Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: chatte
Thu gọn cột thông tin

[Khác - Xuất Bản] Bị Thiêu Sống | Souad

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:03:12 | Xem tất
chương7: chuyện bí mật
Tôi ý thức rất rõ là tôi đã mạo hiểm mạng sống của mình vì một chuyện tình chớm nở cách đây gần hai mươi lăm năm tại ngôi làng chôn rau cắt rốn của tôi ở Cisjordanie. Một ngôi làng nhỏ hồi ấy còn nằm trong vùng đất bị người Isarael chiếm đóng mà cho đến giờ tôi vẫn không thể nói tên. Vì mạng sống của tôi vẫn đang bị đe dọa, dù ở cách xa đó hàng nghìn cây số. Ở đó, tôi đã chính thức chết, mọi người ở đó đã quên sự tồn tại của tôi từ lâu, nhưng bây giờ nếu tôi trở về, người ta sẽ giết tôi lần thứ hai để bảo toàn danh dự gia đình. Đó là một thứ luật quen thuộc từ bao đời.
    Khi đứng trên sân thượng để ngóng đợi sự xuất hiện của người đàn ông tôi yêu, tôi đã trở thành đứa con gái liều mạng. Mặc dù vậy, hồi ấy tôi chỉ nghĩ đến mỗi việc: lấy chồng.
    Dạo ấy đang là mùa xuân. Tôi không thể nói rõ tháng mấy, có thể là tháng Tư. Ở làng tôi, người ta không đếm thời gian theo cách đếm ở châu Âu. Không bao giờ biết chính xác tuổi của cha mình hoặc mẹ mình, càng không thể biết ngày sinh của mình. Người ta dựa theo mùa lễ Ramadan, theo mùa gạt hoặc các vụ thu hoạch quả vả để tính thời gian. Trong quá trình làm việc, người ta theo đúng sự chỉ dẫn của mặt trời, ngày làm việc bắt đầu từ lúc mặt trời mọc và kết thúc khi mặt trời lặn.
    Hồi ấy, hình như tôi chỉ khoảng mười bảy tuổi, sau này tôi mới biết trên giấy tờ, tuổi thật sự của tôi là mười chín. Nhưng tôi không biết đến sự tồn tại của thứ giấy tờ ấy, không biết nó được soạn thảo thế nào. Có thể do mẹ tôi, lúc bị bắt buộc phải khai sinh chính thức cho tôi, đã nhầm lẫn giữa ngày sinh của đứa này với ngày sinh của đứa khác. Tôi đã “chín” kể từ lần có kinh nguyệt đầu tiên và đến tuổi lấy chồng từ ba hay bốn mùa lễ Ramadan trước. Đến ngày đi lấy chồng, tôi sẽ trở thành một người phụ nữ. Mẹ tôi, người mẹ của chính tôi, tuy còn trẻ vậy mà trông đã như một bà già, cha tôi cũng già vì răng ông đã móm gần hết.
    Faiez chắc chắn nhiều tuổi hơn tôi, nhưng đó lại là điều tốt. Tôi chờ đợi anh mang lại cho tôi sự an toàn. Assad, em trai tôi lấy vợ quá sớm, một cô gái cùng tuổi, nhỡ không may cô ta không sinh được con cho nó thì một ngày nào đó, nó sẽ phải tìm đến một cô vợ khác.
    Tôi nghe tiếng bước chân của Faiez trên lớp sỏi trên đường. Tôi đặt tấm da cừu lên sát gờ sân thượng. Faiez ngước mắt nhìn lên. Anh quan sát tôi, tôi biết là anh đã hiểu. Không một dấu hiệu, một lời cũng không, anh lên ôtô và nổ máy chạy. Cuộc hẹn hò đầu tiên của tôi chỉ kéo dài trong khoảng thời gian vừa đủ để ăn một quả ôliu, một cảm xúc không thể nào quên.
    Ngày hôm sau, liều lĩnh và bạo dạn hơn, tôi vờ đuổi bắt một con dê để có cớ đi ngang qua nhà anh. Faeiz mỉm cười với tôi. Lúc ấy, ôtô không chạy ngay, do vậy tôi biết anh nhìn thấy tôi lùa đàn dê đi về phía đồng cỏ. Buổi sáng không khí mát mẻ hơn nhiều nên tôi được dịp mặc chiếc áo len màu đỏ, chiếc áo mới duy nhất của tôi, có hàng cúc cài từ rốn đến cổ khiến tôi trông có vẻ xinh hơn. Nếu tôi có thể đứng giữa đàn cừu nhảy múa thì có lẽ tôi đã nhảy múa rồi. Cuộc hẹn hò thứ hai kéo dài lâu hơn vì lúc rời khỏi làng, khi khẽ quay đầu nhìn lại, tôi trông thấy chiếc ôtô vẫn chưa khởi động.
    Tôi không thể đi xa hơn những tín hiệu đó được. Giờ thì đến lượt anh sẽ phải quyết định làm thế nào để có thể kín đáo nói chuyện với nhau. Anh biết tôi đi đâu và vào lúc nào.
    Ngày hôm sau, mẹ tôi vắng nhà, bà đi cùng cha tôi vào thành phố, em trai tôi ở nhà với vợ nó và chị kainat bận dọn chuồng gia súc và chăm hai đứa nhỏ. Chỉ mình tôi đi cắt cỏ cho đàn thỏ. Đi bộ được mười lăm phút, tôi trông thấy Faiez xuất hiện trước mặt tôi. Anh đã kín đáo đi theo và chào tôi. Cuộc gặp gỡ bất ngờ này làm tôi hoảng sợ. Tôi nhìn quanh, sợ em trai tôi hoặc một chị nào đó trong làng đi đến. Không có ai, nhưng tôi tìm được một chỗ khuất sau bờ dốc khá cao bên cạnh cánh đồng và Faiez đi theo tôi. Tôi cảm thấy xấu hổ, tôi nhìn xuống chân, tôi vò vò chiếc áo dài và rứt hàng cúc trên áo khoác, tôi không biết phải nói gì. Faiez đứng trong một tư thế ung dung, ngậm một cọng lúa xanh giữa hai hàm răng và hỏi tôi:
    “Tại sao em không lấy chồng?
    - Tôi còn phải tìm người đàn ông thích hợp với tôi và đợi chị tôi lấy chồng trước.
    – Cha em có nói gì với em không?
    – Ông có bảo là cách đây khá lâu, cha anh có đến gặp ông.
    – Em sống ở nhà có tốt không?
    – Nếu bắt gặp tôi đứng với anh như thế này cha tôi sẽ đánh tôi ngay.
    – Em có muốn chúng mình lấy nhau không?
    – Nhưng phải đợi cho chị tôi lấy chồng trước đã.
    – Em sợ à?
    Phải tôi sợ. Cha tôi…ông ấy dữ lắm. Nguy hiểm cả cho anh nữa đấy. Ông ấy có thể đánh tôi và cả anh nữa đấy.”
    Faiez vẫn ngồi bình thản đằng sau bờ đất, còn tôi nhanh tay cắt cỏ. Có vẻ như anh đang ngồi chờ tôi dù biết rõ là tôi không thể đi về làng cùng anh.
    – Anh cứ ngồi lại đây để tôi đi về một mình.
    Và tôi đi về thật nhanh, cảm thấy rất tự hào về mình. Tôi muốn tạo ấn tượng tốt, muốn anh coi tôi là một cô gái đứng đắn. Đối với anh, tôi phải rất chú ý đến phẩm giá của mình bởi chính tôi đã quyến rũ anh.
    Chưa bao giờ tôi cảm thấy sung sướng đến thế. Đuợc ở cạnh anh, đứng gần anh, dù chỉ trong vài phút, quả là điều tuyệt vời. Tôi cảm nhận được niềm vui lan toả khắp cơ thể, mặc dù lúc ấy tôi không thể xác định rõ ràng. Tôi quá ngây thơ và tuy tôi được giáo dục không hơn một con dê, nhưng cảm giác tuyệt vời ấy, đó là cảm giác tự do của trái tim và thể xác tôi. Lần đầu tiên trong đời, tôi là một con người vì tôi đã tự quyết định làm những điều cần làm. Tôi đang sống. Tôi không tuân lệnh cha tôi cũng như bất cứ ai khác. Tôi sẽ không vâng lời.
    Ký ức của tôi về những giây phút ấy và về những gì xảy ra sau đó khá rõ ràng. Trước đây ký ức tôi gần như không có gì. Tôi không nhìn thấy tôi, tôi không biết tôi giống cái gì và liệu tôi có xinh hay không. Tôi không có ý thức được mình là một con người, có tư duy, có tình cảm. Tôi biết sợ, biết khát khi trời nóng, biết đau đớn, và tủi nhục khi bị buộc như một con vật trong chuồng gia súc và bị đánh đập đến mức lưng không còn cảm giác. Tôi chịu đựng nỗi kinh hoàng khi nghĩ đễn chuyện bị siết cho ngạt thở hoặc bị ném xuống đáy giếng. Tôi đã ngoan ngoãn hứng chiu quá nhiều trận đòn. Ngay cả những lúc cha tôi không thể chạy nhanh được nữa thì ông cũng có cách tóm được chúng tôi. Với ông, tóm đầu tôi đập liên hồi vào thành bồn tắm để phạt về tội làm đổ nước ra ngoài thật quá dễ dàng. Cũng rất đơn giản khi ông quật túi bụi vào hai chân tôi khi tôi chậm mang chè đến. Khi phải sống theo cách ấy, người ta không thể nghĩ đến bản thân mình được. Cuộc hẹn hò thật sự đầu tiên của tôi với Faiez trên cánh đồng lúa mì xanh mướt đã giúp tôi, lần đầu tiên trong đời, nhận thức được mình là ai. Một người đàn bà đang nóng lòng được gặp lại anh, người đàn bà yêu anh và quyết định trở thành vợ anh bằng mọi giá.
    Hôm sau cũng trên con đường ấy, anh chờ tôi đi ngang qua trên đường ra đồng và đến gặp tôi.
    “Ngoài anh ra, em có để mắt đến những cậu con trai khác không?
    – Không, không bao giờ.
    – Em có muốn anh đến thưa với cha em để được cưới em không?”
    Nghe câu ấy tôi chỉ muốn quì xuống hôn chân anh. Tôi chỉ muốn anh đi ngay lập tức, biết là anh không thể chờ lâu hơn nữa, rằng anh sẽ yêu cầu gia đình mang ngay vàng và đồ trang sức đến cho tôi và chuẩn bị một lễ cưới thật to.
    “Về lần gặp tới đây, anh sẽ ra hiệu cho em. Mà em đi gặp anh đừng mặc cái áo đỏ này nữa nhé, dễ bị người ta chú ý, nguy hiểm lắm.”
    Nhiều ngày trôi qua, mặt trời mọc rồi lặn, và sáng nào, chiều nào tôi cũng lên sân thượng ngóng đợi anh ra hiệu. Bây giờ thì tôi chắc chắn anh đã yêu tôi. Lần hẹn vừa rồi anh không đến. Tôi đã chờ anh rất lâu, hơn mười lăm phút, dù biết có thể về nhà muộn, có thể bị cha tôi bắt gặp. Tôi vừa lo lắng vừa khổ sở, nhưng lần hẹn sau đó thì anh đến. Tôi trông thấy anh đến từ xa, anh ra hiệu bảo tôi trốn ở cuối cánh đồng dằng sau ụ đất, nơi không ai có thể nhìn thấy chúng tôi vì cỏ mọc rất cao.
    “Hôm ấy sao anh không đến?
    – Anh có đến, nhưng anh đứng đằng xa để xem em có gặp người nào khác hay không?
    – Em không nhìn ai cả.
    – Bọn con trai vẫn huýt sáo mỗi khi em đi qua đấy thôi.
    – Mắt em không nhìn sang phải cũng không nhìn sang trái. Em nói thực.
    – Bây giờ thì anh biết rồi. Anh đã gặp cha em. Ít lâu nữa thôi, chúng mình sẽ cưới nhau.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:03:57 | Xem tất
Anh đã làm thế thật, sau lần hẹn thứ hai, anh đã đến gặp cha tôi. Và dù ngày cưới chưa được ấn định chính xác nhưng thế nào tôi cũng đi lấy chồng trước cuối năm.
    Hôm ấy trời đẹp và nắng nóng, tuy chưa đến mùa vả chín nhưng tôi chắc chắn rằng tôi sẽ được mẹ tôi nấu sáp nóng để nhổ lông trước khi mùa hè và vụ gặt bắt đầu. Faiez bước lại gần tôi, thật gần. Tôi nhắm mắt lại, tôi cảm thấy hơi sợ. Tôi thấy anh đặt tay lên sau cổ tôi và anh hôn lên môi tôi. Tôi vội đẩy anh ra và không nói gì nhưng phản ứng của tôi có nghĩa: “Coi chừng đấy. Không được đi xa hơn”.
    “Mai gặp nhau nhé. Em chờ anh nhé, nhưng đừng chờ trên đường nguy hiểm lắm. Em cứ nấp ở đây, trong cái hố này. Lúc nào đi làm về anh sẽ đến.”
    Anh đi về trước. Tôi đợi cho anh đi khá xa rồi mới bước ra và đi về nhà như thường lệ nhưng lần này cảm thấy căng thẳng hơn. Nụ hôn ấy, nụ hôn đầu tiên trong đời đã làm tâm trí tôi xáo trộn. Và ngày hôm sau, khi nhìn thấy anh đi đến chỗ tôi đang nấp, tim tôi run lên. Ở nhà không ai nghi ngờ những cuộc hẹn hò bí mật của tôi. Buổi sáng, thỉnh thoảng chị tôi đưa cừu và dê ra đồng cỏ cùng tôi nhưng thường chị quay về nhà để quét dọn chuồng gia súc và làm việc nhà đến chiều tối, tôi chỉ có một mình. Vào mùa xuân, cỏ mọc cao, đàn cừu mải mê ăn cỏ, chính nhờ chúng mải mê ăn cỏ mà tôi mới dễ dàng đi thong thả một mình. Đó là thứ tự do trái cựa mà gia đình đã ban cho tôi, vì lúc nào cha tôi cũng kiểm soát rất chặt giờ giấc ra đồng và về nhà của tôi. Cả làng, những người hàng xóm vẫn có mặt ở đấy để nhắc nhở tôi không được đi quá xa. Đứng trên sân thượng, tôi bí mật ra hiệu cho Faiez. Một cái khẽ gật đầu tôi biết anh sẽ đến. Nhưng nếu anh bước thật nhanh lên xe, không ngước mắt nhìn lên có nghĩa là anh sẽ không đến. Hôm ấy, tôi biết rằng anh sẽ đến anh đã xác nhận điều đó với tôi. Và tôi linh cảm sắp có chuyện gì đó xảy ra.
    Tôi sợ Faiez không chỉ muốn một cái hôn, nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy ham muốn “cái gì ấy” mà kỳ thực không biết chuyện gì đang chờ đợi mình. Tôi sợ phải đẩy anh ra nếu anh đi quá xa và anh sẽ giận. Tôi cũng đặt niềm tin vào anh vì anh biết rằng tôi không được phép cho anh động vào trước ngày cưới. Anh cũng biết rõ tôi không phải là charmuta. Và anh đã hứa lấy tôi làm vợ. Nhưng tôi vẫn sợ khi ở một mình trên đồng cỏ với đàn cừu. Vừa nấp trong đám cỏ cao tôi vừa trông đàn cừu và trông ra đường. Không một bóng người. Đồng cỏ rất đẹp và có cả những khóm hoa. Mùa này, bọn cừu rất hiền lành, chúng suốt ngày chỉ lo ăn cỏ chứ không tìm cách chạy lung tung như mùa hè, khi cỏ trở nên khan hiếm.
    Tôi ngóng anh đến từ bên phải nhưng Faiez lại đến từ phía khác, đầy bất ngờ. Thế là tốt, anh cẩn thận để không ai trông thấy, anh bảo vệ tôi. Anh đẹp quá. Anh mặc một cái quần bó sát từ thắt lưng đến đầu gối nhưng phía dưới ống lại loe. Đó là thời trang của những ngừơi đàn ông ăn mặc theo phong cách hiện đại, theo phương Tây. Chiếc áo chui đầu của anh màu trắng, dài tay, cổ chữ V để hở đám lông ngực. Tôi thấy anh rất lịch sự, vô cùng sang trọng bên cạnh tôi. Tôi đã nghe lời anh, không mặc chiếc áo len màu đỏ để không bị nhìn thấy từ xa. Chiếc áo dài của tôi màu xám, chiếc saroual của tôi cũng màu xám. Tôi cũng đã cẩn thận giặt thật kĩ quần áo của tôi vì với công việc của tôi, chúng thường rất bẩn. Tôi che mái tóc bằng một chiếc trùm trắng, nhưng tôi vẫn tiếc chiếc áo gi–lê đỏ, tôi vẫn muốn mình đẹp hơn.
    Chúng tôi ngồi dưới đất, anh hôn tôi. Anh đặt tay lên đùi tôi, tôi không để cho anh làm vậy. Anh giận. Anh trở nên hung tợn khi nhìn vào hai mắt tôi:
    “Tại sao em không thích? Cứ để mặc anh!”
    Tôi rất sợ anh bỏ đi, sợ anh tìm người nào khác…Anh có thể làm thế nếu anh muốn. Anh rất đẹp trai, người chồng tương lai của tôi. Tôi yêu anh, tôi không muốn nhượng bộ, tôi sợ lắm, nhưng tôi còn sợ mất anh hơn. Anh là niềm hy vọng duy nhất của tôi. Thế là tôi để cho anh làm, không biết chuyện gì sẽ xảy đến với tôi, và anh sẽ còn làm gì nữa. Anh ngồi đấy, trước mắt tôi, anh muốn chạm vào tôi, ngoài ra không chú ý đến bất cứ cái gì khác. Mặt trời sắp lặn, trời cũng dịu hơn, tôi chẳng còn nhiều thời gian vì còn phải lùa đàn cừu về nhà. Anh đẩy tôi vào bụi cỏ và làm chuyện anh muốn làm. Tôi không nói gì, tôi không có một cử chỉ nào đẩy anh ra. Anh không cuồng bạo, anh không cưỡng ép tôi, anh biết rất rõ mình đang làm gì. Cơn đau đến với tôi đột ngột. Tôi không ngờ lại đau thế nhưng không phải vì đau mà tôi khóc. Anh không nói gì, cả trước lẫn sau, anh không hỏi tại sao tôi khóc và tôi không biết tại sao mình có nhiều nước mắt đến như thế. Nếu anh có hỏi có lẽ tôi cũng không biết trả lời sao. Tôi không muốn trả lời. Tôi còn trinh, tôi không biết gì về chuyện yêu đương giữa nam và nữ, không ai nói cho tôi biết. Từ bé đến lớn, tất cả những gì tôi biết chỉ là người đàn bà phải chảy máu với chồng, thế thôi. Faiez đã làm cái anh muốn, trong im lặng, cho đến lúc tôi chảy máu và lúc ấy anh có vẻ ngạc nhiên, như thể đó là một việc anh không ngờ tới. Có phải anh nghĩ rằng tôi đã từng làm chuyện ấy với những người đàn ông khác? Bởi vì tôi vẫn một mình lùa cừu ra đồng? Chính anh nói rằng anh đã theo dõi tôi, rằng tôi là một thiếu nữ đứng đắn. Tôi không dám nhìn thẳng vào mắt anh, tôi xấu hổ. Anh nâng cằm tôi lên và nói:
    “Anh yêu em.
    – Em cũng yêu anh
    .” Ngay lúc ấy, tôi không hiểu là anh đang tự hào về bản thân mình. Chỉ mãi về sau này, tôi mới giận vì anh đã nghi ngờ trinh tiết của tôi và lợi dụng tôi trong khi anh biết tôi sẽ phải hứng chịu những gì. Tôi không muốn lén lút làm tình với anh trong một cái hố, tôi chỉ muốn cái mà mọi đứa con gái trong làng đều muốn. Được lấy chồng, được mẹ tôi nhổ lông, khoác lên mình một chiếc áo đẹp và đến ngủ ở nhà anh. Tôi muốn, khi mặt trời mọc, anh sẽ giơ cao cho mọi người thấy chiếc khăn trải giường màu trắng có vết máu. Tôi muốn nghe những tiếng hò reo vui mừng của cánh phụ nữ. Anh đã lợi dụng nỗi sợ của tôi, anh biết tôi sẽ nhượng bộ để giữ anh.
    Tôi chạy ra xa, nấp vào một chỗ để chùi vết máu dính trên chân và mặc lại quần áo cho tử tế trong lúc anh bình thản sửa sang lại y phục của mình. Sau đấy, tôi van xin anh đừng bỏ tôi và tổ chức lễ cưới thật nhanh. Một cô gái không còn trinh, đó là tội rất nghiêm trọng, cuộc đời cô ta sẽ kết thúc.
    “Anh không bao giờ bỏ rơi em.
    – Em yêu anh.
    – Anh cũng thế, anh yêu em. Bây giờ em về đi, thay quần áo và hãy làm như không xảy ra chuyện gì hết. Nhất là không được khóc ở nhà.”
    Anh đi về trước. Tôi không khóc nữa nhưng tôi cảm thấy ngây ngấy như lên cơn sốt. Chỗ máu ấy thật kinh khủng. Làm tình với đàn ông chẳng thích thú gì. Tôi thấy đau, tôi cảm thấy mình thật bẩn thỉu và tôi không có nước để rửa, chỉ lấy cỏ chùi tạm, tôi cảm thấy bụng nóng ran và tôi phải tập hợp đàn cừu lại để về nhà với chiếc quần bẩn. Tôi phải lén lút mang đi giặt. Khi đi nhanh trên đường tôi nghĩ là tôi không chảy máu nữa, nhưng tôi tự hỏi sau này, với chồng liệu tôi có bị đau mãi không. Liệu nó có luôn kinh khủng như thế này không?
    Khi về đến nhà, nét mặt tôi có bình thường không? Tôi không khóc nhưng tôi thấy đau bên trong và tôi sợ. Tôi thấy rõ việc tôi đã làm. Tôi không còn là một đứa con gái nữa. Ngày nào mà Faiez còn chưa cưới tôi làm vợ thì ngày ấy tôi còn sống không yên. Đêm tân hôn, tôi sẽ không còn trinh. Nhưng điều đó không quan trọng vì anh biết là tôi còn trinh với anh. Tôi sẽ tự xoay sở, tôi sẽ lấy dao tự cắt vào tay tôi rồi bôi máu lên ga trải giường đêm tâm hôn. Tôi sẽ như tất cả các phụ nữ khác.
    Tôi chờ suốt ba hôm. Tôi lên sân thượng ngóng đợi Faiez ra hiệu hẹn gặp. Lần này anh kéo tôi xuống một hốc đá nhỏ phía bên kia cánh đồng. Chỗ ấy chúng tôi thường chui vào để trú mưa. Lấn này tôi không chảy máu. Tôi vẫn đau nhưng bớt sợ hơn. Anh đã quay lại với tôi, đối với tôi đó mới là điểu quan trọng. Anh ở đó và tôi còn yêu anh nhiều hơn nữa. Những gì anh làm với thể xác tôi không quan trọng, tôi yêu anh bằng tinh thần. Anh là cả cuộc đời tôi, là tất cả hy vọng được ra khỏi nhà của tôi, được làm một người phụ nữ sánh vai cùng chồng ra ngoài phố và cùng người ấy bước lên ôtô đi đến cửa hàng mua quần áo, giày dép, và đi chợ.
    Tôi rất hài lòng được ở bên anh, được thuộc về anh… Anh là một người đàn ông, một người đàn ông thực sự. Tôi thấy rõ đó không phải là lần đầu tiên của anh vì anh biết phải làm thế nào. Tôi tin tưởng vào đám cưới, anh không biết khi nào, tôi cũng không biết, nhưng tôi không hỏi. Trong đầu tôi, đó là chuyện chắc chắn.
    Trong khi chờ đợi cần phải rất cẩn thận để không bị ai tố giác. Trong lần hẹn sắp tới, tôi sẽ đi đường khác. Tôi tính khoảng thời gian phải bỏ thêm và giữa khoảng thời gian ấy, tôi không dám đi qua cánh cổng sắt một mình. Tôi đợi khi có mẹ tôi hoặc chị tôi đi cùng. Tôi luôn rình lúc Faiez đi làm buổi sáng. Vừa nghe thấy tiếng bước chân trên lớp sỏi, tôi vội chạy tới gần bức tường xi măng. Nếu có ai bên ngoài, tôi sẽ quay vào, nếu không có ai, tôi đứng chờ Faiez ra hiệu. Từ hôm tôi không còn trinh, tôi và Faiez đã gặp nhau hai lần. Chúng tôi không thể gặp nhau hàng ngày, như thế thật là khinh suất. Phải đến sáu hôm sau tôi mới nhận được tín hiệu từ Faiez. Tôi vẫn sợ nhưng luôn tin tưởng. Tôi lắng nghe những tiếng động nhỏ nhất ở ngoài đồng. Tôi tránh không ngồi ở vệ đường. Tôi ngồi đợi trong bụi cỏ dưới hố, với cây gậy trên tay, và nhìn đàn ong bay lượn trên những khóm hoa dại. Tôi mơ đến một ngày không xa, ngày mà tôi không còn phải chăn cừu và dê, ngày mà tôi không phải vào chuồng gia súc dọn phân. Anh sắp đến, anh yêu tôi và khi anh đứng dậy ra về tôi sẽ nói với anh như đã nói trong hai lần gặp trước: “Đừng bỏ em anh nhé!”
    Lần thứ ba chúng tôi làm tình với nhau. Mặt trời đổi sang màu vàng, tôi phải về nhà vắt sữa cừu và sữa bò. Tôi nói:
    “Em yêu anh. Anh đừng bỏ em, Khi nào anh trờ lại?
    – Mình không thể gặp nhau ngay được. Phải đợi một thời gian. Cần phải thận trọng.
    – Đợi đến khi nào?
    – Đến khi anh ra hiệu cho em.”
    Hồi ấy chuyện tình của tôi kéo dài được khoảng mười lăm ngày, thời gian đủ cho ba lần gặp nhau ngoài bãi chăn. Faiez có lý khi bảo phải thận trọng, và tôi, tôi cũng phải kiên nhẫn, đợi cha mẹ tôi báo cho biết tin tôi sắp lấy chồng như từng nói với chị Noura. Cha tôi không thể chờ để gả chị Kainat trước tôi được nữa! Bởi vì Faiez đã hỏi cưới tôi, và vì chị Kainat đã trở thành gái già ở tuổi hai mươi, cha tôi có thể gả tống tôi vì ông còn hai đứa con gái! Khadija và Salima, đến lượt hai đứa nó sẽ phải cùng mẹ tôi trông coi đàn gia súc và mùa màng. Fatma, em dâu tôi lại có thai, chắc cũng sắp sinh. Nó cũng có thể làm việc. Tôi chờ đợi số phận của mình với đôi chút lo lắng vì số phận ấy không phụ thuộc vào tôi. Nhưng tôi đã phải chờ đợi quá lâu. Ngày nối ngày trôi qua mà Faiez vẫn chưa ra hiệu hẹn gặp. Nhưng mỗi tối, tôi vẫn hy vọng trông thấy anh xuất hiện, như anh vẫn làm, không biết từ đâu, từ bên phải hay bên trái cái hố tôi vẫn nấp.
    Một buổi sáng, khi đang đứng trong chuồng ngựa, tôi cảm thấy khó chịu trong người. Mùi phân ngựa làm đầu óc tôi choáng váng. Khi chuẩn bị bữa ăn, thịt cừu làm tôi buồn nôn. Tôi trở nên căng thẳng, tôi muốn khóc hay ngủ một cách vô cớ. Mỗi lần từ trong nhà bước ra, Faiez đưa mắt nhìn chỗ khác, không ra hiệu cho tôi nữa. Thời gian cứ dài ra, rất dài, và tôi không biết lần gần nhất tôi có kinh là khi nào và đến bao giờ thì có lại.Tôi thường nghe mẹ tôi hỏi chị Noura:
    “Mày có kinh chưa?
    – Có rồi mẹ ạ.
    – Vậy thì không phải rồi.”
    Hoặc: “Mày mất kinh phải không? Như thế là có mang rồi đấy!”
    Và tôi không thấy kỳ kinh của tôi đến. Hàng ngày, tôi tự kiểm tra đến mấy lần. Lần nào đi vệ sinh, khi chỉ có mình tôi, tôi cũng nhìn xem đã có máu chưa. Nhiều lúc tôi thấy trong người rất lạ và niềm hy vọng trở lại. Nhưng vẫn không phải. Và tôi sợ, sợ đến nỗi cổ họng bị thắt lại như sắp sửa nôn. Tôi thấy trong người không còn như trước, tôi không muốn làm việc, tôi không muốn thức dậy. dậy. Chu kì tự nhiên của tôi đã thay đổi.
    Tôi cố tìm một lý do nào khác với lý do kinh khủng nhất. Tôi tự hỏi liệu có phải việc không còn trinh đã gây ra một cú sốc khiến người con gái thay đổi như thế. Có lẽ kinh nguyệt của tôi không thể có lại ngay được? Tôi không thể hỏi ai về lối giải thích ngây ngô đó. Chỉ cần một câu hỏi nhỏ liên quan đến vấn đề này, tôi sẽ phải chịu sự trừng phạt của Đấng Tối cao.
    Tôi cứ nghĩ mãi đến việc ấy, từng thời điểm trong ngày và nhất là ban đêm, khi tôi nằm ngủ bên cạnh các chị em tôi. Nếu tôi có thai, cha tôi sẽ trùm ngay tấm da cừu lên đầu làm tôi chết ngạt. Sáng ra tôi rất mừng vì mình vẫn còn sống.
    Tôi sợ có ai trong gia đình nhận thấy tôi không bình thường. Tôi buồn nôn trước món cơm tẩm đường, buồn ngủ khi quét dọn chuồng gia súc. Tôi cảm thấy mệt, hai má tôi tái xanh, thế nào mẹ tôi cũng nhìn thấy và sẽ hỏi có phải tôi ốm không. Tôi chưa từng ốm bao giờ. Vì vậy tôi lẩn trốn, tôi giả vờ khoẻ mạnh, nhưng ngày càng khó khăn hơn. Và Faiez vẫn không thấy đến. Anh vẫn bước lên ôtô với bộ quần áo đẹp, với chiếc cặp đựng giấy tờ, với đôi giày bóng loáng, và anh phóng nhanh đến nỗi cát tung mù mịt. Mùa hè đã bắt đầu. Vừa sáng sớm không khí đã nóng như nung. Tôi phải đưa đàn cừu đi từ lúc bình minh và lùa chúng về nhà khi trời chưa quá nóng. Tôi không thể ngóng anh trên sân thượng được nữa, trong khi tôi cần phải nói với anh về đám cưới. Vì trên mũi tôi bỗng nhiên xuất hiện một vết rất lạ. Một vết nhỏ màu nâu mà tôi đã cố che lại vì biết như thế có nghĩa là gì. Chị Noura khi có thai cũng có một cái vết như thế, mẹ tôi nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên:
    “Mày đã làm gì thế?
    – Chỉ là nước lá móng thôi. Con sơ ý quệt lên mặt.”
    Thực ra tôi đã cố ý lấy nước lá móng bôi lên mũi. Nhưng trò gian dối này không kéo dài được lâu. Tôi có thai và từ hơn một tháng nay, tôi không gặp lại Faiez.
    Tôi nhất định phải gặp anh để nói cho anh biết. Một buổi chiều, khi ấy mặt trời chưa lặn hẳn, tôi ra vườn đun nước làm như để giặt quần áo rồi tôi mang quần áo lên sân thượng, vào sát giờ mà tôi biết Faiez sắp về. Lần này tôi gật đầu ra hiệu cho anh và tôi còn nhấn mạnh bằng cử chỉ để anh hiểu rằng: “Em muốn gặp anh, em đến chỗ đó, anh phải theo em đến đó…”
    Anh đã nhìn thấy tôi và tôi vội vàng chạy đi, thay vì vào chuồng gia súc trông nom một con cừu đang ốm như đã nói với mọi người. Con cừu ấy cũng đang ốm thật, nó sắp đẻ và đây không phải lần đầu tiên tôi có mặt bên nó. Có lần, tôi còn ngủ suốt đêm trên đống rơm để đề phòng khi nó kêu thì tôi nghe thấy ngay.
    Anh đến chỗ hẹn sau tôi và ngay lập tức, anh tìm cách làm tình với tôi, anh đinh ninh rằng tôi gọi anh chỉ vì chuyện ấy. Tôi lùi lại:
    “Không, không phải vì thế mà em muốn gặp anh.
    – Vậy tại sao?
    – Em muốn nói với anh.
    – Chúng ta sẽ nói chuyện sau…Lại đây đi!
    – Anh không yêu em phải không? Chúng ta không thể gặp nhau chỉ để nói chuyện được à?
    – Có, anh yêu em đấy chứ. Anh yêu em đến nước mỗi lần gặp em, anh chỉ muốn em.
    Anh Faiez này, lần đầu tiên chúng ta gặp nhau, em không muốn gì cả, sau đó anh đã hôn em và em đã chấp nhận anh ba lần. Em không có kinh nữa rồi.
    – Có thể chỉ muộn hơn mọi lần chăng?
    – Không, em chưa bao giờ muộn cả, và em thấy trong người lạ lắm.” Cơn thèm muốn của anh biến mất. Tôi thấy rõ khuôn mặt anh: anh trở nên trắng bệch.
    “Vậy chúng ta phải làm gì?
    – Chúng ta phải cưới nhau thật nhanh, ngay bây giờ! Chúng ta không thể chờ được nữa, cần phải đến gặp cha em, ngay khi không có cả lễ cưới, em cũng không quan tâm!
    – Người trong làng sẽ dị nghị mất. Không làm thế được.
    – Chúng ta sẽ phải làm sao để có khăn trải giường treo trên ban công?
    – Em cứ yên tâm, anh đã có cách, anh sẽ lo chuyện đó. Nhưng chúng ta không thể làm đám cưới nhỏ được, chúng ta đã nói sẽ làm một đám cưới thật to. Anh sẽ đến thưa chuyện với cha em. Ngày mai em đợi anh ở đây, cũng vào giờ này nhé.
    – Nhưng không phải lúc nào em cũng ra đây được. Anh là đàn ông, anh muốn làm gì thì làm…Anh hãy đợi đến khi em ra hiệu cho anh. Nếu đi được, em sẽ vén tóc lên cho anh thấy. Còn nếu không thấy em bỏ cái khăn trùm đầu ra thì anh đừng đến.”
    Ngày hôm sau, tôi đánh liều bảo với mọi người là đi lấy cỏ cho con cừu đang ốm. Tôi ra hiệu và chạy đến chỗ hẹn, vừa chạy vừa run. Cha tôi không nói gì và tôi cũng không nghe thấy gì. Tôi sợ đến nỗi thở không ra hơi. Khoảng nửa giờ sau Faiez mới đến. Do thật trọng, tôi tấn công ngay:
    “Tại sao anh không đến gặp cha em?
    – Anh không dám nhìn thẳng vào cha em. Anh sợ quá.
    – Nhưng anh phải nhanh lên chứ, hôm nay là gần hai tháng rồi. Ít lâu nữa bụng em sẽ to ra, lúc đó em biết phải làm thế nào?”
    Và tôi bắt đầu khóc, anh nói với tôi:
    “Em nín đi, không được khóc khi về nhà đâu đấy. Mai anh sẽ đến gặp cha em.”
    Tôi đã tin anh, rất muốn tin anh. Vì tôi yêu anh và tôi có nhiều lý do chắc chắn để hy vọng vì anh từng đến gặp cha tôi để hỏi cưới tôi. Tôi hiểu anh sợ không dám nhìn thẳng vào cha tôi. Giải thích tại sao anh muốn cưới tôi gấp như thế không phải là chuyện đơn giản. Khi phải đối mặt với tính nghi kỵ và hung bạo của cha tôi, anh sẽ phải giải thích thế nào đây để không phải nói ra điều bí mật, không làm mất danh dự của tôi và của anh trước mọi người trong gia đình?
    Đêm ấy, như thường lệ, tôi lại cầu nguyện. Cha mẹ tôi rất sùng đạo, mẹ tôi thường đến đền thờ hành lễ. Mỗi ngày, bọn con gái phải đọc kinh hai lần ở trong nhà. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, tôi tạ ơn Đấng Allah đã phù hộ cho tôi còn sống.
    Khi tôi lên trên sân thượng thì chiếc ôtô của Faiez đã đi mất. Tôi quay ra làm việc như thường lệ, chăm sóc con cừu ốm, quết dọn chuồng gia súc, và tôi lùa chúng ra đồng, hái cà chua.
    Tôi đợi cho đến đêm. Tôi sợ đến nỗi đã nhặt một hòn đá to, và tôi tự đập vào bụng với hy vọng sẽ có kinh trở lại và mọi việc sẽ lại đâu vào đấy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:04:47 | Xem tất
chương 8: cuộc hẹn cuối cùng
Đêm xuống. Tôi chờ đợi một cách tuyệt vọng, mong được trông thấy Faiez đến, một mình hoặc đi cùng cha mẹ anh, nhưng tôi biết chắc anh sẽ không đến. Giờ đã quá muộn rồi. Và chiếc ôtô không đậu trước nhà anh, các cửa sổ cũng đóng im lìm.
    Đó thực là thảm hoạ lớn đối với tôi. Suốt đêm tôi không ngủ được, cố nghĩ rằng anh đi thăm gia đình ở nơi nào đó và chỉ vì trời nóng nực nên mới phải đóng kín các cửa sổ.
    Kể cũng thật kỳ lạ, không ngờ mấy tuần lễ đó của đời tôi lại được in sâu trong ký ức tôi đến như vậy. Từ trước đến giờ, tôi phải rất khó khăn mới hình dung được quãng đời thơ ấu của mình, ngoài những hình ảnh đau lòng không có lấy một giây phút hạnh phúc hay bình yên dù nhỏ nhất, tôi không bao giờ quên những khoảnh khắc tự do vụng trộm đó, nỗi sợ hãi và niềm hy vọng. Đêm ấy, tôi thấy rõ hình ảnh tôi nằm dưới tấm da cừu, hai tay ôm bụng, lắng nghe từng tiếng động nhỏ trong bóng tối. Ngày mai anh ấy sẽ đến, ngày mai anh ấy sẽ không đến…Anh ấy sẽ cứu mình, anh ấy sẽ bỏ rơi mình…Nó như một khúc nhạc vang mãi trong đầu tôi.
    Sáng hôm sau, tôi nhìn thấy chiếc ôtô đỗ trước nhà anh. Tôi tự nhủ: “Anh ấy còn sống!” Có một tia hy vọng. Tôi không thể ngóng nhìn anh đi làm nhưng buổi chiều ấy, khi anh đi làm, nhưng buổi chiều hôm ấy, khi anh đi làm về, tôi đã ở trên sân thượng. Tôi ra hiệu theo cách đã giao ước từ trước để hẹn gặp anh ngày mai trước lúc mặt trời lặn.
    Và cuối buổi chiều hôm đó, trước lúc mặt trời lặn, tôi đi lấy cỏ khô cho đàn cừu. Tôi chờ mười phút, rồi mười lăm phút, hy vọng có lẽ anh nấp quanh đâu đấy. Lúa mì đã gặt xong nhưng ở một vài chỗ trên cánh đồng, tôi vẫn có thể nhặt được nhiều bó cỏ khá to và tôi lấy rơm buộc lại. Tôi xếp chúng thành hàng dài ở vệ đường và tranh thủ buộc sẵn. Tôi làm rất nhanh nhưng vẫn cẩn thận chừa lại ba bó chưa buộc để không bị lúng túng nếu có ai đi qua vì ở chỗ tôi đứng rất dễ bị nhìn thấy. Tôi chỉ cần giả vờ lom khom trên các bó cỏ và làm như đang rất bận rộn làm việc, một việc mà tôi đã làm xong. Như thế tôi sẽ có mười lăm phút rảnh tay trước khi trở về nhà. Tôi nói với mẹ tôi là tôi sẽ mang cỏ khô về trong khoảng nửa giờ. Vào giờ ấy, đàn cừu đã về chuồng, lũ dê và lũ bò cũng thế. Tôi chỉ còn việc vắt sữa, làm pho mát cho ngày hôm sau. Tôi viện ra đủ cớ để đến được những cuộc hẹn ấy. Tôi ra giếng lấy nước cho gia súc, công việc này tính ra cũng phải mất nhiều chuyến đi đi về về với một cái xô to đội thật vững trên đầu. Tôi phải kiếm cỏ non cho đàn thỏ, phải ra đồng mót lúa cho bầy gà mái…Tôi muốn ra xem các quả vả đã sắp chín chưa, tôi muốn hái mấy quả chanh về làm bếp hoặc ra quạt lò nướng bánh mì cho than củi cháy bùng lên…
    Luôn phải cảnh giác đối với những bậc cha mẹ thường xuyên để mắt xem con gái của họ đang làm gì. Con gái có thể làm khối việc… Nó bước ra ngoài sân ư? Nó ra ngoài sân để làm gì? Có phải nó hẹn với thằng nào ở phía sau lò bánh mì? Nó đi ra giếng? Nó có mang cái xô theo không? Hình như cừu và bò đã uống nước rồi mà? Nó đi lấy cỏ khô? Nó sẽ mang về bao nhiêu bó?
    Buổi chiều hôm ấy, tôi kéo lê cái bao tải đi từ bó cỏ này sang bó có khác. Tôi nhặt thật nhanh cho vào đầy bao và tôi đợi, tôi đợi mãi. Tôi biết, như thường lệ, cha tôi đang ngồi dưới ngọn đèn trước nhà, phì phèo chiếc tẩu như một ông vua, trên tay cầm sẵn chiếc thắt lưng da để đợi xem tôi có về nhà đúng giờ không. Ông đếm từng phút. Ông có một chiếc đồng hồ và tôi nói là đi nửa tiếng thì sẽ là đúng nửa tiếng kém một phút nếu tôi không muốn đánh bằng thắt lưng.
    Tôi chỉ còn ba bó cỏ chưa buộc. Nền trời chuyển sang màu xám, sắc vàng của mặt trời nhạt dần. Tôi không có đồng hồ nhưng tôi biết tôi chỉ còn mấy phút nữa trước khi màn đêm ập xuống rất nhanh trên đất nước tôi. Người ta nói rằng mặt trời quá mệt khi phải chiếu sáng cho chúng ta nên mặt trời rọi xuống nhanh như một hòn đá và để lại chúng ta trong bóng tối.
    Tôi mất hết hy vọng. Thế là hết. Faiez đã bỏ rơi tôi. Tôi về tới nơi. Không thấy ôtô của anh đậu trước nhà. Sáng hôm sau, tôi thức dậy, vẫn không thấy xe của anh đâu.
    Thế là hết thật rồi. Không còn hy vọng gì để sống và tôi đã hiểu. Faiez đã lợi dụng tôi, đối với anh, đó là một trò vui. Nhưng với tôi thì khác.
    Tôi cắn ngón tay mình, nhưng đã quá muộn. Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại anh nữa. Một tuần lễ sau, tôi không còn tìm cách lên sân thượng để ngóng chờ anh nữa. Các cửa sổ của ngôi nhà màu hồng đóng kín bưng, anh đã bỏ trốn với chiếc xe. Tôi không thể xin ai giúp đỡ.
   

- o O o -

    Đến tháng thứ ba hay thứ tư gì đó, bụng tôi bắt đầu to ra. Tôi còn giấu được cái bụng lùm lùm của mình dưới lớp áo dài, nhưng mỗi lần tôi xách một cái xô hay đội một vật nặng lên đầu, lưng ưỡn lên và hai tay giơ cao thì tôi phải rất cố gắng để mọi người không nhìn thấy nó. Còn vết nâu trên mũi, tôi đã cố chà xát thật mạnh để xoá nó đi nhưng vẫn không xoá được. Tôi không thể làm như lần trước là dùng nước lá móng, mẹ tôi sẽ không tin.
    Vào ban đêm, nỗi sợ lại tăng lên. Tôi thường xuyên ngủ với đàn cừu. Lý do thì lúc nào cũng có sẵn: Khi một con cừu cái sắp đẻ, nó kêu ầm lên như con người, và nếu người ta không nghe thấy nó kêu thì cừu con có thể bị chết ngạt trong bụng mẹ.
    Thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến con cừu cái đẻ khó ấy. Tôi phải nhẹ nhàng luồn tay vào tận trong nó để xoay đầu cừu con về đúng hướng và lôi ra. Tôi không dám làm nhanh, sợ làm con mẹ đau nên loay hoay mãi tôi mới lôi được cừu con ra ngoài. Tội nghiệp, con cừu mẹ. không rặn được nữa và tôi phải giúp nó. Khoảng một giờ sau, cừu mẹ chết.
    Con cừu mới sinh là một con cái. Nó lẽo đẽo theo tôi như một đứa bé. Mỗi lần trông thấy tôi đi đâu là nó cất tiếng gọi tôi. Tôi vắt sữa của những con cừu cái khác rồi đổ vào bình cho nó bú. Dạo ấy tôi khoảng mười lăm tuổi. Tôi đã đỡ đẻ cho nhiều còn cừu cái nhưng chỉ còn nhớ duy nhất kỷ niệm ấy. Con cừu con ấy theo tôi ra vườn, nó trèo lên cầu thang trong nhà. Tôi đi đâu nó cũng lon ton chạy theo sau. Cừu mẹ chết nhưng cừu con còn sống…
    Thật lạ khi nghĩ rằng người ta có thể vất vả đến thế để đỡ đẻ cho con cừu còn mẹ tôi lại làm cho những đứa con của mình chết ngạt. Hồi ấy, tôi hoàn toàn không nghĩ đến điều đó. Đó là một tục lệ cần phải tuân theo. Bây giờ, khi để cho những hình ảnh ấy lần lượt hiện trong ký ức, tôi thấy không thể chấp nhận được. Nếu tôi nhận thức được như bây giờ, có lẽ tôi đã bóp chết mẹ tôi để cứu dù chỉ một đứa trong số bé gái sơ sinh ấy.
    Đối với một người đàn bà đã quen phục tùng đến mức đó thì việc giết những đứa bé gái là chuyện bình thừơng. Đối với một người cha như cha tôi thì chuyện lấy kéo cắt lông cừu để cắt trụi tóc con gái mình cũng là chuyện bình thường. Đánh chúng bằng thắt lưng da hoặc bằng gậy cũng là chuyện bình thừờng. Trói chúng suốt đêm trong chuồng gia súc, giữa đàn bò cũng là chuyện bình thừơng. Cha tôi sẽ làm gì nếu biết tôi có thai? Chị Kainat và tôi đều cho rằng bị trói trong chuồng gia súc là điều tệ hại nhất có thể xảy đến cho chúng tôi. Hai tay bị trói ngoặt ra sau lưng, khăn phu–la nhét vào miệng để không thể kêu la và hai chân bị buộc chặt bằng sợi dây thừng đã được dùng để đánh mình. Câm lặng, mắt mở thao láo suốt đêm. Chúng tôi chỉ còn biết nhìn nhau và cùng nghĩ đến một điều: “Một khi chúng tôi còn bị trói nghĩa là chúng tôi vẫn còn sống.”
    Thế rồi một hôm, trong lúc tôi đang giặt quần áo thì cha tôi đến. Tôi nghe tiếng chân ông bước khập khiễn sau lưng và tiếng gậy khua lộc cộc trên mặt sân. Ông dừng lại sau lưng tôi, tôi không dám đứng lên:
    “Tao chắc là mày đã có chửa rồi.”
    Tôi thả rơi cái áo đang giặt xuống chậu và tôi không còn sức để ngước nhìn ông. Tôi không thể ra vẻ ngạc nhiên hay bị sỉ nhục. Tôi không thể nói dối nếu tôi nhìn vào mắt ông.
    “Không phải thế đâu cha!
    – Sao lại không phải! Mày cứ nhìn lại mình mà xem! Người thì xù ra! Và cái vết kia nữa, mày bảo là nước lá móng, sau đó là bị rám nắng! Mẹ mày sẽ khám vú của mày.”
    Vậy là mẹ tôi nghi tôi đã có thai. Và cha tôi đến để ra lệnh cho tôi.
    “Cởi áo ra cho mẹ mày xem.”
    Rồi cha tôi xách gậy bỏ đi, không nói thêm một lời nào. Ông không đánh tôi. Tôi cũng không chối cãi, mồm tôi như bị khâu lại. Tôi nghĩ rằng lần này thế là hết, tôi sẽ chết. Sau đó đến lượt mẹ tôi. Bà đi quanh cái chậu chậu của tôi, hai tay chống nạnh. Bà có vẻ bình tĩnh nhưng cứng rắn.
    “Bây giờ mày ngừng lại, không giặt giũ gì nữa! Mau giở vú ra tao xem!
    – Không, con xin mẹ! Con ngượng lắm!”
    – Mày cho tao xem hay đợi tao xé rách áo của mày?” Thế là, tôi cởi hết hàng cúc từ cổ xuống ngực và tôi vén áo lên.
    “Mày có thai phải không?
    – Không phải đâu mẹ!
    – Mày có kinh không?
    – Có!
    – Lần sau mày có kinh, mày đưa cho tao xem!”
    Tôi vâng bừa để khỏi bị quấy rầy thêm, để mẹ tôi bớt giận, và để tôi được an toàn. Tôi biết là đến tuần trăng sau, thế nào tôi cũng phải tự cắt tay mình, lấy máu bôi lên tờ giấy và đưa ra cho mẹ tôi xem.
    Tôi bỏ chậu quần áo ở đấy, tôi băng qua khu vườn để ra khỏi nhà mà không xin phép ai và tôi trèo lên nấp trên cành chanh già. Đi trốn theo cách ấy kể ra cũng ngốc, cây chanh không thể cứu nổi tôi, nhưng lúc đó tôi sợ đến nỗi không biết mình đang làm gì. Cha tôi lập tức đi tìm, và ông tìm thấy tôi đang trèo như một con dê giữa đám lá. Ông chỉ cần nắm chân tôi kéo cho tôi rơi xuống.
    Một bên đầu gối tôi bị chảy máu và ông đưa tôi về nhà. Ông lấy lá cây từ bi nhai và đắp lên vết thương cho tôi để cầm máu. Thật lạ lùng. Tôi không hiểu sao sau khi làm tôi ngã một cách bất ngờ như vậy, giờ ông lại cất công chăm sóc cho tôi, một điều mà từ trước đến nay ông không bao giờ làm. Tôi tự nhủ rằng, cuối cùng, ông không phải là người hung dữ. Ông đã tin câu trả lời của tôi. Nhưng khi đã có thời gian ngẫm lại, tôi luôn tự hỏi không biết có phải ông làm thế chỉ vì một lý do đơn giản, ông nghĩ rằng tôi có thể dùng máu ấy để nói dối là tôi đã có kinh…
    Sau cú ngã ấy, tôi thấy đau bụng và tôi hy vọng sẽ có kinh trở lại.
    Ít lâu sau có một cuộc họp gia đình mà tôi không được phép tham dự. Cha mẹ tôi đã gọi chị Noura và anh Hussein đến. Tôi nấp sau bức tường dỏng tai nghe. Bốn người họ cùng bàn bạc và tôi nghe cha tôi nói: “Tao chắc chắn rằng nó đã có chửa nhưng nó không chịu nói cho chúng ta, hãy đợi xem nó có kinh không…”
    Ngay khi mọi người bàn bạc xong xuôi, tôi trèo lên gác giả vờ ngủ.
    Ngày hôm sau, cha mẹ tôi vào thành phố. Tôi bị cấm không được đi đâu. Cổng nhà bị khoá chặt nhưng tôi vẫn băng theo lối vường sau và trốn ra ngoài đồng. Cầm một hòn đá to, tôi đập liên tiếp vào bụng, đập qua lớp áo, để máu chảy ra. Chưa có ai nói cho tôi biết em bé trong bụng mẹ lớn lên như thế nào. Tôi chỉ biết đến một lúc nào đó, em bé sẽ bắt đầu cử động. Tôi đã trông thấy mẹ tôi có thai và tôi biết phải mất bao nhiêu lâu để em bé chào đời, nhưng những chuyện còn lại tôi hoàn toàn mù tịt. Kể từ lúc nào thì em bé có sự sống? Theo tôi là từ lúc nó được sinh ra vì tôi thấy lúc ấy, mẹ tôi sẽ quyết định để cho nó được được sống hay bắt nó phải chết. Trong khi có thai được ba tháng rưỡi hay bốn tháng, điều mà tôi hết sức mong mỏi là có kinh trở lại. Tôi chỉ nghĩ đến mỗi điều đó. Tôi thậm chí không nghĩ rằng đứa trẻ trong bụng tôi đã là một con người.
    Và tôi khóc vì giận, vì sợ bởi tôi vẫn chưa có kinh, vì cha mẹ tôi sắp về và tôi phải có mặt ở nhà trước khi họ về đến nơi.
    Cho đến giờ, kỉ miệm đó vẫn còn nhức nhối trong tôi…tôi cảm thấy tội lỗi vô cùng. Dù tôi đã cố tự nhủ rằng hổi đó tôi ngu dốt, tôi kinh sợ những gì đang chờ đợi tôi, nhưng quả tình là một cơn ác mộng mỗi khi nghĩ đến việc tôi đã cầm hòn đá đập vào bụng mình để đứa con của chính mình không thể tồn tại được nữa.
    Và ngày hôm sau cũng thế, tôi đập vào bụng mình bằng bất cứ cái gì có trong tay, và bất cứ khi nào có thể. Mẹ tôi đang đợi. Bà đã hạn cho tôi một tháng kể từ ngày tôi buộc phải để cho bà khám vú. Tôi biết bà đang nhẩm tính ngày tháng trong đầu, và trong suốt thời gian đó, tôi không được đi ra ngoài. Tôi bị giữ lại trong nhà và chỉ được làm những việc nội trợ. Mẹ tôi bảo: “Mày không được ra khỏi cửa! Mày không đi chăn cừu nữa! Mày cũng không đi lấy cỏ khô.”
    Tôi có thể thoát ra theo lối sân sau, băng qua các mảnh vườn, nhưng để đi đâu? Tôi chưa bao giờ đi xe khách một mình, tôi không có tiền, hơn nữa, dù trong trường hợp nào, bác tài xế cũng không cho tôi bước lên xe.
    Có lẽ tôi đã có mang đến tháng thứ năm. Tôi thấy cái thai trong bụng đang quẫy đạp và tôi lao vào tường như một con điên. Tôi không nói dối được nữa, không giấu được cái bụng to vượt mặt và đôi vú đã thâm quầng. Tôi không còn lối thoát.
    Thế rồi một ý nghĩ bỗng nhiên này ra trong đầu tôi, một ý nghĩ duy nhất nhưng xem chừng có thể thực hiện được: trốn khỏi nhà và đến ở nhà dì tôi. Bà ấy cũng ở trong làng. Tôi biết nhà dì ấy. Thế là vào một buổi sáng, nhân lúc cha mẹ tôi đi chợ, tôi băng qua vườn, tôi đi ngang cái giếng, tôi nhảy qua bờ đất và chạy thẳng tới nhà dì tôi. Tôi không hy vọng nhiều vì dì ấy có tiếng là khó tính, lại ghen tỵ với mẹ tôi vì những lý do mà tôi không biết. Nhưng biết đâu, bà ấy sẽ bằng lòng cho tôi ở lại và tìm được một giải pháp. Thấy tôi đến một mình, bà lo lắng hỏi ngay cha mẹ tôi đâu. Tại sao họ không cùng đến với tôi?
    “Dì phải giúp con dì ạ.”
    Và tôi kể hết mọi chuyện, lễ cưới đã dự kiến và bị hoãn, cánh đồng lúa mì.
    “Là ai thế?
    – Anh ấy tên là Faiez nhưng bây giờ anh ta không còn ở làng nữa rồi, anh ta đã hứa…
    – Được rồi, tao sẽ giúp mày.” Bà đi mặc áo, trùm khăn và nắm tay tôi.
    Bà đi mặc áo, trùm khăn và nắm tay tôi.
    “Đi với tao. Đi một vòng loanh quanh đây với tao.
    – Nhưng đi đâu? Dì định làm gì?
    – Cứ đi với tao. Đưa tay đây cho tao. Không nên để người trong làng thấy mày đi một mình.”
    Tôi nghĩ là bà định đưa tôi đến nhà một người phụ nữ nào khác, một bà hàng xóm biết bí quyết làm cho tôi có kinh trở lại hoặc ngăn không cho đứa bé trong bụng tôi tiếp tục lớn lên. Hoặc mang tôi đi giấu ở một nơi nào đó cho đến lúc tôi sinh nở xong.
    Nhưng bà lại đưa tôi trở về nhà. Bà kéo tôi như kéo một con lừa đang đứng ì ra không chịu bước tới.
    “Tại sao dì lại đưa con về nhà? Xin dì giúp con với. Con van dì đấy!
    – Bởi vì đây là nhà của mày. Người lo liệu mọi chuyện cho mày là cha mẹ mày chừ không phải tao.
    – Con van dì, dì ở lại với con! Dì cũng biết khi con về nhà việc gì sẽ xảy đến với con mà!
    – Đó là nhà mày! Hiểu tao nói gì chứ? Không được đi đâu nữa!”
    Bà bắt tôi phải bước qua cửa, gọi cha mẹ tôi ra rồi quay đi không ngoảnh đầu nhìn lại. Tôi thấy sự độc ác, khinh bỉ biểu hiện trên nét mặt bà. Có lẽ bà đang nghĩ: “Chị mình đang có một con rắn độc trong nhà. Đứa con gái này đã làm ô danh cả gia đình.”
    Cha tôi đóng ngay cánh cửa lại và mẹ tôi trừng mắt nhìn tôi, vừa hất hàm vừa giơ cao bàn tay như muốn nói: “Charmuta…con chết tiệt…mày dám trốn sang nhà dì mày hả!” Hai bà vốn ghét nhau. Người này gặp tai hoạ thì người kia mừng lắm.
    “Phải, con đến nhà dì ấy, con nghĩ dì ấy có thể giúp con, che chở cho con…
    – Vào trong ngay! Đi lên phòng ngay!”
    Tôi run bắn lên, hai chân sắp khuỵu xuống. Tôi không biết việc gì sẽ đón chờ tôi một khi bị nhốt trong phòng. Tôi không tài nào nhấc chân lên được.
    “Souad! Mày có đi vào không?”
    Chị tôi cũng ngoảnh mặt không nói một lời. Chị cũng cảm thấy xấu hổ như tôi, và cũng không bước chân ra khỏi nhà. Mẹ tôi vẫn làm việc như thường lệ, hai đứa em trông nom đàn gia súc, còn tôi thì bị giam giữ như một đứa bị dịch hạch. Thỉnh thoảng, tôi nghe mẹ tôi và các chị em nói chuyện với nhau. Họ sợ có ai đó nhìn thấy tôi trên đường, sợ mọi người bàn tán. Việc tôi tìm cách thoát thân và trốn sang nhà dì tôi đã làm mẹ tôi cảm thấy nhục nhã hơn ai hết. Hàng xóm sẽ biết, miệng họ sẽ nói và tai họ sẽ nghe.
    Kể từ hôm đó, tôi không được thò mặt ra ngoài nữa. Cha tôi đã lắp trên cửa phòng tôi một cái khoá mới và tối nào nó cũng kêu đánh tách một cái như súng nổ. Cánh cửa ngoài vườn cũng kêu đánh tách như thế.
    Những lúc quét dọn ngoài sân, thỉnh thoảng tôi nhìn cánh cửa ấy và cảm thấy tim mình như thắt lại. Không bao giờ tôi thoát khỏi đó được. Tôi cũng không nhận thấy một cánh cửa như thế thật là ngớ ngẩn vì khu vườn và bờ tường đá được đắp lên để che chắn cánh cửa đó không phải là những chướng ngại vật không thể vượt qua. Trước đây tôi đã nhiều lần trèo qua. Nhưng đối với một đứa con gái đang ở vào tình cảnh của tôi, bị giam giữ thế này là an toàn nhất. Bên ngoài kia sẽ tồi tệ hơn. Bên ngoài sẽ là nhục nhã, là khinh bỉ, sẽ bị ném đá, hoặc những người hàng xóm phỉ nhổ, túm tóc lôi xềnh xệch về nhà. Tôi không dám nghĩ đến chuyện thò mặt ra ngoài. Rồi nhiều tuần trôi qua. Không ai hỏi han gì đến tôi, không ai muốn biết kẻ nào đã gây ra chuyện đó và cũng không ai muốn biết tại sao và như thế nào. Dù tôi có khai ra Faiez chăng nữa, cha tôi cũng không đi tìm anh để gả tôi cho anh. Đó là lỗi của tôi, không phải của anh. Một người đàn ông nếu lấy được cái ngàn vàng của một người con gái vẫn được xem là không có tội, vì chính cô ta đã muốn như thế. Và đáng xấu hổ hơn, chính cô ta đã yêu cầu như thế! Chính cô ta đã quyến rũ người đàn ông bởi vì cô ta là một con đĩ không biết đến danh dự. Tôi không có gì để tự bào chữa. Sự ngây ngô của tôi, tình yêu của tôi dành cho Faiez, lời hứa hôn của anh, thậm chí những lời anh dạm hỏi với cha tôi, tất cả đều không nghĩa lí gì. Ở đất nước chúng tôi, người đàn ông biết tự trọng không bao giờ cưới một cô gái đã thất thân với chính mình trước ngày cưới.
    Faiez có yêu tôi không? Không. Tôi đã phạm sai lầm khi tin rằng tôi có thể giữ chân anh bằng cách làm tất cả những gì anh muốn. Tôi yêu anh chăng? Hay tôi sợ anh đi tìm một người con gái khác? Lời bào chữa này không có giá trị gì…ngay cả tôi cũng thấy nó vô nghĩa.
    Một buổi tối, lại có cuộc họp mới trong gia đình: có cha mẹ tôi, chị Noura và anh Hussein chồng chị. Em trai tôi, Assad không có mặt vì vợ nó sắp sinh con. Nó đến nhà cha mẹ vợ để chăm sóc Fatma.
    Tôi đứng sau bức tường rình nghe và thất kinh. Mẹ tôi bảo Hussein:
    “Việc này không thể sai Assad được. Nó không đủ khả năng và nó còn ít tuổi quá!
    – Tôi sẽ giải quyết nó!”
    Đến lượt cha tôi lên tiếng:
    “Nếu có làm, anh phải làm thật chu đáo. Anh định thế nào?
    – Cha mẹ đừng lo, tôi sẽ có cách.”
    Mẹ tôi lại nói:
    "Anh phải giải quyết nó cho tôi, nhưng phải dứt điểm một lần cho xong.”
    Tôi nghe chị Noura khóc và nói rằng chị không muốn nghe việc đó và chị chỉ muốn về nhà. Hussein bảo chị chờ một lát rồi nói tiếp với cha mẹ tôi:
    “Cha mẹ cứ đi. Hai người không nên có mặt ở đấy. Khi cha mẹ về, mọi việc sẽ êm xuôi.”
    Chính tai tôi đã nghe bản án tử hình dành cho tôi. Tôi vội chạy lên cầu thang vì chị Noura sắp bước ra. Tôi không nghe được đoạn tiếp theo của cuộc họp. Một lúc sau, cha tôi đi một vòng quanh nhà và cánh cửa phòng bọn con con gái đóng sập lại.
    Tôi không ngủ được. Tôi không thể tin những gì tôi đã nghe. Tôi tự nhủ: đó chỉ là một giác mơ chăng? Hay là một cơn ác mộng? Họ sẽ làm vậy thật sao? Hay họ chỉ doạ tôi sợ thôi? Nếu làm thật thì bao giờ? Bằng cách nào? Bằng cách chặt đầu tôi chăng?
    Có lẽ họ sẽ đợi đến khi tôi sinh em đứa bé xong rồi mới giết tôi sau? Nếu đứa bé là con trai họ có giữ nó lại không? Nếu nó là con gái, liệu mẹ tôi có bóp chết nó hay không?
    Hay họ sẽ giết tôi trước?
    Ngày hôm sau, tôi vẫn giữ vẻ bình thường làm như không nghe thấy gì. Tôi cẩn thận đề phòng nhưng tôi vẫn thật sự không tin. Thế rồi tôi lại run lên và tin đó là thật. Chỉ còn hai câu hỏi: bao giờ và ở đâu. Việc ấy không thể làm ngay vào lúc này…Vả lại Hussein đã đi rồi. và tôi không thể tưởng tượng nổi Hussein lại muốn giết tôi!
    Hôm ấy, lấy giọng thản nhiên nhất, mẹ tôi bảo tôi:
    – Đã đến lúc mày phải mang quần áo đi giặt rồi đấy. Tao và cha mày phải đi lên thành phố đây.
    Tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra. Cha mẹ tôi sẽ đi khỏi nhà như Hussein nói.
    Gần đây khi nhớ lại cái chết của Hanan, tôi mới nhận ra rằng đáng ra tôi cũng chết như thế. Cha mẹ đi vắng cả, bọn con gái ở nhà một mình với anh em trai. Trong trường hợp của tôi, chỉ khác là Hussein chưa thấy đến. đến. Tôi nhìn ra sân. Khoảng sân rất rộng, được lát gạch một phần, phần còn lại phủ bằng cát. Một bức tường có hàng rào sắt với những chấn song vừa cao vừa nhọn bao quanh. Và ở một góc sân, cánh cổng màu xám, mặt trơn nhẵn quay vào sân, không ổ khoá cũng không chìa khoá, với mỗi tay nắm độc nhất phía ngoài.
    Chị Kainat không bao giờ giặt quần áo với tôi vì công việc này không cần đến hai người.
    Tôi không biết hôm nay mẹ tôi giao cho chị làm những việc gì, cũng không biết chị và hai đứa em gái đi đâu. Chị không nói chuyện với tôi nữa. Chị nằm ngủ cạnh tôi, nhưng quay lưng lại phía tôi kể từ hôm tôi tìm cách trốn sang nhà dì tôi.
    Mẹ tôi đợi tôi đi gom tất cả quần áo bẩn cần phải giặt. Số quần áo bẩn rất nhiều vì thường chúng tôi chỉ giặt quần áo một tuần một lần. Nếu bắt đầu giặt khoảng hai, ba giờ chiều thì cũng không thể giặt xong trước sáu giờ tối.
    Trước tiên, tôi ra cái giếng ở cuối vườn lấy nước. Tôi xếp củi đốt lửa và tôi đặt cái thùng to đùng để nấu quần áo lên trên rồi đổ nước ngập đến nửa thùng. Sau đó, tôi ngồi trên một tảng đá đợi nước sôi.
    Cha mẹ tôi bước ra ngoài bằng lối cổng chính và bao giờ cũng khoá cửa trước khi đi.
    Tôi thì ở phía bên này, trong sân. Tôi luôn tay cời than, giữ cho lửa lúc nào cũng cháy đượm vì nước trong nồi phải thật nóng để cho quần áo vào. Sau đó tôi xát xà phòng dầu ôliu lên các vết bẩn và tôi quay ra giếng lấy nước để xả quần áo.
    Đây là một công việc vừa mất thời gian vừa mệt nhọc mà tôi đã phải cáng đáng nhiều năm nay, nhưng vào lúc này tôi cảm thấy nó trở nên vô cùng nặng nề.
    Tôi ngồi đấy, hai chân để trần, ngồi trên phiến đá, mặc cái áo vải xám, mệt mỏi vì sợ hãi. Tôi cũng không biêt mình đã có thai với nỗi sợ hãi ấy trong bụng từ bao nhiêu lâu rồi nữa. Có lẽ cũng đã hơn sáu tháng. Chốc chốc tôi nhìn ra cánh cổng đằng kia, ở cuối sân rộng mênh mông. Tôi nhìn nó như thôi miên.
    Nếu Hussein đến, anh ta chỉ có thể đi vào bằng cánh cổng ấy thôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:05:35 | Xem tất
chương 9: HỎA HÌNH
    Đột nhiên, tôi nghe thấy cánh cổng đóng sập lại. Anh ta kia rồi, anh ta đang tiến lại gần.
    Hai mươi lăm năm sau, tôi vẫn thấy lại những hình ảnh đó, như thể thời gian đã ngưng lại. Đó là những hình ảnh cuối cùng của quãng đời trước của tôi, ở đó, trong ngôi làng của tôi ở Cisjordanie. Chúng lướt qua thật chậm như trong các bộ phim truyền hình. Chúng không ngừng hiện ra trước mắt tôi. Tôi muốn xóa tất cả, ngay khi những hình ảnh đầu tiên xuất hiện, nhưng tôi không thể dừng bộ phim được. Khi nghe thấy tiếng sập cổng thì đã quá muộn, tôi không thể ngừng lại, tôi cần xem lại những hình ảnh ấy vì lúc nào tôi cũng muốn hiểu một việc mà tôi chưa hiểu: anh ta đã làm như thế nào? Hồi ấy, nếu tôi kịp hiểu ra, liệu tôi có thoát khỏi anh ta không?
    Anh ta tiến lại gần tôi. Hussein, anh rể tôi, mặc đồ bảo hộ lao động, một chiếc quần âu cũ với áo cộc tay. Anh ta đến trước mặt tôi và mỉm cười: "Chào, khỏe chứ?". Anh ta nhai một cọng cỏ trong mồm và vẫn mỉm cười: "Tôi sẽ lo cho cô".
    Nụ cười đó... Anh ta nói sẽ lo cho tôi, một điều mà tôi không trông đợi. Tôi cũng mỉm cười để cảm ơn anh ta nhưng không dám nói gì.
    "Bụng cô xem chừng đã khá to rồi đấy?"
    Tôi cúi đầu, xấu hổ không dám nhìn anh ta. Tôi cúi thấp hơn nữa, trán chạm vào đầu gối.
    "Cả cái vết kia trên mặt nữa….. Cô cố ý bôi nước lá móng phải không?
    – Không, em chỉ bôi trên tóc, em không cố ý…..
    – Cố ý hẳn đi rồi, để che cái vết…."
    Tôi nhìn đống quần áo mà tôi đang vò trên đôi tay run bắn.
    Đó là hình ảnh bất động và rõ ràng cuối cùng. Đống quần áo tôi đang vò dở và đôi tay run lẩy bẩy của tôi. Những tiếng cuối cùng của anh ta mà tôi nghe được là: “Cố ý hẳn đi rồi, để che cái vết.”
    Rồi anh ta không nói gì nữa, tôi vẫn cúi đầu vì xấu hổ, cảm thấy bớt sợ vì không nghe thấy anh ta nói thêm câu nào khác.
    Bất thình lình, tôi cảm thấy có cái gì đó lạnh ngắt đang chảy trên đầu tôi. Và ngay sau đó, người tôi bốc cháy. Tôi hiểu ngọn lửa do đâu và thước phim quay nhanh hơn, các hình ảnh cũng hiện ra rất nhanh. Tôi bắt đầu chạy chân đất khắp vườn, tôi đập hai tay lên tóc, gào thét thật to và cảm thấy chiếc áo của mình đang bay phấp phới phía sau lưng. Không biết lửa có bén sang áo của tôi không?
    Tôi ngửi thấy mùi xăng và tôi chạy. Bị đuôi áo làm vướng chân nên tôi không chạy được những bước dài. Tôi chỉ còn biết nghe theo bản năng, nghe theo sự thúc giục của nỗi kinh hoàng, chạy xa cái sân. Tôi chạy về phía vườn vì không còn lối thoát nào khác. Nhưng sau đó tôi gần như không còn nhớ gì nữa. Tôi chỉ biết là tôi đã chạy với ngọn lửa trên người và kêu thét thật to. Tôi đã làm thế nào để chạy thoát? Anh ta có đuổi theo tôi không? Hay anh ta đứng đợi lúc tôi ngã xuống để xem tôi bị thiêu trong ngọn lửa.
    Rõ ràng tôi đã trèo qua bước tường thấp trong vườn để chạy sang vườn hàng xóm hoặc chạy ra đường. Có mấy người phụ nữ, hình như là hai người, vậy là chắc chắn tôi đã chạy ra đường và họ cố dập tắt ngọn lửa trên người tôi. Bằng khăn trùm đầu của họ, tôi đoán như vậy.
    Họ dẫn tôi ra con suối của làng và nước đổ ào lên người tôi giữa lúc tôi tiếp tục kêu thét vì kinh sợ. Tôi nghe thấy tiếng la hét của họ, những người phụ nữ đó, nhưng mắt tôi không thấy gì cả. Đầu tôi cúi gập xuống xuống ngực, tôi cảm thấy có dòng nước lạnh đang chảy, chảy không ngừng và tôi kêu đau vì dòng nước lạnh như thiêu đốt tôi. Tôi nằm co quắp, tôi ngửi thấy mùi thịt cháy, mùi khói bốc lên. Có lẽ tôi bị ngất đi. Tôi không nhìn rõ được. Chỉ còn vài hình ảnh mơ hồ, vài tiếng động như thể tôi đang ngồi trên chiếc xe tải nhỏ của cha tôi. Nhưng người lái không phải cha tôi. Tôi nghe thấy mấy người phụ nữ đang khóc thương cho tôi. "Tội nghiệp con bé”, "Tội nghiệp"... Họ an ủi tôi. Tôi đang nằm trên một chiếc ôtô. Tôi cảm thấy bị xóc nẩy khi xe chạy trên đường. Tôi nghe thấy tiếng rên rỉ của chính tôi.
    Và rồi không nghe thấy gì nữa và rồi lại nghe có tiếng động của chiếc xe và giọng nói của mấy người phụ nữ. Tôi cảm thấy nóng rực như thể ngọn lửa vẫn đang tiếp tục cháy trên người tôi. Tôi không sao ngẩng đầu đầu lên được, và không thể cử động thân mình, không thể cử động hai tay, tôi đang cháy, vẫn đang cháy... Mùi xăng từ người tôi bốc lên nồng nặc. Nghe tiếng động cơ ôtô, tiếng than khóc của mấy người phụ nữ nhưng tôi không hiểu gì cả, tôi không biết họ mang tôi đi đâu. Mỗi lần mở hé mắt, tôi chỉ thoáng thấy một mảng áo hoặc một mảng da của tôi. Nó đen sì và bốc mùi. Nhưng tôi vẫn thấy nóng mặc dù không còn lửa trên người. Trong tâm trí, tôi vẫn đang chạy với ngọn lửa cháy ngùn ngụt trên người.
    Tôi sắp chết. Cũng tốt thôi. Có lẽ tôi đã chết rồi. Cuối cùng, tất cả đã kết thúc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:06:06 | Xem tất
chương 10: chết
Tôi nằm trên một cái giường trong bệnh viện, co quắp dưới lớp chăn mỏng. Một cô y tá lột áo của tôi ra. Cô ta nắm mép vải, giật mạnh và cơn đau làm tôi tê liệt. Tôi gần như không nhìn thấy gì nữa, cằm tôi như dính vào ngực và không thể ngóc đầu dậy. Hai tay tôi cũng không thể cử động. Tôi thấy đau khắp người, trên đầu, trên vai, trên lưng, trên ngực. Tôi bốc mùi. Cô y tá độc ác đến nỗi mỗi khi trông thấy cô ta bước vào tôi lại thấy sợ. Cô ta không nói gì với tôi. Cô ta chỉ đến giật từng mảng da còn bám trên người tôi, áp lên đó một miếng gạc và cô ta bỏ đi. Nếu có thể làm cho tôi chết, có lẽ cô ta đã làm rồi, tôi chắc chắn như vậy. Tôi là một đứa con gái hư hỏng, nếu người ta thiêu sống tôi thì cũng bởi tại tôi là một đứa con gái không chồng mà lại có thai. Tôi đáng bị như vậy. Tôi biết cô ta nghĩ gì về tôi.
    Tối đen. Hôn mê. Đã bao nhiêu lâu rồi? Bao nhiêu ngày? Bao nhiêu đêm?...
    Không ai muốn sờ vào tôi, không ai muốn chăm sóc tôi, không ai cho tôi ăn, không ai cho tôi uống, họ chỉ đợi tôi chết.
    Tôi rất muốn được chết vì tôi xấu hổ khi thấy mình còn sống. Tôi đau đớn xiết bao. Tôi muốn được xoa dầu lên da để làm dịu vết bỏng. Tôi muốn có ai nhấc chiếc chăn mỏng đang đắp trên người để tôi nguội đi một chút. Một bác sĩ đang có mặt ở đây. Tôi nhìn thấy phần chân ông ta và vạt áo blouse trắng. Ông ta nói nhưng tôi không hiểu. Vẫn luôn là cô y tá ấy, đến rồi đi. Tôi có thể cử động hai chân. Thỉnh thoảng, tôi nhấc chân nâng tấm chăn mỏng lên. Tôi cảm thấy phía sau lưng đau như dần, ở cạnh sườn tôi cũng thấy đau. Tôi nằm ngủ, đầu cúi gập dính sát vào ngực như lúc tôi đang bị ngọn lửa đốt cháy.
    Hai tay tôi trông rất kì lạ, hơi khuỳnh ra và cả hai tay đều bị liệt. Hai bàn tay tôi vẫn nguyên vẹn nhưng không còn giúp gì được. Tôi rất muốn gãi cho đỡ ngứa, rất muốn rứt bỏ lớp da để khỏi bị đau đớn nữa.
    Họ bắt tôi phải đứng lên. Tôi bước đi với cô y tá ấy. Tôi cảm thấy hai mắt tôi đau nhức. Tôi nhìn thấy hai chân tôi, nhìn thấy hai bàn tay tôi đang buông thõng hai bên người, nhìn thấy sàn gạch lát. Tôi căm ghét cô y tá. Cô ta đưa tôi vào một gian phòng và mở vòi nước rửa ráy cho tôi. Cô ta bảo tôi hôi đến mức khiến cô ta buồn nôn. Tôi hôi quá, tôi bật khóc, tôi đứng đó như một thứ cặn bã gớm ghiếc, như một sinh vật thối tha đang bị người ta lấy một xô nước giội vào. Như bãi phân trong phòng vệ sinh, người ta giật nước đổ ào cuốn đi, thế là hết. Mày chết phắt đi cho rảnh. Dòng nước giật bong lớp da tôi, tôi kêu thét, tôi khóc, tôi van xin, máu chảy đến các đầu ngón tay. Cô ta bắt tôi phải đứng như thế mãi. Cô ta dùng vòi nước gỡ những mẩu thịt cháy đen, những mảnh quần áo còn sót lại, rác rưởi hôi hám đọng lại thành một đống nhỏ trên sàn phòng tắm. Người tôi bốc mùi thối rữa, mùi thịt cháy, mùi khói nồng nặc đến nỗi cô y tá phải đeo khẩu trang và chốc chốc lại chạy ra ngoài, vừa ho sù sụ vừa luôn mồm rủa tôi.
    Tôi khiến cô ta cảm thấy phát tởm. Lẽ ra tôi phải chết đi như một con chó, nhưng phải xa chỗ cô ta. Tại sao cô ta không làm tôi chết luôn cho xong? Tôi quay về giường nằm, vừa thấy nóng ran vừa thấy lạnh buốt trong người và cô ta quăng chiếc chăn mỏng lên tôi để khỏi phải nhìn thấy tôi nữa. Cái nhìn của cô ta như muốn bảo tôi: “Chết nhanh đi. Chết nhanh để người ta mang mày vứt đi chỗ khác”.
    Cha tôi ngồi đó với cây gậy của ông. Ông đang nổi giận, ông đập gậy xuống đất, ông muốn biết ai đã làm tôi có thai, ai đã đưa tôi vào đây và sự việc xảy ra như thế nào. Hai mắt ông đỏ ngầu. Ông khóc, người đàn già ấy, nhưng ông vẫn làm tôi sợ với cây gậy của ông và tôi không thể trả lời ông được. Tôi sắp ngủ, hay sắp chết, hoặc sắp thức dậy, cha tôi vẫn ngồi đó, rồi không thấy ông đâu nữa.
    Nhưng tôi không nằm mơ, giọng nói của ông vẫn còn vang trong đầu tôi: “Nói đi!”
    Tôi gượng ngồi lên một chút, tựa đầu vào gối để khỏi phải cảm thấy hai tay bị dính chặt vào tấm chăn mỏng. Không có gì làm tôi bớt đau nhưng tôi có thể nhìn thấy những việc đang diễn ra trong hàng lang qua cánh cửa đang hé mở. Tôi nghe thấy có ai đang đi vào, tôi nhìn thấy hai bàn chân trần, một dáng người nhỏ nhắn như tôi, mảnh khảnh, gần như là gầy guộc. Không phải cô y tá mà là mẹ tôi.
    Với hai bím tóc được vuốt mượt bằng dầu ôliu, chiếc khăn trùm màu đen, trán bà gồ lên thật kì quái, gồ lên giữa hai cặp lông mày và dính liền vào mũi, trông bà chẳng khác nào một con chim ưng hoặc con diều hâu. Bà làm tôi sợ. Bà ngồi trên ghế đẩu, tay ôm giỏ xách, và bà bắt đầu sụt sùi khóc, khịt mũi, vừa lấy khăn mùi soa lau nước mắt vừa lắc lắc đầu.
    Bà khóc vì buồn phiền và hổ thẹn. Bà khóc cho chính bà và cho gia đình. Tôi nhìn thấy nỗi căm hận hằn rõ trong mắt bà.
    Bà tra vấn tôi trong khi tay vẫn ôm khư khư cái giỏ xách sát vào người. Nó rất quen thuộc với tôi. Lúc nào đi đâu bà cũng mang nó theo, lúc đi chợ hoặc khi ngoài đồng. Trong giỏ bà để bánh mì, một chai nhựa đựng nước, nước, có khi đựng sữa. Như thường lệ, tôi cảm thấy sợ, nhưng không sợ như lúc phải đối mặt với cha tôi. Cha tôi có thể giết chết tôi, nhưng mẹ tôi thì không. Bà hỏi tôi, bà tra vấn tôi bằng giọng rên rỉ, còn tôi trả lời bằng giọng thì thào.
    “Nhìn tao đây, con ơi…Thế này thì tao không thể đưa mày về nhà được nữa rồi, mày không thể về sống ở nhà được nữa rồi. Mày đã nhìn thấy mày rồi chứ?
    – Con có nhìn thấy được con đâu.
    – Mày bị bỏng khắp người. Cả nhà đang xấu hổ. Giờ thì tao không thể đưa được mày về nhà. Hãy nói cho tao biết làm thế nào mà mày có thai? Với đứa nào?
    – Faiez. Con không biết họ của bố anh ấy.
    – Faiez bên hàng xóm ấy à?”
    Bà lại tiếp tục khóc, vo tròn cái khăn mùi soa và châm lên mắt như thể bà muốn ấn sâu cái khăn vào trong đầu.
    “Mày làm chuyện ấy ở đâu? Ở đâu?
    – Ngoài đồng.”
    Bà nhăn mặt, bặm môi và khóc to hơn.
    “Nghe tao này, con ơi, nghe này. Tao rất muốn mày chết, mày nên chết đi là hơn. Em trai mày vẫn còn trẻ, mày mà không chết thì nó sẽ gặp rắc rối.”
    Em trai tôi sẽ gặp rắc rối. Rắc rối gì cơ chứ? Tôi không hiểu.
    “Cảnh sát đã đến nhà gặp gia đình ta. Gặp tất cả mọi người trong gia đình. Cha mày, em trai mày, mẹ mày, anh rể mày, tóm lại là tất cả mọi người trong gia đình. Nếu mày không chết, em trai mày sẽ bị lôi thôi với cảnh sát ngay.”
    Có lẽ bà đã lấy cái cốc từ trong giỏ vì xung quanh tôi chẳng thấy gì hết. Bàn kê cạnh giường cũng không. Không, tôi không trông thấy mẹ tôi lục tìm trong giỏ, bà đã lấy cái cốc bên mép cửa sổ, đó là cái cốc của bệnh viện. Nhưng tôi không trông thấy bà rót cái gì vào đấy.
    “Nếu mày không uống cái này thì em trai mày sẽ phải gặp rắc rối ngay. Cảnh sát đã đến nhà ta.”
    Có phải bà đã rót cái gì đấy vào cốc trong khi tôi mải khóc vì xấu hổ, vì đau đớn, vì sợ? Tôi đã khóc vì nhiều thứ, đầu gục xuống, nhắm mắt lại.
    “Uống đi con…Mẹ đưa cho mày uống đấy.”
    Không bao giờ tôi quên được cái cốc to ấy, đầy đến tận miệng. Trong ly là một thứ nước trong veo, trong như nước lã.
    “Cứ uống đi, như thế em trai mày sẽ không gặp lôi thôi. Như thế là tốt hơn cả. Tốt cho mày, cho tao, cho cả em mày nữa.”
    Rồi bà khóc. Tôi cũng khóc. Tôi còn nhớ những giot nước mắt chảy trên những vết bỏng ở cằm tôi, chảy dài trên cổ, những giọt nước mắt ấy cào cấu da thịt tôi.
    Tôi cố nhấc tay lên nhưng không được. Chính mẹ tôi đã luồn tay đỡ dưới đầu tôi, bà nâng đầu tôi về phía cái cốc bà đang cầm. Cho đến lúc đó, tôi chưa được ai cho uống gì cả. Bà đưa cái cốc to ấy ghé sát miệng tôi. Tôi định ít nhất cũng nhúng môi vào vì tôi khát nước quá. Tôi cố nhìn lên nhưng tôi không thể.
    Đột nhiên, ông bác sĩ bước vào và mẹ tôi giật bắn người. Ông ta giằng lấy cái cốc, ông ta đặt mạnh xuống và quát lên thât to: “Không được!”
    Tôi nhìn thấy chất lỏng trong cốc sánh ra mép cửa sổ, chảy dài xuống thành cốc, trong veo như nước lã.
    Ông bác sĩ nắm tay mẹ tôi kéo ra khỏi phòng. Tôi vẫn dán mắt vào cái cốc, thèm được uống cả những giọt đang loang trên sàn gạch, tôi muốn được thè lưỡi liếm như một con chó. Tôi đang rất khát, muốn được uống cũng như được chết.
    Ông bác sĩ quay vào và bảo tôi:
    “Cô còn may lắm nên tôi mới đến kịp lúc đấy. Hôm nọ là cha cô, hôm nay lại đến mẹ cô! Từ giờ trở đi, người nhà cô sẽ không được vào đây nữa!”
    Ông mang cái cốc đi và nhắc lại:
    “Cô gặp may đấy nhé…Tôi không muốn thấy người nhà cô đến đây nữa!
    – Nhưng Assad em trai tôi, tôi muốn được gặp nó, nó rất tốt.”
    Tôi không nhớ ông ấy đã trả lời tôi như thế nào. Tôi cảm thấy rất lạ, mọi thứ trong đầu tôi đang rối tung lên. Mẹ tôi đã nhắc đến cảnh sát, đến chuyện em trai tôi có thể sẽ gặp rắc rối? Tại sao lại là nó? Chính Hussein đã tẩm xăng thiêu tôi cơ mà? Cái cốc đó là để cho tôi chết. Trên mép cửa sổ vẫn còn vết hoen. Mẹ tôi mong tôi chết, tôi cũng mong thế. Tuy nhiên tôi vẫn còn may mắn, ông bác sĩ bảo thế, vì ông đã kịp ngăn tôi uống thứ thuốc độc không hình dạng ấy. Tôi cảm thấy như được giải thoát, như thể cái chết đã mê hoặc được tôi và chỉ trong một giây, ông bác sĩ đã khiến nó phải biến đi. Mẹ tôi là một người mẹ tuyệt vời, người mẹ tốt nhất. Khi đưa cho tôi cốc thuốc độc, bà đã làm tròn bổn phận của mình. Như thế sẽ tốt hơn cho tôi. Không nên cứu tôi khỏi bị lửa thiêu, không nên đưa tôi đến đây để tôi phải chịu đau đớn và phải đợi quá lâu để được chết, để xoá đi nỗi nhục của chính tôi và của tất cả mọi người trong gia đình.
    Ba bốn ngày sau, em trai tôi đến. Không bao giờ tôi quên chiếc túi xách bằng nhựa trong ấy. Nhìn qua lớp nhựa, tôi thấy có vài quả cam, và một quả chuối. Từ lúc vào đây, tôi không được ăn uống gì. Không ai tìm cách giúp đỡ tôi. Ngay đến ông bác sĩ cũng không dám. Tôi hiểu mọi người để mặc cho tôi chết. Không ai được phép xen vào chuyện của tôi. Trong mắt mọi người tôi là kẻ có tội. Tôi phải chịu số phận dành cho tất cả những phụ nữ trót làm hoen ố danh dự của những người đàn ông. Người ta rửa ráy cho tôi chỉ vì người tôi bốc mùi hôi thối quá chứ không phải để chăm sóc tôi. Người ta giữ tôi ở đây vì đây là nơi tôi có thể chết mà không gây rắc rối cho cha mẹ tôi và những người trong làng.
    Hussein đã không làm tốt công việc được giao, anh ta để tôi chạy thoát với ngọn lửa trên người.
    Assad không hỏi tôi một câu nào. Nó sợ và nó vội quay về làng.
    “Tôi phải đi tắt qua cánh đồng để không bị ai nhìn thấy. Cha mẹ mà biết tôi đến thăm chị, tôi sẽ gặp rắc rối ngay.”
    Tôi đã rất mong nó đến, tuy nhiên, khi nó cúi sát xuống nhìn tôi, tôi cảm thấy lo lắng. Nhìn vào hai mắt nó, tôi biết nó ghê tởm vì những vết bỏng của tôi. Không một ai kể cả nó, muốn biết tôi đã đau đớn đến mức nào, khi da trên người tôi cứ lõm xuống, thối rữa, rỉ mủ, và như nọc một con rắn độc cứ từ từ gặm nhấm cả phần phía trên thân thể của tôi, cái đầu trụi tóc của tôi, hai vai tôi, lưng tôi, hai tay tôi và hai vú tôi.
    Tôi đã khóc rất nhiều. Có phải vì biết đây là lần cuối cùng tôi được nhìn thấy nó mà tôi khóc không? Hay tôi khóc vì rất muốn được nhìn thấy các con của nó? Lúc ấy, vợ nó chuẩn bị sinh. Sau này tôi được biết cô ta sinh hai đứa con trai. Chắc tất cả mọi người trong gia đình đều thán phục và khen ngợi cô ta.
    Tôi không ăn được cam và chuối Assad mang đến. Chỉ có một mình, tôi không thể ăn được và rồi cái túi xách ấy cũng biến mất.
    Từ đấy không bao giờ tôi còn gặp lại gia đình mình nữa. Hình ảnh cuối cùng về mẹ tôi là chiếc cốc đựng thuốc độc. Hình ảnh cha tôi giận dữ nện chiếc gậy trên sàn gạch. Và hình ảnh em trai tôi với túi hoa quả.
    Trong sâu thẳm nỗi đau, tôi vẫn luôn tìm hiểu tại sao không nhìn thấy gì khi ngọn lửa bắt đầu bốc cháy trên đầu tôi. Lúc ấy, có một bình đựng xăng bênh cạnh tôi nhưng nó đã bị nút kín. Tôi không thấy Hussein cầm đến nó. Lúc anh ta bảo sẽ “lo cho tôi”, tôi đang cúi đầu xuống và trong vài giây, nụ cười có vẻ thân thiện của anh ta và cọng cỏ anh ta đang nhai một cách hiền lành trong miệng đã khiến tôi chắc mẩm mình sẽ được cứu. Nhưng thực tế anh ta chỉ cố làm cho tôi yên tâm để tôi khỏi chạy. Anh ta đã dự tính mọi việc với cha mẹ tôi từ ngày hôm trước. Nhưng anh ta lấy lửa ở đâu? Trong đống than củi? Tôi không thấy gì cả. Hay anh ta có bao diêm nên mới nhanh như thế? Lúc nào tôi cũng có sẵn một bao diêm bên mình, nhưng tôi cũng không nhìn thấy nó. Vậy là anh ta có sẵn bật lửa trong túi… Chỉ vừa kịp cảm thấy có nước chảy lành lạnh trên tóc và lửa đã bốc cháy. Tôi rất muốn biết tại sao tôi lại không thấy gì.
    Ban đêm nằm ngủ trên chiếc giường bệnh viện là cả một cơn ác mộng dài bất tận. Tôi nằm trong bóng tối mịt mù, tôi nhìn thấy tấm màn bao quanh, cửa sổ biến mất. Một cơn đau kì lạ như nhát dao đâm vào bụng tôi, hai chân tôi run rẩy…tôi đang chết dần. Tôi cố nhỏm dậy nhưng không được. Hai tay tôi cứng đờ, hai vết thương lở loét không chịu giúp tôi. Không có bất kỳ ai, chỉ có mình tôi, vậy ai đã đâm dao vào bụng tôi?
    Tôi thấy có cái gì vương vướng giữa hai đùi. Tôi co một chân, rồi co tiếp chân kia, tôi quơ hai chân để tìm. Tôi cố sức gỡ cái vật đang làm tôi hoảng hốt. Ban đầu, tôi không biết là mình đang sinh con. Tôi đưa chân sờ soạng trong bóng tối. Tôi từ từ đẩy nó xuống lớp chăn mỏng mà không hề biết đó là một đứa bé. Rồi tôi nằm bất động, mệt lả người vì gắng sức. Tôi khép hai chân lại và cảm thấy da đùi mình đang chạm vào người đứa bé. Nó ngọ nguậy. Tôi nín thở hồi hộp. Làm thế nào mà nó ra nhanh thế? Vừa thấy như có dao đâm vào bụng là nó đã ở đây rồi? Tôi buồn ngủ, nhưng không thể được, đứa trẻ không tự chui ra mà không báo trước. Tôi đang trải qua một cơn ác mộng.
    Nhưng tôi không nằm mơ vì tôi đã cảm nhận được nó, giữa hai đầu gối tôi, chạm vào da chân tôi. Hai chân tôi không bị bỏng, tôi cảm nhận mọi thứ qua lớp da ở đùi và chân. Tôi không dám cử động thêm, thêm, rồi tôi giơ một chân lên giống như giơ một bàn tay để vuốt nhẹ…một cái đầu bé tí và hai cánh tay đang quơ quơ yếu ớt.
    Có lẽ tôi đã kêu lên một tiếng rất to. Tôi cũng không nhớ nữa. Ông bác sĩ bước vào phòng, kéo bức màn, nhưng xung quanh tôi vẫn tối đen. Bên ngoài có lẽ vẫn là ban đêm. Tôi chỉ trông thấy một chút ánh sáng trong hành lang qua cánh cửa mở. Ông bác sĩ cúi xuống, giở tấm chăn mỏng ra, và ông mang đứa bé đi, thậm chí không để cho tôi nhìn thấy nó.
    Khỏang giữa hai chân tôi không còn gì. Có ai đó kéo bức màn che kín lại như cũ. Tôi không nhớ gì nữa. Có lẽ tôi đã ngất đi, có lẽ tôi đã ngủ thiếp đi thật lâu, tôi cũng không biết. Ngày hôm sau và những ngày kế tiếp, tôi chỉ chắc chắn một điều rằng đứa bé đã rời khỏi bụng tôi.
    Tôi không biết nó còn sống hay đã chết, không ai nói cho tôi biết và tôi không dám hỏi cô y tá khó chịu kia để biết người ta đã làm gì với đứa bé.
    Mong nó tha lỗi cho tôi, tôi không có khả năng cho nó một cuộc sống tử tế. Tôi biết mình đã sinh ra nó nhưng tôi không được nhìn mặt nó, người ta không cho tôi bế ẵm nó, tôi không biết nó là trai hay gái. Lúc ấy, tôi không phải là một người mẹ mà là một nhúm thịt mang hình hài con người đang bị khép tội chết. Chỉ có nỗi nhục nhã là mạnh hơn cả.
    Sau này, ông bác sĩ cho tôi biết là tôi đã sinh non khi mới được bảy tháng, đứa bé rất nhỏ nhưng còn sống và được an toàn. Tôi chỉ nghe loáng thoáng những gì ông ta nói. Hai vành tai bị bỏng nặng khiến tôi đau rát. Phần phía trên cơ thể tôi chỉ có nỗi đau và tôi chuyển từ trạng thái hôn mê sang nửa mê nửa tỉnh, không thể phân biệt ngày và đêm. Mọi người đều mong cho tôi chết và chờ đợi giây phút ấy.
    Còn tôi, tôi thấy Đấng Tối cao không cho tôi được chết nhanh như thế. Ngày và đêm xen lẫn trong cùng một cơn ác mộng. Trong những lúc tỉnh táo hiếm hoi, tôi chỉ có nỗi ám ảnh duy nhất, lấy móng tay rứt bỏ những lớp da gớm ghiếc và hôi hám đang tiếp tục cắn xé tôi. Nhưng bất hạnh thay, hai tay tôi không còn chịu sự sai khiến của tôi nữa.
    Một hôm, có ai đó bước vào phòng tôi, giữa lúc tôi đang mê loạn trong cơn ác mộng. Tôi chỉ đoán có người đi vào phòng chứ tôi cũng không nhìn thấy. Một bàn tay phụ nữ như cái bóng lướt trên mặt tôi nhưng không chạm vào tôi. Một giọng phụ nữ với cách phát âm khá kì cục đã nói với tôi bằng tiếng Ả Rập: “Tôi sẽ giúp cô…Cô hãy tin ở tôi, tôi sẽ giúp cô. Cô có nghe tôi nói không?”
    Tôi đáp “có” nhưng không tin vào điều đó. Tôi đã nằm trên chiếc giường với xiết bao đau đớn, bị bỏ rơi giữa sự khinh bỉ của kẻ khác. Tôi không hiểu người ta sẽ làm như thế nào để giúp tôi và nhất là không hiểu ai là ngừời có đủ quyền lực để làm điểu đó.
    Đưa tôi về với gia đình tôi ư? Họ không muốn gặp tôi nữa. Một đứa con gái bị thiêu sống vì làm ô danh gia đình sẽ phải bị thiêu cho đến chết. Giúp tôi chấm dứt cơn đau, giúp tôi được chết, đó là giải pháp duy nhất.
    Nhưng tôi vẫn trả lời “có” để đáp lại cái giọng phụ nữ ấy và tôi không biết người phụ nữ đó là ai.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:07:49 | Xem tất
chương 11: jacqueline
  Tên tôi là Jacqueline. Dạo đó, tôi đang có mặt ở Trung Đông để làm việc cho một tổ chức nhân đạo, tổ chức Terre des hommes. Tôi đi khắp các bệnh viện, tìm những trẻ em bị bỏ rơi, bị khuyết tật hoặc suy dinh dưỡng. Tôi cộng tác cới CICR, Hội Chữ Thập đỏ quốc tế và nhiều tổ chức khác có nhiệm vụ cứu trợ người Palestine và người Israel. Vì vậy, tôi làm việc trong hai cộng đồng người này và tôi có rất nhiều dịp tiếp xúc với cả hai dân tộc. Tôi sống chung với họ.
    Nhưng mãi bảy năm sau khi có mặt ở Trung Đông, tôi mới được nghe nói đến những cô gái bị sát hại. Gia đình lên án họ về tội gặp gỡ hoặc nói chuyện với một người con trai. Nhiều khi, họ bị kết tội mà không có bằng chứng cụ thể, chỉ dựa vào lời nói vu vơ của một ai đó. Cũng có những cô gái đã thật sự yêu thương một chàng trai, một điều mà cộng đồng của họ không bao giờ hình dung nổi và cũng không đời nào chấp nhận, bởi vì các ông bố luôn là người có quyền quyết định trong việc gả chồng cho con gái. Tôi nghe nói...Người ta kể với tôi...Nhưng cho đến lúc đó, tôi vẫn chưa từng chứng kiến một trường hợp thực tế nào.
    Trong nếp nghĩ của người phương Tây, việc cha mẹ hoặc anh em trai có thể giết chết con gái hoặc chị em gái của mình chỉ vì cô ta trót đem lòng yêu thương một người con trai quả là một việc rất khó tin, nhất là vào thời điểm đó. Ở phương Tây, người phụ nữ đã tự giải phóng, có quyền bầu cử và có thể một mình sinh con...
    Tôi đã ở đây được bảy năm, nên mặc dù chưa bao giờ được chứng kiến nhưng tôi vẫn tin ngay từ lần đầu tiên nghe kể về chuyện đó. Hẳn đã tin cậy lẫn nhau nên người ta mới đem một đề tài tối kị như thế ra nói nói với tôi, nhất là khi vấn đề lại không liên quan đến người ngoại quốc. Chính một phụ nữ đã quyết định kể tôi nghe tường tận. Đó là một chị bạn theo đạo Thiên Chúa mà tôi thường tiếp xúc vì chị cũng tham gia công việc chăm sóc các trẻ em. Chị đã gặp nhiều người mẹ đến từ nhiều ngôi làng, từ khắp các vùng miền trong cả nước. Có thể xem chị như một moukhtar[2] trong lĩnh vực này, nghĩa là chị thường mời những phụ nữ khác uống cà phê hoăc uống trà rồi thảo luận về những chuyện đã xảy ra trong làng của họ. Ở đây, đó là một kênh thông tin rất quan trọng. Hằng ngày, người ta có thói quen uống cà phê, uống trà rồi trò chuyện. Thế là chị có dịp phát hiện ra những trường hợp trẻ em đang gặp khó khăn nghiêm trọng.
    Một hôm, chị nghe một nhóm phụ nữ nói chuyện với nhau: "Trong làng có một đứa con gái hư thân mất nết bị cha mẹ tìm cách thiêu chết. Nghe nói con bé đã được đưa vào bệnh viện, ở đâu đó quanh đây thôi."
    Chị bạn ấy có sức thu hút đến lạ lùng, mọi người đều mến phục chị và chị còn can đảm lạ thường, sau này thôi đã có dịp tận mắt chứng kiến. Thông thường, chị chỉ phụ trách vấn đề liên quan đến trẻ em, nhưng người mẹ cũng liên quan trực tiếp đến trẻ em! Vì thế, vào khoảng ngày một5 tháng 9 năm ấy, chị bảo tôi:
    "Chị Jacqueline này, trong bệnh viện hiện có một cô gái đang sắp chết. Cô trợ tá xã hội khẳng định với tôi là cô ấy bị một thành viên trong gia đình thiêu sống. Chị thử xem có thể làm được gì cho cô ấy không?
    – Chị còn biết chi tiết nào nữa không?
    – Chỉ biết đó là một cô gái còn trẻ có thai và người trong làng cô ấy bảo: "Thiêu cho chết là phải, bây giờ, nó đang sắp chết trong bệnh viện đấy."
    – Tàn nhẫn quá!
    – Tôi biết, nhưng ở đây là như thế. Cô ấy có thai và giờ cô ấy sắp chết. Chuyện chỉ có thế. Ai cũng cho là chuyện bình thường. Người nào cũng bảo: "Tội nghiệp cha mẹ con bé!". Họ chỉ ái ngại cho hai người ấy chứ không hề đoái hoài đến số phận người con gái bị thiêu. Vả lại, cô ấy thật sự sắp chết, theo như tôi được biết."
    Một chuyện như thế quả thực là hồi chuông báo động trong đầu tôi. Dạo ấy, tôi làm việc ngay trong trung tâm Tổ chức Terre des hommes và người điều hành trung tâm này là một người tuyệt với: Edmond Kaiser. Công việc chủ yếu của tôi là chăm sóc trẻ em. Cũng vì lẽ đó, tôi chưa bao giờ tiếp cận với những trường hợp tương tự, nhưng tôi tự nhủ: "Jacqueline thân mến, mày phải đi xem việc gì đã xảy ra!"
    Tôi đi ngay đến bệnh viện đó, một bệnh viện mà tôi không biết rõ lắm vì tôi không hay đến đấy. Nhưng tôi không gặp vần đề gì vì tôi biết rất rõ đất nước, phong tục của đất nước này, tôi cũng xoay xở giao tiếp được bằng tiếng Ả Rập và tôi đã từng bỏ ra rất nhiều thời gian đi thăm các bệnh viện. Tôi chỉ yêu cầu được đưa đến gặp một cô gái bị bỏng nặng. Người ta không ngần ngại dẫn tôi đi và tôi bước vào một phòng lớn có hai chiếc giường và hai cô gái. Ngay lập tức, tôi có cảm tưởng đây là một phòng cách ly đặc biệt. Một nơi dành cho những trường hợp mà người ta cho là không nên để người khác trông thấy.
    Căn phòng hơi tối, cửa sổ có chấn song chắc chắn,hai chiếc giường, ngoài ra thì trống trơn.
    Vì trong phòng có hai cô gái nên tôi hỏi người nữ y tá:
    "Tôi muốn tìm cô gái vừa sinh được một đứa con.
    – Thế à, cô ta kia!"
    Và chỉ có thế. Người nữ y tá bỏ đi. Cô ta đi một mạch, không dừng lại trong hành lang cũng không hỏi tôi là ai, không gì cả! Chỉ bâng quơ chỉ về phía một chiếc giường. "Đấy, cô ta kia!"
    Tôi trông thấy một cô gái tóc ngắn, xoăn nhưng gần như bị cắt trụi hết và một cô gái khác tóc thẳng, dài chớm vai. Cả hai khuôn mặt đều đen xì đầy những muội khói. một tấm chăn mỏng phủ lên người họ. Tôi biết đã họ ở đây khá lâu rồi. Theo như người ta nói với tôi thì cũng khoảng mười lăm ngày. Tôi thấy rõ họ không thể nói chuyện được. Cả hai đều sắp chết. Cô tóc thẳng bị hôn mê. Cô kia, người vừa sinh con, thỉnh thoảng mở he hé mí mắt.
    Không ai lai vãng đến căn phòng này, không y tá, không bác sĩ. Tôi không dám nói gì, cũng không dám sờ đến hai cô gái và không khí ở đây bốc mùi hôi thối. Tôi đến với mục đích tìm một cô gái, nhưng lại phát hiện có tới hai cô gái bị bỏng nặng khủng khiếp và không được chăm sóc. Tôi chạy đi tìm một nữ y tá ở một phòng khác. Tôi bảo cô ấy: "Tôi muốn gặp giám đốc bệnh viện".
    Tôi đã quen với những bệnh viện kiêm nhà tế bần kiểu này, đối với tôi, chẳng có gì là mới mẻ. Ông giám đốc sốt sắng tiếp tôi và còn tỏ ra thiện cảm với tôi.
    "Chả là thế này, thưa bác sĩ. Ở đây có hai cô gái bị bỏng nặng. Bác sĩ cũng biết là tôi đang làm việc cho một tổ chức nhân đạo. Chúng tôi có thể giúp đỡ họ được chăng?
    – Xin cô nghe tôi...tôi không dám khuyên cô làm chuyện đó. Trong hai cô gái ấy, một cô đã ngã vào đống lửa và cô kia là do việc riêng tư xảy ra trong gia đình. Tôi thực tình khuyên cô không nên dính dáng đến chuyện này.
    – Thưa bác sĩ, công việc của tôi là giúp đỡ mọi người và đặc biệt là giúp đỡ những người không được ai giúp đỡ. Bác sĩ có thể nói cho tôi biết thêm một chút về chuyện này không?
    – Không, không được đâu cô ạ. Cô nên cẩn thận. Đừng dây vào những chuyện như thế làm gì!"
    Một khi người ta đã như vậy thì cũng không nên nài ép. Tôi bỏ lửng câu chuyện ở đấy, nhưng tôi lại đi xuống phòng cách ly đặc biệt và ngồi ở đó một lát. Tôi đợi, và hy vọng cô gái mở hé mắt lúc nãy có thể nói chuyện với tôi. Tình trạng của cô gái kia thì đáng ngại hơn.
    Vừa lúc ấy, một cô y tá đi qua hành lang, tôi cố hỏi:
    "Cô gái trẻ kia, cái cô có tóc và đang nằm bất động ấy, cô ấy đã gặp phải chuyện gì vậy?
    – À, cô ta bị ngã vào đống lửa, cô ta bị bỏng nặng lắm, cô ta chết rồi."
    Một câu nói không hề có chút tình người. Đơn giản chỉ là một câu nhận xét. Nhưng cái câu "Cô ấy bị ngã vào đống lửa" không dễ gì lừa được tôi.
    Cô gái kia khẽ động đậy. Tôi bước lại gần cô ấy và tôi ngồi đó một lúc lâu, không nói gì. Tôi chú ý quan sát, tôi cố tìm hiểu, tôi lắng tai nghe những tiếng động ngoài hành lang, mong có một người nào đó đến đây để tôi có thể trò chuyện. Nhưng tôi chỉ thấy mấy cô y tá. Họ đi qua thật nhanh, họ tuyệt nhiên không bận tâm đến hai cô gái. Rõ ràng không có bất cứ sự chăm sóc nào dành cho hai bệnh nhân này. Thực ra, chắc họ cũng đã được chăm sóc ít nhiều, nhưng tôi không nhận thấy. Không ai đến gần tôi, không ai hỏi han gì tôi. Tôi tuy là người nước ngoài, ăn mặc theo lối phương Tây nhưng lúc nào cũng kín đáo từ đầu đến chân để tỏ ý tôn trọng truyền thống đất nước mà tôi đến làm việc. Đấy là điều kiện tiên quyết để đi đến đâu cũng được chào đón. Trong bệnh viện này, ít ra người ta cũng nên hỏi tôi đến đây làm gì nhưng trái lại, chẳng những họ không hỏi tôi mà còn tỏ vẻ không thèm biết tôi đang có mặt.
    Một lát sau, tôi cúi sát người cô gái mà tôi xem chừng còn nghe được những gì tôi nói nhưng tôi không biết có thể chạm vào đâu trên người cô ấy. Vì có tấm chăn mỏng che kín nên tôi không biết cô ấy bị bỏng ở những đâu. Tôi thấy cằm cô ấy bị dính liền vào ngực thành một khối. Tôi thấy hai vành tai cô ấy bị cháy và hầu như không còn gì. Tôi khoa tay trước mắt cô ấy nhưng cô ấy không có phản ứng. Tôi không nhìn thấy hai bàn tay và cánh tay cô ấy và tôi không dám giở tấm chăn mỏng đắp trên người cô ấy. Cuối cùng tôi không biết phải xoay xở thế nào. Tuy nhiên cần phải chạm vào chỗ nào đấy trên người cô ấy để ra hiệu cho cô ấy biết là tôi đang ngồi bên cạnh. Như chạm vào một người đang hấp hối để cô ấy hiểu rằng có ai đó đang ở đấy, để cô ấy có thể cảm nhận được có người bên cạnh, có một sự tiếp xúc với con người.
    Hai chân cô ta co lại, hai đầu gối nhô cao dưới lớp chăn mỏng như những người đàn bà ngồi xổm nhưng lại theo chiều nằm ngang. Tôi đặt tay lên đầu gối cô ta và cô ta mở mắt.
    "Em tên là gì?"
    Cô ta không đáp.
    – "Xin em nghe đây. Chị sẽ giúp em. Chị sẽ quay lại và chị sẽ giúp em.
    – Aioua."
    Trong tiếng Ả Rập có nghĩa là "vâng". Câu trả lời chỉ có vậy. Rồi cô ta nhắm mắt lại. Tôi không biết cô ta có nhìn thấy tôi hay không nữa. Đó là lần đầu tiên tôi gặp Souad.
   

- o O o -

    Tôi ra về, cảm thấy tâm trạng rối bời. Tôi sẽ làm một điều gì đó, tôi nhất định phải làm một điều gì đó! Trong tất cả những việc mà tôi đã làm từ trước đến nay, bao giờ tôi cũng có cảm tưởng mình nhận được một lời kêu cứu. Người ta nói với tôi về nỗi khổ đau, tôi sẽ đến đó ngay và biết rằng mình sẽ làm một cái gì đó đáp lại lời kêu cứu ấy. Với Souad, tôi chưa biết sẽ phải làm gì để giúp cô ấy, nhưng tôi sẽ tìm ra.
    Thế là tôi quay lại gặp người bạn, chị đã nói cho tôi biết thêm mấy chi tiết mới chính xác hơn, nếu ta có thể nói như thế, về trường hợp của cô gái.
    “Đứa trẻ do cô ta sinh ra đã được bên cứu trợ xã hội đưa về nuôi dưỡng theo lệnh của cảnh sát. Về điểm này, chị không làm được gì đâu. Cô ta còn trẻ, không ai ở bệnh viện chịu đứng ra giúp chị. Jacqueline, chị hãy nghe tôi, chị không làm được gì đâu.
    – Được. Rồi chúng ta sẽ thấy!”
    Ngày hôm sau, tôi lại đến bệnh viện. Cô ta vẫn chưa tỉnh táo hẳn, còn cô gái nằm giường bên vẫn trong tình trạng hôn mê. Mùi hôi thối trong gian phòng thật không thể chịu được. Tôi không biết các vết bỏng lan rộng đến đâu nhưng rõ là không có ai sát trùng. Ngày hôm sau nữa, một trong hai chiếc giường bị bỏ trống. Cô gái nằm hôn mê kia đã chết trong đêm. Tôi nhìn chiếc giường, trống không nhưng vẫn chưa được lau dọn mà lòng buồn vô hạn. Khi bất lực trước một việc gì đó, người ta luôn cảm thấy buồn vô cùng. Tôi tự nhủ: “Bây giờ hãy lo cho cô gái còn lại”. Nhưng cô ấy vẫn còn nửa mê nửa tỉnh, cô ấy mê sảng suốt và tôi không hiểu những gì cô ấy cố nói để trả lời câu hỏi của tôi.
    Nhưng rồi đã xảy ra một sự kiện mà tôi gọi là phép lạ. Đó là việc tôi gặp được một bác sĩ còn trẻ người Palestine, đây là lần đầu tiên tôi gặp anh ta. Ông giám đốc bệnh viện đã nói với tôi: "Cô hãy bỏ qua chuyện này đi. Cô ta sắp chết rồi". Nhưng tôi đã hỏi ý kiến của vị bác sĩ trẻ này:
    "Anh nghĩ thế nào? Tại sao mặt của cô ấy lại không được rửa sạch?
    – Chúng tôi cũng đã cố rửa sạch hết mức có thể, nhưng không hề dễ dàng. Đối với chúng tôi, trường hợp này rất khó, rất phức tạp, vì có những phong tục...Chị hiểu đấy...
    – Theo anh, chúng ta có cứu được cô ấy không? Chúng ta có thể làm gì để giúp cô ấy?
    – Nếu đến giờ mà cô ấy chưa chết thì có thể vẫn còn cơ hội đấy. Nhưng trong những chuyện như thế này, chị phải rất thận trọng."
    Những ngày sau đó, tôi trông thấy mặt mũi cô ấy sạch sẽ hơn một chút, có chỗ này chỗ kia được bôi thuốc mỡ. Anh bác sĩ trẻ hẳn đã chỉ thị cho cô y tá, tuy cô ta đã cố gắng nhưng vẫn chưa thực sự hết sức. Sau này, Souad kể lại cho tôi biết, ở bệnh viện người ta đã túm lấy tóc cô để rửa cho cô trong một cái bồn tắm và người ta làm như thế chỉ vì không ai muốn chạm tay vào người cô. Tôi không dám chỉ trích họ, như vậy chỉ làm cho mối quan hệ giữa tôi và bệnh viện xấu đi mà thôi. Tôi trở lại để gặp anh bác sĩ trẻ người Ả Rập, người duy nhất tôi xét thấy có vẻ tiếp cận được.
    "Tôi làm việc cho một tổ chức nhân đạo nên tôi có thể làm được một cái gì đó cho cô ấy, vậy xin anh cho biết liệu cô ấy có hy vọng sống không?
    – Theo tôi thì có. Chúng ta có thể thử làm một cái gì đó, nhưng tôi không tin điều đó có thể thực hiện ở bệnh viện này.
    – Nếu thế chúng tôi có thể chuyển cô ấy sang một bệnh viện khác.
    – Có thể, nhưng cô ấy còn có gia đình, cha mẹ. Cô ấy là vị thành niên, chúng ta không thể làm gì được! Chúng ta không thể can thiệp, bố mẹ cô ấy đã biết cô ấy được đưa đến đây, bà mẹ đã tìm đến đây...mặc dù từ đấy họ đã bị cấm không được đến thăm nữa...Đấy là một trường hợp đặc biệt, tin tôi đi!
    – Xin hãy nghe tôi, bác sĩ, tôi, tôi muốn làm một cái gì đó. Tôi không biết những điều cấm kị ở đây nhưng anh vừa bảo tôi là cô ấy vẫn còn hy vọng sống, dù chỉ chút xíu hy vọng thôi, tôi không thể bỏ rơi cô ấy được".
    Anh bác sĩ trẻ nhìn tôi, hơi ngạc nhiên trước sự ngoan cố của tôi. Nhất định anh ta nghĩ rằng tôi không đủ khả năng...tôi cũng như bao nhiêu thành viên khác của các tổ chức nhân đạo phương Tây không hiểu gì về đất nước này. tổ chức nhân đạo phương Tây không hiểu gì về đất nước này. Tôi đoán anh ta khoảng 30 tuổi và tôi thấy anh ta có vẻ dễ mến. Anh ta cao dong dỏng, tóc nâu và nói tiếng Anh trôi chảy. Anh ta không giống những người đồng nghiệp thường có thái độ khép kín trước yêu cầu của người phương Tây.
    "Nếu tôi có thể giúp được chị, tôi sẽ giúp."
    Thế là đã chiến thắng được phần nào. Những ngày tiếp theo, anh ta sốt sắng cho tôi biết về tình trạng của bệnh nhân. Anh ta đã từng du học ở Anh, anh ta có học thức, hiểu biết văn hoá nên giao tiếp với anh ta cũng khá dễ dàng. Tôi liền đi sâu hơn một chút về trường hợp của Souad và tôi được biết rằng cô gái hoàn toàn không được chữa trị gì cả.
    "Cô ấy là vị thành niên. Nếu không có ý kiến của cha mẹ cô ấy, chúng ta không thể động vào cô ấy được. Mà đối với họ thì cô ấy đã chết rồi, hơn nữa họ cũng chỉ đợi có thế.
    – Nhưng nếu tôi muốn chuyển cô ấy đến một bệnh viện khác để cô ấy được chăm sóc và chữa trị tốt hơn, anh nghĩ người ta có cho phép tôi làm như thế không?
    – Không. Chỉ cha mẹ cô ta mới có quyền cho phép và họ sẽ không đồng ý cho chị làm như thế đâu!"
    Tôi lại tìm đến chị bạn, người đã khơi ra vụ này, và nói cho chị biết ý định của tôi:
    “Tôi muốn đưa cô gái đến một nơi khác. Chị nghĩ thế nào? Làm vậy có được không?
    – Chị biết đấy, nếu cha mẹ cô gái muốn cô ấy phải chết thì chị không thể làm gì được đâu! Đối với họ, đây là vấn đề danh dự trước cả làng.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:08:23 | Xem tất
Ở vào tình thế này, tôi đâm ra cứng đầu cứng cổ. Tôi không thể cam chịu chấp nhận những suy nghĩ tiêu cực, tôi phải chống lại, để tìm ra một lối thoát tích cực, dù rất nhỏ. Và dù có thế nào chăng nữa, tôi cũng phải theo đuổi ý định của mình đến cùng.
    “Chị xem tôi có thể đến ngôi làng ấy được không?
    – Đến đấy rất mạo hiểm. Chị hãy nghe tôi. Chị quên đó là một nguyên tắc danh dự không thể tránh né được hay sao. Họ muốn cô gái ấy phải chết bởi nếu cô ta không chết, danh dự của họ sẽ bị hoen ố, mãi mãi không rửa được và gia đình họ sẽ bị cả làng khai trừ. Họ sẽ phải dời đi nơi khác trong nhục nhã, chị có hiểu không? Chị có thể thử xông vào hang cọp, nhưng theo ý tôi, chị đang rất liều lĩnh để rồi cuối cùng không mang lại một kết quả nào. Cô ấy khó lòng thoát chết. Bị những vết bỏng nặng như thế mà từ lâu không được chăm sóc, cô ấy không thể sống được đâu, cô gái bất hạnh.”
    Nhưng hôm tôi đến thăm, cô bé Souad ấy đã mở mắt được một chút. Và khi tôi hỏi chuyện cô ấy cũng nghe được và trả lời được dù đang bị cơn đau đớn hành hạ.
    “Chị nghe nói là em đã sinh được một đứa bé. Nó đâu rồi?
    – Em không biết, người ta đã mang nó đi. Em không biết…”
    Với những gì mà cô ấy đang phải chịu đựng, và những gì đang chờ đợi cô ấy, cái chết đã được dự báo trước theo lời kể của mọi người, tôi hiểu rằng đối với Souad, đứa bé không phải là vấn đề quan trọng nữa.
    “Souad này, em phải trả lời cho chị biết vì chị muốn làm một điều gì đó cho em. Nếu chúng ta tìm được một lối thoát, nếu chị có thể mang em đi nơi khác, liệu em có bằng lòng đi cùng chị hay không?
    – Em bằng lòng, bằng lòng. Em sẽ đi với chị. Nhưng chị định đi đâu?
    – Đi đến một đất nước khác, chị chưa biết là nước nào, nhưng đó sẽ là một nơi mà chúng ta không còn phải nghe nói đến những chuyện như thế này nữa.
    – Vâng, nhưng chị biết đấy, cha mẹ em…
    – Chị sẽ đến gặp cha mẹ em. Chúng ta sẽ gặp…Em đồng ý chứ? Em có lòng tin chứ?
    – Vâng…Cám ơn chị.”
    Thế là, được niềm tin của Souad tiếp sức, tôi đến gặp vị bác sĩ trẻ để hỏi anh ta có biết ngôi làng có những người dân đem thiêu sống những cô gái trẻ chỉ vì những cô gái ấy biết yêu đương, nằm ở đâu không.
    “Cô bé ấy đến từ một làng nhỏ, cách đây khoảng bốn mươi cây số. Kế cũng hơi xa, lại không có đường cho xe cộ đi lại và nguy hiểm nữa vì chúng ta không biết rõ ở đấy đang xảy ra những chuyện gì. gì. Ở những nơi như thế, đến cảnh sát cũng không có.
    – Tôi không biết liệu tôi có thể đi đến đấy một mình được không?
    – Chao ôi! Tôi khuyên chị tuyệt đối không nên làm vậy. Để tìm ra ngôi làng ấy, chị sẽ lạc đường không dưới mười lần. Cũng không hề có bản đồ chi tiết…”
    Tôi cũng ngây thơ, nhưng không quá ngây thơ. Tôi biết rằng hỏi đường ở những nơi như thế là cả một vấn đề, nhất là khi tôi là người nước ngoài. Càng khó khăn hơn khi ngôi làng ấy lại nằm trong vùng lãnh thổ bị Israel chiếm đóng. Tôi, Jacqueline, thành viên của Terre des Hommes hay không cũng mặc, đang làm nhiệm vụ cứu trợ nhân đạo hay không cũng mặc, là tín đồ Thiên Chúa giáo hay không cũng mặc, tôi có thể bị xem là một nữ điệp viên Israel đến do thám người Palestine. Hoặc ngược lại, tuỳ theo vùng đất mà tôi lạc đến.
    “Anh có thể giúp tôi bằng cách cùng đi với tôi không?
    – Họa có điên mới làm như thế.
    – Xin anh nghe tôi, bác sĩ, chúng ta có thể cứu được một mạng người…Chính anh đã bảo với tôi là có hy vọng cứu sống cô ấy nếu đưa cô ấy đến một nơi khác…”
    Cứu một mạng người. Lập luận xem chừng có ý nghĩa đối với anh ta vì anh ta là bác sĩ. Nhưng đồng thời anh ta cũng là dân nước này, giống nhhững nữ y tá trong bệnh viện, mà đối với họ, Souad hoặc bất kỳ cô gái nào giống cô ấy đều phải chết…
    Thì đấy, đã có một cô gái chết rồi đấy thôi. Tôi không biết cô gái còn lại có cơ may sống sót hay không nhưng cô ta đã không được bệnh viện chăm sóc và chữa trị. Tôi rất muốn nói thẳng với anh chàng bác sĩ dễ mến ấy rằng tôi không thể chịu được khi nhìn thấy một cô gái bị bỏ mặc cho đến chết với cái cớ: phong tục. Nhưng tôi sẽ không nói, vì tôi biết bản thân anh ta cũng đã vướng trong guồng máy ấy rồi, phải đối mặt với bệnh viện, với giám đốc bệnh viện, với những nữ y tá, với chính những đồng bào của anh ta nữa. Kế ra phải rất can đảm anh ta mới dám nói những chuyện đó với tôi. Tội ác vì danh dự là một chủ đề cấm kỵ.
    Và cuối cùng, tôi gần như đã thuyết phục được anh ta. Anh ta quả thực là một người rất tốt, trung thực, tôi cảm động khi thấy anh ta trả lời tôi với vẻ ngập ngừng:
    “Tôi không biết liệu tôi có đủ can đảm hay không nữa…
    – Chúng ta cứ thử xem sao. Nếu không được thì quay về.
    – Đồng ý, nhưng nếu có chút rắc rối nào thì chị phải cho tôi rút lui lập tức đấy.”
    Tôi hứa. Anh bác sĩ trẻ ấy, tên là Hassan, sẽ là người dẫn đường cho tôi.
    Tôi là một cô gái phương Tây làm việc cho tổ chức Terre des hommes ở Trung Đông để giúp đỡ những trẻ em Hồi giáo, Do Thái hay Thiên Chúa giáo. Đây là một công việc thường mang tính chất ngoại giao và phức tạp. một công việc thường mang tính chất ngoại giao và phức tạp. Nhưng hôm tôi bước lên xe cùng với anh bác sĩ quả cảm ngồi bên, tôi thực không nhận thức được sự liều lĩnh của mình. Đường đi kém an ninh, người dân địa phương luôn nghi kị, vậy mà tôi lại kéo anh bác sĩ người Ả Rập vừa tốt nghiệp đại học tại Anh vào một cuộc mạo hiểm có thể sẽ rất mơ hồ nếu mục đích hướng đến không phải quan trọng đến như vậy. Có lẽ anh ta cho rằng tôi hoàn toàn mất trí.
    Buổi sáng hôm khởi hành, Hassan hơi xanh mặt vì sợ. Tôi sẽ nói dối nếu bảo rằng lúc ấy tôi vẫn bình tĩnh như thường, nhưng ngày đó, sự vô tư của tuổi trẻ cùng niềm tin mình đang dấn thân để giúp đỡ người khác khiến tôi cứ tiến lên. Và dĩ nhiên, cả Hassan, cả tôi đều không mang theo vũ khí.
    Về phần tôi, đó là “đành phí mặc cho Chúa”, còn về phần Hassan: “Xin Đấng Allah phù hộ”.
    Ra khỏi thành phố, hai bên đường là quang cảnh phổ biến của vùng đồng quê Palestine với những mảnh đất được chia cắt thành từng thửa nhỏ thuộc sở hữu của tiểu nông. Những thửa vườn, mảnh vườn ấy được bao bọc bởi bức tường thấp xây bằng đá tảng với rất nhiều thằn lằn và rắn bò dọc khe đá. Đất toàn một màu đỏ quạch, đây đó rải rác những cây vả dại.
    Con đường xuất phát từ thành phố không trải nhựa nhưng vẫn đi bằng ôtô được. Nó nối liền các thôn xóm, làng lân cận và các khu chợ với nhau. Xe tăng của Israel đã san mặt đường khá phẳng nhưng vẫn còn nhiều ổ gà khiến xe chở tôi phải rung lên ken két. Càng xa thành phố, người ta càng gặp nhiều khu đất canh tác nhỏ. Nếu thửa đất đủ rộng, người nông dân sẽ trồng lúa mì, nếu hẹp, họ sẽ dùng để chăn thả gia súc. Một vài con dê, mấy con cừu. Nhà nào giàu sẽ có nhiều dê và cừu hơn.
    Con gái ở đây đều phải tham gia công việc đồng áng. Số được đi học rất ít ỏi hoặc hầu như không có. Và ngay cả những đứa may mắn được đi học thì cũng nhanh chóng bị cha mẹ chúng bắt về nhà để trông coi lũ em nhỏ. Thành thử tôi hiểu tại sao Souad lại hoàn toàn mù chữ.
    Hassan biết rõ con đường này, nhưng thôn mà chúng tôi đang tìm thì anh ta chưa bao giờ nghe nói đến. Thỉnh thoảng, chúng tôi phải hỏi thăm đường nhưng xe của tôi mang biển số Israel thành thử chúng tôi có thể thể gặp nguy hiểm. Chúng tôi đang đi vào vùng đất bị chiếm đóng và những chỉ dẫn của người dân địa phương cũng khó có thể tin cậy được.
    Một lúc sau Hassan bảo tôi:
    “Như thế này là không ổn rồi, đến thôn ấy, chúng ta chỉ có mỗi hai người thôi. Tôi đã báo tin cho gia đình ấy qua mạng điện thoại Ả Rập, nhưng có Đấng Tối cao mới biết họ sẽ đón tiếp chúng ta như thế nào? Chỉ có mỗi mình ông bố? Hay đủ mặt gia đình? Hay tất cả dân trong làng? Họ sẽ không hiểu tại sao chị tìm gặp họ!
    – Anh có cho họ biết là cô bé sắp chết và bảo họ là chúng ta đến gặp họ để nói về việc ấy không?
    – Chính đó là điều mà họ không sao hiểu được. Họ đã thiêu sống cô gái và rất có khả năng kẻ đã làm việc đó đang đợi sẵn để trả thù chúng ta. Dẫu sao đi nữa, họ sẽ bảo là cô gái đã vô ý để áo bị bắt lửa hoặc cô ta đã ngã chúi đầu vào đống lửa đang cháy! Những chuyện gia đình như thế, quả thật rất phức tạp…”
    Tôi đã biết như thế. Ngay từ đầu, khoảng chục ngày trước, nhiều người đã nhắc đi nhắc lại cho tôi nhớ rằng chuyện một cô gái bị thiêu như thế là rất phức tạp, rằng tôi không nên xen vào đó. Chỉ có điều, đó chính xác là việc tôi đang làm.
    “Tôi khuyên chị tốt hơn cho chúng ta nên cho xe quay trở lại…”
    Tôi vội động viên anh bạn đồng hành quý báu. Không có anh ta, có lẽ tôi cũng đi đến đấy được, nhưng ở những vùng này, phụ nữ không được phép đi một mình.
    Cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra cái thôn đó. Ông bố tiếp chúng tôi ngoài sân, dưới bóng một cái cây to trước nhà. Tôi ngồi bệt trên nền đất, Hassan ngồi bên phải tôi. Ông bố ngồi tựa vào thân cây, trong tư thế quen thuộc, thuộc, một chân co lại với cây gậy đặt bên trên. Khổ người ông ta thấp bé, tóc hung đỏ, mặt xanh xao có nhiều nốt đồi mồi và trông như bị chứng bạch tạng. Bà mẹ vẫn đứng thẳng trong chiếc áo dài đen, một tấm voan cũng màu đen trùm trên đầu. Không che mặt. Đó là một phụ nữ khó xác định được tuổi, mẹ có những nếp nhăn hằn sâu, cái nhìn khắc khổ. Phụ nữ Palestine ở các vùng nông thôn thường có cái nhìn như thế. Nhưng với những gì họ phải chịu đựng như gánh nặng công việc, con cái, cảnh ngộ gò bó thì âu đó cũng là chuyện bình thường.
    Ngôi nhà thuộc loại trung bình, mang nét đặc trưng của kiến trúc vùng này nhưng chúng tôi không nhìn thấy được hết. Nhìn từ bên ngoài, ngôi nhà có vẻ khép kín. Dẫu sao thì chủ nhà không phải là nghèo.
    Sau những câu chào hỏi thông thường, Hassan giới thiệu tôi:
    “Bác ạ, chị này làm việc ở một tổ chức nhân đạo…”
    Và cuộc nói chuyện tiếp tục theo lối của người Palestine, nghĩa là chỉ giữa hai người đàn ông với nhau.
    “Đàn gia súc năm nay thế nào, thưa bác?.... Còn mùa màng?... Nông sản của nhà ta bán được không bác?....
    – Cũng khó khăn lắm… mùa đông đến rồi… Người Israel gây ra cho chúng tôi không biết bao nhiêu rắc rối…”
    Những chuyện tầm phào như thể kéo dài khá lâu trước khi đề cập đến mục đích của cuộc thăm viếng. Âu cũng là chuyện bình thường. Ông ta không đả động gì đến cô con gái, nên Hassan không nhắc đến, còn tôi thì càng không thôi. Rồi chủ nhà mời trà – là khách lạ đến thăm nên tôi không thể từ chối lòng hiếu khách theo phong tục của người Palestine – và đã đến lúc phải cáo từ. Chủ và khách chào nhau.
    “Chúng cháu sẽ quay lại thăm bác….”
    Chúng tôi không đi xa hơn và từ biệt ra về. Vì cả Hassan và tôi đều biết rằng cần phải bắt đầu như thế.Phải có phần nhập đề, không được đến với vẻ thù địch hay với vẻ dò xét của người đi điều tra, cứ để mọi việc thư thả, để có thể quay lại lần nữa.
    Và thế rồi chúng tôi lên đường trở về thành phố, ở cách đấy hơn bốn mươi cây số. Tôi còn nhớ rằng mình đã thở phào nhẹ nhõm.
    “Mọi việc cũng suôn sẻ đấy chứ… Vài hôm nữa chúng ta quay lại.
    – Chị định quay lại thật à?
    – Phải quay lại chứ, hôm nay chúng ta có làm được gì đâu.
    – Nhưng chị có thể đề nghị với họ những gì? Nếu chị định dùng tiền để thương lượng thì không có tác dụng gì đâu… Chị đừng nghĩ đến chuyện làm vậy. Với họ, danh dự là danh dự.
    – Tôi sẽ chủ yếu dựa vào việc cô bé đang sắp chết. Tiếc thay đó lại là sự thật, chính anh đã bảo tôi như vậy mà…
    – Không được chăm sóc cấp cứu và giờ có muốn tiến hành thì cũng đã muộn rồi, cô ấy thực tình không còn cơ may nào nữa.
    – Nếu cô bé không qua khỏi, tôi sẽ bảo với họ là tôi mang cô ấy đến một nơi nào khác để chờ chết… Cách này vừa tiện cho họ vừa giúp họ tháo gỡ được vấn đề.
    – Cô ấy còn là vị thành niên và không có giấy tờ, phải có sự đồng ý của cha mẹ cô ta. Họ sẽ không nhọc công đi làm các thủ tục giấy tờ đâu, dù chị có cố gắng thuyết phục thế nào đi nữa…
    – Chúng ta cứ quay lại xem nào. Lúc nào thì anh có thể gọi cho họ được?
    – Vài hôm nữa, chị phải thư thả cho tôi có thời gian chứ.”
    Cô bé Souad thì lại không có thời gian. Hassan tuy đã làm được phép lạ và giúp tôi rất nhiều trong chuyện này nhưng dù sao, anh ta cũng còn phải phụ trách công việc trong bệnh viện, phải lo cho gia đình và riêng việc can thiệp vào một vụ có liên quan đến tội ác vì danh dự như thế này cũng đủ gây cho anh ta nhiều rắc rối. Càng lúc tôi càng hiểu anh ta hơn và tôn trọng sự cẩn thận của anh ta. Tìm cách giải quyết vấn đề thuộc loại cấm kỵ này, tìm cách né tránh những tác hại của nó là một chuyện mới mẻ nên tôi sẵn sàng vào cuộc với tất cả sức lực của mình. Nhưng Hassan vẫn phải giúp tôi liên lạc với người trong làng để báo cho họ biết về những cuộc thăm viếng sắp tới và tôi biết anh sẽ phải mất rất nhiều công sức thuyết phục để có thể hoàn thành được cái công việc tưởng như đơn giản ấy…..
    Chú Thích:
    [2] Moukhtar: Chuyên gia
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:09:41 | Xem tất
chương 12: souad sắp chết
Em trai em rất tốt. Nó đã tìm cách mang chuối vào cho em nhưng bác sĩ đã bảo nó đừng quay lại nữa.
    – Thế ai đã làm em ra nông nỗi này?
    – Đấy là anh rể em, anh Hussein, chồng của chị em. Mẹ em đựng thuốc độc trong cái cốc….”
    Tôi được biết thêm một chút về những chuyện đã xảy ra với Souad. Cô ấy nói chuyện nhiều với tôi, nhưng đối với cô ấy, điều kiện chăm sóc của bệnh viện vẫn còn rất kinh khủng. Người ta tắm cho cô ấy được một lần bằng cách túm lấy mớ tóc ít ỏi còn dính trên đầu cô. Những vết bỏng bị nhiễm trùng, rỉ nước và chảy máu thường xuyên. Tôi đã nhìn thấy phần thân trên của cô ấy: đầu lúc nào cũng cúi gập xuống như người đang cầu nguyện, cằm bị dính chặt vào ngực. Cô ấy không cử động được hai tay. Người ta đã đổ xăng hay dầu hỏa lên đầu cô ấy. Nó bốc cháy rồi lan xuống cổ, xuống hai vành tai, xuống lưng, xuống hai tay và phía trên ngực. Có lẽ cô ấy nằm co quắp như xác ướp từ lúc người ta đưa cô ấy vào bệnh viện, và cô ấy vẫn trong tình trạng như vậy từ hơn mười lăm ngày trước. Ấy là chưa kể đến việc cô ấy sinh con trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê và đứa bé ấy đã biến mất. Có lẽ cô trợ tá xã hội đã mang nó vào trại trẻ mồ côi như gửi một gói hàng, nhưng trại mồ côi nào? Ở đâu? Tôi biết rất rõ tương lai của những đứa bé bị xem là con hoang. Nó không có hy vọng.
    Kế hoạch của tôi quả thực điên rồ. Giai đoạn đầu, tôi muốn đưa Souad và Bethléem, thành phố đang nằm dưới quyền kiểm soát của Israel nhưng tôi và Souad vẫn có thể đến được. Chỉ đến đây chứ không phải nơi nào khác. Tôi biết ở đấy không có những phương tiện cần thiết để điều trị cho những bệnh nhân bỏng nặng. Nhưng trong giai đoạn hai ở Bethléem, Souad có thể được hưởng những điều kiện chăm sóc tối thiểu. Giai đoạn ba của kế hoạch: đưa cố ấy sang châu Âu với sự đồng ý của tổ chức Terre des hommes, lúc này tôi vẫn chưa báo cáo tổ chức về việc của Souad.
    Đó là chưa kể đứa bé, tôi dự định trong lúc làm thủ tục cho Souad sẽ tranh thủ tìm đứa con của cô ấy.
    Hôm anh bác sĩ Hassan được lên ôtô của tôi để thực hiện chuyến đi thứ hai đến nhà bố mẹ Souad, tôi thấy anh ta vẫn còn lo lắng. Vẫn cách tiếp đón ấy, ngoài sân, dưới bóng cây, vẫn kiểu mở đầu câu chuyện sáo rỗng ấy, nhưng lần này tôi hỏi đến những người con mà tôi và Hassan chưa từng gặp.
    “Bác có đông con lắm phải không? Họ đâu cả rồi?
    – Chúng nó đều ra đồng cả. Chúng tôi có một đứa con gái đã lấy chồng. Nó có hai thằng cu, và một đứa con trai đã có vợ, thằng này cũng sinh được hai thằng cu.”
    Sinh được con trai thì còn gì bằng. Cần phải chúc mừng ông chủ gia đình. Và cũng phải phàn nàn hộ ông ta.
    “Cháu nghe nói bác có một cô con gái khiến bác phiền lòng nhiều phải không?
    – Ya haram[3]”! Chuyện xảy đến với chúng tôi thật kinh khủng! Thật bất hạnh!
    – Vâng, thật đáng tiếc cho gia đình ta.
    – Phải, rất đáng tiếc. Allah karim[4]! Chỉ có đấng Allah là cao cả!
    – Ở trong làng, ai gặp phải những vấn đề khó khăn như thế cũng sẽ rất đau buồn…
    – Phải … chúng tôi rất khổ sở.”
    Bà mẹ không nói gì. Vẫn đứng thẳng, không nhúc nhích.
    “Bác ạ, dù sao chăng nữa cô ấy cũng sắp chết, tình trạng cô ấy nguy cấp lắm rồi.
    – Phải, Allah karim!”
    Và anh bác sĩ Hassan tiếp thêm bằng một câu rất chuyên môn:
    “Vâng, thật sự cô ấy nguy lắm rồi.”
    Anh ta đã hiểu mục đích của cuộc mặc cả kỳ quặc về cái chết của một cô gái trẻ. Anh ta giúp tôi bằng cách tỏ rõ cho gia đình này thấy Souad trước sau gì thì cũng phải chết, trong khi cả anh ta và tôi đều mong điều ngược lại…. Anh ta thay phiên tiếp sức cho tôi. Rốt cuộc, ông bố thổ lộ cho Hassan biết mối lo âu chính của cả nhà:
    “Tôi chỉ mong chúng tôi được yên thân sống trong làng.
    – Chuyện ấy thì chắc chắn rồi. Dù thế nào đi chăng nữa, cô ấy cũng sắp chết.
    – Nếu Đấng Tối cao muốn như vậy thì cũng là số mệnh cả thôi! Chúng ta không thể cưỡng lại.”
    Nhưng ông ta không hề đả động những chuyện đã xảy đến với Souad. Và tôi đợi thời điểm thuận tiện để tiến thêm một bước trên bàn cờ:
    “Nhưng nếu cô ấy chết ở đây thì bác vẫn phải tốn kém nhiều. Bác sẽ cho chôn cất như thế nào? Và ở đâu kia?
    – Chôn cất ngay đây, ở ngoài vườn.
    – Hay là thế này bác ạ. Nếu cháu mang cô ấy theo, cô ấy sẽ chết ở nơi khác và bác sẽ không phải lo nghĩ đến bất cứ vấn đề gì nữa.”
    Đối với cha mẹ Souad, việc tôi đưa cô ấy đi chết ở nơi khác rõ ràng chẳng có ý nghĩa gì với họ. Cả đời họ chưa từng nghe một việc như thế. Hassan cũng nhận thấy điều này, anh nhấn mạnh thêm:
    “Tính kỹ lại, nếu làm như thế sẽ bớt được nhiều phiền hà cho bác và cho tất cả mọi người trong làng…
    – Phải, nhưng chúng tôi cứ chôn cất nó như thế, nếu Đấng Tối cao muốn vậy, và chúng tôi nói với mọi người là đã chôn cất rồi, thế là xong.
    Cháu không biết, nhưng xin bác cứ suy nghĩ kỹ lại. Cháu có thể để cô ấy chết ở nơi khác. Cháu có thể làm như thế, nếu bác thấy tiện cho gia đình ta….”
    Thật tàn nhẫn, nhưng trong trò chơi quái đản này, tôi có thể đặt cược trên cái chết mà thôi. Nếu tôi bàn đến chuyện cứu sống và chữa trị cho Souad thì họ sẽ hoảng sợ ngay. Thế là, họ nói với Hassan và tôi rằng họ cần trao đổi với nhau. Một cách gián tiếp để chúng tôi hiểu đã đến lúc phải ra về. Sau khi cúi chào theo phong tục, chúng tôi hẹn sẽ quay trở lại. Phải nghĩ ra sao về toan tính của chúng tôi lúc ấy? Liệu chúng tôi đã đi đúng hướng chưa? Một mặt, Souad sẽ biến mất, mặt khác, gia đình cô ấy sẽ phục hồi danh dự trong mắt mọi người trong làng.
    Thánh Allah luôn cao cả, chính ông bố đã nói thế. Cần phải biết kiên nhẫn.
    Trong khoảng thời gian ấy, ngày nào tôi cũng đến bệnh viện tìm cách xin cho Souad những điều kiện chăm sóc tối thiểu. Nhờ sự có mặt của tôi mà những người ở bệnh viện bắt buộc phải cố gắng. Chẳng hạn như tẩy trùng những vết bỏng thường xuyên hơn. Nhưng vẫn không có thuốc giảm đau cũng như các loại thuốc đặc trị. Da của cô gái đáng thương vẫn còn là vết bỏng khổng lồ, gây nhiều đau đớn cho cô ấy và rất khó chấp nhận trong mắt người ngoài. Nhiều lúc tôi nghĩ đến, như trong giấc mơ của câu chuyện cổ tích, những bệnh viện ở đất nước tôi, ở Pháp, ở Navarre hoặc ở nước nào đó, nơi mà những bệnh nhân bỏng nặng được chăm sóc, chữa trị rất cẩn thận và tận tình để hạn chế tối đa những cơn đau….
    Và chúng tôi trở lại với cuộc thương thuyết, vẫn là hai chúng tôi, anh bác sĩ Hassan can đảm và tôi. Thỏi sắt đang nóng thì phải rèn ngay, đề xuất đưa ra phải vừa tế nhị vừa chắc chắn:
    “Nếu cô ấy chết tại đây, mọi chuyện sẽ không ổn. Ngay cả chết trong bệnh viện chăng nữa, thì vẫn không tiện cho bác đâu. Nhưng chúng cháu có thể mang cô ấy đi thật xa, đến một nước nào đó. Và như thế, tất cả sẽ kết thúc, bác có thể nói với mọi người trong làng là cô ấy đã chết. Cô ấy chết ở một đất nước khác và nhà ra sẽ không bao giờ nghe nói đến cô ấy nữa.”
    Lúc này, cuộc thương lượng càng trở nên căng thẳng. Nếu không có loại giấy tờ thì dù có được họ đồng ý tôi cũng sẽ không làm được gì. Mà tôi thì đã sắp đạt được mục đích. Tôi không hỏi thêm chuyện gì khác, không hỏi ai đã gây ra chuyện này cũng không hỏi ai là bố đứa trẻ. Những chuyện như thế đều không đáng kể trong cuộc thương lượng này, có nhắc đến cũng chỉ làm hoen ố danh dự của họ mà thôi. Điều tôi quan tâm là thuyết phục thế nào để họ tin rằng con gái họ sắp chết, nhưng chết ở một nơi khác. Để họ nghĩ rằng tôi là một con điên, một người nước ngoài kỳ quái mà họ nên lợi dụng theo chiều hướng có lợi cho họ.
    Tôi cảm thấy câu chuyện có vẻ tiến triển. Nếu họ bằng lòng thì ngay sau khi chúng tôi ra về, họ có thể tuyên bố với cả làng rằng con gái họ đã chết, không cần phải giải thích thêm chi tiết nào, không cần phải tổ chức chôn cất trong vườn. Họ có thể kể bất cứ chuyện gì họ muốn và thậm chí, họ còn có thể báo thù cho danh dự của mình theo cách riêng của họ. Quả thực rất điên rồ nếu ra nghĩ đến chuyện này theo lối tư duy của người phương Tây… và không tưởng tượng nổi khi ta đạt được mục đích trong những điều kiện như vậy. Như thế, sự mặc cả này không làm lương tâm họ cắn rứt một chút nào. Ở đây, đạo đức và luân lý có điểm đặc biệt là chỉ chống lại đàn bà con gái, buộc họ phải tuân theo những luật lệ có lợi cho cánh đàn ông trong bộ tộc. Chính bà mẹ đã chấp nhận đạo luật này khi muốn đứa con gái của mình phải chết và biến mất vĩnh viễn. Bà ta không thể làm khác và trong thâm tâm, tôi cảm thấy thương bà ta. Nếu không, tôi sẽ không còn cảm thấy gì khác. Dù ở châu Phi, Ấn Độ, Jordanie hoặc ở Cisjordanie, tôi đều phải tự thích ứng với các nền văn hóa và tôn trọng những phong tục cổ truyền. Mục đích duy nhất của tôi là giúp đỡ nạn nhân của những hủ tục ấy, không phân biệt họ là nam hay nữ. Nhưng trong đời tôi, đây là lần đầu tiên tôi thương lượng một mạng người theo cách này. Họ đã nhượng bộ.
    Ông bố bắt tôi phải hứa và bà mẹ cũng bắt tôi phải hứa là không bao giờ để họ phải thấy lại cô con gái nữa! KHÔNG BAO GIỜ nữa ư!
    “Không! Không bao giờ nữa! KHÔNG ĐỜI NÀO!”
    Tôi hứa. Nhưng để giữ được lời hứa của mình, để đưa được Souad ra nước ngoài tôi cần phải làm đủ giấy tờ cho cô ấy.
    “Cháu xin bác giúp cho việc này nữa… Có lẽ cũng khó khăn cho bác một chút, nhưng cháu sẽ cùng đi với bác và cháu sẽ giúp bác. Chúng ta phải đến cơ quan cấp giấy tờ căn cước và xuất nhập cảnh”.
    Trở ngại mới này ngay lập tức khiến họ lo lắng. Mọi sự tiếp xúc với cộng đồng Israel, nhất là đối với các nhà chức trách Israel đều là vấn đề rất đáng ngại đối với họ.
    “Hai bác sẽ cùng đi với cháu đến Jérusalem, cả bác và bác gái, cùng ký tên.
    – Nhưng chúng tôi không biết đọc, biết viết!
    – Không sao cả, bác chỉ cần lấy dấu vân tay điểm chỉ cũng được….
    – Được rồi, chúng tôi sẽ đi với cô.”
    Lần này, tôi phải dọn đường với nhà chức trách Israel trước khi quay lại tìm cha mẹ Souad. Thật may là tôi có quen với rất nhiều người làm việc ở bộ phận cấp thị thực tại Jérusalem. Ở đây, tôi trình bày ý định của tôi và các nhân viên cũng biết rõ những việc tôi làm cho trẻ em. Vả lại, tôi đang cứu một đứa trẻ. Souad bảo với tôi là mười bảy tuổi nhưng có hề chi, cô ấy vẫn còn là một đứa trẻ. Tôi cho các viên chức Israel biết tôi sẽ đưa đến chỗ cha mẹ của một cô gái đang bệnh nặng và nhắc họ không nên để hai người này phải đợi đến ba tiếng đồng hồ vì như thế, họ sẽ bỏ về ngay mà không chịu ký gì cả. Họ là những người không biết chữ và tôi cần phải có mặt để giúp họ làm thủ tục. Tôi sẽ đưa họ đến, nếu họ có giấy khai sinh, họ sẽ mang theo và cơ quan ở đây chỉ cần xác nhận tuổi cô gái trên giấy thông hành. Một lần nữa, tôi thấy mình quá liều lĩnh khi nói thêm rằng cô ấy sẽ ra nước ngoài với một đứa con. Trong khi tôi vẫn chưa biết hiện đứa bé đang ở đâu và làm thế nào để tìm ra nó.
    Nhưng đó không phải là vấn đề lúc này: cứ lần lượt giải quyết từng việc một. Vấn đề duy nhất hiện nay là thúc giục cha mẹ Souad nhanh hơn và làm thế nào để Souad được chăm sóc nhiều hơn.
    Dĩ nhiên, nhân viên hành chính Israel hỏi tôi:
    “Nhưng chị có biết tên của cha đứa bé không?
    – Không, tôi không biết.
    – Thế có phải ghi là con hoang không?”
    Lối gọi ấy áp dụng đối với giấy tờ hành chính làm tôi bực mình.
    “Không, anh không nên ghi như thế. Mẹ đứa bé sẽ ra nước ngoài và tại các nước ấy chuyện con hoang của các anh không có giá trị gì đâu!”
    Tờ giấy thông hành mà tôi xin cho Souad và con của cô ấy không phải là hộ chiếu mà chỉ là một tờ giấy cho phép đi khỏi lãnh thổ Palestine để đến một nước khác. Và Souad sẽ không bao giờ trở lại Palestine nữa. Nghĩa là, cô ấy không còn tồn tại trên đất nước của mình, sẽ bị gạch tên trong sổ quản lý nhân khẩu, cô gái bị thiêu sống ấy. Như đã chết.
    “Anh làm cho tôi hai giấy thông hành, một cho người mẹ và một cho đứa bé.
    Nhưng đứa bé ấy đâu?
    – Tôi sẽ đi tìm.”
    Thời gian dần trôi, nhưng khoảng một giờ sau, nhà chức trách Israel đã bật đèn xanh cho tôi. Và ngay sáng hôm sau, tôi đi đón bố mẹ Souad, lần này tôi đi một mình, như một chiến thắng lớn. Cả hai người lẳng lặng bước lên xe, như hai chiếc mặt nạ, và một lát sau, chúng tôi đến Jérusalem, đi thẳng vào phòng cấp thị thực. Đối với bố mẹ Souad, đây là vùng đất của kẻ thù, nơi mà theo lệ thường, họ vẫn bị đối xử chẳng ra gì.
    Tôi ngồi bên cạnh họ và chờ. Đối với người Israel, tôi được xem là vật bảo đảm rằng hai người đi cùng với tôi không mang theo bom. Ở đây, kể từ ngày tôi làm việc với cộng đồng người Palestine và Israel, ai cũng biết tôi. Bỗng một nữ nhân viên đang xác lập giấy tờ vẫy tôi lại gần:
    “Giấy khai sinh của cô gái là mười chín tuổi! Thế mà em bảo với bọn chị là cô ấy chỉ mới mười bảy!
    – Chúng ta không nên cãi nhau vì chuyện nhỏ nhặt này, vả lại, cô ấy mười bảy hay mười chín thì cũng có thay đổi gì đâu….
    – Sao em không đưa cô ấy đến đây? Cô ấy cũng phải ký tên chứ.
    – Em không thể đưa cô ấy đến đây được vì cô ấy đang sắp chết trong bệnh viện.
    – Thế còn đứa bé?
    – Chị ơi, chị có thể bỏ qua tất cả được không. Trước mặt ông bố và bà mẹ này, chị đưa giấy thông hành của cô gái để họ ký tên vào, còn riêng cái giấy của đứa bé, em sẽ cung cấp cho chị đầy đủ các chi tiết và em sẽ đến lấy sau.”
    Với những trường hợp không liên quan đến an ninh quốc gia, các nhân viên Israel đều tỏ ra hợp tác. Dạo tôi mới đến bắt đầu làm việc với tổ chức nhân đạo, mỗi lần đi công tác tại các vùng bị chiếm đóng, tôi thường bị binh sĩ Israel gọi lại. Mỗi lần như thế tôi phải tự xoay sở với họ. Nhưng khi biết tôi cũng lo cho những trẻ em Israel bị khuyết tật nghiêm trọng, kết quả của cuộc hôn phối giữa những người có cùng huyết thống trong một số cộng đồng thì mọi việc đối với tôi cũng được cải thiện rõ rệt. Khổ nhất là những đứa trẻ sinh ra trong những gia đình sùng đạo đến mức cực đoan, anh em trong họ thường lấy nha nên đẻ ra những đứa con thiểu năng trí tuệ hoặc bị khuyết tật nghiêm trọng. Chuyện này cũng xảy ra trong một số gia đình Ả Rập sùng đạo. Công việc của tôi dạo ấy chủ yếu là giải quyết vấn đề này trong hai cộng đồng Israel và Ả Rập. Nhờ thế tôi có thể làm việc trong bầu không khí tin cậy lẫn nhau, đặc biệt với các cơ quan hành chính.
    Cơ quan cấp giấy thông hành nằm bên ngoài khu vực tường thành, bên cạnh thành cổ Jérusalem. Cầm tờ giấy thông hành quý giá trong tay, tôi cùng cha mẹ Souad – từ bấy đến giờ chưa hề hé một lời – đi bộ giữa binh lính Israel súng ống đầy người, để lên ôtô. Lúc sáng vào làng đón họ đi như nào thì bây giờ tôi đưa họ về tận nhà như thế. Ông bố người thấp bé, tóc hung đỏ, cặp mắt xanh biếc trong bộ quần áo Keffieh màu trắng với chiếc gậy trong tay và bà mẹ mặc toàn màu đen, mắt lúc nào cũng cúi nhìn gấu áo dài.
    Ít nhất cũng phải mất một tiếng để đi từ Jérusalem về đến ngôi làng. Lần đầu tiên, tuy cố tỏ vẻ xông xáo nhưng thực ra, tôi rất sợ gặp mặt họ. Còn bây giờ, tôi không sợ nữa, tôi cũng không phán xét họ mà tôi chỉ thầm nghĩ: “Những con người đáng thương.” Tất cả chúng ta đều là những con cờ trong tay định mệnh.
    Trong lượt đi cũng như lượt về, họ lẳng lặng đi theo tôi, không nói một lời. Khi đến Jérusalem, họ tỏ ra lo sợ người Israel sẽ gây phiền hà. Tôi nói với họ là không phải sợ và mọi việc sẽ diễn ra tốt đẹp thôi. Ngoài một vài câu trao đổi cần thiết, tôi không có cuộc nói chuyện nào với họ. Tôi cũng không gặp những thành viên khác trong gia đình, cũng không xem bên trong ngôi nhà họ. Nhìn kỹ cha mẹ Souad, tôi thấy khó có thể tin được họ đã định giết con gái họ. Mặc dù kẻ ra tay giết người là người anh rể nhưng chính họ mới là người ra quyết định… Về sau, từ kinh nghiệm đầu tiên này, tôi có cùng những cảm nhận khi tiếp xúc với những ông bố và bà mẹ khác trong những trường hợp tương tự trường hợp của Souad. Tôi không thể xem họ là những kẻ giết người. Cha mẹ Souad không khóc nhưng tôi thấy nhiều người khóc vì chính họ là tù nhân của hủ tục kinh khủng ấy: giết người vì danh dự.
    Khi xe dừng trước ngôi nhà gia đình họ, ngôi nhà lúc nào cũng đóng cửa im ỉm để che giấu những bí mật, những bất hạnh, họ lẳng lặng bước xuống. Tôi cũng lẳng lặng bước xuống. Tôi cũng lẳng lặng ra về. Kể từ đấy, tôi và họ không còn gặp nhau nữa.
   

- o O o -

    Tôi có rất nhiều việc phải làm. Trước tiên, cần phải gặp sếp của tôi.
    Edmod Kaiser là người sáng lập tổ chức Terre des hommes. Tôi chưa nói cho ông ấy biết về ý tưởng điên rồ của tôi. Trong bước thứ nhất, tôi phải “chung kết hóa”, nếu tôi có thể gọi như thế, về mặt hành chính. Thế rồi tôi xin gặp Edmond Kaiser. Hồi ấy Kaiser chưa hề nghe nói đến những chuyện như thế này. Tôi trình bày tóm lược tình hình với ông:
    “Thế này, tôi có một cô gái bị thiêu sống, và cô ấy mới sinh một đứa bé. Tôi có ý định đưa cô ấy sang châu Âu nhưng tôi không biết đứa bé đang ở đâu. Ông có đồng ý làm vậy không?
    – Dĩ nhiên là tôi đồng ý."
    Edmond Kaiser là như thế. Một con người tuyệt vời, rất nhạy bén trước những trường hợp khẩn cấp. Câu hỏi vừa đặt ra là ông có câu trả lời ngay. Người ta có thể nói chuyện với ông một cách ngắn gọn như thế.
    Tôi vội đưa Souad ra khỏi phòng cách ly vì ở đấy, Souad phải chịu đau đớn khổ sở như một con vật. Nhưng cũng chính tại nơi này, Souad và tôi đã may mắn nhận được sự giúp đỡ to lớn của cá nhân bác sĩ Hassan. Nếu không có sự tốt bụng và lòng can đảm của anh, chỉ Chúa mới biết tôi có thành công được hay không.
    Cả hai chúng tôi quyết định đợi đến đêm để âm thầm đưa Souad ra ngoài trên một chiếc cáng cứu thương. Tôi cũng đồng ý với giám đốc bệnh viện là phải làm thế nào để không bị ai trông thấy. Tôi không biết họ có phao tin là Souad đã chết trong đêm ấy hay không, nhưng có lẽ họ đã làm vậy.
    Tôi đặt Souad nằm ở ghế sau, khi đó vào khoảng ba hay bốn giờ sáng, và chúng tôi chạy thẳng đến một bệnh viện khác. Hồi ấy, chưa có nhiều hàng rào kiểm soát như khi xuất hiện phong trào nổi dậy của người Palestine. Chuyến đi không gặp trở ngại gì và tảng sáng, tôi đã đến nơi. Ở bệnh viện này, mọi thứ đã được chuẩn bị từ trước. Giám đốc bệnh viện đã được báo trước và tôi cũng đề nghị ở bệnh viện, đừng ai hỏi Souad về gia đình, về cha mẹ cô ấy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:10:14 | Xem tất
   Bệnh viện này được trang bị đầy đủ hơn, đặc biệt là sạch sẽ hơn. Họ nhận được sự giúp đỡ của Hội Nhân Đạo Malte. Souad được đưa vào một phòng riêng biệt. Hàng ngày, trong khi chờ đợi xin được thị thực đi châu Âu và nhất là chờ tim được đứa bé, tôi đều đến thăm cô ấy.
    Cô ấy không nhắc gì đến đứa bé. Hình như với cô ấy, chỉ cần biết nó còn sống ở một nơi nào đó là đủ và vẻ dửng dưng bề ngoài ấy kể ra cũng rất dễ hiểu. Đau đớn, tủi nhục, lo lắng, áp lực: xét cả về tâm lý lẫn thể chất, cô ấy không thể tự xem mình là một người mẹ. Cần phải biết rằng, những điều kiện để người ta tiếp nhận một đứa con hoang do người mẹ có tội, cụ thể là bị thiêu sống vì danh dự sinh ra, khắc nghiệt đến nỗi tốt hơn hết là tách nó ra khỏi cộng đồng này. Nếu trên đất nước của mình, đứa bé có thể sống trong những điều kiện tốt thì có lẽ tôi đã quyết định để con của Souad lại. Đối với đứa bé cũng như đối với mẹ nó, đó sẽ là giải pháp đau lòng hơn cả. Nhưng buồn thay, đó là điều không thể. Suốt đời, đứa bé ấy sẽ phải sống với những nỗi nhục của mẹ nó, trong một trại mồ côi và sẽ bị mọi người khinh bỉ. Tôi phải đưa nó ra khỏi nơi ấy, cũng như Souad.
    “Bao giờ chúng ta đi?”
    Souad chỉ nghĩ đến chuyện ra đi, mỗi lần tôi vào thăm, cô ấy đều hỏi tôi câu đó.
    “Khi nào có thị thực chúng ta sẽ đi. Nhất định sẽ có, em đừng lo gì cả.”
    Cô ấy phàn nàn với tôi về những cô y tá không cẩn thận khi tháo băng, mỗi lần trông thấy họ đến gần, cô ấy hét lên, và cảm thấy bị ngược đãi. Tôi ngờ rằng các điều kiện chăm sóc ở đây, tuy có vệ sinh hơn, vẫn chưa đáng được gọi là lý tưởng. Nhưng làm sao có thể khác được khi thị thực còn chưa xong? Những giấy tờ kiểu này không bao giờ làm nhanh được.
    Và trong lúc ấy, tôi vận động những chỗ quen biết để tìm đứa bé. Chị bạn tôi, người trước đây đã báo với tôi về trường hợp của Souad, liền liên hệ với một nữ trợ tá xã hội với thái độ hết sức dè dặt. Cô này còn tỏ ra dè dặt hơn. Chị bạn tôi đã thuật lại rất rõ ràng:
    “Cô ấy bảo cô ấy biết đứa bé đang ở đâu, đó là một bé trai, nhưng không thể mang nó ra ngoài dễ dàng như thế được, đó là điều không thể. Cô ấy còn cho là chị sai lầm khi muốn xen vào chuyện đứa bé. Nó sẽ là một gánh nặng nữa cho chị và sau đó là cho mẹ nó!”
    Tôi đi hỏi ý kiến của Souad:
    “Con trai em tên gì?
    – Tên nó là Marouan.
    – Em đặt cho nó cái tên ấy phải không?
    – Vâng. Em đã đặt tên cho nó. Lúc ấy, ông bác sĩ đã hỏi em tên của nó….”
    Cô ấy có những lúc mất trí nhớ xen với những lúc tỉnh táo lạ thường thành ra nhiều khi tôi không biết đâu mà lần. Cô ấy đã quên những giây phút khủng khiếp nhất khi đứa con được sinh ra, quên là người ta nói đó là con trai và chưa bao giờ nói với tôi về tên của nó. Thế mà đột nhiên, bằng một câu hỏi bình thường, tôi đã có ngay câu trả lời chính xác. Tôi tiếp tục theo hướng ấy:
    “Em nghĩ thế nào về việc này? Chị cho rằng chúng ta sẽ không đi nếu không có Marouan. Chị sẽ đi tìm nó, chúng ta không thể bỏ nó ở lại đây được…”
    Souad len lén nhìn tôi, nhìn một cách khó khăn vì cằm vẫn dính chặt vào ngực.
    “Chị tin như thế ư?
    – Phải, chị tin. Em, em sắp đi, em sắp được cứu thoát. Nhưng Marouan thì sao? Chị biết rõ nếu bị bỏ lại, nó sẽ sống trong những điều kiện như thế nào, đó sẽ là địa ngục đối với nó.”
    Nó sẽ mãi là con trai của một charmuta. Con trai của một con đĩ. Tôi không nói ra nhưng chắc chắn Souad đã biết. Tôi hiểu điều đó qua câu: “Chị tin như thế ư?” đầy thảng thốt. Cô ấy rất thực tế.
    Thế là tôi đi tìm đứa bé. Trước tiên, tôi đến thăm một, hai trại mồ côi, cố tìm dấu vết của một đứa bé hiện giờ được khoảng hai tháng tuổi và có tên là Marouan. Nhưng tôi không thấy và tôi cũng không có được những điều kiện thuận lợi để có thể tìm ra đứa bé. Cô trợ tá xã hội lại không ưa những cô gái như Souad. Cô ta là người Palestine, thuộc một gia đình tử tế, nhưng truyền thống vẫn là truyền thống. Nếu không có cô ta giúp, có lẽ tôi sẽ không làm gì được. Do tôi năn nỉ mãi, và nhất là để làm vui lòng chị bạn tôi, cô ta đã cho tôi biết trung tâm nơi thằng bé được gửi vào. Hồi ấy, đó thật sự là một ổ chuột chứ không phải là trại mồ côi. Và đưa thằng bé ra khỏi đấy là một việc vô cùng phức tạp. Nó là tù nhân của chính hệ thống đã đưa nó vào đây.
    Tôi bèn đi vận động khắp nơi, và cuối cùng, khoảng mười lăm ngày sau, tôi đã tìm thấy lối thoát. Tôi đến gặp rất nhiều người. Có người chủ trương để thằng bé chịu chung số phận với mẹ nó, có người muốn gạt bỏ một vấn đề rắc rối đồng thời bớt đi một miệng ăn. Rốt cuộc cũng có người có lòng nhân ái và hiểu được sự bướng bỉnh của tôi. Sau cùng, tôi được bế trên tay một đứa bé hai tháng tuổi, một cái đầu bé xíu, trông như quả lê, trên trán có một cục u, hậu quả của sự ra đời sớm hơn thời hạn tự nhiên. Nhưng nó có sức khỏe tốt, về phần nó, như thế có thể xem là một kỳ tích. Nó không được nằm trong lồng ấp dành cho trẻ sinh thiếu tháng, cũng không được âu yếm vỗ về. Nó chỉ còn dấu vết của bệnh vàng da thường thấy ở trẻ sơ sinh. Tôi chỉ sợ nó có những vấn đề nghiêm trọng hơn. Mẹ nó đã bốc cháy như ngọn đuốc với cái thai trong bụng và sinh nó trong những điều kiện rùng rợn như cơn ác mộng. Nó gầy nhưng vẫn ổn. Nó giương đôi mắt tròn nhìn tôi, không khóc, không quấy.
    Tôi là ai được nhỉ? Zorro chăng? Tôi ngốc thật, nó làm sao biết Zorro là ai…
    Tôi đã quen với những đứa trẻ bị suy dinh dưỡng. Hồi ấy, trong một nhà tình thương, chúng tôi có sáu mươi đứa như thế. Nhưng tôi vẫn đưa Marouan về nhà, ở đấy tôi có đủ những thứ cần thiết để chăm sóc bé. Tôi đã từng đưa những đứa trẻ bị bệnh nặng sang châu Âu phẫu thuật. Ban đêm, tôi cho Marouan nằm ngủ trong một cái giỏ, quấn tã, mặc quần áo và cho bé bú sữa. Tôi đã nhận được thị thực. Tôi đã có mọi thứ cần thiết. Edmond Kaiser đang chờ chúng tôi ở Lausanne, trụ sở của CHU[5], trong khu dành riêng cho bệnh nhân bỏng nặng.
    Sáng mai, chuyến khởi hành vô cùng quan trọng sẽ bắt đầu. Người mẹ được chở trên chiếc cáng cứu thương để đáp máy bay từ Tel–Aviv. Souad ngoan ngoãn như một cô bé. Xem chừng cô ấy đau lắm nhưng khi tôi hỏi: “Ổn chứ? Em không quá đau chứ?” Cô ấy đã trả lời tôi rất đơn giản: “Có, em đau”. Thế thôi.
    “Hay chị xoay cho em nằm nghiêng một chút nhé, như thế đỡ hơn chứ?
    – Vâng, như thế sẽ đỡ hơn. Cảm ơn chị.”
    Lúc nào cũng “cảm ơn”. Cảm ơn về cái xe lăn ngoài sân bay, loại xe mà cả đời Souad chưa từng nhìn thấy. Cảm ơn về cốc cà phê uống bằng ống hút. Cảm ơn vì được đặt nằm nghỉ trong một góc, trong khi chờ được kiểm tra vé. Do tôi phải bế thằng bé và như thế sẽ rất vướng víu khi làm những thủ tục thường mất khá thời gian, nên tôi bảo Souad: “Này, chị để thằng bé nằm trên người em đấy, em đừng nhúc nhích nhé…”
    Ánh mắt của Souad thoáng chút hoảng hốt. Những vết bỏng không cho phép cô ấy có thể ôm đứa bé trong tay. Cô ấy chỉ có thể nhấc hai tay sát vào người đứa bé với nét mặt căng thẳng. Lúc tôi giao thằng bé cho cô ấy, cô ấy phác một cử chỉ lộ rõ vẻ sợ hãi. Quả thực rất khó khăn đối với cô ấy.
    “Em cứ nằm yên như thế. Chị quay lại ngay.”
    Tôi buộc phải để cô ấy trông thằng bé. Một mình tôi không thể vừa đẩy chiếc xe lăn, vừa bế thằng bé vừa đến từng bàn ở sân bay để trình hộ chiếu, thị thực, giấy thông hành và giải thích về những người đi kèm kỳ lạ của tôi.
    Và đó quả là một cơn ác mộng vì hành khách đi qua chỗ Souad nằm đều cất tiếng trầm trồ như bất cứ ai khi nhìn thấy một đứa bé: “Ôi, thằng bé kháu nhỉ! Ôi, dễ thương quá!”.
    Họ thậm chí không nhìn người mẹ, khuôn mặt biến dạng, đang gục đầu trên thằng bé ấy. Dưới lớp áo bệnh nhân, cả phần trên cơ thể Souad đều quấn băng kín. Rất khó có thể mặc quần áo cho cô ấy, cô ấy chỉ mặc một trong những cái áo vest bằng len của tôi và một cái chăn đắp ngang người. Cô ấy không thể ngẩng đầu lên để nói “cảm ơn” những người đi qua, và tôi biết đứa bé mà người này cho là kháu khỉnh đã làm Souad hoảng sợ đến thế nào.
    Khi để Souad nằm đấy với đứa bé để đi làm thủ tục, tôi tự nhủ rằng cảnh tượng vừa rồi thật siêu thực. Cô ấy nằm đó, bị bỏng toàn thân, với thằng bé trong tay. Cô ấy đã sống trong địa ngục, thằng bé cũng thế và mọi người đi ngang qua thì mỉm cười: “Ôi! Đứa bé xinh ghê!”
    Lúc lên máy bay, một vấn đề khác bỗng nảy sinh: Làm thế nào để đưa Souad vào bên trong máy bay. Tôi đã đẩy chiếc xe lăn lên cầu thang máy bay nhưng rồi tôi không biết phải tiếp tục xoay sở ra sao. Nhiều người Israel đã có kỹ thuật riêng của họ. Họ đưa một chiếc cần trục khổng lồ đến và Souad được ngồi vào một cái “cabin” treo lơ lửng ở đầu cầu trục. “Cabin” từ từ lên cao, đến ngang tầm cửa máy bay thì hai nhân viên đón chiếc xe lăn của Souad rồi đẩy vào trong.
    Tôi đặt sẵn ba chỗ ở phía trước để cô ấy có chỗ nằm và các tiếp viên hàng không đã căng một tấm màn để hành khách khác không nhìn thấy cô ấy. Marouan thì nằm trong một cái nôi do công ty hàng không cung cấp. Bay thẳng đến Lausanne.
    Souad không hề than phiền lấy một lời. Chốc chốc, tôi lại cố giúp cô ấy thay đổi tư thế nằm nhưng không có cách gì giúp cô ấy bớt đau được. Những viên thuốc giảm đau không giúp được nhiều. Trông cô ấy hơi phờ phạc, có vẻ buồn ngủ nhưng đầy tự tin. Cô ấy đang chờ. Tôi không thể cho cô ấy ăn được, chỉ cho cô ấy uống bằng một ống hút. Tôi lo thay tã cho Marouan, còn Souad vẫn tránh không dám nhìn thằng bé.
    Cô ấy đã chịu đựng rất nhiều chuyện vô cùng phức tạp. Cô ấy không hề biết Thụy Sĩ, đất nước mà tôi đưa cô ấy đến chữa trị, là gì. Chưa bao giờ cô ấy trông thấy một chiếc máy bay, một chiếc cần trục, và nhiều người đến thế tại sân bay. Tôi đã mang theo một cô gái “hoang dã”, mù chữ nhưng không ngừng khám phá mọi vật, những vật có thể sẽ rất kinh khủng đối với cô ấy. Và tôi cũng biết rằng những đau đớn đó còn lâu mới có thể kết thúc được. Phải mất nhiều thời gian thì sự sống sót ấy mới có thể dần trở thành một cuộc sống bình thường. Tôi cũng không biết người ta có thể phẫu thuật được cho cô ấy hay không, cũng không biết còn có thể ghép da cho cô ấy hay không. Sau đấy sẽ là hòa nhập với thế giới phương Tây, học một ngôn ngữ mới và tất cả những điều khác. Mỗi khi “đánh tháo” cho một nạn nhân, chúng tôi biết đó là trách nhiệm phải đảm nhận suốt đời, như Edmond Kaiser vẫn còn.
    Souad nằm xoay đầu về phía cửa sổ máy bay. Trong tình trạng hiện nay, tôi không tin cô ấy có khả năng nghĩ đến những gì đang chờ đợi mình trong những ngày sắp tới. Cô ấy đang hy vọng mà không biết chính xác mình đang hy vọng điều gì.
    “Em nhìn thấy gì kia không? Người ta gọi là mây đấy.”
    Cô ấy đang ngủ. Tuy có lớp màn bao quanh nhưng một vài hành khách vẫn phàn nàn có mùi khó chịu trên máy bay. Kể từ lần đầu tiên tôi đến thăm Souad trong gian phòng cách ly và chết chóc ấy, tính đến nay đã hai tháng. Mỗi centimet da nửa người phía trên và hai cánh tay Souad đã phân hủy thành một vết thương rộng hoác, rỉ mủ. Những hành khách đi cùng chuyến bay có thể đã bịt mũi và nhăn mặt với các nữ tiếp viên để tỏ ý ghê tởm, nhưng tôi không bận tâm chuyện đó. Tôi đưa sang châu Âu một cô gái bị thiêu sống và đứa con của cô ấy, một ngày kia họ sẽ biết ra sao. Họ cũng sẽ biết rằng, ở tất cả những nước có tục lệ giết người vì danh dự theo luật của những người đàn ông, đã có nhiều cô gái khác bị giết hoặc sẽ bị giết. Chuyện ấy xảy ra tại Cisjordanie nhưng cũng có thể tại Jordanie, Thổ Nhĩ Kỳ, Irak, Yémen, Ấn Độ, Pakistan, thậm chí tại Israel và cả châu Âu nữa. Họ sẽ biết rằng rất ít phụ nữ thoát chết sau đó đã phải trốn tránh suốt đời để không bị những kẻ sát nhân tìm thấy. Bởi vì có nhiều trường hợp bọn sát nhân tìm được nạn nhân của chúng. Họ sẽ biết được rằng phần lớn các tổ chức nhân đạo không quan tâm đến những phụ nữ ấy vì đó là những trường hợp xã hội cá biệt, mang đặc thù “văn hóa”! Và rằng, tại một số quốc gia, luật pháp bảo vệ những kẻ sát nhân. Những trường hợp này không nằm trong khuôn khổ các chiến dịch lớn được phát động nhằm đẩy lùi nạn đói và chiến tranh, giúp đỡ những người tị nạn hoặc đối phó với đại dịch. Tôi có thể hiểu và chấp nhận điều ấy. Trên công trường thế giới buồn thảm này, mỗi người trong chúng ta ai cũng có vai trò của riêng mình. Và kinh nghiệm mà tôi vừa trải qua chứng tỏ rằng phải rất khó khăn và mất thời gian hơn nữa mới có thể bí mật thâm nhập vào một quốc gia, tìm dấu vết của những nạn nhân của tội ác vì danh dự, và giúp đỡ họ, bất chấp mọi nguy hiểm rủi ro.
    Souad là vụ “đánh tháo” đầu tiên của tôi, nhưng nhiệm vụ của tôi vẫn chưa kết thúc. Ngăn không để cho Souad phải chết là một chuyện, nhưng để cho cô ấy sống lại là một chuyện khác.
    Chú Thích:
    [3] Haram (tiếng Ả Rập): Khốn nạn thay!
    [4] Allah karim (tiếng Ả Rập): Lạy thánh Allah!
    [5] CHU: Trung tâm điều trị của phân viện y khoa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:12:04 | Xem tất
chương 13: thụy sĩ
Nằm trong máy bay, tôi có thể ngắm nhìn khuôn mặt bé xíu, dài, ngăm đen nhưng rất xinh của nó với cái mũ vải mềm màu trắng đội trên đầu. Tôi đã mất khái niệm thời gian và tôi có cảm tưởng nó mới chỉ được ba tuần tuổi trong khi Marouan đã được hai tháng tuổi. Chị Jacquelien bảo chúng tôi đến Genève vào ngày 20 tháng Chạp.
    Khi chị đặt Marouan nằm trên người tôi, tôi đã rất sợ. Hai tôi không thể giữ nó và tôi cảm thấy một cảm xúc lẫn lộn, vừa xấu hổ vừa đau đớn, và tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
    Tôi đã ngủ rất nhiều. Tôi không nhớ mình được đưa xuống khỏi máy bay bằng cách nào và cũng không nhớ gì về chiếc xe cứu thương đã chở tôi đến bệnh viện. Mãi đến ngày hôm sau, tôi mới biết mình đang ở đâu.
    Về cái ngày đặc biệt ấy, cuối cùng tôi chỉ nhớ được khuôn mặt của Marouan và hình ảnh đám mây. Tôi đã tự hỏi không biết những vật lạ lùng màu trắng ở phía bên kia cửa sổ máy bay là gì, và chị Jacqueline đã giải thích rằng chúng tôi đang bay trên trời. Tôi biết rõ là chúng tôi đang trên đường đến Thụy Sĩ nhưng hồi ấy, hai chữ Thụy Sĩ đối với tôi chẳng ý nghĩa gì. Tôi nhầm lẫn giữa Thụy Sĩ với Israel vì tôi vẫn nghe nói tất cả những nơi nằm ngoài ranh giới làng tôi, nghĩa là nằm về phía Bắc, đều là xứ sở của kẻ thù.
    Hồi ấy tôi không biết gì về thế giới, về các quốc gia, và những cái tên khác nhau. Ngay đến tên nước của mình, tôi cũng không biết. Tôi đã lớn lên và chỉ hiểu được một điều: có lãnh thổ của nước tôi và phần còn lại của thế giới. Vùng đất của kẻ thù, cha tôi thường nói, và ở đấy người ta ăn thịt lợn!
    Vậy mà tôi lại đến sống trên vùng đất của kẻ thù nhưng tôi hoàn toàn tin tưởng bởi chị Jacqueline cũng ở đó.
    Những người xung quanh, trong bệnh viện này, không hề biết câu chuyện của tôi. Chị Jacqueline và ông Edmond Kaiser không nói gì. Tôi là một bệnh nhân bị bỏng nặng, đó là điều duy nhất quan trọng ở đây.
    Ngay trong ngày hôm sau, bệnh viện đã tiến hành ca phẫu thuật đầu tiên để gỡ cằm tôi ra, và để tôi có thể ngẩng đầu lên. Thịt bên trong trơ hẳn ra ngoài, tôi chỉ nặng ba mươi tư cân, toàn thân đầy những vết bỏng, những chỗ trơ xương và những mảng da nhăn nhúm. Mỗi lần trông thấy cô y tá đẩy chiếc xe đựng dụng cụ và thuốc men điều trị, tôi liền bật khóc. Nhưng họ tiêm cho tôi thuốc giảm đau và cô y tá tỏ ra rất dịu dàng. Cô ta nhẹ nhàng cắt bỏ lớp da chết, rồi dùng một cái kẹp nhỏ gắp nó ra. Cô ta cho tôi uống thuốc kháng sinh và người tôi được bôi đầy thuốc mỡ. Không còn cảnh tắm rửa cưỡng ép, hay lớp vải gạc bị giật thô bạo mà tôi từng chịu đựng trong những bệnh viện ở đất nước tôi. Sau đấy, các bác sĩ đã kéo hai tay tôi ra để tôi có thể cử động bình thường. Ban đầu, hai cánh tay tôi buông thõng xuống hai bên mạn sườn, cứng nhắc và thẳng đơ như hai tay búp bê.
    Rồi tôi bắt đầu tập đứng thẳng, tập đi trong hành lang bệnh viện, tập sử dụng hai bàn tay và tập khám phá thế giới mới mà tôi không nói được ngôn ngữ của nó. Do tôi không biết đọc cũng không biết viết, ngay đến chữ Ả Rập cũng vậy, nên tôi tự thu mình trong sự im lặng thận trọng, mãi cho đến khi tôi hiểu được một vài từ cơ bản.
    Tôi chỉ có thể nói chuyện được với chị Jacqueline và Hoda vì cả hai đều nói được tiếng Ả Rập. Edmond Kaiser rất tuyệt vời. Tôi kính phục ông và trong đời tôi, tôi chưa bao giờ kính phục một người đàn ông như thế. Ông là người cha thực sự của tôi. Bây giờ tôi mới hiểu chính ông đã quyết định cho tôi cuộc đời mới, chính ông đã cử chị Jacqueline đến với tôi.
    Điều khiến tôi vô cùng ngạc nhiên, khi tôi đi từ phòng mình đến thăm Marouan trong phòng trẻ, chính là sự tự do của các cô gái ở đây. Có hai cô y tá đi cùng tôi. Cả hai đều trang điểm, làm tóc, mặc váy ngắn và họ nói chuyện với đàn ông. Tôi tự nhủ: “Họ nói chuyện với đàn ông. Họ chết mất!”Tôi thấy bị sốc đến mức đã tìm cách nói với chị Jacqueline và ông Edmond Kaiser ngay khi có dịp:
    “Chị xem cô gái ở đằng kia, cô ta đang nói chuyện với một người đàn ông! Họ sẽ giết cô ta mất.”
    Vừa nói tôi vừa làm cử chỉ giơ tay như bị chặt đầu.
    “Không phải thế đâu. Chúng ta đang ở Thụy sĩ, mọi thứ không giống như ở đất nước của em, không ai chặt đầu cô ta cả, ở đây, đó là chuyện hoàn toàn bình thường.
    – Nhưng chị nhìn xem, hai chân cô ta để hở ra trước mắt mọi người, thật không bình thường khi để hở chân cho người ta nhìn như thế.
    – Không sao, cũng bình thường thôi mà, cô ta mặc áo blouse để đi làm.
    – Còn hai mắt cô ta nữa. Kẻ mắt như thế là tội nặng lắm phải không chị?
    – Không đâu, ở đây phụ nữ đều trang điểm, họ đi chơi, họ có quyền có bạn trai. Nhưng ở đất nước em thì không thể. Em đang ở đây chứ không phải ở đất nước em, em đang ở Thụy Sĩ.”
    Tôi không tài nào hiểu được, đầu óc tôi không tài nào tiếp nhận việc ấy được. Tôi nghĩ có lẽ mình đã khiến ông Edmond Kaiser phải mệt óc vì tôi hỏi đi hỏi lại những câu đó. Ngay lần đầu tiên, tôi đã nói: “Mình sẽ không còn gặp lại cô gái này nữa. Vì cô ta thế nào cũng chết”.
    Nhưng ngày hôm sau, tôi thấy cô ta vẫn còn sống và tôi rất mừng cho cô ta. Tôi tự nhủ: “Cảm ơn trời, cô ta vẫn còn sống. Cô ấy vẫn mặc áo blouse trắng như hôm trước, người ta nhìn thấy chân cô ấy, vậy là người ta nói thật, không phải vì thế mà người ta phải chết”. Trước đây, tôi cứ tưởng ở các nước khác, mọi thứ đều giống ở nước tôi. Hễ con gái mà nói chuyện với đàn ông và bị người khác bắt gặp, cô ta sẽ chết.
    Tôi cũng cảm thấy rất sốc vì cách đi đứng của những cô gái ấy. Họ tươi cười, tỏ ra rất thoải mái và bước đi cùng đàn ông…. Tôi trông thấy rất nhiều cô tóc vàng:
    “Tại sao tóc của các cô lại vàng? Tại sao lại không đen như em? Vì ở đây không nắng chói chang bằng ư? Nếu trời nóng hơn, liệu tóc họ có bị đen không, có bị quăn tít không? Ôi! Họ còn mặc áo ngắn tay nữa chứ. Chị xem kìa, hai người phụ nữ đang cười ấy! Ở làng em, một phụ nữ không bao giờ được cười với một phụ nữ khác, đàn bà con gái không bao giờ được mặc áo tay ngắn….. Và họ còn đi giày nữa chứ!
    – Nhưng đấy là em còn chưa nhìn thấy tất cả mọi thứ đó!’
   

- o O o -

    Tôi còn nhớ lần đầu tiên được ông Edmond Kaiser dẫn đi thăm thú thành phố. Lúc ấy chị Jacqueline phải trở lại Trung Đông để làm việc. Tôi nhìn thấy nhiều phụ nữ trong nhà hàng ngồi hút thuốc lá, hai cánh tay để trần với làn da trắng muốt trông rất đẹp. Tôi chỉ nhìn thấy những cô gái tóc vàng da trắng, tôi ngắm nhìn họ hệt như bị thôi miên. Ở nước tôi, những cô gái tóc vàng như thế rất ít nên đàn ông rất thích họ, vì vậy tôi nghĩ là họ có thể gặp nguy hiểm. Ông Edmond Kaiser giảng giải cho tôi bài học địa lý đầu tiên.
    “Họ được sinh ra với màu da trắng, những người sinh ra ở nước khác sẽ có màu da khác. Nhưng ở đây, ngay tại châu Âu, cũng có phụ nữ da đen, phụ nữ da trắng, phụ nữ tóc hung với những đốm tàn nhang trên mặt….
    – Những vết như cháu à?
    – Không. Không phải những vết bỏng như cháu, mà là những vết rất nhỏ do ánh mặt trời để lại trên làn da trắng của họ!”
    Tôi nhìn quanh, lúc nào tôi cũng chú ý tìm một cô gái nào đấy giống như tôi và tôi nói với ông Kaiser: “Xin Đấng Tối cao tha lỗi cho cháu, cháu chỉ muốn gặp một cô gái nào khác cũng bị thiêu sống như cháu, nhưng cháu chưa gặp ai cả. Tại sao cháu lại là người duy nhất bị thiêu sống chứ?”
    Mãi cho đến hôm nay, tôi vẫn có cảm tưởng mình là người phụ nữ duy nhất trên trái đất bị thiêu sống. sống. Nếu tôi là nạn nhân của một vụ tai nạn, thì đó lại là chuyện khác. Đó là số phận và chúng ta không thể oán trách số phận.
    Ban đêm, tôi hay gặp ác mộng và gương mặt của anh rể tôi lại xuất hiện. Tôi cảm thấy anh ta đi vòng quanh tôi và tôi nghe thấy tiếng anh ta nói với tôi: “Tôi sẽ lo cho cô…”
    Và tôi chạy với ngọn lửa trên người. Ban ngày, tôi cũng đột nhiên nghĩ đến chuyện ấy, và ước muốn được chết bỗng trở lại, để không còn bị đau đớn nữa.
    Suốt đời, tôi luôn cảm thấy mình đang bị thiêu đốt, theo một cách khác. Suốt đời, tôi sẽ phải lẩn trốn, phải mặc áo tay dài trong khi tôi luôn mơ ước được mặc những chiếc áo tay ngắn như những người phụ nữ khác, phải mặc áo sơ mi cài kín cổ trong khi vẫn mơ đến những kiểu áo hở cổ như những người phụ nữ khác. Những người phụ nữ ấy được tự do. Tôi bị cầm tù ngay trong chính làn da của tôi, ngay cả khi tôi tự do bước đi trong cùng một thành phố tự do ấy.
    Lúc ấy, vì tôi rất muốn nên tôi hỏi ông Kaiser rằng một ngày nào đó, tôi có thể có một cái răng vàng rực rỡ hay không? Và ông Kaiser mỉm cười trả lời: “Cháu phải chữa bệnh trước đã, sau đó chúng ta mới nói đến chuyện răng của cháu."
    Ở đất nước tôi, một chiếc răng vàng, đó là một điều tuyệt diệu. Tất cả những gì sáng lấp lánh đều tuyệt diệu. Nhưng có lẽ tôi đã làm ông ngạc nhiên với lời cầu xin kỳ quặc ấy. Tôi không có thứ gì gọi là của riêng mình, mình, tôi phải nằm thường xuyên và thỉnh thoảng, giữa những đợt điều trị, tôi được đưa ra ngoài đi dạo, và tuần lễ tôi mới được tắm rửa một lần. Khi nào những vết bỏng còn chưa lành thì chưa có chuyện mặc quần áo tươm tất, tôi chỉ được khoác một chiếc áo sơ mi và cả người tôi quấn băng kín mít. Tôi không đọc sách được vì tôi không biết đọc. Tôi không nói chuyện được vì các cô y tá không hiểu tôi nói gì. Chị Jacqueline có để lại những mẩu giấy phiên âm tiếng Ả Rập và nghĩa của những từ ấy bằng tiếng Pháp. Ăn, ngủ, đi vệ sinh, đau, không đau, tất cả những tiếng cần thiết để họ có thể chăm sóc tôi. Khi tự mình đứng lên được, tôi thường ra đứng gần cửa sổ. Tôi ngắm nhìn thành phố, ánh đèn và ngọn núi ở đằng xa. Thật tuyệt vời. Tôi há hốc mồm chiêm ngưỡng quang cảnh xung quanh. Tôi muốn ra khỏi phòng và đi dạo, tôi chưa bao giờ nhìn thấy những thứ như thế, những gì tôi nhìn thấy đều tươi đẹp vô cùng.
    Mỗi sáng tôi đều đến thăm Marouan. Tôi phải rời khu nhà điều trị để đi sang nhà trẻ. Tôi cảm thấy lạnh. Tôi chỉ mặc một chiếc áo bệnh viện cấp cho có khóa kéo phía sau lưng, một chiếc áo khoác của bệnh viện và đôi giày của bệnh viện. Với chiếc bàn chải đánh răng của bệnh viện, tài sản của tôi vẻn vẹn chỉ có thế. Thế nên tôi cắm cúi bước thật nhanh, như ngày còn ở trong làng. Cô y tá bảo tôi vận động nhẹ nhàng khi ra ngoài vì tôi vẫn còn sống, ngay cả khi tôi vẫn sợ. Về việc này, các cô y tá và bác sĩ không thể làm gì ngăn lại. Tôi có cảm tưởng mình là người phụ nữ duy nhất bị thiêu sống trên thế giới. Tôi bị hạ nhục, bị xem là có tội và tôi không thể xóa bỏ những ý nghĩ ấy được. Nhiều khi nằm một mình trên giường, tôi nghĩ rằng lẽ ra hồi ấy tôi nên chết đi vì tôi đáng bị như thế. Tôi nhớ, lúc chị Jacqueline đưa tôi từ bệnh viện ra sân bay để đi Lausanne, tôi có cảm tưởng mình như một cái túi rác. Lẽ ra chị nên vứt tôi vào một góc để tôi chết đi. Ý nghĩ ấy và nỗi xấu hổ khi thấy mình vẫn tiếp tục sống thường trở về dằn vặt tôi.
    Thế là tôi bắt đầu quên đi đoạn đời trước của tôi. Tôi muốn trở thành một con người khác ở đất nước này. Như nước phụ nữ tự do kia, muốn hòa nhập với họ, muốn học hỏi cách sống ở đây thật nhanh. Trong suốt nhiều năm, tôi đã chôn chặt những kỷ niệm cũ. Nhưng còn Marouan, các cô y tá đã dạy tôi cách cho con bú bình, dạy tôi cách thay tã cho nó và dạy tôi trở thành một bà mẹ mỗi ngày vài phút trong khả năng sức khỏe cho phép. Tôi muốn con tôi tha lỗi cho tôi vì tôi thấy rất khó khăn mỗi khi làm những công việc ấy theo yêu cầu của người khác. Trong vô thức, tôi cảm thấy có tội vì đã là mẹ nó. Ai có thể hiểu được điều này? Tôi không đảm nhận được vai trò làm mẹ, không tưởng tượng được tương lai của nó với vết bỏng trên cơ thể của mình. Sau này làm thế nào để nói với nó rằng cha nó là một kẻ hèn nhát? Làm thế nào để nó không cảm thấy có lỗi trong việc tôi trở nên như thế này? Một thân thể bị tàn phá, trông vô cùng kinh khủng. Chính tôi, tôi cũng không còn tưởng tượng được tôi “trước đây” nữa. Ngày trước, tôi có xinh đẹp không? Da tôi có mịn màng không? Tôi có mềm mại và ngực tôi có gợi cảm không? Có những chiếc gương, cả ánh mắt của nhiều người khác. Nhìn vào đó, tôi thấy mình xấu xí và đáng khinh, cả trong lẫn ngoài. Một cái túi rác. Tôi vẫn còn đau. Ở bệnh viện, người ta chăm sóc cơ thể tôi, giúp tôi lấy lại sức khỏe thể chất nhưng trong đầu tôi, mọi thứ vẫn chưa ổn. Không những tôi không biết phải diễn tả như thế nào, nào, mà ngay cả từ “suy sụp tinh thần” vẫn còn rất xa lạ đối với tôi. Phải mất đến nhiều năm tôi mới biết. Tôi chỉ nghĩ mình không nên kêu ca nữa và bằng cách ấy, tôi đã chôn chặt hai mươi năm phần đời của tôi, chôn sâu đến nỗi bây giờ tôi phải rất khó khăn mới làm sống dậy được những kỷ niệm đó. Tôi có rằng để được sống sót, đầu óc tôi không thể làm khác được.
    Rồi sau đấy, trong nhiều tháng dài đằng đẵng, tôi trải qua nhiều cuộc phẫu thuật ghép da. Tổng cộng hai mươi tư cuộc phẫu thuật. Do chân tôi không bị bỏng nên các bác sĩ đã lấy ở đấy ghép cho nửa người phía trên. Mỗi lần phẫu thuật xong phải chờ cho da lành lại rồi mới bắt đầu phẫu thuật tiếp. Mãi đến lúc chân tôi không còn da để phẫu thuật thì thôi.
    Mảng da ghép vẫn còn yếu nên tôi rất cần được chăm sóc để nó mềm và giữ ẩm được và tôi luôn cần được chăm sóc.
    Edmond Kaiser quyết định sắm quần áo cho tôi. Ông đưa tôi đến một cửa hàng lớn. Vô cùng lớn và có rất nhiều giầy dép, quần áo, nhiều đến mức tôi không biết phải nhìn vào đâu. Về giầy dép, tôi không thích những chiếc dép thêu như ở đất nước tôi. Tôi thích có một chiếc quần thực sự, chứ không phải một chiếc saroual. Hồi còn đi chợ với cha tôi trên chiếc xe tải nhỏ chở đầy hoa quả và rau củ, tôi đã trông thấy bọn con gái mặc loại quần đó. Họ mặc loại quần thời trang, rất rộng phía dưới, và người ta gọi đó là quần “ống loe”. Đó là loại con gái hư hỏng, và tôi không được phép mặc loại quần đó ở đất nước tôi.
    Tôi không muốn mua quần “ống loe”. Ông Kaiser mua cho tôi một đôi giầy đen gót thấp, một chiếc quần Jean bình thường và một chiếc áo chui đầu rất đẹp. Tôi thất vọng. Từ chín tháng nay, tôi đã đợi và luôn mơ về bộ quần áo mới. Nhưng tôi vẫn mỉm cười và nói cám ơn. Tôi có thói quen mỉm cười với mọi người, luôn mỉm cười, điều đó khiến họ rất ngạc nhiên và tôi cảm ơn về mọi thứ. Mỉm cười, đó là cách tôi đáp lại lòng tốt của họ, mà cũng là cách giao tiếp duy nhất của tôi trong suốt một thời gian dài. Mỗi lần muốn khóc, tôi trốn vào một góc… một thói quen có từ ngày xưa. Ở đây, ai cũng tươi cười kể cả những người đàn ông. Tôi muốn mỉm cười càng nhiều càng tốt. Nói cám ơn là một cử chỉ tối thiểu trong giao tiếp. Trước đây, chưa có ai nói cám ơn với tôi. Tôi làm quần quật như một nô lệ nhưng cha tôi, em trai tôi và nhiều người khác, không một ai cảm ơn tôi. Tôi quen bị đánh đập chứ không quen nhận lời cảm ơn.
    Tôi nhận thấy “cảm ơn” là một cách giao tiếp lịch sự, một cách bày tỏ sự tôn trọng. Tôi thích nói cảm ơn với mọi người vì mọi người cũng nói cảm ơn tôi. Cảm ơn vì đã quấn băng cho tôi, vì đã cho thuốc giúp tôi dễ ngủ, vì đã bôi kem để da tôi không bị rách, vì đã mang bữa ăn đến và nhất là vì đã đưa cho tôi thỏi socola…. Chúng vô cùng ngon, và giúp tôi nhanh lấy sức.
    Thế nên tôi đã cảm ơn ông Edmond Kaiser về cái quần Jean, về đôi giầy, về cái áo chui đầu rất đẹp.
    “Ở đây cháu là một phụ nữ tự do, Souad ạ. Cháu có thể làm bất cứ việc gì cháu muốn nhưng bác khuyên cháu nên ăn mặc giản dị, những bộ quần áo thích hợp với cháu, những bộ quần áo không gây kích ứng da và không nên có điều gì thái quá làm mọi người chú ý.”
    Ông có lý. Ở đất nước đã có lòng tốt đón nhận tôi, tôi vẫn là một con bé chăn cừu của miền Cisjordanie, không văn hóa, thất học, không có gia đình, và vẫn mơ mộng đến chiếc răng vàng óng ánh!
   
- o O o -

    Tôi đến Thụy Sĩ vừa tròn một năm. Cuối năm ấy tôi từ giã bệnh viện để đến một trung tâm tiếp nhận.
    Những cuộc phẫu thuật ghép da cứ nối tiếp nhau. Tôi quay lại bệnh viện để tiếp tục chịu đau. Dẫu tôi chưa hoàn toàn bình phục, nhưng tôi đã sống. Tôi không thể đòi hỏi gì hơn. Tôi mày mò học tiếng Pháp mỗi khi có thể, những cấu trúc, các mẫu câu mà tôi nhắc đi nhắc lại như con vẹt, mặc dù tôi chưa biết con vẹt là con gì!
    Sau này, chị Jacqueline nói cho tôi biết, khi mới đưa tôi sang châu Âu, vì tôi phải liên tục vào bệnh viện để chữa trị nên không thể theo học các lớp dạy tiếng Pháp chính quy. Khi ấy, cứu mạng sống của tôi quan trọng hơn việc cho tôi đến trường. Mặt khác, tôi cũng không nghĩ đến việc đó. Ở làng tôi ngày nào cũng có hai đứa con gái đón xe khác đi học ngoài thành phố và bị mọi người chế nhạo. Chính tôi cũng chế nhạo chúng, vì như các chị tôi, tôi tin rằng chúng đi học thì sẽ không bao giờ lấy được chồng!
    Từ trong sâu thẳm tâm can, nỗi xấu hổ lớn nhất của tôi là không lấy được chồng. Tôi vẫn giữ quan niệm chung của những người trong làng tôi, nó đã ăn sâu vào tâm trí khiến tôi không cưỡng lại được. Và tôi cho rằng, không có người đàn ông nào muốn lấy tôi làm vợ. Mà đối với phụ nữ ở đất nước tôi, không lấy được chồng được xem là một hình phạt chung thân.
    Trong ngôi nhà tiếp nhận tôi và Marouan, mọi người nghĩ rằng tôi sẽ quen dần với hình phạt kép: xấu xí đến phát sợ và không được đàn ông ham muốn. Họ nghĩ rằng tôi có thể chăm sóc con trai tôi khi tôi có khả năng làm việc để nuôi dạy nó. Riêng chị Jacqueline biết tôi hoàn toàn không có khả năng cáng đáng công việc ấy. Trước tiên, tôi phải mất nhiều năm mới lấy lại được hình hài một con người và chấp nhận mình trong chính hình hài ấy. Và suốt những năm ấy, con trai tôi, sẽ phải lớn lên một cách lệch lạc. Hơn nữa, tuy đã hai mươi tuổi, tôi vẫn là một đứa trẻ. Tôi không biết gì về cuộc sống, trách nhiệm và tự lập.
    Đó cũng chính là lúc tôi rời Thụy Sĩ. Công việc điều trị đã xong, tôi có thể đến nơi khác sống. Chị Jacquelien đã tìm được một gia đình tiếp nhận tôi, đâu đó ở châu Âu. Đó là bố mẹ nuôi mà tôi rất yêu mến và tôi gọi họ là bố mẹ, giống như Marouan. Hai ông bà đã nhận nuôi nhiều trẻ do tổ chức Terre des hommes đưa đến. Có một số trẻ ở lại đây khá lâu, một số được gia đình khác nhận làm con nuôi. Gia đình chúng tôi lúc nào cũng rất đông người. Phải chăm sóc những đứa trẻ nhỏ hơn và tôi cố gắng làm tất cả những gì có thể để phụ giúp họ. Một hôm “mẹ” bảo tôi là chăm sóc Marouan quá nhiều và không mấy chú ý đến những trẻ khác. Nhận xét đó làm tôi ngạc nhiên vì tôi không hề có ý chăm sóc con trai nhiều hơn. Tôi đã quá chăm chú vào chuyện đó. Những lúc cô đơn, tôi thường đi dạo dọc bờ sông, với Marouan nằm trong xe đẩy. Tôi cần đi bộ, cần được ra ngoài. Tôi không biết tại sao tôi lại muốn đi bộ một mình ngoài đồng đến thế, có lẽ do thói quen chăn cừu trước đây. Cũng như trước đây, tôi mang theo một ít nước, một chút đồ ăn và tôi đẩy chiếc xe chở Marouan, bước thật nhanh, thẳng người đầy vẻ tự hào. Trong tôi có hai con người, một con người bước đi thật nhanh như dạo còn ở trong làng và một con người khác, thẳng người và tự hào như lúc sống ở châu Âu.
    Tôi cố sức làm những việc mẹ bảo tôi làm, nghĩa là cùng bà làm việc nhiều hơn để chăm sóc những đứa trẻ khác. Tôi lớn tuổi nhất nên đó cũng là việc bình thường. Nhưng mỗi khi bận rộn như bị giam trong ngôi nhà ấy, ấy, tôi lại muốn thoát ra, muốn đi thăm những người bên ngoài, muốn nói chuyện, muốn khiêu vũ, muốn gặp một người đàn ông để xem mình còn có thể là phụ nữ được không.
    Tôi cần phải thử. Tôi điên lên vì hy vọng nhưng không sao kiềm chế bản thân, tôi muốn thử sống.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách