|
SỐ PHẬN MỘT CON NGƯỜI
Kính tặng nữ đồng chí
Épghênia Grigôriépna Lêvítxcaia,
Đảng viên Đảng cộng sản Liên Xô
từ năm 1903
Trên miền thượng lưu sông Đông, mùa xuân đầu tiên sau chiến tranh đã đến, rất mực hiền hòa và kiên quyết. Cuối tháng ba, những làn gió ấm từ miền biển Adốp đã bắt đầu thổi tới, và chỉ sau hai ngày đêm, những bãi cát bên tả ngạn sông Đông đã lồ lộ ra sạch bóng tinh tươm, trong thảo nguyên, những mương xói, khe hẻm đầy tuyết cứ phồng lên; sông ngòi thảo nguyên phá vỡ băng, cuồn cuộn chảy; đường xá hầu như bị tắc nghẽn.
Giữa lúc không may, đường xá khó khăn ấy, tôi phải đến làng Bucanốpxcaia. Đường không xa – chỉ khoảng sáu chục cây số thôi, - nhưng vượt qua được cũng chẳng dễ dàng gì. Tôi và một đồng chí nữa ra đi từ lúc mặt trời chưa mọc. Một đôi ngựa no kềnh, dây căng thẳng, ì ạch kéo cỗ xe nặng trịch. Bánh xe lún đến tận ổ trục trong cát ướt trộn lẫn với tuyết và băng, sau một giờ thì hai bên hông ngựa, dưới những dây nịt mỏng ở vành mông, đã sủi lên những đám bọt mồ hôi trắng xóa; trong không khí ban mai mát mẻ, xông lên nồng nặc và ngây ngất mùi mồ hôi ngựa và mùi nhựa được trát vô tội vạ vào bộ dây thắng đã được làm nóng lên.
Nơi nào thấy ngựa vất vả quá thì chúng tôi xuống xe, đi bộ. Tuyết nhão nhoét cứ lép nhép dưới đế ủng, bước rất khó, nhưng hai vệ đường thì vẫn còn lớp băng mỏng lóng lánh dưới ánh mặt trời như pha lê; bước vào đó lại càng khó đi hơn. Phải đến sáu tiếng đồng hồ chúng tôi mới vượt qua được khoảng ba chục cây số, tới bến đò qua con song Êlanca.
Con sông không lớn lắm nằm giữa bãi bồi lầy lội mọc đầy cây trăn, mùa hè có nhiều chỗ cạn, chảy qua trước xóm Môkhốpki, giờ đây nó tràn bờ, rộng tới một cây số. Đành phải vượt sông trên một con thuyền đáy phẳng ọp ẹp không chở nổi quá ba người. Chúng tôi bỏ ngựa lại. Trên bờ bên kia trong một nhà kho nông trang, chiếc ô tô “Uynlixtơ” chạy nhiều đã tã đang chờ chúng tôi; xe bị bỏ lại đó từ dạo mùa đông. Tôi và người lái xe ngồi trên chiếc thuyền nát – lòng cứ chờn chợn. Đồng chí cùng đi với tôi ở lại bờ bên này với hành lý. Chúng tôi vừa rời bến tàu thì từ đáy thuyền mục ruỗng nước cứ phun lên thành vòi. Chúng tôi dùng đủ mọi thứ sẵn có trong tay trám các lỗ thủng của cái chậu ọp ẹp ấy và tát nước cho đến lúc cập được vào bờ. Sau một tiếng đồng hồ, chúng tôi sang được bên kia con ngòi Êlanca. Người lái xe đã đánh được chiếc ô tô từ trong xóm ra, anh bước tới thuyền cầm lấy mái chèo và nói:
- Nếu cái chậu thủng thổ tả này không bị đắm, thì sau chừng hai giờ nữa chúng tôi mới tới, đồng chí đừng mong sớm hơn.
Xa xa, xóm quê trải qua tít tắp, và quanh bến tịch mịch lạ thường, cái tịch mịch chỉ thấy ở những chốn hoang vu vào mùa thu vắng lặng hoặc buổi đầu xuân mà thôi. Từ mặt nước phảng phất hơi ẩm và mùi hăng đắng của những cây trăn mục, nhưng từ những thảo nguyên vùng sông Khôperơ xa xôi, chìm đắm trong màn sương mù tím nhạt, một luồng gió nhẹ đã đưa tới mùi hương muôn thuở thanh xuân, thoang thoảng của đất vừa thoát khỏi cảnh tuyết phủ.
Gần đấy, trên bờ cát, có một hàng rào đổ rạp. Tôi ngồi xuống đó, định lấy thuốc hút, nhưng thọc tay vào túi bên phải áo bông, thì khốn khổ thay, bao thuốc “Bạch hải” đã ướt đẫm rồi. Lúc qua sông sóng đánh vào mạn thuyền nông choèn, và cái nước đục ngầu ấy đã thấm ướt người tôi đến tận thắt lưng. Lúc ấy thì giờ đâu mà nghĩ tới thuốc lá, phải vứt chèo tát nước cho nhanh để thuyền khỏi chìm, và giờ đây mới xót xa tự trách mình sơ ý, tôi nhẹ nhàng rút bao thuốc nhẽo nhoẹt ra khỏi túi, ngồi xổm và bắt đầu xếp lên hàng rào từng điếu thuốc ướt mềm và sẫm xịt.
Lúc đó đã đứng bóng. Mặt trời chói chang như giữa tháng năm. Tôi hi vọng thuốc lá sẽ chóng khô. Trời nắng chói chang tới mức tôi phải ân hận vì đã mặc quần áo bông bộ đội đi đường. Đó là ngày nắng ấm thực sự đầu tiên sau mùa đông. Thật là thú vị được rồi trên hàng rào như thế này, một mình chìm đắm trong tịch mịch và cô đơn, được cất khỏi đầu chiếc mũ lông bộ đội đã cũ, hong trước gió mớ tóc ướt đẫm sau một chuyến chèo thuyền vất vả, mơ màng nhìn theo những đám mây trắng căng phồng, đang lững lờ trôi trên nền trời xanh nhạt.
Lát sau, tôi thấy từ phía mấy ngôi nhà cuối xóm, một người đàn ông đang bước ra đường cái. Anh ta dắt tay một em bé, nom vóc người khoảng chừng năm, sáu tuổi. Cả hai mệt nhọc lê bước đi về phía bến đò, nhưng khi đến ngang chiếc xe thì họ quay về phía tôi. Người đàn ông cao lớn, hơi gù, tiến sát tới bên tôi, cất giọng trầm trầm nói:
- Chào anh. – Tôi siết chặt bàn tay to lớn sần sùi chìa ra cho tôi.
Anh ta cúi xuống em bé, nói:
- Chào bác đi con. Con xem, bác ấy cũng là lái xe như bố con đấy. Chỉ có điều là bố con mình lái xe tải, còn bác ấy lái chiếc xe con này.
Cặp mắt trong xanh như da trời của chú bé nhìn thẳng vào mắt tôi, và hơi mỉm cười, chú chìa cho tôi bàn tay bé bỏng hồng hồng lạnh buốt. Tôi lắc nhẹ bàn tay ấy và hỏi:
- Thế nào, cụ ơi, sao bàn tay lạnh ngắt thế? Trời ấm mà cụ lại cóng à?
Với niềm tin cậy rất cảm động của tuổi thơ, em bé nép mình vào đầu gối tôi, ngạc nhiên dướn cặp lông mày mờ nhạt lên.
- Cháu như thế này mà là cụ à? Cháu chỉ là trẻ con thôi – mà cháu có bị cóng chút nào đâu, tay lạnh là vì nhào tuyết đấy.
Hạ chiếc ba lô lép kẹp trên vai xuống, người bố mệt nhọc đến ngồi cạnh tôi và nói:
- Cái ông khách này thật là của nợ! Tôi đến vất vả vì ông ta. Mình bước sải thì ông ta phải tế sang nước kiệu; nhưng rõ ràng là tự tôi phải thích nghi với loại bộ binh này thôi. Thế là đáng lẽ một bước, tôi phải bước thành ba, cứ phải lon ton với ông ấy, như ngựa đi theo rùa. Hơn nữa, mắt lại phải bám sát ông ta. Chỉ cần rời mắt là ông ta đã sà vào vũng nước, hay đập băng cho vào mồm thay kẹo. Không, đi đường với loại khách kiểu này đã chẳng phải việc của đàn ông, còn nói gì đến chuyện đi đều bước nữa. – Anh ta lặng im một lát rồi hỏi: – Thế còn anh, anh bạn làm gì đây, chờ thủ trưởng à?
Cũng không tiện cải chính rằng mình không phải lái xe, tôi trả lời:
- Vâng, tôi phải đợi.
- Từ bên kia sang à?
- Vâng.
- Anh có biết là thuyền sắp tới hay chưa?
- Chừng hai tiếng đồng hồ nữa.
- Lâu nhỉ! Thôi được, ta nghỉ ngơi vậy, tôi cũng chả vội đi đâu. Tôi đi qua thấy anh lái xe như tôi ngồi sưởi nắng. Thế là nghĩ bụng hãy dừng lại đây cùng hút thuốc đã. Hút thuốc một mình cũng buồn, như chết không có bạn. Chà anh cũng phong lưu đấy nhỉ, hút thuốc điếu cơ à? Mà anh làm ướt cả rồi, còn gì nữa? Này anh bạn à, thuốc ướt cũng như ngựa què, chẳng ra gì đâu. Tốt hơn là hãy hút thứ thuốc lá nặng này của tôi.
Anh móc từ trong túi quần bộ quân phục mùa hè một cái túi lụa đỏ cuộn tròn đã sờn, mở ra, và tôi đọc được dòng chữ thêu ở góc: “Tặng người chiến sĩ thân mến, một nữ sinh lớp sáu trường phổ thông Lêbêđianư”.
Chúng tôi cùng hút thứ thuốc lá rất nặng và im lặng hồi lâu. Tôi định hỏi anh ta và em bé đi đâu, có việc gì cần thiết tới mức phải ra đi giữa lúc đường sá còn lầy lội như thế này. Nhưng anh ta đã hỏi tôi trước:
- Thế nào, suốt chiến tranh anh ngồi sau tay lái này à?
- Gần suốt.
- Ở mặt trận à?
- Vâng.
- Tôi cũng ở mặt trận, anh bạn ạ, nếm đủ mùi cay đắng, quá sức chịu đựng.
Anh đặt đôi bàn tay to tướng đen sạm lên đầu gối, hơi còng lưng xuống. Tôi liếc nhìn anh, tự nhiên thấy lòng xốn xang… Không biết đã có lúc nào các bạn thấy đôi mắt như bị phủ tro, chan chứa một nỗi buồn thê thảm chết chóc đến nỗi ta không dám nhìn chưa? Đấy ông bạn gặp gỡ bất ngờ, đang nói chuyện với tôi, có cặp mắt như thế đấy.
Anh bẻ một que khô, quăn queo ở bờ rào, im lặng một phút, đưa đi đưa lại cái que vạch trên nền cát những hình vẽ rắc rối khó hiểu và cất tiếng nói:
- Có những đêm không ngủ, tôi chong đôi mắt trống rỗng vào cảnh tăm tối mịt mù mà nghĩ rằng: “Đời ơi là đời, sao ngươi lại hành hạ ta đến thế hả? Ngươi đày đọa ta đến thế để làm gì cơ chứ?”. Nhưng trong đêm tối mịt mù cũng như dưới ánh mặt trời chói chang, tôi vẫn không nghe thấy được câu trả lời… Tôi cũng chẳng mong chờ nữa! – Rồi bỗng như chợt nhớ ra điều gì, anh âu yếm đẩy con ra và bảo: – Đi, con tới chỗ bờ nước mà chơi, gần sông nước bao giờ trẻ con cũng tìm được một trò gì đó thích thú. Nhưng coi chừng, đừng làm ướt chân nhé!
Ngay từ lúc chúng tôi cùng im lặng hút thuốc, tôi đã kín đáo nhìn kĩ hai bố con, và thầm ngạc nhiên trước một điều tôi thấy là kỳ lạ. Chú bé ăn mặc giản dị nhưng toàn đồ tốt: một chiếc áo khoác dài lót một lớp lông cừu mỏng đã cũ, đôi ủng xinh xắn khâu vừa rộng để đi với bít tất len, rồi một đường nối rất khéo trên ống tay rách của chiếc áo khoác – tất cả đều khiến ta nghĩ tới sự chăm sóc của phụ nữ, đôi bàn tay khéo léo của người mẹ. Còn người bố nom khác hẳn: chiếc áo bông rách nhiều chỗ, vá víu một cách cẩu thả vụng về, miếng vá đắp lên trên cái quần cỏ úa đã tàng cũng không được khâu cẩn thận, mà nói cho đúng hơn đó là những đường kim sào của bàn tay đàn ông. Anh ta đi đôi giày bộ đội còn mới, nhưng đôi bít tất len dày bị nhậy cắn lại không thấy dấu vết bàn tay phụ nữ… Ngay lúc bấy giờ tôi đã nghĩ: “Anh chàng này hoặc là góa vợ, hoặc là sống lục đục với vợ”.
Nhưng anh ta đưa mắt dõi theo con, húng hắng ho khàn khàn mấy tiếng, rồi lại tiếp tục câu chuyện và tôi chăm chú lắng nghe.
- Ban đầu thì cuộc sống của tôi cũng bình thường thôi. Tôi sinh trưởng ở tỉnh Vôrônegiơ, sinh năm một nghìn chín trăm. Hồi nội chiến phục vụ trong Hồng quân, ở sư đoàn Kícvítde. Năm hai mươi hai đói kém, tôi trôi dạt tới Cuban làm thuê cho bọn cu-lắc nên mới sống sót. Bố mẹ và em gái tôi ở nhà đều chết đói. Chỉ còn lại một mình. Tứ cố vô thân, không còn ai máu mủ. Rồi một năm sau, từ Cuban trở về, tôi bán luôn ngôi nhà của mình và đi Vôrônegiơ. Ban đầu tôi ở trong một hợp tác xã mộc, sau đó tôi vào xưởng học nghề thợ nguội. Ít lâu sau tôi lấy vợ. Vợ tôi lớn lên trong trại mồ côi. Cô ấy không cha không mẹ. Duyên phận run rủi tôi gặp được một cô gái thật tốt. Hiền hậu, vui vẻ, ân cần, niềm nở và thông minh, tôi thật không xứng với cô ấy tí nào. Từ tấm bé, cô ấy đã nếm đủ những đắng cay của cuộc đời. Điều đó đã in lại dấu vết trong tính tình. Nhìn cô ấy với con mắt người dưng thì thấy sao được thật nết, thật người. Tôi không nhìn như người dưng mà nhìn tận ruột rà kia. Đối với tôi, không có ai đẹp hơn và dễ thương hơn vợ tôi, trên đời này chưa từng có và sẽ không bao giờ có!
Tôi đi làm về mệt nhoài, đôi lúc gắt như quỷ. Nhưng dù tôi có nặng lời thô lỗ, vợ tôi cũng không trả đũa, vẫn âu yếm dịu dàng. Trong cảnh thiếu thốn, cô ấy vẫn xoay xở lo toan cho tôi có được miếng ăn ngon lành. Cứ nhìn vào cô ấy là mọi nỗi bực dọc trong lòng đều nguôi tan, và chỉ một lát sau tôi đã ôm lấy cô ấy và nói: “Em Irina yêu dấu, anh đã lỗ mãng với em, tha thứ cho anh, em nhé! Em có biết không, công việc của anh hôm nay không được như ý”. Thế là chúng tôi lại hòa thuận với nhau, và lòng tôi trở lại thư thái. Anh bạn ơi, anh có biết rằng như vậy thì có lợi cho công việc như thế nào không? Buổi sáng, tôi thức dậy sảng khoái nhẹ nhàng đi tới xưởng, và việc gì đến tay cũng sôi nổi, chạy băng băng. Chao ôi, quý hóa biết bao khi có được một người vừa là vợ vừa là một bạn gái thông minh.
Cũng có đôi lúc lĩnh lương xong, kéo bạn bè đi nhậu nhẹt. Cũng có lúc trở về nhà chân nam đá chân chiêu, cứ nhìn thấy đủ phát khiếp lên. Đường phố đối với anh cũng thành ra nhỏ hẹp, chứ còn nói gì đến cái ngõ hẻm. Hồi ấy tôi là một chàng trai khỏe mạnh, lực lưỡng, có thể uống rất tợn, nhưng bao giờ cũng tự mình mò về được tới nhà. Nhưng có lần chỉ còn một quãng cuối cùng, tôi phải đi với tốc độ nguyên thủy, nghĩa là bò bốn chân, tuy vậy vẫn tới được nhà. Thế nhưng vẫn cứ không một lời trách móc, một tiếng kiêu ca, hay một điều gì om sòm, Irina của tôi chỉ có mỉm cười và còn thận trọng để anh chàng say rượu là tôi không bị chọc tức. Cô ấy cởi giày cho tôi và thủ thỉ: “Nằm sát vào tường, Anđrây nhé, kẻo ngủ quên lại lăn xuống sàn đấy!”. Còn tôi thì cứ như cái bị thóc, lăn kềnh ra đó, trước mắt thấy mọi vật đều ngả nghiêng nhào lộn. Tôi chỉ nghe như trong mơ bàn tay Irina nhè nhẹ xoa đầu tôi, thì thầm gì đó ngọt ngào âu yếm, thương xót cho tôi thì phải…
Sáng sớm, Irina gọi tôi dậy hai giờ trước khi đi làm để cho tôi giãn xương giãn cốt. Vợ tôi biết rằng bị nôn nao khó chịu sau cơn say, tôi sẽ không ăn gì, cho nên chỉ dọn dưa chuột muối, hoặc một món ăn nhẹ nào đó, rót rượu cho tôi vào một cái cốc có khía: “Anđrây, uống đi, nhưng say tí thôi đừng say nhiều nhé, anh yêu”. Chả nhẽ tôi lại nỡ phụ một tấm lòng tin cậy như thế ư? Tôi cạn chén, chỉ đưa mắt tỏ ý cám ơn chứ không nói một lời, hôn vợ rồi đi làm rất ngoan ngoãn. Giá như Irina nói với tôi, một thằng say, những lời trách móc hay gào thét, nguyền rủa thì nói có trời, hôm sau tôi sẽ lại uống nữa đấy! Trong các gia đình khác, những bà vợ không biết điều vẫn xử sự như thế. Nhìn vào, tôi biết mà.
Ít lâu sau chúng tôi có con. Đầu lòng là một cháu trai, mấy năm sau thêm hai cháu gái… Thế là tôi không còn đua đòi chúng bạn nữa. Lĩnh được bao nhiêu tiền, tôi đem về nhà tất, gia đình đã khá nhiều miệng ăn rồi, còn đâu mà chè rượu. Ngày nghỉ làm một vại bia, thế là đủ.
Năm hai mươi chín, tôi đâm ra khoái ô tô. Tôi học nghề xe hơi và lái xe vận tải. Rồi tôi say mê không muốn trở về nhà máy nữa. Ngồi sau tay lái, tôi thấy đời vui hơn. Cứ thế mười năm cuộc sống trôi qua lúc nào không biết. Thời gian trôi như một giấc mơ. Chà, mười năm có nghĩa lý gì đâu chứ! Anh cứ thử hỏi một người đứng tuổi nào đó xem, anh ta có chú ý cuộc sống trôi qua như thế nào không? Anh ta không hề chú ý! Quá khứ ư, nó cũng giống như thảo nguyên xa xăm mịt mù mây khói kia vậy. Sáng sớm, tôi bước đi giữa thảo nguyên, tất cả xung quanh đều rõ ràng sáng sủa, nhưng đi được hai mươi cây số, thế là sương mù tràn ngập và từ đây thì không còn phân biệt được rừng với cỏ dại, đất cày với bãi chăn nuôi…
Mười năm ấy tôi làm việc đêm ngày. Tiền lương khấm khá, và chúng tôi sống cũng chẳng đến nỗi thua em kém chị. Con cái càng làm cho chúng tôi hởi lòng hởi dạ: cả ba đứa đều học vào loại giỏi: thằng anh lớn là Anatôli có năng khiếu về toán, tới mức báo chí trung ương đã viết về nó đấy. Anh bạn ạ, chính tôi cũng không biết do đâu cháu lại có biệt tài về môn khoa học ấy. Có điều là tôi nở nang lòng dạ, và lấy làm hãnh diện về cháu, hết sức hãnh diện!
Trong mười năm, chúng tôi đã chắt chiu dành dụm được một ít tiền, và trước chiến tranh đã dựng được một ngôi nhà nhỏ, hai phòng, có gian kho và một hành lang nho nhỏ. Irina mua được hai con dê. Còn đòi gì hơn nữa chứ? Mấy đứa con có sữa ăn với cháo, trên đầu có mái nhà che nắng, che mưa, giày dép đủ, quần áo đủ, thế là mọi sự đều ổn cả. Chỉ có một điều là tôi không lường trước được… Họ cắt cho tôi một mảnh đất sáu trăm thước vuông ở gần xưởng sản xuất máy bay. Giá như túp nhà của tôi ở vào một nơi khác thì có thể là cuộc đời tôi đã khác…
Thế rồi chiến tranh, chiến tranh nổ ra. Ngày hôm sau, tôi nhận giấy triệu tập của phòng quân vụ, rồi ngày thứ ba lên tàu. Cả nhà bốn người đều ra tiễn tôi: Irina, Anatôli, và hai cháu gái Naxchia và Ônga. Các cháu đều cứng rắn, tự trấn tĩnh được. Nhưng hai cháu gái cũng không giữ được mấy giọt nước mắt long lanh. Anatôli chỉ rung rung đôi vai như bị lạnh, lúc ấy cháu đã sang tuổi mười bảy, còn Irina của tôi… Suốt mười bảy năm trời chung sống với nhau, tôi chưa hề bao giờ thấy vợ tôi như thế. Suốt đêm, Irina gục đầu vào vai tôi, vai và ngực áo sơ mi của tôi đẫm nước mắt không khô, và sáng sớm cũng cứ như thế… Chúng tôi đi ra ga, thương vợ quá tôi không dám nhìn đôi môi sưng mọng lên vì nước mắt, làn tóc xõa tung dưới khăn bịt đầu, mắt đục ngầu, đờ đẫn như người mất trí. Các đồng chí chỉ huy vừa tuyên bố lên tàu là nhà tôi bổ nhào vào ngực tôi, hai tay bíu chặt lấy cổ tôi, toàn thân run lên như một thân cây bị đẵn sắp đổ… Các cháu và cả tôi nữa khuyên giải thế nào cũng không được! Các chị em khác còn nói chuyện được với chồng, với con, còn vợ tôi cứ áp sát vào người tôi như chiếc lá dính vào cành, chỉ có run rẩy toàn thân, không nói được nửa lời. Tôi bèn nói với nhà tôi: “Irina yêu quý ơi! Can đảm lên em! Hãy nói với anh một lời tạm biệt, một lời thôi em!”. Nhà tôi nói, cứ sau mỗi tiếng lại nấc lên nức nở: “Anh Anđrây… của em… ơi… chúng ta… sẽ không… còn thấy lại… nhau… trên đời… này nữa… anh…ơi”…
Chính bản thân tôi lúc ấy cũng thương vợ vô cùng, tim nát tan từng mảnh, nhưng sao lúc ấy nhà tôi lại nói với tôi những lời như thế. Irina cũng phải hiểu rằng xa nhau tôi khổ tâm lắm chứ, ra trận chứ có phải đi ăn cỗ đâu. Tôi vụt cáu lên! Tôi ráng sức giằng tay Irina nắm lấy vai khẽ xô ra. Tôi xô khẽ thôi, nhưng sức tôi như vâm nên nhà tôi lảo đảo lùi ba bước rồi lật đật giơ hai tay ra tiến lại phía tôi. Còn tôi thì hét lên: “Tiễn biệt mà như thế à? Sao mà chôn sống người ta sớm thế?!”. Nhưng rồi tôi lại ôm choàng lấy vợ tôi, thấy rõ là nhà tôi chỉ như cái xác không hồn…
Đang nói chưa hết lời, đột nhiên anh ngừng kể, và trong phút giây im lặng ấy tôi nghe như có tiếng nấc nghẹn lại trong cuống họng anh. Nỗi niềm xúc động của anh bạn đã lây sang tôi. Tôi liếc nhìn anh, không một giọt lệ trên đôi mắt mờ đục không còn sinh khí. Anh ngồi đó, gục đầu ủ rũ, chỉ có hai bàn tay to lớn buông thõng hơi run run, cằm run run, đôi môi rắn rỏi run run…
- Thôi anh ạ, nhắc chuyện cũ làm gì, – tôi ôn tồn nói với anh ta, nhưng chắc là anh không nghe lời tôi nói, và với một cố gắng rất lớn nào đó, anh đã nén cơn xúc động, vụt nói tiếp, giọng khàn khàn và thay đổi rất kỳ lạ:
- Cho đến chết, cho đến giờ phút cuối cùng của đời mình, tôi sẽ chết, nhưng tôi không thể tha thứ cho mình về việc đã xô vợ trong giờ phút đó!...
Anh ta lại lặng im hồi lâu. Anh cố quấn một điếu thuốc, nhưng mảnh giấy báo cứ sổ tung ra, thuốc rơi vãi xuống đầu gối. Nhưng rồi cuối cùng anh cũng quấn quấy quá được, rít mạnh mấy hơi, húng hắng ho, rồi nói tiếp:
- Rứt ra khỏi Irina, tôi ôm lấy khuôn mặt nhà tôi trong hai bàn tay, tôi hôn nhưng đôi môi nhà tôi lạnh như băng giá. Tôi tạm biệt các con, chạy về toa mình, vừa chạy vừa nhảy lên bậc cửa toa. Tàu từ từ chuyển bánh, toa tôi đi qua chỗ những người thân yêu. Tôi thấy những đứa con từ nay vắng bố đứng cụm lại với nhau, giơ tay vẫy tôi, chúng muốn mỉm cười, nhưng nụ cười không hé ra được. Còn Irina thì hai tay ôm lấy ngực; đôi môi trắng bệch như phấn, thầm thì gì đó, nhìn tôi không chớp mắt và toàn thân ngả về phía trước như muốn đi ngược chiều, cố cưỡng lại một luồng gió mạnh… Hình ảnh đó của nhà tôi đọng lại trong ký ức tôi suốt đời: hai tay ôm ngực, môi trắng bệch và mắt mở to trừng trừng đầy nước mắt… Thường thường trong chiêm bao tôi cũng thấy nhà tôi như vậy đó… Tại sao lúc ấy tôi lại xô nàng cơ chứ? Cho đến nay hễ sực nhớ là tim tôi cứ như bị một lưỡi dao cùn cứa đi cứa lại… |
|