Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: siwang
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Khác] Truyện Cổ Grim | Grim

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 20:28:02 | Chỉ xem của tác giả
Ả Grêten thông minh

Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi. Ả ngó đông ngó tây, thích chí nghĩ bụng mình cũng vào loại xinh đấy chứ. Về đến nhà, ả cao hứng uống ngụm rượu vang; Ả nếm tất cả những món ăn ngon nhất ả đã nấu, nếm đến no nê. Ả nói: “Người nấu bếp là phải biết món ăn mình nấu vị ra sao chứ!”.

Một hôm ông chủ bảo ả:

- Grêten này, tối nay nhà có khách mày hãy thịt hai con gà mái, mà nấu cho ngon nhé!

- Thưa ông, xin ông hãy để cháu lo – Grêten trả lời.

Ả giết hại con gà mái, nhúng nước sôi, làm lông, xiên vào xiên, đến chiều thì mang quay trên lửa. Gà vàng dần và đã vàng rộm đều mà khách vẫn chưa đến, Grêten thưa với chủ:

- Thưa ông, nếu khách chưa đến thì cháu phải nhấc con gà ra khỏi lửa. Thật là đáng tiếc. Gà vừa chín tới, tí nữa ăn ngay thì ngọt thật.

Chủ nói:

- Thôi để tao chạy đi gọi khách ngay!

Chủ vừa quay lưng đi thì Grêten nhấc gà ra khỏi lửa và nghĩ:

“Đứng gần lửa mãi vừa nóng vừa khát. Biết bao giờ khách mới đến?

Trong khi chờ, mình phải xuống hầm uống ngụm rượu vang đã”. Ả chạy xuống hầm, lấy một cái vò rượu rồi nói: “Lạy chúa phù hộ cho con” rồi uống một hơi dài. “Rượu đã chảy là chảy mạnh, ả nói, khó mà ngừng được”. Ả lại uống tiếp một cách thoải mái. Ả lại chạy lên bếp, đặt gà lên lửa, phết bơ và vui vẻ quay cái xiên. Gà quay thơm điếc mũi. Ả nghĩ bụng hãy còn thiếu cái gì đó, phải nếm xem sao. Ả nhúng ngón tay vào nước xốt, liếm và nói: “Ồ! Nhưng con gà mái này ngon tuyệt! Không ăn ngay thì thật là có tội, thật đáng xấu hổ!”.

Ả chạy ra cửa sổ nhìn xem ông chủ và khách đã về chưa.

Nhưng ả chẳng thấy ai cả. Ả lại quay về với những con gà và nghĩ:

“Một cánh bị cháy, tốt nhất là chặt đi”. Ả chặt cái cánh và ăn ngon lành. Ăn xong một cánh, ả tự bảo: “Mình phải chặt nốt cái cánh kia đi, nếu không ông chủ về thấy có gì thiếu”. Ả xơi cả cái cánh, rồi ra cửa sổ xem chủ về chưa nhưng không thấy ai! Ai mà biết được ông ấy chợt nghĩ ra cái gì! không thấy bọn họ trở về, có thể là đi đâu đấy.

Ả nói: “Này Grêten ạ, việc gì phải thắc mắc! Khi bắt đầu ăn con gà thì hãy uống nữa đi và chén nốt đi! Sau đó thì sẽ yên tâm. Tại sao lại phí của giời thế!”. Ả lại chạy xuống hầm, uống ra trò, rồi lại chén nốt con gà một cách vui vẻ.

Thế là ăn hết sạch một con gà. Chủ thì vẫn chưa về. Grêten liếc nhìn con gà thứ hai và nói: “Phải cho con này đi theo con kia thôi, không thể tách chúng ra được. Đối xử với con kia thế nào thì hẳn là đối xử với con này cũng phải thế. Mình cho là nếu có uống thêm một chút, thì cũng chẳng hại gì”. Ả lại phấn khởi uống, con gà thứ hai cũng chạy theo con thứ nhất.

Khi ả đang ăn ngon lành thì ông chủ về – “Nhanh lên, Grêten!

Ông gọi to khách đến ngay bây giờ đấy” – “Thưa vâng, Grêten trả lời, xong ngay đây ạ”. Ông chủ đến bàn ăn xem sắp xếp đã đủ chưa.

Ông mang con dao để cắt thịt đi mài.

Đúng lúc đó, khách gõ cửa khe khẽ, lịch sự. Grêten ra cửa, thấy khách thì đưa ngón tay lên môi ra hiệu và nói: “Khéo chứ! Khéo chứ! Ông hãy mau chạy ngay đi! Nếu chủ tôi trông thấy ông thì nguy cho ông đấy. Chủ tôi mời ông đến ăn nhưng cốt để xẻo đôi tai ông đấy. Ông có nghe thấy tiếng mài dao không?”

Khách nghe quả là đúng có tiếng mài dao, vội ba chân bốn cẳng chạy xuống cầu thang. Grêten lúc đó cũng vội chạy lên chỗ ông chủ mồm loa mép giải: “Ông ơi, khách của ông sao mà quí hóa thế!” “Ô mày nói gì lạ vậy, Grêten?” – “Ông ta cướp của cháu hai con gà đặt trên đĩa rồi biến đi” – “Tệ quá! Ông chủ nói, tiếc rẻ hai con gà ngon – ít ra thì ông ta cũng phải để lại một con cho mình chứ!”.

Ông gọi to mời khách trở lại, nhưng khách giả đò không nghe thấy. Ông liền chạy theo khách, dao hãy còn cầm ở tay và réo: “Một thôi! Một thôi!” ý nói là khách ít ra cũng phải để lại một con gà.

Nhưng khách lại hiểu là chủ đòi một cái tai, nên chạy lao như gió, để mong giữ được cả hai tai nguyên vẹn về nhà.

Câu chuyện đã cho thấy sự khôn khéo của người ở và gây cười cho người đọc. Nói lên quan hệ giữa chủ và tớ – Ông chủ kém thông minh thường bị người ở khôn ngoan lừa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 20:28:35 | Chỉ xem của tác giả
Bà lão chăn ngỗng

Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi Hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chúng quanh Có một khu rừng lớn. Sáng nào bà cũng chống nạng lẩy bẩy đi vào Rừng. Bà bận nhiều việc lắm, một người nhiều tuổi như bà tưởng Khó có thể làm nổi: đi kiếm cỏ cho ngỗng, hái quả dại vừa tầm tay Với, vác cả lên lưng về nhà.
     Trông thì tưởng chừng bà vác nặng đến ngã khuỵu xuống mất, Nhưng cũng may là bao giờ bà cũng mang về được tới nhà. Bà gặp Ai cũng chào hỏi niềm nở:
     - Chào người bà con. Hôm nay trời đẹp nhỉ! Bà con thấy già đi Tha cỏ về thì chắc lấy làm lạ lắm nhỉ, ai mà chẳng phải vác gánh Nặng của mình trên lưng.
     Tuy vậy, thiên hạ không thích gặp bà lão, họ thường đi đường Vòng để tránh bà. Khi một ông bố cùng con trai đi qua mặt bà, ông Khẽ bảo con:
     - Con phải coi chừng mụ già này. Mụ ấy thâm hiểm lắm. Đó là Một mụ phù thủy đấy.
     Một buổi sáng, có chàng thanh niên đẹp trai đi qua rừng. Trời Nắng, chim kêu ríu rít, gió mát thổi qua cành lá, lòng chàng lâng Lâng vui sướng. Chàng chẳng gặp một ai. Bỗng chàng nhìn thấy bà Phù thủy đang cắt cỏ bằng liềm. Bà đã nhét vào tay nải một mớ Nặng, cạnh đó còn có hai giỏ đầy lê và táo dại.
     Chàng nói:
     - Này bà lão, bà làm thế nào mà mang hết đi được?
     Bà già đáp:
     - Thưa ngài, thế mà tôi vẫn phải mang cho được đấy. Con nhà Giầu có đâu cần như vậy. Nhưng nông dân thường nói: "Thôi đừng Ngó quẩn ngó quanh làm gì! Cái lưng người vốn nó phải còng." Chàng đứng bên bà, bà bèn bảo:
     - Thế chàng giúp già một tay có được không? Lưng chàng còn Thẳng, chân còn cứng, đối với chàng thì dễ thôi. Nhà già cũng gần Đây, trên cái bãi hoang kia, ở ngay sau núi, chàng chạy một lát thì Đến ngay đấy mà.
     Chàng thanh niên thương hại bà lão, trả lời:
     - Quả cha tôi không phải là nông dân, mà là một v? bá tước Giàu có, nhưng thôi cứ để tôi mang giúp bà chiếc tay nải kia. Bà già nói:
     - Nếu chàng cố giúp cho thì quý hóa quá. Chắc chắn là chàng Phải đi mất một giờ đấy, nhưng đối với chàng thì thấm vào đâu. Chàng phải mang giúp cho cả táo và lê đến đấy nữa nhé! Nghe nói đi mất một giờ thì vị bá tước trẻ tuổi hơi phân vân, Nhưng bà già không buông chàng ra, bà buộc khăn gói trên lưng Chàng, khoác đôi giỏ vào cánh tay chàng và nói:
     - Chàng thấy chưa, cũng dễ thôi mà!
     Bá tước vừa đáp vừa nhăn nhó:
     - Đâu, không dễ đâu! Cái bọc nặng như là bọc đá ấy, lê táo cũng Nặng như chứ. Thở chẳng ra hơi nữa!
     Chàng muốn trút tất cả mọi thứ, nhưng bà già không chịu. Bà Nói mỉa:
     - Trông kìa! Có đời thuở nhà ai một vị trai tráng mà không chịu Mang cái mà một bà già như ta đã từng lê đi bao nhiêu lần. Nói Hay, nói đẹp thì sao mà mau thế! Hễ công việc thật thì chỉ muốn lẩn Thôi.
     Bà nói tiếp: - Sao chàng lại chần chừ, đứng ỳ ra như thế! Chịu khó nhấc Chân lên chứ. Không ai đỡ gói cho đâu.
     Còn đi trên đất bằng thì chàng còn chịu nổi. Nhưng khi lên núi, Phải trèo, đá lăn dưới chân chàng y như chúng là những vật sống Thì thật là quá sức chàng. Mồ hôi nhễ nhại trên trán, chảy ròng Ròng xuống lưng chàng, khi thì nóng bốc lên, khi thì lại lạnh toát Sống lưng. Chàng nói:
     - Bà già ơi, tôi không chịu nổi nữa, cho tôi nghỉ một tí. Bà già đáp:
     - Không nghỉ ở đây được. Để đến nơi đã, hãy nghỉ. Bây giờ cứ đi Đi. Biết đâu thế chả là điều hay cho chàng. Bá tước nói:
     - Mụ già kia, mụ thật hỗn xược. Chàng định vứt chiếc khăn gói đi, nhưng loay hoay mãi mất Công toi. Khăn gói dính chặt vào lưng chàng y như là nó mọc từ Lưng ra. Chàng quay cuồng, vặn vẹo mãi mà không tài nào thoát ra Được.
     Bà già thấy vậy cười và nhảy nhót trên đôi nạng một cách Khoái trá. Bà nói:
     - Chàng ơi, xin chàng chớ tức giận, mặt chàng đã đỏ chín lên Như gà chọi rồi. Chàng cứ chịu khó đeo khăn gói đi, đến nhà, già sẽ Thưởng cho xứng công.
     Chàng biết làm sao bây giờ? Chàng đành tuân theo số phận, Nhẫn nhục lê theo bà già. Bà ta có vẻ mỗi lúc một lanh lẹn, còn Chàng thì thấy gánh trên vai mỗi lúc một thêm nặng. Rồi bỗng bà Nhún người nhảy một cái, ngồi trên khăn gói.
     Bà gầy khẳng khiu như cái cọc rào, mà sao nặng hơn cả một Mụ nông dân béo? Chàng thanh niên lảo đảo, nhưng nếu chàng Không chịu đi thì bà lây roi và cành gai đánh vào chân chàng. Chàng không ngừng rên rỉ, trèo lên núi, mãi đến khi sắp khuỵu Xuống mới tới nhà bà. Đàn ngỗng thấy bà già gọi thì vỗ cánh vươn Cổ lên, chạy ra đón và kêu quang quác. Một mụ đã có tuổi, mạnh Khỏe to lớn, xấu như ma lem, cầm roi theo sau đàn ngỗng. Bác ta Bảo bà lão:
     - Mẹ ơi, có việc gì mà sao lâu thế?
     Bà lão đáp:
     - Con cứ yên tâm, chả gặp điều gì dữ cả. Trái lại, chàng đây lại Mang giúp cho mẹ. Này con ạ, khi mẹ mệt chính chàng ta lại cõng Mẹ trên lưng nữa. Thành ra đường đi không thấy xa, đi rất vui vẻ Và luôn luôn đùa giỡn với nhau.
     Mãi sau bà già mới chịu tụt xuống, đỡ khăn gói khỏi lưng Chàng, lấy giỏ khỏi tay chàng, thân mật nhìn chàng và bảo:
     - Thôi bây giờ, chàng hãy ngồi ở chiếc ghế dài trước cửa mà Nghỉ. Chàng thật đáng được trả công một cách xứng đáng. Mà nhất Định là có thôi.
     Rồi bà bảo mụ chăn ngỗng: - Con hãy vào trong nhà, con ạ. Con đứng một mình với chàng Trai trẻ thật là không tiện, không nên đổ dầu vào lửa. Chàng ta có Thể mê con đấy.
     Bá tước chẳng biết nên cười hay nên khóc. Chàng nghĩ bụng: đồ Của thừa như thế, giá có trẻ hơn ba chục tuổi cũng chẳng làm cho Mình rung động được.
     Trong khi ấy, bà lão vuốt ve đàn ngỗng như con, bà cùng mụ Con gái vào nhà. Chàng thanh niên ngả mình trên chiếc ghế dài ở Gốc một cây táo. Không khí êm dịu, ấm áp. Chung quanh rải ra một Đống cỏ xanh rờn, đầy hoa ngọc châu, hoa bách lý và hàng trăm thứ Hoa khác. Một con suối trong veo, lóng lánh ánh mặt trời chảy Ngang. Đàn ngỗng trắng nhởn nhơ đi qua đi lại hoặc lội bì bõm dưới Nước. Chàng nghĩ bụng:
     - Ở đây thật là yêu kiều, nhưng ta buồn ngủ quá, mắt cứ díp Lại. Ta phải ngủ đi một tí mới được. Chỉ mong đừng có cơn gió nào Thổi bay đôi chân mình đi, chân mình đã nhũn ra như bùi nhùi mất Rồi.
     Chàng ngủ được một lát thì bà già đến lay dậy, bà bảo: - Dậy đi, chàng ơi! Chàng không ở lại đây được đâu, quả là già Đã làm cho chàng vất vả, nhưng cũng chưa hại gì đến tính mạng. Giờ thì già trả công cho chàng. Tiền bạc và của cải thì chàng không Cần đến, để ta cho thứ khác.
     Nói rồi, bà nhét vào tay chàng một chiếc hộp nhỏ làm bằng một Viên ngọc xanh nguyên khối và dặn: - Chàng hãy giữ hộp này cẩn thận, nó sẽ mang phúc đến cho Chàng. Bá tước vùng dậy, cảm thấy trong người khoan khoái, lại sức, Cảm ơn bà già rồi lên đường, không buồn quay lại nhìn con gái xinh Đẹp của bà lấy một lần. Chàng đi được một quãng đường vẫn còn Nghe thấy tiếng ngỗng kêu vui vẻ từ xa vọng lại.
     Bá tước phải lang thang ba ngày trong rừng hoang mới tìm ra Được lối đi. Chàng đến một thành phố lớn. Ở đấy không ai biết Chàng. Người ta dẫn chàng đến cung điện. Vua và hoàng hậu đã Ngự triều. Bá tước quì xuống, rút chiếc hộp bằng ngọc xanh ở túi ra Để xuống chân hoàng hậu. Bà truyền cho chàng đứng dậy, chàng Cầm lấy chiếc hộp dâng lên bà vừa mở ra xem thì ngã xuống đất bất Tỉnh nhân sự. Bá tước bị bọn thị vệ nắm chặt lấy định đem tống Ngục. Nhưng hoàng hậu mở mắt, truyền phải tha chàng. Bà đuổi Mọi người ra và muốn tiếp chuyện riêng chàng.
     Khi chỉ còn mình bà với bá tước, hoàng hậu khóc lóc thảm thiết Và bà nói:
     - Giàu sang phú quí đối với ta có làm gì, vì sáng nào ta thức Dậy cũng phải lo âu phiền não. Ta có ba con gái, con gái út đẹp Nhất, thiên hạ coi là của quí kỳ diệu. Da nó trắng như tuyết, má nó Hồng như táo, tóc nó rực rỡ như ánh sáng mặt trời. Khi nó khóc, Không phải giọt lệ thường, mà là hạt châu, hạt ngọc ở mắt nhỏ ra. Năm nó mười lăm tuổi, vua cho đòi ba chị em nó đến trước ngai Vàng. Chàng không thể tưởng tượng quần thần trố mắt ra nhìn thế Nào khi đứa thứ ba bước vào. Thật y như mặt trời mọc. Vua phán "Các con ạ, cha không biết ngày nào cha chết. Hôm nay, cha muốn Quyết định xem sau khi cha chết, mỗi con được hưởng gì. Các con Đều yêu cha cả, nhưng con nào yêu cha tha thiết nhất sẽ được Hưởng cái quý nhất". Cô nào cũng nhận là yêu cha tha thiết nhất. Vua hỏi: "Các con hãy nói xem các con yêu cha thế nào. Cha sẽ hiểu Được lòng các con". Cô cả nói: "Con yêu cha như yêu đường ngọt Nhất". Cô thứ hai nói: "Con yêu cha như yêu chiếc áo đẹp nhất của Con". Cô thứ ba lặng thinh. Vua cha liền hỏi: "Thế nào, con yêu ta Như thế nào?". Cô đáp: "con không biết lấy gì ví lòng con yêu cha". Nhưng vua cha đòi cô phải nói lên cái gì để ví. Sau mãi cô mới nói: "Món ăn ngon nhất mà thiếu muối thì con không thể ăn ngon được. Do đó con yêu cha như muối". Vua cha nghe vậy, nổi giận phán: "Nếu mày yêu ta như muối thì ta sẽ lấy muối thưởng tấm lòng của Mày". Vua liền chia giang sơn làm đôi cho hai cô con gái lớn và sai Bược lên lưng cô đi một bị muối, rồi cho hai người nông nô dẫn cô Vào rừng hoang.
     Hoàng hậu nói tiếp:
     - Tất cả chúng tôi đều van xin, nhưng vua vẫn không nguôi Giận. Chao ôi! Con tôi nó khóc lóc thảm thiết làm sao khi nó phải từ Bỏ chúng tôi. Suốt dọc đường rơi đầy châu ngọc ở mắt nó tuôn ra. Sau đó ít lâu, vua hối hận vì đã quá nhẫn tâm. Vua cho đi tìm đứa Con đáng thương khắp trong rừng nhưng chẳng ai thấy nó. Ta cứ Nghĩ nó bị thú dữ ăn thịt là ta lại buồn rầu. Đôi khi, ta tự an ủi với Hy vọng là nó vẫn còn sống, chui rúc trong một cái hang nào đó hay Nương tựa ở nơi nào có người thương hại. Chàng có thể tưởng tượng Được không, khi ta mở chiếc hộp con bằng ngọc xanh của chàng ra, Ta thấy có một hạt ngọc đúng như hạt lệ ở mắt con ta nhỏ ra. Chàng Hiểu tại sao ta thấy ngọc mà lòng ta xúc động. Chàng phải nói cho Ta biết làm sao ngọc ấy lại vào tay chàng.
     Bá tước kể lại cho hoàng hậu biết là chàng nhận được ngọc của Một bà lão trong rừng, có vẻ khả nghi lắm, chắc là một mụ phù Thủy. Chàng không hề nghe nói gì về công chúa hoặc trông thấy Nàng. Vua và hoàng hậu quyết định đi tìm bà lão vì nghĩ là ngọc ở Đâu ắt là có thể tìm ra tung tích con mình ở đó.
     Bà lão ngồi ở ngoài trời, chỗ bãi hoang, kéo sợi bên chiếc Giường. Trời đã tối. Ở dưới bếp, một thanh củi hắt ra ánh sáng leo Lắt. Bỗng ở ngoài có tiếng ồn ồn, ngỗng từ đồng cỏ về nhà, kêu Quang quác ầm lên. Một lát sau, một người đàn bà bước theo vào. Bà lão chả buồn chào đáp lại người ấy, chỉ khẽ gật đầu. Người đàn Bà lại ngồi bên mẹ cầm guồng quay sợi nhanh nhẹn như một thiếu Nữ. hai người ngồi vậy hai giờ, không nói với nhau nửa lời. Mãi sau Có tiếng động khẽ ở cửa sổ. Rồi có đôi mắt sáng như lửa chằm chằm Nhòm vào. Đó là một con cú, nó hú lên ba lần. Bà già ngẩng lên Nhìn một tí rồi bảo:
     - Con ạ, đã đến lúc con đi ra làm việc rồi con ạ. Người đàn bà đứng dậy đi ra. Bác đi đâu vậy? Bác băng qua Đồng cỏ, đi mãi đến thung lũng. Sau đó bác đến một dòng suối, trên Bờ có ba cây sồi cổ thụ. Trong khi ấy mặt trăng tròn và to đã lên Quá đỉnh núi. Trăng sáng đến nỗi có thể tìm được cái kim nhỏ. Bác Bỏ miếng da úp trên mặt ra rồi xuống suối rửa. Xong xuôi, bác Nhúng miếng da vào nước rồi đặt xuống đồng cỏ để phơi khô và cho Bạc màu dưới ánh trăng. Bác biến đổi khác hẳn. Chưa ai được thấy Một người đẹp đến thế! Mái tóc hoa râm vừa rơi xuống thì mớ tóc Vàng sổ ra như ánh mặt trời, phủ lên khắp người như một chiếc áo Khoác. Đôi mắt cô thiếu nữ sáng ngời như sao trên trời, đôi má ửng Hồng mịn dịu như hoa táo.
     Nhưng cô gái xinh đẹp lại buồn rầu. Cô ngồi khóc thảm thiết, Nước mắt tuôn lã chã trên mớ tóc dài rơi xuống đất. Cô cứ ngồi mãi Cho đến khi trên cành cây gần đó có tiếng loạt xoạt, rào rào. Cô nhảy chồm lên như con hoẵng nghe tiếng súng của người đi Săn, đúng lúc ấy mặt trăng bị mây che phủ. Chỉ trong giây lát, cô Lấy miếng da đắp lên mặt như cũ rồi biến đi như ngọn đèn bị gió Thổi tắt.
     Cô run rẩy như lá liễu, bỏ chạy về nhà. Bà già đứng trước cửa. Cô định kể lại sự việc xảy ra. Nhưng bà lão cười thân mật và bảo: - Mẹ biết hết cả rồi.
     Bà dẫn cô vào buồng và nhóm thêm một thanh củi nữa. Nhưng Bà không ngồi bên guồng nữa mà đi lấy một cái chổi quét tước sạch Sẽ.
     Bà bảo cô:
     - Tất cả mọi thứ đều phải tinh tươm, sạch sẽ.
     Cô bảo:
     - Này mẹ, nhưng sao khuya rồi mẹ mới bắt đầu làm việc? Mẹ Định làm gì?
     Bà già hỏi:
     - Thế con không biết mấy giờ rồi à?
     Cô đáp:
     - Chưa đến nửa đêm, nhưng đã quá mười một giờ rồi. Bà nói tiếp:
     - Thế con không biết cách đây ba năm, đúng ngày này năm ấy, Con đã đến đây với ta à? Vận hạn của con đã hết, chúng ta không Thể cùng ở với nhau nữa.
     Cô gái sợ hãi hỏi:
     - Trời ơi, mẹ yêu dấu, mẹ định bỏ con à! Con biết đi đâu bây Giờ? Con không có bạn bè, không có quê hương, con biết nương tựa Vào ai? Mẹ muốn gì, con đều đã làm cả, có bao giờ con làm phật ý Mẹ đâu. Xin mẹ đừng đuổi con đi!
     Bà già không muốn nói cho cô gái việc sắp xảy ra.
     Bà bảo cô:
     - Mẹ không thể ở đây lâu hơn nữa. Nhưng khi mẹ dọn đi thì Nhà cửa phải cho sạch sẽ. Vì vậy, con đừng làm cản trở công việc Của mẹ. Về phần con, chớ có lo ngại. Con sẽ tìm ra một mái nhà có Thể ở được. Con cũng sẽ hài lòng về công xá mẹ trả cho con. Cô gái lại hỏi:
     - Nhưng mẹ hãy nói cho con biết việc sắp xẩy ra. - Mẹ bảo con lần nữa là đừng có quấy rầy mẹ trong khi mẹ bận Làm. Con đừng nói gì nữa, con cứ về phòng riêng bỏ miếng da che Mặt xuống, mặc chiếc áo lụa vào, chiếc áo mà con mặc khi con đến Với mẹ, rồi cứ đợi ở trong phòng cho đến khi mẹ gọi ra.
     Nhưng để tôi kể cho các bạn nghe về việc vua và hoàng hậu Cùng bá tước ra đi tìm bà già ở bãi hoang. Ban đêm, vào rừng, bá Tước bị lạc vua và hoàng hậu nên phải đi một mình. Chàng đi mãi Đến xẩm tối. Chàng trèo lên một cây định ngủ qua đêm vì lo lạc Đường. Ánh trăng vừa tỏ xuống, sáng khắp vùng thì chàng thấy có Một bóng người thẫn thờ từ trên núi xuống. Người đàn bà không Cầm roi trong tay nhưng chàng nhận ra ngay là bác chăn ngỗng mà Chàng đã gặp ở nhà bà già trước kia. Chàng kêu lên:
     - Chà, mụ ấy đây rồi. Ta đã vớ được mụ phù thủy này thì mụ Kia cũng không thoát được đâu.
     Chàng rất ngạc nhiên khi thấy mụ đến bên suối, bỏ tấm da che Mặt ra rửa thì mớ tóc vàng xõa xuống cả người. Trên đời, chàng Chưa từng thấy có ai đẹp thế. Chàng nín thở, cố vươn cổ qua cành lá Nhìn không chớp mặt. Không hiểu tại chàng vươn quá xa hay tại Duyên cớ gì khác, bỗng cành cây kêu đánh rắc một cái và ngay lúc Đó cô gái lại đeo bộ da mặt vào, nhảy như con hoẵng khỏi nơi đó. Cùng lúc ấy, mây che khuất mặt trăng, chàng không nhìn thấy Nàng nữa.
     Nàng vừa biến mất thì bá tước trèo xuống, rảo bước theo sau. Chàng đi được một lát thì thấy bóng tối lờ mờ, hai bóng người đi Trên đồng cỏ. Đó là vua và hoàng hậu. Hai người nhìn thấy xa xa có ánh đèn trong chiếc nhà nhỏ của bà già bèn đi lại đó. Bá tước kể lại Những điều kì lạ chàng được nhìn thấy bên suối và hai người đinh Ninh đó là cô con gái bị lạc. Họ vui mừng đi tiếp và chẳng mấy chốc Tới căn nhà con. Chung quanh nhà, ngỗng nằm ngủ, đầu ấp vào Cánh, không con nào động đậy. Họ nhìn qua cửa sổ thấy bà lão ngồi Yên lặng, kéo sợi, đầu gật gù, không nhìn ngang ngửa.
     Trong buồng sạch sẽ y như là nơi ở của những người ngoài trần Tục, chân không dính một tí bụi nào. Nhưng họ không nhìn thấy con Gái bà đâu cả. Họ đứng nhìn mọi thứ một lúc rồi đánh bạo, khẽ gõ Cửa sổ.
     Hình như bà lão vẫn chờ họ nên bà đứng dậy một cách niềm Nở: - Xin các vị cứ việc vào, già biết các vị rồi.
     Khi họ vào buồng rồi bà lão nói:
     - Nếu cách đây ba năm, các người đừng đuổi đưa con ngoan Ngoãn dễ thương một cách bất công thì có phải đỡ một quãng đường Dài không? Kể ra thì cũng chẳng thiệt hại gì cho cô ta, cô phải chăn Ngỗng ba năm thôi. Cô chẳng tiêm nhiễm điều gì xấu cả, cô vẫn giữ Được tấm lòng trong sạch. Các người đã bị trừng phạt khá đủ rồi vì Đã sống trong lo sợ.
     Nói rồi, bà lão đi đến phòng gọi:
     - Con ơi ra đi con.
     Cửa mở, công chúa đi ra, mặc áo lụa, tóc vàng mắt sáng ngời. Nàng đi tới cha mẹ, ôm choàng lấy cổ hôn. Lẽ dĩ nhiên là tất cả mọi Người đều khóc vì vui mừng. Vị bá tước trẻ tuổi đứng bên họ. Khi Nàng nhìn thấy chàng thì mặt nàng đỏ ửng như đỗá hoa hồng, chính Nàng cũng không biết tại sao.
     Vua bảo:
     - Con yêu dấu ơi, biết lấy gì cho con bây giờ, giang sơn của cha, Cha đã cho đi hết rồi.
     Bà lão nói: - Nàng không cần gì đâu. Già đã tặng cho nàng những giọt lệ Đã vì các người mà khóc. Đó toàn là ngọc cả, đẹp hơn hạt châu dưới Bể, quí giá hơn tất cả giang sơn nhà vua. Để trả công hầu hạ của Nàng, già để cho nàng căn nhà con của già.
     Bà lão nói xong thì biến mất. Ở trên tường có tiếng nổ khe khẽ, Họ nhìn quanh thì thấy căn nhà nhỏ đã biến thành một tòa lâu đài Rực rỡ, tiệc hoàng gia dọn linh đình, kẻ hầu người hạ chạy đi chạy Lại tới tấp.
     Câu chuyện còn tiếp diễn, bà tôi kể chuyện này trí nhớ kém Quá nên quên mất đỗån sau. Thôi thì tôi cứ cho là nàng công chúa Đẹp đẽ lấy bá tước, hai vợ chồng ở lại lâu đài, hưởng phúc trời cho. Tôi không rõ nhưng tôi không ngờ những con ngỗng trắng như Tuyết chăn ở bên nhà cũng đều là những cô thiếu nữ (xin đừng ai Mếch lòng) mà bà cụ đã đem về nuôi, và có lẽ các cô ấy cũng đã hiện Nguyên hình để làm thị nữ cho bà hoàng hậu trẻ tuổi.
     Có một điều chắc chắn là bà lão không phải là một mụ phù Thủy như người ta tưởng mà là một bà lão tốt bụng. Rất có thể đó là Bà mụ khi sinh ra công chúa đã chúc cho nàng khóc ra châu lệ chứ Không phải nước mắt thường. Ngày nay truyện ấy không xẩy ra Nữa, nếu không thì người nghèo khó chẳng mấy chốc trở nên giàu Có.
     Các em có bao giờ ăn cơm mà không có muối chưa, chắc là chưa Đúng không nào? Vậy các em hãy thử bảo bố mẹ làm các món ăn mà Không cho muối xem sao! Ta coi muối là rất bình thường trong các Bữa ăn mà không biết nó quý giá đến chừng nào. Từ đó các em có Thể đỗán được tại sao nàng công chúa út lại quý cha như muối.
   
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 20:29:16 | Chỉ xem của tác giả
Chú mèo đi hia

Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột, lừa đi lấy lúa về và chở bột đi, mèo thì bắt chuột. Khi bác chết, ba con chia nhau gia tài: con cả được cái nhà xay lúa, con thứ hai được con lừa, con thứ ba không còn gì khác đành lấy con mèo vậy.
Anh này buồn bã, nói một mình:
- Mình xí được phần tồi quá! Anh cả mình có thể xay bột, anh hai mình còn được cưỡi lừa, mình thì làm ăn gì được với con mèo!
Bất quá lột da nó làm được đôi bao tay là hết.
Mèo nghe hiểu hết, liền nói:
- Cậu ơi, cậu giết tôi lấy da làm đôi bao tay khổ làm gì? Cậu cứ bảo làm cho tôi một đôi hia để tôi ra ngoài cho nó đường hoàng thì rồi chả mấy lúc tôi sẽ làm cho cậu mở mày mở mặt.
Người con bác thợ xay thấy mèo nói vậy rất ngạc nhiên. Nhân có người thợ giày đi qua, anh gọi vào bảo đo chân mèo làm cho nó một đôi hia. Hia làm xong, mèo đi vào, lấy một cái bị, đổ đầy thóc xuống đáy, buộc miệng bị, rồi quẩy bị lên vai. Đỗån mèo bước ra cửa đi hai chân như người.
Lúc đó trong nước có một ông vua thích ăn chim đa đa. Nhưng tiếc thay không ai bắt được con nào. Rừng thì đầy chim đa đa, nhưng chim nhát quá, không người đi săn nào tới gần được. Mèo biết chuyện ấy, bèn nghĩ cách làm ăn cho khá hơn. Nó vào rừng mở bị, tãi thóc ra, để dây xuống cỏ, rồi luồn dây vào sau một bụi rậm. Nó cũng lẩn quất quanh ở đó để rình. Được một lát, chim đa đa bay đến, thấy thóc liền theo nhau nhảy vào bị. Khi được một số kha khá, mèo giật dây bắt được một số con chim. Rồi nó quẩy bị lên vai đi thẳng đến cung vua. Lính canh hô:
- Đứng lại! Đi đâu?
Mèo đáp gọn:
- Ta vào gặp nhà vua!
- Mày điên à? Mèo mà dám vào gặp nhà vua!
Một tên lính khác bảo:
- Thôi cứ để nó đi. Nhà vua thường hay buồn phiền biết đâu mèo gừ gừ lại chẳng làm cho hoàng thượng khuây khỏa. Mèo đến yết kiến nhà vua, cúi chào rồi tâu:
- Tâu bệ hạ, chủ tôi là bá tước...,- mèo bịa ra một cái tên quí phải thật dài, - xin trân trọng gửi lời chào hoàng thượng và xin kính dâng hoàng thượng một ít chim đa đa bẫy được. Vua thấy chim béo mừng rỡ, truyền lệnh cho mèo lấy vàng ở kho chất vào bị, tha hồ mang được bao nhiêu thì cứ việc lấy. Vua phán:
- Cho ngươi mang về biếu chủ ngươi và nói là ta đa tạ về món quá biếu.
Trong lúc đó, người con bác thợ xay lúa nghèo nàn, ngồi bên cửa sổ chống đầu vào tay nghĩ: còn bao nhiêu tiền đã bỏ ra sắm đôi hia cho mèo mất rồi, không biết có ăn thua gì không? Vừa khi ấy, mèo bước vào, bỏ bị xuống, cởi bị ra đổ vàng uống trước mặt chủ mà nói:
- Thưa cậu, đây có ít nhiều trả tiền đôi hia cho cậu. Nhà vua còn gửi lời chào và đa tạ cậu.
Anh ta mừng vì được của nhưng không hiểu đầu đuôi ra sao.
Mèo ta vừa tháo hia vừa kể lại chuyện và bảo:
- Giờ thì quả là cậu có đủ tiền rồi, nhưng không phải chỉ có thế thôi đâu. Đến mai tôi lại xỏ hia vào, cậu sẽ lại giàu có hơn nữa. Tôi cũng đã tâu với vua cậu là một vị bá tước.
Hôm sau, mèo lại y lời, đi hia cẩn thận rồi đi săn, mang đến cho vua một mớ chim đa đa. Ngày nào mèo cũng mang vàng về nhà, mèo được vua yêu quí, tha hồ ra vào cung điện.
Có lần mèo đứng sưởi bên lửa trong bếp nhà vua. Tên đánh xe vào và nguyền rủa: "Ma quỉ hãy bắt vua và công chúa đi cho rảnh! Ai lại mình định ra quán đánh chén và chơi bài một phen, thì lại phải đánh xe cho họ ra hồ chơi!".
Nghe vậy, mèo vội lén về nhà bảo chủ:
- Nếu cậu muốn thành bá tước và trở nên giàu có thì cậu hãy đi với tôi ra hồ, rồi xuống hồ mà tắm.
Chú thợ xay im lặng, đi theo mèo, cởi sạch quần áo nhảy xuống nước. Mèo lấy quần áo mang đi giấu một chỗ.
Vừa làm xong thì xe vua đi tới. Mèo liền lên tiếng than vãn nghe mà não ruột:
- Trời ơi! Tâu bệ hạ, bá tước chủ tôi đương tắm ở dưới hồ thì có một tên ăn trộm đến lấy quần áo để ở trên bờ. Chủ tôi đang ở dưới nước lên không được; nếu ở lâu nữa thì đến cảm mà chết mất thôi!
Vua nghe vậy, cho dừng xe lại, phán cho một tên hầu chạy về lấy bộ quần áo của nhà vua. "Bá tước" mặc bộ quần áo lộng lẫy vào.
Nhà vua biệt đãi chàng vì cứ tưởng chàng biếu chim đa đa là bá tước thật, và cho chàng ngồi lên xe. Công chúa cũng lấy làm thích vì bá tước vừa trẻ vừa xinh trai, lại dễ thương. Mèo đi trước tới một cánh đồng cỏ rộng mênh mông có trên một trăm người đương cắt cỏ. Mèo hỏi:
- Cánh đồng nhà ai thế?
- Của thầy phủ thủy đấy.
Mèo dặn họ:
- Các bác này, nhà vua sắp đi xe qua đấy. Nếu vua hỏi cánh đồng cỏ của ai thì các bác cứ đáp là của bá tước nhé. Nếu các bác không nói thế là bị đánh chết tươi đấy.
Mèo lại đi nữa, tới một cánh đồng lúa bát ngát ai đi qua cũng phải để ý. Có tới trên một trăm người đang gặt lúa. Mèo hỏi:
- Các bác ơi, lúa nhà ai thế?
- Của thầy phù thủy đấy.
Mèo dặn:
- Các bác này, nhà vua sắp đi xe qua đấy. Nếu vua hỏi lúa của ai thì các bác cứ đáp là của bá tước nhé. Nếu các bác không nói là bị đánh chết tươi đấy.
Mèo đi mãi tới một khu rừng đẹp, có trên ba trăm người đang đẵn những cây sồi to để lấy củi.
Mèo hỏi:
- Các bác ơi, rừng nhà ai thế?
- Của thầy phù thủy đấy.
Mèo dặn:
- Các bác này, nhà vua sắp đi xe qua đấy. Nếu vua hỏi rừng của ai thì các bác cứ đáp là của bá tước nhé. Nếu các bác không nói thế thì bị giết hết đấy.
Mèo lại đi nữa. Mọi người đều nhìn theo thấy mèo có vẻ kỳ dị, nom như người đi hia thì sợ lắm. Một lát sau mèo tới lâu đài của thầy phủ thủy, ngang nhiên tiến vào. Lão phù thủy nhìn mèo một cách khinh khỉnh hỏi nó muốn gì.
Mèo vái chào nói:
- Tôi nghe nói ông có thể tùy ý muốn biến ra con vật gì cũng được. Tôi tin là biến ra chó, cáo hay cả chó sói thì còn được, chứ biến thế nào ra voi được. Do đó tôi đến tận nơi để xem có đúng không.
Lão phủ thủy dương dương tự đắc đáp:
- Làm quái gì cái vặt ấy.
Rồi trong nháy mắt lão biến ra voi.
Mèo bảo:
- Khá lắm, nhưng có biến ra sư tử được không?
Lão phù thủy đáp:
- Dễ không!
Rồi lão biến ra sư tử.
Mèo làm ra bộ sợ hãi kêu lên:
- Thật là trên trời đất chưa từng thấy! Ngay trong giấc mơ, tôi cũng chưa từng thấy. Nhưng nếu thầy biến ra thành một con vật nhỏ như con chuột thì mới thật là tài thánh. Thầy nhất định là giỏi hơn các thầy phù thủy trên đời, nhưng chắc không làm nổi đâu.
Lão phủ thủy nghe phỉnh bùi tai, có vẻ thích lắm nói:
- Này chú mèo thân mến ạ, việc đó ta cũng làm được.
Lão biến ra con chuột nhắt nhảy tung tăng trong buồng. Mèo theo sau vồ lấy chuột ăn.
Vua cùng bá tước và công chúa đi xe tới cánh đồng cỏ mênh mông.
Vua hỏi:
- Cỏ của nhà ai đấy?
Mọi người đều trả lời theo mèo dặn:
- Tâu bệ hạ, của đức ông bá tước ạ.
Vua phán:
- Bá tước có mảnh đất đẹp quá.
Tới cánh đồng lúa bát ngát, vua hỏi:
- Lúa nhà ai đấy chúng bay?
- Tâu bệ hạ, của đức ông bá tước ạ.
Vua phán:
- Chà chà! Đất vừa rộng đẹp quá.
Tới rừng, vua hỏi:
- Rừng nhà ai thế chúng bay?
- Tâu bệ hạ, của đức ông bá tước ạ.
Vua càng ngạc nhiên hơn nữa bảo:
- Bá tước ạ, bá tước hẳn là giàu lắm. Ta chưa chắc đã có một khu rừng đẹp đến thế.
Đi tới lâu đài thì đã thấy mèo đứng đợi ở đầu cầu thang. Xe vừa đỗ, mèo đã nhảy xuống mở cửa nói:
- Tâu bệ hạ, đây là lâu đài của bá tước chủ tôi. Bệ hạ tới đây thật là hân hạnh suốt đời cho chủ tôi.
Vua xuống xe, ngạc nhiên thấy tòa nhà lộng lẫy, to hơn và đẹp hơn cả cung điện của mình. Bá tước dẫn công chúa vào phòng tiếp tân sáng loáng vàng ngọc châu báu. Công chúa đính hôn với bá tước và khi vua mất, bá tước lên nối ngôi, phong cho mèo đi hia làm tể tướng.
Câu chuyện kỳ lạ về chú mèo thông minh biết nói giúp các em một điều: Ta không nên coi thường các con vật nuôi trong nhà vì chúng có thể giúp ích cho chúng ta. Các em hãy yêu quý những con vật sống xung quanh mình nhé.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 20:30:01 | Chỉ xem của tác giả
Cô bé quàng khăn đỏ

Ngày xưa có một cô bé thùy mị, ai thấy cũng yêu. Yêu nhất vẫn là bà, có gì bà cũng đem cho cháu. Bà cho cháu một chiếc khăn quàng bằng nhung đỏ. Chiếc khăn hợp với cô quá đi mất, đi đâu cô cũng quàng. Vì vậy người ta gọi cô là Cô bé quàng khăn đỏ.
Một hôm, mẹ bảo cô:
- Khăn đỏ con ạ, đây có miếng bánh và chai rượu vang. Con mang đến cho bà nhé. Bà ốm yếu, mang biếu bà để bà xơi cho lại người. Con đi đi kẻo lát nữa nắng. Con đi cho ngoan, đừng có đi lung tung ra khỏi đường cái kẻo vỡ chai, không có gì mang đến biếu bà. Vào buồng bà thì con nhớ chào bà, đừng có vội mắt là mày lét nhìn khắp các xó nhà
Khăn đỏ bảo mẹ:
- Con sẽ làm đầy đủ như mẹ dặn.
Rồi cô bé chào mẹ ra đi.
Nhà bà Khăn đỏ ở trong rừng, đi khỏi làng độ nửa giờ. Khăn đỏ vào rừng thì gặp chó sói. Em không biết sói là một con vật độc ác nên không sợ.
Sói chào Khăn đỏ. Khăn đỏ chào lại. Sói hỏi:
- Cháu Khăn đỏ đi đâu sớm thế?
- Cháu đi đến nhà bà.
- Cháu mang gì ở khăn gói thế?
- Bánh và rượu vang đấy. Hôm qua ở nhà làm bánh. Bà ốm, cháu mang đến để bà xơi cho khỏe người.
- Bà cháu ở đâu, cháu Khăn đỏ?
- Đi vào rừng độ mười lăm phút nữa thì tới. Nhà ở dưới ba cây sồi to, mé dưới có nhiều bụi dẻ. Bác biết chứ! Sói nghĩ bụng: "Cái mồi non này hẳn là béo ngon hơn mụ già
kia". Hắn tự nhủ phải lập mưu chén được cả hai. Hắn mon men lại gần Khăn đỏ bảo:
- Này cháu Khăn đỏ ạ, cháu hãy nhìn những bông hoa tươi đẹp quanh đây. Sao cháu không chịu nhìn một tí? Bác chắc là cháu chẳng bao giờ để ý nghe chim hót véo von nhỉ. Cháu đi đâu mà cứ đăm đăm như đi học thế. ở trong rừng là vui lắm nhé!
Khăn đỏ mở to mắt ra nhìn. Em thấy ánh nắng rập rờn qua cành cây, hoa tươi la liệt, em nghĩ bụng giá mang bó hoa tươi đến tặng bà chắc bà thích lắm. Trời còn sớm thế nào đến chả kịp. Em bèn ra khỏi đường rẽ vào rừng hái hoa. Hái được một bông, em nghĩ là vào sâu chắc có bông đẹp hơn, và em lại mon men đi tới. Cứ thế mãi, càng ngày em càng tiến sâu vào rừng.
Chó sói đi thẳng tới nhà bà cụ, gõ cửa.
- Ai đấy?
- Cháu Khăn đỏ đây, bà mở cửa cho cháu bà ơi. Cháu mang lại cho bà bánh và rượu vang đây.
Bà nói:
- Thì cháu cứ việc đẩy then mà vào. Bà yếu quá không dậy được đâu.
Sói đẩy then cửa, cửa mở tung. Nó chẳng nói chẳng rằng, đến thẳng giường bà, nuốt chửng bà. Rồi nó mặc quần áo bà, đội mũ bà, nằm vào giường bà, kéo rèm che lại.
Khăn đỏ tha thẩn chạy đi hái hoa. Mãi đến lúc hái nhiều quá mang không xuể, nó mới chợt nhớ đến bà, vội lên đường đi đến nhà bà. Nó thấy cửa mở, lạ lắm. Nó vào phòng thấy có gì khang khác. Nó nghĩ bụng sao hôm nay ở nhà bà lại cảm thấy rờn rợn, không thấy thoải mái như mọi khi. Nó chào bà nhưng không thấy có tiếng đáp. Cô bé lại bên giường, kéo rèm ra, thì thấy bà nằm, mũ kéo chùm kín mặt, trông lạ quá.
Cô bé nói:
- Bà ơi bà! Sao tai bà to thế?
- Tai bà to để nghe cháu rõ hơn.
- Bà ơi bà! Sao mắt bà to thế?
- Mắt bà to để nhìn cháu rõ hơn.
- Bà ơi bà! Sao tay bà to thế?
- Tay bà to để bà ôm cháu chặt hơn.
- Úi trời ơi, sao mồm bà to thế kia?
- Mồm bà to để bà ăn cháu ngon hơn.
Sói nói xong liền nhảy ra khỏi giường, nuốt chửng em bé Khăn đỏ đáng thương.
Sói đã no nê lại nằm xuống giường ngủ ngáy o o. Có người đi săn qua nhà nghĩ bụng:
- Quái! Sao bà lão ngáy to thế này, phải tạt vào xem bà ấy có làm sao không.
Bác bước vào phòng, đến giường thì thấy sói đang nằm. Bác ta nói:
- Con quỷ tội lỗi này, thì ra tao lại gặp mày ở đây. Tao tìm mày mãi...
Bác giơ súng lên định bắn. Nhưng bác chợt nghĩ ra là chắc sói đã ăn thịt bà lão, và tuy vậy vẫn còn có cơ cứu bà. Bác nghĩ không nên bắn mà nên lấy kéo rạch bụng con sói đang ngủ ra. Vừa rạch được vài mũi thì thấy chiếc khăn quàng đỏ chóe, rạch được vài mũi nữa thì cô bé nhảy ra kêu:
- Trời ơi! Cháu sợ quá! Trong bụng sói, tối đen như mực.
Bà lão cũng còn sống chui ra, thở hổn hển. Khăn đỏ vội đi nhặt đá to nhét đầy bụng sói. Sói tỉnh giấc muốn nhảy lên, nhưng đá nặng quá, nó ngã khuỵu xuống, lăn ra chết.
Ba người đều vui mừng. Người đi săn lột lấy da sói mang về nhà. Bà lão ăn bánh, uống rượu vang của Khăn đỏ mang đến và cảm thấy lại sức. Khăn đỏ nghĩ bụng: "Từ nay trở đi, mẹ đã dặn gì là phải nghe mẹ, không bao giờ được rời khỏi đường chạy một mình vào rừng sâu".
Có một người còn kể là có lần Khăn đỏ lại mang bánh đến cho bà thì có một con sói khác đến nói chuyện với nó, định lừa cho nó rời khỏi đường. Khăn đỏ đã đề phòng, cứ đi thẳng. Khăn đỏ đến nói cho bà biết là em đã gặp sói chào em, mắt trông rất ác.
- Nếu không phải ở đường cái thì nó đã ăn thịt cháu rồi.
Bà bảo:
- Cháu vào đây ta đóng cửa lại kẻo nó vào.
Được một lát, chó sói đên gõ cửa gọi:
- Bà ơi, bà mở cửa cho cháu. Cháu là Khăn đỏ mang bánh lại đây.
Hai bà cháu im lặng không mở cửa. Con vật đầu xám bèn rón rén đi quanh nhà mấy lần. Rồi nó nhảy lên mái nhà, định đợi đến chiều tối, khi nào Khăn đỏ ra về thì sẽ lén đi theo sau, và sẽ ăn thịt cô bé trong bóng tối. Nhưng bà cụ biết rõ ý định của nó. Ở trước cửa nhà có một cái máng nước bằng đá. Bà bảo cháu:
- Cháu đi lấy thùng, Khăn đỏ ạ. Hôm qua bà làm xúc xích.
Cháu đi xách nước nấu xúc xích đổ vào trong máng ấy.
Khăn đỏ xách nước xúc xích đổ mãi cho đên khi chiếc máng to đã đầy. Lúc đó mùi thơm điếc mũi sói, sói nhìn xuống hít mãi. Nó thò mãi cổ xuống, không kìm người được nữa, trơn tuột từ mái nhà rơi đúng vào cái máng to và chết đuối. Khăn đỏ vui vẻ về nhà, không bị ai đụng đến.
Các em đã bao giờ không nghe lời mẹ chưa? Cô bé quàng khăn đỏ không nghe lời mẹ dặn, chơi la cà dọc đường nên mới bị sói lừa ăn thịt. Khi làm việc gì thì các em phải làm đến nơi đến chốn và tuyệt đối nghe theo lời người lớn thì sẽ không bao giờ bị sói ăn thịt như cô bé quàng khăn đỏ đâu!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 20:30:43 | Chỉ xem của tác giả
Chú bé tí hon

Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ:
- Vợ chồng mình hiếm hoi thật là buồn. Nhà mình tẻ ngắt, còn các nhà láng giềng thì thật là vui vẻ nhộn nhịp.
Bác gái thở dài đáp:
- Giá như được một đứa con dù bé bằng ngón tay cái, tôi cũng thỏa lòng, chắc vợ chồng mình sẽ yêu quí nó lắm nhỉ.
Được ít lâu, người vợ thụ thai và bảy tháng sau sinh được một thằng bé đầy đủ mặt mũi chân tay, nhưng chỉ vừa bằng ngón tay cái.
Hai vợ chồng nói:
- Thật đúng như lời ước nguyện. Vợ chồng mình sẽ yêu quí nó lắm nhỉ.
Vì nó bé bằng ngón tay cái nên họ đặt tên nó là Tý hon.
Tuy hai vợ chồng cho con ăn uống đầy đủ, con vẫn không nhỉnh lên một chút nào cả, cứ nguyên như lúc đẻ ra. Được cái mắt nó sáng, có vẻ thông minh. Chẳng bao lâu nó đã khôn ngoan khéo léo, làm gì cũng được.
Một hôm người bố sửa soạn vào rừng đẵn củi, miệng lẩm bẩm:
"Giá ta có người đánh xe hộ có thích không". Tý hon bèn thưa rằng:
- Bố ạ, con đánh xe được, bố cứ tin ở con, thế nào xe cũng đến rừng đúng lúc.
Bố cười nói:
- Con đánh xe thế nào được! Con bé quá, không cầm nổi cương đâu.
- Không sao bố ạ. Nếu mẹ con thắng ngựa vào cho con, con sẽ ngồi vào tai nó. Con thét một tiếng là nhất định nó phải đi.
Bố nói:
- Được, để thử xem.
Mẹ thắng ngựa và đặt Tý hon vào tai ngựa. Nó thét "Tắc, tắc" cho ngựa chạy. Thế là ngựa chạy như có người đánh xe thật, và xe cứ lên đường chạy vào rừng.
Khi xe rẽ ở một chỗ ngoặt, Tý hon thét: "Tắc, tắc" thì có hai người lạ mặt chạy đến.
Một người nói:
- Trời ơi, không thấy người đánh xe mà xe cứ đi, lại nghe thấy tiếng người đánh xe. Quái lạ nhỉ:
Người kia cũng nói:
- Ừ, cũng lạ thật, ta thử đi theo xem xe ở chỗ nào.
Xe chạy thẳng một mạch vào rừng rồi dừng lại đúng chỗ có củi đã đẵn.
Tý hon thấy bố gọi:
- Bố ơi, bố thấy chưa, con đã đưa xe đến đây, bố cho con xuống đi.
Bố chạy đến, tay trái nắm cương ngựa, tay phải nhấc con ra khỏi tai ngựa, rồi đặt con xuống. Tý hon vui vẻ ngồi lên một cọng rơm.
Trông thấy Tý hon hai người lạ mặt sửng sốt không nói lên lời.
Một người kéo bạn ra một chỗ bảo:
- Này, nếu ta đem thằng nhóc này đi làm trò ở tỉnh to thì phát tài đấy. Ta mua nó đi.
Hai người bèn đến bảo bác nông dân:
- Ông bán cho chúng tôi thằng bé này, chúng tôi sẽ chăm sóc nó cẩn thận.
Người bố đáp:
- Không, nó là khúc ruột cắt đôi của tôi. Bạc vàng trên cả thế gian này đối với tôi cũng không bằng được.
Nghe thấy hai người hỏi mua, Tý hon níu lấy quần áo bố trèo lên vai nói thầm:
- Bố ơi, bố cứ bán con đi, thế nào rồi con cũng về được.
Ông bố liền bán con lấy một số tiền to.
Hai người kia hỏi Tý hon:
- Mày muốn ngồi đâu?
- Khó gì đâu, cứ để cháu lên vành mũ, cháu sẽ đi đi lại lại trên
ấy xem phong cảnh, cháu không ngã đâu mà ngại.
Một người đặt nó lên vành mũ.
Sau khi Tý hon đã chào bố, họ đem nó đi, đi mãi. Đến xâm xẩm tối, Tý hon nói:
- Cho cháu xuống đất một lát, cháu cần lắm.
Người mang nó trên mũ nói:
- Cứ việc ở trên ấy, không có gì phiền bác đâu, chim thỉnh thoảng vẫn ỉa trên ấy mà!
Nó nói:
- Không mà, cháu cũng biết cư xử thế nào cho phải, ông cho cháu xuống mau mau đi.
Người ấy cất mũ, nhắc Tý hon xuống ruộng gần vệ đường. Nó lẩn ngay vào giữa những cục đất, rúc vào một cái hang chuột. Rồi nó lên tiếng chế hai người kia:
- Thôi chào hai ông, hai ông về với nhau nhé.
Hai người lấy gậy chọc vào hang chuột để bắt nó, nhưng mất công toi vì Tý hon bò vào sâu quá.
Trời đã tối hẳn, hai người đành bỏ về tay không. Khi họ đi rồi, Tý hon chui ở hang ra. Nó nghĩ bụng: "Đêm tối mà cứ chuệnh choạng ngoài đồng thì nguy, vỡ đầu gãy cẳng như chơi". May sao nó vấp phải một cái vỏ sên. Nó chui vào nói:
- Lạy chúa, đêm nay con có chỗ ngủ yên rồi.
Vừa chợp mắt, thì nó nghe thấy tiếng hai người đi qua. Một người nói:
- Làm thế nào mà ăn trộm được vàng bạc của lão cha xứ giàu sụ nhỉ? Tý hon nói xen vào:
- Để tôi bày mưu cho.
Một tên trộm hốt hoảng nói:
- Cái gì thế? Tao vừa nghe thấy tiếng người nói:
- Các bác cứ đi theo, tôi sẽ giúp cho.
- Nhưng mày ở chỗ nào cơ?
- Các ông cứ tìm tôi ở dưới đất, chỗ nào có tiếng nói ấy.
Bọn kẻ trộm tìm mãi mới thấy Tý hon. Chúng nhấc nó lên hỏi:
- Mày liệu giúp chúng tao được việc gì hở nhãi?
- Cháu sẽ luồn qua chấn song cửa sổ nhà cha xứ. Các bác muốn lấy gì cháu chuyền ra cho chứ gì.
- Được. Để xem tài mày ra sao.
Khi kẻ trộm đến nhà cha xứ, Tý hon chui vào buồng, rồi thản nhiên hỏi rõ to:
- Các bác có muốn khoắng sạch cái buồng này không?
Bọn kẻ trộm sợ hãi bảo nó:
- Nói khẽ chứ, người ta thức dậy bây giờ!
Nhưng Tý hon vẫn tảng lờ như không nghe tiếng lại hỏi to:
- Các bác muốn lấy gì, khoắng sạch nhé?
Bà cụ làm bếp ngủ ở buồng bên cạnh nghe thấy ngồi nhỏm dây, lắng tai nghe. Bọn kẻ trộm hốt hoảng toan lẩn ra nhưng lại trấn tĩnh, cho là Tý hon trêu mình thôi. Chúng trở lại khẽ bảo:
- Thôi nào đừng đùa nữa. Có gì thì chuyển ra đi nào!
Tý hon lại kêu thật to:
- Cháu chuyển tất cả nhé, giơ tay ra mà đón lấy.
Lần này bà già nghe thấy rõ mồn một, bước xuống giường lò mò ra cửa. Kẻ trộm vội chạy bán sống bán chết như có ma đuổi. Bà già không thấy gì, đi thắp nến. Khi bà trở lại, Tý hon đã trốn vào đống cỏ. Bà lục soát mọi chỗ không thấy gì, tưởng là mình mê ngủ, lại lên giường nằm.
Tý hon nằm co ro trong đám cỏ khô, định ngủ đến sáng mai rồi về nhà. Nhưng định thế này lại ra thế khác. Chà, ở đời thật lắm nỗi gian nan! Trời vừa tàng tảng sáng, bà già đã dậy cho súc vật ăn.
Trước tiên bà vào kho, lấy một ôm cỏ, đúng ngay chỗ Tý hon ngủ. Tý hon ngủ say quá, nên mãi đến khi vào mồm bò rồi mới thức giấc. Nó kêu lên:
- Trời ơi tôi đã ở trong cối bác nện dạ rồi.
Nhưng sau đó biết ngay là mồm bò rồi. Nó cố tránh cho khỏi bị nghiến, thì bị nuốt trôi vào dạ dày. Nó nghĩ bụng: "Gian nhà này không có cửa sổ, chẳng thấy mắt trời, đèn đóm gì cả!". Ở đây nó thấy khó chịu lắm, khổ nhất là cỏ cứ tuôn vào, chỗ ở ngày càng thêm chật hẹp. Nó sợ quá kêu to:
- Đừng tuôn cỏ tươi vào nữa! Đừng tuôn cỏ tươi vào nữa! Lúc đó, bà già đang vắt sữa bò, không trông thấy người mà lại nghe thấy tiếng nói y như tiếng đêm qua. Bà sợ quá, đang ngồi ghế, ngã lăn ra đổ hết sữa. Bà vội đi tìm cha xứ mách:
- Quái lạ, bò nhà biết nói cha ạ.
Cha xứ hỏi:
- Bà điên à?
Rồi cha xuống chuồng bò xem thực hư thế nào.
Cha mới bước vào, đã nghe thấy tiếng Tý hon kêu to:
- Đừng tuồn cỏ tươi vào nữa!
Cha xứ cũng đâm hoảng. Cho là bò bị quỷ ám. Cha sai giết bò.
Người ta làm thịt bò xong quẳng ra đống phân cái dạ dày có chứa Tý hon. Nó loay hoay mãi mới thò được đầu ra, lại gặp ngay sự chẳng lành: một con chó sói đói bụng qua đấy, nuốt chửng cả dạ dày lẫn nó. Tý hon vẫn yên trí nghĩ bụng:
- "Có lẽ sói này bảo được". Rồi từ trong bụng sói nó nói to:
- Cậu sói ơi, tôi muốn mách cậu một miếng ăn tuyệt ngon.
Sói hỏi:
- Ở đâu thế?
Tý hon bảo cho sói biết nhà bố mình ở đâu và nói:
- Cậu cứ chui qua cống vào bếp thì cậu sẽ tha hồ chén bánh ngọt, mỡ, xúc xích, đủ thứ.
Sói không đợi Tý hon phải nói hai lần. Đêm đến, sói vội chui qua cống vào bếp chén thả cửa. Sói ăn no phình bụng rồi, muốn ra không được, vì qua đường cũ không lọt nữa. Tý hon đã tính trước đến mức đó. Thế là ở trong bụng sói, Tý hon kêu la inh ỏi lên. Sói
nói:
- Mày có im đi không người ta thức dậy bây giờ.
Tý hon đáp:
- Úi chà, cậu đã chém thích rồi, tôi cũng phải tiêu khiển chứ.
Nói xong nó lại hét ầm lên.
Bố mẹ nó nghe tiếng, thức dậy chạy xuống bếp ngó qua keo vách thì thấy sói. Ông chạy đi lấy rìu, bà lấy hái. Lúc vào chồng bảo vợ:
- Bà đứng sau tôi, nếu tôi choảng một cái mà nó chưa chết ngay, thì bà đâm vào bụng nó nhé.
Tý hon nghe thấy tiếng bố, reo lên:
- Bố ơi, con ở trong bụng sói đấy.
Bố mừng quýnh nói:
- Lạy chúa! Đứa con vàng bạc của tôi đã về đây rồi.
Rồi bác bảo vợ vứt hái đi để con khỏi bị thương. Đỗån ông giơ rìu lên, giáng cho sói một nhát chết tươi. Sau bác lấy dao kéo mổ bụng sói, lôi Tý hon ra. Bác nói:
- Ở nhà bố mẹ lo cho con quá con ạ.
- Thưa bố, con đã đi đây đi đó nhiều, may mà nay con lại được thở không khí trong lành.
- Thế con đã đi những đâu?
- Bố ạ, con đã ở trong hang chuột, trong dạ dày bò, trong bụng sói, bây giờ con muốn ở nhà với bố mẹ.
Bố mẹ ôm hôn con mà rằng:
- Từ nay dù được bao nhiêu tiền, bố mẹ chẳng bán con nữa đâu.
Rồi bố mẹ cho con ăn uống và may quần áo mới cho nó, vì quần áo cũ đi nhiều đã rách hết.
Các em đã bao giờ giúp bố mẹ làm việc chưa? Nếu chưa thì các em thua chú bé Tý hon rồi đấy. Chú chỉ bé bằng ngón tay cái nhưng chú giúp bố mẹ chú rất nhiều việc nhờ vào trí thông minh. Các em sẽ giúp được bố mẹ nhiều việc tùy vào khả năng của mình để không bao giờ phải thua chú bé Tý hon nhé!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 20:31:25 | Chỉ xem của tác giả
Cô bé lọ lem

Có lần, bố đi chợ phiên hỏi hai con vợ kế muốn xin quà gì. Một cô xin quần áo đẹp, một cô xin ngọc. Bố lại hỏi:
- Thế Lọ lem con muốn gì nào?
- Thưa bố, trên đường về, có cành cây nào va vào mũ bố thì xin bố bẻ cho con.
Bố mua về cho hai con vợ kế quần áo đẹp và ngọc. Trên đường về, khi đi qua một bụi cây xanh, có cành cây dẻ va phải ông và lật mũ ông. Ông bẻ cành ấy mang về. Tới nhà, ông cho hai con vợ kế quà chúng xin và đưa cành dẻ cho Lọ lem. Lọ lem cảm ơn bố, đến mộ mẹ trồng cành dẻ lên, khóc lóc thảm thiết, nước mắt rơi xuống tưới ướt hết cành lá. Cành lớn rất mau thành một cây đẹp. Mỗi ngày, Lọ lem đến đó ba lần, lần nào cũng có con chim trắng tới đậu trên cây. Hễ cô ngỏ ý mong ước thứ gì thì chim vứt thứ ấy xuống cho cô. Một hôm, nhà vua mở hội ba ngày liền, mời tất cả các thiếu nữ xinh đẹp trong nước đến để Hoàng tử kén vợ. Hai cô con vợ kế nghe nói là mình cũng được đi thì mừng mừng rỡ gọi Lọ lem đến bảo:
- Mày hãy chải đầu đánh giày cho chúng tao, cài giày cho chắc để chúng tao đi cho chắc để chúng tao đi lea cưới ở cung vua. Lọ lem khóc lóc vâng lời, vì chính nó cũng muốn được đi cùng để nhảy. Nó xin mẹ kế cho đi. Mẹ kế bảo:
- Đồ Lọ lem bẩn thỉu nhơ nhuốc mà cũng đòi đi dự hội à! Mày làm gì có giày, có quần áo đâu mà nhảy?
Nó xin mãi thì mẹ kế bảo:
- Tao đổ một đấu đỗ xuống tro. Cho mày nhặt hai tiếng đồng hồ, xong thì đi.
Cô đi cửa sau vườn gọi:
- Hỡi chim câu ngoan ngoãn, hỡi chim gáy, hỡi tất cả các chim trên trời, hãy lại đây nhặt giúp em, đỗ ngon thì bỏ vào nồi, đỗ xấu thì bỏ vào cổ họng.
Lập tức có đôi chim bồ câu trắng bay qua cửa sổ nhà bếp vào, theo sau có chim gáy, rồi đến tất cả các chim trên trời rào rào bay tới đậu xuống quanh đống tro. Chim bồ câu gật gù rồi bắt đầu mổ lia lịa, những chim khác cũng mổ lia mổ lịa, nhặt đỗ tốt bỏ vào nồi.
Chỉ non nửa tiếng đồng hồ, chim đã làm xong xuôi cả và bay đi. Cô gái mang đỗ đến cho gì ghẻ, chắc mẩm được đi dự hội. Nhưng gì ghẻ bảo:
- Toi công thôi, Lọ lem ạ! Mày không đi cùng được đâu vì mày làm gì có quần áo mà nhảy? Chẳng nhẽ làm chúng tao xấu mặt vì quần áo của mày à?
Nói rồi, mụ quay phắt đi, vội vã cùng hai đứa con gái đài các ra đi.
Ở nhà không có ai, Lọ lem ra mộ mẹ, đến gốc cây dẻ gọi:
- Cây ơi, cây hãy rũ vàng rũ bạc xuống đây cho em.
Chim liền ném xuống cho cô một chiếc áo bằng vàng bằng bạc và một đôi hài lụa thêu chỉ bạc. Cô vội mặc quần áo vào đi dự hội.
Dì ghẻ và hai em không nhận được ra cô, tưởng là một nàng công chúa nào xa lạ vì cô mặc áo vàng trông đẹp lộng lẫy. Chúng không ngờ chút nào đó là Lọ lem, đinh ninh là cô vẫn lúi húi nhặt đỗ trong đống tro. Hoàng tử lại đón cô, cầm tay cô nhảy. Chàng không muốn nhảy với ai khác nữa, và không chịu rời tay cô ra. Có ai đến mời cô nhảy thì chàng nói:
- Đây là bạn nhảy cùng tôi.
Cô nhảy đến tối thì xin về. Hoàng tử ngỏ ý muốn đưa cô về vì chàng muốn biết cô thiếu nữ xinh đẹp này là con cái nhà ai. Cô gỡ tay Hoàng tử ra và nhảy vào chuồng bồ câu. Hoàng tử đợi đến khi ông bố đến liền bảo cô gái lạ mặt đã nhảy biến mất vào chuồng bồ câu.
Ông cụ nghĩ: phải chăng là Lọ lem?
Cụ bắt mang đến cho cụ rìu và mai để cụ chẻ tan chuồng ra. Chẻ xong chẳng thấy có ai ở trong. Họ về nhà thì thấy Lọ lem mặc quần áo nhem nhuốc ngồi trong đống tro, một ngọn đèn dầu tù mù cháy trên lò sưởi. Thì ra Lọ lem đã nhảy phắt ra khỏi chuồng bồ câu, chạy vội đến cây dẻ, cởi quần áo đẹp ra để trên mộ. Chim xuống cất đi ngay. Rồi cô lại mặc quần áo xám xì vào, ngồi trên đống tro trong bếp như cũ. Hôm sau, hội lại tiếp tục. Bố mẹ và hai em đi khỏi, Lọ lem lại đến cây dẻ gọi:
- Cây ơi, hãy rũ vàng rũ bạc xuống đây cho em.
Chim lại thả xuống một bộ quần áo lộng lẫy hơn hôm trước. Cô mặc quần áo ấy đến dự lễ. Cô đẹp quá, làm mọi người ngẩn người ra. Hoàng tử đã đợi cô, liền cầm tay cô và chỉ nhảy với cô thôi. Các người khác đến mời cô nhảy thì Hoàng tử bảo: "Đây là bạn nhảy của tôi".
Đến tối, cô xin về, Hoàng tử đi theo xem cô đến nhà nào, cô vội gạt Hoàng tử ra chạy vào vườn sau nhà. ở đấy có một cây lê to rất đẹp, chi chít những quả ngon lành. Cô trèo lên nhanh như sóc rồi đi đâu mất. Hoàng tử đợi đến khi ông bố đến bảo:
- Cô gái lạ mặt đã đánh tháo khỏi tay ta. Có leo cô ấy nhảy lên cây lê rồi.
Ông bố nghĩ:
- Phải chăng là Lọ lem!
Ông cho mang rìu đến, đẵn cây xuống, nhưng chẳng có ai trên cây.
Cả nhà vào bếp thì thấy Lọ lem nằm trong đống tro như không có việc gì xảy ra. Thì ra cô đã nhảy từ phía bên kia cây xuống, đem trả quần áo đẹp cho chim trên cây dẻ và mặc quần áo xám xì vào.
Đến ngày thứ ba, bố mẹ và các em đi khỏi, Lọ lem lại ra mộ mẹ bảo cây:
- Cây ơi, cây hãy rũ vàng rũ bạc xuống đây cho em.
Chim liền nhả xuống một bộ quần áo lộng lẫy nhất đời và một đôi hài toàn bằng vàng. Khi cô mặc vào đi dự lea, mọi người cứ thần người ra nhìn. Hoàng tử chỉ nhảy với cô, có ai mời cô nhảy thì chàng nói:
- Đây là bạn nhảy của tôi.
Đến tối, Lọ lem xin về. Hoàng tử định đưa về, nhưng cô lẩn nhanh như cắt, Hoàng tử đã nghĩ ra một mẹo là cho đổ nhựa thông lên thang. Khi cô nhảy đi thì chiếc giày bên trái dính lại. Hoàng tử cầm lên thì thấy chiếc hài xinh đẹp toàn bằng vàng.
Hôm sau, Hoàng tử mang hài đến tìm ông bố bảo:
- Ta chỉ lấy ai chân đi vừa chiếc hài này thôi.
Hai chị có đôi chân đẹp nên mừng lắm.
Cô cả mang giày vào buồng thử trước mặt mẹ. Nhưng cô không đút ngón chân cái vào được vì hài nhỏ quá. Mẹ liền đưa cho cô con dao bảo:
- Mày cứ chặt ngón cái đi. Mày thành hoàng hậu rồi thì cần gì đi bộ nữa.
Cô ta liền chặt ngón cái, nhét chân vào hài rồi cắn răng chịu đau, đến ra mắt hoàng tử. Hoàng tử nhận cô làm vợ đặt lên ngựa cùng về. Khi đi qua mộ thì đôi chim câu đậu trên cây dẻ kêu lên: Cúc cu cu!
Hoàng tử nhìn xem
Chiếc hài vấy máu.
Vì chân dài quá
Nên phải chặt chân
Chính cô dâu thật
Vẫn ở trong nhà!
Hoàng tử nhìn xuống chân cô thấy máu chảy, liền quay ngựa lại, đưa cô về nhà trả lại cho bố mẹ cô. Hoàng tử bảo không đúng là cô dâu thật, rồi cho cô em thử hài. Cô em thử hài thì may sao các ngón vào được lọt cả. Nhưng phải cái gót lại to quá. Bà mẹ đưa cho con dao bảo:
- Mày cứ chặt đi một miếng gót chân. Mày mà được làm hoàng hậu thì chả bao giờ phải đi chân nữa.
Cô gái chặt một miếng gót chân, cố đút chân vào hài, cắn răng chịu đau, ra gặp hoàng tử.
Hoàng tử đặt cô dâu lên ngựa đi. Đi qua cây dẻ đôi chim câu đậu trên cành hót:
Cúc cu cu!
Hoàng tử nhìn xem
Chiếc hài vấy máu.
Vì chân dài quá
Nên phải chặt chân
Chính cô dâu thật
Vẫn ở trong nhà!
Hoàng tử nhìn xuống thấy máu ở hài chảy ra, thấm đỏ cả tất trắng, quay ngựa, mang cô dâu trả về nhà bố mẹ cô mà bảo:
- Đây cũng chưa phải cô thật. Ông còn cô con gái nào khác
Ông bố đáp:
- Thưa Hoàng tử không ạ. Chỉ có con Lọ lem bé tí, xanh xao là con vợ cả đã chết. Thứ nó thì chả làm cô dâu được!
Hoàng tử bảo cứ cho gọi ra. Dì ghẻ thưa:
- Thưa hoàng tử, không nên. Nó bẩn thỉu quá, trông tởm lắm.
Hoàng tử nhất định đòi Lọ lem lên kỳ được. Cô rửa mặt mũi chân tay, đến cúi chào Hoàng tử. Hoàng tử đưa cho chiếc hài. Cô ngồi lên ghế đẩu, rút chân ra khỏi chiếc guốc gỗ thô kệch, đút chân vào chiếc hài vừa như in. Cô đứng dậy, Hoàng tử thấy mặt thì nhận ra cô gái xinh đẹp đã nhảy với mình bèn phán:
- Cô dâu thật đây rồi!
Dì ghẻ và hai con sợ quá, tái mặt đi. Hoàng tử đặt Lọ lem lên ngựa đi. Khi qua cây dẻ, đôi chim câu hót:
Cúc cu, hãy trông kìa!
Cúc cu cu!
Hoàng tử nhìn xem
Hài không có máu
Vì hài vừa quá
Không phải chặt chân
Đúng cô dâu thật
Hoàng tử đưa về.
Hót xong, đôi chim câu bay khỏi cây, xuống đậu trên vai cô Lọ lem, một con bên trái, một con bên phải.
Câu chuyện kể về một cô bé bị bà dì ghẻ đối xử rất độc ác nhưng rồi cô được hưởng hạnh phúc. Qua đó nói lên rằng ai sống nhân hậu thì luôn được giúp đỡ và được hưởng hạnh phúc, ai sống độc ác thì sẽ bị trừng trị. Câu chuyện đồng thời ca ngợi ca thiện và cái thiện luôn chiến thắng cái ác.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 20:31:58 | Chỉ xem của tác giả
Nàng Bạch tuyết

Ngày xửa, ngày xưa, giữa mùa đông giá rét, tuyết rơi trắng như bông có một bà hoàng hậu ngồi khâu bên cửa sổ khung gỗ mun, bà mải nhìn tuyết nên kim đâm phải tay, ba giọt máu rơi xuống tuyết.

Thấy máu đỏ pha lẫn tuyết trắng thành một màu tuyệt đẹp, bà nghĩ bụng: "Ước gì ta đẻ được một người con gái, da trắng như tuyết, môi đỏ như máu và tóc đen như gỗ khung cửa này".

Sau đó ít lâu, bà đẻ một cô gái trắng da như tuyết, môi đỏ như máu và tóc đen như mun; vì vậy bà đặt tên con là Bạch Tuyết. Bạch Tuyết vừa ra đời thì mẹ chết.

Một năm sau, vua lấy vợ khác. Bà này đẹp lắm nhưng kiêu căng tự phụ, độc ác và không muốn ai đẹp bằng mình. Bà có một cái gương thần, khi soi, bà hỏi:

Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?


Thì gương đáp:

- Tâu hoàng hậu, hoàng hậu đẹp nhất nước ạ.


Biết gương nói thật, bà rất sung sướng. Nhưng Bạch Tuyết càng lớn càng đẹp. Năm lên bảy, cô đã đẹp như tiên sa, đẹp hơn cả hoàng hậu.

Một hôm hoàng hậu lại hỏi gương:

Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?

Thì gương đáp:

Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.


Hoàng hậu nghe nói giật mình, ghen tức tái mặt đi. Từ đó mỗi khi thấy Bạch Tuyết, hoàng hậu lại tức điên lên.

Ngày ngày sự kiêu ngạo và lòng đố kỵ khiến mụ lúc nào cũng bứt rứt. Mụ cho gọi một người đi săn đến bảo:

- Ngươi hãy đem con bé này vào rừng cho khuất mắt ta. Giết chết nó đi, mang tim gan nó về đây cho ta.

Người đi săn vâng lệnh, đem cô bé đi. Khi bác lấy dao ra để chọc tiết thì cô bé vô tội van khóc:

- Bác ơi, bác đừng giết cháu, cháu xin ở lại trong rừng không về lâu đài nữa.

Thấy cô bé xinh đẹp quá, bác thợ săn thương hại bảo:

- Tội nghiệp, thôi cháu đi đi. Bác nghĩ bụng: "Rồi thú dữ cũng đến ăn thịt nó mất". Nhưng bác thấy hình như cất được một gánh nặng trong lòng vì không phải giết người.

Vừa lúc đó một con hoẵng nhỏ nhảy tới. Bác giết con hoẵng, lấy tim gan đem về nộp cho hoàng hậu, nói dối là tim gan Bạch Tuyết.

Người đàn bà độc ác đó sai đầu bếp xào xáo cho mụ ăn. Mụ đinh ninh đó là tim gan Bạch Tuyết, ăn kỳ hết.

Một mình thui thủi trong rừng sâu. Bạch Tuyết sợ hãi, cô cứ cắm đầu chạy, giẫm phải gai và đá nhọn, chảy cả máu chân. Thú dữ lượn quanh cô, nhưng không đụng chạm đến cô. Cô đi mỏi cả chân, chập tối, thấy một cái nhà nhỏ, liền vào để nghỉ.

Trong nhà, cái gì cũng bé tí ti, nhưng đẹp và sạch lắm. Trên bàn trải khăn trắng tinh có bảy cái đĩa con, một đĩa có một cái thìa con, một cốc con. Sát tường kê bảy chiếc giường nhỏ phủ khăn trắng như tuyết.

Bạch Tuyết đang đói và khát, liền ăn ở mỗi đĩa một tí rau, tí bánh, và uống ở mỗi cốc một hớp rượu vang, vì cô không muốn ai phải mất phần. Cô mệt quá, muốn đi ngủ, nhưng không giường nào nằm vừa, cái thì dài quá, cái lại ngắn quá. Cô thử đến cái thứ bảy mới thấy vừa, liền vào đó ngủ.

Tối mịt, các người chủ căn nhà mới về: đó là bảy chú lùn làm công việc đào mỏ. Họ thắp bảy ngọn nên lên. Họ cảm thấy có ai đã đến nhà.

Một chú nói: "Ai đã ngồi vào ghế của tôi?". Chú thứ hai nói: "Ai đã ăn ở đĩa của tôi?". Chú thứ ba nói: "Ai đã ăn ít bánh của tôi?". Chú thứ tư nói: "Ai đã ăn ít rau của tôi?". Chú thứ năm nói: "Ai đã dùng chiếc dĩa của tôi?". Chú thứ sáu nói: "Ai đã dùng dao của tôi?". Chú thứ bảy nói: "Ai đã uống vào cốc của tôi?".

Một chú nhìn quanh, rồi đi lại giường mình. Thấy có chỗ trũng ở đệm, chú bèn nói:

- Ai đã trèo lên giường tôi?

Những chú khác cũng lại giường mình và nói: "Có ai đã nằm vào giường của tôi?". Chú thứ bảy nhìn vào giường mình thấy Bạch Tuyết đang ngủ. Chú gọi các chú kia đến. Ai nấy đều ngạc nhiên.

Họ cầm bảy ngọn đèn soi Bạch Tuyết và reo lên: "Lạy chúa! Cô bé này đẹp quá". Các chú mừng lắm, để yên cho cô ngủ.

Sáng hôm sau, Bạch Tuyết dậy, thấy bảy chú lùn, cô hoảng sợ, nhưng họ thân mật hỏi:

- Cô tên là gì?

Cô đáp:

- Em là Bạch Tuyết.

Họ lại hỏi:

- Sao cô lại tới đây?

Cô kể cho họ nghe là gì ghẻ muốn giết cô, người đi săn đã để cho cô sống, cô đã chạy suốt ngày mãi cho đến khi thấy nhà họ.

Các chú lùn bảo cô:

- Cô có muốn giúp chúng tôi một tay, làm các việc trong nhà này không? Cô sẽ nấu nướng, làm giường, giặt giũ, khâu vá, thêu thùa, cô quét tước, dọn dẹp. Ở lại đây với chúng tôi, cô sẽ chẳng thiếu thứ gì.

Từ đó Bạch Tuyết ở với các chú lùn. Cô làm công việc nội trợ.

Sáng sớm, các chú lùn vào mỏ lấy quặng và vàng cho đến chiều tối, Bạch Tuyết làm thức ăn sẵn để cho họ về ăn. Suốt ngày, cô ở nhà một mình. Các chú lùn dặn cô:

- Cẩn thận đề phòng mụ gì ghẻ đấy! Thế nào rồi mụ cũng biết là cô ở đây. Đừng cho ai vào nhà đấy!

Về phần hoàng hậu, mụ cứ đinh ninh là đã ăn tim gan Bạch Tuyết, từ nay mình đẹp nhất đời.

Mụ ta lại hỏi gương:

Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?


Gương đáp:

Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Nàng ở khuất núi khuất non,
Tại nhà của bảy chú lùn xa xa.


Mụ giật mình vì biết rằng gương không bao giờ nói sai, người đi săn đã lừa mụ và Bạch Tuyết còn sống. Mụ lại nghĩ cách hại Bạch Tuyết. Mụ đứng ngồi không yên vì thấy mình chưa đẹp nhất nước.

Sau mụ tìm ra một kế: mụ bôi mặt và ăn mặc giả làm một bà lão bán hàng xén, không ai nhận ra được. Mụ cải trang rồi vượt bảy ngọn núi đến nhà bảy chú lùn kia, gõ cửa nói:

- Lão có hàng đẹp bán đây.

Bạch Tuyết nhìn qua cửa sổ nói:

- Chào bà, bà bán gì đấy?

- Toàn là của đẹp, dây buộc, áo lót đủ các màu.

Rồi mụ cho cô xem một chiếc ao lót chẽn bằng xa-tanh ngũ sắc. Bạch Tuyết nghĩ bụng: "Đây không phải là hoàng hậu, mình cho vào được". Cô bèn mở cửa cho mụ vào và mua chiếc áo lót.

Mụ bảo cô:

- Con ơi, con buộc vụng lắm, lại đây, bà buộc cho.

Bạch Tuyết không chút e ngại, để mụ buộc hộ. Mụ buộc thoăn thoắt, thít chặt quá, Bạch Tuyết không thở được nữa, ngã lăn ra đất, bất tỉnh nhân sự.

Mụ nói:

- Thế là hết đời con đẹp nhất.

Rồi mụ vội vã ra về.

Tối đến bảy chú lùn về nhà, thấy Bạch Tuyết nằm xoài trên mặt đất, không động đậy thì hoảng sợ lắm. Họ nhấc cô lên, thấy áo lót buộc chặt quá, bèn cắt đôi ra. Cô lại khe khẽ thở, rồi dần dần sống lại. Sau khi nghe cô kể chuyện vừa xảy ra, các chú lùn bảo cô:

- Bà già bán hàng kia đúng là mụ hoàng hậu độc ác. Từ rày cô phải cẩn thận, chúng tôi vắng nhà thì chớ có cho ai vào nhé.

Về tới nhà, mụ dì ghẻ vội đến trước gương và hỏi:

Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?


Gương đáp:

Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Nàng ở khuất núi khuất non,
Tại nhà của bảy chú lùn xa xa.


Nghe nói vậy, hoàng hậu cảm thấy máu sôi lên vì căm giận, mụ biết là Bạch Tuyết đã được cứu sống lại. Mụ nói: "Được rồi, thế nào tao cũng lập mưu trừ được mày". Rồi mụ phù phép làm một cái lược có thuốc độc và mặc giả làm một bà lão khác lần trước.

Mụ vượt bảy ngọn núi đi đến nhà bảy chú lùn, gỗ cửa và nói:

- Bà có hàng đẹp bán đấy.

Bạch Tuyết ngó qua cửa sổ, nói to:

- Bà đi đi, tôi không được phép cho ai vào đâu.

Mụ già nói:

- Thì ai cấm con xem cơ chứ?

Rồi nó giơ cho Bạch Tuyết xem cái lược có thuốc độc.

Cô thích cái lược quá, xiêu lòng chạy ra mở cửa. Mụ già nói:

- Để bà chải cho đẹp nhé.

Bạch Tuyết chẳng ngần ngại gì, để cho mụ chải đầu. Lược mới đụng vào tóc, Bạch Tuyết đã bị độc, ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự.

Con mụ gian ác nói:

- Thế là cô gái đẹp tuyệt vời đã đi đời nhà ma.

Rồi mụ bỏ đi.

May sao bấy giờ đã muộn. Chẳng mấy chốc, bảy chú lùn về. Thấy Bạch Tuyết nằm chết cứng dưới đất, họ nghi ngay thủ phạm là mụ dì ghẻ. Họ tìm thấy cái lược trên đầu Bạch Tuyết. Vừa gỡ lược ra thì Bạch Tuyết sống lại ngay, kể lại sự việc cho các chú nghe. Các chú dặn cô phải cẩn thận. Bất cứ ai đến cũng đừng mở cửa cho vào.

Hoàng hậu về nhà soi gương hỏi:

Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?


Gương vẫn trả lời như trước:

Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Nàng ở khuất núi khuất non,
Tại nhà của bảy chú lùn xa xa.


Nghe thấy thế, hoàng hậu tức điên lên, thét lên:

- Con Bạch Tuyết, mày phải chết.

Mụ vào một cái phòng rất kín trong lâu đài, nơi không ai được bước chân tới. Mụ tẩm thuốc độc vào một quả táo. Quả táo trông rất ngon, nửa đỏ nửa trắng, ai thấy cũng muốn ăn, nhưng cắn một miếng là chết tươi.

Sau khi đã chuẩn bị quả táo, mụ bôi mặt, ăn mặc giả làm một bà nông dân, vượt bảy ngọn núi đến nhà bảy chú lùn. Mụ gõ cửa.

Bạch Tuyết thò đầu qua cửa sổ, nói:

- Tôi không được phép cho ai vào đâu. Bảy chú lùn đã cấm rồi.

Mụ nông dân kia bảo:

- Thôi cũng được. Tôi có nhiều táo lắm. Để tôi cho cô một quả.

Bạch Tuyết nói:

- Không, cháu không được phép lấy gì đâu.

Mụ già nói:

- Cô sợ ăn phải thuốc độc ư? Trông đây này, tôi bổ quả táo ra làm đôi, cô ăn nửa đỏ chín rất đẹp, tôi ăn nửa trắng nhé.

Mụ già bỏ thuốc độc vào quả táo rất khéo, chỉ nửa đỏ có thuốc độc thôi. Bạch Tuyết thèm ăn quả táo quá, thấy mụ ăn táo mà không sao cả, cô bèn cầm lấy phần mụ đưa. Cô vừa cắn một miếng thì ngã lăn ra chết. Mụ gườm gườm nhìn cô, cười khanh khách, nói:

- Trắng như tuyết, đỏ như máu, đen như mun, lần này những thằng lùn hết đường cứu sống mày.

Khi về đến cung hoàng hậu hỏi :

Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?

Gương đáp:

- Tâu hoàng hậu, hoàng hậu đẹp nhất nước ạ.

Lúc đó, lòng mụ mới được thư thái, sự thư thái của kẻ đố kỵ.

Những chú lùn về nhà thấy Bạch Tuyết đã tắt thở nằm dài trên mặt đất. Họ nâng cô dậy, tìm xem có dấu vết chất độc nào không. Họ nới áo cho cô, chải đầu cho cô, lấy nước và rượu tắm rửa cho cô, nhưng chẳng ăn thua gì, cô chết thật rồi. Họ đặt cô lên giường. Cả

bảy người ngồi quanh thi hài than khóc ròng rã ba ngày. Họ muốn chôn cô, nhưng thấy sắc mặt cô tươi, má cô ửng hồng như người sống, thì nói: "Ai nỡ vùi cô xuống đất đen". Họ đặt xác cô vào một cỗ quan tài bằng thủy tinh, trông rõ mồn một, và khắc tên cô bằng chữ vàng, đề rõ cô là một nàng công chúa. Rồi họ đem quan tài lên núi, cắt phiên nhau canh gác. Đến cả loài vật cũng đến viếng Bạch Tuyết, trước hết là cú, rồi đến quạ, sau cùng là chim bồ câu.

Xác Bạch Tuyết để trong quan tài đã lâu mà sắc mặt vẫn tươi như ngủ, da vẫn trắng như tuyết, môi vẫn đỏ như máu, tóc đen như gỗ mun.

Một hôm, có Hoàng tử đi rừng về muộn, tới nhà các chú lùn xin ngủ nhờ. Hoàng tử trông thấy trên núi có chiếc quan tài trong có Bạch Tuyết, ngoài đề chữ vàng. Hoàng tử liền bảo các chú lùn:

- Các chú để cho ta cái quan tài kia, muốn lấy bao nhiêu ta cũng trả.

- Hoàng tử có trả chúng tôi một núi vàng, một biển bạc chúng tôi cũng không bán.

Hoàng tử nói:

- Thế thì các chú biếu ta vậy. Ta sẽ yêu nàng và chăm sóc nàng, coi nàng là người yêu của ta.

Nghe Hoàng tử nói thế, các chú lùn tốt bụng động lòng thương và bằng lòng cho. Hoàng tử sai thị vệ khiêng quan tài đi. Người khiêng vấp phải rễ cây, làm nẩy người Bạch Tuyết lên. Bạch Tuyết nôn miếng táo có thuốc độc ra.

Tức thì nàng sống lại, mở mắt, nâng nắp quan tài lên, ngồi nhỏm dậy, kêu lên:

- Trời ơi, đây là đâu?

Hoàng tử mừng rỡ nói:

- Nàng ở đây với ta.

Rồi Hoàng tử kể cho Bạch Tuyết nghe đầu đuôi câu chuyện.

Hoàng tử nói tiếp:

- Ta yêu nàng nhất đời. Nàng hãy về cung điện vua cha với ta, ta sẽ cưới nàng làm vợ.

Bạch Tuyết vui vẻ theo gót Hoàng tử về cung. Lễ cưới được cử hành rất long trọng.

Mụ dì ghẻ gian ác của Bạch Tuyết cũng được mới đến dự tiệc. Mụ ăn mặc lộng lẫy, đến gương soi và hỏi:

Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?


Gương đáp:

Tâu bà, bà đẹp tuyệt trần,
Nhưng bà hoàng mới muôn phần đẹp hơn.


Mụ dì ghẻ giận run lên. Mới đầu mụ toan không đi ăn cưới, nhưng mụ đứng ngồi không yên, sốt ruột đi xem mặt cô dâu.

Mụ bước vào và nhận ra ngay Bạch Tuyết, sợ quá đứng thần người ra, không nhúc nhích được, rồi quả tim độc ác của mụ vỡ tan, mụ lăn ra chết.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 20:33:22 | Chỉ xem của tác giả
Ngôi nhà trong rừng

Có một bác tiều phu nghèo sống với vợ và ba con gái trong túp lều nhỏ ven một khu rừng hẻo lánh. Một buổi sớm, lúc sắp đi làm bác dặn vợ: "Trưa nay mình để đứa lớn mang thức ăn vào rừng cho ta nhé, tôi về sợ làm không hết việc". Bác nói thêm: "Để nó khỏi lạc, tôi sẽ đem theo một túi kê rải dọc lối đi".

Mặt trời vừa lên tới giữa đỉnh đầu, cô con gái lớn xách một liễn cháo đầy lên đường. Nhưng lũ sẻ đồng và sẻ rừng, lũ sơn ca và họa mi, lũ sáo sậu và phù dung đã nhặt hết các hạt kê từ lâu rồi, cô bé không thể nào tìm được dấu hướng đường nữa. Cô cứ liều đi, mãi cho tới khi mặt trời đã lặn và đêm xuống nghe cây cối rì rào trong bóng tối, lại nghe tiếng cú rúc, cô bắt đầu sợ. Chợt cô thấy phía xa có ánh đèn lấp ló sau hàng cây. Cô nghĩ bụng chắc là ở đó có người, mình có thể tới xin ngủ được. Cô đi về phía ánh đèn. Chỉ một lúc sau, cô đã tới một ngôi nhà, cửa sổ có ánh đèn. Cô gõ cửa. Một giọng khàn khàn từ trong nói ra: "Cứ vào". Cô bước lên nền nhà tối mò gõ cửa. "Cứ vào đi". Lại có tiếng gọi. Cô mở cửa thấy một ông già tóc hoa râm ngồi bên bàn, đầu đặt lên hai bàn tay, chòm râu bạc rải qua mặt bàn gần đến đất. Lại có ba con vật đang nằm bên lò sưởi: một con gà mái, một con gà trống và một con bò sữa có bộ lông đốm sặc sỡ. Cô bé kể cho ông cụ nghe chuyện của mình và xin ngủ nhờ một đêm. Ông cụ quay lại hỏi mấy con vật:

Ới gà mái!
Ới gà trống!
Ới bò hoa lông đốm!
Chúng mày nghĩ sao?

"Được", mấy con vật đồng thanh trả, như thế là chúng mày đã bằng lòng. Ông cụ bảo: "Ở đây chẳng thiếu một thứ gì, con hãy xuống bếp nấu bữa ăn tối cho chúng ta đi".

Cô bé xuống bếp, thấy quả là thứ gì cũng thừa thãi. Cô nấu bữa ăn thật ngon, song quên khuấy mất mấy con vật. Cô bưng lên dọn trên bàn một bàn đầy rồi ngồi vào cùng ăn với ông cụ cho đỡ đói lòng. Ăn xong cô hỏi: "Con mệt lắm, giờ chỉ muốn nằm ngủ, giường ở đâu xin cụ chỉ giùm".

Mấy con vật đồng thanh đáp:

Cô đã ăn với cụ ấy,
Cô đã uống với cụ ấy,
Cô chẳng đoái tới bọn này
Giờ ngủ đâu, cô liệu lấy.

Ông cụ bảo cô bé: "Con cứ lên gác, sẽ thấy một cái phòng có hai cái giường, trải khăn trắng, ta cũng buồn ngủ rồi đây".

Cô bé trèo lên, giũ giường trải khăn xong, cô nằm quay ra ngủ không đợi ông già. Một lát sau ông cụ cũng lên soi đèn thấy cô đã ngủ say rồi, ông cụ lắc đầu, mở luôn một cái cửa hầm cho cô bé rơi xuống đó. Mãi hôm sau, bác tiều phu mới về nhà. Bác mắng bác gái đã để bác phải nhịn đói suốt ngày. Bác gái phân trần: "Có phải tại tôi đâu, con bé lớn đem bữa trưa cho mình. Chắc hẳn nó lạc đâu rồi, mai nó về".

Hôm sau trời chưa sáng, bác tiều phu đã dậy để lại đi rừng: bác dặn vợ để con gái thứ hai mang bữa trưa vào rừng cho bác. "Tôi sẽ đem theo một túi đỗ. Hột đỗ nhỉnh hơn hạt kê, dễ thấy hơn, không sợ con lạc nữa".

Đến trưa cô thứ hai đem bữa đến chỗ bố. Song cũng như ngày hôm trước, đỗ đã bị chim rừng ăn sạch rồi. Cô bé đi loanh quanh trong rừng, tối hôm đó cô cũng tới căn nhà có ông cụ râu bạc. Cô cũng xin ăn và xin trọ. Ông cụ quay lại hỏi ba con vật:

Ới gà mái!
Ới gà trống!
Ới bò hoa lông đốm!
Chúng mày nghĩ sao?

Ba con vật đồng thanh trả lời: "Được!". Mọi việc sau đó lại xảy ra hệt như hôm trước. Cô bé nấu một bữa ăn ngon, cùng ngồi ăn uống với ông cụ, song không đoái hoài gì tới ba con vật. Đến lúc cô hỏi chỗ ngủ. Ba con vật đồng thanh đáp:

Cô đã ăn với cụ ấy,
Cô đã uống với cụ ấy,
Cô chẳng đoái tới bọn này
Giờ ngủ đâu, cô liệu lấy.

Sau khi cô ngủ rồi, ông cụ lên nhìn cô lắc đầu. Ông cụ cũng cho cô tụt xuống hầm như cô chị.
Sáng hôm sau, bác tiều phu dặn vợ: "Bữa nay mình để con bé út nó mang cái ăn cho tôi vậy. Con bé biết vâng lời, nó sẽ đi đến nơi về đến chốn, chẳng giống như các chị nó đâu! Hai đứa ấy cứ như mấy con ong dại, suốt ngày bay nhởn nhơ".

Bác gái không ưng nên hỏi lại: "Thế lại muốn mất nốt cả đứa con gái tôi cưng nhất hay sao?".
Bác trai đáp: "Mình đừng lo, con bé ấy thông minh và rất khôn, nó sẽ không lạc đâu. Vả bữa nay tôi đem đỗ Hà Lan đi kia mà. Giống đỗ này to hơn giống đỗ thường, mất dấu đường sao được!".

Nhưng đến lúc con bé con mang làn đi thì dọc đường có bao nhiêu hột đỗ đậu đều vào diều lũ gà rừng cả rồi. Cô chẳng còn biết đường đi lối nào nữa. Cô bé con lo lắng, cô lo bố đói, lo không về thì mẹ sẽ than vãn. Tối đến, thấy có ánh đèn, cô theo hướng đó lần tới. Cô nói rất lễ
phép, xin ngủ nhờ một đêm. Ông cụ già râu bạc quay lại hỏi mấy con vật:

Ới gà mái!
Ới gà trống!
Ới bò hoa lông đốm!
Chúng mày nghĩ sao?

"Được", chúng đồng thanh trả lời. Cô bé bước ngay tới lò sưởi chỗ mấy con vật nằm, khẽ vuốt ve bộ lông óng mượt của hai con gà, rồi lại xoa đầu con bò lông đốm. Sau đó theo lời ông cụ dặn, cô đi nấu ăn. Nấu xong, bưng bát ra bàn đâu đấy. Cô tự hỏi: "Mình no mà để mấy con vật khôn ngoan kia nhịn đói có đành lòng không? Ngoài ấy thiếu gì thức ăn phải cho chúng ăn no cái đã".

Cô đi lấy lúa mạch rắc cho hai con gà ăn và đi bê vào cho con bò cả một ôm rơm ngát mùi thơm. Cô trìu mếm nói với mấy con vật: "Chúc các bạn ăn ngon nhé. Nếu khát, tôi sẽ lại đi kiếm nước mát về cho mà uống". Nói đoạn, cô đi xách một thùng nước đầy. Hai con gà nhảy lên mép thùng, chúng cứ nhúng mỏ xuống nước, rồi lại vươn cổ lên một hồi, uống như giống chim thường làm. Còn bò ta làm thẳng một hơi ra trò. Cho mấy con vật ăn uống no nê rồi, cô bé mới lại ngồi vào bàn ăn nốt những thức ăn ông cụ còn bỏ thừa lại. Một lúc sau, đôi gà bắt đầu rúc đầu dưới cánh. Bò cũng chớp mắt liên hồi. Cô bé liền hỏi:

Giờ ta đi ngủ rồi chứ nhỉ?
Phải không, gà mái
Phải không, gà trống
Phải không, bò lông đốm
Có đúng thế không?

Mấy con vật đồng thanh đáp:

Đúng, cô đã ăn với bọn tôi,
Cô đã uống với bọn tôi.
Cô đã không quên bọn tôi.
Đêm nay chúc cô ngon giấc.

Cô bé trèo lên gác, giũ gối, trải khăn đâu đấy chờ cho ông cụ đi nằm, chòm râu bạc dài chấm chân, rồi cô mới lên giường ngủ. Ngủ được một giấc ngon đến nửa đêm bỗng thấy nhà cửa tự lay chuyển, cô tỉnh dậy. Cả bốn góc nhà bắt đầu chuyển răng rắc, cánh cửa lớn cứ sập vào rồi lại tự mở ra đập sầm sầm vào tường. Xà nhà như muốn rơi, gác như muốn đổ. Sau đó, dường như cả mái nhà muốn sập. Rồi lại thấy yên tĩnh, cô bé thấy mình chẳng việc gì nên cứ nằm yên và ngủ lại. Sớm ngày hôm sau, cô tỉnh dậy trong ánh nắng tươi sáng, và lạ chưa, cô thấy mình đang nằm trong một căn phòng lớn, quang cảnh xung quanh vô cùng lộng lẫy. Tường bọc toàn bằng lụa mầu lá cây, làm nền cho những cụm hoa vàng thật. Giường nằm bằng ngà, chăn bọc nhung đỏ. Cạnh giường có một cái ghế trên xếp một đôi hài thêu điểm trân châu. Cô cứ ngỡ mình nằm mơ. Nhưng kìa đã thấy ba người hầu ăn mặc rất sang: Họ bảo cô có sai bảo gì không. Cô bảo họ: "Các bác cứ ra đi, tôi sẽ dậy ngay đây. Cứ để tôi nấu cháo cho ông cụ xong tôi sẽ cho gà, cho bò lông đốm ăn sau". Cô nghĩ bụng chắc ông cụ dậy rồi. Cô ngoảnh sang giường bên xem sao nhưng không thấy ông cụ mà lại thấy một người lạ, trẻ, đẹp. Cô đang ngắm nghía thì người ấy đã trở dậy bảo cô:

- Ta chính là một Hoàng tử đã bị một con mụ phù thủy hiểm độc phù phép hãm hại. Nó đã biến ta thành một ông già tóc bạc, đẩy ta ở giữa rừng sâu với ba người hầu cũng đã bị nó biến thành một con gà mái, một con gà trống và một con bò sữa. Phép yêu ấy chỉ được giải khi nào có một người con gái tốt bụng tới đây, không những biết thương người mà biết thương cả giống vật. Người con gái đó là nàng. Nửa đêm hôm qua, nàng đã giải thoát cho bọn ta, ngôi nhà cổ giữa rừng đã thành nguyên hình là cung điện của ta trước kia.

Đợi cô dậy rồi, Hoàng tử sai ba người hầu đi mời bố mẹ đến để làm lễ cưới.

Cô hỏi:

- Nhưng hai chị của thiếp hiện giờ ở đâu?

- Ta đã giam hai cô đó xuống hầm. Mai ta sẽ giải vào rừng. Họ sẽ phải hầu hạ một người đốt than ở đó cho tới khi nào họ biết sửa lỗi, biết thương yêu súc vật, không để chúng khỏi đói khát.

Nhà các em có nuôi con vật nào trong nhà không, mèo, chó, hay gà... Đối với con vật nào cũng thế thôi, các em phải luôn thương chúng vì chúng luôn giúp ích cho ta và không phải bị giam như hai cô chị trong truyện này nhé!
       
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 20:34:04 | Chỉ xem của tác giả
Đứa con vàng

Xưa có hai vợ chồng nhà kia rất nghèo. Của cải chỉ có độc một túp lều nhỏ. Ngày ngày hai người đi bắt cá, làm chẳng đủ ăn. Bỗng một hôm, người chồng thả lưới xuống nước cất lên được một con cá toàn vàng. Bác còn đang kinh ngạc ngắm nghía thì thấy cá lên tiếng nói:

- Này, bác đánh cá ơi, xin hãy trả tôi xuống nước, tôi sẽ biến túp lều nhỏ của bác thành một tòa lâu đài tráng lệ.

Bác đánh cá đáp:
- Ăn còn không có, lâu đài để làm gì?

Cá vàng nói tiếp:

- Tôi sẽ lo cả chuyện đó cho bác nữa. Trong nhà sẽ có một cái tủ. Bác cứ việc mở ra là đã sẵn thức ăn ngon trong đó rồi. Toàn cao lương mĩ vị, muốn bao nhiêu cũng có.

Bác đánh cá đáp:

- Nếu thế thì ta làm ơn cho mi cũng được thôi.

Cá nói:

- Vâng, song bác phải hứa với tôi một điều, bác không để lộ cho bất kì ai trên thế gian này biết sự may mắn của bác do đâu mà có. Chỉ cần bác hé ra một lời là bác sẽ lại mất hết.

Bác đánh cá bèn ném trả con cá thần xuống nước rồi về nhà. Tới nơi, bác chẳng thấy túp lều đâu nữa, giờ đây là cả một tòa lâu đài đồ sộ. Bác đứng nhìn hồi lâu rồi bước vào nhà thì gặp bác gái, quần áo lộng lẫy, đang ngồi trong một căn phòng vô cùng tráng lệ. Bác gái có vẻ hả hê lắm, cứ hỏi bác:

- Mình ơi sao bỗng dưng lại được thế này? Ôi sung sướng quá!

- Phải - bác đáp - Tôi cũng vui sướng. Nhưng này, đói lắm rồi đấy, dọn cái gì ăn đi.

Bác gái bảo:

- Tôi chẳng có gì đâu, mà cũng không biết trong tòa nhà mới này có gì hay không?

Bác trai nói:

- Không khó đâu, đằng kia có một cái tủ lớn, lại mở ra xem nào. Bác gái mở ra thì thấy bên trong nào bánh nào thịt, nào hoa quả, nào rượu nho như mời mọc.

Bác sướng quá kêu lên:

- Ta còn ước gì hơn nữa?

Hai người ngồi xuống cùng ăn uống. Ăn đã no, bác gái hỏi:

- Nhưng nhà này, của ở đâu thế?

- Chà - bác trai đáp - hỏi chuyện ấy làm gì, tôi không nói được đâu. Tôi mà hở ra cho ai biết thì chúng mình sẽ lại mất hết.

Bác gái nói:

- Được, nếu như không được phép biết thì tôi cũng chẳng thiết hỏi làm gì.

Tuy miệng nói thế nhưng bụng lại nghĩ khác, đêm ngày bác ta đứng ngồi không yên. Bác cứ giày vò thúc bác trai mãi, kỳ cho đến khi bác trai sốt ruột, kể cho bác biết câu chuyện con cá thần đã bị bắt, được thả như thế nào. Kể chưa dứt lời, tòa lâu đài tráng lệ với
cái tủ kia đã biến đâu mất. Hai người lại ngồi trong túp lều đánh cá cũ.

Người chồng lại phải bắt cá kiếm ăn. Dường như vận may đã định, bác lại bắt được con cá vàng phen nữa. Cá nói với bác:

- Này nếu như bác lại thả tôi thì tôi sẽ trả cho bác tòa lâu đài với cái tủ kia, đầy ắp những thứ nấu và rán cho bác. Bằng không sẽ lại mất hết.

Bác đánh cá đáp:

- Tôi sẽ cố giữ.

Bác ném con cá xuống nước. Về đến nhà, bác lại giàu có như trước. Bác gái hả hê vô cùng, song sự tò mò vẫn chưa thôi day dứt bác. Chỉ vài ngày sau, bác lại tỉ tê dò hỏi nguyên do sự việc. Bác trai mới đầu còn giữ, nhưng sau tức vợ quá bác kể tuột luôn mọi chuyện. Tức thì chỉ trong nháy mắt, tòa lâu đài biến mất, hai người lại ngồi trong túp lều cũ. Bác trai phàn nàn:

- Đã thấy chưa, giờ rồi đến chết đói.

Bác gái đáp:

- Ôi chà, thà không có của còn hơn có mà chẳng biết của từ đâu đến, bảo tôi im sao được.

Người chồng lại đi bắt cá. Ít lâu sau, bác lại bắt được con cá vàng lần thứ ba. Cá nói:

- Này, thế là cái phận tôi không thể thoát tay bác rồi. Bác cứ đem tôi về chặt làm sáu khúc, hai khúc cho bác gái ăn, hai khúc cho con ngựa của bác ăn, còn hai khúc chôn xuống đất rồi bác sẽ được phú quý.

Bác trai xách con cá về nhà, làm đúng theo lời căn dặn. Kết quả là sau đó hai khúc cá chôn dưới đất biến thành hai cây huệ vàng, con ngựa đẻ ra một đôi ngựa con bằng vàng và bác gái sinh được hai đứa con cũng toàn vàng. Hai đứa trẻ lớn lên nom vừa khỏe vừa đẹp, hai cây huệ với đôi ngựa con cũng lớn lên.

Hai con bảo bố:

- Cha ơi, chúng con muốn lên ngựa vàng đi giang hồ bốn bể một phen.

Bác trai bối rối đáp:

- Để các con đi mà rồi đây cha không biết được các con ra sao thì cha đành lòng sao được?

Hai con nói:

- Hai cây huệ vàng vẫn còn đây, cha cứ xem hoa khắc biết chúng con thế nào. Hoa cứ tươi là chúng con vẫn khỏe, hoa héo là chúng con đang ốm, hoa rụng đi là chúng con đã chết.

Hai con lên ngựa ra đi. Tới một quán trọ kia, bên trong rất đông khách, mọi người thấy hai đứa trẻ bằng vàng đi vào cứ khúc khích cười và lên tiếng đùa cợt. Một chú nghe thấy người ta chế nhạo, phát ngượng không muốn đi nữa, mới quay về nhà với bố. Còn chú kia vẫn cưỡi ngựa đi, đi tới một khu rừng lớn, chú vừa định giục ngựa vài rừng thì có người bảo:

- Không được đâu, không thể đi qua được đâu, trong đó toàn bọn cướp của giết người, tất chúng sẽ sinh chuyện. Nhất là khi chúng lại thấy chú và ngựa của chú toàn bằng vàng, chúng sẽ giết chú mất.

Song chú bé không sợ, chú bảo:

- Nhất định tôi phải đi và sẽ đi được.

Chú lấy da gấu, phủ lên mình và phủ cho ngựa để không ai thấy đó là vàng nữa, rồi ung dung giục ngựa phi nước kiệu vào rừng. Mới đi được một quãng thì thấy có tiếng xì xào trong bụi. Chú nghe rõ tiếng người gọi nhau. Phía này gọi:

- Có một đứa vào đấy.

Phía kia đáp:

- Cho nó đi. Cái đồ vô dụng ấy, kiết xác mà trần trụi như một con chuột trong xó nhà thờ, được việc gì!

Thế là chú bé vàng may mắn lọt qua được khu rừng, bình yên vô sự.

Một hôm khác, chú tới một làng kia. Chú gặp một cô thiếu nữ xinh đẹp quá, tưởng chừng như ở trên đời này không thể còn ai xinh đẹp hơn. Chú thấy yêu cô nàng vô cùng, mới lại gần hỏi:

- Ta rất yêu nàng, yêu tha thiết, nàng có ưng lấy ta không?

Người thiếu nữ nhìn chú cũng thấy ưng ý nên bằng lòng ngay và bảo:

- Vâng, thiếp xin theo lời chàng, thiếp nguyện suốt đời sẽ chung thủy với chàng.

Hai người làm lễ cưới. Đang giữa cuộc vui, bỗng bố cô dâu về. Thấy lễ cưới con gái, bác ta ngạc nhiên lắm, hỏi:

- Thế chú rể đâu?

Mọi người chỉ chú bé vàng, lúc này vẫn còn đang khoác tấm da gấu. Người bố nổi giận, quát:

- Không đời nào ta chịu gả con cho những quân vô dụng.

Bác ta muốn giết chú rể vàng. Cô dâu vội ra sức van xin và nói:

- Dù sao thì chàng cũng đã là chồng con rồi, con rất thương chàng.

Sau rồi người bố cũng xiêu lòng, nhưng trong dạ vẫn chưa được yên. Sáng hôm sau bác trở dậy thật sớm muốn xem kỹ con rể, có đúng chỉ là một tên ăn mày tầm thường rách rưới không. Song người nằm trong giường lại là một chàng trai rất đẹp, toàn bằng vàng, tấm da gấu vất bỏ dưới đất. Bác quay trở ra, nghĩ bụng: "Tốt quá, may mà mình kìm được cơn nóng, bằng không đã phạm sai lầm lớn".

Trong lúc đó thì chàng người vàng đang mơ màng, thấy mình săn trượt theo một con hươu rất đẹp. Lát sau tỉnh giấc, chàng bảo vợ:

- Ta muốn đi săn một bữa.

Người vợ thấy lo, nài chồng ở nhà. Nàng bảo:

- Chỉ sợ sẽ xảy ra vạ lớn cho chàng.

Nhưng chàng gạt đi:

- Ta phải đi và nhất định đi được.

Nói xong chàng đứng lên đi luôn vào rừng. Đi mới được một lát đã thấy một con hươu ngạo nghễ đứng chắn ngang đường, đúng như trong giấc mơ. Chàng vừa giơ súng toan bắn thì hươu đã nhảy vọt đi mất. Chàng liền rượt theo, băng qua hố qua bụi, suốt ngày
hôm đó mà không thấy mệt. Đến chiều thì con hươu biến đi đâu mất. Chàng người vàng nhìn quanh quất thấy phía trước có một ngôi nhà nhỏ. Trong nhà có một mụ phù thủy đang ngồi. Chàng gõ cửa. Mụ già bước ra cất tiếng hỏi:

- Ngày đã muộn thế này mà ngươi còn quanh quẩn làm chi trong rừng?

Chàng hỏi lại:

- Bà có thấy con hươu nào chạy qua không?

- Có, - mụ đáp - Con hươu ấy ta biết rõ lắm.

Vừa lúc ấy, một con chó nhỏ theo mụ từ trong nhà ra cứ hướng vào chàng trai mà sủa ầm ĩ. Chàng mắng nó:

- Có câm không, đồ khốn. Ta lại cho mi một phát chết tươi bây giờ.

Mụ phù thủy nổi nóng hét lên:

- Sao, mi muốn giết chó của ta à?

Mụ phù thủy biến luôn chàng trai thành đá nằm lì tại đó. Vợ ở nhà đợi mãi không thấy chồng về, nghĩ bụng: "Chắc đã xảy ra chuyện gì rồi". Nàng lo buồn hết sức. Trong lúc đó, ở nhà người em đang đứng bên hai cây huệ vàng bỗng thấy một bông gục xuống. Chàng kêu lên:

- Trời ơi, anh con gặp vạ lớn rồi, phải đi ngay, may ra còn cứu được.

Người cha gạt đi:

- Ở nhà thôi, mất nốt con thì bố biết làm sao?

Nhưng người con vẫn kiên quyết:

- Con phải đi và nhất định đi.

Chàng bèn cưỡi lên con ngựa vàng, phóng ngựa phi thẳng đến khu rừng lớn, chỗ anh chàng đã bị hóa đá. Mụ phù thủy già ở trong nhà chạy ra, gọi chàng và có ý định bắt nốt chàng, song chàng không lại gần mà chỉ gọi với lại:

- Nếu như mi không làm cho anh ta sống lại thì ta sẽ bắn chết mi.

Mụ phù thủy buộc lòng phải đặt ngón tay lên tảng đá, tức thì tảng đá lại hóa thành người. Hai người con vàng gặp lại nhau, vui mừng khôn xiết, ôm hôn nhau rồi cùng lên ngựa ra khỏi rừng. Một người trở về nhà vợ, còn người kia về nhà cha mẹ. Họ sống rất hạnh phúc đến trọn đời.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 20:34:44 | Chỉ xem của tác giả
Cô bé hai mắt

Ngày xưa, có một bà có ba cô con gái. Con lớn tên là Một Mắt vì cô chỉ có độc một mắt ở giữa trán. Cô thứ hai tên là Hai Mắt vì cô có hai mắt như mọi người khác. Cô út tên là Ba Mắt vì cô có ba mắt, mắt thứ ba cũng ở giữa trán.
Cô Hai Mắt giống y như những người thường khác nên bị mẹ, chị và em không chịu được. Họ bảo cô:
- Có hai mắt thì cũng chẳng hơn gì người thường, không phải là họ hàng nhà ta.
Họ thấy cô đâu là xua đấy, quẳng cho cô quần áo xấu xí, chỉ cho cô thức ăn thừa, tìm đủ cách làm cho cô đau khổ. Có lần cô Hai Mắt ra đồng chăn dê, đói lắm vì chị và em cho ăn ít quá. Cô liền ngồi xuống bờ ruộng khóc lóc thảm thiết, nước mắt tuôn ra như hai dòng suối nhỏ. Đang than vãn, cô ngẩng lên thấy một bà đứng bên mình hỏi:
- Hai Mắt, sao con lại khóc?
Hai Mắt trả lời:
- Con không khóc sao được? Chỉ vì con có hai mắt như người bình thường, mẹ, chị và em không chịu được, xua con từ xó này sang xó khác, quăng cho con quần áo cũ, chỉ cho con ăn cơm thừa canh cặn. Hôm nay ở nhà cho con ăn ít quá, con đói lắm.
Bà lão bảo:
- Hai Mắt, con hãy lau mặt đi, bà sẽ bảo con cái này để con không bị đói nữa. Con cứ việc bảo con dê cái của con:
Này dê con, hãy be lên!
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!
Thì lập tức trước mắt con sẽ hiện ra một cái bàn xinh xắn, ở trên bày các thức ăn ngon lành, con tha hồ ăn. Sau khi con ăn no rồi, không cần đến bàn nữa, thì con chỉ việc nói:
Này dê con, hãy be be!
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!
Thì bàn lập tức sẽ biến mất.
Sau đó, bà lão đi. Hai Mắt nghĩ bụng: "Mình phải thử ngay xem lời bà dặn có đúng không vì mình đói quá". Cô nói:
Này dê con, hãy be lên!
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!
Nói chưa dứt lời, thì có một chiếc bàn xinh xắn phủ chiếc khăn nhỏ trắng tinh hiện ra. Trên bàn có đĩa, dao, dĩa, thìa bạc, đầy các thức ăn tuyệt ngon còn nóng, hơi lên nghi ngút như vừa bưng ở dưới bếp lên. Hai Mắt ăn uống ngon lành. No nê rồi, cô lại nói như lời bà lão dặn:
Này dê con, hãy be be!
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!
Lập tức chiếc bàn xinh xắn và các thứ ở trên biến mất. Hai Mắt nghĩ bụng làm nội trợ kiểu ấy thật thú vị, cô hả hê vui thích lắm. Buổi tối, cô chăn dê về nhà, thấy có chiếc bát sành đựng thức ăn mà chị và em để phần cho, nhưng cô không đụng đến. Ngày hôm sau cô lại chăn dê đi, để nguyên mấy mẩu bánh phần cô. Lần đầu và lần thứ hai, chị và em không để ý, nhưng cứ thế mãi nên họ cũng biết và nói:
- Con Hai Mắt có điều gì khả nghi. Không lần nào nó đụng đến thức ăn, thế mà mọi khi để cho nó cái gì là nó chén hết sạch cơ mà. Phải tìm cho ra đầu đuôi việc này mời được.
Khi Hai Mắt ra đi. Một Mắt đến bảo:
- Để tao đi ra đồng với, xem mày chăn dê có tốt không, mày có chịu đưa dê đi ăn ở nơi tốt cỏ không.
Nhưng Hai Mắt đã biết được ý định của Một Mắt, cô chăn dê đến đồng cỏ rậm và bảo:
- Chị Một Mắt ạ, chị em mình ngồi xuống rồi em hát cho chị nghe.
Một Mắt ngồi xuống, mệt quá vì chưa quen đi đường và vì trời nắng chang chang, còn Hai Mắt cứ hát mãi:
Một Mắt ơi, chị còn thức không?
Một Mắt ơi, chị ngủ đấy à?
Một Mắt nhắm mắt độc nhất của mình lại mà ngủ.
Lúc Hai Mắt thấy Một Mắt đã ngủ say, việc không thể lộ được, cô mới bảo:
Này dê con, hãy be lên!
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!
Cô ngồi vào chiếc bàn xinh xắn, ăn uống no nê rồi lại nói:
Này dê con, hãy be be!
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!
Tất cả mọi thứ đều biến ngay. Hai Mắt liền đánh thức Một Mắt dậy mà bảo:
- Chị Một Mắt ạ, chị định đi chăn dê mà lại ngủ à? Trong khi đó dê nó có thể chạy khắp thiên hạ mất. Thôi ta về nhà chị ơi.
Hai người về nhà. Hai Mắt để nguyên không đụng đến thức ăn. Một Mắt không cho mẹ biết được tại sao em không chịu ăn. Nó xin lỗi mẹ:
- Con ra đồng ngủ quên đi mất.
Hôm sau, mẹ bảo Ba Mắt:
- Lần này, mày đi cùng phải để ý xem con Hai Mắt ra ngoài có ăn gì không, có ai mang gì đến cho nó ăn uống không, vì nhất định là nó phải ăn uống lén lút.
Ba Mắt đến bảo Hai Mắt:
- Em muốn đi với chị để xem chị chăn dê có tốt không, chị có đưa dê đi ăn nơi tốt cỏ không?
Nhưng Hai Mắt đỗán được ý định của Ba Mắt nên cô chăn dê đến đồng cỏ rậm rồi bảo:
- Em Ba Mắt ạ, ta ngồi đây. Chị sẽ hát cho em nghe.
Ba Mắt ngồi xuống. Đường xa, trời nắng, nên người mệt nhoài. Hai Mắt lại bắt đầu hát bài hát hôm trước:
Ba Mắt ơi, thức đấy ư?
Nhưng sau đáng lẽ phải hát: Ba Mắt ơi, ngủ đấy à? Thì cô lại đãng trí hát: Hai Mắt ơi, ngủ đấy à?
Rồi cứ hát mãi:
Ba Mắt ơi, thức đấy ư?
Hai Mắt ơi, ngủ đấy à?
Hai con mắt của Ba Mắt nhắm lại ngủ, còn con mắt thứ ba không bị phép của câu thần chú nên không ngủ. Thật ra thì Ba Mắt nhắm cả mắt thứ ba, nhưng nó nhắm giả vờ làm như ngủ, nó nhấp nháy để có thể nhìn rõ được hết mọi việc. Hai Mắt tưởng là Ba Mắt đã ngủ say rồi, liền niệm chú:
Này dê con, hãy be lên!
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!
Cô ăn uống no nê rồi bảo chiếc bàn nhỏ biến đi:
Này dê con, hãy be be!
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!
Ba Mắt trông thấy hết. Hai Mắt đến chỗ nó đánh thức dậy bảo:
- Úi chà. Ba Mắt em ngủ à? Thế mà cũng đòi đi chăn dê? Thôi ta về nhà đi!
Về đến nhà, Hai Mắt lại không ăn. Ba Mắt liền mách mẹ:
- Giờ thì con biết tại sao cái con làm bộ ấy nó không ăn rồi. Ở ngoài đồng nó nói "Này dê con, hãy be lên! Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!" thì có một chiếc bàn nhỏ bày đầy thức ăn, thức uống tuyệt ngon, ngon hơn ở nhà ta nhiều, hiện ra. Nó ăn uống no nê rồi
nó bảo: "Này dê con, hãy be be! Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!" thì mọi thứ đều biến mất. Con trông thấy tất cả rõ mồn một. Hai mắt nó niệm thần chú cho con ngủ, nhưng may còn con mắt trên trán vẫn thức.
Người mẹ đố kỵ liền kêu lên:
- A, mày lại đòi hơn chúng tao à! Phải cho mày chừa cái thói ấy đi!
Mụ lấy dao mổ lợn, đâm trúng tim dê, dê khuỵu xuống chết. Hai Mắt thấy vậy, buồn bã đi ra ngồi bờ ruộng khóc lóc thảm thiết. Bà lão bỗng lại hiện ra bên cô mà bảo:
- Hai Mắt làm sao con khóc?
Cô đáp:
- Con không khóc sao được! Mẹ con đã đâm mất con dê mà hàng ngày, khi con niệm câu thần chú của bà, nó dọn thức ăn thật ngon cho con ra bàn. Giờ thì con lại phải chịu đói khát, khổ sở rồi.
Bà lão bảo:
- Hai Mắt ạ! Để bà bày cho con một kế hay: con hãy xin chị và em lấy bộ lông của con dê đã bị giết, con đem chôn ở trước cửa rồi sẽ gặp may.
Nói xong bà lão biến mất. Hai Mắt về nhà bảo chị và em:
- Chị và em yêu dấu ơi, dê ấy của tôi, cho tôi xin chút đỉnh của nó với. Tôi chẳng dám xin gì ngon lành đâu, chỉ xin bộ lông mà thôi.
Hai đứa cười ồ lên bảo:
- Ừ, nếu chỉ xin có thế thì cứ việc mà lấy đi.
Hai Mắt lấy bộ lông, đến tối theo lời bà lão dặn lặng leo đem chôn trước cửa nhà.
Sáng hôm sau, khi cả nhà cùng dậy ra cửa thì thấy có một cây kỳ lạ, đẹp lộng lẫy, quả vàng xen giữa lá bạc, trần gian không có gì đẹp bằng. Không ai biết tại sao qua một đêm, cây ở đâu mọc ra. Chỉ có Hai Mắt biết rõ là cây ở lông dê mọc lên vì nó mọc đúng ở nơi chôn bộ lông.
Mẹ liền bảo :
- Một Mắt, con trèo lên hái quả xuống.
Một Mắt trèo lên, nhưng cứ định hái một quả táo vàng thì cành lại tuột khỏi tay. Mà lần nào cũng như vậy, khiến cho nó không hái được quả nào, hái mãi cũng không được.
Mẹ liền bảo:
- Ba Mắt, con hãy trèo lên, con có ba mắt, ắt là nhìn rõ hơn Một Mắt.
Một Mắt tụt xuống. Ba Mắt trèo lên. Nhưng Ba Mắt cũng chẳng tài gì hơn, với mãi mà vẫn cứ bị hụt, táo vàng vẫn cứ thụt lại. Sau bà mẹ sốt ruột, đích thân trèo cây, nhưng định hái quả thì lại chỉ nắm không khí, chẳng hơn Một Mắt và Ba Mắt.
Hai Mắt liền bảo:
- Để tôi lên xem sao, có thể là được.
Chị và em gái nói:
- Đồ Hai Mắt thì làm được trò trống gì!
Nhưng khi Hai Mắt trèo lên, táo vàng không thụt lại, mà tự ý rơi vào tay cô, cô hái được hết quả nọ đến quả kia, mang xuống đấy một tạp dề. Bà mẹ giật lấy. Đáng lẽ, mụ, Một Mắt và Ba Mắt phải đối đãi tử tế hơn với cô Hai Mắt đáng thương, thì họ lại đố kỵ thêm
vì chỉ có mình cô hái được quả vàng. Họ đối với cô càng thêm cay nghiệt. Một hôm, họ đang đứng bên cây thì có một hiệp sĩ trẻ tuổi đi tới. Cô chị và cô em gọi:
- Hai Mắt ơi, nhanh lên, trèo xuống đi kẻo chúng tao ngượng cả mặt vì mày.
Rồi hai người vớ vội một chiếc thùng rỗng để ở ngay gốc cây úp lên cô Hai Mắt đáng thương. Chúng lại nhét tất cả táo vàng mà cô hái được vào trong đó. Hiệp sĩ đến nơi. Ấy là một nhà quí phái rất đẹp. Chàng ngừng lại ngắm cây táo vàng lộng lẫy và bảo cô chị và cô em:
- Cây đẹp này của ai? Cho ta một cánh thì muốn xin gì ta cũng cho.
Một Mắt và Ba Mắt vội đáp là cây của chúng, chúng sẵn sàng bẻ cho chàng một cành. Hai chị em ra sức bẻ nhưng lần nào cành và quả cũng thụt lại.
Chàng hiệp sĩ liền bảo:
- Quái lạ, sao cây của các cô mà các cô lại không hái được?
Chúng vẫn khăng khăng nói là cây của chúng. Trong khi ấy, Hai Mắt ở dưới thùng để mấy quả táo vàng lăn đến chân hiệp sĩ vì nàng bực tức là Một Mắt và Ba Mắt lại không chịu nói thật. Hiệp sĩ thấy táo, ngạc nhiên hỏi táo từ đâu đến. Một Mắt và Ba Mắt đáp chúng còn một người chị em, không dám để cho ra mắt vì cô cũng chỉ có hai mắt như những người thường khác. Nhưng hiệp sĩ đòi xem mặt cô và gọi:
- Cô Hai Mắt đâu, lại đây nào!
Hai Mắt bình tĩnh chui ở dưới thùng ra. Hiệp sĩ ngạc nhiên về sắc đẹp của cô, hỏi:
- Chắc cô Hai Mắt bẻ được cho tôi một cành chứ!
Hai Mắt đáp:
- Thưa vâng, hẳn là được, vì cây của em.
Cô trèo lên cây, nhẹ nhàng bẻ một cành có lá bạc quả vàng thật đẹp đưa cho hiệp sĩ.
Hiệp sĩ liền bảo:
- Cô Hai Mắt ơi, tôi trả công cô thế nào đây?
Hai Mắt đáp:
- Từ sáng tinh mơ đến tối mịt, em chịu đói khát, cơ cực, buồn lo, nếu chàng chịu mang em đi để cứu em thì em thật là sung sướng.
Hiệp sĩ liền đỡ Hai Mắt lên ngựa, mang về lâu đài cha. Tới nơi, chàng cho cô mặc quần áo đẹp đẽ, tha hồ ăn uống. Chàng yêu cô và lấy cô làm vợ ... Lễ cưới rất vui vẻ. Khi chàng hiệp sĩ đẹp trai mang Hai Mắt đi rồi, chị và em lồng lên vì thấy cô sung sướng. Hai cô nghĩ bụng: Cây thần còn ở tay ta, dù ta không hái được quả nào, thì mọi người vẫn cứ phải ngừng lại, ngắm cây, vào tìm ta để khen cây. Biết đâu rồi ta chẳng gặp may.
Nhưng sáng hôm sau, cây thần bỗng biến mất, hy vọng của hai chị em cũng tiêu tan. Khi Hai Mắt từ trong phòng nhỏ nhìn ra, cô mừng rỡ thấy cây đã theo cô và hiện lên. Cô Hai Mắt hưởng hạnh phúc lâu dài. Một hôm, có hai người đàn bà nghèo khó đến lâu đài cô xin ăn. Cô Hai Mắt nhận ra chị và em mình. Một Mắt và Ba Mắt bị sa sút, nghèo túng, phải đi tha phương cầu thực. Cô Hai Mắt niềm nở chào hai người, đối đãi tốt với họ, chăm sóc họ, khiến họ hối hận, vì đã từng đối xử độc ác với cô.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách