Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 8647|Trả lời: 74
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Khác] Thép Đã Tôi Thế Đấy | Nhicalai Axtơrốpxki

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Tên tác phẩm: Thép Đã Tôi Thế Đấy
Tên tác giả: Nhicalai Axtơrốpxki
Tên dịch giả: Thép Mới và Huy Vân
Thể loại: Khác
Độ dài (không bắt buộc):
Tình trạng sáng tác: đã hoàn thành
Nguồn tác phẩm: tự type
Giới thiệu sơ lược (không bắt buộc):


LỜI GIỚI THIỆU


Thép đã tôi thế đấy không chỉ là một tác phẩm văn học chỉ nhìn đời mà viết. Tác giả sống nó rồi mới viết nó. Nhân vật trung tâm Pa-ven chính là tác giả: Nhi-ca-lai A-xtơ-rốp-xki. Là một chiến sỹ cách mạng tháng Mười, ông đã sống một cách nồng cháy nhất, như nhân vật Pa-ven của ông. Cũng không phải một cuốn tiểu thuyết tự thuật thường vì hứng thú hay lợi ích cá nhân mà viết. Nhi-ca-lai A-xtơ-rốp-xki viết Thép đã tôi thế đấy trên giường bệnh, trong khi bại liệt và mù, bệnh tật tàn phá chín phần mười cơ thể. Chưa bao giờ có một nhà văn sáng tác trong những điều kiện gian khổ như vậy. Trong lòng người viết phải có một nhiệt độ cảm hứng nồng nàn không biết bao nhiêu mà kể. Nguồn cảm hứng ấy là sức mạnh tinh thần của người chiến sỹ cách mạng bị tàn phế, đau đớn đến cùng cực, không chịu nằm đợi chết, không thể chịu được xa rời chiến đấu, do đó phấn đấu trở thành một nhà văn và viết nên cuốn sách này. Càng yêu cuốn sách, càng kính trọng nhà văn, càng tôn quý phẩm chất của con người cách mạng.

Thép đã tôi thế đấy có một địa vị đặc biệt trong lịch sử văn học Liên Xô và nền văn học tiên tiến thế giới. Cách mạng tháng Mười thắng lợi, cuộc chiến vĩ đại chưa từng có bao giờ của nhân dân lao động trên một dải đất Liên bang Xô Viết rộng lớn hàng ngày đề ra và đòi hỏi không biết bao nhiêu là anh hùng. Nhân dân Liên Xô, nhân loại tiến bộ chờ đợi văn học phản ánh và đào sâu cho mình hình ảnh con người anh hùng mới ấy. Lần đầu tiên trong văn học, N. A-xtơ-rốp-xki thu gọn được con người mới trong nhân vật Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin. Pa-ven không những khác hẳn với những tác phẩm văn nghệ của những năm đầu cách mạng, thường ca ngợi lòng dũng cảm vô tổ chức, tả sức mạnh tràn trề, lớn khỏe của quần chúng như một sức mạnh bột phát, tự nhiên. Thép đã tôi thế đấy cho ta thấy từng con người trong một quần chúng rộng lớn nảy nở như thế nào, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Thép đã tôi thế đấy ghi lại cả một quá trình tôi thép, bước đường gian khổ trưởng thành của thế hệ thanh niên Xô viết đầu tiên.

Thép ở đây là Pa-ven, là Xê-ri-ô-gia, là Va-li-a, là Giắc-ky, cả một lớp thanh niên lao động, vừa lớn lên thì gặp ngay cách mạng, ý thức giai cấp và tuổi trẻ bừng lên trong bão táp của phong trào. Lò ngàn độ nóng tôi rèn họ là cuộc đấu tranh thật trường kỳ gian khổ, thật là tự lực cánh sinh của cách mạng tháng Mười. Người thợ vĩ đại tôi rèn thép ấy là Đảng cộng sản, ngọn cờ và bộ tham mưu của cách mạng. Đảng lần lượt lãnh đạo chiến tranh, đảm bảo cung cấp, tổ chức vận tải, xây dựng đường sắt, trấn áp tàn dư phản cách mạng, tổ chức lực lượng nhân dân rộng lớn và thiết lập chính quyền cách mạng vững mạnh, lãnh đạo phục hồi sản xuất và kiến thiết, dẫn dắt nhân dân đi vào xã hội mới - xã hội chủ nghĩa - chưa từng có bao giờ. Trong đấu tranh vũ trang cũng như công tác xây dựng, Đảng tập dần thói quen cho Pa-ven chiến thắng. Pa-ven từng bước một trưởng thành, trở thành một chiến sỹ cách mạng mạng già dặn. Bệnh tật mười chết một sống là trận thử thách cuối cùng. Pa-ven là thép đã tôi rồi nên đã thắng, toàn thắng.


Cuốn sách của N. A-xtơ-rốp-xki trả lời chúng ta: "Thế nào là thép đã tôi?" Đồng chí Liêu Thừa Chi, chủ tịch Liên đoàn thanh niên dân chủ Trung Quốc, vào năm 1950, viết: "Vì ngọn cờ của chúng ta mà xung phong, mà bất khuất trước quân thù, những việc đó tương đối chưa phải là hết sức khó khăn. Rất khó khăn như Pa-ven, còn sống phút nào cũng đều là quên mình, chỉ nghĩ đến công tác, đến Đảng, đến nhân dân, đến sự nghiệp của giai cấp vô sản, kiên quyết phấn đấu đến cùng, đó mới là việc khó mà làm được thì đáng quý nhất".

Đọc Thép đã tôi thế đấy trước hết truyền cho chúng ta lòng ham sống và ham chiến đấu. Đấy là bản chất giai cấp của Pa-ven. Đấy là bản chất thanh niên của Pa-ven. Đấy là phẩm chất cách mạng mà Đảng và đấu tranh thực tế đã xây dựng cho anh. Không phải ngọn lửa rơm sốc nổi hay cái ngang tàng rởm của chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Một tinh thần ham sống và ham chiến đấu có nghĩa lý nhất, có cơ sở nhất. Không gì mạnh bằng lòng tin tưởng của Pa-ven ở những mục đích chiến đấu của mình. Pa-ven say mê đem toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, hi sinh cá nhân của mình một cách nồng nhiệt lãng mạn, không bao giờ do dự, khồng hề tính toán, tất cả vì sự nghiệp giai cấp, vì hạnh phúc nhân loại. Không hiểu mục đích đấu tranh của Pa-ven luôn luôn vui sướng vì anh luôn luôn đấu tranh và luôn luôn thắng lợi. Đó là chủ nghĩa lạc quan của Pa-ven. Đó là sức mạnh, đó là hạnh phúc của Pa-ven.
Thép đã tôi thế đấy là một khúc ca tươi đẹp của đời sống. Mỗi trang sách như cuốn thêm máu chảy trong người đọc, nâng cao thêm nhiệt tình cách mạng, thúc giục chiến đấu, thúc giục công tác.
Thép đã tôi thế đấy giải quyết cho chúng ta nhiều vấn đề nhân sinh quan mới, dạy chúng ta biết yêu biết ghét một cách chính xác và sâu mạnh, khơi lên ở chúng ta những tình cảm lớn, xây dựng cho chúng ta một quan niệm về tình yêu trong sáng. Thép đã tôi thế đấy còn là một kho báu kinh nghiệm công tác cách mạng rất thực tế để nhìn cho sáng hơn nhiều vấn đề mới mà cuộc sống đề ra cho mỗi tập thể và mỗi con người, để thực hiện "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".


Nhà văn Xô Viết I-ly-a Ê-ren-bua gọi Thép đã đã tôi thế đấy là 'thánh kinh mới” của thanh niên Xô Viết. Bà mẹ của nữ anh hùng Dôi-a đã từng cổ vũ cả một thế hệ thanh niên thế giới chống phát xít trong đại chiến thế giới lần thứ hai, cho biết: "Thép đã tôi thế đấy là sách gối đầu của con tôi".

Cuốn sách được nhiều người đọc nhất ở Liên Xô trong thời kỳ kháng chiến chống Đức. Rất nhiều chứng cớ cụ thể tỏ ra là nó đã nêu gương sáng cho muôn vạn Pa-ven mới. Giữa đại hội anh hùng chiến đấu Trung Quốc năm 1950, đồng chí Trương Minh, một chiến sĩ giải phóng quân có nhiều thành tích, kiêm một nhà văn bộ đội trẻ, phát biểu: "Đọc Thép đã tôi thế đấy đã để lại một ảnh hưởng sâu sắc cho đời cách mạng và văn nghệ của tôi. Những sách như Thép đã tôi thế đấy nâng cao tinh thần chiến đấu và phẩm chất con người". Ở nhiều nước dân chủ nhân dân, Thép đã tôi thế đấy được coi là một tài liệu học tập của Đoàn thanh niên. Trên báo Tiền phong của thanh niên Pháp đã đăng đi đăng lại nhiều lần cuốn tiểu thuyết Pa-ven ấy. Thanh niên thế giới yêu mến Pa-ven người anh đi trước của tất cả chúng ta, người anh thuộc thế hệ cách mạng tháng Mười, thế hệ mở đường gian khổ nhất, anh dũng nhất và vẻ vang nhất.

Ở nước ta, trong cuộc đấu tranh yêu nước lâu dài, phần lớn thanh niên Việt Nam đã được trải qua nhiều cảnh ngộ mà Pa-ven đã sống. Năm năm chống phát xít Nhật - Pháp, chín năm chống xâm lược Pháp - Mỹ, một thế hệ thanh niên đông đảo nhất đã chọn con đường của Pa-ven. Nhiều anh chị em của chúng ta đã nếm tra tấn, khủng bố của nhà tù đế quốc Trong những vùng sau lưng địch, nhiều đồng chí và bạn thân của chúng ta hy sinh bất khuất trước quân thù như Va-li-a. Trên các chiến trường Việt Nam, biết bao Xê-ri-ô- gia đã bỏ mình và hàng vạn Giắc-ky sinh sôi nẩy nở. Dưới sự lãnh đạo của Hồ chủ tịch và Đảng lao động Việt Nam, chúng ta sống những chiến đấu của Pa-ven, những gian khổ của Pa-ven, cùng do một tình cảm cách mạng như Pa-ven mà phấn đấu. Cả một thế hệ thanh niên Cách mạng tháng 8 lớn lên trong kháng chiến, lớn lên cùng với chế độ dân chủ cộng hòa. Chúng ta cảm thấy Pa-ven rất gần với mình. Thép đã tôi thế đấy gợi ý cho chúng ta đòi hỏi nền văn nghệ trẻ mới của nước nhà phản ánh và đào sâu nhiều hơn nữa hình ảnh con người anh hùng mới Việt Nam. Và trong khi chờ đợi, hình ảnh Pa-ven lúc này giúp chúng ta nhìn rõ chúng ta hơn, sống lại những kinh nghiệm đã qua, củng cố và bồi bổ bài học của thực tế cách mạng, sống mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh vẻ vang và còn nhiều gian khổ ngày nay, càng hăng hái, càng dũng cảm, tiếp tục những chiến đấu của Pa-ven, phát huy những thắng lợi của Pa-ven, làm sáng tinh thần của Pa-ven hơn nữa.

Bản dịch tác phẩm lớn này, về căn bản không đầy đủ, trong phương pháp còn nhiều thiếu sót. Đầy lòng yêu mến và trân trọng với A-xtơ-rốp-xki, chúng tôi tự lấy làm chưa thỏa mãn về công việc mình làm. Chỉ dám mong góp phần nhỏ mọn phục vụ nhu cầu đọc sách ngày một lớn của bạn đọc trẻ tuổi nước nhà.

Bạn đọc trẻ tuổi đang giở trang sách này, xin giới thiếu với bạn anh Pa-ven, người bạn thân, người đồng chí đi trước của chúng ta.



THÉP MỚI

Rate

Số người tham gia 4Sức gió +19 Thu lại Lý do
leciel89 + 5 Ủng hộ 1 cái!
pharmcop + 4 tuyệt vời
camngoc + 5 Quá ý nghĩa!
tokpokki + 5 Ủng hộ 1 cái!

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 9-3-2012 18:57:09 | Chỉ xem của tác giả
PHẦN THỨ NHẤT


CHƯƠNG I

- Những đứa nào đến nhà tao đọc bài trước hôm nghi lễ, đứng dậy!

Người mặc áo dài cố đạo lừ mắt quát học trò. Mặt hắn phị mỡ, cổ đeo cây thập tự to sù.

Cặp mắt ti hí mà dữ nhìn chòng chọc vào sáu đứa trò con, bốn trai và hai gái, vừa đứng nhổm dậy. Mấy đứa trẻ khiếp sợ ngước mắt lấm lét nhìn hắn. Hắn chỉ tay về phía các trò gái, ra lệnh:

- Những con bé kia, cho ngồi xuống.

Mấy trò gái trút hơi thở dài ngồi xuống. Cặp mắt lươn của lão cố Vát-xi-li vẫn nhìn chằm chặp vào mấy đứa trò trai còn đứng đấy:

- Lại gần cha nào, các con ngoan của cha.

Hắn xô ghế, đứng lên, sấn đến chỗ mấy đứa nhỏ đang nép vào nhau.

- Bọn mày đứa nào hút thuốc, hở đồ nhãi?

Cả bốn lí nhí trả lời:

- Thưa cha, chúng con không ai hút thuốc ạ.

Lão cố đỏ mặt tía tai.

- Không hút thuốc à, đồ khốn nạn! Vậy thì đứa nào ném thuốc lá vào bột làm bánh thánh? Không đứa nào hút à? Được, để tao xem. Lật túi ra! Mau lên ! Tao bảo: Lật túi ra!

Ba đứa bắt đầu móc hết đồ lề trong túi bày ra mặt bàn. Lão cố khám từng li từng tí vải lót túi, cố tìm một vết tích thuốc lá còn sót lại. Không thấy gì, lão quay ra hỏi đứa thứ tư, một thằng bé mắt đen mặc áo khoác xám và quần xanh có vá ở đầu gối:

- Còn thằng này, tại sao mày cứ đứng như phỗng thế hả?

Thằng bé, mắt nhìn đầy vẻ căm tức, càu nhàu trả lời:  - Thưa cha, quần con không có túi.

Và tay nó sờ vào đường chỉ ở nẹp quần.

- À, à mày bảo mày không có túi hả? Mày ngỡ tao không biết đứa nào tinh nghịch làm hỏng bột của tao phải không? Lần này nữa, mày tưởng tao vẫn cứ để cho mày học ở đây đấy chắc? Không, ôn con ơi, việc này tao không để cho mày yên đâu. Hôm nọ, mẹ mày lạy van mãi, tao mới làm phúc không đuổi mày. Nhưng lần này thì hết cách rồi. Cút khỏi lớp!

Và lão tàn nhẫn xách tai đứa bé, tống ra ngoài hiên.

Cả lớp khiếp đảm ngồi im thin thít. Không ai hiểu tại sao thằng Pa-ven con nhà Ca-rơ-sa-ghin lại bị đuổi ra khỏi trường như thế. Chỉ có một mình Xéc-gây con nhà Bơ-ru-giắc, bạn thân của Pa-ven, là đã trông thấy Pa-ven ném dúm thuốc mộc vào bột làm bánh thánh của lão cố, trong bếp nhà lão ta, hôm bọn sáu trò chưa thuộc bài phải đến nhà lão đọc bài đứng đợi lão ta ở đấy.

Pa-ven bị đuổi, ngồi ở bậc cuối thềm lớp học, vẻ mặt suy nghĩ. Về nhà biết nói làm sao bây giờ? Nói thế nào với mẹ được? Mẹ chăm lo cho từng li từng tí mẹ vất vả đầu tắt mặt tối, nấu bếp hầu hạ nhà lão thanh tra sở thuế.

Pa-ven nghẹn ngào trong cổ họng.

"Làm thế nào bây giờ? Chỉ tại lão cố trời đánh kia cả ! Mình không thể nào không tương thuốc lá vào bột của lão ta. Chính Xéc-gây xui mình: "Cứ nhét vào đi cho đáng đời đồ súc vật nhơ bẩn đó". Thế là mình nhét vào. Xéc-gây thì nó chẳng làm sao đâu, còn mình, chắc chắn là bị đuổi".

Từ lâu, Pa-ven ghét cay ghét đắng lão cố, mà lão ta thì trù Pa-ven ra mặt. Một hôm vì đánh nhau với thằng Mi-sa Lép-súc, Pa-ven đã bị lão phạt giam ở lớp và không được ăn cơm chiều. Hôm đi phạt, vì không có người trông, sợ nó ngồi một mình trong lớp lại nghịch, lão cố nhét Pa-ven vào lớp học trò lớn, ngồi ở hàng ghế cuối lớp đệ nhị.

Thầy giáo lớp đệ nhị, người bé nhỏ, khô đét, mặc áo vét-tông đen, đang giảng về trái đất và các vì sao trên trời. Pa-ven há miệng ngồi nghe, rất lấy làm lạ. Ra trái đất đã có từ hàng triệu năm nay và các vì sao trên trời hóa ra cũng giống trái đất. Pa-ven thấy kỳ lạ quá, những muốn đứng lên thưa với thầy: "Điều thầy nói thật khác hẳn thánh sử" . Nhưng Pa-ven không dám hỏi, sợ bị phạt.

Pa-ven vốn rất cừ về môn thánh sử, bao giờ cũng được lão cố cho điểm nhất. Cậu thuộc làu làu kinh truyện Sấm truyền cũ và Sấm truyền mới, nhớ hết mọi chuyện trong kinh Sáng-thế-kỷ. Từ hôm nghe thầy giáo giảng ngược hẳn với thánh kinh, Pa-ven không yên dạ một tí nào, định bụng mang chuyện ấy hỏi lại lão cố Vát-xi-li, thì gặp ngay hôm sau học bài về kinh thánh. Lão cố vừa đặt mình xuống ghế là Pa-ven giơ tay liền. Được phép nói, Pa-ven đứng dậy:

- Thưa cha, sao thầy giáo lớp trên nói là trái đất có hàng triệu năm nay mà kinh thánh thì lại dạy Chúa Lời sinh ra trái đất này mới có năm nghìn...

Pa-ven chưa kịp nói hết thì tiếng quát của lão cố đã rít lên ngắt lời:

- Mày nói sao, thằng khốn nạn? Mày học lời Chúa phán truyền như thế đấy phải không?

Và Pa-ven chưa kịp mở miệng thì lão cố đã xông ngay đến, xách hai tai Pa-ven, dập đầu cậu ta vào tường. Một phút sau cậu bé bị đòn đau hết vía và bị vứt ra ngoài hiên.

Về nhà, Pa-ven cũng bị mẹ đánh một trận nên thân.

Hôm sau, mẹ đến trường van nài lão cố, xin được cho Pa-ven lại vào học. Từ hôm ấy, Pa-ven mang lòng căm thù lão cố hết sức. Thù và sợ. Xưa nay cậu không để ai làm nhục mình. Cậu không quên được trận đòn oan ức ấy. Căm giận uất người mà cố nén.

Cậu đã phải chịu nhiều nỗi bực nữa vì lão cố Vát- xi-li: lão thường kiếm cớ rất nhỏ đuổi Pa-ven ra cửa; có khi hàng tuần lễ bắt Pa-ven ngồi ở góc lớp quay mặt vào tường. Lão lại thôi không gọi Pa-ven đọc bài ở lớp. Cho nên, trước ngày nghỉ lễ Phục sinh vừa qua, Pa-ven mới phải nhập bọn với những trò kém đến nhà lão đọc gộp tất cả bài để lấy điểm học kỳ ba tháng. Được dịp, Pa-ven mới nảy ra trò tinh nghịch : ném thuốc lá vào bột làm bánh thánh trong bếp nhà lão ta.
Tuy không ai nhìn thấy, nhưng lão cố vẫn đoán biết ngay đứa nào nghịch rồi.

…Giờ ra chơi, trẻ con ùa ra sân và quây lấy Pa- ven. Pa-ven sa sầm nét mặt, cau mày đứng yên. Xéc- gây ở lại trong lớp: cậu thấy mình cũng có can dự đến chuyện này, song không làm thế nào để cứu bạn được.

Ông đốc Ê-phơ-rê-ma ngó đầu ra cửa sổ. Giọng nói to của ông ta làm Pa-ven giật nảy mình. Ông quát lên:

- Đưa thằng Pa-ven lên đây ngay!

Trống ngực đánh thình thịch, Pa-ven đi lên buồng họp của các thầy giáo.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 9-3-2012 19:00:22 | Chỉ xem của tác giả
Lão chủ hàng cơm ngoài ga, người đứng tuổi, mặt tái ngắt, mắt lợn luộc, liếc nhìn Pa-ven đứng nép vào bên mẹ.
- Nó lên mấy?

Bà mẹ đáp:  - Cháu mười hai.

- Được, để nó ở lại đây làm. Công nó thì tám rúp một tháng, cộng với ngày nào đi làm thì được cơm nuôi nữa. Cách một ngày làm một ngày, tính mỗi ngày làm hai mươi bốn tiếng liền. Và coi chừng nhất là nó đừng có nảy tính ăn cắp.

Bà mẹ hốt hoảng trả lời:  - Xin ông đừng lo, cháu không có tính tắt mắt đâu ạ. Tôi xin cam đoan với ông như vậy.

- Thôi được. Cho nó vào làm ngay hôm nay.

Nói rồi quay sang phía mụ hầu bàn đứng cạnh, đằng sau quầy rượu, lão ta bảo:

- Mụ Di-na đâu? Dẫn nó vào chỗ rửa bát, nói với con Phơ-rô-xi-a giao cho nó làm thay phần việc của con Gơ-ri-sa.

Mụ bán hàng bỏ con dao đang thái giò sấy xuống, gật đầu ra hiệu cho Pa-ven, rồi bước qua phòng, đi đến cửa ngách vào chỗ rửa bát. Pa-ven đi theo mụ Di-na. Mẹ Pa-ven cũng rảo bước theo con, rỉ tai dặn vội mấy lời:

- Chăm mà làm con nhé! Đừng để mẹ mang tai mang tiếng.

Bà mẹ buồn rầu nhìn theo con, rồi bước ra cửa.

Trong buồng rửa bát, công việc tất tả. Trên bàn, đĩa chất đống, dao dĩa ngổn ngang. Những người đàn bà, khăn lau vắt qua vai, lau lau chùi chùi đĩa và dao dĩa.

Một đứa nhỏ tóc rối bờm xờm, không lớn hơn Pa- ven mấy, đang loay hoay đun hai ấm tướng nước.

Gian nhà ngùn ngụt hơi nước từ chậu nước nóng rửa bát đĩa tỏa lên. Thoạt vào, Pa-ven đã không thể nào nhìn rõ được mặt từng người đàn bà đang làm. Cậu ngơ ngác, không biết đứng vào đâu, làm ăn ra sao. Mụ Di-na lại gần một chị rửa bát, kéo vai nói:

- Phơ-rô-xi-a, đây một chú bồi phụ mới vào, thay chân rửa bát của con Gơ-ri-sa. Mày chỉ bảo cho nó làm.

Rồi quay lại phía Pa-ven và chỉ vào người tên gọi là Phơ-rô-xi-a ấy, mụ Di-na nói thêm:

- Con này trông về rửa bát, nó bảo gì mày phải nghe theo.

Dứt lời, mụ Di-na quay gót trở ra ngoài quầy hàng.

- Vâng.

Pa-ven khẽ đáp lại và đưa mắt hỏi Phơ-rô-xi-a. Phơ-rô-xi-a lấy khàn lau mồ hôi trán, nhìn Pa-ven từ đầu đến chân như để tính xem cậu bé làm được gì rồi vừa xắn lại một bên tay ảo đã tuột xuống dưới khuỷu tay, vừa nói với Pa-ven, giọng thanh thanh, dễ nghe:

- Việc của em chẳng có gì khó cả. Em nom thùng nước này, em đun nhỏ lửa, trông sao cho lúc nào thùng nước cũng đầy nước sôi. Em chẻ củi nữa, rồi đến nom thêm cả hai ấm nước chè cũng là việc của em. Sau này khi nào cần thì lau thêm dao dĩa và đi đổ rác. Cũng khối việc, đủ làm bở hơi tai đấy, em ạ.

Phơ-rô-xi-a nói giọng vùng Cô-stơ-rôm hay kéo dài vần a; giọng nói, sắc mặt đỏ hây hây và cái mũi cao nhọn của cô làm Pa-ven cũng thấy vui vui. "Cô này ngó bộ cũng không dữ đâu"; - Pa-ven nghĩ bụng thế, rồi mạnh dạn mở miệng hỏi:

- Cô bảo cháu bây giờ phải làm gì trước?

Cả bếp phì cười. Tiếng cười phá lên làm át cả những lời cuối câu của Pa-ven.

- Ha ha ha!... Phơ-rô-xi-a mới vớ được cháu gọi bằng cô.
- Ha ha!

Chính Phơ-rô-xi-a cười to hơn mọi người. Thì ra hơi nước bốc mù lên làm Pa-ven không trông rõ mặt cô ta. Phơ-rô-xi-a mới xấp xỉ mười tám tuổi thôi.

Ngượng quá, Pa-ven quay hỏi thằng bé cùng làm.

- Bây giờ mình phải làm gì trước, hở cậu?

Nó đã không trả lời, lại trêu Pa-ven thêm:

- Hỏi cô mày ấy, tao biết đâu đấy. Tao có ở đây đâu - Nói rồi, nó chạy ra cửa, vào trong bếp mất.

Một bà rửa bát đã có tuổi lên tiếng:

- Mày lại đây giúp tao một tay lau dĩa. Các người lạ thật, thằng bé nó nói, có gì mà cười. Đây này, giữ lấy. Bà vừa nói vừa đưa cho Pa-ven chiếc khăn lau. - Lấy răng cắn một đầu khăn, lấy tay kéo đầu kia ra cho thẳng. Tay này cầm dĩa, cọ đi cọ lại. Cốt nhất đừng để giắt bẩn ở kẽ dĩa. Để giắt bẩn thì khốn đấy, không phải chuyện chơi đâu. Các ông khách ăn họ nhìn kỹ lắm, họ mà thấy dĩa bẩn thì vạ vào thân đấy, con ạ! Bà chủ sẽ cho mày ra khỏi cửa ngay lập tức.

Pa-ven ngạc nhiên:
- Sao lại có bà chủ nữa à? Ở đây chỉ thấy ông chủ nhận cháu vào làm thôi cơ mà.

Bà già rửa bát phì cười:

- Ông chủ ở đây chỉ là một thứ bù nhìn thôi, con ạ. Bà ta mới là chủ đứng đầu trông coi ở đây. Hôm nay bà ta không đến. Mày cứ làm rồi sẽ thấy.

Cửa mở, ba người bồi bàn đi vào, mỗi người bê một chồng đĩa bẩn. Một lão, mặt bạnh vuông, mắt lé, vai rộng, nói bô bô:

- Trong bếp nhanh tay lên chứ! Chuyến tàu trưa sắp đến rồi, mà sao trong này làm rù rờ thế.

Nhìn thấy chú bé Pa-ven, hắn hỏi: - Đứa nào thế này?

- Em nó mới vào làm. - Phơ-rô-xi-a trả lời.

- À ! Mới vào này - Lão bồi bàn đập bàn tay nặng trịch của hắn lên vai Pa-ven, ẩy cậu về phía mấy lò đun nước, lên giọng:

- Nước lúc nào cũng phải có sẵn. Thế mà mày thử trông xem, một lò tắt ngấm, lò kia thì lửa cũng sắp lụi. Hôm nay ông hãy tha cho mày. Mai còn như thế, ông tống vào miệng. Hiểu chưa?

Không nói nửa lời, Pa-ven quay lại lò đun nước.

Thế là bắt đầu cuộc đời đi làm. Chưa bao giờ Pa- ven chăm việc như ngày đầu tiên đi làm này. Pa-ven đã hiểu: đây không còn như ở nhà nữa. Ở nhà, mẹ bảo còn có thể không nghe. Chứ ở đây, lão mắt lé nó đã nói trắng ra rồi: không nghe thì nó vả cho vào mặt thật.

Nồi nấu nước chè to phình như cái vại, đổ bồn thùng nước mới gọi là đầy. Không có quạt lò, Pa-ven tháo chiếc giày ống quặp vào ống thông hơi, thổi lửa. Tia lửa từ các lò bay ra tung tóe. Cả ngày cứ quanh quẩn với những xách nước đổ vào nồi, đổ nước rửa bát, trông lò rồi lại tãi mấy khăn ướt lau bát ra hơ trên ấm nước nóng hỏng, làm mọi việc người ta sai. Đêm đã khuya lắm Pa-ven mới lần xuống bếp, người mỏi nhừ.

Bà rửa bát A-ni-xi-a nhìn ra cửa, vừa khuất bóng Pa-ven, chép miệng nói:

- Thằng bé mới lạ chứ! Làm quần quật suốt ngày, tất ta tất tưởi như bị ma vật. Còn bé thế mà đã phải đi làm chắc cũng phải vì thế nào đây.

Phơ-rô-xi-a ngắt lời:

- Thằng bé khá đáo để, làm ăn chẳng phải kèm gì cả.

Mụ Lu-sa bẻ lại:

- Cứ để yên rồi xem, chẳng chán ngay đấy. Đứa nào cũng thế, mới làm bao giờ chẳng chăm...

Đến bảy giờ sáng, Pa-ven mới hết tội khổ sai, người rã rời sau một đêm mất ngủ và chạy đi chạy lại luôn chân. Thằng bé đến đổi ca, dáng người dong dỏng, má bánh đúc, hai con mắt xấc, nhìn thao láo.

Ngó xem đâu vào đấy cả rồi và thấy hai nồi nước vẫn đang nóng sôi, nó thọc tay vào túi quần, chét một bãi nước bọt tướng, nhổ toẹt một cái, rồi trợn lòng trắng mắt lên nhìn Pa-ven, nói giọng trịch thượng:

- Ê thằng nhóc! Sáng mai, sáu giờ đến thay tao.

Pa-ven ngạc nhiên hỏi lại:

- Sao lại sáu? Bảy giờ người ta mới đổi ca cơ mà?

- Người ta khác, mày khác. Tao bảo mày đến sáu giờ thì mày cứ đến sáu giờ. Nếu mày cãi lại tao thì tao đập vỡ mặt mày ra. Liệu hồn, nhóc bọ, mới vào mà đã đòi lên mặt.

Những chị rửa bát đã tan tầm, chăm chú nhìn hai đứa bé cãi nhau. Giọng xấc xược, thái độ ngang ngược của thằng bé kia làm Pa-ven tức đến tận cổ. Cậu tiến lại gần nó, chực giã ngay, song lại ghìm được, sợ ngày đầu đi làm đã lôi thôi thì có khi bị đuổi. Pa-ven sa sầm nét mặt, nén giận nói:

- Này, từ từ chứ, đừng chọc vào tao mà bỏng tay đấy, con ạ! Mai đúng bảy giờ tao mới đến. Còn muốn chơi nhau, tao chẳng lép vế đâu. Muốn thử thì tao chẳng kiêng đâu nhớ.

Thằng kia không ngờ Pa-ven cứng thế, nên chịu lép. Nó sửng sốt nhìn Pa-ven lúc ấy đã nổi gân mặt, rồi lùi lại phía cái chậu, lẩm bẩm:

- Được, rồi xem ai biết tay ai.

Ngày đầu tiên đi làm thế là không xảy ra chuyện gì, Pa-ven yên trí ra về, lòng khoan khoái như một người đã làm đầy đủ bổn phận, có quyền được nghỉ.

Bây giờ đi làm rồi, không ai còn dám bảo mình là ăn không ngồi rồi nữa.

Mặt trời ban mai uể oải ló ra khỏi tòa nhà máy cưa. Căn nhà Pa-ven lụp xụp hiện dần ra trong sương sớm. Nhà đây rồi, ngay sau biệt thự nhà của Lê- sinh-ski.

Miệng huýt sáo, chân bước rào, Pa-ven nghĩ thầm: "Mẹ chắc đã dậy rồi và mình thì đi làm về. Thôi thì bị đuổi học thế cũng chẳng khổ lắm. Có được nó cho vào học lại thì cũng đến bị lão cố trời đánh làm mình điêu đứng không sống yên được. Giờ thì ông cóc cần !" Đang nghĩ lan man thì đến nhà. Pa-ven mở cửa, rồi sực nhớ: "Còn thằng bé tóc hoe kia, mày sẽ biết tay ông, ông nhất định sẽ cho mày vỡ quai hàm".

Mẹ đang loay hoay đun nước ở sân. Thấy bóng con, bà hỏi một cách lo âu:

- Sao, công việc thế nào con, có khá không?

- Khá lắm, mẹ ạ.

Thấy mẹ như có chuyện gì muốn báo cho mình biết, Pa-ven hiểu ngay: ngó vào cửa sổ mở rộng, cậu đã nhìn thấy cái lưng rộng của A-rơ-chom.

Bối rối, Pa-ven hỏi mẹ:

- Anh A-rơ-chom đã về đấy, hở mẹ?

- Ừ, về tối qua và ở hẳn nhà. Anh con sẽ về làm ở sở đầu máy xe lửa.

Pa-ven mở cửa, không còn đủ tự tin nữa.

Thân hình to lớn ngồi bên bàn, lưng quay về phía Pa-ven, bỗng ngoảnh lại, cặp mắt nghiêm khắc của anh, dưới đôi lông mày đen rậm, nhìn Pa-ven chằm chằm.

- À, tay nghịch thuốc lá đã về đấy à! Chào cậu!

Nói chuyện với anh xem chừng chẳng êm ái chút nào đâu. Pa-ven nghĩ thầm: "Anh biết tất cả rồi, ông ấy bực lên thể nào cũng tế cho một mẻ. Có khi còn nện cho nữa".

Pa-ven vẫn hơi sợ anh.
Nhưng A-rơ-chom không có vẻ gì muốn đánh em cả. Ngồi trên ghế đẩu, tay tỳ lên bàn, anh chỉ nhìn em không rời mắt. Cái nhìn không ra vẻ nhạo mà cũng không ra vẻ ghét, Pa-ven không biết đằng nào mà đoán.

Tiếng anh phá không khí yên lặng nặng nề:

- Hình như mày đã học xong cả rồi thì phải, mọi thứ khoa học đều tinh thông, nên bây giờ mày bắt đầu chuyển về khoa rửa bát.

Pa-ven nhìn chằm chặp vào kẽ sàn gỗ, mắt như dán vào mũ một chiếc đinh đâm trồi lên. Nhưng A- rơ-chom đã đứng lên đi vào bếp.

"Lần này thì thoát nạn rồi", - Pa-ven thở dài nhẹ nhõm.
Đến tối, ba mẹ con ngồi uống nước. Anh A-rơ-chom mới từ tốn hỏi lại câu chuyện xảy ra ở lớp học. Pa- ven kể lại tất cả.

Giọng mẹ buồn rầu:

- Mày còn ít tuổi đã ngỗ ngược thế thì lớn lên làm gì được, hở con? - Rồi mẹ than phiền: - Biết làm sao với nó được? Cả nhà nó chẳng giống tính ai. Trời ơi, con tội, con nợ, nó làm khổ tôi bao nhiêu lần rồi.

Anh A-rơ-chom đẩy cái chén không ra, nói với Pa-ven:

- Nghe anh nói đây, cơ sự đã như thế ta không nhắc đến nữa. Nhưng từ nay em phải thận trọng, nghĩ đến làm ăn, đừng có tơ tưởng đến trò nghịch ngợm. Chịu khó mà làm. Nếu còn lung tung bị đuổi nữa thì tao sẽ sửa cho một trận hết đường chui. Hãy nhớ lấy. Mày làm tội mẹ thế đã đủ rồi. Quỷ quái! Đến đâu là gây sự đến đấy, ở chỗ nào cũng làm mang tai mang tiếng. Bây giờ thì phải thôi hẳn. Nếu làm ăn được, sang năm sẽ xin cho vào học nghề trong sở đầu máy, không có cứ ở trong bếp hàng cơm mãi với đống bát đĩa nhếch thì chẳng đời nào ra hồn con người được. Phải học lấy một nghề. Bây giờ thì còn bé quá, chưa đủ tuổi, một năm nữa sẽ xin cho mày vào, chắc người ta sẽ nhận. Còn tao đã được đổi về đây làm rồi. Mẹ sẽ thôi không đi làm nữa. Không để cho mẹ cứ phải cúi lưng trước những quân khốn nạn ấy mãi. Còn mày phải mở mắt ra, mày phải thành người mới được.

Anh nói xong, đứng dậy, với chiếc áo vắt ở lưng ghế khoác lên người và nói với mẹ:

- Con đi có việc độ một tiếng sẽ về. Thân hình cao lớn, anh đi qua cửa phải cúi đầu xuống. Ra đến sân, anh nói vọng vào:

- Tao có mang về cho mày con dao và đôi giày. Nói mẹ đưa cho.

Hàng cơm nhà ga dọn hàng suốt ngày đêm, không lúc nào nghỉ.

Ga này có đường xe lửa đi sáu ngả. Nhà ga lúc nào cũng chật ních người, chỉ yên tĩnh độ hai, ba tiếng ban đêm, giữa hai chuyến tàu. Hàng trăm chuyến tàu quân sự tránh nhau ở đây, từ mặt trận về, hoặc đi ra mặt trận. Từ ngoài ấy, tàu chở về những con người tàn phế, thương tật đầy mình. Ra mặt trận, thì nó lại đưa đi lớp lớp thịt tươi mặc binh phục xám, những người lính không tên không tuổi.

Pa-ven làm ở hàng cơm này đã hai năm ròng. Xó bếp và chỗ rửa bát, đó là tất cả những gì Pa-ven đã thấy trong hai năm trời nay. Trong hầm rộng này, hơn hai chục người làm lụng bận tíu tít cả ngày. Mươi người bồi bàn chạy đi chạy lại từ ngoài hàng vào bếp.

Lương Pa-ven bây giờ không phải là tám rúp nữa, mà lên mười rúp rồi. Hai năm đi làm, người lớn lên, chắc ra, và nếm mùi đủ thứ công việc. Làm chân phụ bếp, người bị khói hun nửa năm trời, rồi lại bị tống ra làm chân rửa bát. Lão bếp chủ đuổi Pa-ven ra. Lão ta rất có quyền thế, chẳng ưa gì thằng bé cứng đầu cứng cổ mà lão cho là nó có thể lấy dao ghè vào răng lão, nếu lão động đến người nó. Pa-ven chỉ được cái dai sức làm quần quật, chứ không cũng bị tống ra cửa từ lâu rồi. Pa-ven làm không biết mệt, về mặt làm ăn chịu khó thì không ai bì kịp được.

Đến giờ khách ăn đông thì Pa-ven làm hăng ra trò. Hàng chồng khay bát đĩa trên tay, cứ ba chân bốn cẳng nhảy hàng bốn, năm bậc thang một, từ dưới chỗ rửa bát lên bếp, rồi lại từ bếp xuống chỗ rửa bát.
Đêm đến, khách ăn vãn, bọn bồi bàn tụ tập nhau ở dưới nhà, vào gian buồng xép cạnh bếp. Chúng thò cỗ bài ra, chơi canh bạc lớn, sát phạt nhau chí tử. Nhiều lần Pa-ven trông thấy chúng xỉa ra hàng đống giấy bạc. Pa-ven trông thấy chúng có nhiều tiền như thế chẳng lấy làm lạ. Pa-ven biết mỗi tên bồi bàn ấy vớ được mỗi ngày ba bốn chục bạc "tiền diêm thuốc"  khách cho, người dăm hào, kẻ một đồng. Có tiền là chúng rượu, chè, cờ bạc. Pa-ven thấy rất ghét bọn chúng.

Cậu nghĩ: "Quân khốn nạn! Anh A-rơ-chom mình, thợ nguội hạng nhất, mà cũng chỉ có bốn mươi tám rúp một tháng; mình thì mười rúp. Đồ chó chỉ có việc bày bàn mà vớ bở thế! Sẵn tiền lại nốc rượu hay nướng vào bài bạc".

Pa-ven xem bọn bồi bàn cũng như bọn chủ hàng, là lũ người xa lạ đáng ghét. "Bọn chó má ấy ở đây thì làm đầy tớ, cúi luồn thiên hạ, nhưng vợ con chúng nó ra phố thì phè phỡn như bọn nhà giàu?". Đôi khi chúng dắt vợ con đến, con chúng nó diện đồng phục học trò trung học, vợ chúng nó béo phị mỡ. Pa-ven nghĩ thầm: "Mấy thằng sắp bàn cho người ta ăn, có khi còn nhiều tiền hơn khách hàng chúng hầu đấy!". Pa-ven cũng chẳng lạ gì nữa, cả những chuyện thường xảy ra ban đêm trong các xó bếp, và các buồng xép hàng cơm. Không người đàn bà rửa bát, hay đơm món ăn nào còn làm lâu được, nếu dám từ chối không chịu bán thân lấy vài đồng rúp cho bất cứ kẻ nào có quyền thế ở đây.

Pa-ven đã nhìn sâu vào cặn đáy cuộc đời. Cậu thấy như mình nhìn vào một cái hố bẩn, mùi bùn đen cặn bã bốc lên trong khi cậu đang tuổi khao khát những chuyện mới lạ, những chuyện chưa từng biết đến. A- rơ-chom không làm thế nào xin cho Pa-ven vào học việc trong sở đầu máy xe lửa được. Người ta không lấy trẻ dưới mười lăm tuổi. Pa-ven thì chờ mong ngày thoát khỏi hàng cơm. Tòa nhà đồ sộ của sở đầu máy bằng đá ám khói thật có sức hấp dẫn đối với Pa-ven.

Pa-ven thường theo anh đi kiểm tra các toa tàu. Cậu cố tìm ra việc làm giúp anh.

Từ khi Phơ-rô-xi-a bị đuổi đi, cuộc đời càng buồn tẻ. Vắng mặt người con gái lúc nào cũng vui cũng cười, Pa-ven càng cảm thấy sâu sắc thêm tình thân giữa cậu và Phơ-rô-xi-a khăng khít biết nhường nào. Mỗi sáng, vào buồng rửa bát, không thấy Phơ-rô-xi- a, mà chỉ nghe toàn những lời la, tiếng chửi của những mụ tản cư mới vào làm, Pa-ven cảm thấy sao mà trống trải, cô đơn quá.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 9-3-2012 19:02:42 | Chỉ xem của tác giả
Vào giờ vãn việc lúc đêm khuya, Pa-ven xếp nốt củi vào lò và ngồi xổm trước cửa bếp, chớp mắt nhìn ngọn lửa, hơi ấm dễ chịu. Trong buồng rửa bát chẳng còn ai. Bất giác Pa-ven lại nghĩ đến chuyện Phơ-rô- xi-a. Cái cảnh trông thấy hôm trước, hôm nay nhớ lại rõ mồn một.

Hôm ấy cũng vào giờ này. Đêm khuya, Pa-ven lần cầu thang xuống bếp. Đến chỗ ngoặt, Pa-ven tò mò leo lên đống củi để ngó vào buồng xép xem bọn đánh bạc. Canh bạc đang gay go. Dê-li-va-nốp ngồi cầm cái, đang cay cú, mặt đỏ nhừ.

Có tiếng chân người ở cầu thang. Pa-ven quay lại: lão bồi bàn mắt lé Pơ-rô-khô-sơ-ca từ trên đi xuống. Pa ven vội vàng chui xuống gầm cầu thang chờ cho lão đi khuất vào bếp.

Pơ-rô-khô-sơ-ca đã đi khỏi chỗ ngoặt, Pa-ven nhìn thấy rõ cái lưng rộng và cái đầu to của hắn. Trên cầu thang còn có tiếng chân nhẹ của ai chạy gấp: tiếng ai quen quen:

- Bác Pơ-rô-khô-sơ-ca, cho tôi hỏi tí!

Pơ-rô-khô-sơ-ca dừng chân, quay lại, ngước mắt lên, miệng càu nhàu:
- Hỏi gì?

Tiếng chân trên cầu thang bước xuống nữa, Pa- ven nhận ra Phơ-rô-xi-a.

Phơ-rô-xi-a nắm lấy tay áo lão bồi bàn, giọng thất thanh, hổn hển:

- Bác Pơ-rô-khô-sơ-ca, tiền lão quan hai đưa cho bác đâu cả rồi?

Pơ-rô-khô-sơ-ca giật tay lại, sừng sộ:

- Cái gì? Tiền à? Thế tao không đưa cho mày là gì?

- Nhưng hắn đưa cho bác những ba trăm cơ mà? Phơ-rô-xi-a, nghẹn ngào, giọng nói run lên bần bật. Pơ-rô-khô-sơ-ca cười gằn:

- Mày nói sao, ba trăm à? Thưa bà, thế bà định xơi cả ba trăm sao? Bà không thấy là đồ rửa bát mà đòi cả ba trăm thì hơi đắt một tí hay sao? Tao cho mày năm chục là phúc rồi. Mày tưởng ngủ với mày khoái lắm đấy. Lắm bà lớn lịch sự hơn mày nhiều, lại có học hẳn hoi cũng chẳng dám đòi bằng ấy. Mày phải cảm ơn tao mới phải, ngủ một đêm với người ta mà lại còn được xơi năm chục nữa. Đừng tưởng tao là thằng ngốc. Thôi, tao thí cho thêm độ hai chục nữa. Chỉ có thế thôi, con ạ ! Nếu mày không là đồ ngốc, thì cứ thế mà làm ăn, tao sẽ che chở cho.

Nói xong, lão bồi bàn quay phắt đi, chuồn vào bếp.

- Đồ ba que, đồ khốn nạn! - Phơ-rô-xi-a chửi vào mặt nó, và gục đầu lên đống củi khóc nức nở.

Tâm hồn Pa-ven bàng hoàng, xáo động không sao tả xiết. Đứng trong bóng tối nghe hết câu chuyện, và thấy Phơ-rô-xi-a khóc nấc, đầu đập vào thanh củi, tay ghì chặt lấy cột thang sắt, Pa-ven không để lộ ra mình đứng ở đó. Một ý nghĩ rất rõ nảy ra trong óc Pa-ven: "Cả Phơ-rô-xi-a nữa cũng bị chúng bắt làm tiền, bọn khốn nạn! Phơ-rô-xi-a ! Phơ-rô-xi-a ơi !". Từ đấy lòng căm ghét của Pa-ven đối với lão bồi bàn càng lắng sâu xuống mãnh liệt thêm, mà chung quanh càng trở nên ghê tởm, đáng thù ghét: "Mình khỏe thì mình nện chết thằng súc sinh ấy ngay. Tiếc thay mình không to khỏe như anh A-rơ-chom?".

Tia lửa trong lò bốc lên và tắt đi, lập lòe, cuồn cuộn thành hình xoáy ốc xanh lơ, ngọn lửa rung rung lóe đỏ lên; nhìn lửa, Pa-ven cảm thấy như có ai thè lưỡi ra chế nhạo mình.

Gian nhà yên lặng, chỉ có tiếng củi nổ lép bép và tiếng rỏ giọt đều đều ở vòi nước. Bếp vắng ngắt, không một ai; bếp chủ và các bếp phụ đã vào buồng móc áo nằm ngủ rồi. Yên tĩnh được ba tiếng đồng hồ. Vào giờ này, chú phụ bếp Cơ-lim- ca thường lên chơi với Pa-ven. Nó treo cái xoong cuối cùng đã đánh bóng nhoáng, rồi chùi tay, nhảy lên với Pa-ven. Đến nơi, nó thấy Pa-ven đang ngồi xổm trước lò để ngỏ. Bóng Cơ-lim-ca lù lù trên tường. Pa- ven nhận ra ngay cái bóng người đầu rối bù này. Cậu không ngoảnh lại, nói với Cơ-lim-ca:

- Ngồi xuống đây, Cơ-lim-ca !

Cơ-lim-ca leo lên đống củi nằm, nhìn Pa-ven đang lặng lẽ ngồi, vừa nói vừa cười:

- Cậu làm phù thủy gọi lửa lên đấy à?

Cơ lim-ca thôi cười ngay, vì thấy đôi mắt sáng to của bạn buồn rầu rời đống lửa quay ra nhìn mình. Trong đôi mắt bạn, lần đầu tiên Cơ-lim-ca thấy chứa đựng một nỗi buồn u uất.

- Pa-ven ơi! Hôm nay trông cậu thế nào ấy...

Lặng một lát, Cơ-lim-ca hỏi tiếp:

- Có chuyện gì thế, hở Pa-ven?

Pa-ven đứng dậy, lại ngồi bên bạn, giọng nói khe khẽ:

- Chẳng có chuyện gì cả. Mình chỉ thấy chán ngấy cuộc đời này lắm, Cơ-lim-ca ạ !

Đôi bàn tay Pa-ven vẫn để thõng trên đầu gối bỗng nắm chặt lại. Cơ-lim-ca chống khuỷu tay nhổm lên hỏi tiếp:

- Hôm nay cậu gặp chuyện gì mà sinh ra chán vậy?

- Nào phải mãi đến nay mới sinh ra chán đâu! Ngay từ hôm mới vào làm là mình đã chán rồi. Cậu thử nghĩ xem. Mình còng lưng làm như lạc đà, mà đứa nào thích miệng, thích tay cũng mắng với vả vào răng mình được.. Bị đánh, bị mắng, chẳng ai bênh mình. Bọn chủ thuê tớ và cậu đến đây làm, thế mà bất cứ đứa nào có thế lực ở đây cũng có quyền đánh chúng mình. Mình chạy ba chân bốn cẳng, làm bở hơi tai rồi, mà không thể nào vừa ý tất cả mọi đứa được. Mình đã cố làm để không ai kêu được, vậy mà vẫn có lúc chậm chân chưa kịp hầu đứa nào, thì bị nó nện cho ngay…

Cơ lim-ca sợ quá, can bạn...

- Nói khẽ chứ mày, khẽ chứ không lỡ có đứa nào vào nghe thấy.

Pa-ven chồm lên:

- Nghe thấy thì đã sao? Đứa nào có nghe thấy tao cũng cóc sợ, đằng nào tao cũng đi khỏi đây cơ mà, thà đi quét tuyết ngoài đường sắt, còn hơn chúi đầu trong xó nhà mồ này ăn ở với quân đểu giả. Thằng nào túi cũng đẫy bạc. Chúng nó coi chúng mình như trâu, như chó. Con gái ở đây thì chúng muốn làm gì cũng được. Nếu gặp người nào tử tế cưỡng lại thì chúng nó tống ngay ra cửa. Mà họ ra cửa thì mày bảo họ biết đi đâu được? Bọn chúng nó tính thâm thật: khi cho đàn bà vào làm, chúng chọn toàn người tản cư, không cửa không nhà, chết đói đến nơi cả. Họ vào làm cốt kiếm lấy mẩu bánh qua ngày, Ở đây, ít ra cũng còn có ăn. Cho nên chúng nó bắt họ làm gì họ cũng phải làm…

Pa-ven nói, giọng đầy phẫn nộ đến nỗi làm Cơ- lim-ca sợ có người nghe hết chuyện, phải nhảy xuống đóng cửa lại. Pa-ven vẫn nói như trút hết nỗi uất ức trong lòng:

- Còn đằng ấy, Cơ-lim-ca ạ, chúng nó nện cậu mà cậu cứ im thin thít. Tớ không hiểu sao cậu lại im được như thế.

Pa-ven mệt quá, ngồi phịch xuống ghế đẩu bên bàn, hai tay ôm lấy đầu, dáng điệu mệt lả. Cơ-lim- ca đùn củi vào lò và cũng ngồi lại gần bàn. Cậu hỏi Pa-ven:

- Đêm nay ta không đọc gì à?

Pa-ven trả lời:

- Không có sách. Hàng sách đóng cửa rồi.

Cơ lim-ca ngạc nhiên:

- Sao? Hôm nay là ngày lễ à?

Pa-ven đáp:

- Cảnh sát đã tóm người bán sách đi rồi. Nghe đâu bọn chúng tìm thấy có cái gì ở nhà ông ta.

- Chúng bắt ông ta rồi à? Vì sao vậy?

- Tớ nghe người ta nói ông ta bị bắt vì chuyện chính trị.

Càng sửng sốt, Cơ-lim-ca nhìn Pa-ven: - Chính trị nghĩa là gì hở cậu?

Pa-ven nhún vai nói: - Trời biết được! Nghe người ta nói hình như ai chống Nga hoàng thì gọi là chính trị thì phải.

Cơ-lim-ca giật nảy mình sợ sệt:  - Thế có người dám chống Nga hoàng cơ à?

Pa-ven đáp: - Mình chẳng biết nữa.

Hai người đang nói chuyện thì cửa mở, mụ Gơ-la- sa, mặt còn ngái ngủ, bước vào buồng rửa bát:

- Lũ nhóc chúng mày sao chưa đi ngủ? Tàu chưa đến, có thể nhắm mắt được một tiếng đấy. Pa-ven, đi ngủ thôi, để tao trông lửa cho.

Chuyện bất ngờ xảy ra, kết thúc quãng đời đi làm ở hàng cơm của Pa-ven sớm hơn cậu ta đã tưởng.
Vào một ngày tháng Giêng giá rét, Pa-ven vừa tan tầm đã định về, nhưng thằng bé làm thay vẫn chưa chịu đến cho. Pa-ven đến trình mụ chủ xin về, nhưng mụ ta không cho về. Mặc dù mệt lử, Pa-ven vẫn phải làm liền hôm nữa thay cho thằng bé kia. Tối đến thì đã kiệt sức. Trong lúc nghỉ đêm, Pa-ven còn phải xách nước đổ đầy mấy nồi và đun sôi cho kịp chuyến tàu ba giờ sáng.

Pa-ven mở vòi, nước tắc không chảy. Rồi quên không khóa máy lại, Pa-ven ngả lưng trên đống củi, và ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Mấy phút sau, nước lên ùng ục trong vòi, nước chảy đầy cả mặt thùng chứa nước, tràn ra sàn buồng rửa bát vào lúc này thường rất vắng vẻ không có ai. Nước cứ chảy mãi, lênh láng, ngập sàn, rồi theo kẽ cửa rỉ ra ngoài các phòng khác. Nước như suối chảy ngầm dưới những bọc hàng và va-li của hành khách lúc ấy đang ngủ. Không ai biết, mãi đến lúc nước làm ướt sũng một người khách ngủ dưới đất, người này choàng tỉnh dậy, la lên. Mọi người thức dậy, người nào người ấy nháo nhào chạy bổ đến chỗ hành lý của mình. Nhốn nháo cả lên.

Nước vẫn cứ chảy ập vào.

Pơ-rô-khô-sơ-ca đang dọn bàn ăn bên phòng thứ hai, thấy khách kêu náo động, vội nhảy qua những vũng nước, ba chân bốn cẳng chạy ra, đùng đùng mở toang cửa. Nước từ lâu bị cửa chắn ứ lại được dịp chảy ồ vào phòng như thác lũ.
Tiếng kêu la nổi lên càng dữ dội. Các bồi bàn trực nhật chạy ùa vào buồng rửa bát. Pơ-rô-khô-sơ-ca nhảy bổ tới Pa-ven còn đang ngủ say. Hắn đấm đá như mưa lên đầu thằng bé; Pa-ven tối mày tối mặt, người đau nhừ.

Bị đòn giữa lúc còn đang ngái ngủ. Pa-ven không hiểu đầu đuôi ra sao. Mắt nảy đom đóm, người nhừ đòn đau nhức nhối, cậu thất thểu lê gót về nhà.

Sáng hôm sau, A-rơ-chơm đi làm về thấy em đau, anh sa sầm nét mặt và cau mày, hỏi Pa-ven về câu chuyện đêm qua.
Pa-ven kể lại tất cả, A-rơ-chom hỏi:

- Đứa nào đánh mày?

- Lão Pơ-rô-khô-sơ-ca.

- Thôi được. Nằm yên đấy.

A-rơ-chom lấy áo da khoác lên người, chẳng nói chẳng rằng đi ra khỏi nhà.

*  *  *


Một người thợ lạ mặt đến hàng cơm nhà ga hỏi mụ Gơ-la-sa:

- Tôi muốn gặp bác bồi bàn Pơ-rô-khô-sơ-ca.

Mụ trả lời:

- Ông đợi bác ấy một tí, bác ấy sắp về đấy.

Người lạ mặt to lớn đứng dựa lưng ngáng lấy khung cửa:

- Được tôi đứng đợi đây.

Pơ-rô-khô-sơ-ca bê một chồng bát đĩa cao ngất, lấy chân ẩy cửa bước vào buồng rửa bát.

- Kìa, bác ta về kia!

A-rơ-chom tiến đến, bàn tay nặng như chì của anh túm lấy vai lão bồi bàn, nhìn thẳng vào mắt hắn, hỏi:

- Tại sao mày lại đánh thằng Pa-ven em tao?

Lão bồi bàn cố gỡ tay A-rơ-chom ra, nhưng một quả đấm trời giáng đánh hắn ngã lăn xuống sàn nhà. Hắn lóp ngóp định bò dậy thì một quả đấm nữa, ghê hơn, làm hắn nằm chết gí như đóng đinh xuống sàn. Các mụ rửa bát hốt hoảng, vội lánh xa.

A-rơ-chom quay gót, thản nhiên bước ra cửa, Pơ- rô-khô-sơ-ca mặt đầm đìa máu, đau quá, nằm giãy trên sàn.

Tối hôm ấy, ở nhà chờ mãi không thấy A-rơ-chom đi làm về. Mẹ đi hỏi thăm: thì ra A-rơ-chom bị bắt giam ở bóp rồi.

Sáu ngày sau, A-rơ-chom được tha về nhà. Lúc ấy, mẹ đã ngủ rồi, A-rơ-chom đến bên giường Pa-ven nằm và trìu mến hỏi:

- Em có đỡ không?

Nói rồi, anh ngồi xuống cạnh Pa-ven: "Em đừng buồn, ở đời còn nhiều nỗi cay cực hơn thế nữa cơ, em ạ !". Im lặng một lát, A-rơ-chom nói thêm: "Không sao cả em sẽ đi làm ở nhà máy điện. Anh đã xin cho em. Em vào đấy làm học lấy một nghề".

Hai bàn tay Pa-ven siết chặt lấy bàn tay to tướng của anh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 11-3-2012 10:27:57 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG II

Như cơn gió lốc, tin ghê gớm ập vào thành phố nhỏ này: "Nga hoàng đã bị đánh đổ rồi!"

Hàng phố không ai dám tin là sự thật.

Nhưng rồi một hôm, có một chuyến tàu rẽ bão tuyết từ từ vào ga này. Hai sinh viên súng khoác vai áo ca-pốt vội vã từ trên tàu bước xuống, cùng với một đơn vị quân cách mạng, tay áo đeo băng đỏ. Họ bắt lũ sen đầm, lão quan năm già và tên trưởng đồn. Khi ấy hàng phố mới tin là chuyện có thật. Dân đổ ra đường đen ngòm trên tuyết trắng, hàng nghìn người kéo về phía quảng trường thành phố.

Người ta háo hức lắng nghe những tiếng mới: tự do, bình đẳng, bác ái.

Rồi những ngày náo nhiệt, sôi nổi, đầy xúc động và hân hoan qua đi. Lại bắt đầu im lặng, chỉ có khác là ở tòa thị sảnh, nơi bọn men-sê-vích và bọn đảng Bun (Đảng Xã hội Do thái) đóng trụ sở có treo lá cờ đỏ. Thay đổi chỉ có thế thôi. Còn đâu lại vào đấy như cũ.

Vào cuối đông, một trung đoàn vệ binh kỵ mã đến đóng đồn trong thành phố. Sáng sáng, họ kéo từng trung đội lên ga chộp lính từ mặt trận Tây Nam đào ngũ trốn về.

Bọn vệ binh kỵ mã, đứa nào vóc người cũng béo tốt, mặt mày nở nang. Lũ quan thì phần nhiều là bọn hoàng thân, bá tước, vai đeo phù kim tuyến, quần có đường viền chỉ bạc, y như thời Nga hoàng, dường như chẳng có cách mạng nào xảy ra.

Đối với Pa-ven, Cơ-lim-a và Xéc-gây con nhà Bơ-ru-giắc, dường như cũng chẳng có gì là thay đổi cả. Bọn chủ vẫn là bọn chủ cũ. Nhưng đến tháng Mười Một mưa dầm thì xảy ra chuyện gì khang khác. Có một lớp người mới đến khuấy đảo ngoài ga, những người này phần lớn mới rời bỏ hầm hố ngoài mặt trận trở về. Họ mang tên kỳ lạ là "Bôn-sê-vích".

Cái tên nghe chắc nịch và làm tin tưởng. Tên ấy từ đâu mà có? Chẳng ai biết cả.

Bọn vệ binh kỵ mã khó làm cản được binh lính đào ngũ. Các cửa kính ở nhà ga thường bị vỡ luôn vì súng nổ ngày càng nhiều. Binh lính bỏ mặt trận từng khối đông nghịt kéo về. Khi vệ binh ra chặn, thác người mặc áo xám này liền rút lưỡi lê chống cự lại. Sang đầu tháng Chạp thì có đến hàng chuyến tàu lính đảo ngũ lũ lượt đổ về.

Vệ binh vây lấy nhà ga, tưởng đứng chắn đấy mà ngăn được thác người đổ về. Nhưng bọn vệ binh đã bị hàng loạt súng máy quạt vào mặt. Những người từ trên tàu đổ xuống đã từng xông pha quen với cái chết.

Những chiến sỹ mặc áo xám dồn bọn vệ binh vào trong phố, rồi lại trở ra ga, lên xe đi. Từ dạo ấy những đoàn xe từ mặt trận cứ nối tiếp nhau đổ về.

Mùa xuân 1918. Ngày hôm ấy, ba người bạn trẻ vừa đánh bài liên hồi kỳ trận ở nhà Xéc-gây chán, rồi tạt vào nhà Pa-ven, ngả lưng trên bãi cỏ. Buồn quá, mọi trò chơi lâu nay đều thấy chán ngấy cả rồi. Đang nghĩ xem làm cách gì hơn cho qua ngày, thì nghe có tiếng vó ngựa lộp cộp gõ trên đường phố. Một người đi ngựa hiện ra. Con ngựa nhảy phắt một cái qua rãnh cạnh đường, sát bờ rào thấp quanh vườn. Người đi ngựa vẫy roi ra hiệu cho Pa-ven và Cơ-lim-ca:

- Này, các cậu bé ơi, lại đây cho tôi nhờ tí!

Pa-ven và Cơ-lim-ca nhảy bổ ra bờ rào. Người đi ngựa mình đầy bụi; bụi đường trường đóng dày trên mũ cát-két đội hất về đằng sau, bụi chen vào kẽ những nếp quân phục. Một khẩu súng ngắn nặng và hai quả lựu đạn Đức đeo ở dây lưng to bản.

- Các cậu làm ơn cho tôi xin hụm nước.

Trong khi Pa-ven chạy về nhà lấy nước, người lạ mặt hỏi Xéc-gây:

- Tỉnh nhà giờ trong tay ai, hở cậu em?

Xéc-gây đang trố mắt chòng chọc nhìn người ấy, nghe hỏi thì vội vàng trả lời ngay, háo hức kể hết tin tức:

- Đã hai tuần nay, chẳng có chính quyền nào ở đây cả. Chính quyền của chúng tôi là dân phố tổ chức tự vệ lấy. Đêm, dân hàng phố thay phiên nhau đi gác, hết đội này đến đội khác. Còn anh là ai thế hở anh? - Đến lượt Xéc-gây hỏi lại.

Người đi ngựa tủm tỉm trả lời:

- Cậu hỏi làm gì? Còn bé mà đã muốn biết nhiều thế thì chóng già đi đấy, cậu em ạ!

Vừa lúc ấy, Pa-ven hai tay cầm ca nước từ trong nhà chạy ra.

Người đi ngựa tu ừng ực một hơi hết ca nước, trả ca lại cho Pa-ven, rồi giật cương tế ngựa phi về phía rừng thông.

Pa-ven lấy làm lạ quay hỏi Cơ-lim-ca: - Người ấy là ai thế ?

Cơ lim-ca nhún vai đáp: - Tao biết đâu đấy.

Ngay lúc ấy, Xéc-gây, giọng quyết đoán, nói với hai bạn ý kiến của mình về vấn đề chính trị này:

- Chắc lại sẽ có đảo chính nữa. Thảo nào tối qua nhà lão Lê-sinh-ski kéo nhau đi sạch. Mà hễ bọn giàu đã cuốn gói tếch, tức là quân du kích sắp đến rồi...

Xéc-gây kết luận chí lý quá khiến cho cả Pa-ven lẫn Cơ-lim-ca đều cho là phải ngay.

Ba thiếu niên còn bàn luận chưa xong thì tiếng vó ngựa giòn giã lại vang lên dọc đường phố. Cả ba chạy bổ ra hàng rào.

Từ cánh rừng nhỏ vòng sau nhà người chánh kiểm lâm, người và xe súng đổ ra đường cái. Gần sát lại phía đàng này có chừng mười lăm tay kỵ mã, súng đặt ngang yên ngựa. Hai người đi đầu thì một người đã có tuổi mặc áo va-rơ màu ka-ki, có thắt dây lưng, ngực đeo ống nhòm. Bên cạnh là người đi ngựa mà lũ trẻ gặp ban nãy. Trên áo va-rơ của người đứng tuổi có đính băng đỏ.

Xéc gây lấy khuỷu tay hích Pa-ven, đắc chí:

- Mày bảo tao nói có đúng không? Trông xem cái băng đỏ kia có phải là du kích không nào. Nói sai thì mắt tao nổ con ngươi. Đúng là du kích...

Và Xéc gây thích chí thét lên, nhảy qua hàng rào, nhẹ như chim trong chớp mắt đã ra đến phố.

Hai bạn chạy theo sau. Cả ba đứng trên vỉa hè, nhìn những đoàn người mới đến.
Đoàn người cưỡi ngựa lại gần. Người cưỡi ngựa đi đầu nhận ra ba thiếu niên, gật đầu chào, rồi lấy roi ngựa chỉ tòa nhà của Lê-sinh-ski, cất tiếng hỏi:

- Ai ở nhà đó thế, các em?

- Lão thầy kiện Lê-sinh-ski đấy.

Pa-ven vừa tung tăng chạy theo ngựa vừa kể:  - Lão ta đã chuồn đi hôm qua rồi. Chắc lão ta sợ các anh...

Người có tuổi mỉm cười: - Em biết chúng ta là ai mới được?

Pa-ven chỉ mẩu băng đỏ đáp: - Cái gì đây? Anh bảo mắt em không trông thấy cái này hay sao?

Hàng phố tủa ra đường, tò mò nhìn bộ đội đi vào phố. Ba cậu bạn vẫn đứng nguyên ở vỉa hè, mải mê ngắm những người du kích đỏ mệt nhọc, bụi bám đầy người.

Đến khi khẩu đại bác độc nhất của đơn vị đã kéo qua, lăn ầm ầm trên đường đá, những xe súng máy đã diễu đi hết, lũ trẻ lại chạy theo các anh du kích đến mãi tận trung tâm thành phố, bộ đội bắt đầu đóng quân, cả ba mới chịu rủ nhau ai về nhà nấy.

Bộ tham mưu đơn vị đóng ở biệt thự nhà Lê-sinh- ski. Tối đến, trong phòng khách lớn, bốn người ngồi quanh một chiếc bàn to, chân bàn chạm trổ, họ là ba cán bộ chỉ huy và người thủ trưởng đơn vị, đồng chí Bun-ga-cốp, một người đã có tuổi, tóc hoa râm.

Bun-ga-cốp trải tấm bản đồ vùng này lên bàn, đưa ngón tay chỉ dẫn, vừa lấy móng tay vạch  lên các đường sá vừa quay nói với người có gò má cao, răng bàn cuốc ngồi trước mặt:

- Đồng chí Ê-ma-sên-cơ, đồng chí bảo chúng ta nên dàn quân đánh ở đây à? Tôi thì tôi nghĩ rằng sáng mai ta cứ phải rút lui nữa. Đáng lẽ tốt hơn hết là đi ngay đêm nay, song quân ta mệt lắm rồi. Nhiệm vụ của chúng ta là rút được về tận Ca-da-chin trước khi quân Đức đến. Sức ta thế này đem ra chọi thì là chuyện thật buồn cười... Chỉ vẻn vẹn có một khẩu đại bác với ba mươi viên đạn, hai trăm lưỡi lê, sáu mươi thanh kiếm; đồng chí tưởng là lực lượng ghê lắm đấy chắc!... Quân Đức tiến, thế mạnh như dòng suối thép trút xuống. Ta chỉ có thể chiến đấu khi nào phối hợp được với những đơn vị đỏ khác cũng đang rút như ta. Với lại, các đồng chí ạ, chúng ta không nên quên rằng ngoài quân Đức ra thì trên đường ta đi còn nhiều bọn phỉ phản cách mạng đang rình nện ta nữa. Ý kiến tôi là rút lui ngay sáng sớm mai và trước khi rút, cho sập cái cầu sau ga. Quân Đức có chữa cũng phải mất hai ba ngày. Thế là mũi tiến quân theo dọc đường sắt của chúng sẽ tạm thời bị cản lại.

Bun-ga-cốp hỏi tất cả những người ngồi dự họp: - Các đồng chí nghĩ thế nào? Ta quyết định đi thôi.

Stơ-ru-cốp, ngồi bên cạnh Bun-ga-cốp, nhằn nhằn cắn môi, nhìn bản đồ rồi nhìn Bun-ga-cốp, khó khăn lắm mới nói được những tiếng chưa ra khỏi cổ họng đã muốn tắc lại:

- Tôi thì tôi... tán... tán thành ý kiến Bun-ga-cốp...

Người trẻ nhất, mặc áo khoác công nhân, cũng đồng ý: - Bun-ga-cốp bàn có lý.

Chỉ có Ê-ma-sên-cơ, người đi ngựa mà ban ngày bọn Pa-ven đã gặp, là lắc đầu, phản đối:

- Nếu thế thì tập hợp nên toán quân này làm quái gì? Lập nó ra để mà cứ rút hoài trước bọn Đức, không dám đánh chác gì cả à? Theo tôi, phải choảng nhau với chúng ở đây. Chạy mãi chán lắm rồi. Nếu chỉ một mình tôi, thì tôi đánh ngay tại đây.

Rồi đẩy ghế đánh sầm một cái, anh đứng phắt dậy và đi đi lại lại trong phòng.

Bun-ga-cốp nhìn anh tỏ vẻ không tán thành.

- Đánh phải đánh cho có mưu, có mẹo. Ê-ma-sên- cơ ạ. Chứ còn ném quân ta vào chỗ nhất định tan tác, bị tiêu diệt thì chúng ta không thể nào làm được. Với lại làm như thế thì là ngốc quá. Địch có cả một sư đoàn có trọng pháo, thiết giáp đuổi theo sau ta. Chúng ta không phải là con nít, đồng chí Ê-ma-sên-cơ ạ.

Rồi quay nói với những người khác. Bun-ga-cốp kết luận: - Thế là đã quyết định: sáng mai ta rút.

Bun-ga-cốp lại tiếp tục: - Vấn đề tiếp theo là vấn đề liên lạc. Vì đơn vị ta rút sau cùng, nên nhiệm vụ ta phải tổ chức công tác ở sau lưng địch. Ở đây có ngã tư đường xe lửa quan trọng, thành phố nhỏ, nhưng có hai ga. Ta cần chọn một đồng chí nào chắc chắn, tin cậy, ở lại đây công tác. Các đồng chí đề cử người đi.

Ê-ma-sên-cơ vừa đi lại gần bàn, vừa nói: - Theo tôi, đồng chí lính thủy Giu-khơ-rai cần ở lại đây. Thứ nhất, đồng chí ấy là người địa phương. Thứ hai, đồng chí ấy có nghề thợ nguội và hiểu cơ điện, có thể xin được vào làm máy điện. Giu-khơ-rai lại không đi cùng đơn vị ta vào đây, mãi đêm nay mới đến cho nên không lộ. Một tay thông minh, chín chắn như thế sẽ làm công việc chạy. Theo tôi, đấy là người rất hợp với công tác này.

Bun-ga-cốp gật đầu: - Đúng lắm, đồng chí Ê-ma-sên-cơ ạ. Tôi đồng ý với đồng chí...

Nói rồi quay lại hỏi những người khác:

- Không ai có ý kiến khác chứ ? Không. Vậy thông qua vấn đề này. Chúng ta để lại cho đồng chí Giu- khơ-rai đủ tiền và tất cả giấy tờ cần thiết cho công tác. Sang vấn đề thứ ba là vấn đề cuối cùng. Đó là vấn đề giải quyết kho súng ở thành phố này. Ở đây, có kho súng hai vạn khẩu từ thời chiến tranh Nga hoàng còn lại. Hiện để ở nhà một nông dân, nhưng không ai nhớ là có kho súng ấy. Chủ nhà đã báo cáo với tôi ông ta muốn đẩy đi. Lẽ tất nhiên không thể để kho súng này vào tay bọn Đức được. Tôi có ý kiến là phải đốt đi. Đốt ngay bây giờ. Sáng là phải xong hết. Song chỉ ngại một điều: kho này ở mãi tít đầu tỉnh, giữa những khu nhà của nông dân nghèo. Đốt thì lửa có thể cháy lan sang nhà dân.

Stơ-ru-cốp người sây sát đầy sẹo, râu tua tủa tám ngày chưa cạo, xua tay phản đối:

- Sao... sao... sao lại đốt? Tôi... tôi có ý kiến là đem phát... phát súng cho dân.

Bun-ga-cốp quay phắt lại: - Anh nói đem phát cho dân?

Ê-ma-sên-cơ thích chí kêu lên:

- Phải! Hay lắm! Chia súng cho công nhân và tất cả những ai muốn lấy cũng cho. Ý kiến cừ đấy. Chia cho dân để ít ra cũng làm bà con có gì trong tay để cọ nhau với quân Đức, nếu chúng bóp chặt quá. Mà thế nào dân đây cũng bị chúng kẹp rất chặt rồi. Kẹp quá không chịu được, là giở súng ra. Ý kiến Stơ-ru- cốp chia súng cho dân là đúng lắm. Cũng nên chia một phần về nông thôn nữa. Ai chứ nông dân nghèo thì họ sẽ cất kỹ lắm. Nếu bọn Đức định giở trò trưng thu, bòn vét thóc lúa thì lúc ấy, những "củ” súng này sẽ lợi hại ra phết.

Bun-ga-cốp bật cười. Đồng chí nói: - Ừ thì chia súng hay thật, nhưng giặc đến thế nào cũng ra lệnh nộp súng. Thế rồi ai cũng đem nộp cả cho nó.

Ê-ma-sên-cơ phản đối lại: - Không, không phải ai cũng đem nộp cả đâu ! Có người nộp, nhưng cũng có người giữ lại.

Bun-ga-cốp đưa mắt hỏi mọi người.

Anh công nhân trẻ bênh vực ý kiến của Ê-ma-sên- cơ và Stơ-ru-cốp: - Nên phát súng cho dân. Nên phát.

- Thế thì phát súng. Thông qua, - Bun-ga-cốp gật đầu đồng ý, rồi đứng lên nói tiếp: - Thế là mọi vấn đề đều xong. Bây giờ chúng ta có thể nghỉ đến sáng. Khi nào Giu-khơ-rai tới, bảo anh ta đến gặp tôi. Tôi sẽ nói chuyện với anh ta. Còn đồng chí Ê-ma-sên-cơ, đồng chí hãy đi kiểm tra các trạm gác xem.

Mọi người ra về, Bun-ga-cốp cũng đi sang phòng ngủ của nhà chủ ở cạnh phòng khách, trải áo ca-pốt lên nệm giường, rồi ngả lưng xuống.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 13-3-2012 21:34:16 | Chỉ xem của tác giả
Sớm hôm sau, Pa-ven ở nhà máy điện ra về. Đã một năm rồi, cậu làm phụ chân đất lò ở nhà máy này.

Vừa ra khỏi nhà máy Pa-ven thấy ngay hàng phố nhộn nhịp lạ thường, người gặp mỗi lúc một nhiều, mỗi người đều vác một, hai hoặc đến ba khẩu súng. Pa-ven không hiểu ra làm sao cả, rảo bước về nhà. Đến gần biệt thự Lê-sinh-ski, Pa-ven thấy những người kỵ binh đỏ anh quen hôm qua đang lên ngựa.

Pa-ven nhảy bổ vào nhà, rửa mặt mũi qua loa, hỏi mẹ, biết A-rơ-chom không có nhà, liền nhảy tót ra cửa, ba chân bốn cảng, tất tưởi chạy sang đầu đằng kia thành phố đến nhà Xéc-gây là con người phụ thợ máy xe lửa. Bố cậu ta có một căn nhà nhỏ và mấu đất con. Xéc-gây không ở nhà. Bà mẹ mặt đầy và trắng, người đẫy đà, nhìn Pa-ven lộ vẻ không bằng lòng:

- Chỉ có ma quỉ biết nó đi đằng nào. Bảnh mắt ra đã chạy rồi, thật như thằng bị động, bị dại. Hình như là người ta phát súng gì đấy. Chắc là nó đang ở đó. Cả lũ chúng mày đều đáng đánh đòn tất, đồ còn thò lò mũi mà đã thích trò đánh nhau. Chúng bay lêu lổng quá chừng rồi. Cấm sao bảo được. Một tí tuổi đầu, chưa cao hơn cái vại nước mà đã chực mó vào chuyện súng với ống. Mày gặp thằng hại cơm ấy thì bảo nó cho tao: nó mà mang một viên đạn về cái nhà này thì tao chém đầu đi. Nó nhặt đủ thứ về để tội vạ chúng tao chịu. Còn mày nữa, mày cũng định chạy đến đấy phải không?

Nhưng Pa-ven không còn nghe những lời đay nghiến của mẹ Xéc-gây nữa, mà đã cắm đầu chạy xa rồi.

Dọc đường, gặp một người đàn ông, mang hai vai hai khẩu súng, Pa-ven sán đến hỏi ngay:

- Bác lấy súng ở đâu đấy, bảo cháu với?

- Ở trên phố Véc-khô-vi-na kia. Họ đang phát.

Pa-ven ba chân bốn cẳng, cắm cổ chạy như bay. Vừa chạy qua hai phố thì đụng ngay vào một thằng bé con đang è cổ vác một khẩu súng trường nặng trịch có lắp lưỡi lê.

Pa-ven hỏi nó: - Mày vớ được ở đâu đấy?

- Anh bộ đội phát ở trước cửa trường học ấy. Nhưng giờ thì chẳng còn gì đâu, người ta lấy hết rồi. Phát suốt đêm rồi còn gì. Giờ đến chỉ còn hòm không.

Và nó vênh mặt khoe: - Tao lấy chiếc này là chiếc thứ hai.

Tin ấy làm cho Pa-ven nghe đến rụng rời: "Mình thật khỉ, đáng lẽ chạy thẳng đến đó ngay lại còn rẽ về nhà. Thế là nhỡ tàu rồi".

Bỗng chợt nghĩ ra điều gì, Pa-ven quay phắt trở lại nhảy ba bước đuổi theo thằng bé kia, ra sức giằng lấy súng ở tay nó và nói giọng rất trịch thượng:

- Mày đã có một khẩu, đủ rồi. Khẩu này để tao.

Ban ngày ban mặt mà bị cướp trên tay, thằng bé hầm hầm xông vào Pa-ven, nhưng Pa-ven đã lùi lại rất nhanh, chĩa lưỡi lê ra, thét lên:

- Lùi lại, không ông đâm ngay!

Thằng bé kia ức quá phát khóc và vừa bỏ chạy, vừa chửi cho hả giận. Còn Pa-ven thì thỏa chí quá, rồi phi một mạch về nhà. Cậu nhảy qua rào, chạy thẳng xuống nhà dưới, giấu khẩu súng cướp được lên mái nhà, rồi bước lên nhà trên, vừa đi vừa vui vẻ huýt sáo.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 13-3-2012 21:44:53 | Chỉ xem của tác giả
Những buổi tối mùa hè vùng U-cơ-ren, ở những thị trấn nhỏ như Sê-pê-tốp-ca này thật là đẹp. Trung tâm là phố xá nhỏ và ngay ngoại ô đã là thôn quê rồi.

Những buổi tối mùa hè êm đềm này, tất cả thanh niên ở đây đều kéo ra đường chơi. Con trai con gái túm năm tụm ba hay từng đôi, ngồi trên thềm nhà, trong vườn, đứng ở giậu cây, hay ngồi ngoài đường, trên những thanh gỗ xếp đống sắp làm nhà. Tiếng cười tiếng hát vang lên khắp nơi.

Khí trời ban đêm run rẩy, ngào ngạt mùi hoa thơm. Trên vòm trời cao thăm thẳm, sao lấp lánh trông y như những con đom đóm. Vào những lúc như thế này, tiếng nói, tiếng hát vọng đi xa lắm...

Pa-ven mê đàn gió (ác-coóc đê ông). Cậu trìu mến bế chiếc đàn vào lòng tỳ lên gối, ngón tay nhẹ nhàng lướt trên hàng phím, lên xuống nhanh thoăn thoắt; tiếng đàn gấp đổ hồi. Những tiếng trầm ngân dài và đàn cất lên một khúc nhạc say sưa chan chứa nhiệt tình và huyết khí.

Hộp đàn mở ra rồi kéo vào, uốn khúc như sóng lượn. Nghe tiếng nhạc, chân không thể không cuốn vào bước nhảy. Không chịu được, chân ai ai cũng giậm giật, cựa quậy. Tiếng đàn rộn lên hơi thở nóng hổi: sống trên đời mới thú làm sao!

Tối nay càng vui hơn mọi tối. Đám thanh niên thích cười đùa đã tụ tập nhau trên đống gỗ xếp gần nhà Pa-ven. Tiếng Ga-lốt-sơ-ca, cô gái nhà hàng xóm, nói to nhất. Giọng cô rất ấm, rất trầm và mượt như nhung. Người con gái ông thợ làm đá ấy vốn thích nhảy, thích hát với những gã con trai.

Pa-ven thì hơi kiềng cô ta. Vì cô bạo mồm bạo miệng lắm. Cô đang ngồi ngay cạnh Pa-ven, cùng trên một tấm gỗ, tay ôm lấy ngang lưng Pa-ven, khít chặt vào lòng và cười sằng sặc:

- Hãy nghe tôi nói, tay đàn cừ khôi của tôi ơi! Thật đen đủi cho tôi là cậu còn măng sữa quá. Không thì cậu đã thành người chồng xinh xinh của tôi rồi. Tôi rất cảm những tay chơi nhạc. Gặp con nhà nhạc là lòng tôi say mê mềm nhũn ra.

Pa-ven thẹn đỏ chín mặt; may mà trời tối, không ai thấy mình xấu hổ. Pa-ven muốn lủi xa cô gái tinh nghịch, song Ga-lốt-sơ-ca ghì khỏe, giữ chặt lại.

Cô ta cười nhí nhảnh: - Mình đừng chạy, mình yêu mình quý của em. Rõ chồng gì chồng lạ thế này!

Pa-ven cảm thấy vai mình ép vào cặp vú xinh rắn chắc của Ga-lốt-sơ-ca, cậu thấy ngài ngại và trong người rạo rực thế nào ấy. Chung quanh là tiếng cười ngặt nghẽo vang động cả phố xá vốn im lìm.

Pa-ven lấy tay đẩy vai Ga-lốt-sơ-ca để gỡ ra, miệng nói:

- Chị xê ra chứ chị! Làm người ta không kéo đàn được nữa.

Và mọi người lại cười ầm lên, nói đùa, nói giỡn, chọc Pa-ven.

Ma-ru-xi-a chêm vào: - Pa-ven chơi cho chúng mình một bài nào thật buồn, thật não nuột tâm hồn.

Và từ từ chiếc đàn lại kéo giãn ra, ngón tay nhẹ nhàng lướt trên phím. Đàn chơi khúc nhạc quen thuộc mà ai cũng thích. Nhạc vừa cất lên, Ga-lốt-sơ-ca hát trước. Ma-ru-xi-a và tất cả mọi người cùng hát theo:

Đoàn người kéo ghe
Về chốn quê nhà,
Thú vị làm sao
Êm ái làm sao
Được ca lên tiếng thở than. . .


Tiếng hát của tuổi trẻ cất vang lên, vọng đi xa đến tận khu rừng.

Bỗng có tiếng gọi: "Páp-ca!".

Đấy là tiếng A-rơ-chom.

Pa-ven gấp đàn gió lại, gài dây vào: - Có người gọi, tôi phải về đây!

Ma-ru-xi-a khẩn khoản nài Pa-ven rốn lại: - Ngồi lại chơi một tí nữa, rồi hãy về cũng còn kịp chán.

Nhưng Pa-ven đang vội.

- Thôi, để đến mai. Bây giờ phải về, anh tôi gọi.

Pa-ven vụt qua phố chạy về nhà.

Mở cửa bước vào, Pa-ven thấy ngồi ở bàn với anh A-rơ-chom có bác Rô-man cùng làm một chỗ với anh và một người thứ ba nữa mà Pa-ven không quen, Pa- ven hỏi anh: "Anh gọi em?"

A-rơ-chom hất hàm về phía Pa-ven và nói với người lạ mặt: - Thằng em tôi đấy?

Người lạ mặt chìa bàn tay gân guốc ra bắt tay Pa-ven.

A-rơ-chom nói với em:

- Pa-ven này, mày nói ở sở là mày làm người thợ máy bị ốm có phải không? Mai mày thử hỏi xem sở nó có lấy người biết máy vào thay chân không nhé. Nếu họ cần người thì chạy về nhà bảo tao.

Người lạ mặt ngắt lời: - Thôi, để ngày mai tôi cùng đi với cậu em. Tôi sẽ tự nói thẳng với chủ.

Pa-ven bây giờ đã hiểu ra tại sao anh gọi mình về:

- Nhà máy nó đang cần thợ lắp máy điện thật, các anh ạ. Vì bác Stăng-cô-vích vẫn làm bị ốm, phải nghỉ, cho nên hôm nay cái máy không chạy được. Bác ta bị thương hàn. Chính chủ phải xuống đứng máy hai lần. Họ đang tìm người thay mà chưa có. Có một mình người đốt lò thôi, họ không dám cho máy chạy.

Người lạ mặt nói: "Nếu vậy thì việc chu rồi" và  anh quay lại phía Pa-ven:

- Mai anh sẽ đến đón em cùng đi đến sở nhé.

- Vâng

Pa-ven bắt gặp cặp mắt bác ta: cặp mắt màu tro, bình tĩnh, nhìn thẳng vào Pa-ven không chớp, khiến cậu hơi chùn. Chiếc áo bác ta màu xám, cúc cài suốt, kéo căng bó lấy cái lưng rộng, chắc nịch, chiếc áo trông chật cứng. Bác ta vai và đầu khít nhau, cổ như cổ trâu, thân hình vạm vỡ, sức khỏe có dư như một cây gỗ sến cổ thụ rắn rỏi và bám chắc rễ.

Khi tiễn chân bác ta, A-rơ-chom nói:

- Anh Giu-khơ-rai, việc thế là tạm ổn, anh nhỉ. Mai mời anh lại đi với em nó đến sở và lo việc ấy cho xong.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 14-3-2012 20:49:00 | Chỉ xem của tác giả
Bộ đội đỏ đi được ba hôm thì quân Đức kéo vào thành phố. Lúc chúng đến, một hồi còi xe lửa rú lên ở nhà ga mấy hôm nay vốn bỏ trống. Tin lan khắp tỉnh:

- Quân Đức đến!

Phố xá rối lên như một tổ kiến bị động, tuy từ lâu dân phố đã biết thế nào bọn Đức cũng kéo đến. Biết vậy nhưng sao cũng chẳng ai muốn tin cả. Thế mà bọn giặc Đức đáng ghê sợ ấy hôm nay chẳng còn đâu xa nữa, chúng đã ở ngay trong phố rồi.

Dân phố nem nép sau hàng rào nhà mình đứng nhìn, không dám bước chân ra đường.

Bọn Đức hành quân làm hai hàng dọc, cứ men theo rìa đường mà đi để mặt phố vắng không người. Chúng mặc quần áo xanh sẫm, tay lăm lăm chĩa súng ra đằng trước, lưỡi lê to bản như dao, cắm vào đầu súng, mũ sắt nặng trịch úp sụp lấy đầu, ba-lô đi trận nặng trĩu vai. Chúng đi từ ga vào phố, hàng quân dài liên miên, mắt chúng gờm gờm có vẻ sẵn sàng dập tắt mọi sức kháng cự, tuy chẳng ai nghĩ đến kháng cự chúng cả.

Hai tên sĩ quan đi đầu, súng ngắn kiểu Mô-de trong tay. Giữa đường phố là tên trùm hội tề đội mũ lông, mặc quần áo U-cơ-ren màu xanh, đi theo chúng làm phiên dịch.

Lính Đức xếp hàng thành đội hình vuông vắn trong quảng trường trung tâm thành phố. Tiếng trống nổi lên. Một đám nhỏ dân phố đã hơi hoàn hồn, tụ tập nhau lại. Đứng trên bậc cửa một hiệu bào chế, tên trùm hội tề đọc to bản mệnh lệnh của tên quan tư Coóc-phơ, tư lệnh quân quản thành phố:

BỐ CÁO DÂN CHÚNG

Điều thứ nhất. - Bản chức ra lệnh cho toàn thể dân phố trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ phải đem nộp hết vũ khí, cả súng lẫn kiếm và dao găm. Ai trái lệnh sẽ bị xử bắn.

Điều thứ hai. - Nay hạ lệnh giới nghiêm thành phố. Từ tám giờ tối trở đi, cấm ngặt không được đi lại ngoài đường.

Tư lệnh quân quản thành phố
Ký tên: thiếu tá COÓC-PHƠ


Bộ tư lệnh giặc Đức chiếm tòa thị sảnh vốn trước là trụ sở của Xô-viết công nhân lúc mới khởi nghĩa. Ngoài cửa có tên lính gác không đội mũ sắt mà đội mũ lưỡi trai có phù hiệu con điều hâu to tướng. Sân gần nhà thì lấy làm nơi chứa vũ khí dân đem nộp.

Suốt ngày, có những người vì sợ tội tử hình nên đem súng nộp. Người lớn không ló mặt ra, thiếu niên và con trẻ mang súng đến nộp. Bọn Đức không bắt giữ ai lại.

Ai không muốn đến kho nộp súng thì thừa lúc đêm tối, vứt phứa ra đường cái. Sáng hôm sau, lính Đức đi tuần nhặt đưa lên xe chở về bộ tư lệnh.

Đến một giờ trưa hết hạn nộp súng, bọn lính Đức kiểm kê số súng đã thu được là một vạn bốn nghìn khẩu. Thế là thiếu đâu sáu nghìn khẩu không nộp cho bọn Đức. Chúng liền tức tốc đi khám xét hàng loạt nhà dân, nhưng kết quả chẳng có mấy.

Tang tảng sáng hôm sau, có hai người thợ xe lửa bị chúng bắn chết gần nghĩa địa Do-thái ở ngoài thành phố. Chúng đã khám thấy súng trong nhà các anh.

Nghe đọc bản bố cáo xong, A-rơ-chom cấp tốc trở về nhà. Gặp Pa-ven ngoài sân, anh liền nắm lấy vai em, khẽ hỏi gặng:

- Mày có rước khẩu nào ở kho súng về nhà không?

Pa-ven chực không nói ra, song không bụng nào nói dối anh được, bèn thú thật hết cả.

Hai anh em đi xuống nhà dưới. A-rơ-chom với lấy khẩu súng giấu trên xà nhà, tháo quy-lát và lưỡi lê ra, rồi nắm chắc nòng súng giáng mạnh vào cột rào. Báng súng gẫy tan, A-rơ-chom ném ra ngoài bãi hoang, còn quy-lát và lưỡi lê thì quẳng vào chuồng xí.

Làm xong đâu đấy, A-rơ-chom quay lại bảo em:

- Mày không còn bé bỏng gì nữa, Pa-ven ạ. Mày phải hiểu là không đùa với súng được đâu. Tao nói thật cho mày biết: chớ có mang gì về nhà. Mang về thì có thể mất mạng đấy. Đừng làm gì che mắt tao, không rồi cứ mang về, nhỡ nó khám thấy ở nhà này thì nó bắn tao trước tiên. Chứ mày là lỏi con, nó chẳng thèm đụng đến đâu. Thời buổi này là thời buổi chó má, mày hiểu chưa?

Pa-ven hứa không dám mang gì về nhà nữa.

Lúc hai anh em vừa đi qua sân vào nhà thì thấy có xe ngựa đỗ trước cổng nhà Lê-sinh-ski. Lão thầy kiện, vợ nó và hai đứa con - Nen-ly và Vích-to - bước xuống xe.

- Lũ quạ đã dẫn xác về rồi kìa? Lại sắp sửa giở giói, lên mặt? Quỷ tha ma bắt chúng mày đi?

A-rơ-chom nói lầm bẩm một cách hằn học và bước vào nhà.

Suốt ngày, Pa-ven ngẩn ngơ tiếc khẩu súng. Giữa lúc ấy thì bạn nối khố của Pa-ven là Xéc-gây đang ra sức hì hục lấy mai đào đất ở chân tường một cái nhà cũ bỏ hoang. Cuối cùng, đào được một cái hố. Xéc-gây đặt vào hố ba khẩu súng mới nguyên quấn giẻ bao kín. Đấy là ba khẩu súng cậu lĩnh được lúc người ta phát. Cậu không muốn đem nộp cho bọn Đức. Thao thức suốt một đêm trường không phải là để chốc lát bỏ mất món của vừa được ấy.

Lấp hố xong, Xéc-gây dận dận đất, rồi kéo một đống rác cũ phủ lên. Xem xét lại kỹ càng công việc mình vừa làm đâu đấy, thấy đã vừa ý rồi, cậu lật mũ lưỡi trai ra và lau mồ hôi trán: "Bây giờ ông cho tha hồ chúng mày tìm. Mà có thấy nữa thì đây là nhà vô chủ. Mình giấu không ai biết, không ai trông thấy?"
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 14-3-2012 22:23:31 | Chỉ xem của tác giả
Pa-ven dần dần quen thân với người thợ lắp máy dáng dấp bề ngoài có vẻ nghiêm khắc ấy. Đến một tháng rồi, hai người cùng làm với nhau ở sở máy điện.

Giu-khơ-rai chỉ bảo cho cậu bé phụ đốt lò hiểu máy phát điện chạy như thế nào và rèn nghề cho cậu.

Người thủy thủ xem chừng rất ưa chú bé linh lợi. Những ngày nghỉ, Giu-khơ-rai thường năng lại chơi nhà A-rơ-chom.

Người lính thủy chín chắn, trầm ngâm này chăm chú kiên nhẫn nghe hết chuyện kể về tình cảnh gia đình này, nhất là khi bà mẹ than phiền về tính nghịch ngợm của Pa-ven. Anh biết từ từ khuyên giải, làm bà cụ quên mọi nỗi bực bội và lại phấn chấn trong lòng.

Một hôm, gặp Pa-ven ở sân sở máy điện, giữa những đống củi gỗ, Giu-khơ-rai nắm lại và mỉm cười nói:

- Bu em kể chuyện là em thích đánh nhau lắm, "thằng cháu nhà tôi tính nó hung hăng như con gà sống". - Giu-khơ-rai cười một cách độ lượng: - Kể thích đánh nhau cũng chẳng có hại gì. Song phải biết là mình cần đánh ai, và tại sao phải đánh.

Không hiểu anh ấy nói đùa hay nói thật, Pa-ven cãi lại: - Em chẳng có đánh nhau lung tung đâu, anh ạ. Bao giờ cũng có lẽ phải em mới đánh.

Bỗng người lính thủy hỏi đột ngột: - Em có muốn anh dạy em đánh nhau đúng võ không?

Pa-ven sửng sốt hỏi lại: - Thế nào gọi là đánh đúng võ?

- Rồi em sẽ biết.

Và Pa-ven lần đầu tiên trong đời chăm chú theo một bài học ngắn về quyền Anh.

Học môn này cũng hắc lắm, song Pa-ven mau thông lạ lùng. Bao nhiêu lần cậu bị quả đấm của Giu-khơ- rai giáng cho ngã bổ ngửa ra đất. Song Pa-ven không vì thế mà nản, học rất chăm và rất chịu khó.

Một ngày rất oi bức, Pa-ven vừa ở nhà Cơ-lim-ca về đang đi đi lại lại trong nhà. Không biết làm gì, Pa-ven định trèo lên nóc chòi ở góc vườn, khuất sau nhà, ngồi chơi. Chỗ này Pa-ven vẫn thường thích đến. Tạt qua sân, vụt vào vườn, đến một cái chuồng xây bằng ván xếp, cậu theo bậc gỗ leo lên mái nhà. Luồn qua những cành cây anh đào phủ um tùm trên nóc, Pa-ven trườn ra giữa mái, nằm bò ra phơi nắng.

Cổng chòi một bên trông ra vườn nhà Lê-sinh-ski, chỉ bò ra mép mái là nhìn rõ tất cả khu vườn và chái bên nhà bọn lính Đức đóng, Pa-ven thò đầu ra và thấy khoảng sân lớn có xe ngựa đỗ. Cậu trông rõ cả tên lính hầu đang chải quần áo cho thằng quan hai Đức đóng ở nhà Lê-sinh-ski. Pa-ven đã nhiều lần thấy mặt tên trung úy này ở cổng nhà lão Lê-sinh-ski.

Lão quan béo ụt ịt, má đỏ, mép có tí râu vểnh xén ngắn. Lão mang kính kẹp ở mũi, đội mũ cát-két có vành sơn bóng. Pa-ven biết lão ta ở buồng bên có cửa sổ trông ra vườn; nằm trên mái nhà, nhìn vào buồng lão rõ mồn một.

Lão quan ngồi vào bàn viết lách, viết xong rồi thì cầm lá thư đi ra. Lão đưa phong thư cho tên lính hầu, rồi bước vào lối vườn đi đến gần hàng giậu sắt. Đến chỗ giàn cây, lão ta dừng lại nói chuyện với ai. Té ra là con Nen-ly nhà lão Lê-sinh-ski ở bụi cây đi ra. Lão khoác tay nó bước lại cổng, rồi cả hai đứa cùng đi ra phố.

Pa-ven đã theo dõi từng li, từng tí cả cái cảnh đó, sắp thiu thiu ngủ thì chợt thấy thằng lính hầu bước vào buồng tên quan. Nó treo bộ quần áo của tên quan lên mắc, mở cửa sổ trước vườn, dọn buồng xong, rồi trở ra khép cửa lớn lại. Ngay sau đó, Pa-ven thấy nó đến trước chuồng ngựa.

Qua cửa sổ bỏ ngỏ, Pa-ven nhìn rõ cả gian buồng. Trên bàn có chiếc thắt lưng da và một vật gì sang sáng nữa.

Vật gì thế? Pa-ven tò mò, háo hức muốn biết quá, bèn từ mái nhà chuyền sang cây anh đào và tụt xuống vườn nhà lão Lê-sinh-ski. Cậu cúi rạp người xuống, chạy lom khom mấy bước thì tới khung cửa sổ bỏ ngỏ. Nhìn vào thì té ra trên bàn là cái dây da có quai đeo kiếm và cái bao để mở trong có khẩu súng ngắn mười hai phát rất choáng kiểu "Man-li-khe".

Pa-ven nghẹn thở. Trù trừ một lát, đấu tranh trong đầu đến mấy giây, nhưng rồi cậu đâm bạo gan một cách lạ lùng, nhoài người lên thành cửa sổ, vớ lấy bao da, móc khẩu súng mới tinh, bóng lộn màu nước thép ngả nâu, rồi nhảy tót ra vườn ngay. Ngó nhìn chung quanh, bốn bề không có ai, cậu cẩn thận nhét súng vào túi quần và chạy vụt qua vườn đến cây anh đào. Pa-ven trèo lên mái nhà thoăn thoắt, nhanh như khỉ. Quay lại nhìn: tên lính hầu vẫn bình thản nói chuyện với tên bồi ngựa. Trong vườn vẫn yên tĩnh... Pa-ven từ trên mái nhà tụt xuống và chạy biến vào nhà.

Mẹ đang bận làm cơm dưới bếp không để ý gì đến con.

Vớ ở sau chiếc hòm một mảnh giẻ lớn, nhét vào túi, Pa-ven lẻn ra cửa, băng qua vườn, rồi leo qua hàng rào, ra đường cái đưa thẳng đến rừng. Khi chạy, khẩu súng nằm trong túi quần thích vào đùi đau điếng người, Pa-ven cứ một tay giữ khẩu súng, cắm cổ phóng như bay tới chỗ lò gạch cũ bỏ hoang.

Cậu chạy nhanh quá, chân chỉ hơi bén đất, gió vù vù bên tai.

Chỗ lò gạch cũ này vắng tanh vắng ngắt. Mái nhà bằng gỗ nhiều chỗ xiêu vẹo, những đống gạch vỡ và những lò hoang tàn, đượm vẻ buồn tênh. Cỏ dại mọc lút khắp nơi. Chỉ có tay ba bọn Pa-ven là thỉnh thoảng đến đây chơi thôi. Pa-ven biết nhiều ngóc ngách có thể giấu của quý vừa mới vớ được.

Đi vào chỗ lỗ sạt ở ngang lò, Pa-ven ngoái nhìn lại cẩn thận xem có ai theo mình không, nhưng đường vắng tanh. Chỉ có tiếng thông reo nhè nhẹ, gió vờn cuốn từng cơn bụi ngoài đường cái. Mùi nhựa thông bốc lên thơm phức.

Pa-ven đặt khẩu súng bọc giẻ vào một góc tận đáy lò rồi lấy gạch cũ chồng lên thành tháp cao ngọn. Khi ra, Pa-ven còn lấy gạch tọng kín cửa lò lại, nhìn kỹ để nhớ dấu gạch xếp, rồi trở ra đường cái, thủng thẳng bước về.

Đầu gối Pa-ven hơi run.

"Chuyện này rồi sẽ ra sao nhỉ?" Pa-ven nghĩ thầm thế, tim thắt lại, lo lắng.

Pa-ven đến sở rất sớm để tránh khỏi có mặt ở nhà. Cậu lấy chìa khóa ở người gác cổng mở cửa lớn buồng máy. Cậu lau chùi tấm lưới sắt trong lò, đổ nước vào nồi súp-de và đốt lửa. Vừa làm, cậu vừa nghĩ ngợi: "Không biết lúc này ở biệt thự Lê-sinh-ski ra sao nhỉ?".

Khoảng mười một giờ trưa, Giu-khơ-rai đến tìm Pa-ven, kéo ra sân, và hỏi nhỏ:

- Tại sao hôm nay chúng nó đến khám nhà em thế ?

Pa-ven giật nảy mình, lo sợ: - Khám nhà em à?

Sau một lát im lặng, Giu-khơ-rai nói thêm: - Ừ, chuyện chẳng lành. Em có biết nó khám gì thế không?

Pa-ven biết rõ vì sao chúng khám, song không dám nói đến việc lấy trộm súng với Giu-khơ-rai. Lo run người, Pa-ven hỏi thêm: - Anh A-rơ-chom em có bị bắt không, anh?

- Không ai bị bắt cả, nhưng chúng lục lọi tứ tung khắp nhà.

Nghe nói thế, Pa-ven cũng thấy nhẹ người hơn, song vẫn còn lo. Mấy phút trôi qua, Pa-ven và Giu- khơ-rai mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình. Pa-ven biết nguyên nhân tại sao nhà mình bị khám, cho nên càng lo lắng đến kết quả có thể xảy ra. Còn Giu-khơ-rai không biết chuyện đó nên càng ra sức đề phòng.

Giu-khơ-rai nghĩ bụng: "Quái thật! Có lẽ chúng nó đã đánh hơi được gì về mình chắc? A-rơ-chom có biết gì về mình đâu. Vậy thì tại sao nó lại nhè đúng nhà cậu ta mà khám. Phải dè chừng, cẩn thận hơn nữa mới được".

Hai người lặng lẽ rời nhau về chỗ làm của mình.

Trước đấy một lúc, bên biệt thự nhà Lê-sinh-ski ầm ĩ cả lên.

Lão quan hai không thấy súng, gọi tên lính hầu vào hỏi. Khi đã biết là súng bị mất rồi, thì thằng quan, vốn là người xử sự lịch thiệp, kiềm chế được mình, hôm nay cũng không nén được nữa, đánh túi bụi vào mang tai tên lính. Y ngã giúi xuống, lóp ngóp bò dậy, đứng nem nép, tay sờ mép quần, mắt chớp chớp, cúi đầu chờ trận đòn khác.

Lão thầy kiện Lê-sinh-ski bị gọi đến hỏi cũng cáu lắm và xin lỗi tên quan hai rối rít : nó rất khổ tâm vì chuyện bực mình này đã xảy ra trong nhà nó.

Thằng Vích-to, con trai lão, có mặt ở đấy, liền đoán phỏng ngay là có thể bọn hàng xóm lấy cắp súng, nhất là thằng bé du côn Pa-ven con nhà Ca-rơ-sa- ghin lại càng đáng nghi lắm. Lão bố vội hót với tên quan hai ý kiến của con, cho nên lão quan lập tức ra lệnh gọi một đội tuần tra đi khám.

Cuộc khám xét chẳng kết quả gì. Câu chuyện lấy súng làm cho Pa-ven tin rằng ngay cả những việc làm rất liều đôi khi cũng vẫn trôi chảy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 16-3-2012 17:11:08 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG III

Tô-nhi-a đứng trước cửa sổ mở rộng. Cô đưa cặp mắt chán ngán nhìn xuống vườn nhà, nhìn những cây bạch dương quanh vườn mảnh dẻ rung rinh trong gió nhẹ. Cái vườn trông quen thuộc quá. Cô khó mà tưởng được mình xa nhà thế mà đã một năm rồi. Cô có cảm tưởng như mình mới từ giã những nơi quen biết từ thuở bé này chỉ mới hôm qua thôi và sáng nay lại đi tàu sớm trở về nhà.

Không có gì thay đổi cả: những khóm dâu tây vẫn tỉa xén kỹ, lối đi trong vườn vẫn thẳng tắp, như lấy thước mà kẻ, hai bên vẫn trồng giống hoa tử lan mà mẹ Tô-nhi-a rất ưa. Chỗ nào cũng nhìn thấy bàn tay thích bày vẽ rởm của nhà kiểm lâm uyên bác. Và Tô- nhi-a nhìn những lối đi kẻ thẳng sạch trơn quá ấy thấy chán mắt.

Tô-nhi-a lấy quyển truyện đọc dở, mở cửa thông ra hàng hiên, đi qua vườn, đẩy cánh cửa nhỏ có quét sơn, rồi lững thững đi về phía hồ nhà ga gần cột chứa nước.

Qua cái cầu nhỏ, cô đi ra đường cái đẹp như một lối đi trong vườn. Bên phải là hồ, quanh bờ trồng dương liễu và một vườn thùy liễu rậm rạp. Bên trái bắt đầu khu rừng.

Tô-nhi-a định đến chỗ mỏ đá cũ, nhưng, chợt nhìn thấy một chiếc cần câu đang rung rung mé dưới một lùm cây ven hồ, cô liền dừng bước.

Leo lên đứng níu một cây liễu cong, cô lấy tay vạch cành liễu ra thì thấy một cậu da mặt rám nắng, chân đi đất quần xắn quá đầu gối. Bên cạnh có một hộp đựng mồi bằng sắt tây gỉ. Cậu ta mải câu cá, không để ý đến Tô-nhi-a đang nhìn chằm chặp vào mình:

- Ở đây cũng có cá cơ à?

Pa-ven bực mình quay lại.

Một cô gái không quen biết, đứng níu lấy thân cây liễu đang cúi sát xuống mặt nước. Cô ta mặc áo trắng kiểu lính thủy, cổ viền xanh có vạch trắng, váy ngắn màu xám sáng, tất kẻ sọc khít vào đôi gót chân thon nhỏ rám nắng, giày xinh xinh màu hung. Làn tóc màu hạt dẻ tết thành búi trong chiếc mũ cói to vành.

Tay Pa-ven cấm cần câu hơi run lên, cái phao bằng lông ngỗng chúi đầu một cái, làm nổi nhũng làn sóng khoanh tròn chạy tỏa ra trên mặt nước gờn gợn.

Tiếng ai ở phía sau kêu lên hồi hộp: - Cắn câu rồi ! Anh trông, cá cắn câu...

Pa-ven luống cuống giật mạnh cần câu. Nước bắn tung tóe mà chỉ thấy lưỡi câu quay quay với cái mồi không.

"Chà ! Bữa nay đi câu xúi quầy. Quỷ xui con bé đến ám mình !" Pa-ven phát cáu nghĩ vậy, và để giấu nỗi lúng túng, cậu lại ném câu ra xa, giữa hai đám bèo tai trâu, chính chỗ ấy lại không nên ném câu vào vì lưỡi câu dễ mắc vào rễ cây.

Pa-ven không buồn quay lại, môi mím chặt, nói càu nhàu về phía cô gái đang ngồi ở trên kia:

- Cô đứng trên nói léo nhéo cái gì thế ? Làm chạy hết cá của người ta.

Câu trả lời đốp ngay xuống có vẻ chế giễu:

- Nhưng cá nó chạy từ lâu rồi. Cái bộ anh câu thế cũng đủ làm nó chạy hết. Với ai lại đi câu cá giữa trưa như thế này? Không biết câu cũng đòi câu!

Từ nãy đến giờ Pa-ven cũng định giữ mồm giữ miệng cho lịch sự, song bây giờ không nhịn được nữa. Cậu đứng vùng dậy, kéo sụp mũ xuống trán, tính cậu hễ cáu là làm như thế, rồi cố chọn những tiếng nhã nhặn nhất:

- Cô làm ơn ra chỗ khác đứng cho ạ.

Mắt Tô-nhi-a hơi nheo lại, thoáng nụ cười tinh nghịch:

- Tôi làm rầy anh lắm có phải không?

Giọng nói nghe không có vẻ chế nhạo nữa mà thân mật muốn làm lành. Pa-ven đang sắp sửa nói cục cằn với "cô ả" không biết từ đâu đến này, nghe cô ta nói thế cũng khống cáu được nữa.

- Thôi, cô muốn xem thì cứ xem, chỗ rộng ai muốn đứng đâu thì đứng.

Pa-ven ngồi xuống, và lại nhìn phao. Bấy giờ phao cứ quanh quẩn trong đám bèo: chắc là mồi móc vào rễ bèo rồi. Cậu do dự không dám kéo lên.

"Nếu mắc thì không còn cách nào rút về nữa. Chắc con bé kia thế nào cũng sẽ lại cười mình. Mình chỉ mong nó xéo đi cho rảnh". Pa-ven nghĩ bụng thế.

Nhưng Tô-nhi-a đã ngồi gọn trên thân liễu cong đang lắc lư, đặt sách lên gối, rồi bắt đầu chăm chú nhìn cậu bé mắt đen, da rám nắng kia. Cậu ta đã tiếp đón cô chẳng niềm nở mấy và bây giờ lại làm ra bộ không chú ý gì đến cô cả.

Pa-ven nhìn xuống mặt nước, thấy in rõ bóng người con gái đang ngồi. Cô ta cứ đọc sách còn Pa-ven từ từ gỡ dây câu bướng bỉnh về. Chiếc phao chìm dưới nước: dây mắc rễ kéo không ra. "Lưỡi câu khốn kiếp lại mắc mất rồi?". Pa-ven liếc nhìn thấy dưới mặt nước hơi gợn sóng có bóng người mỉm cười chế nhạo.

Hai gã thanh niên, học trò lớp bảy, đi qua cầu, cạnh cột nước. Một đứa là con lão kỹ sư quản đốc sở đầu máy xe lửa tên là Xu-khác-cô; hắn năm nay mười bảy tuổi, to xác nhưng ngô nghê và nổi tiếng vì tính đểu giả. Tóc hắn hơi vàng hoe, mặt đầy tàn nhang. Ở trường, bạn bè thường gọi chế hắn là thằng "Sua- ca rỗ mặt". Đi bên cạnh hắn là thằng Vích-to, con lão Lê-sinh-ski, õng ẹo y như con gái. Thằng Xu-khác- cô tay cầm một chiếc cần câu rất sang, miệng phì phèo thuốc lá. Hắn ghé vào tai thằng Vích-to vừa nói, vừa nháy:

- Tao vẫn bảo mày là con bé nó ngon như một thứ nho hộp ấy, ở đây cấm con nào bì với nó được. Rất lãng mạn nhớ. Nó học lớp sáu ở Ki-ép. Hiện về nghỉ hè ở nhà ông cụ làm chánh kiểm lâm. Bạn chơi với con Li-da em gái tao. Tao đã gửi cho nó một mẩu thư, văn rất kêu. Đại khái: "Yêu em say đắm, anh tha thiết chờ đợi thư em trả lời". Tao lại nhét vào đấy mấy câu thơ thuổng được ở một bài thơ của thi sĩ Nát-xôn rất ăn giọng, mày ạ.

Vích-to tò mò hỏi: - Thế rồi kết quả ra sao?

Xu-khác-cô hơi lúng túng, đáp: - Ừ, nó cũng làm cao, màu mè bảo tao "đừng viết thư làm gì cho phí giấy”. Song con gái đứa nào mới đầu chẳng thế. Mày không lo. Cái khoản yêu này thì tao cáo già. Song tao cũng chẳng thiết mất thì giờ tán tỉnh nhũng nhẵng mãi làm quái gì. Tối đi vào xóm xưởng sửa chữa tàu chơi gái thú hơn. Vứt ra ba rúp là có một con nhan sắc làm rỏ dãi ra rồi. Mà nó lại chẳng có đủng đỉnh làm cao gì cả? Tao vẫn đi chơi với lão Van-ca Chi-khô-nốp đấy. Lão ta làm đốc công xe lửa ấy mà, mày có biết không?

Vích-to bĩu môi có vẻ khinh bỉ: - Mày cũng đi chơi trò nhơ bẩn ấy, hở Sua-ca?

Xu-khác-cô nhằn nhằn mẩu thuốc lá, rồi buông giọng mỉa mai: - Xin ông đừng làm bộ, làm tịch nữa. ông tưởng con không biết ông để thời giờ của ông làm gì đấy. . .

Vích-to ngắt lời hỏi: - Thôi, thế mày giới thiệu tao với con bé kia nhá?

- Tất nhiên, ta lại nhanh không nó đi mất. Sáng hôm qua nó cũng đi câu ở đây.

Hai thằng lại gần Tô-nhi-a. Xu-khác-cô rút điếu thuốc đang ngậm ra, gập người lại cúi chào:

- Chào cô Tô-nhi-a Tu-ma-nô-va ạ. Cô ra đây câu cá?

Tô-nhi-a đáp lại: - Không, tôi chỉ xem người ta câu thôi.

- Cô chưa biết anh Vích-to Lê-sinh-ski nhỉ. - Xu- khác-cô vừa hấp tấp nói vừa cầm tay Vích-to. - Xin giới thiệu đây là anh bạn tôi, Vích-to con cụ Lê-sinh-ski.

Vích-to ngượng ngùng chìa tay ra bắt tay Tô-nhi-a.

Xu khác-cô cố bắt chuyện: - Sao hôm nay cô không đi câu?

Tô-nhi-a trả lời: - Tôi không mang cần câu đi.

Xu khác-cô vội nói: - Cô để tôi đi kiếm một cái nữa cô dùng. Giờ mời cô tạm lấy cần câu của tôi, tôi xin đi kiếm cái khác về ngay.

Xu-khác-cô đã giữ được lời hứa giới thiệu Vích-to với Tô-nhi-a và bây giờ định bày mẹo để Vích-to ở lại một mình với Tô-nhi-a. Nhưng Tô-nhi-a trả lời:

- Thôi anh ạ, ta sẽ làm phiền người khác. Ở đây đã có người câu rồi.

Xu khác-cô hỏi ngay: - Phiền ai cơ? À, thằng nhãi ấy ư? - Mãi bây giờ hắn mới nhìn ra Pa-ven đang ngồi câu ở bụi cây. - Chà ! Thằng ấy để tôi ra đuổi nó cút đi ngay trong nháy mắt.

Tô-nhi-a chưa kịp ngăn lại, thì Xu-khác-cô đã chạy xuống chỗ Pa-ven đang câu. Hắn bảo Pa-ven:

- Thằng kia, cuốn cần câu của mày xéo ngay, đi!

Thấy Pa-ven vẫn cứ ngồi yên tiếp tục câu, nó lại quát thêm: - Đi, đứng lên ngay, cút mau!

Pa-ven ngẩng đầu lên nhìn Xu-khác-cô, cái nhìn chẳng lành gì.

- Im mồm! Làm gì mà nhắng lên thế?

Thằng kia phát khùng lên: - Cái gì, mày lại dám lôi thôi với ông à? Đồ ăn mày! Xéo!

Nói rồi nó lấy mũi giày đá hất tung hộp mồi của Pa-ven rơi tõm xuống hồ. Nước bắn tung tóe lên cả mặt Tô-nhi-a. Tô-nhi-a kêu lên:

- Anh Xu-khác-cô ơi! Anh bất lịch sự thế mà không biết thẹn à?

Pa-ven đứng phắt dậy. Cậu biết hắn là con lão quản đốc sở đầu máy xe lửa. A-rơ-chom làm việc dưới quyền bố nó. Nếu bây giờ mình động đến đồ mặt bệu này thì nó sẽ mách bố nó và việc này thế nào cũng sẽ lôi thôi đến anh A-rơ-chom. Đấy là lý do duy nhất làm Pa-ven nén được giận không xô lại ngay.

Xu-khác-cô sợ Pa-ven choảng mình, liền xông lại lấy hai tay túm ngực Pa-ven đẩy xuống hồ. Pa-ven loạng choạng người khoa tay lên trời, bị giúi về phía sau, nhưng lại đứng vững được ngay.

Xu-khác-cô lớn hơn Pa-ven hai tuổi, nổi tiếng là tay ngổ ngáo thích đánh nhau.

Bị huých vào ngực, Pa-ven nổi xung lên: - À, mày định chơi nhau phải không? Được ông cho mày biết tay ngay!

Pa-ven thoi cho nó một quả đấm tay phải vào giữa mặt và không để nó kịp hoàn hồn đã túm ngay áo nó, lôi đi kéo xệch xuống nước.

Xu-khác-cô bị dìm xuống hồ ngập nước đến đầu gối, đôi giày bóng loáng và cái quần bảnh ướt sũng. Hắn cố hết sức gỡ khỏi hai tay Pa-ven siết chặt. Nhưng Pa-ven đã đẩy nó ngã xuống nước, rồi nhảy tót lên bờ.

Xu-khác-cô tức điên người, hầm hầm xông lên, chực xé Pa-ven ra từng mảnh.

Pa-ven quay lại nhanh như cắt đối phó với kẻ thù. Anh sực nhớ đến bài quyền của Giu-khơ-rai dạy: "Xuống tấn chân trái, hơi duỗi chân phải, không phải chỉ đấm bằng sức tay, mà lấy cả sức người, nhè quai hàm mà đấm móc lên".

Ră...ă...ắc..c !...

Tiếng răng rập vào nhau, Xu-khác-cô bị tống vào quai hàm và cắn phải lưỡi đau điếng người, kêu ôi ối, tay chới với và lăn phịch xuống nước.

Trên bờ Tô-nhi-a cười ngặt nghẽo, vỗ tay reo lên:

- Hoan hô ! Hoan hô! Đánh cừ thật!

Pa-ven nắm lấy cần câu, giật mạnh, giằng chiếc lưỡi câu còn mắc, rồi nhảy tót lên đường cái.

Đi khỏi, Pa-ven còn nghe tiếng thằng Vích-to nói với Tô-nhi-a:

- Nó là thằng Pa-ven con nhà Ca-rơ-sa-ghin, đồ du côn có tiếng !

Mối lo ngại bao trùm lấy khu nhà ga. Tin đồn truyền đi rằng: thợ xe lửa trên đường sắt này đã bắt đầu bãi công. Bãi công bắt đầu từ công nhân đoạn đầu máy thuộc ga lớn bên cạnh. Bọn Đức bắt hai người thợ máy bị tình nghi mang truyền đơn kêu gọi đấu tranh. Những anh em công nhân có gia đình ở nông thôn thì căm phẫn sôi sục vì bọn Đức tịch thu lương thực và bọn đại địa chủ đã theo giặc trở về chiếm lại ấp trại cũ của chúng.

Ở nông thôn, bọn cảnh binh thuộc giống Cô-dắc quý phái của bọn đầu lĩnh Nga trắng quất roi ngựa lên lưng nông dân. Trong vùng này đã có đến chục đội du kích nông dân do những đảng viên bôn-sê- vích tổ chức.

Giu-khơ-rai đã không để phí thời giờ. Từ ngày đến ở thành phố này, anh đã làm được một khối công tác  lớn. Anh đã quen được với nhiều công nhân xe lửa, thường đến dự các tối vui của những thợ trẻ và đã tổ chức được một nhóm trung kiện gồm những thợ nguội sở đầu máy xe lửa và thợ xẻ máy cưa. Anh đã thử dò cả A-rơ-chom, hỏi đến thái độ anh ta đối với Đảng bôn-sê-vích và hoạt động.của Đảng. Người thợ nguội lực lưỡng ấy đã trả lời anh ấy rằng:

"Anh Giu-khơ-rai ạ, về tất cả mớ đảng phái đó, tôi không hiểu gì lắm. Nhưng nếu cần giúp đỡ một tay, tôi luôn luôn sẵn sàng. Anh có thể tin ở tôi".

Giu-khơ-rai cho A-rơ-chom trả lời thế cũng được rồi: anh biết A-rơ-chom là người có cảm tình đối với Đảng và nếu đã nói thì làm. Nhưng cũng thấy rõ là anh ta giác ngộ chưa chín đến mức độ có thể kết nạp vào Đảng được. Giu-khơ-rai nghĩ thầm: "Không hề gì, trong lúc phong trào như thế này, cậu ấy rồi sẽ đến với Đảng".

Giu-khơ-rai thôi việc ở sở máy điện, sang làm ở  sở đầu máy xe lửa. Làm ở đây thuận tiện cho hoạt động hơn. Vì ở sở điện thì xa phong trào đường sắt quá.

Xe đi lại trên đường sắt dạo này rất dồn dập. Bọn Đức chở về Đức hàng nghìn toa đủ các thứ chúng cướp bóc được ở U-cơ-ren: lúa mì, lúa mạch, gia súc....

Thật không ai ngờ, bọn vệ binh nguỵ ập đến bắt Pô-nô-ma-rên-cơ, người làm điện báo ngoài ga. Chúng đánh đập dã man bác ta ở bộ chỉ huy Đức. Chắc vì thế mà bác đã khai ra công tác tuyên truyền ở sở đầu máy xe lửa do Rô-man Xi-đô-ren-cô, một người bạn của A-rơ-chom phụ trách.

Hai tên Đức và một thằng ngụy phó tư lệnh quân quản nhà ga, người U-cơ-ren, ập đến bắt Rô-man giữa lúc anh đang làm việc. Một tên lính ngụy sấn đến bàn nguội của Rô-man, chẳng nói chẳng rằng, quất roi vào mặt anh. Nó quát:

- Thằng khốn kia, đi theo chúng ông ngay! Cứ đến đấy rồi sẽ nói chuyện. - Nó nhếch miệng nhăn răng một cách thảm hại, rồi nắm lấy tay áo Rô-man: Cứ đến chỗ chúng ông rồi tha hồ mà "tuyên truyền"!

A-rơ-chom đang làm việc ở bàn bên cạnh, thấy vậy nên bỏ giũa xuống bàn; thân hình cao lớn của anh sấn đến chỗ tên ngụy. Cố nén nỗi tức giận, giọng anh bật ra như gầm lên:

- Sao mày dám đánh người ta, hở đồ chó?

Tên ngụy lùi lại, mở bao da, rút súng ngắn. Tên lính Đức thấp lũn cũn, trật súng khỏi vai, nhằm anh, lên quy-lát lách cách, và sủa lên:

- Đứng lại!

Nó lăm lăm chĩa súng, đợi anh nhúc nhích là bắn liền.

Người thợ cao lớn đứng ngây ra bất lực trước tên lính Đức loắt choắt. Không thể làm gì được nó.

Chúng bắt cả hai đi. Một giờ sau, A-rơ-chom được tha, còn Rô-man thì bị nhốt vào hầm giam.

Chỉ mươi phút sau, cả sở đầu máy bỏ việc, công nhân tập trung ở vườn hoa nhà ga. Thợ bẻ ghi và các thợ khác làm việc ở các kho vật liệu cũng hưởng ứng theo. Phẫn nộ đến cùng cực. Người ta đưa ra yêu sách - do một người nào đó thảo ra - đòi thả ngay Rô-man và Pô-nô-ma-rên-cơ.

Lòng căm phẫn càng tăng khi tên ngụy lúc nãy dẫn một lũ vệ binh phi ngựa đến vườn hoa. Tay nó khoa khẩu súng ngắn dọa dẫm.

- Nếu các ngươi không trở lại làm việc, chúng tao sẽ bắt giam hết ngay lập tức bây giờ. Sẽ cho nhiều đứa úp mặt vào tường ăn đạn.

Nhưng tiếng la hò giận dữ của công nhân làm nó phải đánh bài chuồn ra phía nhà ga. Tên tư lệnh quân quản nhà ga gọi điện báo về. Từ trong thành phố đã có cam-nhông chở đầy lính Đức chạy như bay, lao tới.

Công nhân bắt đầu giải tán, ai về nhà nấy. Tất cả mọi người đều bỏ việc, ngay cả các bạn ký ga cũng bãi công. Công việc của Giu-khơ-rai đã mang lại kết quả: đây là cuộc đấu tranh đầu tiên có tính chất quần chúng ở nhà ga xe lửa.

Bọn Đức đặt trọng liên trên thềm nhà ga. Khẩu súng ghếch nòng chồm chỗm như một con chó săn. Một tên cai Đức quỳ bên cạnh, một tay để sẵn lên quy- lát.

Nhà ga vắng tanh.

Đêm ấy bắt đầu bắt bớ. A-rơ-chom cũng bị bắt. Giu-khơ-rai không ngủ ở nhà, nên chúng không tìm thấy anh.

Bọn chúng dồn người bị bắt vào một nhà kho chứa hàng rộng thênh thang và chúng đặt điều kiện cuối cùng: hoặc là tiếp tục đi làm, hoặc là ra tòa án quân sự.

Suốt dọc con đường sắt này hầu hết công nhân xe lửa đều bãi công. Suốt hăm bốn tiếng đồng hồ, không có chuyến tàu nào chạy. Cách nhà ga một trăm hai mươi cây số có xảy ra đánh nhau với một đội du kích mạnh, đội này đã cắt mất đường và phá các cầu rồi.

Đêm có một đoàn tàu chở lính Đức kéo đến ga. Nhưng tàu vừa đến nơi thì thợ máy, ét và người đốt lò đều bỏ trốn khỏi đầu.máy rồi. Thế mà ngoài chuyến tàu này lại còn hai chuyến tầu nữa cũng chờ đến lượt khởi hành.

Cánh cửa sổ đầu máy xe lửa nặng trịch mở ra, tên quan hai Đức tư lệnh quân quản nhà ga, tên tư lệnh phó và một toán Đức bước vào.

Tên tư lệnh phó gọi: "Những tên sau đây: A rơ- chom Ca-rơ-sa-ghin, Pô-len-tốp-ski, Bơ-ru-giắc có nhiệm vụ lái chuyến xe lửa này đi. Nếu từ chối, bắn ngay tại chỗ. Có đi không?" Ba người thợ buồn rầu cúi đầu. Một toán lính Đức chĩa lưỡi lê kèm họ đến đầu máy, tên tư lệnh phó đã quay sang chỉ định người lái, ét và đốt lò cho chuyến tàu đi sau.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách