Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 3644|Trả lời: 28
Thu gọn cột thông tin

[Khác - Xuất Bản] Bị Thiêu Sống | Souad

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 20-9-2011 18:37:27 | Xem tất |Chế độ đọc


tên tác phẩm: bị thiêu sống
dịch giả:Nguyễn Minh Hoàng
nxb: nxb phụ nữ
nguồn: vnthuquan.net
tình trạng sáng tác: hoàn thành
giới thiệu nội dung
Bất thình lình, tôi cảm thấy có cái gì đó lạnh ngắt đang chảy trên đầu Và ngay sau đó, người tôi bốc cháy [...]
Tôi bắt đầư chạy chân đất khắp vườn, tôi đập hai tay lên tóc, tôi gào thét..

Mười bảy tuổi, Souad đã đem lòng yêu một chàng trai. Tại ngôi làng của cô cũng như nhiều ngôi làng khác, tình dục trước hôn nhân đồng nghĩa với cái chết. Vì tội “làm ô danh”, gia đình cô đã chỉ định người anh rể thực hiện bản án mà người ta vẫn thường gọi là “tội ác bảo toàn danh dự”. Hằng năm trên thế giới có hơn năm nghìn trường hợp như vậy xảy ra, nhưng rất nhiều trong số đó không hề được biết đến.Bị thiêu sống hết sức tàn khốc, Souad được cứu sống nhờ một phép lạ. Cô đã quyết định thay mặt tất cả những người phụ nữ hiện đang bị đe doạ mạng sống để nói với thế giới về sự dã man của tập tục này. Để làm được điều đó, cô chấp nhận mọi rủi ro bởi làm tổn hại “danh dự” của gia đình là điều không thể tha thứ.
“Một tiếng hô xung trận” (L’Express)
“Souad là người phát ngôn cho tất cả những phụ nữ nạn nhân trên toàn thế giới của thứ luật hà khắc do đàn ông đặt ra. Cô chính là vị anh hùng. Tôi rất vinh hạnh là người chấp bút của cô.”(Marie There`se Cuny)
19 chương
Hoả hình đã nhắm vào tôi
Ký ức
Haman?
Quả cà chua xanh
Máu của cô dâu
Assad
Chuyện bí mật
Cuộc hẹn cuối cùng
Hoả hình
Chết
Jacqueline
Souad sắp chết
Thụy Sĩ
Marouan
Những gì còn thiếu
Nhân chứng sống
Jacqueline
Con trai tôi
Xây dựng một ngôi nhà
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:48:53 | Xem tất
Chương 1:
Tôi là một đứa con gái, và là con gái thì phải bước nhanh, đầu lúc nào cũng phải cuối xuống đất như thể đang đếm bước. Mắt không được nhìn lên, không được liếc sang phải hay sang trái trên đừờng đi. Vì nếu lỡ để ánh mắt mình bắt gặp ánh mắt của một người đàn ông thì sẽ bị cả làng gọi là “charmuta[1]”
    Nếu để một chị hàng xóm đã có chồng, một cụ già hoặc bất cứ một người nào khác bắt gặp cô gái đi một mình trong hẻm nhỏ, không có mẹ hay chị đi kèm, không dắt cừu, không đội bó rơm hay sọt đựng quả vả thì cũng bị gọi là “charmuta”.
    Con gái phải có chồng mới được phép nhìn thẳng về phía trước, mới được phép bước vào hàng quán, mới được phép tự nhổ lông và đeo nữ nữ trang.
    Khi bước sang tuổi mười bốn mà chưa có chồng như mẹ tôi thì người con gái bắt đầu bị cả làng chế nhạo. Nhưng muốn được lấy chồng thì phải đợi đến lượt mình. Chị cả trong nhà lấy trước, sau đó mới tuần tự đến các cô em.
    Trong nhà bố tôi có quá nhiều con gái, bốn đứa lớn đều đến tuổi lấy chồng. Ngoài ra còn có hai đứa em gái cùng cha khác mẹ do bà vợ hai của cha tôi sinh ra. Chúng vẫn còn nhỏ. Đứa con trai duy nhất trong gia đình mà ai cũng yêu quí là thằng Assad đã chào đời trong vinh quang giữa bấy nhiêu đứa con gái, nó là đứa thứ tư trong nhà. Tôi là đứa thứ ba. Cha tôi (ông tên là Adnan) vẫn tỏ ý không bằng lòng với mẹ tôi (bà tên Leila) bởi bà đã sinh cho ông quá nhiều con gái. Ông cũng không ưa bà vợ hai Aicha, vì bà này đẻ toàn con gái.
    Noura, chị cả tôi lấy chồng muộn, lúc tôi khoảng mười lăm tuổi. Chị thứ Kainat thì chẳng được người đàn ông nào hỏi đến.Tôi có nghe nói có người gặp cha tôi để dạm hỏi tôi nhưng tôi còn phải đợi chị Kainat đi lấy chồng thì mới dám nghĩ đến chuyện cưới xin của mình. Nhưng chị Kainat có lẽ không có nhan sắc mấy hoặc giả chị làm việc gì cũng chậm chạp....Tôi không rõ tại sao chị không được ai hỏi đến nhưng nếu chị ế chồng và trở thành gái già thì chị sẽ bị cả làng chế giễu và tôi cũng sẽ bị như vậy.
    Từ ngày đầu óc tôi ghi nhớ được sự việc, tôi nhận ra mình chưa một lần được sung sướng, được chơi đùa. Sinh ra là con gái trong làng tôi là một điều bất hạnh. Niềm mơ ước tự do duy nhất là lấy chồng. Rời nhà cha mẹ đẻ để về nhà chồng và không bao giờ được phép quay lại dù có bị chồng đánh đập. Con gái có chồng mà trở về nhà cha mẹ là một điều sỉ nhục. Cũng không được phép xin một nhà nào khác che chở.Gia đình người con gái có nghĩa vụ đưa con gái trở lại nhà chồng.
    Chị cả tôi bị chồng đánh đập dám quay về thở than khóc lóc khiến cả nhà tôi mang nhục.
    Có được một tấm chồng là cái may của chị. Tôi vẫn mơ ước được như thế.
    Từ hôm nghe có người đến gặp cha tôi xin cưới tôi, tôi đâm ra vừa tò mò vừa bồn chồn. Tôi biết anh ấy chỉ cách nhà tôi ba bốn bước chân. Thỉnh thoảng khi lên sân thượng phơi quần áo tôi vẫn thoáng thấy anh. Tôi biết anh có một chiếc ôtô, mặc âu phục, tay lúc nào cũng xách cái cặp nhỏ đựng giáy tờ và anh làm việc ngoài thành phố, một công việc khá tốt vì anh không bao giờ ăn mặc như công nhân mà luôn luôn chỉnh tề, sang trọng. Tôi rất muốn được nhìn mặt anh rõ hơn nhưng lại sợ bị gia đình bắt gặp tôi đang ngóng anh. Vì thế, khi đi lấy rơm cho một con cừu ốm ở ngoài chuồng, tôi bước thật nhanh trên đường với hy vọng nhìn thấy anh gần hơn. Nhưng anh lại đỗ xe xa quá. Nhờ quan sát, tôi đại khái biết được mấy giờ anh đi làm. Bảy giờ sáng, tôi giả vờ lên sân thượng thu quần áo hay nhặt một quả vả chín hoặc giũ tấm chăn để được, trong một thoáng chốc không đầy một phút, nhìn thấy anh bứơc lên ôtô đi làm. Tôi phải thật nhanh để không ai chú ý.
    Tôi lên cầu thang, băng qua mấy gian phòng để ra tới sân thượng, vừa cầm một tấm thảm giũ mạnh vừa đưa mắt nhìn qua bức tường xi măng, liếc nhẹ sang phải. Từ xa nếu có ai trông thấy cũng không thể ngờ là tôi đang ngó xuống đường.
    Thỉnh thoảng tôi cũng có đủ thời gian nhìn thấy anh. Tôi đâm ra phải lòng anh cùng chiếc ôtô của anh! Đứng trên sân thượng, tôi tưởng tượng ra khối chuyện: tôi kết hôn với anh và như hôm nay, tôi nhìn theo chiếc ôtô cho đến khi khuất bóng nhưng đến chiều, khi mặt trời lặn, anh sẽ trở về từ nơi làm việc. Tôi sẽ cởi giày cho anh và tôi sẽ quì xuống lau chân cho anh như mẹ tôi vẫn thường làm cho cha tôi. Tôi sẽ pha trà mời anh, sẽ nhìn anh ngồi oai vệ như một ông vua phì phà chiếc tẩu dài ngay trước cửa nhà. Tôi sẽ là một phụ nữ có chồng!
    Và thậm chí tôi có thể trang điểm, dạo phố mua hàng, cùng chồng ngồi vào xe và lên thành phố. Tôi sẵn sàng chịu đựng mọi điều tệ hại nhất, miễn là khi nào thấy muốn, tôi được tự do một mình bước qua cánh cửa kia để đi mua bánh mì!
    Nhưng tôi sẽ không bao giờ là một “charmuta”. Tôi sẽ không nhìn những người đàn ông khác, tôi sẽ tiếp tục bước nhanh, giữ người thẳng, vẻ kiêu hãnh, nhưng không đếm bước, mắt vẫn nhìn xuống và cả làng không ai còn có thể nói xấu tôi bởi lẽ tôi đã có chồng.
    Câu chuyện kinh khủng của tôi bắt đầu ngay trên cái sân thượng ấy. Tôi đã nhiều tuổi hơn chị cả tôi nếu so với ngày chị ấy lấy chồng, và tôi đã hy vọng để rồi thất vọng.
    Dạo ấy tôi khoảng mưới tám tuổi hay hơn. Tôi cũng không biết nữa. Ký ức tôi đã tan thành mây khói ngay hôm hoả hình ập xuống đầu tôi.
    Chú Thích:
    [1] Charmuta (Tiếng Ả Rập): Đồ lăng loàn, con đĩ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:50:50 | Xem tất
chương 2: ký ức
  Tôi sinh ra trong một ngôi làng nhỏ. Người ta bảo với tôi rằng ngôi làng ấy nằm ở một nơi nào đấy trên lãnh thỗ Jordanie rồi đổi tên thành Transjordanie và cuối cùng là Cisjordanie.Nhưng vì tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường nên tôi mù tịt về lịch sử đất nước mình. Người ta lại bảo tôi sinh năm 1958, hay năm 1957...Thành thử năm nay, tôi đã vào khoảng bốn mươi lăm tuổi. Hai mươi lăm năm về trước tôi chỉ nói tiếng Ả Rập. Chưa bao giờ tôi đi ra khỏi làng xa hơn vài cây số tính từ căn nhà cuối làng. Tôi biết có những thành phố xa hơn nhưng không được nhìn thấy chúng. Tôi không biết Trái đất tròn hay dẹt, cũng không có ý niệm nào về thế giới. Tôi biết phải căm ghét người Do Thái đã cướp đất của chùng tôi. Cha tôi gọi họ là "lũ lợn". Không được đến gần, nói chuyện,sờ vào bọn chúng vì có nguy cơ biến thành "lũ lợn" như chúng. Mỗi ngày tôi phải cầu nguyện ít nhất hai lần. Tôi ê a đọc như mẹ tôi, như các chị em tôi nhưng mãi đến nhiều năm sau, khi đến Châu âu tôi mới biết đến sự tồn tại của kinh Khôngran. Đứa em trai duy nhất của tôi, ông vua của cả nhà được đi học, riêng bọn con gái thì không. Trong nhà tôi, sinh ra làm con gái là một điều bất hạnh. Người vợ trước hết phải đẻ con trai, ít nhất cũng phải một đứa. Nếu chỉ đẻ toàn con gái sẽ bị mọi người chế nhạo. Con gái tối đa chỉ cần hai hay ba đứa để lo việc nhà, việc đồng áng, và chăn gia súc. Nếu đẻ thêm nhiều đứa khác sẽ là một đại hoạ nên cần phải vứt bỏ thật nhanh. Tôi đã sớm biết người ta vứt bỏ những đứa con gái đó thế nào. Cho đến năm mười bảy tuổi, tôi không được biết chuyện nào khác ngoài chuyện vì là con gái nên bản thân bị coi rẻ không bằng một con vật.
    Đó là cuộc đời thứ nhất của tôi, cuộc đời một phụ nữ Ả Rập xứ Cisjordanie. Cuộc đời này dài hai mươi năm và tôi đã chết ở đó. Chết mãi về mặt thể xác, về mặt xã hội, chết mãi mãi.
    Cuộc đời thứ hai của tôi bắt đầu ở châu Âu vào cuối những năm 1970, tại một sân bay quốc tế. Lúc ấy tôi chỉ là một nhúm thịt mang hình hài con người nằm đau đớn trên cáng cứu thương. Tôi bốc mùi chết chóc đến độ những hành khách cùng chuyến bay phải lên tiếng phản đối. Mặc dù được đặt nằm sau một tấm màn nhưng sự hiện diện của tôi vẫn khiến mọi người không thể chịu nổi.Người ta bảo với tôi là tôi sẽ sống, nhưng tôi biết không phải thế và sẵn sàng chờ đợi cái chết. Tôi thậm chí còn van xin thà cứ để cái chết mang tôi đi. Thân xác tôi chẳng còn chút gì, tại sao người ta lại để tôi sống trong khi tôi chỉ mong cả hồn lẫn xác được biến khỏi cuộc đời?
    Ngay cho đến tận hôm nay, nhiều khi tôi vẫn nghĩ đến chuyện này. Thực tình, hồi đó tôi chỉ muốn chết chứ không muốn phải đối mặt với cuộc đời thứ hai mà người ta hào phóng ban tặng cho tôi, sống sót quả là một phép lạ. Giờ đây, nhờ nó mà tôi có thể là một nhân chứng thay mặt tất cả những con người không được may mắn như tôi, những con người hiện tại vẫn phải chết vì một lí do độc nhất : sinh ra là phụ nữ.
    Tôi đã phải học tiếng Pháp bằng cách lắng nghe và cố lặp lại những tiếng mà người ta phải ra dấu để tôi hiểu nghĩa: "Mal? Pas mal? Manger? Boire? Dormir? Marche?"( Đau? Không đau? Ăn? Uống? Ngủ? Đi?) và tôi trả lời "Có", "Không" bằng cách gật hay lắc.
    Rất lâu sau đó, tôi tập đọc từng chữ trên một tờ báo, kiên trì đọc ngày này sang ngày khác. Ban đầu tôi chỉ mò mẫm đọc những mẩu rao vặt, những mẩu cáo phó, những câu ngắn ít từ mà tôi cố đọc thành tiếng, lặp đi lặp lại. Nhiều lúc tôi có cảm tưởng mình là một con thú đang được người ta dạy để có thể nói được như người, trong khi đó trong đầu tôi tự hỏi thầm bằng tiếng Ả Rập mình đang ở đâu, đang ở nước nào, tại sao mình không chết lúc còn trong làng. Tôi thấy hổ thẹn vì mình vẫn còn sống. Không ai biết được điều đó. Tôi thấy rất sợ cuộc sống này và chẳng có ai hiểu nỗi sợ đó của tôi.
    Tôi phải nói tất cả những điều đó trước khi thử tìm cách gom lại những mảnh vỡ ký ức của mình vì tôi mong rằng những lời tôi nói sẽ được viết thành sách.
    Ký ức của tôi đầy những khoảng trống. Phần đầu tiên của cuộc đời tôi gồm toàn những hình ảnh, những cảnh tượng lạ lùng và tàn bạo như trong phim truyền hình. Chính tôi nhiều lúc cũng không tin sự thể lại có thể như thế, đến nỗi mà tôi rất khó khăn mới sắp xếp chúng lại theo thứ tự ban đầu. Có thể quên được không, chẳng hạn, tên của một trong những chị em gái của mình? Quên được không, tuổi của em trai mình khi nó lấy vợ? Trong khi tôi vẫn chưa quên đàn dê, đàn cừu, đàn bò, chiếc lò nướng bánh mì, những buổi giặt quần áo trong vườn, những buổi thu hoạch súp lơ, bí, cà chua, và quả vả, chuồng ngựa và gian bếp...những bao lúa mì và những con rắn...? Cái sân thượng, nơi tôi từng ngóng người tôi yêu? Cánh đồng lúa mì nơi tôi đã "phạm tội"?
    Như vậy là tôi không nhớ rõ được quãng đời thơ ấu. Thi thoảng, khi một màu sắc, một vật gì đó đập vào mắt tôi, thế là tôi nhớ lại một hình ảnh, một nhân vật, những tiếng la hét, những khuôn mặt chồng chéo lên nhau. Thường thường, khi ai đó hỏi đến tôi, đầu tôi lập tức hoá ra trống rỗng. Tôi tuyệt vọng tìm câu trả lời nhưng không thể. Hoặc bỗng nhiên một hình ảnh chợt hiện ra trong óc tôi mà tôi lại không biết nó tương ứng với cái gì. Nhưng những hình ảnh này thì lại in sâu trong tâm trí tôi và không đời nào tôi quên. Không ai quên được cái chết của chính mình.
   

- o O o -

    Tên tôi là Souad, tôi là một đứa con gái sinh ra ở miền Cijordanie. Tôi cùng chị tôi chăn cừu và dê bởi cha tôi có một đàn gia súc và tôi làm việc quần quật hơn cả một con lừa.
    Tôi bắt đầu lao động chân tay từ năm lên tám hay chín tuổi và bắt đầu thấy kinh từ năm mười tuổi. Ở làng chúng tôi khi một đứa con gái xảy ra việc ấy thì sẽ được gọi là đã “chín”. Hồi ấy tôi rất xấu hổ về thứ máu ấy vì phải giấu nó đi, ngay cả với mẹ đẻ, lén lút giặt chiếc quần saroual trắng lại như cũ, rồi phơi ra nắng cho chúng chóng khô để đám đàn ông hay hàng xóm không nhìn thấy. Tôi chỉ có hai chiếc saroual. Tôi vẫn nhớ những tờ giấy tôi dùng để lót và che chắn trong những ngày đáng nguyền rủa ấy, những ngày mà mình bị xem như con bệnh dịch hạch. Tôi phải len lén đem những dấu vết ô uế đó vùi trong thùng rác. Nếu đau bụng quá thì mẹ tôi sai nấu lá từ bi cho tôi uống. Bà lấy khăn phu–la quấn thật chặt quanh đầu tôi và đến hôm sau tôi không còn đau bụng nữa. Đó là phương thuốc duy nhất mà tôi còn nhớ và đến giờ tôi vẫn dùng vì nó rất hiệu nghiệm.
    Ngay từ sáng sớm , tôi ra chuồng cừu, cho hai ngón tay vào mồm “hoét” một tiếng để gọi đàn cừu tập họp, rồi tôi đi cùng chị Kainat lớn hơn tôi một tuổi. Con gái không được đi ra đừơng một mình hoặc với một đứa em gái nhỏ tuổi hơn. Phải có chị gái lớn tuổi đi kèm để bảo đảm. Chị Kainat rất dễ mến và mập còn tôi thì bé và gày. Chị và tôi rất hợp tính nhau.
    Hai chị em chúng tôi cùng lùa đàn cừu và dê ra đồng cỏ nằm cách làng mười lăm phút đi bộ. Chúng tôi đi nhanh, mắt cúi gằm xuống cho đến lúc qua khỏi nếp nhà cuối làng. Khi ra đến đồng cỏ chúng tôi thoải mái kể chuyện tếu cho nhau nghe và thậm chí còn cười ngặt nghẽo với nhau. Tôi không còn nhớ những chuyện quan trọng mà chúng tôi đã nói với nhau. Chủ yếu là chuyện ăn pho mát, ăn một quả dưa hấu, trông coi mấy con cừu, nhất là trông coi mấy con dê vì chỉ cần lơ đễnh trong mấy phút là chúng có thế ngốn trụi lá của một cây vả. Khi đàn cừu nằm tụ lại thành vòng tròn để ngủ thì chúng tôi cũng chui vào chỗ bóng râm để ngủ, liều lĩnh chấp nhận rủi ro để xồng một con cừu hay dê trong đàn, để nó lạc vào thửa ruộng nhà bên cạnh và đến khi về nhà thì đưa đầu ra lành hậu quả. Nếu lỡ để con vật ấy lẻn vào phá vường rau nhà ai, hoặc cả bọn về đến chuổng cừu muộn vài phút là sẽ được ăn ngay một trận đòn chí tử bằng thắt lưng da.
    Trong mắt của tôi, ngôi làng của chúng tôi rất đẹp và rất xanh, có rất nhiều quả vả, nho, nhiều loại trái cây, chanh và rất nhiều cây ôliu. Một mình cha tôi sở hữu phân nửa những thửa đất trồng trọt trong làng…. Ông không giàu nhưng có của ăn của để.Nhà tôi rất to, làm bằng đá, ngoài cùng là lớp tường bao quanh với một cánh cổng sắt màu xám. Cánh cổng ấy là biểu tượng cho sự giam cầm đối với chị em chúng tôi. Một khi đã vào bên trong, cánh cổng đó sẽ được đóng lại nhằm ngăn không cho chúng tôi ra ngoài. Từ ngoài có thể đi vào nhưng từ trong không được đi ra. Không hiểu có chìa khóa hay không? Hay hệ thống khóa tự động? Tôi chỉ nhớ cha và mẹ tôi đi ra được nhưng chúng tôi thì không. Em trai tôi thì khác, trái lại, lúc nào cũng được tự do, đến rạp xem phim, đi học, đi ra, đi vào bằng cánh cửa ấy, cánh cổng sắt đáng nguyền rủa và tự nhủ: “Không bao giờ mình có thể bước qua đó để đi ra ngoài, không bao giờ….”
    Ngay về chính ngôi làng, tôi cũng không biết gì nhiều vì có được phép đi ra ngoài bao giờ đâu mà biết. Nếu nhắm mắt lại tập trung trí nhớ và cố hết sức , tôi có thể nói về một vài nơi đã từng nhìn thấy. Có ngôi nhà của cha mẹ tôi, rồi xa hơn một chút và nằm cùng phía là ngôi nhà mà tôi gọi là nhà của những người giàu. Đối diện là ngôi nhà của anh chàng mà tôi đã phải lòng. Cứ đi qua đường là tới và tôi có thể nhìn thấy ngôi nhà đó từ trên sân thượng. Tôi cũng nhìn thấy vài ngôi nhà nằm rải rác những không biết rõ có bao nhiêu, có thể nói là rất ít. Những căn nhà đó có tường thấp hoặc hàng rào sắt bao quanh và chủ nhà cũng có vườn trồng rau như chúng tôi. Tôi chỉ đi ra khỏi nhà để đi chợ với cha mẹ hoặc cùng chị tôi lùa cừu ra đồng, tất cả chỉ có thế.
    Cho đến năm mười bảy mừơi tám tuổi ngoài những thứ ấy ra tôi không được nhìn thấy thứ gì khác. Tôi chưa một lần được bước chân vào cửa hàng lớn ngay trong làng nằm ngay gần nhà. Nhưng khi ngồi trong chiếc xe tải nhỏ của cha tôi để đi chợ, tôi trông thấy người chủ cửa hàng lúc nào cũng đứng ngoài cửa hút thuốc lá. Trước cửa hàng có hai cầu thang nhỏ:cầu thang bên phải dành riêng cho những người đàn ông mua thuốc là, báo chí, đồ uống, bên trái là chỗ bán rau củ và hoa quả.
    Trên mé đường này cũng có một ngôi nhà khác. Trong nhà ấy có một người đàn bà đã có chồng đang ở với 4 đứa con nhưng bà ta lại có quyền đi ra ngoài, có quyền bước vào cửa hàng. Tôi trông thấy bà ta đứng trên cầu thang, phía bán rau củ, với những túi nhựa trong suốt.
    Xung quanh nhà chúng tôi có nhiều khoảng đất rộng. Ở đây chúng tôi trồng bí đao, bí ngô, súp lơ, cà chua và nhiều loài rau củ quả khác. Những thửa vường của hàng xóm liền kề nhau và chỉ ngăn bằng một bức tường thấp, nhảy qua dễ ợt, nhưng không ai trong chúng tôi làm thế. Việc cầm tù chúng tôi được xem là bình thường. Con gái trong nhà không bao giờ dám nghĩ đến việc vượt qua bức rào chắn tượng trưng ấy. Mà vượt qua để đi đâu kia chứ? Một khi đã ra đến giữa làng, con gái đi một mình rất dễ bị phát hiện. Đến lúc ấy thì tiếng tăm và danh dự của cả gia đình đều tiêu tan.
    Tôi ngồi giặt quần áo trong thửa vườn ấy. Nơi góc vườn có cái giếng và tôi đun nước trong một cái chậu to bắc trên đống củi đang cháy phừng phừng. Tôi vào nhà chứa cùi, tự tay bẻ các cành củi bằng cách tì chúng vào đầu gối. Muốn có nước sôi phải mất thời gian…phải đợi một lúc lâu. Nhưng trong lúc chờ đợi tôi làm nhiều việc khác, quét và chùi rửa sàn nhà, tưới rau trong vườn. Rồi tôi giặt quần áo và mang lên sân thượng phơi ngoài nắng.
    Nhà chúng tôi rất hiện đại, rất tiện nghi, nhưng trong nhà lại không có nước nóng để tắm rửa và làm bếp. Phải đun nước bên ngoài rồi bê vào. Về sau cha tôi cho lắp một cái bồn tắm có vòi hoa sen. Bọn con gái trong nhà phải dùng chung lượng nước đựng sẵn trong bồn để tắm rửa, chỉ mỗi mình em trai tôi là có quyền dùng nước riêng và dĩ nhiên cha tôi cũng có quyền như thế.
    Ban đêm, tôi nằm ngủ chung với các chị em gái, trên tấm da cừu trải ngay dưới đất. Khi trời nóng bức quá thì ngủ trên sân thượng, nằm thành hàng dài dưới bóng trăng. Bọn con gái đứa này nằm cạnh đứa kia trong một góc. Cha mẹ và em trai tôi nằm góc khác.
    Ngày làm việc bắt đầu từ rất sớm, khoảng bốn giờ sáng, lúc mặt trời vừa mọc, nếu không phải từ trước đó, cha tôi và mẹ tôi đã thức dậy. Vào vụ thu hoạch lúa mì, cả nhà mang đồ ăn theo và cả nhà nghĩa là cả cha tôi, mẹ tôi, các chị tôi và tôi cùng cật lực làm việc. Vào vụ thu hoạch vả, cả nhà cùng đi làm thật sớm. Phải nhặt từng quả một, không được sót quả nào rồi bỏ vào thùng gỗ và cha tôi sẽ đem ra chợ. Phải mất hơn nửa tiếng đồng hồ nếu dắt lừa đi bộ để tới một thành phố nhỏ, quả tình là rất nhỏ, không biết là thành phố gì, mà giá có biết tên thì tôi cũng không còn nhớ…. Chợ họp một nửa ngày ở cửa ngõ thành phố được dành riêng cho những sản phẩm do dân thành phố làm ra và do các lái buôn đứng bán. Muốn sắm quần áo phải tới một thành phố lớn hơn và phải đi xe khách. Nhưng bọn con gái thì không bao giờ được tới đó. Chỉ có mẹ tôi đi cùng cha tôi. Vẫn là như vậy: bà tới đó mua đồ cùng cha tôi, mua cho mỗi đứa con gái một cái áo và dù thích hay không, chúng tôi vẫn phải mặc. Các chị tôi và tôi, ngay đến mẹ tôi cũng chẳng ai có quyền nói đi nói lại một câu nào, chỉ có thể hoặc không có gì cả.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:51:23 | Xem tất
Đó là thứ áo thân dài, tay ngắn bằng vải cô tông, xám, đôi khi là màu trắng và rất hiếm khi có loại màu đen. Thứ vải này mặc vào rất nóng và làm da khó chịu như bị kim châm. Cổ áo khá cao và kín mít. Nhưng tùy theo mùa, bắt buộc phải mặc thêm một chiếc áo sơ mi hay áo gi–lê tay dài. Mặc thêm như thế thường là rất nóng, nóng đến phát ngốt, nhưng bắt buộc phải có tay dài. Để lộ một phần cánh tay hay hay một phần chân hay tệ hơn nữa là để hở một phần vai và ngực là một điều sỉ nhục. Lúc nào chúng tôi cũng đi chân trần, không bao giờ đi giày, ngoài trừ những phụ nữ có chồng.
    Bên trong chiếc áo dài lệt bệt có nút áo cài đến tận cổ, tôi mặc một chiếc áo saroual. Đó là một chiếc quần màu xám hoặc màu trắng với hai ống quần rộng thùng thình. Và bên trong chiếc quần ấy còn phải mặc một chiếc quần lót rộng như một chiếc quần soóc cao đến trên bụng. Mấy chị em tôi đều phải mặc như vậy.
    Mẹ tôi thường mặc toàn màu đen. Cha tôi mặc một chiếc saroual trắng cùng chiếc sơ mi dài, đầu quấn khăn phu–la có những ô vuông trắng và đỏ được xem là “quốc phục’ của giới mày râu xứ Palestine.
    Cha tôi! Tôi còn mường tượng thấy ông ngồi bệt trước nhà, dưới gốc cây với chiếc gậy để bên. Người ông nhỏ bé, da ông rất trắng và có những nốt tàn nhang màu hung, đầu cha tôi tròn và đôi mắt màu xanh trông rất hung tợn. Có lần, ông bị gãy chân do ngã ngựa. Bọn con gái chúng tôi đứa nào cũng vui mừng vì ông không thể đuổi theo để đánh chúng tôi bằng chiếc thắt lưng da được. Giá ông chết thì có lẽ chị em chúng tôi còn mừng hơn nữa.
    Tôi mường tượng rất rõ ngừoi cha ấy. Tôi không tài nào quên được ông, cứ như thể hình ảnh ông đã in sâu vào tâm trí tôi. Ông ngồi chễm chệ trước nhà, như một ông vua ngồi trước cung điện với mảnh khăn ô vuông trắng đỏ che kín chiếc đầu hói lơ thơ vài cọng tóc màu hung. Ông mang thắt lưng da và đặt cây gậy dài trên đùi. Tôi còn nhìn thấy rõ ông ngồi đấy, dáng nhỏ bé và dữ tợn…vừa cởi chiếc thắt lưng vừa quát: “Sao lại để cừu chạy rông như thế hả?”
    Ông túm lấy tóc tôi, giật mạnh làm tôi ngã xuống đất và lôi xềnh xệch vào nhà bếp. Trong khi tôi còn quỳ gối chưa đứng lên được thì ông đánh. Ông kéo mạnh bím tóc tôi như muốn rứt nó ra, tồi ông cắt tóc tôi bằng chiếc kéo to chuyên dùng để xén lông cừu. Tôi không còn tóc nữa. Càng khóc, càng kêu, càng van xin, càng bị ăn thêm mấy cái đá. Đó là lỗi của tôi.
    Hôm ấy trời nóng quá nên tôi và chị tôi đều ngủ thiếp đi để đàn cừu xổng ra lúc nào không hay. Tôi bị đánh bằng gậy, bị đánh mạnh đến nỗi nhiều khi đau quá không nằm được, nằm nghiêng sang trái cũng không được, sang phải cũng không xong. Ngày nào chúng tôi cũng bị đánh, bất kể bằng thắt lưng da hay bằng gậy. Một ngày không bị đánh là một ngày không bình thường.
    Lần ấy hình như ông đã trói cả hai chúng tôi lại, chị Kainat và tôi bị trói giật cánh khuỷ, hai chân cũng bị trói với một chiếc khăn phu–la nhét vào mồm để chúng tôi không kêu được. Chúng tôi bị trói như thế suốt đêm, bị trói vào hàng rào trong chuồng cừu, cùng với những con vật, nhưng tệ hơn những con vật.
    Trong làng, nhà nào cũng thế, đó là luật của những người đàn ông. Hằng ngày ở trong những ngôi nhà khác chắc chắn đều có xảy ra những vụ đàn bà con gái bị đánh đập. Ở nhiều nơi nghe văng vẳng tiếng kêu khóc. Thành thử việc đàn bà con gái bị đánh đập, bị cạo trọc đầu và bị trói vào thanh rào trong chuồng cừu là chuyện bình thường. Không có cách sống nào khác.
    Cha tôi là vua, là người đàn ông có đủ mọi quyền hành, là kẻ sở hữu, là kẻ quyết định, là kẻ đánh đập và tra tấn chúng tôi. Ông bình thản ngồi phì phèo tẩu thuốc trước ngôi nhà có những người đàn bà đang bị giam cầm, bị đối xử tệ hại hơn những con vật. Đàn ông lấy vợ chỉ để có con trai, để bắt vợ và những đứa con gái do người vợ bất hạnh sinh ra làm nô lệ phục dịch mình.
    Nhiều lúc tôi nhìn thằng em trai tôi, thằng em trai mà cả nhà đều yêu quý, cũng như tôi yêu qúy nó, và thầm nghĩ: “Nó có gì hơn chứ? Cũng từ một bụng mẹ chui ra như mình thôi…” Tôi không có câu trả lời. Mọi thứ phải như thế thôi. Chúng tôi phải phục vụ nó như đã phục vụ cha tôi, phục vụ bằng cách vừa quỳ gối vừa cúi rạp đầu.
    Tôi còn nhìn thấy cái khay trà. Ngay khi bê trà cho những người đàn ông trong gia đình chúng tôi cũng phải quỳ, phải đếm từng bước đi, phải khom lưng và im lặng. Không được nói một tiếng và chỉ được trả lời khi có ai hỏi đến. Đến trưa phải mang món cơm tấm đường với rau cùng thịt gà hay thịt cừu lên. Bao giờ cũng phải có bánh mì. Bao giờ cũng phải có các món ăn, bữa ăn trong nhà luôn phải đầy đủ.
    Có rất nhiều hoa quả. Nho, tôi chỉ cần lên hái trên sân thượng. Có cam, chuối và nhất là những quả vả đen và xanh. Những buổi đi hái quả lúc sáng sớm tinh mơ là kỷ niệm tôi không bao giờ quên. Những quả vả hơi nứt vì khí lạnh ban đêm và chất ngọt trong quả chảy ròng ròng như mật, một loại quả ngọt tinh khiết nhất.
    Công việc nặng nhọc nhất là chăm sóc đàn cừu. Lùa chúng ra đồng, trông coi chúng, đưa chúng về chuồng, cắt lông chúng để cha tôi mang ra chợ bán. Tôi nắm chân con cừu, bắt nó nằm dài xuống, trói nó lại, và cắt lông nó bằng chiếc kéo to. Quả thực chiếc kéo to hơn tay tôi nên chỉ sau một lúc tay tôi mỏi nhừ.
    Rồi tôi xoãi ra đất vắt sữa cừu. Tôi kẹp chân con cừu giữa hai chân tôi và vắt sữa để làm pho mát. Ngoài ra chúng tôi cũng để sữa nguội đi và uống nguyên chất, như thế rất béo và bổ dưỡng.
    Trong nhà của cha tôi, khu vườn cung cấp cho chúng tôi hầu hết những thực phẩm cần thiết. Và chính chúng tôi tự tay làm mọi thứ. Cha tôi chỉ mua đường, muối và chè.
    Buổi sáng, tôi pha chè cho bọn con gái uống. Với những quả ôliu cạnh nhà, tôi làm một ít dầu ôliu trong một cái đĩa nhỏ và tôi bắc một chậu nước trên lò nướng bánh mì để đun sôi nước. Chè xanh phơi khô được đựng sẵn trong một túi vải màu nâu nhạt để trong góc bếp. Tôi cho tay vào túi bốc một nắm chè bỏ vào ấm, cho thêm đường và quay ra vườn lấy chậu nước sôi. Chậu nước rất nặng và tôi cầm hai quai chậu mà bê rất khó khăn. Lưng hơi khom lại để không bị bỏng vì hơi nước nóng, tôi đi vào nhà bếp và đổ nước vào ấm, đổ từ từ lên chè và đường. Thứ đường ấy rất quý và đắt tiền. Tôi biết, nếu để rơi vãi hạt đường xuống đất là bị đánh đòn ngay. Vì vậy, tôi rất cẩn thận. Nếu lỡ tay để rơi thì không nên lấy chổi quét đi mà phải nhặt từng hạt lên và bỏ vào ấm chè. Sau đó các chị em tôi đến ăn, nhưng cha tôi, mẹ tôi và em trai tôi không bao giờ đến ăn chung. Hình ảnh của những buổi sáng sớm uống trà ấy, lúc nào tôi cũng chỉ nhìn thấy có bọn chị em gái chúng tôi ngồi bệt ngay sàn đất nhà bếp. Tôi cố xác định tuổi của tôi khi đó nhưng điều này thật khó. Có phải hồi ấy chị cả tôi, chị Noura chưa đi lấy chồng?
    Tôi không thể căn cứ theo tuổi tác của mình để sắp xếp các kỉ niệm được. Tôi tin rằng ký ức của tôi chỉ hơi chính xác, chỉ đúng một cách tương đối và lệch so với thực tế chừng một hay hai năm gì đấy, và tôi chỉ chắn chắc nhất về nó trong khoảng thời gian có đám cưới của chị Noura. Tôi đoán chừng hồi ấy tôi mười lăm tuổi.
    Thế là ở nhà chỉ còn chị Kainat chưa chồng lớn hơn tôi một tuổi cùng một đứa em sinh sau tôi mà tôi không nhớ tên. Tôi đã cố nhớ lại tên của nó mà không cách nào nhớ được. Khi nhắc đến nó tôi buộc phải gọi nó bằng một cái tên. Vì vậy tôi gọi nó là Hanan, nhưng nó phải bỏ quá cho tôi vì nhất định đó không phải tên thật của nó. Tôi biết chính nó đã trông nom hai đứa em gái cùng cha khác mẹ với tôi mà cha tôi đã mang về nhà sau khi bỏ Aicha, bà vợ hai. Tôi đã trông thấy người phụ nữ đó, và không ghét bà. Cha tôi lấy bà ta làm vợ, âu cũng là chuyện bình thường. Lúc nào ông cũng muốn có thêm con trai. Nhưng với Aicha mong muốn ấy không được đáp ứng, bà chỉ đẻ được hai đứa con gái. Lại con gái! Thế là ông bỏ bà và mang hai đứa bé ấy về nhà. Cũng bình thường thôi! Ở đời này mọi thứ đều bình thường, kể cả những trận đòn bằng gậy và bao nhiêu thứ khác. Tôi không thể tưởng tượng ra cuộc đời nào khác. Vả lại tôi không tưởng tượng gì cả. Tôi cho rằng trong đầu tôi không có mơ ước, không có ý tưởng gì rõ ràng. Chúng tôi không có món đồ chơi, không có một trò chơi nào. Chỉ có nghe lời và phục tùng.
    Dù sao chăng nữa, bay giờ hai đứa em gái đó sống với chúng tôi. Hanan ở nhà trông nom chúng. Điều ấy thì chắc chắn rồi. Nhưng tên của chúng, vô phúc thay cũng bị chìm trong quên lãng. Tôi vẫn gọi chúng là “hai đứa em gái”…. Theo những kỷ niệm đầu tiên của tôi, hồi ấy chúng khoảng năm và sáu tuổi, và chưa từng làm việc gì. Hanan có trách nhiệm trông nom chúng nên họa hoằn lắm mới bước chân ra khỏi nhà, chỉ khi nào thật cần thiết, để thu hoạch rau củ.
    Trong gia đình chúng tôi, trẻ con sinh cách nhau khoảng chừng một năm. Mẹ tôi lấy chồng năm mười bốn tuổi. Cha tôi hơn mẹ tôi nhiều tuổi. Bà đẻ rất nhiều con. Mười bốn đứa cả thảy. Trong số đó chỉ có năm còn sống. Từ lâu, tôi không thể hình dung được thế nào là mười bốn đứa con…Một hôm, trong lúc tôi mang chè ra mời thì nghe ông ngoại tôi nhắc tới chuyện đó. Tôi nghe rõ mồn một lời ông nói: “Cũng may là mày lấy chồng sớm, đẻ được mười bốn đứa…và có một đứa con trai. Thế là tốt!”
    Tuy không được đến trường nhưng tôi biết đếm có bao nhiêu con cừu trong chuồng. Tôi có thể đếm trên đầu ngón tay để biết rằng chỉ có năm đứa chúng tôi là cùng một bụng mẹ chui ra: Noura, Kainat, tôi, Assad và Hanan. Thế còn những đứa khác đâu rồi? Mẹ tôi không bao giờ bảo những đứa ấy đã chết nhưng điều đó có thể suy ra từ câu nói quen thuộc của bà: “Tao sinh được mười bốn đứa, nhưng chỉ bảy đứa còn sống”. Nếu cho rằng bà đã gộp cả hai đứa ấy là “em cùng cha khác mẹ” mà chỉ gọi bằng “em” và xem chúng như em ruột thì quả thật bọn chúng tôi có bảy đứa cả thảy…Thế thì bảy đứa kia đâu? Mà nếu bà không gộp hai đứa con bà không sinh ra thì con số còn thiếu phải là chín đứa?
    Tuy nhiên một hôm, tôi đã hiểu rõ tại sao trong nhà chỉ còn có bảy đứa hay là năm đứa…
    Tôi không thể nói lúc ấy tôi lên mấy, nhưng khi đó tôi chưa “chín” , nên có lẽ chưa đầy mười tuổi. Noura, chị cả tôi, đang ở với tôi. Tôi đã quên nhiều chuỵên, nhưng không thể quên được chuyện chính mắt tôi đã trông thấy, vô cùng kinh hoàng. Tôi trông thấy mà không hiểu rằng đó là tội ác…
    Tôi trông thấy mẹ tôi nằm dưới đất, trên tấm da cừu. Bà đang sinh em bé, và dì Salima đang ngồi bên cạnh, trên chiếc gối đệm. Tôi nghe có tiếng kêu của mẹ và đứa bé. Và mẹ tôi nhanh tay vơ tấm da cừu trùm lên đứa bé để nó chết ngạt. Bà đang quỳ trên đầu gối và tôi nhìn thấy đứa bé động đậy dưới tấm da cừu. Nhưng sau đó thì hết, không còn gì nữa. Tôi không còn biết chuyện gì xảy ra sau đó, đứa bé đã chết. Chỉ thế thôi, và tôi sợ rụng rời.
    Vậy là mẹ tôi đã bóp chết một đứa bé gái ngay lúc nó vừa chào đời. Tôi trông thấy bà làm việc đó một lần, rồi hai lần, và đến lần thứ ba thì tôi không chắc mình có chứng kiến hay không, nhưng tôi biết mẹ tôi đã làm. Tôi cũng nghe chị Noura nói với mẹ tôi: “Nếu đẻ con gái, con cũng sẽ làm như mẹ…”
    Như thế là có đến năm hay bảy đứa bé gái bị mẹ tôi vứt bỏ bằng cách ấy. Những đứa bé do mẹ tôi sinh thêm sau này và rõ ràng sau Hanan vì Hanan là đứa cuối cùng còn sống sót. Đó là một việc được xem là bình thường và được chấp nhận mà không ảnh hưởng gì đến ai. Ngay cả với tôi cũng chẳng sao hết, ít ra tôi cũng đã tin như thế trong lần đầu tiên, mặc dù lần ấy tôi cảm thấy sợ vô cùng.
    Những đứa bé gái mà mẹ tôi đã tước đi mạng sống, kể ra cũng là một phần nào của tôi. Từ đấy, cứ mỗi lần cha tôi bắt một con cừu hoặc một con gà để giết thịt là tôi lại nấp vào chỗ vắng ngồi khóc một mình vì tôi lo sợ cho tính mạng của tôi. Cái chết của một con vật, của một đứa bé sơ sinh, đối với cha mẹ tôi là chuyện đơn giản, bình thường, nhưng nó lại khiến cho tôi sợ đến rụng rời, sợ đến lượt mình cũng sẽ chết như chúng, đơn giản và chóng vánh. Tôi nhủ thầm: “Sẽ có ngày đến lượt tôi hoặc chị tôi. Họ có thể giết chúng tôi nếu như họ muốn. Lớn hay nhỏ, chẳng có gì khác biệt. Bởi họ đã cho chúng tôi sự sống thì họ cũng có quyền tước đoạt sự sống đó.”
    Còn sống với cha mẹ trong ngôi làng ngày nào là nỗi sợ hãi về cái chết vẫn luôn ám ảnh chúng tôi ngày ấy. Tôi sợ không dám trèo lên thang khi cha tôi đứng dưới. Tôi sợ chiếc rìu vẫn dùng để bổ củi, sợ cái giếng khi đi lấy nước. Sợ những khi cha theo dõi chúng tôi lùa dàn cừu về chuồng. Sợ tiếng kẹt cửa lúc nửa đêm, sợ bị bóp chết ngạt dưới tấm da cừu tôi vẫn trải dưới đất làm giường ngủ.
    Nhiều lúc, trên đường lùa đàn cừu từ đồng cỏ trở về nhà, tôi và chị Kainat thỉnh thoảng cũng nói với nhau về việc ấy.
    “Ví dụ chẳng may mọi người đã chết sạch khi chúng ta trở về nhà thì sao nhỉ?... Và mẹ bị ông ấy giết chết? Cầm hòn đá đập một cái là xong! Chúng mình sẽ phải là gì đây?
    – Mỗi lần ra giếng múc nước là em lẩm nhẩm đọc kinh, giếng gì mà sâu đến phát sợ. Em thường nghĩ bụng nếu không may bị xô xuống dưới ấy thì có lẽ chẳng ai biết được em đã biến đi đâu! Chị có chết rũ xương dưới giếng cũng chẳng có ai đến kéo chị lên đâu.”
    Cái giếng là nỗi sợ hãi lớn nhất của tôi và tôi cảm thấy đó cũng là nỗi sợ lớn nhất của mẹ. Tôi sợ cả những khe sâu trong núi khi đưa đàn dê và đàn cừu về nhà. Tôi đưa mắt nhìn quanh, chỉ sợ cha tôi có thể nấp ở đâu đấy chờ dịp đẩy tôi xuống vực. Chuyện đó rất dễ đối với ông. Một khi đã rơi xuống đáy vực thì tôi chỉ còn nước chết. Người ta thậm chí còn có thể chất thêm mấy hòn đá trên xác của tôi. Tôi sẽ bị vùi sâu vào lòng đất và nằm ở đó mãi mãi.
    Tuy vậy, chúng tôi vẫn lo sợ về cái chết có thể xảy đến cho mẹ hơn là lo sợ cho tính mạng của một chị em nào đó. Một đứa con gái nếu không may mất đi thì vẫn còn nhiều đứa khác…Cũng giống như chúng tôi, mẹ tôi thường bị cha đánh đập. Thỉnh thoảng khi thấy chúng tôi bị đánh đau quá bà cố sức bênh chúng tôi. Thế là bà cũng bị đánh. Cha tôi túm tóc bà rồi dúi cho ngã xuống đất. Cuộc sống thường nhật của chúng tôi là cái chết có thể ập đến trong từng ngày. Nó có thể xảy đến đơn giản vì một chuyện không đâu bất ngờ, đơn giản vì cha tôi quyết định như vậy. Cũng giống như mẹ tôi đã quyết định bóp chết các bé gái sơ sinh.
    Bà có thai rồi ít lâu sau không có thai nữa, không một người nào thắc mắc về điều đó. Chúng tôi không thân với những thiếu nữ khác trong làng. Chỉ chào hỏi nhau qua loa khi tình cờ gặp. Người ta không có nhiều dịp gặp nhau, trừ những lần đi mừng đám cưới. Và có nói chuyện thì cũng chỉ nói những chuyện vặt vãnh tầm thường. Nói về các món ăn, bình phẩm về cô dâu, về những đứa con gái khác, bảo là đứa này đẹp, hoặc đứa kia xấu….và về một chị nào đó được xem là may mắn vì được trang điểm.
    “Nhìn con bé kia mà xem, nó nhổ lông mày đấy….
    – Mái tóc con bé kia cắt đẹp chưa kìa.
    – Ê, nhìn con bé này mà xem… chân nó đi giầy!”
    Đó là đứa con gái giàu nhất làng, chân đi dép thêu. Còn lũ chúng tôi lúc nào cũng đi chân đất ra đồng. Khi bị gai đâm vào chân, chúng tôi phải ngồi bệt xuống đất để nhổ. Mẹ tôi cũng không có đôi giầy nào để đi, chị Noura hôm đi lấy chồng vẫn đi chân đất. Những câu chuyện chúng tôi trao đổi với nhau trong các buổi tiệc cưới chủ yếu chỉ có thể và tôi mới chỉ đi dự đám cưới hai hay ba lần.
    Than vãn về chuyện bị đánh đập là việc không ai trong chúng tôi dám nghĩ tới vì đó là chuyện thường ngày vẫn xảy ra. Không ai thắc mắc về chuyện sống chết của bọn trẻ sơ sinh, trừ trường hợp người phụ nữ sinh được con trai. Nếu đứa bé trai ấy vẫn còn sống sau khi sinh thì đó là vinh quang cho người sản phụ và gia đình. Nhưng nếu đứa bé ấy chết thì mọi người sẽ than khóc cho nó và đó sẽ là bất hạnh cho sản phụ và gia đình. Người ta chỉ quan tâm đến con trai chứ không đoái hoài đến con gái.
    Tôi không biết việc gì đã xảy ra với những bé gái sau khi bị mẹ tôi bóp chết. Người ta có thể chôn chúng ở một nơi nào đó? Hay người ta đem vứt cho chó ăn? Mẹ tôi toàn mặc đồ đen, cha tôi cũng vậy. Mỗi khi một bé gái ra đời là trong nhà như có tang tóc. Lúc nào lỗi cũng thuộc về mẹ tôi vì mẹ chỉ toàn sinh con gái. Cha tôi nghĩ thế và cả làng cũng nghĩ như thế.
    Trong làng tôi, nếu phải chọn giữa một đứa con gái và một con bò cái thì người đàn ông sẽ chọn con bò cái. Cha tôi thường nhắc đi nhắc lại mãi không chán rằng chúng tôi là một lũ vô dụng, chẳng có giá trị gì: “Bò cái cho sữa và sinh con. Người ta làm gì với sữa và bò con? Họ đem chúng đi bán và mang tiền về nhà. Như thế có nghĩa là đối với gia đình, bò cái là một con vật có ích. Nhưng một đứa con gái thì sao? Đối với gia đình nó giúp gì được nào? Chẳng gì cả. Cừu, chúng mang lại gì cho gia đình? Chúng cho len. Có len, người ta đem đi bán và mang tiền về nhà. Cừu cái lớn lên và đẻ ra cừu con rồi chúng lại cho sữa để làm pho mát, người ta đem bán và mang tiền về nhà. Một con bò cái hay một con cừu bao giờ cũng tốt hơn một đứa con gái nhiều.”
    Bọn con gái chúng tôi đều bị thuyết phục để tin như thế là đúng. Vả lại con bò cái, con cừu cái, con dê cài, con nào cũng được đối xử tử tế hơn chúng tôi rất nhiều. Chúng không bao giờ bị cha tôi đánh đập.
    Và chúng tôi cũng tin rằng đứa con gái quả là một vấn đề lớn đối với người cha trong mỗi gia đình. Ông ta luôn lo lắng không gả được chồng cho con gái. Và cả khi đã đi lấy chồng rồi thì vẫn còn đó mối lo bị sỉ nhục trong trường hợp chẳng may nó bị chồng đối xử thô bạo và bỏ nhà chồng để trở về nhà cha mẹ đẻ. Và chừng nào còn chưa gả chồng cho con gái thì lại cứ lo nó trở thành gái già bởi vì cả làng sẽ nói vào, và đối với gia đình, đó là một thảm hoạ. Một gái già đi ra đường với cha mẹ sẽ bị mọi người dòm ngó và chế giễu. Cả làng đều thừa nhận nguyên tắc chị em trong nhà phải đi lấy chồng theo thứ tự tuổi tác trước sau, nhưng quá hai mươi tuổi thì không ai xét đế nguyên tắc nữa. Tôi không biết ở những thành phố khác ở nước tôi mọi việc như thế nào chứ ở làng tôi tình hình vẫn luôn như vậy.
    Năm tôi rời làng, dễ chừng mẹ tôi chưa đầy bốn mươi tuổi. Bà đã sinh được mười hai hay mười bốn đứa con nhưng chỉ có năm hay bảy đứa còn sống. Có phải những đứa kia đều bị bà bóp chết không? Điều đó cũng không quan trọng. Đó là một điều vô cùng “bình thường”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:52:23 | Xem tất
chương 3: hanan
Luôn tồn tại nỗi sợ về cái chết và cánh cổng sắt khép chặt cuộc đời của những đứa con gái được sống nhưng lúc nào cũng phải ngoan ngoãn phục tùng. Em trai tôi Assad, được đến trường với chiếc cặp da. Em trai tôi, Assad được cưỡi ngựa và đi dạo. Em trai tôi, Assad không ngồi ăn cùng chúng tôi. Nó trưởng thành đúng theo cách trưởng thành của một người đàn ông, tự do và kiêu hãnh, được bọn con gái trong nhà phục tùng như một ông hoàng. Tôi yêu mến nó như yêu một ông hoàng. Lúc nó còn bé, tôi đun nước tắm cho nó, tôi gội đầu cho nó, tôi chăm sóc cho nó như một kho tàng vô giá. Tôi không biết gì về cuộc sống bên ngoài gia đình của nó, tôi cũng không biết về những cái nó học được ở ngôi trường ấy cùng những điều nó thấy và làm ở thành phố. Chúng tôi đợi cho đến khi nó đi lấy vợ: ngoài việc sinh được một đứa con trai thì đám cưới là việc hệ trọng nhất trong một gia đình.
    Assad rất khôi ngô. Khi nó còn là một đứa trẻ, tôi và nó rất thân thiết, thân thiết hết mức so với quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Chỉ hơn nó một tuổi mà lại sinh ngay trước nó nên trong một thời gian, tôi có may mắn được ở bên nó nhiều. Tôi không nhớ mình có được chơi đùa với nó như bọn trẻ con ở Châu Âu cỡ tuổi ấy chơi đùa với nhau hay không. Đến năm mười bốn, mười lăm tuổi, nó trở thành một người đàn ông và nó đã rời xa tôi. Tôi chắc là nó lấy vợ rất sớm, có lẽ vào năm mười bảy tuổi. Rồi nó trở nên hung bạo. Cha tôi ghét nó lắm. Tôi không biết lý do tại sao ông lại ghét nó đến thế… Có lẽ vì nó giống ông quá. Ông sợ bị đứa con trai đã trưởng thành chiếm đoạt quyền hành. Tôi không hiểu do đâu hai cha con lại tỏ ra giận dữ với nhau như vậy, nhưng một hôm tôi trông thấy cha tôi lấy một cái sọt, đổ tất cả những thứ đựng trong sọt ra rồi cho đầy đá vào. Sau đó ông bê cái sọt lên sân thượng và ném đá xuống đầu Assad như thể muốn giết chết nó.
    Sau đám cưới vợ chồng Assad vẫn sống cùng cả gia đình. Tôi nhanh chóng hiểu ra rằng tính hung bạo của những người đàn ông trong làng tôi đã bắt nguồn từ xa xưa. Cái tính hung bạo ấy được truyền từ đời cha cho con trai rồi đến lượt người con trai truyền cho các thế hệ kế tiếp.
    Từ hai mươi năm nay tôi chưa một lần được gặp lại gia đình mình nhưng nếu có một phép lạ cho tôi gặp lại em trai tôi, tôi sẽ hỏi nó một câu duy nhất: “Đứa em gái mất tích, đứa em gái mà chị gọi tên là Hanan ấy, nó đâu rồi?”
    Hanan…Tôi nhớ nó có màu da nâu sậm. Nó rất xinh, xinh hơn tôi với mái tóc dày và cũng “chín” hơn về thể chất. Tôi còn nhớ là chị Kainat dịu dàng dễ mến và hơi béo, còn Hanan thì tính tình khác hẳn, hơi nóng nảy và bướng bỉnh hơn chúng tôi. Cặp lông mày mọc rậm, hai đầu mày gần như chạm vào nhau. Nó không béo nhưng người ta cảm thấy sau này nó có thể là một cô gái khoẻ khoắn và tròn trịa. Hanan không mảnh khảnh như tôi. Những lần đi giúp chúng tôi nhặt ôliu, nó làm việc chậm chạp, di chuyển cũng chậm chạp. Đó không phải là thói quen trong gia đình chúng tôi: chúng tôi bước đi nhanh, chúng tôi làm việc nhanh, chúng tôi gần như chạy để nghe kịp sai bảo. Hanan không được hoạt bát cho lắm, lại hay mơ mộng và không bao giờ để tâm đến người lớn dặn dò. Khi đi thu hoạch ôliu chẳng hạn, trong khi tôi đau hết mấy ngón tay để nhặt đầy cả chậu thì đáy chậu của nó vẫn còn chưa kín. Thành thử tôi phải quay lại nhặt giúp nó. Chứ nếu để nó lẹt đẹt mãi phía sau thì nhất định nó sẽ gặp rắc rối với cha tôi. Tôi còn nhớ mỗi lần quay lại tôi vẫn thấy Hanan còn loay hoay ở đằng sau, cử chỉ chậm chạp như đoạn phim quay chậm. Nó thực sự rất khác biệt, và tôi nhớ hồi ấy tôi không trò chuyện với nó hay đặc biệt quan tâm đến nó, trừ những lần thấy cần phải giúp nó nhặt ôliu, hoặc tết mớ tóc dày của nó thành cái bím to như tôi đã bảo nó phải làm cho tôi. Không bao giờ tôi trông thấy nó đứng trong chuồng cừu với chúng tôi hay trông thấy nó vắt sữa bó hoặc xén lông cừu…Nó chỉ loanh quanh trong bếp giúp mẹ tôi. Có lẽ vì thế mà hình ảnh của nó hầu như biến mất trong ký ức tôi mặc dù tôi đã đếm đi đếm lại, cố sắp xếp theo thứ tự được sinh ra: Noura, Kainat, Souad, Assad, và…? Đứa em gái thứ tư của tôi không còn tồn tại nữa, đến tên nó tôi cũng quên. Nhiều lúc tôi cũng không biết trong chị em chúng tôi đứa nào đã được sinh ra trước đứa nào. Về phần chị Noura thì tôi chắc rồi, về phần thằng Assad cũng thế nhưng chị Kainat thì ngay cả bây giờ tôi vẫn còn lẫn lộn không sao phân biệt được giữa chị và tôi. Còn về đứa em mà tôi thường gọi bằng cái tên Hanan thì điều khổ tâm nhất của tôi là từ nhiều năm nay hình như toi không còn tự đặt câu hỏi về sự mất tích của nó nữa.
    Tôi đã hoàn toàn “quên” nó, tựa như một cánh cổng sắt đã khép lại, che mất hình ảnh đứa em gái máu mủ đó khiến ký ức vốn đã mơ hồ của tôi không còn lưu giữ gì nhiều về nó.
    Tuy nhiên cách đây không lâu, một hình ảnh, một cảnh tượng ghê sợ đã ập đến trong tâm trí tôi. Trong một cuộc họp của hội phụ nữ, có người cho tôi xem bức ảnh chụp một cô gái đã chết, nằm dài trên mặt đất, cổ bị siết bằng một sợi dây màu đen, một sợi dây điện thoại. Tôi có cảm giác trước đây mình đã có lần nhìn thấy một hình ảnh tương tự như vậy. Bức ảnh khiến tôi bàng hoàng không phải chỉ vì cô gái đáng thương ấy mà còn vì tôi cố mò mẫm như đang đi trong sương mù để “thấy” một cái gì đó liên quan đến tôi. Và ngày hôm sau, kì lạ thay, ký ức của tôi bỗng nhiên bừng tỉnh. Tôi đã có mặt ở đó! Tôi đã trông thấy! Tôi đã biết đứa em gái Hanan chết khi nào!
    Từ đó tôi sống với cơn ác mộng ấy trong đầu và rồi phát ốm vì nó. Từng kỉ niệm chính xác, từng phân cảnh cuộc đời đã qua của tôi cứ như tình cờ ùa về làm tôi khổ sở đến phát bệnh. Tôi muốn quên hoàn toàn tất cả những chuyện khủng khiếp ấy đi và trong hơn hai mươi năm qua tôi đã làm được, dù chỉ là vô thức. Nhưng nếu muốn làm một nhân chứng để nói về cuộc đời tôi đã trải qua trên đất nước tôi, từ lúc còn là một bé gái thơ dại đến lúc trở thành đàn bà, tôi bắt buộc phải ngụp lặn trong tâm trí mình như lặn sâu xuống đáy của chiếc giếng ngày xưa đã từng làm tôi khiếp đảm. Và bây giờ, tất cả những mảnh vụn của quá khứ đang tranh nhau nổi lên mặt nước dường như có vẻ quá kinh khủng đến nỗi tôi thấy khó mà tin được. Nhiều lúc tôi bất giác buột miệng: “Có thật những điều đó đã xảy ra trong cuộc đời mình không?”
    Tôi đã trải qua những điều đó và tôi đã sống sót. Nhiều phụ nữ khác trên thế giới đã sống qua những cảnh ngộ ấy và hiện giờ có lẽ vẫn đang phải sống như vậy. Tôi rất muốn quên, nhưng những phụ nữ may mắn được thoát chết để có thể nói lên sự thật lại quá ít, thành ra tôi thấy mình có nghĩa vụ phải đứng ra làm một chứng nhân và một lần nữa làm sống lại những cơn ác mộng ấy.
    Tôi ở trong nhà và nghe có tiếng kêu thét, rồi tôi trông thấy Hanan ngồi dưới đất, tay chân giãy đạp loạn xạ, còn Assad đang giang rộng cánh tay và cúi lom khom trên người con bé. Nó đang siết cổ Hanan bằng sợi dây điện thoại. Tôi nhớ rất rõ hình ảnh này như vừa được nhìn thấy hôm qua. Tôi dán người sát vào tường như thể muốn chui luôn vào đó và biến mất trong đó. Lúc ấy có cả hai đứa em gái cùng cha khác mẹ. Tôi đứng chắn trước mặt chúng để che chở cho chúng. Tôi giữ chặt tóc chúng để chúng đứng yên. Có lẽ Assad đã nhìn thấy chúng tôi hoặc nghe tiếng chân tôi , nó hét: “Rouhi! Rouhi! Xéo đi! Xéo ngay!”
    Tôi kéo hai đứa em chạy về phía cầu thang xi măng dẫn về phòng ngủ. Một trong hai đứa sợ đến nỗi bị ngã sái chân nhưng tôi vẫn bắt nó phải tiếp tục chạy, không được ngừng. Toàn thân tôi run bần bật. Vào trong phòng, tôi cài chặt cửa và dỗ dành con bé. Tôi cố xoa bóp để đầu gối nó đỡ đau và cả ba chị em ngồi im trong phòng thật lâu, không dám gây ra bất cứ tiếng động nào. Tôi không thể làm được gì, hoàn toàn không thể làm được gì, hoàn toàn không thể làm được gì ngoài việc giữ im lặng trước cảnh tượng ghê rợn vừa rồi.
    Em trai tôi đã siết cổ em gái tôi…Lúc ấy có lẽ Hanan đang nói chuyện điện thoại thì thằng Assad bất ngờ từ đằng sau tiến đến siết cổ nó…Hanan đã chết, tôi chắc chắn rằng nó đã chết.
    Hôm ấy Hanan mặc quần ống phồng màu trắng với áo sơ mi dài đến đầù gối. Đi chân đất. Tôi thấy con Hanan quẫy đạp hai chân, tôi thấy nó vung hai tay đánh vào mặt thằng Assad trong lúc thằng Assad hét: “Xéo đi! Xéo ngay!”
    Chiếc điện thoại màu đen, hình như thế. Điện thoại được đặt dưới đất trong gian phòng chính với sợi dây rất dài. Lúc ấy chắc Hanan đang gọi điện thoại nhưng tôi không biết nó gọi ai và tại sao lại gọi. Tôi không biết mình đang làm gì trước khi xảy ra chuyện đó, cũng không biết mình đang ở đâu, cũng không biết về phần Hanan, đã làm những gì, nhưng theo như tôi biết, trong cách cư xử của nó không có gì sai trái đến mức Assad muốn siết cổ nó. Tôi thực không hiểu việc gì đã xảy ra.
    Tôi ngồi im trong phòng với hai con bé cho đến lúc mẹ tôi về. Bà đã đi ra ngoài cùng với cha tôi. Chỉ có mình Assad ở nhà với chúng tôi. Tôi đã mất rất nhiều thời gian để tìm hiểu xem tại sao hôm ấy trong nhà lại không có một ai khác ngoài Assad và chúng tôi. Rồi sau đó, những tình tiết dần được liên kết với nhau.
    Hôm ấy cha mẹ tôi đi thăm vợ Assad tại nhà bố mẹ cô này. Cô đang có thai và bị Assad đánh đập nên trốn về nhà cha mẹ đẻ. Đó là lý do tại sao Assad ở nhà một mình với chúng tôi. Và nó đang giận điên lên, giống như những người đàn ông khác khi phải chịu điều sỉ nhục này. Như thường lệ, tôi chỉ có những mẩu thông tin vụn vặt về chuyện xày ra trong nhà. Mỗi khi có rắc rối, bọn con gái không được phép tham dự vào cuộc họp gia đình. Bọn con gái không được phép đến gần. Sau này tôi mới biết cô em dâu bị sẩy thai và tôi đoán bố mẹ cô ấy đã đổ hết trách nhiệm lên đầu Assad. Nhưng hôm ấy, hai sự việc lại chẳng liên quan gì đến nhau. Hanan gọi điện thoại để làm gì? Rất hiếm khi chúng tôi dùng đến điện thoại. Chính tôi, tôi cũng chỉ dùng nó hai hay ba lần để nói chuyện với chị cả, với dì tôi hoặc với vợ Assad. Nên Hanan gọi điện cho ai thì nhất định người ấy phải là người trong gia đình.
    Chiếc điện thoại ấy đã ở trong nhà tôi từ khi nào? Dạo ấy, trong làng chẳng mấy nhà có điện thoại… Cha tôi đã mua nhiều thiết bị hiện đại cho ngôi nhà. Chúng tôi có phòng tắm với bình nóng lạnh và dĩ nhiên có cả điện thoại….
    Khi cha mẹ tôi về đến nhà, tôi biết mẹ đã nói chuyện với Assad. Tôi trông thấy bà khóc nhưng bây giờ thì tôi biết là bà chỉ giả vờ khóc. Lúc này tôi đã thực tế hơn, và tôi hiểu mọi việc trên đất nước tôi xảy ra như thế nào. Tôi biết tại sao người ta lại giết con gái. Tôi biết diễn biến sự việc ấy ra sao. Một cuộc họp gia đình ra quyết định và đến ngày định mệnh cả cha lẫn mẹ đều phải đi vắng. Ở nhà chỉ có đứa con gái và kẻ đã được gia đình chỉ định để ra tay.
    Mẹ tôi không thực sự khóc. Bà không khóc! Đó chỉ là một màn kịch. Chắc chắn bà biết rõ tại sao Assad siết cổ em gái tôi. Nếu không biết thì tại sao đúng ngày hôm ấy mẹ, cha và chị Noura đều đi vắng? Tại sao lại để chúng tôi ở nhà một mình với Assad? Điều mà tôi không được biết đó là lý do tại sao Hanan bị kết án. Có lẽ nó đã phạm tội lỗi nào đó mà tôi không biết đó là tội gì. Đi ra ngoài một mình chăng? Hay có ai trông thấy nó nói chuyện với một người đàn ông? Hay một hàng xóm đã mách tội nó? Chỉ cần một việc còn con cũng đủ làm nó trở thành một charmuta, rằng nó đã làm nhục gia đình, và nó phải chết để bảo toàn danh dự không những cho cha, cho mẹ, em trai mà còn cho cả làng nữa!
    Tuy kém tuổi hơn tôi nhưng Hanan lại “chín chắn” hơn tôi. Có lẽ nó đã phạm một lỗi bất cẩn nào đó mà tôi không biết. Bọn con gái không hay đem chuyện thầm kín nói cho nhau nghe. Chúng rất sợ nói ra, dù là nói với chị em ruột. Điều này tôi biết rất rõ vì chính tôi cũng không dám nói cho ai biết tâm sự của mình….
    Tôi rất yêu quý em trai tôi. Tất cả chị em chúng tôi đều yêu nó vì nó là người đàn ông duy nhất trong gia đình. Sau cha tôi, nó là người duy nhất có thể che chở cho chúng tôi. Nếu không may cha tôi chết đi thì nó sẽ thay ông lèo lái cả gia đình, nếu đến lượt nó cũng chết, nếu trong nhà chỉ còn đàn bà con gái thì gia đình sẽ tiêu vong. Lúc ấy sẽ chẳng còn cừu, chẳng còn ruộng vườn, sẽ chẳng còn gì cả. Điều tồi tệ nhất của một gia đình là mất đi người anh hoặc em trai duy nhất. Làm sao sống được nếu trong nhà không có đàn ông? Chính đàn ông là người đề ra luật lệ bảo vệ chúng tôi, chính con trai là người thay thế người bố và gả chồng cho các chị em gái.
    Assad cũng hung bạo như cha tôi. Nó là “kẻ giết người”, nhưng ở đất nước tôi, khi giết một đứa con gái thì ba từ này chẳng có ý nghĩa gì hết. Người anh em ruột, anh em rể, hoặc bất cứ người bác, người chú, đều có thể thực hiện nhiệm vụ bảo toàn danh dự cho gia đình. Họ có quyền quyết định mạng sống của đàn bà con gái trong nhà. Nếu cha hoặc mẹ bảo anh con trai: “Em gái mày đã phạm tội, mày phải giết nó…” thì anh ta sẽ làm ngay để bảo toàn danh dự gia đình, đó là luật.
    Assad là đứa em chúng tôi rất thương yêu. Có lần nó bị ngã ngựa–nó rất thích cưỡi ngựa đi dạo. Con ngựa bị trượt chân và nó ngã. Chúng tôi khóc rất nhiều, tôi vẫn nhớ như in. Vừa khóc tôi vừa xé áo và bứt tóc. Cũng may là cú ngã không nặng lắm và chúng tôi đã chăm sóc nó. Trái lại, khi cha tôi ngã gãy chân thì chúng tôi vui mừng đến độ tưởng chừng có thể ôm nhau nhảy múa. Và ngay đến bây giờ, tôi vẫn không tưởng tượng nổi Assad là một thằng giết người. Cảnh tượng em gái tôi bị siết cổ đến chết thật là một cơn ác mộng, nhưng lúc bấy giờ tôi không thể giận thằng Assad. Việc nó đã làm là một chuyện bình thường, nó phải chấp nhận làm việc ấy vì nghĩa vụ, bởi đó là việc cần thiết cho gia đình. Vả lại tôi rất yêu thương nó.
    Tôi không biết sau đấy người ta làm gì với xác của Hanan, chỉ biết rằng nó biến mất hoàn toàn. Tôi đã quên nó. Tôi cũng không hiểu rõ lý do tại sao. Hồi ấy, sau nỗi sợ hãi chắc chắn còn có lô–gic sống của cuộc đời, còn có phong tục tập quán, luật lệ, tất cả những gì buộc chúng tôi phải chịu đựng những chuyện đó “một cách bình thường”. Những chuyện như thế chỉ được xem là khủng khiếp, là tội ác ở nơi khác, ở các nước phương Tây, ở những nước mà nền tảng luật pháp có sự khác biệt. Chính tôi, hồi đó tôi cũng tưởng mình sẽ phải chết và việc được cứu sống nhờ phép lạ sau khi bị thứ luật lệ quen thuộc kia tuyên án tử hình, đã làm đầu óc tôi bị xáo trộn trong một thời gian dài. Bây giờ tôi đoán có lẽ hồi ấy tôi bị sốc và những gì mà chính tôi đã trải nghiệm càng làm trầm trọng thêm cú sốc ấy, đến mức tôi không thể nhớ được một vài sự kiện. Chính một bác sĩ chuyên khoa tâm thần đã nói với tôi như thế.
    Vậy là tôi đã biết tại sao Hanan biến mất khỏi cuộc đời và ký ức của tôi. Có thể nó đã được chôn cùng với những bé gái sơ sinh khác. Có thể nó đã bị đốt thành tro, vùi dưới một bờ đất dốc hay trong một cánh đồng. Cũng có thể người ta quẳng xác nó cho chó? Tôi không biết. Mỗi khi kể về quãng đời trước đây của tôi ở ngôi làng cũ, tôi thấy rõ qua ánh mắt của mọi người một điều rằng họ rất khó có thể hiểu được. Họ hỏi tôi nhiều câu hỏi mà họ cho là lôgic: “Thế cảnh sát có đến không?”, “Mất tích như thế sao chẳng có ai thắc mắc gì?”, “Những người trong làng nói sao?”
    Đời tôi chưa bao giờ thấy một viên cảnh sát nào. Chuyện một người đàn bà mất tích chẳng có nghĩa lí gì. Người trong làng đều nhất loạt tán thành những luật lệ của cánh đàn ông. Gia đình nào không chịu giết đứa con gái đã làm nhục gia môn sẽ bị cả làng lánh xa, không ai muốn nói chuyện hay giao dịch, làm ăn với gia đình đó. Gia đình ấy chỉ có cách bỏ nhà đi nơi khác! Vậy nên…
    Đứng từ góc độ của tôi hiện nay mà nhìn lại sẽ thấy số phận em gái tôi tồi tệ hơn tôi rất nhiều, Nhưng nó lại có cái may mắn là nó đã chết. Như thế ít ra nó không phải chịu đau khổ nữa.
    Những tiếng kêu thét của Hanan tôi vẫn còn nghe văng vẳng bên tai. Nó đã kêu thét rất to! Suốt thời gian dài, tôi và chị Kainat vẫn còn lo sợ cho số phận của chính mình. Mỗi lần nhìn thấy cha tôi, em trai tôi hay anh rể tôi, chồng chị Noura, chúng tôi lại cảm thấy lo sợ điều gì đó sẽ xảy ra cho chúng tôi. Nhiều khi chúng tôi sợ đến mức không ngủ được. Ban đêm, tôi thường giật mình tỉnh giấc. Tôi cảm thấy có một mối đe doạ thường trực. Assad lúc nào cũng giận dữ và hung bạo. Nó không được phép đi gặp vợ: cô ta bị nó đánh đập mãi nên vừa ra khỏi bệnh viện là quay thẳng về nhà bố mẹ đẻ. Tuy nhiên, cô ta vẫn phải trở lại sống với nó, luật là như vậy. Cô ta đẻ cho nó mấy đứa con khác, cũng may toàn con trai. Chúng tôi rất tự hào về Assad, vẫn thương yêu nó rất nhiều mặc dù nó làm chúng tôi sợ. Có một điều mà tôi không hiểu là tại sao càng thương yêu Assad tôi càng căm ghét cha tôi bấy nhiêu. Suy cho cùng hai người ấy chẳng khác nhau…
    Nếu tôi vẫn ở lại làng, nếu tôi lấy chồng và sinh toàn con gái, một ngày nào đó Assad được giao nhiệm vụ siết cổ một trong những đứa con gái của tôi, có lẽ tôi cũng sẽ làm như những người phụ nữ khác, tôi sẽ cam chịu mà không hề phản kháng. Ở đây, nghĩ và nói như thế là chuyện không thể chấp nhận được, nhưng ở làng tôi là như vậy.
    Giờ đây mọi chuyện đã khác bởi đối với làng tôi, tôi đã chết, và bởi vì tôi được sinh ra lần thứ hai trên đất châu Âu. Vì thế trong tâm trí tôi có những ý nghĩ khác xuất hiện.
    Nhưng tôi vẫn thương yêu em trai tôi. Tình cảm đó như thể rễ cây ôliu, không sao nhổ đi được, ngay cả khi cây đã bị đổ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:55:00 | Xem tất
chương 4: quả cà chua xanh
Sáng nào tôi cũng quét dọn chuồng gia súc, chuồng rất rộng và nồng nặc mùi hôi. Sau khi cọ rửa sạch sẽ, tôi sẽ để cửa chuồng mở cho thoáng. Chỗ nào trong chuồng cũng ẩm ướt cộng với sức nóng của mặt trời nên hơi nước ngập đầy bên trong. Phân chuồng được xúc vào xô và tôi đội lên đầu để mang ra vườn phơi khô. Một phần của đống phân chuồng ấy là phân ngựa được dùng riêng để bón đất trong vườn. Cha tôi bảo đó là thứ phân bón tốt nhất. Phân cừu thì dành để đun trong lò nướng bánh mì. Khi phân thật khô, tôi ngồi bệt xuống đất và tôi dùng tay để nặn chúng thành những bánh nhỏ rồi chất thành đống để đun dần.
    Cừu được lùa ra đồng ăn cỏ từ sáng sớm. Khoảng mười một giờ trưa, khi mặt trời lên cao và nắng nóng thì ra đồng đưa cừu về chuồng. Đàn cừu ăn và ngủ. Tôi cũng vào nhà để ăn trưa. Một ít dầu trong bát, bánh mì nóng, chè, ôliu và hoa quả. Buổi tối có thịt gà, thịt cừu non hoặc thịt thỏ. Hầu như ngày nào chúng tôi cũng ăn thịt với cơm, với bột nhào do tự chế biến. Rau củ đều được hái từ vườn nhà.
    Khi trời quá nóng thì tôi quay sang lo việc nhà. Tôi nhào bột để làm bánh mì. Tôi cho bọn cừu con ăn. Tôi nắm lấy mảng da ở cổ chúng như nắm những con mèo, rồi giơ chúng lên ngang với đầu ti của cừu mẹ để cho chúng bú. Lúc nào cũng có nhiều cừu non nên tôi lần lượt cho từng con bú. Con nào đã bú no, tôi trả nó về chỗ cũ và mang một con khác đến cho tới khi cả đàn bú xong. Sau đó tôi chăm đến đàn dê được nhốt riêng ở một góc chuồng. Hai con ngựa được nhốt riêng và bốn con bò cái cũng vậy. Chuồng gia súc quả thực rất rộng: có khoảng sáu mươi con cừu và ít nhất bốn mươi con dê. Đàn ngựa luôn được thả ngoài bãi cỏ, đến tối mới dắt về chuồng. Ngựa chỉ để cho em trai tôi và cha tôi cưỡi đi dạo, chúng tôi không bao giờ được động tới. Khi hoàn tất công việc trong chuồng gia súc, tôi về nhà mà vẫn để ngỏ cửa chuồng vì trời rất nóng, vả lại đã có hàng rào chắn bằng gỗ, thứ gỗ rất nặng và dày ngăn không cho những con vật xổng ra ngoài.
    Sau đó tôi phải ra vườn khi mặt trời xuống thấp. Hầu như ngày nào cũng có nhiều cà chua chín cần phải hái. Có lần, do nhầm lẫn tôi hái một quả cà chua còn xanh. Tôi vẫn không quên quả cà chua xanh ấy! Ngồi trong nhà bếp tôi vẫn thường nghĩ đến nó. Nó nửa vàng nửa đỏ, chỉ mới chín ương. Khi về nhà, tôi đã nghĩ đến việc giấu nó đi nhưng không kịp vì cha tôi cũng đã về đến nhà. Tôi biết là không nên hái nó nhưng khi đó vì mải hái nhanh nên tôi không ngừng được. Vốn phải nhanh chóng làm việc trong nhà thành ra những cử chỉ của tôi trở nên máy móc, những ngón tay của tôi cứ xoay thoăn thoắt quanh những trái cà chua, sang phải, sang trái, rồi sang phải, sang trái, từ ngọn xuống gốc…và quả cà chua cuối cùng, quả cà chua ít được ánh nắng chiếu đến nhất, bỗng dưng nằm gọn trong tay tôi, ngoài ý muốn của tôi. Và nó nằm đó, rất dễ nhận thấy trong cái chậu. Cha tôi hét lên: “Mày điên đấy à? Mày xem mày đã làm cái gì kia? Quả cà chua còn xanh như thế mà mày lại hái! Đồ thối thây!”
    Và ông đánh tôi rồi cầm quả cà chua bóp mạnh đến nát bét trên đầu tôi. Hạt và nước cà chua chảy ròng ròng trên người tôi. “Bây giờ thì ăn đi! Ăn đi!” Ông ấn quả cà chua vào mồm tôi, bôi những thứ còn lại lên mặt tôi. Tôi cứ tưởng quả cà này mặc dù còn xanh nhưng vẫn có thể ăn được, nhưng nó đắng chát đến phát lợm. Do bị ép nên tôi phải nuốt. Sau đó tôi không còn muốn ăn gì nữa, tôi khóc mãi, và thấy dạ dày mình cuộn lên. Nhưng cha tôi còn dúi đầu tôi xuống chiếc đĩa và bắt tôi phải ăn, gần như một con chó. Tôi không cựa quậy được, đầu tôi đau nhói vì ông xoắn nghiến tóc tôi. Con bé con bà vợ thứ hai của của cha tôi bật cười chế nhạo tôi. Cha tôi vung tay tát nó mạnh đến nỗi những thứ con bé đang nhai trong miệng văng hết ra ngoài và nó bật khóc. Tôi càng kêu van đau đớn, ông lại càng ra sức dúi mặt tôi vào sâu trong đống bột. Ông còn lấy bột vo lại thành từng viên nhét vào mồm tôi cho đến lúc chiếc dĩa sạch nhẵn không còn chút bột nào mới thôi, ông đã nổi điên. Sau đó ông lấy khăn lau tay, ném cái khăn đó lên đầu tôi rồi thản nhiên đi ra hàng hiên ngồi dưới bóng râm.
    Tôi vừa thu dọn khay đĩa vừa khóc. Mặt tôi, tóc tôi , mắt tôi dính đầy thức ăn. Và như thường lệ, tôi lấy chổi quét dọn từng miếng bột vụn cha tôi đánh rơi dưới đất.
    Trong suốt một thời gian dài, tôi đã quên nhiều sự kiện quan trọng, như việc em gái tôi mất tích chẳng hạn, nhưng không bao giờ tôi quên câu chuyện quả cà chua xanh và nỗi nhục bị đối xử tệ hơn một con chó. Và tệ nhất là cảnh cha tôi, sau khi cho tôi một trận đòn nên thân mà hầu như ngày nào tôi cũng phải nhận, thản nhiên ra hàng hiên dưới bóng râm ngủ trưa như một ông vua. Ông là biểu tượng của chế độ nô lệ mà tôi phải cúi đầu chấp nhận, và tôi phải đưa lưng hứng chịu những trận đòn roi như mẹ tôi, như chị em tôi. Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao tôi căm ghét cha tôi. Tôi chỉ mong chiếc khăn choàng phu–la ông đang quàng thít chặt cổ khiến cho ông chết ngạt.
    Đó là cuộc sống thường nhật. Khoảng bốn giờ sáng chúng tôi lùa cừu và dê ra đồng ăn cỏ cho đến khi mặt trời lặn. Chị tôi đi trước dẫn đường và bao giờ tôi cũng đi đằng sau với cây gậy trong tay để thúc đàn gia súc tiến lên phía trước, và nhất là đe nẹt mấy con dê. Chúng lúc nào cũng quậy phá, chỉ chực chạy quáng quàng. Khi đã ra đến đồng cỏ rồi thì được yên tĩnh một chút, ở đây chỉ có chúng tôi và đàn gia súc. Tôi lấy một quả dưa hấu rồi đập lên hòn đá cho nó nứt toác ra. Khi về nhà, chúng tôi chỉ sợ có ai biết vì áo bị loang lổ do nước dưa bắn lên. Chúng tôi đi thẳng vào chuồng cừu, mặc nguyên áo trên người, chỉ té nước lên gột cho sạch, trước khi cha mẹ kịp nhìn thấy. Không có chuyện cởi áo ra, nhưng cũng may là áo khô rất nhanh.
    Mặt trời ngả sang một màu vàng kỳ lạ và tiến xa về hướng chân trời. Bầu trời chuyển từ xanh sang xám, cần phải về trước khi màn đêm buông xuống. Ở quê tôi, trời thường tối rất nhanh nên làm việc gì cũng phải nhanh như mặt trời, đếm từng bước đi trên đường, men theo bờ tường và một lần nữa cánh cửa sắt đóng sập lại ngay sau lưng.
    Lùa gia súc vào chuồng xong cũng là lúc vắt sữa bò và cừu. Tôi còn nhớ là tay tôi mỏi nhừ. Một cái bình đựng sữa to đặt ngay dưới bụng con bò, một chiếc ghế đẩu thấp lè tè, tôi nắm một chân con bò kẹp chặt vào giữa hai chân tôi để nó không núc nhích và cũng để tia sữa không phun ra chỗ khác mà phun thẳng vào cái xô. Nếu để sữa chảy thành vũng dưới đất hoặc chỉ rơi vài giọt thôi là không sống nổi với cha tôi!... Ông sẽ vừa tát liên hồi vừa hét ầm lên rằng tôi vừa để mất của ông một miếng pho mát! Bầu vú con bò nào cũng rất to và cứng vì căng sữa, còn tay tôi thì bé quá. Hai cánh tay tôi mỏi nhừ, phải mất rất nhiều thời gian tôi mới vắt sữa xong, và tôi kiệt sức. Có lần, hồi ấy trong chuồng có khoảng sáu con bò, tôi vừa vắt sữa vừa ngủ gật. Tôi gục đầu vào cái xô, hai chân kẹp lấy chân con bò. Không may cho tôi là cha tôi đi vào và ông hét lên: “Charmuta! Con đĩ!” Nói rồi ông túm tóc tôi lôi xềnh xệch trong chuồng và tôi bị một trận đòn tối tăm mặt mũi bằng chiếc thắt lưng da. Tôi vẫn còn nguyền rủa chiếc thắt lưng da to bản ấy, chiếc thắt lưng da mà cha tôi thường đeo với một chiếc khác bé hơn. Chiếc thắt lưng bé ấy quất xuống rất mạnh. Ông cầm chặt một đầu và thẳng tay vung xuống. Khi dùng chiếc thắt lưng to, ông phải gấp đôi nó lại và nó rất nặng. Tôi vừa khóc vừa van lạy nhưng tôi càng kêu đau bao nhiêu thì ông càng đánh mạnh bấy nhiêu và mắng tôi là đồ đĩ.
    Tối đến, trong bữa ăn, tôi vẫn còn khóc. Mẹ tôi gạn hỏi lý do. Bà thấy rõ là tối đó cha tôi rất mạnh tay, nhưng bà cũng bị ông đánh luôn. Vừa đánh ông vừa bảo mẹ tôi là chuyện này không dính dáng gì đến bà, và bà không cần phải biết lý do vì đã có tôi biết thay cho bà.
    Trong nhà tôi, một ngày bình thường là một ngày ít nhất tôi cũng bị một cái tát hoặc một cú đá vì tội làm ăn chậm chạp, về tội nước pha chè không chịu sôi nhanh…Thỉnh thoảng tôi cũng tránh được một cái cốc đầu, nhưng không thường xuyên. Tôi không nhớ chị Kainat có bị đánh nhiều như tôi không nhưng chắc là có vì chị cũng có vẻ sợ hãi như tôi. Tôi vẫn giữ thói quen làm việc nhanh, bước đi thật nhanh như thể lúc nào cũng có một chiếc thắt lưng da thường xuyên rình rập. Con lừa chỉ cất bứơc khi bị gậy đập vào lưng. Nếu gậy ngừng đập, nó cũng ngừng đi. Giống hệt chúng tôi, chỉ khác là cha tôi đánh chúng tôi mạnh hơn đánh con lừa. Và sáng hôm sau, theo nguyên tắc, tôi bị đánh thêm mấy roi cốt để tôi đừng quên trận đòn thích đáng hôm qua. Cốt để tôi bước tiếp mà không ngủ gật giống như con lừa trên đường.
    Chuyện về con lừa nhắc tôi đến một kỉ niệm khác liên quan đến mẹ tôi. Hôm ấy như thường lệ, tôi lùa đàn cừu ra đồng cỏ rồi quay về nhà thật nhanh để quét dọn chuồng trại. Mẹ tôi đi cùng tôi, bà giục tôi nhanh tay lên vì chúng tôi còn phải đi nhặt quả vả. Phải buộc các thùng gỗ lên lưng lừa và đi ra khỏi làng khá xa. Tôi không xác định được thời gian diễn ra chuyện này, chỉ nhớ buổi sáng hôm ấy hình như cũng gần với vụ cà chua xanh. Đó là lúc cuối mùa vì cây vả chỗ chúng tôi dừng chân đã trụi hết lá. Tôi buộc con lừa vào thân cây vả để ngăn không cho nó ăn quả và lá vả rụng đầy trên mặt đất.
    Tôi bắt đầu nhặt và mẹ tôi bảo tôi: “Này Souad nghe tao bảo. Mày ở lại đây với con lừa và nhặt những quả vả rụng bên đường, nhưng không được đi ra xa, cứ ở quanh cái cây này thôi. Không được đi đâu cả. Nếu trông thấy cha mày cưỡi con ngựa bạch hoặc trông thấy thằng Assad hoặc bất cứ ai khác thì huýt sáo một tiếng, tao sẽ quay lại ngay.” Dặn xong, bà men theo con đường, đi một đoạn khá xa tới chỗ người đàn ông cưỡi ngựa đang đứng đợi. Người này tôi đã nhìn thấy mấy lần nên biết, hắn tên là Fadel. Đầu tròn, dáng người nhỏ bé nhưng khá khoẻ mạnh. Con ngựa của hắn được chăm sóc khá kỹ lưỡng, có bộ lông trắng và một đốm đen, đuôi được tết lại đến tận phía dưới trông như cái bím. Tôi không biết hắn ta có vợ hay chưa.
    Mẹ tôi và hắn làm cái việc phản bội bố tôi. Thoạt nghe bà dặn tôi đã hiểu ra ngay. “Nếu trông thấy ai đến thì huýt sáo ra hiệu cho tao biết.” Người đàn ông cưỡi ngựa biến mất khỏi tầm nhìn của tôi, mẹ tôi cũng biến mất theo. Còn tôi, chỉ chú tâm nhặt những quả vả bên vệ đường. Ở chỗ ấy chẳng nhặt được bao nhiêu nhưng tôi không được đi xa hơn. Nếu đi ra xa, nhỡ cha tôi hoặc người nào đó đến thì tôi sẽ không nhìn thấy được.
    Cũng thật lạ lùng tôi không hế ngạc nhiên vì chuyện này. Theo những kỉ niệm của tôi thì lúc bấy giờ tôi không cảm thấy lo sợ gì nhiều. Có lẽ vì mẹ tôi đã lên kế hoạch rất chu đáo. Con lừa bị buộc vào cây vả trụi lá, nó không thể ăn được bất cứ thứ gì. Với lối nhặt hái này thì buộc phải làm như thế. Tôi không cần phải canh chừng như trong chính vụ và có thể làm mọi việc của mình. Tôi đi về phía này mười bước, đi về phía kia mười bước, vừa đi vừa nhặt những quả vả rơi dưới đất và bỏ vào thùng. Từ chỗ đang đứng, tôi có thể bao quát cả đoạn đường dẫn về phía làng, nếu có ai đến, tôi có thể trông thấy từ xa và huýt sáo kịp lúc. Tôi không nhìn thấy Fadel hoặc mẹ tôi nhưng tôi đoán là họ chỉ ở cách đây quãng năm mười bước chân, đang nấp đâu đấy ngoài đồng. Như thế nếu có chuyện cấp bách xảy ra bà vẫn có thể nói là mình chỉ vắng mặt chốc lát để giải quyết nhu cầu cấp bách. Không một người đàn ông nào, kể cả cha tôi hay em trai tôi lại sỗ sàng tra hỏi về chuyện ấy. Làm như thế thật đáng hổ thẹn.
    Tôi cũng không phải ở một mình lâu, thùng vả chỉ mới hơi đầy thì hai người đã trở về theo hai lối riêng rẽ. Mẹ tôi từ cánh đồng bước ra. Tôi trông thấy Fadel lên ngựa, lần thứ nhất hắn không với tới yên vì con ngựa cao quá. Hắn ta có chiếc roi ngựa bằng gỗ rất đẹp, rất mảnh. Trước khi đi, hắn ta còn cười với mẹ tôi.
    Tôi vờ như không thấy gì.
    Chuyện ấy diễn ra thật nhanh. Hai người làm tình với nhau ở một chỗ nào đấy trên cánh đồng, sau các bụi cỏ hoặc ngổi cạnh nhau để chuyện suông, tôi cũng không muốn biết. Tôi không có quyền hỏi về những chuyện họ đã làm hay làm ra vẻ ngạc nhiên, chuyện đó không liên quan đến tôi. Mẹ tôi không bao giờ tâm sự với tôi về những chuyện thầm kín của bà. Bà cũng biết là tôi sẽ không nói chuyện này với ai, vì một lẽ đơn giản, tôi là tòng phạm và tôi sẽ bị đánh cho đến chết như bà. Cha tôi chỉ biết đánh đập những người đàn bà trong nhà, bắt họ phải làm lụng mang tiền về cho mình. Như thế việc mẹ tôi lấy cớ đi nhặt những quả vả đổ đầy thùng gỗ mang về cho ông để đi lăng nhăng với người đàn ông khác, rốt cuộc lại khiến tôi rất hài lòng. Mẹ tôi có lý.
    Bây giờ chúng tôi sẽ phải nhặt thật nhanh để thùng vả được đầy tương xứng với thời gian đã trôi qua. Nếu không cha tôi sẽ hỏi: “Sao mang về toàn những thùng rỗng thế này, mày đã làm gì suốt thời gian ấy?” Và tôi sẽ được nếm mùi đau đớn từ chiếc thắt lưng da.
    Từ chỗ nhặt vả về đến làng khá xa. Mẹ tôi ngồi trên lưng con lừa, hai chân hơi giạng ra quanh cổ con vật, thật sát vào đầu nó để những quả vả không bị giập, tôi đi lên trước dẫn đường cho con lừa và chúng tôi quay về với những thùng vả vừa đầy vừa nặng.
    Đi được một đoạn, chúng tôi gặp một người đàn bà có tuổi đi một mình với con lừa cũng chở những thùng vả về nhà như chúng tôi. Bà ta già rồi nên không cần có người đi kèm. Bà ta đang đi trước chúng tôi. Mẹ tôi gật đầu chào và cả ba chúng tôi cùng tiếp tục cắm cúi bước trên đường. Con đường này rất hẹp và kinh khủng. Đầy chỗ lồi lõm và nhấp nhô toàn đá. Có nhiều đoạn dốc cao làm con lừa tải nặng phải ì ạch mãi mới mới tiến lên được. Đi được một đoạn, nó dừng khựng lại trên đỉnh dốc, trước một con rắn to và nhất định không chịu đi tiếp. Mẹ tôi hết đánh đến dỗ dành nhưng nó nhất mực không nghe. Đã thế nó còn bước thụt lùi, cánh mũi phập phồng vì sợ, giống hệt tôi. Tôi cũng ghét rắn. Đoạn dốc quả tình rất cao, những thùng vả trên lưng lừa chỉ chực đổ ụp xuống. Cũng may bà cụ đồng hành cùng chúng tôi có vẻ không sợ con rắn này, mặc dù nó rất to. Tôi không biết bà ta đã làm thế nào, chỉ thấy thân hình con rắn co lại, giãy giụa. Có lẽ bà ta đập bằng gậy… Cuối cùng, con rắn lách mình chui xuống khe núi và con lừa khi đó mới nhấc chân đi tiếp.
    Quanh làng tôi có rất nhiều rắn, rắn bé, rắn to đủ cả. Ngày nào chúng tôi cũng trông thấy rắn và sợ chúng như sợ những quả mìn. Từ khi xảy ra chiến tranh với người Do Thái, khắp nơi đều có mìn. Ngay trong làng, người ta không sao biết được mình có thể chết lúc nào nếu tình cờ đạp trúng mìn. Dù sao chăng nữa, chuyện này tôi cũng đã nghe mọi người bàn tán ở nhà, dạo ông nội tôi hoặc chú tôi đến thăm. Mẹ dặn chúng tôi phải hết sức chú ý để tránh những quả mìn ấy, chúng nằm lẫn trong đá sỏi nên rất khó nhận biết và lúc nào tôi cũng nhìn về phía trước, chỉ sợ dẫm phải chúng. Tôi không nhớ mình đã nhìn thấy quả mìn hay chưa, nhưng tôi biết mối nguy hiểm vẫn luôn thường trực. Tốt nhất là không nên nhấc những hòn đá lên và trước khi bước thì phải nhìn thật kỹ. Còn lũ rắn thì chui vào tận trong nhà, trong kho chứa thóc mà làm tổ, giữa những bao gạo hay đống rơm trong chuồng gia súc.
    Khi mẹ và tôi về đến nhà thì cha tôi vẫn chưa về. Thực nhẹ cả người vì lúc ấy đã mười giờ và chúng tôi về quá muộn. Vào giờ đó, mặt trời đã lên cao, hơi nóng hầm hập và những quả chín có thể héo quắt lại và mềm nhũn. Như thế là không được, quả vả phải tươi và phải được sửa soạn cẩn thận để cha tôi có thể mang ra chợ.
    Tối rất thích công việc xếp vả vào thùng. Tôi chọn những chiếc lá vả đẹp nhất, thật to và thật xanh để lót dưới đáy thùng. Sau đó tôi nhẹ nhàng xếp quả vả vào, xếp thật ngay ngắn như xếp những món trang sức quý giá, giá, và lấy những chiếc lá to đậy lên để che ánh mặt trời. Với nho thì cũng làm như thế, lấy kéo cắt thành từng chùm, rửa thật kỹ, không để sót một quả giập hay một chiếc lá bẩn nào. Đáy thùng được lót bằng lá nho, phía trên cùng cũng đậy bằng lá nho, để nho luôn được tươi.
    Rồi đến mùa thu hoạch súp lơ, bí đao, cà tím, cà chua và bí rợ. Cha tôi cũng bán cả những miếng pho mát do chính ta tôi làm ra. Tôi cho sữa vào một cái xô to bằng kim loại. Tôi vớt lớp mỡ béo vàng ngậy bám quanh mép xô và cả lớp kem sữa để riêng ra làm món “laban” rồi đánh thành từng gói riêng bán trong dịp lễ Ramadan. Những thứ ấy được đựng trong các xô to và cho tôi dùng nhựa cứng để đóng gói sao cho sản phẩm làm ra không bị ôi thiu. Trên mỗi gói, ông ghi “laban” bằng chữ Ả Rập.
    Với sữa, tiếng Ả Rập gọi là “halib”, tôi làm sữa chua và pho mát theo lối thủ công. Tôi có một tấm vải thưa màu trắng và một cái bát sắt. Trước tiên tôi múc sữa đầy miệng bát sao cho miếng pho mát nào cũng cùng một kích cỡ, sau đó tôi cho sữa vào tấm vải, buộc nút thật chặt cho nước sữa chảy vào xô. Khi những miếng pho mát đã ráo nước, tôi xếp chúng lên một cái khay to mạ vàng, rồi lấy vải đậy lên trên để ánh mặt trời và đàn ruồi không làm hỏng. Sau đó tôi cho miếng pho mát vào cái hộp trắng mà cha tôi đã ghi chữ pho mát bằng tiếng Ả Rập trên đó. Một khi đã được đóng gói, những miếng pho mát đều chằn chặn nom rất bắt mắt. Vào chính vụ, hầu như ngày nào cha tôi cũng mang hoa quả và rau củ ra chợ bán. Riêng pho mát và sữa, mỗi tuần chỉ đi bán hai ngày.
    Chờ cho mọi người chất hàng lên xe xong xuôi thì cha tôi mới ngồi vào chỗ tay lái chiếc xe tải nhỏ, nếu không kịp chất hàng lên xe thì chết với cha tôi. Ông ngồi ở phía trước với mẹ tôi, còn tôi ngồi phía sau, bị chèn cứng giữa các thùng hàng. Mất khoảng nửa giờ đi xe. Khi đến nơi, tôi trông thấy nhiều tòa nhà lớn. Đó là thành phố, một thành phố xinh đẹp và rất sạch. Có nhiều đèn đỏ để xe cộ phải dừng lại. Những cửa hàng đẹp đẽ. Tôi nhớ đã trông thấy một tủ kính bầy hàng với một manocanh mặc váy cô dâu. Nhưng tôi không được phép đi dạo và càng không được phép đi xem các cửa hàng. Miệng tôi cứ há hốc và cổ tôi muốn vẹo đi khi phải ngoảnh đầu lại để được nhìn thật lâu các cửa hàng đó từ xa. Chưa bao giờ tôi được trông thấy những thứ như thế.
    Tôi cũng rất thích đi thăm các nơi trong thành phố ấy, nhưng đến lúc tôi nhìn thấy những đứa con gái đi trên hè phố, mặc váy ngắn để lộ cẳng chân thì tôi lại đâm ra xấu hổ. Giá được gặp chúng thật gần, có lẽ tôi đã nhổ vào mặt chúng khi chúng đi qua. Đúng là bọn charmuta… Đối với tôi, chúng thực là đáng tởm. Chúng đi một mình, không có bố mẹ bên cạnh. Tôi tự nhủ thầm rằng những đứa như thế sẽ không bao giờ lấy được chồng. Sẽ chẳng có một người đàn ông nào chịu hỏi chúng làm vợ vì chúng đã phô bày cả hai chân ra và đã trang điểm, tô môi đỏ chót. Và tôi không hiểu tại sao người ta lại không nhốt chúng lại.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:55:33 | Xem tất
Giờ tôi mới nhận ra rằng nếp sống ở làng tôi đã không hề thay đổi kể từ thời mẹ tôi được sinh ra, từ thời bà tôi và xa xưa hơn nữa. Liệu những đứa con gái này có bị đánh đập như tôi không? Họ có phải làm lụng quần quật như tôi không? Có bị giam cầm trong nhà như tôi không? Có bị xem là nô lệ như tôi không? Tôi không được phép rời xa chiếc xe tải của cha tôi nửa bước. Ông trông coi việc dỡ hàng xuống và thu tiền về. Còn tôi, khi thấy ông đưa tay ra hiệu thì tôi phải trèo ngay lên xe, chui vào tận bên trong, ngoan ngoãn như một con lừa, với một thú vui ngắn ngủi và độc nhất là được ngồi rỗi một lúc và nhìn qua khe những thùng trái cây và rau củ cảnh nhột nhịp của những cửa hàng mà tôi biết mình không được đến.
    Khu chợ rất to. Nho leo trên giàn tạo thành một dạng mái che nên trái cây bày bán bên dưới lúc này cũng ở trong bóng râm. Chúng rất đẹp. Khi đã bán hết hàng, cha tôi vui lắm. Ông một mình đến gặp người bán hàng trước khi chợ đóng cửa và mang tiền về. Tôi trông thấy ông cầm tiền trên tay. Ông đếm đi đếm lại rồi cất vào một cái túi nhỏ bằng vải có dây buộc đeo vào cổ. Cha đã sắm sửa những tiện nghi hiện đại cho ngôi nhà nhờ vào tiền bán hàng ấy.
    Tôi thích được trèo lên chiếc xe tải vì đấy là những khoảnh khắc tôi được nghỉ ngơi. Suốt thời gian xe chạy, tôi không phải làm gì, chỉ thảnh thơi ngồi yên. Nhưng khi vào đến chợ thì tôi phải luôn chân luôn tay, chuyển các thùng hàng thật nhanh. Cha tôi muốn cho mọi người thấy vợ ông và con gái ông luôn làm việc cật lực. Lúc nào tôi cũng cùng làm với mẹ tôi. Cha tôi không bao giờ dẫn theo cùng lúc hai đứa con gái ra chợ.
    Những hôm chị tôi ra chợ cùng cha mẹ, tôi ở nhà lấy nước rửa sân và cứ để đó cho nắng làm khô. Tôi sửa soạn các món ăn và làm bánh mì. Tôi ngồi bệt xuống đất, dốc bột ra khay to, đổ thêm nước và muối rồi nhồi bằng tay. Sau đó tôi lấy tấm vải trắng phủ lên khối bột rồi chờ nó nở ra. Tôi đi khơi lại lò nướng bánh cho nó nóng đều. Chỗ dành riêng để làm bánh mì rộng như một gian nhà nhỏ có nóc bằng gỗ và bên trong là một chiếc lò nướng bánh có lửa cháy âm ỉ suốt ngày. Than cháy dở có thể giữ được rất lâu nhưng trước khi nướng bánh phải khơi lên cho thật nóng.
    Không gì đẹp bằng một khối bột đang nở ra…. Tôi rất thích làm bánh mì. Tôi khoét một lỗ tròn trên tảng bột để trông cho đẹp trước khi cho bột vào lò. Và để không bị dính vào tay, tôi thọc hai bàn tay vào bao đựng bột rồi vuốt lên tảng bột nhồi làm cho nó trở nên vừa trắng vừa mềm mại. Như thế là có một cái bánh to, tuyệt đẹp, một cái bánh tròn trĩnh, xinh xắn, và trong cùng một khay thì cái nào cũng phải giống cái nào. Nếu không tôi sẽ bị cha tôi cầm cả khay bánh ném vào mặt.
    Khi bánh chín, tôi quét lò và dọn sạch tro. Khi từ trong đó đi ra, mái tóc, khuôn mặt, lông mày, lông mi của tôi đều xám vì bụi. Tôi phải lắc lắc giũ bụi như một con chó có rận.
    Một hôm tôi đang ở trong nhà thì thấy có khói bốc lên từ nóc nhà gỗ của gian nhà làm bánh. Tôi cùng chị tôi chạy ra xem và chúng tôi bắt đầu kêu lên có cháy. Cha tôi cũng chạy lại và xách theo xô nước. Lửa bốc phừng phừng và mọi thứ đều cháy sạch. Bên trong lò bánh có những cục đen xì giống như cục cứt dê. Thì ra tôi đã quên một cái bánh trong lò và không quét sạch tro than. Một hòn than cháy đượm còn sót lại đã gây ra đám cháy. Đó là lỗi của tôi. Lẽ ra tôi không được để sót bánh trong lò như thế và nhất là không nên quên lấy một thanh củi cào kỹ đống tro để gạt bỏ những hòn than còn đượm.
    Tôi là thủ phạm gây ra trận hoả hoạn. Đó thực là thảm hoạ tồi tệ nhất.
    Và cha tôi đã cho tôi một trận đòn khủng khiếp hơn bao giờ hết. Tôi bị ông đá và dùng gậy đập vào lưng. Ông nắm tóc tôi, ghì mạnh làm tôi khuỵu gối rồi dí mặt tôi vào đống tro, cũng may là chúng chỉ còn ấm. Tôi ngạt thở, bọt mép tôi sùi ra, tro chui vào đầy mũi và miệng, hai mắt tôi đỏ quạch. Ông bắt tôi phải ăn tro để trừng phạt tôi. Khi được ông buông ra, tôi khóc nức nở. Tóc tôi, mặt tôi, nửa đen nửa xám với hai con mắt đỏ như quả cà chua. Đây là một lỗi rất nặng do tôi gây ra, nếu không có chị tôi và mẹ tôi đứng đấy thì có lẽ cha tôi đã ném tôi vào lửa trước khi dập tắt đám cháy.
    Cần phải mua gạch xây lại chiếc lò và công việc rất mất thời gian. Hằng ngày, tôi được nghe những lời chửi bới, những câu chì chiết cay độc. Tôi khom lưng chạy thẳng xuống chuồng gia súc, tôi cắm mặt quét dọn sân, không dám nhìn lên. Tôi nghĩ cha tôi ghét bỏ tôi thật sự, mặc dù ngoài cái lỗi ấy tôi luôn làm lụng chăm chỉ.
    Buổi xế chiều, trước khi màn đêm xuống là thời gian dành cho việc giặt dũ. Tôi giặt tất cả đồ khăn vải trong nhà, tôi mang những tấm da cừu ra đập bụi, tôi quét dọn, nấu nướng, cho gia súc ăn, cọ rửa chuồng trại. Rất hiếm khi tôi được nghỉ ngơi.
    Buổi tối bọn con gái chúng tôi không bao giờ được ra ngoài. Cha mẹ tôi thường xuyên ra ngoài, họ đi thăm hàng xóm, đến chơi nhà bạn bè. Em trai tôi cũng rất hay đi, nhưng chúng tôi thì không bao giờ. Chúng tôi không có bạn, chị cả tôi không bao giờ về thăm chúng tôi. Người lạ duy nhất mà thỉnh thoảng tôi gặp là bà hàng xóm Enam. Bà có một cái đốm trong tròng mắt, dân làng chế nhạo bà và mọi người đều biết rằng bà chẳng bao giờ lấy được chồng.
    Từ trên sân thượng, tôi nhìn thấy ngôi biệt thự của bọn nhà giàu. Họ ngồi trên sân thượng bật đèn sáng choang, tôi nghe tiếng họ cười và trông thấy họ ăn uống ngoài trời, cả vào ban đêm. Còn chúng tôi thì bị nhốt chặt trong phòng như đàn thỏ bị nhốt trong chuồng. Trong làng tôi, tôi chỉ nhớ mỗi gia đình giàu có ấy, nhà họ nằm cách nhà tôi không xa, và nà Enam, một gái già cô độc thường ngồi một mình ngay trước cửa nhà. Thú tiêu khiển duy nhất của tôi là những chuyến đi trên chiếc xe tải nhỏ để ra chợ bán hàng.
    Thời gian nghỉ ngơi quá hiếm hoi…Những lúc không làm công việc trong nhà thì chúng tôi lại giúp những người khác trong làng. Và họ cũng thế, cứ rảnh rỗi lại đến phụ giúp chúng tôi.
    Làng chúng tôi có rất nhiều con gái suýt soát tuổi nhau và người ta thường dùng ôtô chở chúng tôi đi thu hoạch súp lơ ở một cánh đồng rộng. Tôi còn nhớ cánh đồng súp lơ ấy! Nó rộng đến mức chẳng nhìn thấy bờ bên kia và người ta có cảm tưởng không bao giờ thu hoạch được hết số súp lơ ở đấy! Ông tài xế thấp bé đến nỗi phải kê thêm một cái gối trên chỗ ngồi mới lái được xe. Đầu ông ta tròn, bé xíu, trông rất buồn cười, tóc thì húi cua cụt lủn.
    Chúng tôi hái súp lơ cả ngày. Tất cả đám con gái đều lăn lê bò toài trên mặt đất và xếp thành hàng như thường lệ, dưới sự giám sát của một người đàn bà có tuổi, tay lăm lăm cây gậy. Chớ có tính đến chuyện lề mề! Súp lơ được chất lên một chiếc xe tải lớn. Ngày làm việc kết thúc, người ta để chiếc xe tải lại đó và chúng tôi lên ôtô về làng. Dọc hai bên đường có rất nhiều cam. Vì chúng tôi khát nước nên tài xế cho xe đỗ lại và bảo chúng tôi mỗi đứa hái một quả cam rồi quay lại ngay.
    “Một quả và halas!” Câu đó có nghĩa là “chỉ một quả thôi, không được hai quả đâu đấy.”
    Tất cả bọn con gái chạy nhanh về chỗ xe đỗ rồi leo lên xe. Đó là đoạn đường hẹp nên tài xế cho xe chạy lùi. Bỗng nhiên ông ta đột ngột tắt máy, nhảy xuống đất và kêu to đến nỗi tất cả bọn con gái đều nhốn nháo trèo ra khỏi xe.
    Ông ta đã đâm phải một đứa con gái, Đầu của con bé bị bánh xe cán lên. Lúc đó tôi đang đứng ngay phía trước, tôi cúi xuống nắm lấy mớ tóc nó kéo lên, đinh ninh là con bé vẫn sống. nhưng cái đầu nó vẫn dính chặt dưới đất và tôi kinh hãi ngất đi.
    Sau đó, tôi nhớ là tôi lại được đưa lên ôtô và nằm tựa lên đầu gối bà đã trông coi chúng tôi hái súp lơ. Ông tài xế dừng xe trước cửa từng nhà một để bọn con gái bước xuống. Vì chúng tôi không được phép về nhà một mình, ngay cả khi chúng tôi đã về đến làng. Khi tôi bước xuống cửa nhà mình, bà kia nói với mẹ tôi là tôi đang ốm. Tối hôm ấy mẹ tỏ ra rất dịu dàng với tôi vì bà kia đã kể cho mẹ nghe mọi chuyện. Bà ta buộc phải thuật lại cho các bà mẹ có con gái đi làm việc ngày hôm ấy về vụ tai nạn và ông tài xế phải đỗ xe chờ bên ngoài. Có lẽ để cho tất cả mọi người đều trả lời giống nhau?
    Thật lạ là tai nạn xảy đến với đúng con bé ấy. Khi bẻ súp lơ lúc nào nó cũng đứng ở giữa hàng, không bao giờ ở đầu hoặc cuối hàng. Cũng nên biết ở xứ tôi, nếu một đứa con gái mà được những đứa khác quây chặt như thế có nghĩa là đứa con gái ấy đang có ý định bỏ trốn. Và tôi nhận thấy rằng con bé ấy lúc nào cũng bị những đứa khác vây quanh và bị giữ chặt, không được đổi chỗ trong hàng. Đối với tôi, đó là chuyện lạ lùng, nhất là không thấy có ai nói chuyện với nó. Thậm chí chúng tôi không được nhìn nó vì nó là charmuta. Nếu nói chuyện với nó chúng tôi cũng bị coi là charmuta như nó. Có phải ông tài xế đã cố ý cho xe đâm chết nó không? Trong làng, những lời bàn tán rộ lên trong suốt một thời gian dài. Cảnh sát đã đến hỏi chúng tôi, họ tập họp tất cả chúng tôi tới chỗ cánh đồng xảy ra tai nạn. Có ba cảnh sát và đối với chúng tôi, việc được nhìn thấy người đàn ông trong bộ đồng phục cảnh sát là một chuyện vô cùng lớn lao. Chúng tôi không dám nhìn thẳng vào mắt họ, chỉ biết tỏ ra kính cẩn, rụt rè và chỉ cho họ thấy nơi sự việc diễn ra. Tôi cúi xuống. Ở đây đã đặt sẵn một cái đầu giả. Tôi đưa tay nhấc lên. Họ bảo tôi: “Halas, halas, halas…” và cuộc điều tra kết thúc.
    Chúng tôi trèo lên ôtô. Ông tài xế khóc. Ông ta lái xe thật nhanh và không bình tĩnh như mọi khi. Chiếc xe nhảy chồm trên đường và tôi còn nhớ bà trông coi chúng tôi hôm nọ phải đưa tay ôm ngực vì đôi vú của bà ta cũng nhảy chồm lên như chiếc xe. Sau đó ông tài xế bị đi tù. Theo chúng tôi và những người trong làng, đó không phải là một vụ tai nạn.
    Sau đó tôi bị ốm trong một thời gian dài. Tôi luôn mường tượng ra cảnh tôi nhấc cái đầu bị xe cán bẹp nát của con bé ấy lên và tôi sợ bố mẹ tôi vì tất cả những điều mà họ nói về con bé. Có lẽ nó làm một chuyện xấu xa gì đấy, nhưng tôi không biết là chuyện gì. Tôi chỉ biết là người ta bảo nó là charmuta. Ban đêm tôi không ngủ được, lúc nào tôi cũng nhìn thấy cái đầu bị cán bẹp dí của con bé, tôi nghe thấy tiếng bánh xe lăn khi chiếc xe chạy thụt lùi. Không bao giờ tôi quên được hình ảnh con bé ấy. Mặc dù chính tôi cũng đã trải qua không ít những tình huống đau đớn nhưng hình ảnh ấy vẫn cứ gán chặt trong tâm trí tôi. Con bé cũng trạc tuổi tôi, tóc cắt ngắn khá đẹp. Cũng lạ ở chỗ là nó lại cắt tóc ngắn, bọn con gái trong làng không cắt tóc ngắn bao giờ. Vậy thì tại sao chỉ mình nó cắt? Nó khác hẳn chúng tôi, nó ăn mặc đẹp hơn. Chuyện gì đã khiến mọi người xem nó là charmuta? Tôi không bao giờ biết được. Nhưng tôi biết rõ chuyện của tôi.
   

- o O o -

    Càng lớn lên, tôi càng trông đợi mình sớm được lấy chồng. Trông đợi với rất nhiều hy vọng. Nhưng chị Kainat không được ai hỏi đến và hình như chị không có vẻ gì lo lắng cả. Như thể chị đã chấp nhận trở thành một gái già, một việc mà tôi cho là rất kinh khủng cho cả chị và tôi vì tôi đang đợi đến lượt mình.
    Tôi bắt đầu cảm thấy xấu hổ mỗi khi đến dự lễ cưới của người khác, tôi sợ bị người ta chế giễu. Lấy chồng để được tự do là điều tốt đẹp nhất mà tôi có thể mong mỏi. Tuy nhiên ngừơi đàn bà dù có chồng nếu dại dột làm chuyện sai trái vẫn mất mạng như chơi. Tôi còn nhớ câu chuyện về một chị đã có bốn con. Chồng chị chắc là viên chức làm việc ngoài thành phố vì lúc nào cũng thấy mặc áo vest. Mỗi lần gặp trên đường, tôi đều thấy anh ta đi nhanh, đôi giày làm cát tung bụi mù phía sau lưng anh ta.
    Chị vợ anh ta tên là Souheila, và một hôm, tôi nghe mẹ tôi bảo trong làng người ta bàn tán về chị ta. Họ nghĩ là chị có dan díu với người chủ của cửa hàng vì chị ta thường đến đấy mua bánh mì, rau củ quả. Có lẽ nhà chị ta không có vườn rộng như nhà chúng tôi. Có lẽ chị ta đã lén lút đi lại với người đàn ông đó như mẹ tôi đã lén lút đi lại với Fadel. Một ngày kia, mẹ tôi kể là hai người anh ruột đã đến đến tận nhà và chặt đầu chị ta. Họ để cái xác lại trên sàn nhà và mang cái đầu đi diễu khắp làng. Mẹ cũng nói là khi anh chồng đi làm về nghe tin vợ bị chặt đầu thì anh ta mừng lắm vì chị ta bị nghi ngờ đã lăng nhăng với người chủ cửa hàng. Mặc dù chị ra không đẹp lắm và chị đã có bốn con.
    Tôi không trông thấy hai người đàn ông mang đầu em gái mình đi diễu trong làng mà chỉ nghe mẹ tôi kể lại. Tôi cũng đã đủ lớn để hiểu, nhưng tôi không sợ. Có lẽ vì tôi không trông thấy gì, chắc chắn là như vậy. Trong thâm tâm, tôi cho rằng gia đình tôi chẳng có ai là charmuta cả nên những chuyện ấy có lẽ không xảy đến với tôi. Những người đàn bà ấy bị trừng phạt cũng là lẽ thường thôi. Còn bình thường hơn chuyện con bé trạc tuổi tôi bị ôtô cán chết.
    Tôi không thể ngờ được rằng những mẩu chuỵên ngồi lê đôi mách tầm thường, những điều phỏng đoán bóng gió của hàng xóm, thậm chí những chuyện bịa đặt dối trá lại có thể biến bất cứ người phụ nữ nào thành charmuta và đẩy người ấy đến chỗ chết để bảo toàn danh dự của người khác.
    Đó là cái mà người ta gọi là tội ác vì danh dự, “jarimat al sharaf”, và đối với những người đàn ông ở đất nước tôi thì đó là không phải là tội ác.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:57:12 | Xem tất
chương 5: máu của cô dâu
Cha mẹ anh Hussein đã đến hỏi cưới chị Noura. Hai ông bà ấy đã đến nhiều lần để thương lượng vì ở đất nước tôi, cho con gái đi lấy chồng có nghĩa là gả bán con gái lấy vàng. Nghĩa là cha mẹ anh Hussein phải mang vàng đến, họ đặt vàng trong cái mâm mạ vàng thật đẹp, và cha anh Hussein đã nói: “Đây, một nửa là phần của cha cô dâu, ông Adnan, nửa kia là phần của con gái ông, Noura”.
    Nếu ngần ấy vàng mà vẫn chưa đủ thì phải thương lượng thêm. Cả hai phần đều quan trọng vì đến ngày làm lễ cưới, cô dâu phải cho mọi người xem số vàng mà cha mình nhận được trong vụ gả bán.
    Số vàng mà chị Noura sẽ đeo trong ngày cưới không phải là vàng dành cho chị. Vòng tay, chuỗi hạt, vương miện chỉ là thứ chị cần để bảo toàn danh dự của chính mình và của cha mẹ. Những thứ ấy cũng không dành cho tương lai chị hay cho bản thân chị, nhưng chị có thể đi khoe khắp làng và khi mọi người nhìn thấy chị đi qua, mọi người sẽ kháo nhau là con bé ấy đã mang bao nhiêu là vàng về cho cha mẹ. Nếu ngày cưới mà không có nữ trang để đeo thì quả thật là vô cùng xấu hổ cho cô dâu và gia đình cô dâu. Cha tôi đã quên nói với chúng tôi điều đó khi bảo chúng tôi không bằng một con cừu, không mang gì được về nhà. Khi bán một đứa con gái, ông đã nhận được một nửa số vàng đó thôi!
    Thế là ông có thể cò kè thêm bớt. Chúng tôi không tham dự vào cuộc trả giá, nó chỉ diễn ra giữa những người đàn ông. Khi mọi thứ đã thoả thuận xong, cũng chẳng có giấy tờ giao kèo, lời nói giữa những người đàn ông rất có giá trị. Chỉ duy nhất lời nói của những người đàn ông.
    Phụ nữ không có quyền nói gì, cả mẹ tôi và mẹ của Hussein cũng không được nói, đến cả cô dâu cũng không được nốt. Chưa ai được nhìn thấy vàng nhưng chúng tôi đều biết chuyện cưới xin đã thoả thuận xong vì gia đình anh hussein đã đến. Nhưng không được làm phiền, không được thò mặt ra, phải tôn trọng cuộc ngã giá của cánh đàn ông.
    Chị Noura biết có một người đàn ông đi cùng cha mẹ đến nhà mình, như thế chắc chắn chị sẽ lấy chồng. Chị rất hài lòng. Chị bảo tôi là chị muốn lấy chồng để có thể ăn mặc đẹp hơn, đế được nhổ lông mày, để có một gia đình riêng của chị và để có con cái. Chị Noura tính rụt rẻ nhưng có khuôn mặt đẹp. Tuy nhiên chị cũng cảm thấy lo lắng khi hai ông bố ngồi tranh cãi nhau. Chị rất muốn biết họ đã mang đến bao nhiêu vàng và cầu trời phù hộ cho họ nhanh chóng đi đến thống nhất.
    Chị không biết đức ông chồng tương lai mặt mũi ra sao, không biết anh ta bao nhiêu tuổi và cũng không hỏi trông anh ta thế nào. Hỏi như thế xấu hổ lắm. Ngay cả hỏi tôi bởi tôi có thể nấp ở đâu đấy rình xem mặt mũi anh ta, chị cũng không dám. Có lẽ chị sợ tôi sẽ mách chuyện này với cha mẹ.
    Mấy hôm sau, cha tôi gọi chị Noura lên và nói với chị trước sự chứng kiến của mẹ tôi: “Thế này, đến ngày này… .mày sẽ lấy chồng”. Tôi không có mặt ở đấy vì tôi không được phép chứng kiến.
    Đúng ra ngay đến mấy chữ tôi “không được phép” tôi cũng không có quyền nói. Con gái mà nói một câu như thế là chuyện không thể có. Đó là tục lệ, chỉ có thế thôi. Nếu cha bạn bảo: “Mày phải ở trong cái xó ấy suốt đời” thì suốt đời bạn sẽ phải ở trong cái xó ấy. Nếu cha bạn đặt một quả ôliu vào cái đĩa và bảo: “Hôm nay mày chỉ được ăn mỗi cái này thôi” thì hôm đó bạn chỉ được ăn có thế. Khó mà thoát khỏi cái lốt nô lệ đã trót mang chỉ vì sinh ra làm thân con gái, suốt quãng đời ấu thơ ta phải sống mà như không tồn tại trên đời, phải phục tùng đàn ông và răm rắp tuân theo những luật lệ do đàn ông áp đặt, đã được cha mẹ, anh em trai bảo tồn và duy trì một cách thường xuyên. Lối thoát duy nhất là lấy chồng, nhưng đâu vẫn hoàn đấy và tình trạng cũ vẫn cứ kéo dài mãi mãi.
    Theo ước đoán của tôi, tuổi tôi chừng mười bốn khi chị Noura đạt được vị trí đáng thèm muốn ấy. Nhưng có lẽ tôi đã nhầm, mà nhầm to là đằng khác. Tôi đã suy đi tính lại, có sắp xếp những hình ảnh của ký ức theo thứ tự mà tôi nhận ra rằng cuộc đời tôi vào thời điểm đó không có những cột mốc đánh dấu như ở châu Âu. Không có sinh nhật, không có những bức ảnh, đó là cuộc đời của một con vật nhỏ bé chỉ biết ăn, làm việc thật nhanh, ngủ và chịu đòn roi. Rồi khi biết mình đã “chín”, nghĩa là đã bước vào thời kỳ có thể gặp nguy hiểm, có thể rước lấy những cơn giận dữ của xã hội nếu phạm sai lầm. Và từ cái tuổi “chín” ấy trở đi, lấy chồng sẽ là giai đoạn kế tiếp. Thông thường, một đứa con gái được xem là đã “chín” vào năm mười lăm tuổi và lấy chồng vào năm từ mười bốn tuổi đến mười bảy tuổi là muộn nhất. Chị Noura dường như đã sắp sửa bước đến giới hạn muộn nhất ấy.
    Thế là gia đình bắt đầu chuẩn bị lễ cưới và báo tin cho hàng xóm biết. Vì nhà chúng tôi không rộng lắm nên chúng tôi phải thuê sân chung của làng để tiếp đón khách mời. Chỗ đó rất đẹp, có một vườn hoa nhỏ xinh trong đó trồng cả nho và một khoảng sân khiêu vũ. Ở đấy còn có một hàng hiên có mái che để mọi người có thể đứng trong bóng mát và làm chỗ trú chân cho cô dâu.
    Cha tôi đã chọn được cừu. Bao giờ cũng phải con cừu non nhất vì thịt nó mềm và không phải nấu lâu. Nếu thịt nấu lâu quá, người ta sẽ nói rằng ông bố vợ không giàu có nên mới chọn loại cừu già và không cho khách ăn những món ngon. Uy tín của ông bố sẽ bị ảnh hưởng và về phần cô dâu, tình cảnh sẽ còn tồi tệ hơn nữa.
    Thế nên cha tôi đích thân chọn một con cừu non. Ông đi vào chuồng, quan sát rồi túm lấy con cừu ông đã chọn và lôi nó ra vườn. Ông buộc chân con vật lại để nó không vùng vẫy và ông cầm dao, và chỉ bằng một nhát dao đã cắt tiết xong. Sau đó ông cầm cái đầu lắc lắc trên chiếc khay to để máu chảy ra. Tôi nhìn máu phun trào với một nỗi kinh tởm mơ hồ. Bốn chân con cừu vẫn còn động đậy. Phần việc của cha tôi đã kết thúc, đám phụ nữ sẽ lo xẻ thịt. Họ đun nước để rửa sạch bên trong con cừu. Không ai ăn ruột cừu nhưng có lẽ chúng dùng vào việc khác nên được để riêng ra một bên. Sau đó phải lột da và mẹ tôi sẽ đảm trách công việc khó khăn này. Bộ da không được rách nát, phải còn nguyên vẹn. Bây giờ con cừu đã được đặt nằm dưới đất, bị moi hết ruột gan và sạch sẽ. Mẹ tôi dùng con dao to bản tách lớp da khỏi phần thịt. Bà cắt sát vào phần thịt và bà giật mạnh bằng một cử chỉ chính xác. Lớp da tuột ra từng mảng cho đến khi cả bộ da rời hẳn thân con cừu. Bà để cho nó khô rồi đem bán hoặc giữ lại dùng. Phần lớn những tấm da cừu của chúng tôi đều đem bán. Nhưng nếu chỉ đem ra chợ mỗi một bộ da thì không được. Phải đem nhiều bộ để mọi người thấy mình giàu.
    Trước lễ cưới một ngày, vào lúc trời tối, sau khi làm thịt con cừu xong, mẹ tôi sửa soạn cho chị Noura. Bà lấy một cái chảo cũ, một quả chanh, một ít dầu ôliu, một lòng đỏ trứng và một ít đường. Bà bỏ tất vào chảo, đun lên rồi dắt chị Noura vào một gian phòng trống. Với những thứ đã chuẩn bị, bà nhổ lông cho chị Noura. Phải nhổ hết sạch lông mọc trên chỗ kín. Tất cả phải thật trụi và sạch. Mẹ tôi bảo nếu mình vô phúc để sót, dù chỉ một sợi lông thì chú rể sẽ bỏ đi ngay, thậm chí không thèm nhìn mặt vợ và chê cô dâu bẩn!
    Chuyện về những sợi lông dơ bẩn cứ làm tôi thắc mắc mãi. Người ta không nhổ lông chân, không nhổ lông tay, mà chỉ nhổ lông chỗ kín. Và nhổ cả lông mày nhưng là để làm đẹp. Cũng như cặp vú, khi con gái bắt đầu có lông, thì đó là những dấu hiệu đầu tiên biến người con gái thành đàn bà. Và khi chết, người con gái sẽ chết với những sợi lông ấy, bởi Đấng Tối cao đã tạo ra như nào thì sẽ đem chúng ta đi như thế. Mặc dù, mọi đứa con gái đều tự hào với ý nghĩ rằng mình đã được nhổ lông… Đó là bằng chứng chứng tỏ họ sắp thuộc về một người đàn ông khác không phải là cha đẻ của mình. Họ sẽ trở thành một “ai đó” không có lông. Tôi thấy hình như đó là sự trừng phạt thì đúng hơn vì tôi nghe tiếng chị tôi kêu thét. Khi chị từ trong phòng bước ra, mấy người đàn bà đã chờ sẵn sau cánh cửa chạy ra vừa vỗ tay vừa reo hò ầm ĩ. Đó là một niềm vui lớn: chị tôi đã sẵn sàng để lấy chồng, để hiến dâng trinh tiết.
    Sau màn vui ấy chị được phép đi ngủ. Đám đàn bà cũng về nhà bởi họ đã trông thấy chị Noura và biết mọi việc đã được làm đúng theo quy tắc.
    Sáng hôm sau, vào lúc mặt trời mọc, trong khoảng sân dành cho lễ cưới, người ta chuẩn bị nấu các món ăn cho buổi tiệc. Phải để cho mọi người nhìn thấy công việc nấu nướng và ước tính số lượng món ăn. Và nhất là, dù chỉ nấu một nắm cơm nhưng cũng phải nấu sao cho thật khéo, bằng không sẽ bị cả làng đàm tiếu. Một nửa sân được dành cho công việc này. Có món thịt, bánh trộn, rau, cơm, thịt gà và rất nhiều món ngọt cùng bánh mứt do mẹ tôi làm với sự giúp đỡ của những người hàng xóm, vì nếu chỉ có một mình, bà sẽ không thể làm xuể cho ngần ấy khách mời.
    Khi đồ ăn được dọn lên và bày ra trước mắt mọi người, mẹ tôi cùng một người đàn bà nữa đến chuẩn bị cho chị tôi. Chiếc váy có hàng cúc bằng vải được thêu phía trước buông dài đến mắt cá chân chị. Khi từ phòng bước ra, chị Noura rực rỡ hẳn lên với vòng vàng đầy người. Đẹp như một bông hoa. Chị đeo vòng tay, chuỗi hạt và nhất là chiếc vương miện, món nữ trang rất quan trọng đối với một cô dâu! Chiếc vương miện làm từ những mảnh vàng kết thành một thứ dây buộc quanh đầu. Mái tóc buông xõa của chị được vuốt bằng dầu ôliu cho bóng nhẫy lên. Người ta sẽ cho chị ngồi lên ngai vàng của chị. Đó là chiếc bàn bên trên kê thêm một cái ghế và phủ khăn trắng tinh. Chị Noura sẽ ngồi lên đó cho mọi người ngắm trước khi chú rể đến. Tất cả phụ nữ tham dự đều chen nhau vào trong sân, vừa ngắm cô dâu vừa hò reo.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:57:46 | Xem tất
Bên ngoài đám đàn ông đang nhảy múa. Họ không nhập bọn với cánh phụ nữ trong sân.
    Chúng tôi cũng không được phép lại gần cửa sổ để xem họ nhảy múa thế nào.
    Bây giờ chú rể sắp bước vào. Cô dâu bẽn lẽn cúi đầu. Chị chưa được phép nhìn thẳng vào chú rể mặc dù đó là lần đầu tiên chị có dịp nhìn xem chú rể ra sao. Tôi đoán mẹ đã cho chị biết một vài thông tin về vóc dáng, gia đình, nghề nghiệp, tuổi tác của chú rể rồi… nhưng không có gì là chắc chắn. Có lẽ người ta chỉ cho chị biết về việc cha mẹ chú rể đã mang số vàng cần thiết đến mà thôi.
    Mẹ tôi lấy một tấm mạng trùm lên đầu chị tôi, và chú rể ăn mặc sang trọng bước vào như một ông hoàng. Anh ta bước đến gần chị Noura. Chị vẫn ngoan ngoãn để hai bàn tay lên đầu gối, cúi đầu dưới tấm mạng để tỏ ra là con nhà gia giáo. Đây được xem là giây phút quan trọng nhất đời chị tôi.
    Tôi cũng như mọi người và tôi thèm được như chị. Tôi thèm được làm người chị cả, thèm được theo mẹ đi khắp nơi, trong khi trên thực tế, tôi cùng chị Kainat phải làm quần quật trong chuồng gia súc. Tôi thèm được là người đầu tiên rời khỏi nhà này. Đứa con gái nào cũng thèm được đặt ở vị trí cô dâu ngày hôm ấy, được mặc chiếc áo cưới màu trắng đẹp khủng khiếp, được đeo vàng khắp người. Chị Noura đẹp quá! Nhưng chị lại không đi giày, tôi chỉ thất vọng ở mỗi điểm ấy. Đối với tôi, đi chân đất là một điều bất hạnh vô cùng. Trên đường ra chợ, tôi đã nhìn thấy nhiều phụ nữ đi giày. Có lẽ vì đàn ông bao giờ cũng đi giầy nên đối với tôi, đôi giày là biểu tượng của sự tự do. Có giầy, ta có thể bước đi mà không bị đá nhọn và gai đâm thủng da chân…. Chị Noura đi chân không còn anh Hussein mang đôi giầy tuyệt đẹp được đánh xi bóng loáng làm tôi như bị thôi miên.
    Hussein tiến về phía chị tôi. Trên chiếc bàn cao đó, người ta đã kê sẵn cho anh một chiếc ghế có phủ khăn trắng. Anh ngồi xuống, đưa tay giở tấm mạng trắng lên và ngoài sân vang lên những tiếng hò reo. Buổi lễ đã được cử hành. Chú rể đã giở tấm mạng che mặt người con gái trong trắng của riêng anh ta và sẽ sinh cho anh ta nhiều con trai.
    Cả hai ngồi đấy như hai hình nộm. Mọi người nhảy múa, ca hát, ăn uống ồn ào nhưng họ vẫn không nhúc nhích. Chúng tôi mang đồ ăn đến cho họ ăn tại chỗ và để cho quần áo đẹp của họ không bị dính bẩn, chúng tôi lấy khăn trắng trùm lên cho họ.
    Chú rể không chạm vào người cô dâu, không hôn, cũng không cầm tay cô dâu. Giữa họ không có gì xảy ra, không một cử chỉ yêu thương hay một lời âu yếm. Cả hai người là hình ảnh bất động của đám cưới và đám cưới diễn ra rất lâu.
    Tôi cũng hoàn toàn không biết gì về người đàn ông ấy, tuổi tác thế nào, có anh chị em hay không, làm nghề gì, sống cùng cha mẹ ở đâu. Thế mà cũng là người cùng làng đấy. Người làng tôi chỉ lấy vợ cùng làng. Đây cũng là lần đầu tiên tôi trông thấy người đàn ông ấy. Trước đó, tôi không biết anh ta là người như thế nào, đẹp hay xấu, cao hay thấp, béo hay gầy, mù hay cụt tay, mồm có méo xệch hay không, có đủ hai tai hay bị sứt, mũi có to không… Nhưng Hussein là anh chàng khá bảnh trai. Anh không cao lắm, khoảng một mét bảy mươi, tóc xoăn và húi cua, thân hình có thể nói là nở nang. Mặt ngăm đen, rám nắng, có vẻ khỏe mạnh, ăn uống đầy đủ. Mũi anh rất ngắn, hơi tẹt và hai lỗ mũi rộng, khá là dáng. Anh bước đi kiêu hãnh và thoạt nhìn thì cũng có vẻ hung dữ, những cũng có thể có. Tôi nhận thấy rõ như thế vì thỉnh thoảng anh ta nói năng nóng nảy.
    Để nhắc khéo cho mọi người biết buổi lễ sắp kết thúc và khách mời sẽ phải ra về, những người phụ nữ bắt đầu hát những câu nhằm vào chú rể, đại khái như sau: “Giờ thì anh hãy bảo vệ em. Nếu không bảo vệ em, anh không phải là một đấng nam nhi…” Và bài hát cuối cùng bắt buộc: “Nếu anh không nhảy múa cho chúng tôi xem thì chúng tôi không rời khỏi chỗ này”.
    Cả hai người, chú rể và cô dâu phải nhảy múa để kết thúc buổi lễ.
    Chú rể đỡ cô dâu bước xuống – lần này chú rể chạm tay vào cô dâu, cô dâu đã thuộc về chú rể – và họ khiêu vũ cùng nhau. Một vài cặp vợ chồng không khiêu vũ, vì bẽn lẽn. Chị Noura đã khiêu vũ rất nhiều với cả làng.
    Bây giờ chú rể đưa vợ về nhà, lúc này trời đã sẩm tối. Cha Hussein đã cho anh ta một ngôi nhà, nếu không cho thì không phải là một người đàn ông. Nhà riêng của Hussein nằm không xa nhà cha mẹ anh ta lắm, cũng ngay trong làng. Hussein và chị Noura đi bộ, chỉ hai vợ chồng mà thôi. Chúng tôi vừa nhìn theo vừa khóc. Ngay đến cậu em trai tôi cũng khóc. Chúng tôi khóc vì chị Noura đã rời bỏ chúng tôi, chúng tôi khóc không biết chuyện gì sẽ xảy ra với chị nếu chồng chị nhận thấy chị không còn trinh. Chúng tôi thấp thỏm mãi. Cần phải đợi đến rạng sáng, khi anh chồng đứng trên ban công giơ cao chiếc ga trải giường hoặc treo nó trên cửa sổ để mọi người chính thức nhìn thấy vết máu của cô dâu. Khăn trải giường phải treo sao cho mọi người dễ nhìn thấy và phải có nhiều người trong làng đến xem. Nếu chỉ có hai, ba người xem thì không đủ. Bằng chứng có thể không được công nhận, không có ai có thể nói trước điều gì.
    Tôi còn nhớ ngôi nhà và khoảng sân trước nhà họ. Có một bức tường xây bằng đá và xi măng bao quanh. Mọi người đang đứng chờ. Đột nhiên, anh rể tôi xuất hiện với chiếc ga trải giường và kêu lên vẻ hài lòng. Đàn ông thì huýt sáo, đàn bà thì hát và vỗ tay bởi Hussein đã giơ ra chiếc ga trải giường. Đó là một tấm ga đặc biệt được trải lên giường trong đêm tân hôn. Hussein treo chiếc khăn ngay trên ban công và kẹp mỗi bên bằng hai chiếc kẹp trắng. Lễ cưới màu trắng, chiếc ga trải giường màu trắng, hai chiếc kẹp cũng màu trắng, chỉ có vết máu là màu đỏ.
    Hussein giơ tay chào mọi người và quay vào nhà. Đó là chiến thắng.
   

- o O o -

    Máu cừu, máu thiếu nữ còn trinh, lúc nào cũng là máu. Tôi nhớ vào mỗi dịp lễ aid, cha tôi lại giết một con cừu. Máu hứng đầy một chậu. Ông nhúng cái giẻ vào chậu máu rồi bôi lên cửa ra vào, bôi khắp sàn nhà. Phải bước vào trong để đi qua cánh cửa sơn bằng máu đến tận trên cao ấy. Tôi sợ đến phát ốm. Tất cả những thứ do tay ông giết đều làm tôi phát ốm lên vì sợ. Lúc tôi còn bé, người ta đã bắt tôi như bắt những đứa trẻ khác, phải xem cha tôi giết gà, giết thỏ, giết cừu. Chị tôi và tôi đều đinh ninh rằng ông có thể vặn cổ chúng tôi như một con gà, chọc tiết chúng tôi như một con cừu. Lần đầu tiên, tôi khiếp sợ đến nỗi đã nấp sau mẹ để khỏi phải chứng kiến những gì đang diễn ra, nhưng bà bắt tôi phải nhìn cho kỳ được. Bà muốn tôi nhìn để biết cha tôi đã giết như thế nào và để tôi có thể trở thành thành viên trong gia đình và trút bỏ được sợ hãi. Nhưng không hiểu sao, lúc nào tôi cũng sợ, bởi vì máu làm tôi liên tưởng đến cha tôi.
    Ngày hôm sau, cũng như mọi người, tôi đến xem vết máu của chị tôi trên chiếc ga trải giường. Mẹ tôi khóc, tôi cũng khóc. Lúc ấy chúng tôi khóc rất nhiều để biểu lộ niềm vui, để suy tôn danh dự của cha đã giữ trinh tiết của con gái mình. Chúng tôi cũng khóc vì nhẹ nhõm, vì chị Noura đã vượt qua thử thách lớn. Thử thách duy nhất trong đời. Bây giờ chị chỉ còn phải chứng minh là chị có khả năng sinh con trai.
    Tôi hy vọng sẽ được như chị. Đó là chuyện bình thường. Thấy chị có chồng, tôi cũng mừng, sau đấy sẽ đến lượt tôi. Lúc ấy, thật lạ lùng, thậm chí tôi không nghĩ đến chị Kainat, như thể người chị lớn hơn tôi một tuổi ấy, không đáng đếm xỉa. Tuy nhiên trên thực tế chị phải đi lấy chồng trước rồi mới đến lượt tôi.
    Rồi chúng tôi về nhà, dọn dẹp sân chung. Gia đình cô dâu phải rửa bát đĩa, quét sân cho thật sạch và làm nhiều công việc khác. Thỉnh thoảng các nhà hàng xóm cũng đến giúp một tay nhưng họ không nhất thiết phải làm vậy.
    Kể từ dạo đi lấy chồng, chị Noura ít khi về nhà. Vả lại cũng không có lý do gì để về vì chị phải chăm sóc gia đình của chị. Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau ngày cưới, khoảng chưa đầy một tháng, chị về nhà kêu ca với mẹ tôi và chị khóc. Biết mình không có quyền hỏi chuyện gì đã xảy ra nên tôi đứng rình đầu cầu thang nghe ngóng.
    Chị cho mẹ tôi xem những vết thâm tím trên người. Hussein mạnh tay đến nỗi trên mặt chị cũng có vết tích của trận đòn. Chị kéo quần cho mẹ tôi trông thấy những vết bầm tím trên đùi và mẹ tôi bật khóc. Có lẽ anh ta đã túm tóc và lôi chị xềnh xệch trên mặt đất, tất cả đàn ông đều làm thế. Nhưng tôi không nghe rõ lý do tại sao Hussein đánh chị. Nhiều khi chỉ cần người vợ nấu nướng vụng về, chỉ cần quên nêm muối vào món ăn, chỉ cần thiếu nước sốt vì quên đổ thêm một ít nước ….là đã đủ để bị ăn đòn. Noura chỉ kêu với mẹ tôi vì biết cha tôi rất nóng tính, ông sẽ để chị về ngay mà không để chị kịp nói một lời nào. Mẹ tôi nghe chị kể lể nhưng không an ủi, bà chỉ nói với chị: “Nó là chồng mày, không có chuyện gì nghiêm trọng đâu, mày về nhà mày đi”.
    Thế là chị Noura quay về. Đau đòn lại bị đòn đau. Chị quay về nhà chồng để rồi lại bị chồng cầm gậy sửa thêm một trận nữa.
    Đã là phụ nữ thì không có quyền chọn lựa. Lỡ bị chồng bóp cổ cũng đành chịu chứ người ta không có quyền lựa chọn. Nhìn thấy chị tôi trong hoàn cảnh ấy, lẽ ra tôi phải tự nhủ rằng đi lấy chồng cũng chẳng hơn được gì, cũng sẽ tiếp tục bị đánh đập như trước mà thôi. Nhưng ngay cả khi biết mình sẽ bị đánh, tôi vẫn muốn được lấy chồng hơn bất cứ thứ gì trên đời. Số phận của người phụ nữ Ả Rập kể cũng kỳ lạ. Đặc biệt là số phận của người phụ nữ trong làng tôi. Chúng tôi chấp nhận số phận ấy một cách rất tự nhiên. Không có một ý nghĩ phản kháng nào. Ngay đến phản kháng là gì chúng tôi cũng không biết. Chúng tôi chỉ biết khóc, lánh đi chỗ khác, nếu cần thì nói dối để khỏi bị đòn, nhưng phản kháng thì không bao giờ. Bởi một lẽ đơn giản, ngoài ngôi nhà của người cha và người chồng, chúng tôi không còn nơi nào khác để sống. Sống một mình là chuyện không ai dám nghĩ đến.
    Hussein thậm chí cũng không đến tìm vợ. Thực ra chị Noura cũng không ở lại lâu, mẹ tôi rất sợ con gái lại trở về nhà mình! Sau này, khi Noura có thai và mọi người đều hy vọng chị đẻ con trai thì chị được cả nhà chồng, cả nhà chồng và nhà tôi chăm sóc yêu thương như một nàng công chúa. Nhiều lúc tôi cảm thấy ghen tỵ . Trong gia đình, chị được xem là quan trọng hơn tôi. Trước kia, khi chưa lấy chồng chị vẫn được nói chuyện nhiều với mẹ tôi, và sau khi lấy chồng rồi, mẹ tôi lại còn tỏ ra thân thiết với chị hơn nữa. Những hôm cùng đi lấy cỏ khô, hai mẹ con đi rất chậm vì mải nói chuyện nhiều. Họ cùng nhau vào một gian phòng và đóng cửa lại, cánh cửa phòng màu xanh lục, tôi còn nhớ, và tôi đã đi ngang qua gian phòng đó. Tôi bị bỏ lại một mình, chỉ vì chị tôi đang ở với mẹ tôi đằng sau cánh cửa ấy để được nhổ lông. Gian phòng còn được dùng chứa lúa mì, ôliu và bột.
    Tôi không biết tại sao cánh cửa đó lại đột ngột trở về trong ký ức tôi. Tôi vẫn thường xuyên bước qua cánh cửa ấy, gần như là mỗi ngày với những cái bao. Đã có một chuyện gì đáng sợ xảy ra phía sau cánh cửa, cửa, nhưng là chuyện gì? Hình như tôi đã sợ quá nên trốn giữa những cái bao. Tôi thấy mình giống một con khỉ, lom khom quỳ trong bóng tối. Gian phòng ấy không có nhiều ánh sáng. Tôi trốn ở đấy, trán tì xuống đất. Sàn nhà lát bằng những viên gạch màu nâu, gạch vuông nhỏ màu nâu. Giữa các viên gạch cha tôi đổ sơn màu trắng. Tôi sợ một điều gì đó. Tôi nhìn thấy một cái bao trùm kín đầu mẹ tôi. Chính cha tôi đã đặt cái bao ấy lên đầu mẹ. Ngay tại đấy hay nơi nào khác? Có phải để trừng phạt mẹ tôi không? Có phải để siết cổ bà? Tôi không kêu to lên được. Dù sao chăng nữa, đó cũng chính là cha tôi, ông đứng đằng sau mẹ tôi và túm cái bao thật chặt. Tôi thấy khuôn mặt ông nhìn nghiêng, cái mũi chạm vào làn vải. Một tay ông túm tóc mẹ tôi, và tay kia ông túm chặt cái bao.
    Mẹ tôi mặc bộ quần áo màu đen. Mấy tiếng trước đó, có lẽ đã xảy ra chuyện gì chăng? Nhưng chuyện gì kia chứ? Chị Noura đã về nhà vì chị bị chồng đánh. Mẹ tôi đã nghe chị kể chuyện, chẳng lẽ mẹ tôi lại không được phép ái ngại cho con gái? Mẹ không được khóc hay không được tìm cách bênh vực chị Noura trước mặt cha tôi? Tôi thấy hình như các sự kiện bắt đầu được liên kết với nhau từ cánh cửa màu xanh lục ấy. Chuyến về thăm nhà của chị tôi, việc tôi trốn giữa những bao lúa mì đầy ắp, việc mẹ tôi bị cha tôi làm cho ngạt thở bằng một cái bao rỗng. Tôi phải chui vào đấy để trốn. Tôi có thói quen đi trốn. Trốn trong chuồng gia súc, trong phòng ngủ hoặc trong cái tủ ngoài hành lang, chỗ vẫn treo những tấm da cừu trước khi đem ra chợ bán. Da cừu được treo như người ta vẫn treo ngoài chợ và tôi trốn trong ấy, dù trong ấy rất ngột ngạt nhưng tôi vẫn trốn để không bị tóm. Nhưng tôi ít khi trốn giữa những bao lúa mì trong nhà kho, tôi rất sợ có rắn từ trong ấy bò ra. Nếu tôi trốn ở đấy nghĩa là tôi sợ có chuyện chẳng lành xảy đến với tôi.
    Có thể đó là hôm cha tôi cố làm tôi ngạt thở với một tấm da cừu trong một gian phòng ở trên gác. Ông muốn tôi nói sự thật, muốn tôi nói là mẹ tôi đã lừa dối ông hay không. Ông đã gấp miếng da cừu làm đôi và chụp lên đầu tôi. Tôi thà chết chứ không phản bội mẹ. Ngay cả khi chính mắt tôi nhìn thấy mẹ tôi cùng một người đàn ông trốn vào trong cánh đồng. Nếu tôi nói ra sự thật, ông sẽ giết cả hai chúng tôi. Dù có bị dao kề vào cổ tôi cũng không thể phản bội. Rồi tôi không thở được nữa. Có phải ông đã buông tôi ra hay tôi tự thoát được? Dù sao chăng nữa, tôi cũng đã chạy thoát xuống tầng dưới, trốn sau cánh cửa màu xanh lục. giữa những cái bao bất động trông như những con quái vật. Trong gian phòng gần như tối đen ấy, chúng luôn làm tôi sợ. Tôi nằm mơ thấy bao đêm, cha tôi bỏ hết lúa mì và cho đầy rắn vào trong cái bao!
    Đấy, thỉnh thoảng những mảnh đời trước kia của tôi đã tìm cách trở về vị trí cũ của chúng trong ký ức của tôi. Một cánh cửa màu xanh lục, một cái bao, cha tôi làm mẹ tôi ngạt thở hoặc làm tôi ngạt thở để buộc tôi nói sự thật, nỗi sợ của tôi khi ngồi trong bóng tối và những con rắn.
    Cách đây không lâu, khi tôi cho rác vào một túi rác to, một mẩu giấy gói bằng nhựa đã vướng ở phía trên, rồi nó từ từ rơi xuống đáy bao và phát ra một tiếng động lạ. Tôi giật nảy mình, tưởng như có một con rắn sắp sửa từ trong bao rác phóng ra. Tôi sợ đến bủn rủn và đã bật khóc như một đứa trẻ.
    Cha tôi biết cách giết rắn. Ông có một cây gậy đặc biệt có hai móc ở đầu. Ông kẹp con rắn giữa hai cái móc khiến nó không nhúc nhíc được rồi lấy cây gậy đập chết. Vì ông có thể khiến con rắn nằm yên rồi giết chết thì tất nhiên ông cũng có thể bỏ con rắn vào bao để chúng cắn tôi khi tôi thò tay vào bao lấy bột. Đấy là lý do vì sao tôi sợ cánh cửa màu xanh, cánh cửa đã từng làm tôi say mê vì tôi không được bước vào những khi mẹ tôi nhổ lông cho chị tôi trong ấy. Và vì tôi vẫn chưa được người đàn ông nào chính thức đến cầu hôn.
    Tuy nhiên, những lời đồn đại đã lọt đến tai tôi năm tôi chỉ mới mười hai, mười ba tuổi… Có một gia đình đã nói chuyện chính thức với cha mẹ tôi về tôi. Ở một nơi nào đó trong làng, có một người đàn ông dành sẵn cho tôi. Nhưng cần phải đợi. Xong lượt chị Kainat mới đến lượt tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:01:26 | Xem tất
chương 6: ASSAD
   Tôi là người duy nhất chạy đến và kêu lên khi con ngựa trượt chân khiến nó ngã. Hình ảnh đứa em trai luôn hiện hữu trước mắt tôi: nó mặc sơ mi xanh lục với nhiều màu sắc và vì trời có gió nên cái áo cứ bay phất phới phía sau. Nó ngồi trên yên ngựa trông thật đẹp. Tôi yêu nó đến mức hình ảnh nó không bao giờ rời xa tôi.
    Hình như tôi còn thương yêu nó nhiều hơn sau cái chết của Hanan. Tôi hoàn toàn phục tùng nó. Tôi không sợ nó, không sợ nó làm tôi đau… Có lẽ vì tôi lớn tuổi hơn nó chăng? Hay vì nó thân với tôi hơn những chị em khác? Tuy thế, nó cũng đã đánh chúng tôi khi cha tôi vắng nhà. Có lần nó đánh cả mẹ tôi. Nó và mẹ tôi cãi nhau, nó nắm tóc mẹ tôi giật mạnh và mẹ tôi khóc…. Tôi trông thấy rất rõ hình ảnh hai người lúc ấy nhưng tôi không nhớ nguyên nhân dẫn đến cuộc cãi vã đó. Đối với tôi, tập hợp các hình ảnh và tìm ý nghĩa của chúng luôn là một việc rất khó khăn. Như thể ký ức về quãng đời sống trên đất nước Palestine của tôi đã phân tán thành nhiều mảnh nhỏ khi tôi gây dựng cuộc sống mới tại châu Âu.
    Ngày nay, điều đó nghe có vẻ khó hiểu, sau những gì em trai tôi đã làm, nhưng hồi ấy, một khi cơn khiếp đảm đã qua đi, tôi chắc chắn không hình dung được rằng Hanan đã chết. Chỉ mãi đến hôm nay, khi thấy cảnh tượng ấy vụt hiện ra trong ký ức, tôi mới nhận ra là mình không thể nghĩ đến chuyện gì khác. Bằng cách nối kết các sự việc lại với nhau một cách có logic và sau một khoảng thời gian đủ xa. Một mặt, cha mẹ tôi không có mặt ở đó, vì mỗi lần có một bi kịch xảy ra, nghĩa là mỗi khi có một người con gái bị gia đình khép vào tội chết thì duy nhất kẻ được chỉ định thi hành bản án là có mặt ở nhà. Sau đó, tôi không bao giờ gặp lại Hanan. Không bao giờ. Buổi tối hôm ấy, Assad đã nổi điên lên, cảm thấy nhục nhã vì không được ở bên vợ khi vợ sinh con, vì thái độ của bố mẹ vợ. Có phải tin về cái chết của đứa con mà Assad đang mong đợi đã đến từ chiếc điện thoại ấy? Hanan có nói sai điều gì với Assad không? Tôi không biết. Nhưng hành động hung bạo đối với đàn bà con gái trong nhà cha mẹ tôi và trong làng nói chung vẫn thường xuyên tái diễn và là chuyện cơm bữa. Và tôi quá đỗi yêu thương Assad. Cha tôi càng căm ghét đứa con trai ấy bao nhiêu, thì tôi càng yêu quý thằng em trai duy nhất ấy bấy nhiêu.
    Tôi còn nhớ ngày nó lấy vợ như một ngày lễ tuyệt vời. Có lẽ đó thực sự là kỷ niệm vui duy nhất trong quá khứ đầy ắp những chuyện điên rồ ấy. Dạo đó tôi khoảng mười tám tuổi và đang già cỗi. Tôi thậm chí đã từ chối tham dự một lễ cưới khác vì biết rõ bọn con gái sẽ chế nhạo tôi ra mặt. Những lời nhận xét ác ý, những cú huých khuỷu tay, những tiếng cười không mấy tự nhiên của chúng khi trông thấy tôi đi qua. Và tôi đã khóc suốt buổi. Nhiều khi dắt đàn cừu đi trong làng, tôi cũng cảm thấy xấu hổ và sợ ánh mắt người khác. Tôi chẳng hơn gì bà hàng xóm có cái đốm trong tròng mắt mà chẳng ai thèm ngó đến. Mẹ đã cho phép tôi không đi dự tiệc cưới của con bé hàng xóm, bà đã hiểu nỗi thất vọng của tôi. Chính lúc ấy, tôi đã đám nói thẳng với cha tôi: “Nhưng đó là lỗi của cha! Cha để con đi lấy chồng đi chứ!” Ông vẫn không muốn nghe và tôi nhận mấy cú bạt tai: “Phải đợi chị mày lấy chồng trước đã! Thôi xéo ngay đi! ”. Tôi đã nói với ông một lần và không có lần thứ hai.
    Nhưng đến lễ cưới của em tôi thì cả nhà đều vui mừng và tôi còn vui hơn nữa. Cô dâu tên là Fatma và tôi không hiểu tại sao cô ta lại đến từ một gia đình xa lạ, từ một làng khác. Có phải vì ở quanh chúng tôi không có gia đình nào có con gái đến tuổi lấy chồng không? Cha tôi đã thuê ôtô để đi đón dâu, một xe cho cánh phụ nữ và một xe cho cánh đàn ông, và xe chở đàn ông đi trước, dĩ nhiên phải như thế.
    Phải vượt qua nhiều dãy núi, và mỗi lần qua một khúc quanh, cánh phụ nữ lại reo mừng tạ ơn Đấng Tối cao đã phù hộ để xe không bị lăn xuống vực, đường đi vô cùng nguy hiểm! Cảnh vật chẳng khác nào sa mạc, đường không được trải nhựa chỉ có đất vừa đen vừa khô và bánh của chiếc xe chở cánh đàn ông tạo thành một đám mây bụi mù phía trước chúng tôi. Nhưng tất cả đều nhảy múa. Tôi có một cái trống cơm kẹp giữa hai đầu gối và tôi vỗ trống theo nhịp với những tiếng hò reo của phụ nữ. Tôi cũng nhảy, với chiếc khăn trùm đầu, rôi rất giỏi về khoản đó. Mọi người ai cũng nhảy múa, ai cũng vui vẻ, chỉ riêng bác tài xế là không!
    Lễ cưới của em trai tôi to hơn của chị gái. Vợ Assad trẻ, đẹp, dáng người nhỏ bé, và có nước da rất sậm. Cô ta không còn là trẻ con mà suýt soát tuổi với Assad. Trong làng, ai cũng có vẻ hơi chế nhạo cha mẹ tôi vì Assad đã “buộc” phải cưới một đứa con gái thuộc độ “chín” và lại là một đứa con gái lạ. Lẽ ra thì phải cưới một đứa trẻ tuổi hơn, cưới một đứa con gái bằng tuổi là một chuyện không bình thường! Và tại sao lại đi tìm ở một nơi khác? Nhưng Fatma là một đứa con gái rất đẹp và may mắn là có đông anh em trai. Cha tôi đã bỏ ra rất nhiều vàng để hỏi cô ta cho Assad. Cô ta có rất nhiều đồ trang sức.
    Lễ cưới kéo dài suốt ba ngày, ngày nào cũng nhảy múa và đãi tiệc tưng bừng. Trên đường về, tôi còn nhớ bác tài xế đã dừng xe giữa đường và chúng tôi lại tiếp tục nhảy múa. Tôi còn thấy hình ảnh tôi trong chiếc khăn trùm và vỗ chiếc trống cơm, lòng tôi hân hoan và tôi tự hào về Assad. Đối với chúng tôi nó được xem như là Chúa Trời, và thật lạ, tình yêu thương mà tôi dành cho nó không chịu rời xa tôi. Nó là người duy nhất mà tôi không thù ghét được, cả những khi nó đánh tôi, và cả những khi nó đánh vợ nó, cả những khi nó trở thành kẻ sát nhân.
    Trong mắt tôi, nó là Assad ahouta, Assad cao quý, Assad em trai tôi. Assad ahouta. Mỗi khi ra đồng làm việc, không bao giờ tôi quên chào nó: “Chào em trai Assad!” Một sự tôn sùng thực sự. Khi còn bé, chúng tôi đã chia sẻ với nhau nhiều thứ. Bây giờ nó lấy vợ, nó sống với vợ trong ngôi nhà của chúng tôi, tôi lại tiếp tục phục vụ nó. Nếu thiếu nước nóng để tắm, tôi lập tức đi đun nước, tôi lau chùi bồn tắm, tôi giặt giũ và sắp sẵn quần áo cho nó. Nếu nó cần tôi sẽ khâu vá trước khi mang để vào chỗ cũ.
    Thông thường, có lẽ tôi không nên yêu thương và chăm sóc nó với tình cảm như vậy. Vì nó cũng giống hệt những người đàn ông khác. Cưới nhau chưa được mấy ngày, Fatma đã bị Assad đánh và chạy về nhà cha đẻ khiến Assad bị mất mặt. Và trái với thông lệ, cha mẹ Fatma không buộc con gái quay lại nhà chồng ngay trong ngày hôm ấy. Có lẽ họ giầu có hơn, tân tiến hơn chúng tôi hoặc có lẽ họ quá yêu con gái họ vì Fatma là con gái duy nhất của họ, tôi cũng không biết nữa. Tôi cho rằng những bất đồng giữa cha tôi và Assad bắt đầu từ những chuyện đó. Em trai tôi muốn lấy cô gái ở một làng khác, nó bắt cha tôi phải bỏ ra rất nhiều vàng và kết quả là cô vợ ấy đã bị sẩy thai thay vì sinh ra một đứa con trai và cô ta lại còn bỏ về nhà cha mẹ để cả gia đình chúng tôi mang nhục! Tôi không được tham dự vào những cuộc họp gia đình, hiển nhiên là thế, và trí nhớ tôi cũng không lưu giữ điều gì để chứng minh cho những suy diễn của tôi hôm nay, nhưng tôi nhớ rất rõ việc cha tôi bê sọt đá lên sân thượng và lần lượt ném hết hòn đá này đến hòn đá khác xuống đầu Assad. Và tôi vẫn nhớ cái tủ mà em trai tôi mang ra chặn cửa phòng nó để ngăn không cho cha tôi vào. Có lẽ Assad định giảnh cả ngôi nhà này cho mình và nó xử sự như thể nó đã là chủ nhà rồi. Tôi cho là cha tôi không muốn Assad có một quyền lực gì trong nhà. Ông không muốn bị nó tước mất quyền hành và chiếm đoạt tiền bạc của mình.
    Cha tôi thường bảo Assad: “Mày vẫn còn là một đứa trẻ con!”
    Càng tự tin và càng được chúng tôi nuông chiều, Assad càng chống đối quyết liệt hơn. Nó là vua trong nhà, và ở đất nước chúng tôi, không bao giờ được nói với một người đàn ông rằng anh ta vẫn là một đứa trẻ con. Đó là một câu nhục mạ hết sức nặng nề! Lúc ấy Assad đã hét lên: “Nhà này cũng là nhà tôi!” Cha tôi không chịu được câu nói ấy. Trong làng mọi người vẫn tự hỏi không biết Fatma đã làm điều gì sai quấy, tại sao cô ta lại bỏ về nhà cha mẹ đẻ thường xuyên như vậy? Hay là cô ta đã bị bắt gặp với một người đàn ông khác? Trong trường hợp như thế những lời ngồi lê đôi mách lan đi rất nhanh. Người ta kháo nhau đủ chuyện xấu về Fatma, nhưng không có chuyện nào đúng cả. Fatma là một cô gái dễ thương. Nhưng khổ một nỗi, nếu ai đó nói, dù chỉ một câu: “Con bé ấy hư hỏng đấy”, thì đối với cả làng, Fatma sẽ là đứa hư hỏng và thế là xong đời cô ta, người ta sẽ có cái nhìn không tốt về cô ta.
    Mẹ tôi rất khổ sở vì những chuyện ấy. Thỉnh thoảng bà cũng gắng sức làm cho cha tôi bớt giận khi thấy ông cứ gây sự với Assad.
    “Sao ông lại làm như thế? Để cho nó yên!
    – Tao đang muốn giết nó đây! Mày mà tìm cách bảo vệ nó thì cứ liệu hồn!”
    Tôi đã trông thấy Fatma nằm dưới đất và bị Assad giơ chân đá vào lưng. Một hôm, tôi trông thấy một bên mắt cô ta đỏ quạch còn mặt thì tái xanh. Nhưng không ai nói hay làm gì được. Bị kẹt giữa thói quen hung hãn của người cha và cậu em trai, chúng tôi chỉ còn cách tìm chỗ trốn để không bị ăn đòn.
    Không biết Assad có yêu vợ nó không? Tình yêu đối với tôi vào dạo ấy là một điều huyền bí. Ở đất nước tôi, người ta chỉ nói đến chuyện làm đám cưới chứ không nói đến tình yêu. Chỉ có chuyện vâng lời và phục tùng tuyệt đối chứ không có tình yêu nam nữ. Chỉ có quan hệ tình dục bắt buộc giữa một cô gái còn trinh được người chồng mua về. Nếu không như thế, sẽ bị bỏ quên hoặc phải chết. Vậy tình yêu ở đâu?
    Tuy nhiên, tôi cũng nhớ trong làng có một người phụ nữ sống cùng chồng và các con trong một ngôi nhà đẹp nhất. Mọi người đều biết đến họ vì sự xa hoa của ngôi nhà và sự giàu có của họ. Con cái của họ đều được đến trường. Đó là một đại gia đình vì các thành viên chỉ lấy người trong họ. Nhà họ chỗ nào cũng lát gạch vuông. Thậm chí cả lối đi bên ngoài cũng lát gạch vuông. Với lối đi ở những ngôi nhà khác, người ta chỉ rải đá răm hoặc hoặc cát, đôi khi có tráng một lớp nhựa đường. Nhưng ở đây lại có một lối đi rất đẹp với hàng cây trồng phía trước. Họ có một thợ làm vườn phụ trách việc chăm sóc khu vườn và khoảng sân có hàng rào sắt uốn sáng lóa như vàng. Đứng từ xa người ta đã phải chú ý đến ngôi nhà. Ở đất nước tôi, tất cả những gì sáng lóa đều được ưa thích. Ai mà có một chiếc răng vàng thì được coi là giàu! Và đã giàu thì phải khoe ra. Ngôi nhà ấy rất hiện đại, hoàn toàn mới, và bên trong trông rất tráng lệ. Lúc nào cũng có hai, ba chiếc ôtô trước nhà. Tôi không bao giờ đi vào trong đó, dĩ nhiên là thế, nhưng mỗi lần dắt đàn cừu ngang qua, tôi đâm ra mơ mộng. Người chủ ngôi nhà tên là Hassan, một người cao to, nước da ngăm đen, vẻ sang trọng. Vợ chồng nhà ấy rất gắn bó với nhau, lúc nào cũng ở bên nhau. Chị vợ đang mang thai đôi. Nhưng không may, việc sinh nở không được vuông tròn, hai đứa bé song sinh được cứu sống nhưng thai phụ lại chết. Cầu xin linh hồn chị được yên nghỉ vì chị còn rất trẻ. Đó là đám tang duy nhất tôi được nhìn thấy trong làng. Điều khiến tôi cảm động và ngạc nhiên là tất cả người thân trong gia đình đi sau chiếc cáng khiêng người quá cố đều khóc, anh chồng khóc nhiều hơn cả. Do quá đau buồn, trong lúc đi sau xác vợ, anh ta đã xé rách nhiều áo sơ mi dài truyền thống. Bà mẹ cũng xé nhiều áo váy của bà. Tôi thấy hai bầu vú để trần của người đàn bà có tuổi ấy rơi thõng xuống chỗ bụng bà ta, giữa những mảnh áo bị xé rách. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cảnh tượng nào buồn như thế. Người phụ nữ được mang đi chôn kia từng được thương yêu, cái chết của chị ta đã khiến cả gia đình, và cả mọi người trong làng phải thương tiếc.
    Có phải tôi đã có mặt trong số những người cùng làng đi xem đám tang hay tôi đã nhìn thấy quang cảnh đám tang từ trên sân thượng nhà tôi? Có lẽ từ trên sân thượng, vì hồi ấy tôi còn quá bé. Nhưng tôi đã khóc. Có rất đông người. Họ đi chầm chậm trong làng. Và người đàn ông mà tôi nhìn thấy đang tỏ ra đau đớn, đang xé áo sơ mi của anh ta, và tôi không bao giờ quên người đàn ông ấy. Với những tiếng gào thét vì tình yêu dành cho vợ mà anh ta trở nên đẹp vô cùng.
    Đúng là một người đàn ông chân chính và đáng nể.
    Ông bà ngoại và cậu tôi cũng ở trong làng. Và ông ngoại tôi (tên ông là Mounther) lúc nào cũng chải chuốt. Vóc người ông cao lớn, cậu tôi cũng vậy, ông luôn cạo râu tươm tất, ăn mặc chỉnh tề, cả khi mặc y phục truyền thống. Lúc nào ông cũng có tràng hạt trên tay và những ngón tay dài lần hết hạt này tới hạt khác. Thỉnh thoảng ông đến nhà ngồi hút ống điếu với cha tôi và hai người có vẻ rất tâm đắc. Nhưng một hôm, mẹ tôi bỏ nhà về ngủ ở nhà ông bà vì bị cha tôi đánh. Bà bỏ chúng tôi ở lại một mình với ông ta. Ở đất nước chúng tôi, khi bỏ đi như thế, người phụ nữ không thể mang theo con cái. Dù gái hay trai, chúng vẫn phải ở lại với cha chúng. Và tôi càng lớn lên, cha càng hay đánh mẹ, mẹ tôi càng hay bỏ về nhà ông bà. Chính ông ngoại đã phải bắt mẹ tôi quay trở lại. Đôi khi mẹ tôi bỏ đi suốt một tuần, đôi khi chỉ một ngày hoặc một đêm. Có lần, bà đã bỏ đi ít nhất gần một tháng và ông ngoại tôi không còn muốn nói chuyện với cha tôi nữa.
    Tôi tin rằng nếu mẹ tôi có chết đi thì bà cũng không bao giờ có được một đám tang như người phụ nữ ấy và cha tôi cũng sẽ không kêu khóc và xé rách áo như ông Hassan. Ông không yêu mẹ tôi.
    Lẽ ra tôi phải tự thuyết phục mình rằng ở đất nước tôi, hoặc chính xác hơn trong gia đình tôi, tình yêu là một khái niệm không hề tồn tại. Rốt cuộc, tôi chỉ có mỗi đứa em trai để yêu thương mặc dù nó hung hăng, hăng, và thỉnh thoảng hay nổi khùng vô cớ. Các chị tôi cũng yêu thương nó. Chị Noura không còn ở nhà, chị Kainat cũng như tôi, chị che chở bênh vực nó, và mỗi khi trông thấy nó cưỡi ngựa là chị vỗ tay tán thưởng.
   

- o O o -

    Trừ hai đứa em còn bé chưa thể nghĩ tới chuyện lấy chồng, ở nhà chỉ còn lại chúng tôi. Hai gái già. Về phần chị Kainat, tôi có cảm tưởng chị đã cam chịu số phận. Chị không xấu, nhưng… không đẹp lắm và không tươi cười. Chị khác hẳn tôi. Cùng là hai đứa con gái nhà quê ăn mặc hơi xoàng xĩnh, tóc tai không được chải chuốt… nhưng tôi nhỏ người và thon thả hơn, còn chị thì to ngang với bộ ngực quá khổ. Ở đất nước chúng tôi, đàn ông thích phụ nữ chắc da chắc thịt nhưng không chấp nhận một bộ ngực quá to. Chị không có nét gì quyến rũ. Chị cảm thấy buồn vì chuyện đó nhưng không thể trở nên đẹp hơn. Chị cũng ăn những thức ăn như tôi nhưng chị lại phì ra, đó đâu phải là lỗi ở chị. Và dù thế nào đi nữa, cả chị và tôi đều không thể nào làm cho mình đẹp hơn những gì mà Đấng Tối cao đã tạo ra. Mà làm bằng cách nào và với những gì? Không áo đẹp, lúc nào cũng mặc chiếc quần vải màu trắng hoặc xám, không trang điểm, không đồ trang sức. Và luôn bị nhốt như hai ả gà mái già, mỗi lần lùa đàn cừu ra khỏi nhà, chúng tôi lại phải đi nép vào tường, đếm từng bước, cắm mặt xuống đất.
    Nếu chị Kainat không còn hy vọng gì và chắn mất lối đi lấy chồng của tôi, thì tôi biết, dù sao vẫn có một người đàn ông đến hỏi tôi. Mẹ tôi bảo: “Bố thằng Faiez đã đến nhà ta để hỏi mày cho con trai lão. Nhưng lúc này, chưa thể bàn đến việc đám cưới được. Phải chờ chị mày xong đã.”
    Từ đó, tôi luôn tưởng tượng rằng anh đang đợi tôi, và rằng anh đang sốt ruột vì sự từ chối của cha mẹ tôi.
    Em trai tôi biết anh. Họ ở đối diện nhà chúng tôi phía bên kia đường. Họ không phải là nông dân như chúng tôi nên họ không làm việc ngoài vườn nhiều như chúng tôi. Cha mẹ anh sinh được ba người còn trai và chỉ còn Faiez là chưa lấy vợ. Nhà ấy không có con gái, vì thế không cần phải xây tường bao xung quanh mà chỉ có một hàng rào rất đẹp và cổng không bao giờ khóa. Tường nhà màu hồng và chiếc ôtô lúc nào cũng đỗ trước cửa nhà có màu ghi.
    Faiez làm việc trong thành phố. Tôi không biết anh làm nghề gì nhưng tôi nghĩ anh làm việc trong một văn phòng nào đấy như cậu tôi. Dù sao đi nữa, anh trông cũng khá hơn chồng của chị cả tôi nhiều. Hussein lúc nào cũng phải mặc quần áo công nhân, không bao giờ sạch sẽ và người Hussein có mùi hôi.
    Faiez đó là sự thanh lịch, với một chiếc ôtô bốn chỗ rất đẹp vẫn nổ máy đều đặn mỗi sáng.
    Thế là tôi bắt đầu rình mò chiếc ôtô để được trông thấy Faiez. Vị trí quan sát tốt nhất là trên sân thượng, nơi tôi vẫn lên giũ tấm thảm lông cừu, hái nho và phơi quần áo. Chỉ cần cẩn thận một chút là lúc nào tôi cũng có thể tìm ra một công việc gì đó để làm trên ấy.
    Trước tiên, tôi nhận thấy bao giờ anh cũng đỗ xe ở cùng một chỗ, cách cửa nhà mấy bước. Do không thể đứng quá lâu trên sân thượng để đoán xem mấy giờ anh ra khỏi nhà nên phải mất mấy ngày tôi mới biết được là anh đi làm vào khoảng bảy giờ sáng, lúc đấy tôi rất dễ tìm ra một công việc gì đó để làm trên sân thượng.
    Lần đầu tiên nhìn thấy anh, tôi đã gặp may. Tôi nhanh tay cọ rửa chuồng gia súc rồi đi lấy bó cỏ thật khô mang về cho con cừu cái đang ốm và sắp trở dạ. Tôi đang đứng cách đó hai ba bước với bó rơm trong tay thì anh bước ra. Trông cũng lịch sự như cậu tôi, mặc âu phục, đi giày buộc dây rất đẹp với hai màu đen và nâu nhạt, tay xách cặp đựng giấy tờ, tóc thật đen, nước da ngăm đen và điệu bộ oai vệ.
    Tôi cúi đầu, giấu mặt trong đống rơm. Tôi lắng nghe bước chân anh cho đến lúc anh ra đến ôtô, rồi tiếng cửa xe đóng sầm lại, tiếng máy nổ và tiếng lốp xe lăn trên sỏi kêu lạo xạo. Tôi chỉ dám ngẩng đầu lên khi chiếc xe đã đi xa và tôi đợi cho đến khi nó khuất hẳn. Tôi nghe tim đập rộn ràng trong lồng ngực. Hai chân tôi run run. Và tôi tự nhủ: “Mình muốn có người đàn ông ấy làm chồng mình. Mình yêu anh ấy. Mình muốn anh ấy, mình muốn anh ấy…”.
    Nhưng làm thế nào? Làm thế nào để van xin anh đích thân đến xin cha tôi quyết định cho làm lễ cưới? Trước tiên phải nói chuyện với anh như thế nào? Con gái không được nói chuyện với con trai. Cũng không được nhìn thẳng vào mặt người ta. Không được tìm cách đến gần. Dù người đàn ông ấy có muốn hỏi mình làm vợ đi chăng nữa thì anh ta cũng không phải là người có quyền quyết định. Người có quyền quyết định là cha tôi, bao giờ cũng là ông ấy và ông ấy sẽ giết tôi nếu biết tôi đã dềnh dàng ôm bó rơm đứng lại một phút trên đường để lôi kéo sự chú ý của Faiez.
    Ngày ấy, tôi không dám hy vọng nhiều, nhưng tôi chỉ muốn anh nhìn tôi và biết tôi đang đợi anh. Thế là, tôi quyết định làm bất cứ điều gì đó để được lén lút gặp anh và nói chuyện với anh. Tôi nhất định liều một phen, dù biết rằng nếu bị bắt gặp, tôi có thể sẽ bị ném đã hoặc đánh bằng gậy cho đến chết. Tôi không muốn đợi hết tháng này sang năm nọ nữa, không muốn đợi đến ngày chị Kainat rời nhà chúng tôi. Như thế thật bất công. Tôi không muốn bị già thêm nữa, không muốn thành chủ đề đàm tiếu của cả làng. Tôi không muốn đánh mất hy vọng được đi cùng một người đàn ông đến một nơi nào đó, được thoát khỏi sự đàn áp hung bạo của cha tôi.
    Mỗi sáng và mỗi chiều, tôi sẽ lên sân thượng để ngóng đợi người đàn ông trong mộng của tôi, đợi cho đến lúc anh ngước mắt nhìn tôi và ra hiệu cho tôi. Bằng một nụ cười. Nếu không như thế, tôi chắc chắn anh sẽ đi hỏi một đứa con gái khác trong làng hoặc ở làng khác. Và sẽ có một ngày, tôi sẽ nhìn thấy một phụ nữ thay tôi được lên chiếc ôtô ấy.
    Cô ta sẽ cướp Faiez của tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách