trú ngụ của lối sống Bavaria với sự thư giãn bất chấp cuộc sống hiện đại xô bồ và náo nhiệt”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:41:38 | Xem tất
Nổi tiếng nhất trong những vườn bia vẫn là Hofbrauhaus, nơi bạn có thể nhận biết được từ xa nhờ những tiếng “Prost” (tương tự như “dzô dzô” trong tiếng Việt) ồn ào của dân nhậu tứ xứ và tiếng nhạc oompah đặc trưng vùng Bavaria của những ban nhạc địa phương mặc quần da có dây đeo Lederhosen. Tòa nhà xưa đắm mình trong ánh nắng vàng như mật; những vại bia vàng óng mát lạnh sủi bọt trắng phau; những cô gái phục vụ mặc áo đầm truyền thống tay phồng bằng vải thô, tay cầm khay đựng những chiếc pretzel- bánh nướng xoắn hình nút dây thừng to “vật vã” đặc sản Munich; logo chữ HB lồng vào nhau bên dưới vương miện; những chiếc bàn nhỏ trải khăn sọc carô đỏ trắng kê dưới tán cây dẻ… là những hình ảnh đặc trưng của vườn bia lớn nhất thế giới có mặt từ năm 1592 này.
Tôi muốn vào Hofbrauhaus cho biết nhưng uống bia một mình kể cũng hơi buồn nên đành hẹn dịp khác, rảo bước đến chợ Virtualienmarkt mua xuất chiều từ một quầy nhỏ hẹp có rất nhiều người địa phương đứng xếp hàng chờ. Tôi bắt chước người trước mặt, mua một miếng thịt heo quay lớn bằng nửa bàn tay, da giòn tan óng ánh vàng ngậy nhưng không ngán, kẹp trong bánh mì mềm, vừa ăn vừa rảo bước quanh khu chợ nổi tiếng Châu Âu với mùi thức ăn thơm lừng khắp nơi. Đi bộ nhiều đói bụng, tôi ra một trong những cửa hiệu quanh chợ bán thức ăn tươi ở nhà mới làm, mua thêm một phần xúc xích nướng ăn với sauerkraut- món bắp cải trắng bào sợi muối chua nấu với rượu vang đỏ, lá nguyệt quế và nước cốt quả bách xù đặc trưng Đức, đặc trưng đến nỗi “kraut” là tiếng lóng dân Anh vẫn châm chọc gọi dân Đức (cũng như người Pháp bị gọi là “frog” vì Pháp là nước Châu Âu duy nhất ăn thịt ếch vậy).

Ngày cuối cùng ở Munich, tôi lại ra Marienplatz, lần này với ba người bạn mới quen ở chung nhà nghỉ với tôi. Quảng trường buổi tối đã thưa người, chúng tôi dừng lại đài phun nước Fischbrunnen phía tay phải Neues Rathaus, phía trên có chú cá tròn trĩnh bằng đá và quanh bệ là tượng những người thời xưa đang nghiêng xô có dòng nước trong vắt chảy róc rách xuống hồ nước màu xanh ngọc lục bảo emerald. Xưa ở đây là chợ cá nên vòi phun nước này được xây để gợi nhớ những ngày đó, khi người bán thả cá xuống cho bơi lội trước khi bán để giữ cá luôn tươi. Cô gái người Phần Lan đi cùng bảo: “Trong sách nói Fishbrunnen này thiêng lắm nha, nếu nhúng ví xuống nước, ví của bạn sẽ luôn đầy tiền” làm chúng tôi, kể cả anh chàng người Đức ở vùng khác mới đến Munich lần đầu, hí hửng lấy hết giấy tờ tiền bạc ra khỏi ví, nhúng ngay ví rỗng xuống nước. Cô cười ha hả: “Nếu tin điều đó, ví của bạn bị ướt cũng đáng đời” làm cả đám tiu nghỉu. Sau tôi mới khám phá ra cô học được “chiêu” này từ sách du lịch Lonely Planet.

Những ngôi nhà mái màu cam nhấp nhô đẹp như cổ tích đã dần tắt đèn. Khi đi bộ về lại nhà nghỉ trong những cơn gió Bavaria hiu hiu cuối ngày, người còn lâng lâng vì ly bia tươi mới uống, tôi quyết định sẽ trở lại Munich vào dịp Oktoberfest, không chỉ để áp dụng “chiêu” nhúng ví xuống nước với những bạn đồng hành mà còn để có dịp nhìn cả thế giới uống bia với sauerkraut chua chua và xúc xích trắng Weisswurst vừa mềm vừa giòn, trong những vườn bia trải khăn trắng vẽ những hình thoi xanh da trời dưới bóng cây dẻ râm mát. Để có dịp xem những Philipp Lahm, Oliver Kahn, Bastian Schweinsteiger, Lukas Podolski… thi đấu cho đội bóng con cưng Bayern Munich. Để có dịp ngắm những mái nhà cổ tích êm đềm ở quảng trường Marienplatz, nhấm nháp Black Forest cake- bánh sôcôla có phủ trái dâu chín mọng và kem tươi béo ngậy đặc trưng Munich- trong những quán cà phê đông đúc ở khu phố cổ…


Và còn những điều mới mẻ nào nữa sẽ chờ tôi ở thủ phủ xứ Bavaria?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:42:52 | Xem tất
Hà Lan


Sông nước Amsterdam


Tôi đến Hà Lan phần nào mỏi mệt hơn sau một tuần rong ruổi ở Ý và Bỉ. Hôm đầu tiên đến, anh bạn thân người Anh Alastair và tôi phần nào bị shock vì Amsterdam hoang dại quá. Tưởng chừng như tất cả những hippie râu dài, quần áo xộc xệch trên khắp thế giới đều hội tụ về đây.

Gần như ở mỗi khu phố đều có người đến chào bán cocaine, những câu lạc bộ cho dân “gay” nhan nhản khắp nơi và đường phố đầy những khách du lịch ngoại hình “bất hảo. Tuy nhiên, chỉ sau một ngày, tôi nhận ra nếu tránh xa khu phố đèn đỏ, Amsterdam vẫn thật đẹp, thật thơ với những khoảng xanh, những góc phố tĩnh lặng, và đáng yêu nhất vẫn là những sông nước êm đềm với những cây cầu hẹp và những con thuyền rẽ nước bơi.



Ngược dòng lịch sử, cái tên Amsterdam bắt nguồn từ cộng đồng ngư dân tên Aemstelredamme, nghĩa là con đập chắn dòng sông Amstel, có từ thế kỉ 13 ở Hà Lan. Amsterdam phát triển hàng hải rất nhanh và đến cuối thế kỉ 15 đã thống trị giao thương vùng biển Baltic, chỉ đến hai thế kỉ saumới nhường chỗ cho Pháp và Anh vì không đủ nguồn lực. Amsterdam vẫn còn những cảng biển Hoorn hay Enkhuizen nhộn nhịp tàu bè, nhưng dòng sông Amstel thanh bình xanh ngắt với những hàng cây rợp bóng ngày nay phục vụ du lịch nhiều hơn hàng hải.

Hà Lan là nước duy nhất nằm dưới mực nước biển nên cả đất nước đều rất bằng phẳng, không có đồi núi trùng điệp như những nước láng giềng  châu Âu khác. Amsterdam như nằm trên một vòng tròn, hiếm đường phố nào hoàn toàn là một đường thẳng, xe điện đi trên phố phải qua rất nhiều khúc ngoặt, ai không quen rất dễ say xe. Ngày thứ 2 ở đây, tôi thích thú khi nhìn những bảng chỉ đường thấy rẽ trái hay rẽ phải cũng đều có thể đến cùng một điểm: Nhà ga trung tâm chẳng hạn. Quả thật ngộ.

Và một đặc điểm nữa của thủ đô này mà ai cũng dễ dàng nhận thấy: ở Amsterdam đâu cũng gặp kênh đào và sông nước trong trẻo nên thơ. Không gì bằng thong thả đi bộ dọc theo những quán cà phê vỉa hè Amsterdam hai bên bờ kênh với những ánh nắng lọc qua tán cây rơi lốm đốm xuống đường, những chiếc xe đạp lười biếng dựa trên thanh sắt cầu ngủ trưa chờ chủ. Khi Alastair và tôi đi trên xe điện từ ga Amstel về chợ hoa, tình cờ nhìn thấy ngoài cửa xe cây cầu rộng bắc qua con sông dài được những tia nắng hoàng hôn dát vàng lấp loáng. Chúng tôi vội vã xuống ngay bến tiếp theo để đi bộ ngược lại, ngắm nhìn mặt trời chậm rãi biến vào mây và thuyền gỗ xuôi ngược.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:54:01 | Xem tất
Một trong những điều thú vị nhất đối với du khách Amsterdam vẫn là được ngồi trên một trong những con tàu lớn từ từ rẽ nước. Từ đó đi ngang qua những ngôi nhà có đầu hồi đủ hình dạng độc đáo và những cây cầu thấp đến nỗi thật khó tin tàu có thể chui qua được. Những con kênh hẹp đến nỗi dễ làm cảm giác tàu sẽ đụng vào bờ khi quay đầu nhưng thuyền trưởng người “Hà Lan bay” vẫn rất khéo léo điều khiển tàu xuôi dòng thành phố.

Ngày cuối cùng ở Amsterdam, tôi gọi điện cho anh bạn người Hà Lan, Walter, đang sống ở Utrecht nhưng sinh ra ở Amsterdam và rất rành về thành phố này. Quả thật, người địa phương biết những góc nhìn đẹp mà khách du lịch không dễ nhận ra: anh dẫn hai đứa tôi đến quảng trường Nieuwmarkt (Chợ Mới), nơi tàu thuyền từng neo lại bốc dỡ hàng vào thời hoàng kim của hàng hải Hà Lan. Vùng phía Nam quảng trường trước đây hoàn toàn là nước, sau thế kỉ 16, chính phủ lấp một phần sông Amstel để tạo thành khu phố cho những người Do Thái từ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sang.

Mùa hè năm nay châu Âu rất nóng và Hà Lan cũng không ngoại lệ. Bốn tháng trước đây có cô bạn ở cùng phòng qua Amsterdam lúc nhiệt độ âm hai mươi độ C và tuyết rơi dày đặc nhưng những ngày này nắng vàng tràn ngập khắp nơi và nhiệt kế báo ba tám độ C, nóng như những ngày hè ở Sài Gòn. Chúng tôi đi bộ dọc theo Raamgracht, một trong những con kênh yên bình và đẹp nhất ở đây. Những ngôi nhà dưới bóng râm nở đầy hoa hồng thơm ngát, mở ra con đường Ververstraat hẹp với những kiến trúc xưa và nay hòa hợp cạnh nhau. Chỉ sau 10 phút vừa đi bộ vừa ngắm cảnh đã ra đến Jodenbreestraat, nơi chúng tôi tình cờ xem một buổi biểu diễn tập võ nghệ thuật Hà Lan rất hào hứng bên cầu. Phía tay trái cầu, rất dễ nhận ra một ngôi nhà thật đẹp hơi nghiêng 1 bên, dân địa phương đang lười biếng vừa uống bia vừa sưởi nắng bên những chiếc bàn kê sát bờ kênh trong một buổi trưa chủ nhật rảnh rỗi.

Bên kia đường là ngôi nhà mà danh họa Rembrant từng sống và làm việc. Cạnh đó là một ngôi nhà mang tên “kỉ niệm Hà Lan”, nơi du khách vào xem một cuốn phim tư liệu dài nửa giờ về những cối xay gió, hoa tulip và kênh đào với mong muốn tạo hiệu ứng như thật. Đến đoạn hoa tulip nở, nước hoa được xịt vào phòng tạo mùi thơm thoang thoảng; lúc con đập bị vỡ trên màn hình, nhiệt độ trong phòng giảm xuống đột ngột và những tia nước bắn vào khán giả. Đó là những gì tôi đọc được trong sách và Walter bảo khách du lịch nào chỉ có vài tiếng đồng hồ ở Amsterdam nhưng muốn biết hết về Hà Lan mới vào đó, còn nếu có đủ thời gian thì tự mình khám phá cảnh thật vẫn hay hơn nhiều.

Dân Hà Lan vẫn truyền miệng câu nói tự phê: Rotterdam ( trung tâm kinh tế với cảng biển và nhiều công ty lớn) làm ra tiền, The Hague (thành phố với trụ sở  Chính Phủ Hà Lan và nhiều đại sứ quán) nghĩ ra cách dùng tiền vào việc gì, còn Amsterdam xài tiền. Thủ đô Hà Lan có những khu phố sáng đèn nhộn nhịp 24/24, những quán cà phê, nhà hàng mở cửa thâu đêm hầu hết chỉ dành cho những ai trên 18 hoặc 21 tuổi nên dân châu Âu mỗi lần nghĩ đến một địa điểm ăn chơi thỏa sức là nghĩ ngay đến Amsterdam.

Riêng mình, tôi nhớ đến Amsterdam với hình ảnh những người dân thân thiện và mến khách, sẵn sàng dừng lại chỉ đường khi thấy bạn có vẻ lơ ngơ dù bạn chưa kịp hỏi. Đặc biệt ai cũng nói tiếng Anh lưu loát khác hẳn những nước láng giềng kiêu hãnh như Pháp, Đức, Bỉ, Thụy Sĩ…; thêm nữa là hình ảnh những cô gái Hà Lan không mặc đồ miền quê quàng khăn đi vắt sữa mà xinh xắn trong áo thun 2 dây và váy cotton mùa hè, đạp xe qua những cây cầu làm ai cũng phải ngoái nhìn hoặc những anh chàng Hà Lan giống nhau, cao lớn, tóc vàng, mắt xanh và có khuôn mặt hơi ngồ ngộ như con nít rất dễ nhận ra so với người nước khác.

Và tôi cũng nhớ đến Amsterdam với sông nước êm đềm lặng lẽ chảy qua cầu từ bao thế kỉ trước, nay vẫn tiếp tục chảy níu chân tôi không muốn về…
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:55:35 | Xem tất
Hi Lạp


Ngàn năm Athens


Bạn bè tôi hay hỏi “Đi được những đâu rồi?”, và lắng nghe một cách hờ hững những nơi tôi liệt kê một hơi như được lập trình sẵn. Nhưng mười người như một, cứ đến khi tôi nhắc đến Hi Lạp, ai cũng mắt sáng rỡ lên: “Mình cũng thích Hi Lạp lắm, ước gì được một lần đến Athens!”

Hóa ra nền văn minh cổ đại mấy nghìn năm nay có sức hút mãnh liệt gấp mấy lần những ánh sáng Paris, hội hè Amsterdam, sông nước lãng mạn Venice hay lễ hội bia quốc tế Munich!


Nhưng thành thật mà nói Athens không được “huy hoàng” như tưởng tượng của tôi khi vừa bước ra sân bay. Tôi đến Hi Lạp sau chuyến bay gần bốn giờ đồng hồ từ Thụy Điển – một lộ trình kì quặc vì hai nước nằm ở hai đầu châu Âu, có lẽ không du khách balô nào điên rồ lặn lội một hơi từ cái lạnh cắt da của vùng Scandinavia để đến với những cơn nắng như thiêu vùng Địa Trung Hải. Cảnh vật từ sân bay vào trung tâm thành phố còn đáng ngán ngẩm hơn bội phần: hai bên đường những ngôi nhà bêtông cốt thép vừa mới xây lẫn đang đang xây đều không có chút cá tính riêng nào. Gạch ngói ngổn ngang, đường phố bụi tung mù mịt, nóng bức bối, lại còn kẹt xe! Nhiều khách du lịch châu Âu khi trông thấy Athens đã lập tức “biến” ngay đến những đảo biển xanh nhà trắng êm đềm đẹp như postcard cách thủ đô Hi Lạp không xa , quả cũng có cái lí riêng của họ.

Những bảo tàng dưới chân du khách

Những du khách du lịch vội vàng ấy vì hấp tấp đã bỏ qua bao điều kì diệu mà ngoài không Athens đâu có được. Có thành phố nào trên khắp châu Âu mà thỉnh thoảng bạn lại bắt gặp ngay dưới chân một công trình lộng lây bằng đất và đá được xây dựng vài chục thế kỉ trước, được bảo tồn bằng cách phủ kính dày trong suốt lên để người đi đường sững sờ đứng lại chiêm ngưỡng? Và những công trình như vậy có nhiều đến độ dù  muốn dù không, những người kế thừa nền văn minh ấy không thể bảo tồn trọn vẹn được hết mà phải khai quật lên đưa một phần vào viện bảo tàng.

Ở một ga xe điện, bên trong là cả một bảo tàng nhỏ của riêng nó với những vật trưng bày được tìm thấy khi người ta đào xuống để xây dựng ga. Những bình, chậu, chày cối, nữ trang… chạm khắc từ đất, đá, gốm, đồng, vàng… có thứ được làm từ cách đây năm, sáu ngàn năm, trong vẫn tinh xảo đến mức không thể tin được. Chỉ cần một điểm như thế này thôi cũng đủ là niềm tự hào của nhiều quốc gia khác, nhưng ở đây không ai buồn để ý! Thấy tôi ngơ ngẩn vừa đứng nhìn vừa trầm trồ, cô Gerlinde bảo: “Ngày mai mình đến bảo tàng khảo cổ quốc gia. Ở đó có hàng vạn tác phẩm như thế này, rất nhiều thứ còn xưa hơn nữa”. Cô Gerlinde là mẹ của bạn tôi, một trong số rất nhiều gia đình đến từ những ngước vùng núi Alps lạnh giá, chỉ một lần đến thăm Hi Lạp đã bị đất nước này níu chân, và đã xây những ngôi nhà trắng xinh đẹp kiểu nông dân trên hòn đảo cách thủ đô vài tiếng đi phà.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:56:21 | Xem tất
Kỳ vĩ Đá Thiêng

Chúng tôi lên thành phố Acropolis, còn được gọi là “Đá Thiêng” (Sacred Rock), để chiêm ngưỡng biểu tượng một thời vàng son của văn minh Hi Lạp. Để đến Acropolis nằm trên đồi cao – đúng như tên gọi bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp acro – trên cao, polis – thành phố, chúng tôi băng qua khu phố Plaka thế kỉ 19 thật hội hè với những kệ bán hàng lưu niệm xinh xắn: bánh xà phòng từ dầu oliu nguyên chất được làm bằng tay,chuỗi hạt tròn vo bằng đá có vân hơi đục và lọ mật ong vàng óng ngọt ngào. Bên đường đầy những nhà hàng (taverna) có hoa giấy nở đỏ tường nhà cổ quét vôi vàng nâu đặc trưng Địa Trung Hải, bàn trải khăn caro, với những khách du lịch da dẻ rám nắng vui vẻ nói cười.

Cách đây hơn 25 thế kỉ, sau chiến thắng ở cuộc đua marathon đầu tiên của nhân loại vào năm 490 trước Công Nguyên, người Athens đã đặt những tảng đá đầu tiên làm nền móng thành Acropolis để tôn thờ vị thần hộ mệnh của thành phố - nữ thần Athena Parthenos. Mười năm sau kì công này đã bị người Ba Tư phá hủy. Sau 30 năm tạm ngừng, Periscles bắt tay vào cho xây dựng lại công trình với qui mô hoành tráng gấp nhiều lần

Khi đứng trên đồi cao từ phía bên kia, trông về Acropolis sừng sững trong những cơn gió lồng lộng, sẽ khó tránh khỏi cảm giác ngậm ngùi khi nhìn Athens hiện đại lô xô bên dưới. Nhà cửa xây cất không theo trật tự và những mảng màu xám lấn át cả khu phố cổ nâu vàng có những cây ôliu xanh lúp xúp. Những tòa nhà chung cư bên ngoài đã xuống cấp, tàn tạ, quần áo phơi lung tung không khác những cuốn phim về thời bao cấp ở Việt Nam. (Sau đó tôi tình cờ đọc một bài báo gọi Athens là nơi có những công trình xưa vĩ đại sống sót giữa một biển ximăng). Tôi quay sang, nói đùa với Daniel đang ngồi bên cạnh: “Nếu người Hi Lạp cổ đại sống dậy, chắc sẽ xấu hổ khi thấy những gì thế hệ sau đang làm quá!”. Nói xong, tôi tự nhiên thấy buồn buồn, tiếc cho một nền văn minh huy hoàng đã qua không được kế thừa.

3 ngôi đền nổi tiếng nhất của Acropolis được dựng lên cách đây mấy ngàn năm: Parthenon, Erechtheion và đền Nữ thần Nike. Trên đỉnh cao nhất sừng sững Parthenon bằng đá cẩm thạch với những hàng cột hơi cong, chỗ thuôn nhọn hai đầu, chỗ phồng lên , cố ý chệch hướng với những qui tắc toán học khắt khe để thổi hồn vào đá cứng. Những trụ gạch (Frieze) chạm khắc thật nhiều hình ảnh tinh xảo: hình những nữ thần Hi Lạp cổ đại, thân hình tuyệt mỹ, đầu đội những cổng vòm, hình những vị thần cưỡi ngựa sống động như đang diễn ra trước mắt… Đặc biệt hơn cả là bức trụ ngạch dài hơn 150m, vẽ cuộc diễu hành của 400 người gồm cả người hầu gái, quan tòa, nhạc công và 200 con vật. Vào thời điểm tất cả những bức tượng đều đắp hình thần thánh, việc mô tả người bình thường là một bước đột phá của “Đá Thiêng”. Chỉ trừ hướng cảng, cả thành phố Athens được bao bọc xung quanh là núi. Gió thổi lùa qua những cột cẩm thạch hiu hắt, những tảng đá “xanh ngời liêu trai” từ vài ngàn năm trước xếp chồng rải rác quanh tôi.

Trên chuyến phà về lại đảo Evia, hoàng hôn buông xuống biển xanh nhuộm trời đất mây nước một mầu vàng lộng lẫy. Phía bên kia là Athens, cái nôi của một nền văn minh cổ đại đỉnh cao, thành phố đã cho tôi những cảm xúc đan xen nhau: sững sờ, ngơ ngẩn, thất vọng, tự hào, kính phục, nuối tiếc, vui sướng, buồn bã. Tôi chỉ ở đó trong vòng 24 giờ mà cứ tưởng đã về lại ngàn năm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:57:52 | Xem tất
Đảo Evia và mùa thu Địa Trung Hải


Ngay từ đầu hè, Daniel và tôi đã bàn việc sẽ đi đâu trong tháng bảy, phải là một nơi thật đặc biệt vì đó là tháng sinh nhật của cả hai. Sau nhiều giờ bàn tán, chúng tôi quyết định đi đảo Evia vì tôi luôn ao ước được đi Hi Lạp từ lâu.

Quyết định xong xuôi, do nhiều lý do khác nhau chúng tôi không đến Evia được đành khăn gói đi Tây Ban Nha đúng khu Lloret de Mar, đến nơi mới nhận ra mình quả sai lầm vì đây đúng là một ví dụ kinh điển của việc phát triển du lịch rất “chụp giật”, với những tòa nhà bêtông xấu xí và du khách đông như kiến, ồn ào nốc sangria như nước lã. Ngày cuối cùng, tôi thở dài, than vãn, bây giờ chỉ muốn đi ẩn dật ở một miền quê hẻo lánh không có cảnh đẹp gì đặc biệt, chỉ nằm cả ngày trên võng nghe gà gáy chim hót dưới bóng cây, không đi thăm thú chỗ nào, không viết bài, không chụp ảnh, không gì hết. Daniel bảo: “Vậy tới đảo Evia chắc Uyên thích lắm đó, ở đó không có gì hết trơn, muốn chụp hình hay viết bài cũng không có gì để chụp hay viết. Thôi tháng mười mình đi vậy”.

Vậy là tôi đếm từng ngày tới tháng mười để đi đảo Evia, tiếng Hi Lạp là Euboea, hòn đảo lớn thứ hai ở đất nước mấy mươi ngàn năm lịch sử này. Vì không nổi tiếng với khách du lịch nên Evia rất vắng vẻ và còn giữ lại rất nhiều nét nguyên sơ địa phương dù chỉ cách thủ đô Athens rộn ràng nhộn nhịp hơn một giờ đi phà. Mùa thu Địa Trung Hải, trời còn ấm áp hơn hẳn nơi khác. Những ngôi nhà trắng đứng yên trên đồi, soi bóng xuống biển xanh tĩnh lặng. Ba mẹ Daniel có ngôi nhà nghỉ ở Stira, ngôi làng nhỏ xinh xắn đã từng có mặt trong thiên anh hùng ca Iliad do Homer viết về cuộc bao vây thành Troy của người Hi Lạp. Xe băng qua những dòng suối róc rách chảy qua những cây tiêu huyền gió biển thổi lao xao, qua ngôi nhà bằng đá ong đã đổ nát có lẽ có từ thời cổ đại nằm trơ vơ rồi leo lên đồi cao có mấy cụm xương rồng mọc hoang, đá sỏi lọc cọc. Tôi reo lên thích thú khi thấy nhà ba mẹ anh là một ngôi nhà giản dị quét vôi trắng xóa với cửa sổ màu xanh dương, hàng rào hoa giấy nở đỏ. Tôi mê mẩn những ngôi nhà trắng Hi Lạp, mà theo cô Gerlinde - mẹ anh cho biết, ở Evia chỉ có nông dân nghèo người địa phương và người nước ngoài sang chuộng cái đẹp kiến trúc truyền thống mới xây mà thôi, người Hi Lạp trung lưu và thượng lưu ít ai còn xây những ngôi nhà “quê mùa” này nữa.

Chúng tôi ăn tối trong một tarvena truyền thống đối diện bãi biển, bán toàn những món địa phương nổi tiếng thế giới: salad kiểu Hi Lạp với cà chua xắt múi dày, hành tây tím xắt khoanh, dưa leo giòn tan, trộn phô mai feta làm bằng sữa cừu beo béo, rưới dầu ôliu, giấm cùng những gia vị không tài nào đoán ra; lá nho nhồi cơm cuộn lại hấp; souvlaki: thịt heo hoặc gà tẩm bia và gia vị địa phương, nướng xiên trên than hồng (mỗi miếng nạc xen với một miếng mỡ để khi nướng mỡ chảy xèo xèo thơm phức khắp không gian), uống rượu ouzo thoảng mùi hoa hồi và tráng miệng bằng yaourt không đường, đặc và dẻo quánh, rưới mật ong ngọt ngào tê cả lưỡi. Bữa ăn ngon làm mới ngày đầu tiên tôi đã mê Evia như điếu đổ và hồ hởi trông đợi những ngày thật thư giãn trên hòn đảo êm đềm này.

Quả thật, tôi không mong đợi gì hơn ở một kỳ nghỉ mát đúng nghĩa. Ánh nắng đầu thu không quá gay gắt, tôi nằm cả ngày ngoài sân, hướng ra đại dương mênh mông phẳng lặng dưới đồi. Những cây ôliu trong sân đã đậu trái thon thon xanh ngắt, lá rì rào khi gió biển thổi thoảng qua. Bờ biển trải dài ngút mắt, xanh và êm đềm. Lúc mới đến, tôi ngạc nhiên hỏi tại sao xung quanh ngôi nhà lại rào lưới thưa thấp ngang ngực, làm chắn mất một phần cảnh biển thật đẹp bên dưới, nhưng ai cũng cười tủm tỉm vẻ bí mật. Một buổi chiều, khi tiếng lục lạc ở đâu leng keng vọng lại, mọi người mới bảo: “Thủ phạm làm mình phải dựng rào lưới đây”. A, thì ra tại những chú cừu khờ khạo kia, cứ len vào sân gặm những cây non mới trồng, mục đồng theo không xuể. Các chú nghếch cổ lên nhìn qua hàng rào thưa, chắc tiếc rẻ những búi cỏ bên trong nhà người ta. Người mục đồng già vẫy tay chào cô Gerlinde và chú Peter bằng tiếng địa phương, rồi lùa đàn cừu đi xuống đồi, tiếng lục lạc còn leng keng mãi trong chiều yên ả. Những ngày nắng, không gì bằng ngồi với cả nhà trên bộ ghế đá ngoài sân đợi hoàng hôn. Mặt trời Địa Trung Hải đỏ ối, tròn vành vạnh, loang ra những mảng màu vàng cam trông giống một quả trứng ốp la, hắt xuống nước biển mảng vàng sóng sánh. Tôi có cảm giác chỉ cần một cơn gió mạnh, khối trứng ốp la ấy sẽ rớt xuống nước rồi sôi sùng sục lên như vàng khối đun chảy. Nhưng cuối cùng, mặt trời không rớt mà lặn xuống đường chân trời thênh thang, rất nhanh, làm lần nào tôi cũng ngẩn ngơ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách