Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: siwang
Thu gọn cột thông tin

[Khác] Một Số Tác Phẩm Khác Của Arthur Conan Doyle | Arthur Conan Doyle

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 13:34:08 | Xem tất
09. Lô số 249 (tiếp)

Anh ta la lớn:
- Đồ ngốc! Rồi anh sẽ hối tiếc về việc này!
- Rất có thể - anh kia trả lời - Hãy nhớ lấy những diều tôi đã nói với anh: thế là hết rồi? Tôi không muốn nghe nói những chuyện đó!
- Anh đã hứa với tôi trong mọi tình huống...
- À, anh cứ yên tâm! Tôi sẽ không nói đâu, nhưng tôi muốn thà là con nhỏ Eva chết đi còn hơn. Chỉ một lần thối, thế là hết!
- Nó sẽ làm điều mà tôi nói. Chúng tôi không còn muốn nhìn thấy anh, không bao giờ nữa.
Smith không thể tránh khỏi phải nghe cuộc đối thoại này, nhưng anh rảo bước, vì anh không muốn bị lôi cuốn vào cuộc tranh cãi của họ một chút nào. Họ hục hặc với nhau một cách nghiêm trọng, việc này đã rõ ràng, và Lee sẽ khơi ra sự tan vỡ cuộc đính hôn của em gái anh ta với Bellingham. Nhớ lại sự so sánh của Hestie con cóc và con bồ câu, Smith thấy toại nguyện với giải đáp này. Cái đầu của Bellingham khi giận dữ thật khó coi. Thật tình một cô thiếu nữ thơ ngây sẽ lầm lỗi rất nhiều khi phó thác đời mình cho anh ta. Vừa đi Smith vừa tự hỏi nguyên nhân cuộc cãi lộn là cái gì, và tính chất của lời hứa mà Bellingham đã khẩn thiết nhắc nhở Mankhouse Lee có thể là việc gì.
Hôm ấy là ngày có cuộc thi chèo thuyền giữa Hastie và Mullins và rất nhiều người đi về phía sông Jsis. Mặt trời tháng năm chói lọi và hun nóng không khí; những cây du phóng ra những vệt bóng đen trên con đường màu vàng. Ở hai bên đường là những bức tường của trường cao đẳng màu xám, từ trong đó đi ra các vị giám thị mặc đồ đen, những vị giáo sư đạo mạo, những chàng thanh niên xanh xao, những vận động viên da bóng như đồng mặc áo thun trắng hay áo vét sặc sỡ nhiều màu. Tất cả mọi người đều vội vã đi về phía con sông màu xanh, con sông vạch những nét quanh co giữa các cánh đồng của Oxford.
Abercrombic Smith, với trực giác của một tay bơi thuyền lảo luyện, đã chọn chỗ đứng ở nơi mà anh biết chắc là cuộc thi đấu sẽ diễn ra. Từ đằng xa, một tiếng ồn ào dữ dội báo cho anh biết rằng lệnh khởi hành đã được phát ra, anh nghe thấy tiếng hò la ầm ĩ loan báo sự tới gần của các đấu thủ: nhiều người chạy đi, các khán giả theo dõi cuộc đua bằng tàu thủy thì la hét. Nhìn tới sái cổ, Smith mới thấy Hastie với tay chèo đều đặn ở nhịp ba mươi sáu, đã vượt trước Malhns một đoạn dài, trong khi anh này chèo một cách không đều tay ở nhịp bốn mươi. Sau khi tung ra tiếng hoan hô dành cho người bạn của mình anh lấy đồng hồ ra xem, và anh sắp đi trở lại con đường trở về căn hộ thì anh cảm thấy một bàn tay đặt lên vai mình chàng trai Monkhouse Lee đang đứng cạnh anh.
- Tôi đã trông thấy anh, - anh ta nói với một giọng vừa ngại ngần vừa khẩn khoản - Tôi muốn nói chuyện với anh, nếu anh có thể dành cho tôi một nửa giờ. Cái nhà nhỏ này là của tôi, tôi ở chung với Harrington, mời anh tới uống trà với tôi.
Smith đáp:
- Tôi phải về nhà ngay bây giờ, trong lúc này tôi đang nướng bánh trên vỉ. Nhưng tôi sẽ vui lòng dành cho anh mấy phút. Nếu Hastie không phải là người bạn chí cốt thì tôi đã không ra đây.
- Anh ấy cũng là bạn của tôi. Anh ấy có một lối chèo tuyệt vời phải không? Mullins không phải là đối thủ, nhưng hãy vào đây. Chỗ tôi ở không được rộng rãi, nhưng tôi thấy thoải mái khi làm việc ở đây trong những tháng hè.
Đó là một căn nhà nhỏ, trắng và vuông vắn, với một cửa lớn và những cánh cửa màu xanh lá cây và một cái cửa ngăn cổ lỗ, ở cách con sông chừng năm chục mét. Bên trong căn nhà, phòng chính được bầy biện một cách thô kệch để làm phòng học: một cái bàn bằng gỗ mộc, những cái kệ dã phai màu chất đầy sánh, một vài bức tranh loại rẻ tiền ở trên tường. Một ấm đun nước đang sôi réo lên trên cái bếp cồn, và một cái khay để uống trà trên bàn.
- Mời anh ngồi xuống cái ghế này và lấy thuốc lá hút đi - Lee nói - Tôi đi rói cho anh một chén nước trà. Anh quá bộ tới đây thật là quí hóa, vì tôi biết là anh rất bận rộn. Tôi muốn nói với anh rằng nếu ở địa vị anh thì tôi đã dọn đi ngay tức khắc.
- Hả?
Smith nhìn anh ta, một tay cầm que diêm đang cháy, và tay kia cầm điếu thuốc lá.
- Phải. Điều này có vẻ kỳ dị đối với anh, và tệ hơn nữa là tôi không thể nói rõ lý do với anh, vì tôi bị ràng buộc bởi một lời hứa thiêng liêng. Phải, một lời hứa rất thiêng liêng. Tuy nhiên tôi cũng có thể tự cho phép mình nói với anh rằng tôi không tin là Bellingham là một kẻ mà ở bên hắn, ta có thể sống trong sự an toàn. Tôi có ý định cắm trại ở đây càng lâu càng tốt trong một thời gian.
- Không có an toàn à? Anh muốn nói gì?
- A, đó là điều mà tôi không thể giải thích Nhưng xin anh hãy theo lời khuyên của tôi, và rời khỏi căn hộ của anh. Hôm nay chúng tôi vừa có một vụ cãi lộn lớn với nhau. Chắc anh đã nghe thấy chúng tôi cãi nhau, vì lúc đó anh đang đi xuống cầu thang.
- Tôi đã trông thấy các anh đang cãi vã.
- Đó là một thằng cha đáng ghét, anh Smith ạ! Đó là một từ duy nhất thích hợp với hắn. Tôi đã có những nghi ngờ về hắn từ buổi tối mà hắn ngất xỉu đi. Anh còn nhớ chứ: buổi tối mà tôi đến tìm anh đó. Hôm nay tôi hỏi lại hắn về tối hôm đó, và hắn đã nói với tôi những chuyện làm tôi rợn tóc gáy lên. Hắn muốn tôi cộng tác với hắn. Tôi không phải là người lên mặt đạo mạo, nhưng tôi là con trai của một mục sư, anh biết đấy và tôi tin rằng có những hành động không bao giờ được làm. Tôi cầu xin Thượng Đế cho hắn tỉnh ngộ trước khi đã quá muộn, vì hắn sẽ lấy vợ là người trong gia đình tôi.
- Tất cả việc đó đến rất tốt đẹp, Lee ạ - Abercrombie Smith nói. - Nhưng hoặc là anh đã nói với tôi quá nhiều vì chuyện đó, hoặc là anh đã nói với tôi quá ít vì chuyện đó.
- Tôi đưa ra cho anh một lời cảnh báo.
- Nếu đã có một lý do xác đáng cho lời cảnh báo đó, thì không một lời hứa nào có thể ràng buộc được anh ta. Nếu tôi trông thấy một tên cướp sắp sửa làm nổ tung một cái nhà bằng thuốc nổ, thì không có gì ngăn cản được tôi làm đủ mọi cách để tên cướp không thực hiện được ý đồ của nó.
- À, nhưng tôi không thể làm được việc gì để hắn bị thất bại. Tôi chỉ có thể cảnh báo anh thôi.
- Mà không nói rõ là anh bảo tôi phải đề phòng cái gì?
- Đề phòng Bellingham đó.
- Thật là chuyện con nít! Tại sao tôi phải sợ hắn chức hắn hay bất cứ kẻ nào khác?
- Tôi không thể nói điều đó với anh. Tôi chỉ có thể khuyên anh nên dọn đi. Nơi mà anh đang ở, anh gặp nguy hiểm đó. Tôi cũng không nói rằng Bellingham muốn hại anh. Nhưng sự bất hạnh sẽ có thể xảy tới cho anh, vì bây giờ hắn là một người hàng xóm nguy hiểm.
- Có lẽ tôi còn biết về hắn nhiều hơn là anh nghĩ, - Smith vừa nói vừa quan sát vẻ mặt non nớt nhưng nghiêm trang của cậu thanh niên, - Hãy giả thiết rằng tôi nói với anh là có một người nào khác đang ở căn hộ của Bellingham...
Monkhouse Lee run người lên dưới hiệu ứng một sự kích động không thể kiềm chế được. Anh ta ấp úng hỏi:
- Anh cũng biết à?
- Một người đàn bà phải không?
Lee ngồi phịch xuống ghế, miệng thốt ra một tiếng.
Anh ta nói:
- Môi tôi bị gắn kín rồi. Tôi không được nói.
- Được, dù sao đi nữa, - Smith dõng dạc nói và đứng dậy, - thật là khó tin được rằng tôi lại để tự mình hoảng sợ đến nỗi phải rời bỏ một nơi cư ngụ hoàn toàn thích hợp với tôi. Về phần tôi thì đó là một sự đớn hèn lớn lao nếu tôi dọn đi chỉ vì cái cớ mà anh xác nhận là Bellingham sẽ có thể làm hại tôi theo một cách thức không ai biết là gì. Tôi nghĩ là tôi sẽ chấp nhận các rủi ro và tôi sẽ ở lại chỗ tôi đang ở; tôi thấy hình như gần năm giờ rồi, tôi xin anh thứ lỗi cho.
Anh cáo từ chàng sinh viên trẻ và trở về cái tháp nhỏ của mình, lòng nửa hồi hộp, nửa vui thích, giống như tất cả mọi người đàn ông khỏe mạnh và ít trí tưởng tượng khi bị đe dọa bởi một sự hiểm nguy mơ hồ.
Mặc dù sự cấp bách của công việc đang làm, bao giờ Abererombie Smith cũng tự ban cho mình một điều ham thích nho nhỏ. Mỗi tuần hai lần, ngày thứ Ba và thứ Sáu, anh đi bộ tới tận Farlington, nơi cư ngụ của bác sĩ Plumptru Peterson, ở cách Oxford hai cây số rưỡi. Peterson là một người bạn thân của người anh cả của Smith, Francis; ông ta sống độc thân, giàu có với một hầm rượu ngon và một tủ sách còn quý hơn nữa; ngôi nhà của ông ta là một cái đích thích thú cho những tay đi bộ tài tử; mỗi tuần hai lần, chàng sinh viên y khoa dấn bước vào những con đường tối tăm của miền quê và sống một giờ thoải mái trong phòng làm việc đầy đủ tiện nghi của ông Peterson để nói huyên thuyên, trên một cốc rượu mùi về những chuyện vớ vẩn mới nhất ở trường đại học, hoặc về những tiến bộ gần đây nhất của y học và của khoa giải phẫu.
Buổi tối hôm sau cái ngày mà anh đã nói chuyện với Monkhouse Lee, Smith gấp sách lại vào lúc 8 giờ 15; đó là giờ mà anh có thói quen đi tới nhà người bạn. Lúc rời khỏi phòng tình cờ anh nhìn thấy một trong những quyển sách mà Bellingham đã cho anh mượn, và anh cảm thấy áy náy là đã chưa trả lại anh ta. Dù người đó có đáng ghét như thế nào đi nữa, anh ta cũng không đáng để cho mình thiếu phép xã giao Anh cầm lấy quyển sách, đi xuống cầu thang và gõ cửa phòng anh hàng xóm. Không có tiếng trả lời. Anh xoay nắm cửa và nhận thấy cánh cửa không khóa. Khoan khoái vì viễn tượng tránh dược một cuộc nói chuyện, anh nhẹ bước đi vào bên trong và đặt quyển sách cùng vời tấm danh thiếp của anh lên trên bàn ở chỗ dễ nhìn thấy.
Ngọn lửa của cây đèn đã bị vặn nhỏ xuống, nhưng Smith cũng có thể nhìn khá rõ ràng các chi tiết của căn phòng. Căn phòng không có gì thay đổi: tấm màn treo trên trần những cái đầu thú vật, con cá sấu và cái bàn bề bộn giấy tờ và lá cây phơi khô. Cái hòm đựng xác ướp được dựng vào tường (nhưng cái xác ướp không có ở bên trong). Anh không nhìn thấy một dấu vết nào của một kẻ thứ hai cư ngụ trong căn phòng, và anh vừa đi ra vừa tự nghĩ là có lẽ anh đã bất công với Bellingham. Nếu anh này muốn giữ kín một điều bí mật tội lỗi thì anh ta đã không để ngỏ cửa phòng, mặc cho ai tới thì tới.
Cần thang xoáy trôn ốc tối đen như mực. Smith đi xuống một cách thận trọng những bậc thang gồ ghề, thì bỗng nhiên anh thấy có người vừa đi ngang qua anh trong bóng tối. Anh nhận ra một tiếng động nhỏ, một sự chuyển động không khí, một cái chạm nhẹ vào khuỷu tay anh, cái chạm nhẹ quá khiến anh tự hỏi có phải là anh đang mơ ngủ chăng. Anh dừng bước và lắng tai nghe, nhưng gió thổi rì rào trong cây trường xuân, và anh không thể nghe được tiếng gì khác.
Anh la lớn:
- Có phải anh không, Styles?
Không có tiếng trả lời, phía sau anh tất cả đều im lìm và lặng lẽ; chắc chắn đây là một luồng gió, vì trong cái tháp cũ kỹ này không thiếu gì những khe nứt. Tuy nhiên, anh tin chắc là anh đã nhận thấy tiếng bước chân đi gần sát chỗ anh. Lúc anh đi ra tới sân, bụng đang suy nghĩ vê sự cố này, thì một người băng ngang qua bồn cỏ chạy tới.
- Có phải anh đấy không, Smith?
- Chào Hastie.
- Vì lòng thương của Thượng Đế, anh đến ngay đi? Anh chàng Lee bị chết đuối. Harrkington báo cho tôi tin đó. Y sĩ đi mất rồi. Chỉ cần anh là đủ. Nhưng chạy nhanh lên, anh bạn già! Có lẽ anh ta còn chưa chết hẳn.
- Anh có rượu cô nhắc không?
- Không.
- Để tôi đi kiếm rượu. Trên bàn của tôi có một chai.
Smith leo bốn bậc một của ba tầng nhà, cầm lấy chai rượu, và chạy xuống cầu thang; nhưng khi anh đi qua cửa phòng Bellingham, anh thấy một vật gì làm anh đứng không nhúc nhích được trên đầu cầu thang, miệng thở hổn hển.
Cái cửa mà anh đã đóng lại khi đi ra thì bây giờ bỏ ngỏ, và ngay trước mặt anh, dưới ánh sáng của ngọn đèn, là cái hòm đựng xác ướp. Trước đây ba phút, cái hòm trống rỗng. Anh sẵn sàng thề về sự việc này. Bây giờ thì nó bao kín cái xác gầy ốm của gã khách trọ đáng sợ đang đứng, hung hiểm và cứng đờ, với cái mặt co rúm quay ra cửa và có vẻ như không còn sự sống. Nhưng Smith có cảm tưởng là, cứ nhìn mãi vào bộ mặt đó nó còn tích tụ được một tia sinh khí, một dấu hiệu mơ hồ của ý thức trong cặp mắt nằm phía sau những hốc mắt trống rỗng. Anh quá đỗi kinh hoàng về việc này đến nỗi quên luôn tai nạn của Monkhouse Lee; anh ở nguyên đó, đứng như trời trồng trước cái cửa mở ngỏ, hai mắt dán chặt vào cái xác trơ xương đó; tiếng nói của người bạn gọi anh trở về với thực tế. Anh bạn kêu to:
- Mau lên, Smith! Đây là vấn đề sinh, tử, anh bạn già ạ! Nhanh chân lên!
Khi chàng sinh viên y khoa ra tới ngoài sân, anh ta nói thêm:
-... Ta cùng chạy mau đi. Chưa đến một ngàn năm trăm mét. Ta phải tới đó trong năm phút. Một mạng sống đáng để cho ta chạy như khi đoạt một kỷ lục về tốc độ.
Sát cánh nhau, họ lao mình đi trong đêm tối, và họ chỉ dừng lại trước cửa căn nhà nhỏ, khi đã hết hơi và kiệt sức. Anh chàng trai trẻ Lee, mình ướt đẫm nước nom như một cái cây nhỏ mọc dưới nước bị gẫy rập, được đặt nằm dài trên cái tràng kỷ; trong tóc anh ta còn thấy chất bọt xanh lục của nước sông, và một ít bọt trắng trên cặp môi xám như chì. Quỳ ở bên anh ta, Harrington, người bạn cùng phòng, đang cố gắng làm nóng lại chân tay cứng đơ của anh ta.
Sau khi đặt bàn tay lên tim của Lee, Smith nói:
- Tôi nghĩ là anh ấy còn sống. Hãy áp mặt kính đồng hồ của anh vào môi anh ấy đó. Phải, có hơi nước trên mặt đồng hồ. Hastie à, hãy nắm lấy một cánh tay. Bây giờ hãy làm như tôi, và chẳng bao lâu ta sẽ làm anh ấy hồi tỉnh.
Trong mười phút họ cùng làm những động tác nhằm làm cho ngực của Lee phồng lên và xẹp xuống, rồi cơ thể anh ta rung động đôi môi run rẩy, và anh ta mở mắt ra, ba chàng sinh viên lúc đó bừng lên một mềm vui không thể kìm hãm dược.
- Tỉnh dậy đi, anh bạn già. Anh đã làm chúng tôi sợ hãi.
- Một chút cô nhắc! Hãy uống một hớp trong cái chai.
- Tốt lắm rồi. - người bạn đồng phòng Harrkington nói lớn. - Lạy Chúa, tôi đã sợ hãi biết chừng nào. Tôi đang đọc sách ở đây, anh ấy đi ra ngoài để dạo một vòng ở phía con sông; tôi nghe thấy một tiếng kêu và. tiếng ngã xuống nước. Tôi chạy ngay ra, lúc tôi tìm ra anh ấy và vớt anh ấy lên thì hình như sự sống đã rời bỏ anh ấy. Và Simpsin không thể chạy đi tìm một y sĩ, vì hắn bị què; lúc đó tôi phải chạy thật nhanh. Các bạn ạ, không có các bạn thì tôi không biết sẽ phải làm thế nào. Mọi sự tốt lành, anh bạn già ạ. Ngồi dậy đi!
Monkhouse Lee chống hai tay ngồi dậy, nhìn quanh anh hỏi:
- Việc gì xảy ra thế? Tôi bị ướt đẫm thế này. À, phải rồi. Tôi nhớ ra rồi.
Sự sợ hãi hiện ra trong mắt anh; anh úp mặt vào hai bàn tay.
- Làm thế nào mà anh lại ngã xuống nước?
- Tôi không bị ngã.
- Thế nào?
- Tôi đã bị quăng xuống nước. Tôi đang đứng trên bờ; tôi đã bị nâng bổng lên từ đằng sau và bị ném xuống sông. Tôi đã không trông thấy gì cả, tôi đã không nghe thấy gì cả. Nhưng mặc dù vậy tôi cũng vẫn biết đó là cái gì.
- Tôi cũng vậy! - Smith nói lẩm bẩm.
Lee liếc sang anh một cái nhìn kinh ngạc.
- Vậy là anh cũng biết chuyện à? Anh còn nhớ lời khuyên của tôi nói với anh chứ?
- Có, và tôi bắt đầu nghĩ là tôi sẽ theo lời khuyên của anh.
Hastie nói:
- Tôi không biết là anh nói cái gì; nhưng nếu tôi là anh thì tôi bắt buộc Lee phải nằm xuống ngay. Khi nào anh ấy khỏe lại, ta sẽ có thì giờ để bàn về lý do tại sao và sự việc thế nào. Anh Smith ạ, tôi nghĩ là chúng ta có thể để anh ấy ở lại một mình lúc này. Tôi trở lại trường học, nếu anh cũng di đường ấy thì chúng ta sẽ có thể nói chuyện phiếm một lát.
Cuộc nói chuyện phiếm rất mau lẹ, Smith rất bận tâm về các sự cố trong buổi tối: sự vắng mặt cái xác ướp trong phòng khách của gã hàng xóm, sự động chạm phớt qua mà anh cảm thấy trong cầu thang, sự tái hiện không thể giải thích được và kỳ quái của cái xác ướp đáng sợ, rồi tới cuộc tấn công vào Lee đã giống một cách quá kỳ dị với cuộc tấn công trước đây vào Norton (hai kẻ thù của Bellingham). Anh xoay di đảo lại những dữ kiện này trong đầu óc, cung như những chi tiết nhỏ đã khiến anh khó chịu với anh chàng hàng xóm và những tình huống không bình thường đã bắt buộc anh phải đến phòng của anh ta lần đầu tiên. Những gì trước kia chỉ là một sự nghi ngờ mơ hồ, đầy tưởng tượng, thì nay bỗng nhiên đã thành hình, hiện ra trong trí óc anh dưới hình dạng một sự việc không thể chối cãi được. Tuy nhiên, một sự việc mới quái gở làm sao! Một sự việc chưa từng có bao giờ? Ở ngoài tất cả mọi tưởng tượng của con người. Một vị quan tòa vô tư, ngay cả đến một người bạn đi theo sát bên anh, đều sẽ nói một cách đơn giản rằng cặp mắt anh đã lừa dối anh rằng cái xác ướp lúc nào cũng nằm trong cái hòm của nó, rằng cậu trai Lee bị ngã xuống nước vị bất cẩn, và rằng những viên thuốc màu xanh là vị thuốc tuyệt hảo cho một buồng gan không hoạt động tốt. Anh cảm thấy anh cũng sẽ nói như vậy nếu cái ngôi vị được thay đổi ngược lại. Tuy nhiên anh có thể đoan chắc rằng kỳ thực Bellingham là một kẻ sát nhân, và hắn ta có một loại khí giới mà chưa bao giờ có ai sử dụng trong lịch sử của tội ác.
Hastie đã từ biệt anh để trở về phòng, không quên làm anh nhức óc bởi những lời bình phẩm nghiêm ngặt và khoa đại về sự thiếu xã giao của người bạn hàng xóm của anh. Abercrombie Smith đi ngang qua cái sân, và khi đi về phía cái tháp nhỏ, anh cảm thấy một mối ác cảm dữ dội đối với các căn hộ và những người ở trọ. Anh sẽ theo lời khuyên của Lee và sẽ dọn đi càng sớm càng tốt vì làm sao mà anh có thể làm việc được nếu lúc nào tai anh cũng phải căng ra để rình nghe bất cứ một tiếng thầm phào nào hay một tiếng bước chân nhẹ nhất trong căn phòng bên dưới? Anh nhận thấy rằng cửa sổ của Bellingham còn thắp đèn sáng. Khi anh đi qua trước cửa phòng hắn, thì cánh cửa mở ra và Bellingham bằng xương bằng thịt bước tới chỗ anh. Với cái mặt béo phị và hung ác, anh ta có dáng bộ một con nhện mập mạp từ trong mạng tơ giết người đi ra.
Anh ta nói:
- Xin chào! Anh có muốn vào chơi không?
- Không! - Smith hét lên với một giọng hung hãn.
- Không à? Lúc nào cũng bận rộn như thế phải không? Tôi muốn hỏi thăm anh về tin tức của Lee. Tôi rất buồn nghe tin tai nạn xảy ra với anh ấy.
Anh ta có một vẻ mặt nghiêm trọng; nhưng trong khi nói hai mắt anh ta sáng ngời một sự mãn nguyện được che giấu một cách vụng về; Smith nhìn thấy điều đó; suýt nữa thì anh chồm lên người anh ta.
Anh đáp lại:
- Anh sẽ còn buồn hơn nữa khi biết rằng Monkhouse Lee rất khỏe mạnh và anh ấy đã hoàn toàn thoát khỏi hiểm nguy. Lần này thì các thủ đoạn quỷ quái không thành công rồi. Ồ, vô ích thôi, đừng cố làm ra vẻ bạo dạn nữa! Tôi đã biết hết rồi.
Bellingham lùi lại một bước trước chàng sinh viên đang nổi giận, và anh ta khép cái cửa lại một nửa hình như để tự bảo vệ.
Anh ta nói:
- Anh điên à! Những lời anh nói là nghĩa làm sao? Anh có ý cho rằng tôi có liên can tới vụ tai nạn của Lee?
Smith gầm lên:
- Phải! Anh và cái bao xương phía sau anh kia kìa. Chính anh đã bày mưu lập kế tất cả vụ này. Tôi sẽ nói cho anh rõ việc này, ông B. ạ? Bây giờ người ta không còn thiêu sống những kẻ thuộc loại người như anh, nhưng người ta còn các cột xử giảo và những đao phủ, và xin thề có thánh Geoges, nếu bất cứ một người nào trong trường học bị chết vì tai nạn trong khi anh ở đây là tôi sẽ cho bắt giữ anh, và nếu anh không bị treo lủng lẳng ở đầu một sợi dây thừng, thì dó không phải lỗi ở tôi, hãy tin tôi đi! Anh sẽ thấy rằng những thủ phạm dê hèn kiểu Ai Cập không có hiệu lực ở nước Anh này.
- Anh là một thằng điên nói mê sảng!
- Được lắm! Chỉ cần anh nhớ lấy những điều tôi đã nói với anh; nếu không, anh sẽ có thể nhận thấy rằng tôi là một kẻ giữ lời hứa!
Cánh cửa đóng sập lại; Smith tức giận điên cuồng, đi lên phòng mình đóng và khóa cửa lại, rồi thức suốt một nửa đêm hút cái píp cũ kỹ làm bằng rễ cây của anh để suy nghĩ về các biến cố kỳ quặc trong buổi tối.
Sáng hôm sau Abercrombie không nghe thấy động tĩnh gì trong căn hộ của gã hàng xóm; nhưng buổi chiều thì Harrkington tới gặp anh để báo tin rằng Lee đã gần như hoàn toàn hồi phục. Suốt cả ngày Smith đã làm việc như một kẻ điên khùng; lúc chiều tối, anh quyết định đi thăm người bạn là bác sĩ Peterson, nơi mà anh đã muốn tới trước đây hai mươi bốn giờ. Một cuộc đi dạo và một buổi chuyện trò thân mật sẽ rất bổ ích cho các dây thần kinh đang căng thẳng của anh.
(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 14:06:05 | Xem tất
09. Lô số 249 (tiếp)

Cửa phòng của Bellingham đóng kín; nhưng khi anh quay đầu lại ở trong sân, nơi cách cái tháp nhỏ một khoảng ngắn, anh trông thấy một bên đầu của gã hàng xóm ở cửa sổ; ánh sáng ngọn đèn soi rõ toàn thể người anh ta, mặt anh ta đang áp sát vào cửa kính, làm như đang nhìn xoi mói vào khoáng tối tăm. Tránh xa tình trạng quái gở của anh ta, dù chỉ là trong một vài giờ, cũng là một điểm hay! Smith rảo bước đi, hít thở không khí mùa xuân căng đầy buồng phổi. Vành trăng một nửa nhô lên ở phía tây giữa hai tháp chuông kiểu gô tích. Một cơn gió mát nhẹ nhàng đẩy những đám mây nhỏ ùn ùn như những nắm bông trên trời. Trường cao đẳng tọa lạc ngoài rìa thành phố, chả mấy chốc Smith đã thấy mình đi giữa những hàng rào trên con đường nhỏ của thị trấn Oxfordshire thơm ngát mùi hương của ngày hè.
Con đường nhỏ ít người qua lại, như con đường dẫn tới nhà của bạn anh? Tuy đêm chưa khuya mà Smith chẳng gặp một người nào. Anh đi tới trước tầm lưới sắt mở vào lối đi dài lát sỏi dẫn lên tới Farlingford. Trước mặt anh, anh nhìn thấy những ánh sáng đỏ và dịu dàng của các cửa sổ lập lòe qua lớp lá cây. Anh dừng lại, một bàn tay đặt lên sợi dây xích sắt của tấm lưới sắt và anh quay lại nhìn con đường nhỏ mà anh vừa đi qua một vật gì đang di chuyển rất nhanh, đang chạy tới phía anh đứng.
Đó là một hình thù đen sẫm, lom khom lướt đi dưới bóng tối của hàng rào, một cách lặng lẽ và lén lút trên cái nền đen kịt này, thật khó mà nhìn thấy nó. Trong lúc anh quan sát nó, thì nó đã rút ngắn dược hai mươi bước khoảng cách giữa nó và anh. Nó đang làm một cuộc săn đuổi anh. Từ trong bóng tối âm u hiện ra một cái cổ trơ xương và hai con mắt mà anh ghi mãi trong ký ức cho tới khi lìa bỏ cõi đời. Anh quay người lại thốt lên một tiếng kêu kinh hoàng, và lao người vào lối đi với tất cả tốc độ của đôi chân. Ở cuối lối đi có những ánh sáng màu đỏ, sự an toàn không còn bao xa. Smith là một chân chạy cừ khôi; chưa bao giờ anh lại chạy nhanh đến như tối hôm nay.
Tấm lưới sắt nặng nề đã khép lại sau lưng anh, nhưng anh nghe thấy nó lại mở ra dưới sức đẩy của kẻ đuổi theo anh. Vừa chạy một cách điên cuồng, anh vừa lắng tai nghe tiếng động nhỏ, khô khan của những bước chân vội vã đang mỗi lúc mỗi tới gần anh. Anh ngoái cổ nhìn lại phía sau: con quái vật nhảy chồm lên đuổi theo bén gót anh như một con cọp với cặp mắt tóe lửa và một cánh tay đầy gân chằng chịt đã duỗi thẳng ra để túm lấy anh, may thay, cái cửa lại mở hờ hờ: Anh nhìn thấy một vệt sáng mỏng manh của ngọn đèn trong đại sảnh chiếu xuống. Tiếng bước chân đã vang lên ngay đằng sau anh. Anh nghe thấy một thứ tiếng gì cộc cộc ngay sát vai anh. Anh vừa hét lên vừa lao sang phía bên kia cánh cửa, sập cửa và cài chốt lại, rồi anh gục xuống, nửa tỉnh nửa mê trên cái ghế bành ở lối ra vào
- Đội ơn trời đất, Smith? Chuyện gì đã xảy ra? - Peterson hỏi khi ông vừa xuất hiện trên bậc cửa phòng làm việc của ông.
- Cho tôi xin một ly cô nhắc!
Peterson đi khỏi để rồi lại trở ra một lát sau đó với một cái cốc và một cái bình pha lê.
- Anh cần có rượu - ông vừa nói vừa nhìn khách uống một hơi cốc rượu mà ông vừa rói. - Trời ơi, anh bạn trẻ, trông anh trắng bệch như là một cục phô mai ấy?
Smith để cái cốc xuống, đứng lên, và hít vào một hơi dài.
Anh nói:
- Tôi đã hoàn hồn rồi. Chưa bao giờ tôi để mình bị đánh ngã gục như thế này nhưng ông Peterson ạ, xin ông cho phép tôi được ngủ lại ở đây đêm nay, vì tôi không tin rằng tôi sẽ có thể mạo hiểm trên con đường này trừ khi vào lúc ban ngày. Chắc chắn đó là một sự hèn nhát; nhưng tôi không thể làm gì hơn được.
Peterson chăm chú nhìn anh với một con mắt dò hỏi.
- Tất nhiên rồi, nếu anh thích thì anh cứ ngủ ở đây. Tôi sẽ bảo bà Barney thu xếp giường để anh nằm nghỉ. Bây giờ anh đi đâu?
- Xin ông hãy cùng tôi lên chỗ cái cửa sổ nằm trên cái cửa ra vào. Tôi muốn cho ông nhìn thấy điều gì mà tôi đã trông thấy.
Họ cùng đứng ở chỗ cửa sổ từ nơi đó họ có thể quan sát các nơi xung quanh căn nhà. Con đường đi, những cánh đồng nằm hai bên con đường đều yên tĩnh và lặng lẽ dưới ánh trăng.
Peterson nói thì thào:
- Smith à, thực sự ra tôi biết rõ rằng anh không bao giờ uống đến say mà. Vậy thì cái gì đã làm anh sợ hãi quá đến thế?
- Tôi sẽ nói cho ông biết. Nhưng nó đã có thể đi đâu nhỉ? À, chú ý nhìn kìa! Nhìn đi! ông nhìn thấy chỗ ngoẹo của con đường chứ, ngay bên ngoài tấm lưới sắt của ông đó?
- Có, tôi nhìn thấy. Anh không cần phải nhéo tay tôi Tôi trông thấy một người đi qua. Tôi nghĩ rằng đó là một người đàn ông có vẻ gầy còm, và cao lớn, rất cao lớn. Nhưng hắn là ai chứ? Và hắn có gì liên hệ với anh? Anh run rẩy như một cái lá liễu vậy?
- Chỉ cách hai ngón tay nữa là tôi đã bị con quỷ này chộp được, đó là tất cả câu chuyện. Nhưng ta hãy xuống phòng làm việc của ông, tôi sẽ kể tất cả câu chuyện cho ông nghe...
Anh kể lại câu chuyện. Dưới ánh đèn sáng, một cốc rượu trong tay, trước vẻ mặt tươi cười của người bạn, anh thuật lại tất cả mọi biến cố lớn và nhỏ đã hên tiếp xảy ra một cách quá bất thường. Rồi anh kết luận:
-... Sự việc như thế đấy! Nó thật là quái dị, không thể tin dược, nhưng lại là có thật.
Bác sĩ Plumptree Peterson vẫn ngồi yên không nói gì, rõ ràng là ông rất băn khoăn... Rồi ông nói:
- Tôi chưa bao giờ nghe thấy một chuyện như vậy, chưa từng bao giờ! Anh đã cho tôi biết các sự việc. Bây giờ xin anh cho tôi biết sự suy diễn của anh.
- Ông chỉ cần lấy ra những sự suy diễn của chính ông thôi!
- Phải, nhưng tôi muốn biết sự suy diễn của anh. Anh đã suy nghĩ nhiều về sự việc. Không phải tôi.
- Nói một cách miễn cưỡng, kết luận của tôi sẽ đôi phút mơ hồ về các chi tiết, nhưng tôi thấy nhưng điểm chính khá rõ ràng. Gã Bellingham, trong các môn học về Đông phương, đã học được một bí quyết ma quái nào đó, nhờ bí quyết này một cái xác ướp, hoặc có thể chỉ nguyên cái xác ướp này, có thể được tạm thời làm cho sống lại. Hắn ta đang thử nghiệm thủ đoạn ghê tởm đó vào buổi tối mà hắn ngất xỉu đi. Chắc chắn là cảnh tượng cái xác này bắt đầu cứ động đã quá mãnh hệt đối với các dây thần kinh của hắn, ngay cả khi hắn đang chờ đợi sự việc. Ông còn nhớ rằng những tiếng đầu tiên hắn thốt ra là dùng để nói hắn là đồ ngu ngốc. Sau đó hắn trở thành chai lì và hắn kiên tâm theo đuổi mà không ngất xỉu nữa. Sức sống mà hắn có thể đưa vào cái xác ướp chỉ là một sức sống thoảng qua trong chốc lát, vì tôi đã nhìn thấy nó không biết bao nhiêu lần trong cái hòm của nó, nó cũng bất động như cái bàn này. Tôi đoán rằng nhờ vào một phương cách phức tạp hắn đã đạt tới chỗ gọi lên được và trừ bỏ được sức sống đó. Khi hắn đã nắm vững được phương cách, dĩ nhiên là hắn có ý tưởng dùng cái xác ướp của hắn như là một tên tay sai. Nó có trí thông minh và sức mạnh. Vì một mưu đồ nào đó, hắn đã cho Lee biết bí mật; nhưng Lee vốn là một tín đồ Cơ đốc ngay thẳng, đã không muốn nghe một chút nào: do đó mới có sự cãi lộn, và Lee thề rằng anh ta sẽ nói cho em gái biết về bản chất thật sự của Bellingham. Lúc đó ý định của Bellingham là nhằm ngăn cản không cho Lee tiết lộ việc này, và hắn ta đã gần đạt được mục đích khi tung cái xác ướp đuổi theo Lee. Hắn cũng đã thử quyền năng của hắn với một thanh niên khác là Norton, người mà hắn có một mối hận thù. Nếu hắn không bị hai vụ án mạng đè lên lương tâm cũng hoàn toàn vì sự ngẫu nhiên thôi? Rồi lúc tôi kết tội hắn là một tên sát nhân, thì hắn có đủ mọi lý do để gạt tôi ra khỏi con đường của hắn trước khi tôi có thể nói chuyện này với một người nào khác. Hắn đã thử thời vận lúc tôi đi ra khỏi nhà, vì hắn biết rõ các thói quen của tôi và hắn biết tôi đi đâu. Tôi đã thoát được tay hắn một cách yên lành, ông Peterson ạ, và cũng là một sự ngẫu nhiên mới nữa nếu ông đã không phát hiện ra tôi nằm chết trên bậc cửa nhà ông. Nói chung ra, tôi không phải là người nhút nhát, nhưng không bao giờ tôi nghĩ rằng tôi lại sợ hãi như tôi đã sợ lúc vừa rồi.
Ông bạn của anh nói:
- Anh bạn trẻ ơi, anh đã xem xét các sự việc một cách quá quan trọng đó! Anh đã có các dây thần kinh bị hủy hoại vì công việc của anh, và anh đã phóng đại các sự cố. Làm thế nào mà một cái xác ướp lại có thể đi dạo chơi trong các đường phố của Oxford, ngay cả vào ban đêm, mà không bị nhìn thấy?
- Nó đã bị nhìn thấy. Tất cả thành phố đều nói về một con khỉ sổng chuồng, họ gọi nó như vậy.
- Đúng là thế, tình tiết câu chuyện thật kỳ lạ! Anh bạn trẻ ạ, tuy nhiên anh cũng phải chấp nhận rằng mỗi sự cố tự thân nó cũng có thể được giải thích một cách hợp với tự nhiên hơn.
- Thế nào! Ngay cả tai họa của tôi buổi tối nay à?
- Chắc chắn là vậy, anh ra khỏi nhà rất căng thẳng, đầu óc chứa đầy các lý thuyết quái gở. Một tên lang thang sắp chết đói đi theo gót anh, thấy anh chạy nó cũng vội vã chạy theo sau anh. Sự sợ hãi và óc tưởng tượng của anh đã làm nốt phần còn lại.
- Không, Peterson ạ. Luận điểm của ông không đứng vững. Tôi bác bỏ nó.
- Và còn nữa, nghe đây, về nhuyễn cái hòm đựng xác ướp bị bỏ trống rồi lại có cái xác! Ngọn đèn bị vặn nhỏ đi và anh đã không có một lý do đặc biệt nào để nhìn cái hòm một cách chăm chú. Rất có thể là lần đầu tiên anh đã không nhìn thấy cái xác ướp.
- Chắc chắn là không! Tôi không nghi ngờ chút nào!
- Rồi thì Lee ngã xuống nước, và Norton là nạn nhân của một tên bóp cổ. Rõ ràng là một sự giả định đáng sợ chống lại Bellingham, nhưng nếu anh đưa việc này ra trước một vị quan tòa thì ông ấy sẽ cười vào mũi anh.
- Tôi biết rõ điều đó. Đó là lý do tại sao tôi muốn một mình giải quyết vụ này.
- Thế nào?
- Đúng vậy. Tôi có cảm tưởng là tôi có một nhiệm vụ đối với sự lành mạnh của xã hội và hơn nữa tôi phải hành động cho sự an toàn của chính bản thân tôi: nếu không, có thể nói rằng, tôi thích bị xua đuổi ra khỏi trường cao đẳng bởi một cái xác ướp; đó sẽ là một sự hèn nhát không thể tưởng tượng được? Tôi đã quyết định việc mà tôi sắp làm. Và trước hết, tôi có thể mượn cái bút của ông trong một giờ được không?
- Được thứ!
Abercrombie Smith ngồi trước một tờ giấy học trò, và trong một giờ đồng hồ, rồi trong một giờ thứ hai, ngòi bút của anh lướt đi một cách nhẹ nhàng. Ông bạn của anh ngồi một cách thoải mái trong chiếc ghế bành, nhìn anh với vẻ hiếu kỳ và nhẫn nại. Sau cùng, Smith thốt lên một tiếng kêu đứng phắt lên, gom nhưng tờ giấy nhỏ của anh, xếp lại theo thứ tự và đặt tờ sau cùng lên bàn giấy của Peterson.
- Xin ông vui lòng đặt chữ ký vào trong tư cách một người làm chứng, - anh nói.
- Người làm chứng? Làm chứng cái gì?
Làm chứng chữ ký của tôi và làm chứng ngày tháng. Ngày tháng là điều quan trọng nhất. Ký đi ông Peterson, tính mạng của tôi có thể tùy thuộc vào nó!
- Anh Smith thân mến ạ, anh nói như một người quá kích động. Anh cho phép tôi mời anh lên giường nằm.
- Ngược lại! Chưa từng bao giờ mà tôi nói với sự điềm tĩnh hơn bây giờ. Và tôi hứa với ông là tôi sẽ đi nằm ngay tức thì sau khi ông đã ký vào.
- Nhưng đó là giấy gì thế?
- Đây là lời khai chứa đựng tất cả những việc mà tôi đã kể lại với ông tối hôm nay. Tôi muốn ông chứng nhận đây đúng là chữ ký của tôi.
- Chắc chắn rồi! - Peterson trả lời trong lúc ký tên vào phía dưới chữ ký của bạn ông. - Ký rồi đó! Nhưng ý nghĩ của anh ra sao?
- Xin ông vui lòng cất giữ tài liệu này, và xuất trình nó trong trường hợp tôi bị bắt giữ.
- Bị bắt giữ ư? Vì nguyên nhân nào?
- Vì tội giết người. Sự việc hoàn toàn có thể xảy ra. Tôi lo chuẩn bị sẵn trước bất kỳ một biến cố nào. Tôi chỉ còn một việc phải làm, và tôi nhất quyết hoàn thành việc đó.
- Nhân danh Chúa, anh chớ nên làm việc gì một cách khinh suất!
- Ông hãy tin ở tôi: mọi phương pháp khác đều còn liều lĩnh hơn nữa. Tôi hy vọng là tôi sẽ không phải làm phiền ông, nhưng tinh thần tôi sẽ bình tĩnh hơn nếu tôi biết là ông đã cất giừ tờ biện minh cho các động lực của tôi. Và bây giờ thì tôi đã sẵn sàng để theo lời khuyên của ông, vì tôi muốn được hoàn toàn khỏe mạnh vào lúc sáng mai.
Abercrombie Smith không phải là người để đùa cợt nếu anh có một kẻ thù. Chậm rãi và điềm đạm, anh lại rất đáng sợ khi bị buộc phải hành động. Anh mang tới các mục đích của đời anh cùng một sự quyết tâm đã làm cho anh nổi bật giữa các sinh viên y khoa. Anh đã quyết định gác bỏ công việc trong một ngày, nhưng anh hiểu rõ rằng cái ngày đó không phải là uổng phí. Anh từ chối không thông báo các kế hoạch của anh với ông chủ nhà, và vào lúc 9 giờ thì anh đi trở về Oxford.
Đến đường High Street anh ghé vào hiệu Clifford bán vũ khí, và mua một khẩu súng ru-lô lớn với một hộp đạn. Anh nhét sáu viên đạn vào ổ súng, lên cò và để súng vào túi áo. Sau đó anh đi tới phòng của Hastie; anh chàng chèo thuyền cường tráng đang vừa đọc tờ Sporting Times vừa nhấm nháp bữa điểm tâm.
- Hà! Chuyện gì vậy? - Anh ta hỏi - Anh uống một tách cà phê nhé?
- Không, cảm ơn. Hastie này, tôi muốn anh đi với tôi, và anh sẽ làm điều gì mà tôi yêu cầu làm.
- Đồng ý, chàng trai của tôi!
- Và tôi muốn anh mang theo một cái gậy.
- Này, này...
Hastie trợn mắt, ngạc nhiên.
- Đây là cái gậy đi săn, nó có thể đánh gục một con bò.
- Thứ khác nữa. Anh có một hộp dao giải phẫu. Đưa cho tôi cái dài nhất.
- Đây này. Tôi thấy như anh đang đi ra trận chiến.
- Không còn gì khác nữa à?
- Không, thế là đủ rồi.
Smith dắt con dao giải phẫu vào trong áo và dẫn Hastie tới phía sân nhà anh.
- Cả anh và tôi, chúng ta không phải là hạng người hèn nhát, Hastie ạ. - anh nói - Tôi nghĩ rằng tôi có thể hành động một mình nhưng tôi yêu cầu anh đi với tôi là để phòng hờ. Tôi sẽ nó i chuyệ a vớ Bellingham. Nếu tôi chỉ có chuyện với mình hắn, thì tôi sẽ không cần tới anh. Tuy nhiên, nếu tôi kêu lên thì anh sẽ chạy lên và sẽ dùng cái gậy đập hết sức mạnh vào tất cả những gì xuất hiện. Hiểu chứ?
- Hiểu. Tôi sẽ chạy lên nếu tôi nghe thấy anh kêu.
- Trong khi chờ đợi, anh cứ ở đây. Có lẽ tôi sẽ vắng mặt trong chốc lát thôi, nhưng chớ động đậy gì trước khi tôi đi xuống.
- Tôi không nhúc nhích một tí nào.
Smith leo lên cầu thang, mở cửa phòng Bellingham và đi vào Bellingham đang viết trên bàn. Bên cạnh hắn, cái hòm đựng xác ướp đứng ngay ngắn, với số 249 ghi bên ngoài và kẻ chiếm ngụ gớm ghiếc cứng đờ ở bên trong. Smith quan sát kỹ càng các ngõ ngách trong phòng, đóng cửa lại, đi về phía lò sưởi, đánh một que diêm và đốt lửa lên. Bellingham nhìn anh với một vẻ lẫn lộn vừa hoảng sợ vừa tức giận điên cuồng.
- Này, anh tưởng là nhà anh đây hả? - Anh ta nói với một giọng thiếu tự tin.
Smith ngồi xuống một cách cương quyết, để cái đồng hồ của anh lên bàn, móc súng ru-lô ra, kiểm tra lại để thấy nó vẫn có đạn trong ổ, và đặt nó trên đầu gối anh. Rồi anh móc con dao giải phẫu từ trong túi ra và quăng nó cho Bellingham.
Anh nói:
- Bây giờ bắt tay vào công việc! Hãy cắt nát cái xác ướp này đi cho tôi.
- Ồ, là như vậy à? - Bellingham cười ngạo nghễ.
- Phải, là như vậy! Người ta nói chắc với tôi rằng pháp luật không thể làm gì chống lại anh. Nhưng tôi đem đến một thứ pháp luật, nó sẽ giải quyết vụ việc. Nếu trong năm phút mà anh không bắt tay vào công việc, tôi xin thề có thượng đế là người đã tạo ra tôi là tôi sẽ bắn nát óc anh!
- Anh ám sát tôi à?
Bellingham đứng nhỏm lên khỏi ghế, mặt anh ta xám ngắt.
- Phải.
- Nhưng tại sao?
- Để chấm dứt những hành vi tệ hại của anh. Đã quá bốn phút rồi.
- Nhưng tôi đã làm gì?
- Tôi biết diều đó, và anh biết điều đó.
- Thật là chuyện bịp bợm!!!
- Ba phút.
- Nhưng tóm lại, hãy cho tôi biết các lý do của anh! Anh điên rồi... một thằng điên nguy hiểm! Tại sao tôi lại phải phá hủy các xác ướp của tôi? Nó thuộc về tôi mà, và nó đắt tiền lắm!
- Anh phải cắt rời nó ra và anh phải đốt nó đi!
- Không đời nào!
- Anh chỉ còn hơn một phút nữa thôi.
Smith nâng khẩu súng lục lên và nhìn Bellingham với cặp mắt không thương xót. Trong khi cây kim giây của đồng hồ đang quay, anh nhằm vào Bellingham và đặt ngón tay lên cò súng.
- Này! Này! Tôi sẽ đốt nót - Bellingham gào to.
Trong một sự vội vã mê loạn anh ta giật lấy con dao giải phẫu và cắt vụn thân mình của cái xác ướp, vừa cắt vừa quay nhìn lại để coi chừng người khách khủng khiếp đang theo dõi anh ta, cái xác ướp kêu lắc cắc và xúm xuống với những tiếng khô khan dưới mỗi nhát cắt của lưỡi dao sắc bén. Từ thân thể nó túa ra một lớp bụi dày đặc màu vàng. Những hương liệu, những tinh dầu đã khô cạn vương rải rác trên sàn gác. Bỗng nhiên, trong một tiếng rách xoạt lớn, cái xương sống gãy vụn và cái xác ướp đổ ụp xuống thành một đống màu nâu những chân và tay rời rạc.
- Cho vào lửa! - Smith ra lệnh.
Những ngọn lửa bốc lớn lên và nổ lốp bốp khi chúng bén vào các mảnh vụn, giống như củi khô này. Căn phòng nhỏ có thế giống như buồng đốt lò của một chiếc tàu biển. Hai người đàn ông mồ hôi nhỏ giọt; một người tiếp tục cúi gằm xuống và quăng những mánh cuối cùng còn lại của cải xác ướp vào trong lừa, trong khi người kia canh chừng người này. Một luồng khói dày đặc có mùi thịt cháy khét tuôn ra từ lò sưởi; mùi nhựa thông làm ngột ngạt không khí. Sau mười lăm phút, ở lô số 249 chỉ còn lại vài cái que nhỏ đã cháy thành than.
- Có lẽ anh đã mãn nguyện rồi chứ? - Bellingham càu nhàu. Cặp mắt nhỏ xám xì của anh ta bộc lộ sự hằn học và lo sợ
- Không. Tôi phải trừ bỏ hết các vật liệu của anh, để cho không bao giờ anh còn chơi những trò ma quỷ của anh với chúng tôi nữa. Đốt tất cả những giấy tờ này đi? Chúng có thể liên hệ với các âm mưu của anh.
- Và bây giờ, còn gì nữa? - Bellingham hỏi, khi những tờ giấy đã được quặng vào lò than hồng.
- Bây giờ hả? Cuộn chỉ thảo mà anh để trên bàn tối hôm nọ. Nó ở trong ngăn kéo này, tôi nghĩ vậy.
- Không! - Bellingham kêu lên - Đừng đốt chỉ thảo! Này, anh bạn, anh không biết là anh đang làm gì? Nó là vật độc nhất. Nó chứa đựng một bài học về sự khôn ngoan mà ta không tìm được ở bất cứ nơi nào khác!
- Đốt đi!
- Nhưng này, Smith, không thể được! Tôi sẽ chia sẻ với anh kiến thức của tôi. Tôi sẽ dạy anh tất cả những điều ở trong đó. Ít nhất là hãy để cho tôi chép lại trước khi anh đem đốt nó.
Smith tiến lên một bước và mở ngăn kéo. Anh cầm lấy cuốn giấy đã ngả màu vàng và ném nó vào đống lửa. Bellingham vừa la lớn vừa muốn giật cuốn giấy ra khỏi đống lửa. Smith đẩy anh ta ra một cách thô bạo và đứng yên, chân đè trên cuốn chỉ thảo cho tới khi nó biến thành những mảnh tro không hình dạng.
- Bây giờ thì, thưa ngài B., tôi tin rằng tôi đã nhổ hết răng của anh. Anh sẽ nhận được tin tức của tôi nếu tôi lại bắt gặp anh chơi cái trò này. Và bây giờ thì chào tạm biệt, vì tôi còn phải tiếp tục làm việc.
Đây là câu chuyện của Abercrombie Smith về các biến cố diễn ra trong trường cao đẳng Oxford cổ kính vào mùa xuân năm 1884, hình như Bellingham rời bỏ trường đại học ngay sau đó và hình như anh ta định cư ở Soudan, không ai có thể đưa ra sự kết tội chống lại anh ta. Nhưng trí tuệ của con người thì nhỏ, mà những đường đi của tạo hóa thì lạ lùng; ai dám liều lĩnh đặt để một giới hạn cho những sự huyền bí là những thứ có thể được khám phá bởi những kẻ săn tìm chúng không mệt mỏi?
________Hết_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 14:07:35 | Xem tất
10. Cuộc thí nghệm li kì tại Keinplatz

Trong tất cả các khoa học thường gây ra sự hồ nghi cho con người, thứ làm cho giáo sư Baumgarten say mê là thứ thuộc về khoa tâm lý học và những sự liên quan không rõ ràng giữa tinh thần và vật chất. Vốn là một nhà giải phẫu tiếng tăm, một nhà toán học nổi danh, một người có thẩm quyền ở châu Âu về khoa tâm lý học, ông đã cảm thấy thật sự khoan khoái khi từ bỏ những sở trường chuyên môn đã có và sử dụng những kiến thức đã đắc thủ được của ông vào việc nghiên cứu về linh hồn và vào mối liên hệ bí ẩn của các hồn ma. Lúc khởi đầu hồi còn trẻ tuổi, ông đã tưởng như lạc lõng trong một xứ sở xa lạ, nơi mà mọi thứ đều lộn xộn và tối tăm, ngoại trừ một vài sự việc không thể giải thích được và chẳng có liên hệ gì với nhau đã xuất hiện trước mặt ông. Những năm tháng qua đi và kiến thức của vị giáo sư lỗi lạc càng tích tụ thêm (vì kiến thức sinh ra kiến thức, vốn đẻ ra lời), phần lớn những điều xưa kia tỏ ra kỳ lạ với ông nay bắt đầu mang một vẻ mặt mới. Những hệ thống suy luận mới mẻ đã trở nên quá quen thuộc đối với ông và ông đã nhận ra mối liên hệ tại các nơi mà trước đây ông đã không phát hiện ra chút gì. Nhờ vào những kinh nghiệm rải rác trong hai mươi năm, ông đã thu thập được một căn bản của các sự việc và dựa vào đó ông có tham vọng kiến tạo một khoa học mới, chính xác bao gồm môn chữa bệnh bằng nhân điện, môn thông thần học và tất cả các học thuyết cùng loại đó. Mọi việc trở nên dễ dàng với ông nhờ sự hiểu biết toàn hảo của ông về những yếu tố phức tạp nhất trong môn sinh lý học động vật, là môn nghiên cứu về các luồng thần kinh và về các công việc của bộ óc. Thực ra thì Von Baumgarten là Giáo sư Đại học môn sinh lý học tại trường đại học Keinplatz và ông có sẵn trong tay tất cả tài liệu trong phòng thí nghiệm của ông để dùng vào những cuộc sưu tập mới mẻ nhất.
Cao lớn và mảnh khảnh, giáo sư Baumgarten có một bộ mặt thô kệch và một cặp mắt màu thép xám linh hoạt một cách dị thường và rất sắc sảo. Sự suy tư đã vạch ra nhiều nếp nhăn trên trán ông cũng có vẻ cau có, nhưng người ta sẽ lầm nếu coi cái bề ngoài này là sự thật, vì nếu ông là người khắc khổ, ông lại có từ tâm. Các sinh viên rất mến ông, sau mỗi buổi học họ đứng vây quanh ông và họ say sưa nghe ông đưa ra những lập luận kỳ lạ. Ông thường nhớ tới những người tình nguyện trong bọn họ để thử một cuộc thí nghiệm sảng khoái về cách chữa bệnh bằng nhân điện.
Anh chàng nồng nhiệt nhất trong đám môn đệ trẻ về khoa học đó tên là Von Harman. Các bạn bè của anh ta đôi khi kinh ngạc khi thấy một gã con trai dữ dằn và lông bông, chắc chắn anh là một gã ngông nghênh nhất trong bọn các thanh niên quê quán ở thung lũng sôn Rhin, mà lại dành rất nhiều thời giờ để tìm những công việc mơ hồ hoặc để phụ giúp vị giáo sư trong các cuộc thí nghiệm của ông. Thật ra, Harman là một tên láu cá, anh ta đã rõ những gì anh ta làm. Trước đó nhiều tháng anh ta đã tỏ tình với cô thiếu nữ Elise, cô gái có mái tóc vàng nâu và đôi mắt màu xanh, ái nữ của vị Giáo sư, mặc dù anh đã được nghe tự chính miệng cô nói ra rằng không phải cô đã vô tình trước sự ân cần của anh, nhưng chưa bao giờ anh dám ra mắt cha mẹ cô trong tư cách một vị hôn phu. Do đó anh đã gặp nhiều khó khăn để gặp cô thiếu nữ, nếu anh không kiếm ra được cái cớ là tới phụ giúp vị Giáo sư. Với mưu chước này anh thường tới nhà vị thông thái già cả và anh đã mạnh dạn tham dự vào mọi cuộc thí nghiệm có thể làm được và có thể tưởng tượng được nếu như anh có cơ hội nhìn thấy cặp mắt long lanh của Elise hay sờ vào bàn tay nhỏ bé của cô.
Chàng thanh niên Von Harman là một anh con trai khá đẹp và như ngươì ta nói, một số ruộng đất đáng kể sẽ lọt vào tay anh khi nào cha anh chết đi. Nhiều bậc cha mẹ sẽ hài lòng với một chàng rể như vậy cho con gái của họ. Nhưng bà giáo sư đã cau mày mỗi khi bà nhìn thấy anh trong nhà bà và bà cằn nhằn ông Giáo sư về việc đã rước một con sói vào gần con cừu non của họ. Thật sự thì Harman đã mang tiếng không được tốt lành tại Keinplatz, chẳng có cuộc đánh lộn nào, cuộc đọ kiếm nào, vụ tai tiếng nào mà anh chàng thanh niên thung lũng sông Rhin này lại không đứng đầu sổ. Không ai dám dùng một ngôn ngữ phóng túng hơn và ngỗ nghịch hơn. Không ai uống rượu nhiều hơn, không ai say mê bài bạc hơn, không ai lại vô tích sự hơn, ngoại trừ trong lãnh vực rất đặc biệt này? Do đó ta không lấy gì làm kinh ngạc về việc bà Baumgarten phải gìn giữ cô gái cưng của bà và tỏ ra khinh miệt sự ve vãn của anh chàng bất hảo này. Về phần vị giáo sư lỗi lạc, ông đã quá say mê với các công việc của riêng ông nên ông chả có ý kiến gì.
Đã nhiều năm nay, một vấn đề đã làm ông nhức nhối. Tất cả những cuộc thí nghiệm của ông điều xoay quanh một điểm duy nhất. Mỗi ngày hàng trăm lần, vị giáo sư tự hỏi rằng liệu hồn một người có thể tự rời bỏ thể xác trong ít lâu và sau đó lại trở về được không. Lần đầu tiên khi giả thuyết này hiện ra trong đầu óc ông, ông đã tự phẫn nộ với mình: giả thuyết đó đã vấp phải một cách kịch liệt những ý tưởng có từ trước và những định kiến của nền học vấn sơ thủy của ông. Tuy nhiên, trong khi ông tiến hành trên con đường nghiên cứu độc đáo của ông, ông cũng dần dà từng bước một thoát ra những trở ngại lỗi thời và trở nên sẵn sàng đối diện với bất kỳ một kết luận nào phù hợp có thể tồn tại bên ngoài vật chất. Sau hết ông nảy sinh ý nghĩ cho rằng với một cuộc thí nghiệm táo bạo chưa ai dám thử bao giờ, vấn đề này có thể sẽ được giải quyết dứt khoát.
Ông đã viết một bài báo nổi danh đăng trong một tờ báo về y học ở Keinplatz vào thời đó nói về các thực thể mà mắt con người không thể nhìn thấy được, một bài báo đã làm điên đầu các giới khoa học. Đại khái ông nói: Rõ ràng là trong một vài hoàn cảnh nào đó linh hồn hay tinh thần tự động tách rời khỏi thể xác. Trong trường hợp một người được chữa bệnh bằng phép thôi miên, thể xác nằm yên trong trạng thái bất tỉnh nhưng linh hồn thì đã rời bỏ đi. Người ta có thể trả lời tôi rằng linh hồn vẫn còn ở đó, nhưng nó trong tình trạng ngủ say. Tôi xin trả lời rằng chắc chắn là không phải như vậy: ta sẽ giải thích thế nào về khả năng thấu thị, tức là nhìn thấy quá khứ, vị lai, là thứ đã bị mất uy tín vì cái trò bịp bợm láo khoét của một vài kẻ đê tiện, nhưng vẫn là một sự kiện đã được chứng minh và không thể chối cãi được? Chính tôi đây là một người nhạy cảm, tôi đã có thể đạt được một sự mô tả chính xác những điều gì diễn ra rong một căn phòng hay một căn nhà bên cạnh. Làm thế nào để giải thích sự hiểu biết đó, nếu không phải bằng giả thuyết là linh hồn của người đó đã rời khỏi thể xác và đi lang thang trong không gian? Trong một lúc nó được quay về bởi tiếng nói của người phù phép và nó đã nói về những gì nó nhìn thấy rồi nó lại bay đi. Vì lẽ bản chất của linh hồn là không ai nhìn thấy được nó, chúng ta không thể trông thấy nó đi hay tới, nhưng chúng ta thấy ảnh hưởng của những chuyến đi và tới đó trong thể xác của người chịu thí nghiệm, khi thì cứng đơ và bất động, khi thì cố gắng để mô tả những cảm giác của anh ta, những cảm giác anh ta không bao giờ đạt tới bằng các phương tiện tự nhiên. Tôi nhận thấy có cách chứng minh khả dĩ chấp nhận được cho sự kiện này. Mặc dù nằm trong xác thịt của chúng ta, chúng ta không thể nhìn thấy những linh hồn này, những linh hồn của chính chúng ta, nếu chúng ta có thể tách rời chúng khỏi thể xác của chúng ta, chúng sẽ ý thức được sự hiện diện của chúng. Dó đó tôi có ý định làm bằng phép thôi miên một người học trò của tôi sau đó tôi sẽ tự làm mê tôi theo một cách thức đã rất quen thuộc với tôi. Rồi thì nếu giả thuyết của tôi là đúng, thì linh hồn của tôi sẽ không gặp một khó khăn nào để bắt liên lạc với linh hồn anh học trò của tôi, linh hồn cả hai chúng tôi đều tách rời khỏi thể xác của chúng. Tôi hy vọng sẽ có thể công bố các kết quả của cuộc thí nghiệm lý thú này trong số sắp tới của tờ báo Y Học Keinplatz.
Khi vị Giáo sư đức độ giữ lời hứa và cho công bố bản báo cáo về cuộc thí nghiệm của ông, câu chuyện của ông có vẻ dị thường quá đến nỗi nó được đón nhận với một sự nghi ngờ chung của mọi người. Luận điệu của một vài tờ báo còn có vẻ rất gay gắt trong những bài bình luận của họ. Nhà thông thái giận dữ tuyên bố rằng từ nay ông sẽ không bao giờ mở miệng nói về vấn đề này nữa. Và ông đã giữ đúng lời nói của ông. Tuy nhiên câu chuyện kể ra sau đây đã được rút ra từ những nguồn tin xác thực nhất và các sự việc được kể lại có thể được xem là chính xác một cách thực tế.
Ít lâu sau cái ngày mà vị giáo sư tiết lộ ý định về cuộc thí nghiệm, vừa đề cập trên đấy, trong khi trở về nhà ông gặp một toán sinh viên hay quấy phá ồn ào đang từ một quán rượu bên cạnh nhà ông đi ra (và toán này được dẫn đầu bởi anh thanh niên Harman đang say bí tỉ). Vì ông vừa trải qua nhiều giờ mệt mỏi trong phòng thí nghiệm, nên ý ông muốn lảng tránh họ, nhưng cậu môn đồ đứng ra chận đường ông đi:
- Ủa này, ông thầy đáng kính của tôi. - Anh ta la lên, níu lấy ống tay áo của nhà thông thái già cả và đi sát bên cạnh ông. - Tôi có một chuyện để nói với thầy và nó rất dễ cho tôi nói với thầy bây giờ hơn là vào lúc nào khác, khi mà rượu bia ngon đang kêu vo vo trong đầu tôi.
- Điều gì vậy, Harman? - Nhà sinh lý học hỏi lại, trong khi nhìn anh ta với một vẻ dịu dàng và ngạc nhiên.
-Thưa thầy, tôi nghe tin thầy sắp làm một cuộc thí nghiệm rùng rợn, ý thầy muốn đem một linh hồn khỏi một thể xác, rồi sau đó làm cho nó trở lại với thể xác. Có phải thật như vậy không?
- Đúng vậy, Harman ạ.
- Thưa thầy kính mến, thầy có nghĩ rằng thầy có thể sẽ gặp khó khăn để tìm ra một người nào đó chịu làm một cuộc thí nghiệm như vậy không? Thử nghĩ rằng linh hồn bay đi và không chịu trở về nữa, đây thật là một việc nguy hiểm. Ai mà dám chơi cái trò nguy hiểm này?
- Nhưng mà này Harman, - Vị Giáo sư kêu lên, ông rất bối rối vì ý kiến này đối với công việc của ông. - Tôi trông đợi vào sự giúp đỡ của anh đó. Này, anh đừng làm tôi lỡ việc nhé! Anh suy nghĩ gì về danh dự và sự vinh quang!
- Chà, chà! - Anh sinh viên cười nhạo. - Dễ thường lúc nào tôi cũng bị gán ghép những trò vớ vẩn ấy à? Có phải là tôi đã ngồi yên hai tiếng đồng hồ trên cái ghế cách điện bằng thủy tinh trong khi truyền điện vào thân thể tôi không? Có phải là thầy đã kích động vào dây thần kinh của tôi, hủy hoại bộ máy tiêu hóa của tôi với một dòng điện chạy quanh bao tử của tôi không? Thầy đã làm tôi mê ba mươi tư lần và tôi có được lợi lộc gì ở đó không? Chả có quái gì hết. Đến bây giờ thầy lại muốn làm cho tôi xuất hồn, như kiểu thầy tháo máy một cái đồng hồ vậy. Thật là quá sức chịu đựng của xác thịt con người!
- Lạy chúa tôi! - Vị Giáo sư kêu lên, vẻ bối rối. - Điều đó rất đúng, Harman ạ! Trước đây tôi không bao giờ nghĩ tới điều đó! Nếu anh có thể đề nghị một hình thức đền bù nào, anh sẽ thấy tôi sẵn lòng làm anh thỏa mãn.
- Vậy thì xin thầy hãy nghe đây, - Harman nói một cách nghiêm trang - Nếu thầy hứa tôi rằng sau cuộc thí nghiệm này, thầy sẽ gả cô con gái thầy cho tôi thì tôi sẽ bằng lòng phụ giúp thầy. Bằng không thì xin thầy đừng trông đợi gì ở tôi nữa! Đó là những điều kiện của tôi.
- Nhưng phải hỏi ý kiến con gái tôi đã chứ? - Vị Giáo sư hỏi lại sau khi đứng lặng đi một lúc.
- Cô ấy sẽ bằng lòng - Chàng thanh niên đáp lại. - Chúng tôi đã yêu nhau lâu rồi.
- Vậy thì nó sẽ là vợ anh, - nhà sinh lý học tuyên bố một cách chắc chắn. - Vì anh là một thanh niên dũng cảm và là một trong những con bệnh thần kinh khá nhất mà tôi được biết. Tôi xin nói rõ khi anh không bị ảnh hưởng bởi men rượu! Mùng bốn tháng sau tôi sẽ hoàn tất cuộc thí nghiệm của tôi. Anh phải có mặt vào buổi trưa tại phòng thí nghiệm khoa sinh lý học nhé. Đây sẽ là một cuộc biểu diễn kỳ diệu, Harman ạ. Ông Von Gruben sẽ từ Léna tới và ông Hilterstein sẽ từ Bâle tới. Các nhà thông thái vĩ đại nhất của miền Nam nước Đức sẽ có mặt tại đó.
- Tôi sẽ đúng giờ giấc! - Anh sinh viên hứa.
Và họ chia tay nhau. Ông Giáo sư đi về nhà, chân bước nặng trĩu, vừa đi vừa nghĩ tới việc đại sự sắp tới nơi, trong khi chàng thanh niên chệnh choạng đi tìm các bạn bè gây om sòm của anh ta, trong đầu chỉ nghĩ tới cô nàng Elise có cặp mắt xanh, cũng như nghĩ tới cuộc mặc cả mà anh vừa thỏa thuận được với ông bố vợ tương lai của anh.
Vị Giáo sư đã không phóng đại chút nào khi ông nói tới sự chú tâm mà cuộc thí nghiệm mới mẻ về tâm lý của ông đã gây ra ở hầu hết mọi nơi. Còn rất sớm trước giờ ấn định, căn phòng đã bị choán hết chỗ bởi một số đông đảo các vị thông thái. Ngoài mấy vị đức cao vọng trọng mà ông đã kể ra, còn có đại giáo sư Lorshire, người vừa trở nên lừng danh bởi một công trình xuất sắc nói về các trung tâm của sống cổ, cũng từ London tới. Nhiều tài năng lỗi lạc về khoa thông linh học cũng vui lòng chẳng ngại đường xa tới họp mặt, ngay cả một mục sư Tân giáo cũng tới dự với hy vọng là cuộc thí nghiệm sẽ có thể rọi một tia sáng mới vào các chủ thuyết của giáo phái Rose Groix.
Cả hội nghị những con người lỗi lạc này bùng lên trong tràng pháo tay khi giáo sư Von Baumgarten và môn đệ của ông xuất hiện trên bục. Vị thuyết giảng viên, bằng một vài lời được lựa chọn cẩn thận, đã trình bày ý kiến của ông và giải thích tại sao ông có ý định đem ý kiến này vào một cuộc thí nghiệm có tính cách quyết định. Ông nói:
- Tôi tin chắc rằng khi một người bị nằm trong ảnh hưởng của giấc ngủ thôi miên thì trong một thời gian nào đó linh hồn anh ta được giải thoát khỏi xác thịt và tôi thách thức bất kỳ một ai có thể đưa ra một giả thuyết khác để giải thích sự nhìn được quá khứ, vị lai! Tôi hy vọng rằng khi đưa anh bạn trẻ của tôi vào giấc ngủ thôi miên và đồng thời sau đó làm cho chính tôi cũng ngủ luôn, linh hồn của chúng tôi sẽ có thể nói chuyện với nhau, trong khi thể xác của chúng tôi vẫn nằm yên bất động. Sau một thời gian nào đó, tạo hóa sẽ nắm lại quyền của mình, linh hồn của chúng tôi sẽ tái nhập, hồn nào về thể xác của hồn ấy và mọi việc sẽ trở lại như trước. Với sự cho phép của quý vị, bây giờ chúng tôi xin bắt đầu cuộc thí nghiệm.
Những tiếng vỗ tay lại vang lên; sau đó các khán giả yên lặng trông chờ. Trong một vài thoáng qua nhanh chóng, vị Giáo sư đã đánh mê gã thanh niên, khiến anh ngồi rũ xuống trên ghế, người nhợt nhạt và cứng đơ. Rồi ông móc ở trong túi ra một trái cầu tròn bằng thủy tinh và ông tập trung nhãn tuyến của ông vào trái cầu đó và làm một nỗ lực lớn lao về tâm thần, ông đã đạt tới chỗ tự đặt mình vào cùng một tình trạng như vậy. Thật là một quang cảnh dị thường và cảm kích khi nhìn thấy ông già và cậu sinh viên trẻ, cả hai người cùng ngồi trong sự mê man bất tỉnh. Vậy thì linh hồn họ đã bay đi đâu? Đó là một câu hỏi mà tất cả mọi người tham dự đều tự đặt ra cho mình.
Năm phút đã trôi qua, mười phút, rồi mười lăm phút và rồi mười lăm phút nữa. Ông Giáo sư và cậu học trò của ông vẫn ngồi nguyên bất động trên bục gỗ và các nhà thông thái hội họp tại đó vẫn chưa nghe thấy một tiếng động nhỏ nào. Tất cả mọi cặp mắt đều đổ dồn vào hai khuôn mặt tái mét để chờ đón dấu hiệu đầu tiên của sự tỉnh lại của họ. Gần nửa giờ đã trôi qua và sự kiên nhẫn của các khán giả đã được đền bù lại. Những màu sắc mơ hồ đã trở lại trên đôi má của giáo sư Baumgarten: linh hồn đã trở về nơi cư trú trên trái đất của nó. Đột nhiên, ông duỗi thẳng hai cánh tay dài, gầy guộc của ông, như ông đã thức giấc. Ông dụi mắt, đứng lên và nhìn chung quanh mình ông; ông có vẻ như không biết là mình đang ở đâu.
- Kỳ cục quá! - ông kêu lên trước khi xổ ra một tràng chửi thề của miền Nam nước Đức, trước sự vô cùng kinh ngạc của cử tọa và trước sự xấu hổ của người đệ tử của Swedenborg (người sáng lập ra một giáo phái mới). - Đồ quỷ sứ, tôi đang ở đâu đây, việc gì đã xảy ra? À phải, bây giờ thì tôi nhớ ra rồi! Đây là một trong các cuộc thí nghiệm ngu xuẩn về lối làm mê bằng nhân điện... Lần này không có kết quả, vì tôi không nhớ một chút gì từ lúc tôi mê đi. Vậy là tất cả các ngài đều đi chơi uổng công, các ông bạn quý về khoa học của tôi ạ. A, đúng là một chuyện nhảm!
Nói xong vị Giáo sư sinh lý học phá lên cười và lấy tay vỗ vào đùi một cách hết sức tục tĩu, những vị khách của ông đã quá bực bội khi thấy mình bị đối xử như vậy, đến nỗi sự lộn xộn chắc chắn sẽ nổ ra nếu không có sự can thiệp khéo léo của chàng thanh niên Von Harmen vừa tỉnh dậy khỏi giấc ngủ li bì. Tiến bước tới mãi rìa bục gỗ, anh sinh viên cố gắng xin lỗi về lối cư xử đáng giận của ông Giáo sư. Anh tuyên bố:
- Tôi lấy làm tiếc mà nói rằng đó là một thứ lộn xộn đầu óc, mặc dù có sự nghiêm chỉnh mà anh ta đã giả bộ lúc bắt đầu mở cuộc thí nghiệm. Anh ta còn bị sự phản ứng của cơn ngủ mê nhân tạo và quý vị không thể bắt anh ta chịu trách nhiệm về ngôn ngữ của anh ta.
Còn như về chính buổi thí nghiệm, tôi không coi nó là một sự thất bại. Rất có thể là linh hồn của chúng tôi đã nói chuyện với nhau trong không gian trong giờ phút đã trôi qua đó; nhưng khổ thay cái trí nhớ thô kệch của thân xác chúng ta là thứ khác biệt với linh hồn của chúng ta và chúng tôi không thể nhớ lại những gì đã xảy ra. Từ nay tôi sẽ dành nghị lực của tôi để tìm ra một phương cách nhờ đó các linh hồn sẽ có thể nhớ lại những gì chúng đã làm trong tình trạng tự do của chúng, tôi hy vọng rằng sau khi tìm thấy phương cách đó tôi sẽ rất hân hạnh được gặp lại tất cả quý vị ở đây, trong căn phòng này và thông báo tới quý vị các kết quả của tôi.
Bài diễn từ ngắn này, do một chàng sinh viên trẻ như vậy phát biểu, đã gây ra một sự kinh ngạc mạnh mẽ trong các thính giả; một vài người cảm thấy bị chạm lòng tự ái một cách khó hiểu và cho rằng anh ta đã có những điệu bộ quá quan trọng. Tuy nhiên, đa số những vị khách dự khán đều coi anh ta là một thanh niên có nhiều tương lai; khi rời khỏi phòng thí nghiệm, họ chỉ có thể so sánh cách cư xử đầy đủ tư cách của anh với sự nông nổi của vị Giáo sư, người mà trong khi anh học trò đưa ra các lời nhận xét, chỉ đứng trong một góc cười luôn miệng, chẳng tỏ ra bối rối chú nào trước thất bại của cuộc thí nghiệm.
Những con người này của giới khoa học đã ra về với cảm tưởng là họ đã chẳng thấy điều gì là đáng chú ý cả, tuy nhiên một trong những việc đáng kinh ngạc nhất trong lịch sử thế giới vừa diễn ra trước mắt họ. Giáo sư Baumgarten đã được công nhận cho lý thuyết của ông theo đó trong một khoảng thời gian nào đó, linh hồn ông và linh hồn anh học trò ông đã rời khỏi thể xác của chúng. Nhưng một chuyện rắc rối bất ngờ đã xảy ra: hồn của Von Harmen đã nhập vào xác Baumgarten và hồn của Baumgarten thì lại nhập vào xác Von Harman. Do đó mới có cái thứ ngôn ngữ toàn tiếng lóng vọt ra từ miệng vị Giáo sư nghiêm nghị; cũng do đó mới có lời tuyên bố đầy vẻ thận trọng của anh sinh viên lông bông. Thật là một sự việc không tiền, khoáng hậu! Không có ai nhận ra việc này cả, hai đương sự lại càng không nhận ra hơn là các người dự khán.
(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 14:08:53 | Xem tất
10. Cuộc thí nghệm li kì tại Keinplatz (tiếp)

Thể xác vị Giáo sư tức khắc cảm thấy khát khô cả cổ. Ông đi ra phố. Ông vẫn còn cười về kết quả cuộc thí nghiệm, vì hồn của Harman đang nằm trong đó rất vui thích vì đã kiếm được vị hôn thê một cách dễ dàng như vậy. Hành động đầu tiên của anh muốn làm là đi tới gặp nàng, nhưng sau khi suy nghĩ anh thấy tốt hơn là nên chờ cho bà Baumgarten được ông chồng báo tin về sự thỏa thuận đã thì mới thành đạt. Thế là anh đi xuôi về phía tiệm rượu Gruneman, nơi hẹn hò hợp ý của những tên cà chớn tệ hại và anh vung vẩy cây ba toong một cách vui vẻ khi anh bước vào căn tiệm nhỏ hẹp, ở đó đã họp mặt Spigene, Muler và hàng nửa tá những tên bạn vui nhộn khác.
- A, a, các con của ta! - Anh kêu lên, - tớ biết rằng tớ sẽ gặp các cậu ở đây. Hãy uống đi, tất cả chúng ta cùng uống, hãy gọi những gì mà các cậu thích! Hôm nay tớ đãi tất cả một chầu!...
Nếu con người nghiêm nghị mô phạm bất chợt đi vào một quán cà phê và gọi một chai rượu vang thì có lẽ các anh sinh viên cũng không sửng sốt hơn. Trong hai ba phút đồng hồ họ ngẩn người ra mà nhìn ông, không thể trả lời một câu gì trước lời mời thân ái của ông.
- Đem rượu tới đây mau lên! - ông Giáo sư kêu lên trong cơn tức giận. - Các cậu mắc bệnh gì đó? Các cậu ngồi đó mà nhìn tớ như những con heo con bị dính chặt vào một cái ghế. Có chuyện gì vậy?
- Đây là một vinh dự bất ngờ! - Spigene ấp úng nói.
- Vinh dự? Đồ cục cứt! - Vị Giáo sư đáp lại. - Dễ thường các cậu nghĩ rằng vì tớ mới đi biểu diễn phép gây giấc ngủ nhân tạo cho những lão khọm xem nên mới hóa ra quá kiêu hãnh không thèm chơi với những bạn cố tri như các cậu phải không? Hãy rời khỏi các ghế bành này, Spigene, con trai của ta, để tớ ngồi cử tọa. Rượu bia nhé? Hay rượu vang? Hay Schnappse? Hãy gọi thứ gì mà các cậu thích, các con của tớ. Tớ khao mà!
Chưa bao giờ tiệm Gruneman lại có một bữa chiều nhộn nhịp hơn. Những bình rượu bia sủi bọt , những chai rượu vang cổ dài miền sông Ranh được chuyển quanh một cách náo nức. Dần dà các cậu sinh viên đã hết vẻ e dè trước mặt vị Giáo sư của họ. Trong khi ông này la hét, hát hỏng, nói năng lung tung, gầm gừ: ông đặt một cái ống vố dài nằm cân bằng trên cái mũi lớn của ông và ông thách một cuộc thi chạy 100 thước với bất kỳ ai. Đứng phía sau bực cửa lớn, ông chủ tiệm và cô hầu gái của ông ta đang trao đổi những điều họ suy nghĩ bộc lộ sự kinh ngạc của họ trước một cách cư xử như vậy; họ nói, đó có phải là cái cung cách thích đáng cho một vị giáo sư chủ nhiệm của trường Đại học Keinplatz cổ kính không? Rồi đây họ sẽ còn nhiều chuyện để kể lại cho nhau nghe, vì nhà thông thái còn lột cái đáy mũ của ông chủ tiệm và chạy ôm lấy cô hầu gái ở trong bếp.
- Thưa quý vị! - Giáo sư bắt đầu.
Ông ta đứng lên chỗ đầu cao của cái bàn, người hơi lảo đảo và ông quơ quơ ly rượu vang của ông trước cái mũi lớn của ông.
-... Bây giờ tôi phải giải thích nguyên nhân của cuộc vui này.
- Xin lắng nghe! Xin giữ yên lặng! - Các cậu sinh viên vừa la hét vừa lấy các bình đựng rượu bia gõ mạnh xuống mặt bàn. - Một bài diễn từ! Một bài diễn từ!
- Thưa các bạn, sự việc là tôi hy vọng rằng tôi sắp sửa cưới vợ, - ông Giáo sư tuyên bố, hai mắt ông sáng rực sau cặp kính.
- Cưới vợ! - Một cậu sinh viên ngổ ngáo hơn những cậu khác la lớn lên. - Vậy là bà nhà ta đã qua đời rồi à?
- Bà nào?
- Ô kìa, tất nhiên là Baumgarten!
- À, à! - ông Giáo sư vừa kêu lên vừa cười lớn. - Tớ thấy rằng các cậu đã biết những trở ngại nhỏ của tớ. Không, bà ấy không chết. Nhưng tớ có đủ lý do để tin tưởng rằng bà ấy sẽ không phản đối đám cưới của tớ.
- Bà ấy thật là một người tử tế! - Một cậu sinh viên đưa ra nhận xét.
- Thực ra bây giờ bà ấy còn phải được thuyết phục rằng bà ấy phải giúp cho tớ tìm lấy một cô vợ, - vị Giáo sư nói tiếp. - Bà ấy với tớ không bao giờ thông cảm lẫn nhau cả; nhưng tớ hy vọng rằng các mối bất đồng sẽ chấm dứt và khi tớ cưới vợ bà ấy sẽ tới ở tại nhà tớ.
- Một gia đình sung sướng làm sao! - Một anh chàng có tính hài hước thở dài nói.
- Tớ thề là tớ nói thực đó! Và tớ tính rằng tất cả các cậu sẽ tới dự đám cưới tớ. Tớ sẽ không nêu lên tên tuổi một anh nào, nhưng tớ uống để mừng vị hôn thê bé nhỏ của tớ.
- Chúc mừng vị hôn thê nhỏ bé của ông ấy! – Lũ con trai cà chớn rú lên những tiếng cười lớn. - Chúc mừng sức khỏe của cô nàng. Xin các bạn nâng ly, uống!
Trong lúc có cuộc vui nhộn tại tiệm Gruneman thì một cảnh hoàn toàn khác biệt diễn ra ở một nơi khác. Anh thanh niên Von Harman, với một bộ mặt nghiêm trang và một dáng dấp kiểu cách, đã tra xét lại các dụng cụ về toán học sau cuộc thí nghiệm; sau đó, anh ra một cái lệnh có tính cách bắt buộc cho người canh gác phòng thí nghiệm, rồi anh đi ra và thong thả đi về phía nhà của vị thông thái. Phía trước anh, anh chợt thấy Von Althos, giáo sư khoa Giải phẫu; anh bước mau chân và bắt kịp ông ta.
- Hãy nói cho tôi nghe, Von Althos! - Anh kêu lên và đập vào cánh tay ông ta. - Hôm nọ ông có hỏi tôi một điều cần biết về cái vách ở giữa của các động mạch não bộ. Tôi đã khám phá ra...
- Lạy chúa tôi! - Von Althos la lớn lên, ông vốn là một ông già dễ nổi nóng mà. - Sự láo xược này là nghĩa làm sao? Thưa ông, tôi sẽ đưa ông ra Hội đồng Kỷ luật của trường Đại học về cái tính ngông nghênh của ông.
Nói xong lời đe dọa đó, ông xoay gót chân và đi khỏi. Von Harman hết sức kinh ngạc bởi sự tiếp đón này: "Đây là hậu quả của sự thất bại trong cuộc thí nghiệm của mình." anh tự nhủ vậy. Và anh buồn bã đi tiếp con đường.
Tuy nhiên sự kinh ngạc mới còn chờ đợi anh. Hai cậu sinh viên chạy đằng sau anh để bắt kịp anh. Mấy cậu thanh niên này, thay vì bỏ mũ ra hoặc chứng tỏ một dấu hiệu tối thiểu về sự tôn kính đối với anh, đã thốt ra một tiếng la hét man rợ tỏ vẻ vui mừng và mỗi cậu nắm lấy một ống tay áo của Von Harman muốn lôi anh đi với họ.
- Đồ mất dạy! - Von Harman gầm lên. - Một sự nhục mạ có chủ ý như vậy là nghĩa làm sao? Các anh muốn dẫn tôi đi đâu?
- Đi đập bể đầu một chai rượu vang! - Hai anh sinh viên đáp lại. - Vậy đấy! Hãy đi với chúng tôi! Anh chưa từng từ chối lời mời đó bao giờ mà.
- Tôi chưa từng thấy sự hỗn xược như thế này bao giờ! - Von Harman la lớn lên. - Buông tay tôi ra. Nếu không tôi sẽ đuổi các anh ra khỏi trường! Buông tôi ra, tôi nói với các anh!
Trong tâm trạng điên cuồng không thể kìm hãm được, anh lấy chân đá lung tung.
- Ồ, nếu anh nghĩ như vậy thì anh muốn đi đâu thì đi! - Các sinh viên nói với anh. - Chúng tôi sẽ đi uống ngon lành chẳng cần có anh.
- Tôi biết các anh. Các anh sẽ phải đền tội này! - Von Harman nói với theo họ.
Anh tiếp tục đi về nơi mà anh cho là nhà của anh, rất bực bội vì hai sự cố vừa qua.
Bà Baumgarten đang đứng ở cửa sổ nhìn ra vì bà ngạc nhiên thấy ông chồng về trễ để ăn bữa trưa, bà chợt nhìn thấy anh sinh viên trẻ đi trên đường. Như chúng tôi đã nói, đối với anh này bà đã tỏ rõ một mối ác cảm mạnh mẽ và mỗi khi anh ta mạo hiểm tới nhà bà thì đó là nhờ sự bao che của vị Giáo sư. Sự kinh ngạc của bà khi nhìn thấy anh ta đi tới một mình còn tăng thêm khi anh ta mở cánh cửa phên thưa và bước vào lối đi với dáng điệu của một người tự coi mình là chủ nhân của tình thế. Thấy khó có thể tin ở cặp mắt mình, bà chạy vội ra cửa, tất cả các bản năng của người mẹ đều xao động. Từ các cửa sổ trên cao, cô gái Elise xinh đẹp cũng nhận xét thấy dáng điệu nghênh ngang của tình nhân của cô; tim cô trở nên hồi hộp, cả vì kiêu ngạo lẫn bối rối.
- Chào ông! - Bà Baumgarten nói với anh chàng đang tự do đột nhập vào nhà bà bằng cách ngạo nghễ, chặn đường anh ta ở ngưỡng cửa.
- Martha ạ, thật đúng là một ngày đẹp đẽ! - Anh ta đáp lại. - Đi vào đi, chớ có đứng ở đây như một pho tượng nữ thần ấy, nhưng xin bà hãy gấp gấp dọn bữa ăn trưa đi, vì tôi gần chết đói rồi đây này.
- Martha! Bữa ăn trưa! - Bà vợ của vị Giáo sư nhắc lại, suýt chút nữa thì bà té ngửa xuống.
- Ờ, bữa ăn trưa, Martha ạ, bữa ăn trưa! - Von Harman gầm lên, lúc đó anh đã trở nên dễ nóng giận. - Lời yêu cầu này có gì là khác thường với một người đã làm việc suốt cả buổi sáng? Tôi đợi ở trong phòng ăn. Đem cho tôi bất cứ món gì: xúc xích, củ su, trái mơ, những thứ gì mà bà sẵn có. Nhưng bà làm gì mà cứ đứng nhìn tôi miệng há hốc ra như vậy? Này bà, bà có chịu cất bước đi không nào?
Câu nói sau cùng này, kèm theo một cái dậm chân có vẻ điên dại, đã có hiệu lực làm cho bà Baumgarten hiền hậu bỏ trốn. Bà đóng cửa đứng trong nhà bếp, ở đó bà bị một cơn khủng hoảng thần kinh. Trong khi đó, Von Harman đi vào phòng ăn và ngồi phịch xuống ghế tràng kỷ. Anh ta đang hết sức cáu kỉnh.
- Elise đâu? - Anh ta gọi. - Bọn đàn bà quỷ bắt! Elise!
Bị triệu thỉnh với một cái giọng quá thô lỗ đó, cô thiếu nữ e dè từ trên phòng cô đi xuống.
- Người tình của em! - Cô kêu lên trong lúc âu yếm ôm lấy anh ta. - Em biết rằng anh đã xử sự như vậy là vì anh yêu em. Có phải đó là một mưu chước để gặp em không, anh nói đi?
Von Harman quá giận dữ với rắc rối mới này đến nỗi anh ngồi lặng đi không nói được một câu nào; anh chỉ có thể phóng ra những cái nhìn giận dữ và nắm chặt hai nắm tay lại, đồng thời cố chống đỡ những cái hôn của cô thiếu nữ. Sau hết, khi anh lấy lại được sự ích dụng của ngôn ngữ, anh đã bị lôi cuốn vào một cơn bão tố của sự phẫn nộ quá dữ dội khiến cho Elise phải lùi lại và khiếp sợ ngồi phịch xuống một cái ghế bành.
- Chưa bao giờ tôi phải sống một ngày như thế này! - Von Harman vừa dậm chân vừa la lên. - Cuộc thí nghiệm của tôi đã thất bại. Von Althos đã làm nhục tôi. Hai thằng sinh viên đã ôm lấy tôi trên đường đi. Vợ tôi suýt nữa thì ngất xỉu khi tôi bảo bà ấy cho tôi ăn bữa trưa và con gái tôi nhẩy nhổm lên người tôi để xiết chặt lấy tôi như một con gấu hoang vậy.
- Anh bị bệnh rồi, anh yêu quý của em! Đầu óc anh bị lộn xộn rồi. Anh chưa hôn em một lần nào!
- Không và tôi không có ý định hôn hít gì cả. - Von Harman tuyên bố một cách cương quyết. - Con phải biết thấy thế là xấu hổ chứ. Tại sao con không đi kiếm cho ba đôi giày vải của ba, mà cũng không vào phụ giúp má con làm bữa trưa cho ba?
- Có phải là em đã yêu anh đắm đuối hơn 10 tháng nay để rồi đi tới sự thể như thế này? - Elise kêu lên và chúi gục mặt vào tấm khăn lau mặt của cô. – Em đã phải đương đầu với cơn giận dữ của má em như thế nào? Ôi, anh đã đập nát trái tim em! Vâng, anh đã đập nát trái tim em.
Cô nức nở một cách tuyệt vọng
- Thế là quá lắm rồi, quá sức chịu đựng của tôi rồi! - Von Harman gầm lên. - Đứa con gái này muốn nói chuyện quỷ quái gì? Ba đã làm gì từ 10 tháng nay để gợi ra cho con một lòng yêu mến đặc biệt tới như vậy? Nếu con yêu ba nhiều thì con nên đi kiếm cho ba một ít xúc xích và một ít bánh, thay vì đứng đấy nói lảm nhảm những điều kỳ cục.
- Ồ, anh yêu quý của em! - Cô thiếu nữ khốn khổ kêu lên và lao vào vòng tay của con người mà cô tưởng là Von Harman. - Hãy nói với em rằng anh chỉ bông đùa để làm cho Elise bé bỏng của anh sợ hãi thôi.
Sự ngẫu nhiên muốn rằng lúc mà vòng tay ghì xiết vừa đắm đuối vừa bất chợt này diễn ra thì Von Harman đang ngồi tựa vào một đầu của ghế tràng kỷ, mà ghế này, giống như trường hợp thường xảy ra với các đồ gỗ của người Đức, đã bị xộc xệch và khủng khiễng. Sự ngẫu nhiên còn muốn nói rằng chỗ dưới đầu tràng kỷ có một cái chậu đầy nước, trong đó nhà sinh lý học đã tiến hành vài thí nghiệm về các trứng của cá và ông để trong phòng ăn để giữ một nhiệt độ ngang bằng. Sức nặng của cô thiếu nữ kết hợp với sự mãnh liệt của cái đà xô tới của cô đã làm gẫy nát chiếc ghế tràng kỷ; anh chàng sinh viên kém may mắn té ngửa về phía sau vào trong cái chậu: đầu và hai bàn tay anh bị kẹt cứng trong đó một cách bất tiện, trong khi hai chân anh giẫy dụa một cách tuyệt vọng trong khoảng không. Nỗi cay đắng của anh thật đã quá thể rồi. Phải chật vật lắm anh mới thoát được khỏi tình trạng bực bội này, anh kêu lên một tiếng tức tối chẳng ra mạch lạc gì tay cầm lấy mũ và đi ra chẳng muốn nghe những lời nài nỉ của Elise. Người ướt sũng, nước nhỏ giọt lòng thòng, anh quay trở lại phía thành phố, để kiếm trong một nhà hàng thức ăn và những tiện nghi mà anh đã bị từ khước ở nhà anh.
Trong khi hồn của Baumgarten nằm trong thể xác của Von Harman bước vội trên con đường ngoằn ngoèo dẫn tới thành phố nhỏ bé, ông chợt thấy một ông già đang đi tới phía ông và người này rõ ràng là đang say rượu. Von Harman đứng né ra rìa đường để quan sát người này đang khất khưởng vừa bước đi xiên xọ vừa hát bằng một giọng ồ ề một điệp khúc của bọn sinh viên. Thoạt đầu ông chỉ chú ý tới sự tương phản giữa một ngoại hình đáng kính và một tình trạng buồn khổ như vậy. Rồi ông nghĩ rằng ông rất quen biết người này, tuy nhiên ông không thể nhớ được là ông gặp người này khi nào và ở đâu. Cảm tưởng này trở nên quá mạnh khiến cho khi người lạ đi tới trước mặt ông, ông đứng chắn trước mặt người đó và chăm chú nhìn kỹ ông ta.
- Này, cậu con trai của ta? - Người say rượu hỏi và đến lượt ông ta cũng nhìn kỹ Harman và đứng lảo đảo trước mặt anh. - Tôi đã gặp anh ở nơi quỷ quái nào ấy nhỉ? Tôi biết rất rõ anh cũng như tôi biết chính tôi vậy. Anh là đồ ma quỷ nào vậy?
- Tôi là giáo sư Baumgarten, - người sinh viên đáp lại. - Cho phép tôi hỏi ông rằng ông là ai vậy? Bộ mặt ông không phải là xa lạ đối với tôi.
- Không bao giờ anh được nói dối, anh bạn trẻ. - Người kia nói. - Chắc chắn anh không phải là vị Giáo sư vì đó là một ông già hiền hậu, xấu xí sắp kề miệng lỗ rồi mà anh thì là một thanh niên ngổ ngáo có đôi vai to lớn. Tôi tên là Von Harman, muốn sẵn sàng giúp đỡ anh.
- Chắc chắn là không phải như vậy! - Thể xác của Von Harman kêu lên. - Cùng lắm ông có thể là bố anh ta. Nhưng xin ông nói cho tôi rõ, ông có biết là ông đang mang những cái cúc yếm sơ mi của tôi và sợi giây đồng hồ của tôi không?
- Đồ trời đánh! - Người kia nói như nghẹn tiếng - Nếu anh không đang mặc cái quần của tôi, mà vì cái quần này mà lão thợ sắp may tới xiết nợ tôi, thì tôi, không bao giờ uống rượu bia nữa.
Bực bội vì những việc kỳ cục mà anh ta đã là nạn nhân suốt cả buổi sáng, Von Harman đặt một bàn tay lên trán và nhắm mắt lại. Sự ngẫu nhiên muốn biết rằng (một lần nữa) anh ta chợt nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chính mình trong một cái vũng nước mà trận mưa đã để lại trên mặt đường. Quá kinh ngạc khi anh nhận thấy anh có một cái đầu của một sinh viên trẻ và trên hết cả mọi phương diện anh là cái phản đề sống động của cái bóng người nghiêm trang và khắc khổ mà linh hồn anh thường quen trú ngụ. Trong một vài phút đồng hồ bộ óc tinh tế của anh ôn lại mọi sự việc xảy ra và đi tới một kết luận không thể tránh được Suýt nữa là anh ngất xỉu đi vì sự kích động.
- Đúng rồi! - Anh kêu lên. - Tôi đã thấy rõ tất cả. Linh hồn chúng ta đã lầm thể xác. Tôi là anh và anh là tôi. Lý thuyết của tôi đã được chứng minh, nhưng với một giá quá đắt! Linh hồn thông thái nhất châu Âu có thể nào đi chơi dưới một cái bề ngoài xoàng xĩnh như thế này không? Ôi, thế là tiêu tan hết những công trình suốt một đời người!
Với sự thất vọng, ông tự đấm vào ngực mình.
- Hãy nói đi! - Chàng Von Harman chính cống nấp trong thân xác vị Giáo sư đưa ra nhận xét. – Tôi thấy rõ sức mạnh của những nhận xét của thầy, nhưng tôi xin thầy đừng vỗ lên người tôi như thế. Thầy đã tiếp nhận thể xác của tôi trong tình trạng tuyệt hảo, nhưng tôi nhìn thấy rằng thầy đã làm nó ướt át và thương tổn và thầy đã làm áo sơ mi của tôi toàn mùi thuốc lá.
- Ăn thua gì việc đó! - Người kia kêu lên một giọng sầu thảm. - Chúng ta sẽ phải sống như thế này mãi. Lý thuyết của tôi đã được chứng minh một cách rực rỡ, nhưng với cái giá khủng khiếp.
- Nếu tôi cũng tin tưởng như vậy thì thực tế cũng sẽ rất buồn phiền. Tôi sẽ làm gì được với những cái chân tay già nua cứng đờ này? Làm thế nào để tôi sẽ tán tỉnh cô Elise và thuyết phục cho cô ấy hiểu rằng tôi không phải là bố cô ấy. Lạy chúa tôi! Mặc dù rượu bia đã làm tôi say mềm, tôi thấy có một cách để thoát ra khỏi tình trạng này.
- Cách nào? - Vị Giáo sư thở hổn hển hỏi lại.
- Này nhé, bằng cách bắt đầu lại cuộc thí nghiệm. Ta lại giải thoát linh hổn chúng ta một lên nữa; rất có thể là chúng sẽ nhập lại vào thể xác liên hệ với chúng.
Chưa bao giờ một người chết đuối lại bám lấy một cọng rơm chặt chẽ hơn là hồn của Baumgarten bám lấy ý kiến này. Trong một sự vội vã điên cuồng, ông kéo lấy cái thân xác của chính ông lên cạnh đường và làm cho nó ngủ mê nhân tạo. Rồi ông lấy từ trong túi ra quả cầu bằng thủy tinh, rồi cũng đi vào một tình trạng như vậy.
Những sinh viên, những nông dân đi qua chỗ đó đều rất kinh ngạc khi nhìn thấy vị Giáo sư lỗi lạc khoa sinh lý và cậu học trò cưng của ông, cả hai cùng ngồi trên một bãi cỏ be bét bùn và hoàn toàn bất động. Sau một tiếng đồng hồ, cả một đám đông tụ tập lại; những người tò mò đang định gọi một chiếc xe tải thương tới để chở họ đi bệnh viện, thì nhà thông thái mở mắt ra và nhìn chung quanh ông. Trong một vài phút, ông có vẻ như quên mất tại sao mà ông lại ở chỗ này; nhưng rồi ông làm mọi người kinh ngạc bằng cách vung vẩy đôi tay gầy guộc của ông bên trên đầu và hét lên với sự mãn nguyện:
- Trời đã giúp chúng tôi! Tôi lại trở lại là tôi! Tôi biết điều đó!
Sự sửng sốt của khán giả cũng lớn lao không kém khi cậu sinh viên đứng phắt dậy, cũng thốt ra một tiếng kêu như vậy; rồi cả hai người đều hoan hỉ nhảy nhót ở ngay giữa đường.
Trong một thời gian nào đó dân cư ở Keinplatz có ý nghi ngờ về sự cán bằng tâm thần của hai diễn viên trong màn kịch này. Khi ông Giáo sư công bố báo cáo về cuộc thí nghiệm của ông trong tờ báo Y học, như ông đã hứa từ trước, ông đã vấp phải từ phía đồng nghiệp của ông đủ mọi thứ ý kiến được trình bày một cách rõ ràng không nhiều thì ít, nhưng đều tóm tắt lại ở điểm này: ông cần phải để ý tới sức khỏe tâm thần của ông, vì một bản công bố khác vào loại này sẽ đưa ông thẳng tới một dưỡng trí viện. Về phần cậu sinh viên, cuộc thí nghiệm cũng dạy cho cậu biết rằng cậu nên im tiếng đi thì có lợi hơn.
Dù sao thì buổi chiều hôm đó khi vị Giáo sư lỗi lạc về tới nhà mình, ông đã không nhận được sự tiếp đãi thân mật mà ông có quyền mong đợi sau những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của ông. Trái lại ông bị bà vợ và cô con gái cằn nhằn một cách thô lỗ, vừa về việc ông thở ra mùi rượu bia, mùi rượi vang và thuốc lá, mà cũng cả về việc ông đã vắng nhà trong khi một tên du đãng trẻ tuổi xâm nhập nhà ông và nhục mạ vợ con ông. Phải mất rất nhiều thời gian, không khí gia đình trong nhà ông Giáo sư mới êm ả được và mất nhiều thời gian hơn nữa để cho bộ mặt dễ gây cảm tình của Von Harman tái xuất hiện trong nhà ông. Tuy nhiên, sự kiên trì thường lật đổ mọi chướng ngại: anh sinh viên đã thành công trong việc làm nguôi ngoai hai người đàn bà phẫn nộ và chiếm lại trái tim cô Elise. Bây giờ anh không còn phải sợ hãi những lời sấm sét của bà Baumgarten, vì anh đã trở thành Trung úy Von Harman trong đạo kỵ binh của Hoàng đế và cô Elise yêu kiều đã tặng anh hai cây giáo nhỏ làm dấu hiệu cho lòng khoan dung của cô.
________Hết_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 14:10:27 | Xem tất
11. Chiếc nhẫn giải thoát

Ông John Vansta Smith, hội viên của Hội Hoàng Gia, cư ngụ tại số nhà 147A đường Gower, là người có một nghị lực và một khả năng trí tuệ đáng lẽ có thể đưa ông lên hàng đầu của những người nghiên cứu về khoa học. Nhưng ông lại là nạn nhân của một tham vọng muốn bác đủ mọi thứ, tham vọng này thúc đẩy ông muốn tỏ ra lỗi lạc trong nhiều lảnh vực hơn chỉ là vượt trội trong ngành thôi. Tuy hãy còn trẻ, ông đã tỏ ra có những sở kiến làm người ta kinh ngạc về khoa động vật học và thảo mộc học; các bạn của ông đã coi ông là một Darwin thứ hai, khi mà lẽ ra chỉ còn có việc giật lấy chức giác sư ông đã bắt thần từ bỏ nghề đó và tự để mình tự cuốn hút bởi môn hoá học, nhành mà các sự nghiên cứu của ông về các quang phổ của những kim loại đã đưa ông vào Hội Hoàng Gia. Mồi lửa rơm! Ông đã vắng mặt trong một năm trời tại phòng thí nghiệm của ông. Khi quay về, ông gia nhập Hội Đông Phương và công bố một bản tin về các văn bia ở El Kab. Chắn chắn là ông vừa đa năng vừa đa tài.Tuy nhiên những anh bay bướm lắm rút lại thể nào cũng mắc kẹt. John Vansta Smith cũng không thoát khỏi quy luật này. Ông càng đi sâu vào lãnh vực Ai Cập học ông càng thấy say sưa vì khoảng đất bao la mở ra trước mắt ông và vì tầm quan trọng vô cùng của một vấn đề chỉ có thể mang lại những tia sáng về những mầm mống đầu tiên của nền văn minh nhân loại và về nguồn gốc phần lớn các mỹ thuật và khoa học của chúng ta. Ông Smith bị say mê đến mức ông cưới một cô nữ sinh viên trẻ trong môn Ai Cập học, người đã viết một bài luận án về đệ lục triều đại. Đã vững lòng với một căn bản vững chắc dể hoạt động, ông đi kiếm các tài liệu dành cho một công trình hợp nhất sự nghiên cứu của Lepsius với sáng kiến của Champonllion. Việc chuẩn bị cho tác phẩm vĩ đại này bao gồm nhiều chuyến thăm các bộ sưu tầm về Ai Cập tại bảo tàng viện Louvre. Chuyến sau cùng diễn ra vào trung tuần tháng mười năm ngoái; đó là cơ hội của một cuộc mạo hiểm không tầm thường, đáng được thuật lại.
Các chuyến xe lửa thì đi chậm lại và biển Manche rất xấu; vì vậy nhà bác học của chúng ta tới được Paris thì thể xác phát sốt, phát nóng và tinh thần mờ mịt. Tại khách sạn Đại Pháp trên đường Laffitte, ông đã nằm dài trong hai tiếng đồng hồ trên một ghế dài; nhưng ông không thể ngủ được, mặc dù còn mệt mỏi ông quyết định đi tới viện bảo tàng Louvre, để phối kiểm một chi tiết mà vì nó ông đã phải đi tới đây, rồi lại đi chuyến xe lửa buổi chiều tới Dieppe, ông mặc một áo choàng dài, vì trời mưa và ông đi bộ qua con đường lớn Des Italiens và đường Opera. Tại viện bảo tàng Louvre, ông cảm thấy như ở nhà ông vậy; ông vội vã hướng tới chỗ bộ sưu tầm các sách viết bằng chỉ thảo mà ông có ý định tra cứu.
Những người ái mộ điên cuồng nhất của John Vansta Smith chắc cũng phải ngần ngừ khi nói rằng ông là người đẹp trai. Cái mũi lớn mỏ diều hâu và cái cằm nhô ra của ông cho ta một ý niệm về sự linh lợi và đặc tính sắc bén của trí thông minh của ông. Ông mang cái đầu như một con chim và cũng như một con chim, ông ném ra những lời phản đối và những câu ứng đối. Với dáng dấp như vậy, hôm đó ông đứng ở bảo tàng viện Louvre với chiếc cổ áo choàng kéo lên đến tận mang tai, khi tự nhìn mình trong các tủ kính vuông mà ông kiểm kê, có lẽ ông cũng nhận thấy thực ra ông đã có một dáng điệu bình thường, ông đã bị bực bội một cách dũ dội khi ở phía sau lưng ông một giọng nói người Anh đã thốt ra một cách rất rõ ràng:
- Con người kỳ cục!
Nhà bác học không phải là người không có tính kiêu ngạo của ông được biểu lộ bằng sự hoàn toàn hững hờ đối với mọi ý kiến cá nhân. Ông mím môi trong khi nhìn chăm chú cuộn chỉ thảo của ông, nhưng lòng ông chứa đầy mỗi cay đắng đối với tất cả nòi giống của người Anh đang đi nghỉ mát.
- Vâng, - một tiếng nói khác tỏ sự đồng ý. - Đúng thật là một điển hình!
Người thứ nhất nói tiếp:
- Người ta có thể gần như tin chắc rằng cứ ngắm nghía mãi những xác ướp, anh chàng này sẽ tự mình trở thành xác ướp một nửa.
- Thật ra anh ta có diện mạo và dáng dấp của một người Ai Cập.
John Vansta Smith quay gót lại với ý định làm cho các bạn đồng hương của mình xấu hổ bởi một vài lời nhận xét cay độc. Ông đã ngạc nhiên và thấy nhẹ nhõm hẳn khi phát hiện ra rằng hai người thanh niên người Anh đang nói ba hoa đứng quay lưng về phía ông và những lời nói của họ nhằm vào một trong những người bảo vệ viện bảo tàng Lourve đang đánh bóng một mảnh đồng ở phía bên kia của căn phòng.
- Carter sẽ đợi chúng ta ở Palais-Royal, - một trong những người khách du lịch nói, mắt nhìn đồng hồ.
Họ đi xa dần, để nhà bác học ở lại với công việc của ông.
“Ta muốn tò mò biết con người mà mấy thằng cha xuẩn ngốc gọi là một diện mạo và một dáng dấp của người Ai Cập!” John Smith nghĩ. Ông bước nhẹ nhàng để nhìn thấy người đó. Quả thật đó là khuôn mặt mà các cuộc nghiên cứu của ông đã làm ông trở nên quen thuộc. Những nét đều đặn và bất động, vầng trán rộng, cằm tròn trĩnh, nước da màu nâu đen nhạt, tất cả đều là sự mô phỏng chính sác của vô số pho tượng, bức họa để trang hoàng các bức tượng tại nhà ông. Sự việc vượt quá mọi trùng hợp ngẫu nhiên. Người này phải là một người Ai cập. Sự vuông vắn của đôi vai này, sự thót hẹp chỗ hông, anh ta cũng đủ để nhận dạng quốc tịch của anh ta.
Nhón bước trên đầu bàn chân, John Vansta Smith tiến tới chỗ người bảo vệ để nói chuyện với anh ta. Vốn không quen chuyện tầm phào, ông thấy khó tìm được một giọng điệu đúng múc ở giữa sự cộc cằn của kẻ cao sang và lịch thiệp của kẻ ngang hàng. Anh bảo vệ quay nghiêng người. John Vansta Smith chăm chú nhìn nước da của con người mà ông cho là dân Ai Cập, ông có cảm tưởng rằng nước da này có cái gì đó không bìng thường. Chỗ thái dương và lưỡng quyền, nó cũng nhẵn lì và bóng loáng như một miếng da khô vậy. Không thể nhìn thấy các lỗ chân lông. Không thể tưởng tượng được một chút ẩm ướt nào trên khoảng da khô khằn đó. Trái lại nó bị vạch thành từng hằn sâu, từ trán xuống tới cằm, bởi hàng ngàn vết nhăn li ti, vết này cắt vết kia, cắt đi, cắt lại trong một hình vẽ lộn xộn.
- Bộ sưu tầm Mephis ở chổ nào? - Nhà bác học hỏi bằng tiếng Pháp.
Ông có vẻ ngượng ngập của một người đặt ra một câu hỏi chỉ với mục đích là để mào đầu một cuộc nói chuyện.
- Đằng kia kìa! - Người bảo vệ trả lời với một giọng thô lỗ, ngấc đầu ra hiệu chỉ về phía bên kia của căn phòng.
-Anh là người Ai Cập, có phải không?
Người bảo vệ ngẩng cao đầu lên nhướng mắt nhìn kẻ đối thoại với mình. Hai mắt anh ta u ám, mở lờ đờ khô khan, như có ám sương mù, chưa bao giờ ông Smith nhìn thấy những con mắt đó, ông nhận thấy trong đáy nước sâu thẳm của chúng có một cảm xúc mạnh, giống như một sự trộn lẫn của hận thù và kinh hoàng.
- Không, thưa ông. Tôi là người Pháp.
Người bảo vệ quay đi và lại cúi xuống cái vật mà anh ta đang đánh bóng. Nhà bác học hết sức ngạc nhiên, chăm chú nhìn anh ta trong một lúc, không nói năng gì cả, rồi ông đi tới ngồi trên một cái ghế ở trong một góc khuất nẻo, phía sau một cánh cửa, ông ghi chép một vài kết quả của công việc sưu tầm của ông về những cuốn chỉ thảo. Nhưng tinh thần ông không ổn định trước thứ tự thường lệ của các công việc của ông, nó cứ nhất mực quay về với người bảo vệ kỳ bí với bộ mặt nhân sự và nước da thuộc khô vậy.
“Ta đã nhìn thấy những con mắt như thế ở đâu nhỉ?” John Vansta Smith tự hỏi mình. “Chúng có vẻ giống như con mắt thằn lằn, mắt một con vật bò sát; loài rắn có một màng thuấn làm cho mắt sáng long lanh. Nhưng trong cái nhìn của con người này có một cái gì hơn thế. Có một sự biểu lộ về quyền lực, về sự khôn ngoan, về sự chán chường sâu đậm và về sự tuyệt vọng không gì mô tả được. Có phải là trí tưởng tượng của ta quá nhiều không? Ta cần phải tra xét lại một lần nữa!”
Ông đứng dậy và ông đi một vòng qua các phòng trưng bày cổ vật ở Ai Cập; nhưng người bảo vệ đã mất dạng.
Thế là ông trở lại ngồi trong cái góc nhà yên tĩnh của ông. Ông đã tìm thấy các tin tức mà ông kiếm trong các cuốn chỉ thảo, ông chỉ còn có việc viết nó trong ký ức của ông còn tươi tắn. Trong một vài phút, cây bút chì của ông đã bay lượn trên tờ giấy; nhưng rồi những dòng chữ của ông đều đi xiêu vẹo và sau cùng thì cây bút chì rơi xuống đất trong khi đầu nhà bác học gục xuống trước ngực. Quá mệt mỏi vì chuyến đi, ông đã ngủ một giấc quá say trong cái góc hẻo lánh sau cánh cửa để đến nỗi những vòng tuần tiễu của bọn bảo vệ, những lời nói trao đổi giữa các khách du lịch và ngay cả tiếng chuông kéo dài báo hiệu giờ đóng cửa cũng không làm ông tỉnh giấc.
Hoàng hôn đã đi sâu vào đêm tối, tiếng ồn ào của sự lưu thông ngoài phố Rivoli đã lắng dịu, chuông đồng hồ nhà thờ Notre Dame đã gióng lên một cách nặng nề mười hai tiếng nửa đêm, nhưng John Vansta Smith vẫn không động đậy. Chỉ mãi tới khoảng một giờ sáng ông mới mở bừng hai mắt. Thoạt đầu ông tưởng là ông đang nằm ngủ ở nhà, trong phòng làm việc. Nhưng qua những tấm kính không có cánh cửa có ánh trăng chiếu sáng và khi ông nhận ra những hàng xác ướp và tủ kính thì ông nhớ lại ông đang ở đâu và tại sao ông lại ở đó. Duỗi thẳng chân tay đang uể oải, ông nhìn đồng hồ và ông vừa nhìn đồng hồ vừa hít hà vui thích. Nhà bác học không phải là người nhút nhát một mảy may và ông có tính ưa thích một hoàn cảnh mới, đây là một trong nhiều đặc tính của giống nòi ông. Diễn biến này sẽ là một câu chuyện thích thú để cho một bài báo sắp tới; một thứ gì để làm nhẹ bớt những suy tư nghiêm túc hơn, hệ trọng hơn. Ông không thấy nóng nực quá, trái lại ông rất thoải mái. Ông không ngạc nhiên về việc người bảo vệ không chú ý tới ông, cánh cửa đã chiếu bóng của nó chùm đúng lên người ông. Một tên trộm chắc cũng không thể mơ tưởng được một nơi ẩn náu tốt đẹp hơn.
sYên lặng hoàn toàn. Ở bên trong hay ơ bên ngoài, không nơi nào có một tiếng động nhỏ, dù là một tiếng nhẹ nhàng nhất. Chỉ có một mình ông với những người chết của một nền văn minh đã chết. Tuy nhiên, ở phía bên kia các bức tường, thành phố đang phun ra mọi thứ chất độc tàn bạo và những cám dỗ sống sượng của thế kỷ 19. Nhưng trong căn phòng nảy thực sự không có một thứ gì, từ bông lúa màu nâu cho tới chiếc hộp có màu sắc sặc sỡ của nhà họa sĩ nhưng không được giữ gìn từ 4.000 năm nay. Ông đứng giữa những tàn tích được mang về từ cái đế quốc xa lắc biển thời gian rộng lớn: từ thành Thèbes oai nghiêm, từ thành Louqsor quý tộc, từ những ngôi đền lớn Héliopolis, từ hàng trăm ngôi mộ đã bị đào bới. Nhà bác học đảo mắt qua những hình hài của con người đã chết, ông đã để bị xâm chiếm bởi một tình cảm xâu xa của sự tôn kính. Ông nghĩ tới những sự nông nổi buổi thiếu thời của ông, tới sự vô nghĩa của chính bản thân ông. Ngồi tựa lưng vào ghế, ông mơ màng nhìn dẫy phòng chiếm ngự tất cả cái chái của toà nhà rộng lớn. Và bỗng nhiên, ông nhìn thấy sáng vàng vọt của một ngọn đèn.
John Vansta Smith ngồi thẵng dậy trên ghế. Ngọn đèn tiến lên một cách thong thả, thỉnh thoảng ngừng lại bất động, rồi lại tiếp tục đi tới. Người mang ngọn đèn di chuyển không một tiếng động, bước chân của y không làm rộn rã yên lặng chung quanh. Ông khách người Anh nghĩ rằng có lẽ đây là những tên kẻ trộm và ông ngồi thu mình trong cái góc nhà. Ngọn đèn đu đưa trong căn phòng thứ nhì trước mặt ông, nó đi vào căn phòng bên cạnh, vẫn không gây một tiếng động nhỏ nào. Bị sợ sệt một cách mơ hồ, nhà bác học nhìn thấy một cái đầu, cái đầu này nom như trôi nổi bập bềnh trong không khí, phía sau ánh sáng của ngọn đèn. Cái đầu người bị bóng tối che phủ, nhưng vẫn được ánh sáng soi rất rõ. Ông không thể lầm được: cặp mắt màu kim loại này, nước da như một xác chết này đều thuộc về anh chàng bảo vệ mà ông đã từng trò chuyện.
Cử động đầu tiên của John Vansta Smith là đi tới gặp y. Chỉ cần một vài lời giải thích là đủ và ông sẽ có thể đi ra bằng một cái gì đó ra vẻ lén lút, điều này làm thay đổi ý định của ông. Rõ ràng là anh bảo vệ không đi tuần tiễu, dưới chân anh ta mang một đôi giày đế bằng nỉ và anh ta nhìn quanh mình trong khi thở hổn hển. John Vansta Smith đứng nép vào một xó để canh chừng anh ta. Ông tin chắc rằng anh bảo vệ chỉ tới đây với một mục đích thầm kín và rất có thể bất hảo.
Dù với mục đích nào đi nữa, anh ta vẫn không tỏ ra một chút e dè nào. Anh ta bước nhanh tới một trong những tủ kính lớn, rút ở trong túi ra một chiếc chìa khóa và mở tủ kính đó. Anh lấy từ ngăn kệ phía trên xuống một cái xác ướp; anh đặt xác ướp này xuống mặt đất với rất nhiều vẻ thận trọng và cả sự trìu mến nữa. Anh đặt ngọn đèn bên cạnh cái xác ướp rồi ngồi xổm xuống theo lối người Đông Phương, với ngững ngón tay dài và run rẩy anh bắt đầu gỡ lớp vải bọc ngoài và những dải vải buộc quanh xác ướp. Những lớp vải này mở ra đến đâu thì một mùi thơm nồng nặc tỏa ra đến đấy, tràn ngập cả căn phòng; những mảnh vụn gỗ thơm và hương liệu rải rác trên các phiến lát của nền nhà.
John Vansta Smith biết rằng xác ướp này chưa bao giờ bị lột bỏ vải bọc. Do đó công việc này đã có một cái gì đó làm ông chú ý một cách say mê. Từ chỗ ngồi quan sát phía sau cửa; ông đã chìa cái mũi lớn của ông ta ra với một sự tò mò càng lúc càng mãnh liệt. Khi đoạn dây vải cuối cùng rơi khỏi một cái đầu đã có tới bốn ngàn năm tuổi tác, ông đã phải kiềm hãm một tiếng kêu vì sự kinh ngạc, sững sờ. Thoạt đầu một làn suối những lọn tóc dài đen óng ánh được bảo vệ; hiện ra một vần trán trắng và thấp được trang điểm bởi một cặp lông mày cong vút một vẻ đài các, một cặp mắt sáng với những lông mi dài, một cái mũi thẳng một cái miệng dịu dàng nhạy cảm và mũm mĩm, rồi tới một cái cằm lẹm vào một cách tuyệt diệu. Khuôn mặt này đều đặn màu cà phê. Nhưng thật là kỳ công của nghệ thuật ướp xác! John Vansta Smith trầm trồ với sự mãn nguyện, hai mắt trố ra.
Tuy nhiên hiệu lực mà cảnh tượng này gây ra cho nhà Ai Cập học cũng chỉ là việc nhỏ thôi nếu đem so sánh với hiệu lực mà anh chàng bảo vệ kỳ lạ cảm thấy. Anh ta giơ hai tay lên trời, anh lẩm bẩm những lời không ai hiểu được, rồi nằm sấp xuống bên cạnh xác ướp, anh ta ôm lấy nó, hôn nhiều lần lên môi và trán của xác ướp.
- Em cưng của anh! Em cưng khốn khổ của anh. - Anh ta rên rỉ bằng tiếng Pháp.
Do sự xúc cảm, giọng nói của anh ta nghẹn ngào, nhưng nhờ có ngọn đèn nhà bác học có thể nhận thấy cặp mắt anh ta vẫn khô khan như hai cục thép vậy. Anh ta cứ nằm như vậy trong nhiều phút, nét mặt cúm rúm, miệng thốt ra những tiếng rên rỉ than van ở bên trên cái đầu xinh đẹp của người đàn bà. Rồi anh ta nở một nụ cười, anh ta đọc lên một vài tiếng của một ngôn ngữ xa lạ và anh ta bỗng đứng dậy với sức mạnh của một kẻ gồng mình lên vì một cố gắng lớn lao.
Ở giữa căn phòng có một tủ kính tròn lớn chứa đựng một bộ sưu tập quý giá các nhẫn đeo tay của người Ai Cập và những viên đá quý. Anh bảo vệ lại gần cái tủ đó và mở nó ra. Anh đặt cái bàn trên mép kệ phía bên và bên cạnh cái đèn này là một cái bình nhỏ bằng đất mà anh vừa lấy ở túi ra. Sau đó anh lấy từ trong tủ kính ra một nắm nhẫn và trên mặt hằn lên một sự hệ trọng lớn lao, anh lần lượt nhỏ lên từng chiếc nhẫn một chất lỏng chứa trong cái bình bằng đất, rồi anh chìa chúng ra trước ánh sáng. Nắm nhẫn đầu tiên chắc chắn đã làm anh thất vọng, vì anh đã vứt chúng nháo nhào vào trong tủ kính và anh lấy ra những cái khác. Thoạt đầu anh chọn lấy một cái nhẫn to thù lù có nạm một miếng pha lê lớn để đưa nó vào thử chất nước kỳ bí. Bất chợt anh thốt lên một tiếng kêu vui thích và giơ hai tay lên. Cử động hấp tấp của anh làm đổ chiếc bình bằng đất; chất lỏng chảy tràn ra mãi tới chân của ông khách người Anh. Anh bảo vệ lấy từ áo ngoài ra một cái khăn màu đỏ, cúi xuống chùi những phiến đá lát nhà và anh ta đã đứng đối diện với John Vansta Smith.
- Xin thứ lỗi cho tôi! - người Anh nói với tất cả sự lễ độ ta có thể tưởng tượng được. - Tôi vì không may mà phải ngủ đằng sau cánh cửa này.
- Và ông đã canh chừng tôi?
Người bảo vệ nói bằng tiếng Anh, bộ mặt như xác chết của anh ta có một biểu hiện tàn độc.
Nhà bác học không hề biết nói dối.
Ông đáp:
- Tôi thú thực rằng tôi đã quan sát cử động của anh và chúng đã gợi óc tò mò của tôi tới chỗ cùng cực.
Lúc đó người kia đã lấy ở trong mình ra một con dao dài lưỡi để trần.
- Nếu tôi phát hiện ông sớm hơn mười phút thì có lẽ tôi đã moi tim ông rồi. Dù sao đi nữa, nếu ông đụng tới người tôi hoặc ông cản trở tôi bất cứ bằng cách nào đó, ông sẽ là một người chết.
- Tôi không muốn cản trở anh. Sự có mặt của tôi ở đây hoàn toàn do sự ngẫu nhiên thôi. Tất cả những gì tôi yêu cầu chỉ là xin anh vui lòng cho tôi ra khỏi viện bảo tàng.
Ông đã nói với một giọng hết sức ngọt ngào vì anh bảo vệ ấn mũi nhọn con dao của anh ta vào lòng bàn tay anh, làm như anh muốn thử lưỡi dao sắc; sắc diện anh ta vẫn còn giữ vẻ hung hãn như trước.
- Nếu tôi tin... - anh ta cất lên tiếng nói âm hiểm. - Nhưng không! Có lẽ như vậy cũng tốt... Ông tên là gì ?
Người Anh nói tên mình cho anh ta biết.
- John Vansta Smith? - Người kia nhắc lại. - Có phải ông là ông John Vansta Smith, người đã viết một bài về El Bak trong một tạp chí ở London không? Tôi có đọc một đoạn trích dẫn của bài đó. Sự hiểu biết của ông về vấn đề này thật đáng khinh.
- Thưa không! - Nhà Ai Cập học phản đối.
- Tuy nhiên nó vẫn cao hơn sự hiểu biết của nhiều nhà thông thái, những người khoa trương nhiều kỳ vọng lớn hơn. Muốn hiểu đời sống cổ xưa của chúng tôi tại Ai Cập, cả những văn bia lẫn những đền đài đều không có tính cách quan trọng. Điều đáng kể là khoa luyện đan của chúng tôi và khoa học kỳ bí là những thứ trên thực tế đã lọt khỏi tay các ông.
- Đời sống cổ xưa của chúng tôi? - Nhà bác học nhắc lại, hai mặt mở to ra. - Lạy chúa tôi! Hãy nhìn bộ mặt của xác ướp!
Người bảo vệ kỳ lạ quay người lại và soi ánh sáng của ngọn đèn vào cái xác người, anh ta thốt lên một tiếng kêu dài đau đớn. Tác động của khí trời đã hủy hoại trọn vẹn nghệ thuật của người ướp xác. Làn da đã xẹp xuống, hai mắt đã chìm vào phía trong, cặp môi hé mở và trưng ra những chiếc răng màu vàng, tuy nhiên cái vết nâu trên trán vẫn còn chỉ rõ rằng đây chính là cùng một khuôn mặt đó, khuôn mặt mấy phút trước đây đã phát lộ biết bao sự trẻ trung và xinh đẹp.
(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 14:11:17 | Xem tất
11. Chiếc nhẫn giải thoát (tiếp)

Người bảo vệ vặn vẹo hai bàn tay trong sự buồn thương và kinh hoảng. Rồi anh ta lấy lại bình tĩnh và anh lại phóng cặp mắt đanh thép của anh vào người Anh.
- Việc này không quan trọng, - anh lẩm bẩm với một tiếng nói ồ ề. - Quả thật không quan trọng! Tối nay tôi tới đây với một mục đích đã được cân nhắc kỹ lưỡng. Mục đích đó đã hoàn thành. Tất cả những gì còn lại đều không đáng kể. Lời nguyền ngày xưa không còn hiệu lực nữa. Tôi có thể gặp lại nàng. Có lợi ích gì để tôi kề cà mãi trên cái vỏ ngoài bất động của nàng vì linh hồn nàng đang chờ tôi phía bên kia mức màn.
- Những lời nói kỳ lạ! - John Vansta Smith đưa ra lời phê bình, mỗi lúc ông một tin chắc rằng ông đang đứng trước một thằng điên.
- Thời gian gấp lắm rồi; tôi phải đi, - người kia nói tiếp - Cái giờ phút mà tôi đã chờ đợi từ rất lâu đã tới gần. Nhưng trước hết tôi phải đưa ông ra. Đi theo tôi...
Anh ta cầm lấy cái đèn, đi ra khỏi phòng, vẻ rất bối rối và anh đưa nhà bác học đi qua các phòng về Ai Cập, về Assyrie và Ba Tư. Tới đầu căn phòng cuối cùng về Ba Tư, anh ta đẩy một cánh cửa nhỏ đục trong tường và anh ta đi xuống một cầu thang xoáy trôn ốc. Ông người Anh cảm thấy trên trán mình không khí tươi mát của ban đêm. Trước mặt là một cánh cửa chắc là để mở ra đường, ở bên tay mặt có một cái cửa khác mở hé để lọt vào một tia sáng vàng khè ở hành lang.
- Vào đây! - Anh bảo vệ ra lệnh.
John Vansta Smith ngần ngừ: ông tưởng rằng cuộc phiêu lưu của ông đã chấm dứt và ông sẽ thấy mình ở bên ngoài. Vì sự tò mò của ông khá lớn, ông muốn được biết lý do bí ẩn của sự kỳ bí. Do đó ông dã đi theo người bạn đường kỳ lạ của ông vào trong căn phòng có đèn sáng sủa.
Đó là một phòng nhỏ, tương tự như chỗ ở của một người gác cửa. Một ngọn lửa đốt bằng củi nổ lách tách trong lò sưởi. Ở một bên phòng có một cái giường có bánh xe lăn. Phía bên kia là một cái ghế gỗ; ở giữa là một cái bàn còn mang những tàn tích của một bữa ăn. Ông người Anh không thể chế ngự được một cái rùng mình: tất cả những chi tiết nhỏ nhặt của căn phòng hình như được lấy ra từ một tiệm chạp phô thời cổ xưa. Những đế cắm nến, những cái bình trên lò sưởi, những cái giá sắt để gác củi, những đồ trang trí trên tường đều gợi lên một quá khứ đã trôi qua. Anh bảo vệ buông mình ngồi bịch xuống thành giường và anh ta mời vị khách của mình ngồi trên cái ghế.
- Phải chăng tất cả việc này đều do sự tình cờ mà ra, - anh ta bắt đầu nói với ông bằng thứ tiếng Anh tuyệt hảo. - Có lẽ trời đã định rằng tôi phải để lại sau tôi một lời cảnh cáo dành cho những con người ngông cuồng muốn đem óc thông minh của họ ra chống lại các quy luật của tạo hóa. Tôi sẽ giao lời cảnh cáo đó cho ông. Ông sẽ làm điều mà ông muốn làm. Bây giờ tôi đang nói với ông từ ngưỡng cửa của thế giới bên kia.
“Như ông đã đoán, tôi là một người Ai Cập. Không phải là một trong những mẫu người của cái nòi giống nô lệ hiện đang sống tại châu thổ sông Nil, nhưng là một người còn sót lại của dân tộc hùng mạnh hơn nhiều và kiêu hãnh hơn nhiều, cái dân tộc đã đánh bật dân Do Thái, đã đẩy lùi người Ethiopia trong các sa mạc mạn Nam và đã xây dựng những công trình lớn mạnh làm tràn đầy sự thèm muốn và ngưỡng mộ ở những thế hệ sau. Tôi được sinh ra dưới triều đại Tuth Oses, 1.600 năm trước ngày sinh của Chúa Ki Tô. Ông lùi lại à? Xin ông hãy đợi một chút: ông sẽ mau lẹ nhận thấy rằng tôi đáng được thương xót hơn là đáng sợ hãi.
“Tên tôi là Sosra. Cha tôi là đại tu sĩ đạo Oriris trong đền Abaris. Tôi được nuôi dưỡng trong ngôi đền và được học hỏi tất cả các nghệ thuật mà Thánh Kinh của các ông đã nói tới. Tôi là một người học trò giỏi. Năm 16 tuổi tôi đã biết tất cả mọi thứ mà một người tài trí nhất trong giới tu sĩ đã có thể dạy tôi. Từ lúc đó, tôi tự mình nghiên cứu những điều bí ẩn của tạo hóa và tôi không truyền thụ kiến thức của tôi cho bất cứ người nào.
“Trong tất cả các vấn đề làm tôi say mê, những vấn đề lôi kéo sự chú ý của tôi nhiều hơn lại thiên về bản chất của đời sống. Tôi đã dò tìm một cách sâu xa nguyên lý của sự sống. Mục đích của y học là khu trừ tật bệnh khi nó xuất hiện: về phần tôi, tôi nghĩ rằng có thể phát minh ra một phương pháp để làm cho thân thể được khỏe mạnh, làm thế nào mà mọi sự suy yếu và ngay cả sự chết cũng không làm gì được nó. Chắc là không có ích lợi gì nếu tôi kể cho ông nghe tất cả các việc nghiên cứu của tôi. Nếu tôi mạo muội kể ra, ông cũng sẽ không thể hiểu được. Tôi đã theo đuổi những cuộc nghiên cứu này khi thì ở các loài vật, khi thì ở bọn nô lệ, khi thì ở ngay người tôi. Cũng cần nói với ông rằng kết quả những sự nghiên cứu ấy đã cho phép tôi tìm được một chất, mà một khi được trích vào máu, chất đó ban cho thân thể một sức mạnh khiến nó chống lại được các ảnh hưởng của thời gian, của bạo lực hay của bệnh tật. Chất đó không làm cho người ta thành bất tử nhưng quyền lực của nó bao gồm nhiều thiên niên kỷ. Tôi đã thí nghiệm nó vào một con mèo và sau đó tôi cho nó ăn một thứ thuốc độc có sức giết người mạnh nhất, hiện nay con mèo đó vẫn còn sống ở miền Hạ Ai Cập. Xin ông chớ nghĩ tà thuật. Đó chỉ là một phát minh về hóa học, việc này có thể được tìm lại một cách hoàn hảo.
“Lòng yêu đời rất mạnh ở một người tuổi trẻ. Khi đó hình như tôi đã thoát khỏi mọi nỗi ưu tư của con người vì tôi đã loại bỏ được sự đau đớn và đẩy lùi cái chết tới một kỳ hạn rất xa xôi. Với một tâm hồn thư thái, tôi đã trích cái chất đáng nguyền rủa vào các mạch máu của tôi. Rồi tôi đi tìm một người nào đó ở quanh tôi để cho họ được hưởng lợi ích trong sự phát minh của tôi. Một tu sĩ trẻ ở đền Thoth tên là Parme đã chiếm được lòng ưu ái của tôi hởi tính tình trang nghiêm và học vấn của anh ta. Tôi nói cho anh biết bí quyết của tôi; theo lời yêu cầu của anh, tôi đã chích cho anh thứ thuốc của tôi. Tôi nghĩ rằng như vậy là tôi sẽ có một người bạn cùng tuổi tác với tôi.
“Sau sự phát minh lớn đó, tôi có vẻ lơi là trong các công việc của tôi, nhưng Pamer thì vẫn theo đuổi công việc của anh ta với một nghị lực tăng gấp đôi. Hàng ngày tôi thấy anh loay hoay với các chai lọ của anh và lò cất lọc nước của anh trong đền Thoth nhưng anh không cho tôi biết về kết quả sự nghiên cứu của anh. Về phần tôi, tôi đi dạo trong thành phố và tôi nhìn quanh tôi với một vẻ đắc thắng trong khi tôi nghĩ rằng tất cả những gì mà tôi nhìn thấy đều sẽ phải qua đi, nhưng riêng tôi thì sẽ sống mãi. Các cư dân cúi đầu chào tôi khi họ gặp tôi, vì tiếng tăm về kiến thức của tôi đã lan rộng.
“Vào thời kỳ đó, một cuộc chiến tranh đã diễn ra và vị Đại Quốc Vương đã gởi quân lính ra biên giới phía đông để đánh đuổi quân Hyksos. Một viên thống đốc tới Abaris để trấn đóng thành phố của chúng tôi cho quốc vương. Tôi nghe người ta khoe khoang về nhan sắc tuyệt trần của cô ái nữ của vị thống đốc. Một ngày kia, trong khi đi đạo chơi với Parme, chúng tôi đã gặp cô đó được kiệu trên vai mấy tên nô lệ. Thật là một tiếng sét ái tình. Mới thoạt nhìn tôi đã yêu nàng. Trái tim tôi lịm đi. Một suýt nữa thì tôi đã quỵ xuống chân mấy người khiêng kiệu. Nàng là “vợ tôi”. Tôi không thể nào sống mà không có nàng: Tôi đã thề trước đấng Tối cao là nàng sẽ phải thuộc về tôi. Tôi đã thề điều này với vị tu sĩ thành Thoth. Anh ta đã ngoảnh mặt đi, vầng trán tối sầm lại, nom u ám như bầu trời lúc nửa đêm vậy.
“Tôi khỏi cần thuật lại với ông về những buổi đầu của mối tình chúng tôi. Nàng đã yêu tôi cũng như tôi yêu nàng. Tôi được biết là Parme cũng đã gặp nàng và đã tỏ cho nàng biết rằng anh ta cũng yêu nàng; nhưng tôi có thể mỉm cười về sự say mê đó vì tôi biết là nàng đã hiến trái tim nàng cho tôi.
“Bệnh dịch hạch phát sinh trong thành phố, nhiều người bị mắc bệnh, nhưng tôi đặt bàn tay tôi lên trán họ và tôi đã chữa khỏi bệnh cho họ không chút sợ hãi nào. Nàng thán phục sự ngổ ngáo của tôi. Lúc đó tôi thì thầm nói cho nàng nghe về bí quyết của tôi và tôi khẩn khoản xin nàng để cho tôi thi triển tài nghệ của tôi vào người nàng.
“Tôi nói với nàng:
- Em yêu! Hãy nghĩ rằng bông hoa của em sẽ không bao giờ tàn úa ! Mọi vật khác đều sẽ qua đi, nhưng em và anh, cũng như sự tương thân, tương ái nồng thắm của chúng ta sẽ sống lâu hơn ngôi mộ của vua Chéops.
“Nhưng nàng đưa ra lời phản đối rụt rè, đáng yêu để chống lại tôi.
- Như vậy có đúng không? - Nàng hỏi tôi. – Như thế có phải là cản trở ý muốn của các vị thần linh không? Nếu đấng Osiris cao cả muốn cho chúng ta sống lâu như vậy, tại sao ngài không tự chính mình ban chất nước thuốc này cho các chúng sinh?
“Với những lời tình tứ và âu yếm, cuối cùng tôi đã thắng được sự lo sợ của nàng. Tuy nhiên nàng vẫn còn ngần ngại. Đó là một vấn đề trọng đại! Nàng thở dài. Nàng suy nghĩ về việc này suốt cả đêm. Sáng dậy nàng cho tôi biết quyết định của nàng. Chắc chắn rằng một đêm không phải là quá lâu để cho ta suy nghĩ. Nàng muốn kêu thần Isis để xin ngài chỉ bảo.
“Trong lòng tràn đầy một điều buồn thảm, tôi bỏ mặc nàng lại với những tỳ nữ của nàng. Buổi sáng, sau khóa lễ đầu tiên, tôi vội vã đi tới nhà nàng. Một tên nô lệ đầy vẻ khiếp sợ chặn tôi lại trên bục thềm để nói với tôi rằng bà chủ của hắn bị bệnh, bệnh rất nặng. Tôi chạy xộc ngay vào phòng của nàng; nàng nằm trên giường, đầu tựa trên một cái gối, người rất xanh xao, mắt lờ đờ. Tôi nhận thấy một vệt đỏ trên trán nàng. Tôi biết cái dấu xưa cũ này của địa ngục, đó là cái thẹo của bệnh dịch hạch, một bản án của tử thần.
“Tại sao cứ nói tới thời kỳ khủng khiếp này? Trong nhiều tháng, tôi gần như phát điên cuồng; tôi bị sốt nóng lạnh, tôi mê sảng và tôi không thể chết được. Chưa bao giờ có một người Ả Rập sắp chết khát lại quằn quại đi tìm những cái giếng giống như tôi đã quằn quại đi tìm cái chết. Nếu thuốc độc hay lưỡi dao thép có thể cắt đứt mạch sống của tôi thì ngay tức thì tôi sẽ nối lại mối tình của tôi ở bên kia cánh cửa hẹp. Tôi đã làm thử uổng công. Cái ảnh hưởng đáng nguyền rủa của nước thuốc thật quá mạnh. Một tối nọ, khi tôi nằm lịm trên giường, người suy yếu và chán nản, thì Parme, vị tu sĩ đền Thoth, đi vào phòng tôi. Anh ta tiến vào vòng ánh sáng của ngọn đèn và nhìn tôi với những con mắt sáng rực vẻ vui mừng.
- Tại sao anh để cô thiếu nữ chết? - Anh ta hỏi tôi - Tại sao anh không tăng cường sức khỏe cho cô ta như là anh đã tăng cường sức khỏe cho chính tôi?
- Tôi tới muộn quá. Nhưng tôi không quên một điều gì. Anh cũng yêu nàng mà. Anh là người bạn đường trong sự bất hạnh của tôi. Nghĩ tới nhiều thế kỷ sẽ trôi qua trước lúc chúng ta gặp lại nàng chẳng phải là điều khủng khiếp à? Chúng ta thật đã điên rồ khi coi cái chết là một kẻ thù!
- Anh có quyền nói điều đó! - Anh ta kêu lên trong khi cười một cách man rợ. - Những lời này là tự nhiên trong miệng anh. Đối với tôi, chúng không còn một chút ý nghĩa nào.
- Anh muốn nói gì? - Tôi la lên trong khi chống khuỷu tay nhỏm dậy. - Anh bạn ơi, chắc chắn là sự buồn thương đã phá rối đầu óc anh rồi!
“Sự vui mừng rạng rỡ trên khắp mặt anh ta. Anh ta run rẩy, co dúm người lại như thể bị quỷ ám.
- Anh có biết rằng tôi đi đâu không? - Anh ta hỏi tôi
- Không. Tôi không biết gì về chuyện đó cả.
- Tôi đi gặp lại nàng. Nàng đã được ướp trong ngôi mộ xa xôi nhất, ở gần những cây cọ bên ngoài bức tường thành.
- Tại sao anh lại đi tới đó?
- Để chết! - Anh ta la lên. - Để chết! Tôi, tôi không bị giữ lại bởi những phiền lụy của trái đất.
- Nhưng anh có nước thuốc trong máu anh!
- Tôi có thể bất chấp nó và thắng được nó, - anh tuyên bố với tôi. - Tôi đã khám phá ra một nguyên tố mạnh hơn để triệt tiêu nó. Ngay trong lúc này nó đang hoạt động trong các mạch máu của tôi và trong một giờ đồng hồ tôi sẽ là một người chết. Tôi sẽ gặp lại nàng. Còn anh, anh sẽ ở lại một mình.
“Trong khi chăm chú nhìn anh ta, tôi hiểu rằng anh ta không nói dối tôi. Ánh sáng rối rắm trong cái nhìn của anh phát lộ rằng anh đã thoát khởi quyền lực của nước thuốc.
- Anh hãy dạy tôi nguyên tố của anh đi! – Tôi nói lớn.
- Không bao giờ!
- Tôi van anh hãy dạy tôi! Nhân danh sự khôn ngoan của Thoth, nhân danh sự cao cả của Anubis!
- Vô ích! - Anh ta lạnh lùng trả lời tôi.
- Vậy thì tôi sẽ khám phá ra nó!
- Anh sẽ không thành công đâu! Tôi đã khám phá ra nó nhờ sự tình cờ. Nó có một thành tố mà không bao giờ anh kiếm được. Ngoài cái thành tố nằm trong chiếc nhẫn của đền Thoth, không còn đâu có nữa.
- Trong cái nhẫn của đền Thoth! - Tôi nhắc lại. - Vậy cái nhẫn của đền Thoth ở đâu?
- Cả cái nhẫn ấy nữa, không bao giờ anh biết được nó. - Anh ta trả lời tôi. - Anh đã chiếm được trái tim nàng. Nhưng rút cục lại ai đã thắng? Tôi để anh ở lại với cuộc đời trần tục bẩn thỉu của anh. Những dây trói buộc tôi đã dứt rồi. Tôi phải đi thôi!
“Anh ta quay người đi và trốn khỏi phòng tôi.
“Sáng hôm sau, tôi được tin về cái chết của tu sĩ đền Thoth.
“Tôi dành những ngày sau đó để nghiên cứu. Tôi phải tìm được thứ thuốc độc tinh vi đủ mạnh để thắng được nước thuốc trường sinh. Từ sáng tinh mơ cho tới nửa đêm, tôi cặm cụi trên các ống thí nghiệm và lò lửa. Tôi đã thu thập các chỉ thảo và các chai lọ của tu sĩ đền Thoth. Than ôi, những thứ này chẳng dạy tôi được bao nhiêu! Có nhiều khi tôi tưởng là đã khám phá ra một chi tiết thiết yếu, nhưng rút lại chẳng có ích lợi gì. Tôi đã tìm tòi hết tháng này tới tháng khác. Khi tôi tuyệt vọng, tôi đi tới mộ nàng ở gần những cây cọ. Ở đó, đứng bên cỗ quan tài mà người ngọc đã bị cướp khỏi tay tôi, tôi cảm thấy sự hiện diện dịu dàng của nàng và tôi thề với nàng rằng một ngày kia tôi sẽ gặp lại nàng nếu có bộ óc thông minh của loài người có thể làm sáng tỏ điều kỳ bí.
“Parme nói rằng sự phát minh của anh ta liên quan tới chiếc nhẫn của đền Thoth. Tôi nhớ lại một cách mơ hồ về món trang sức bé nhỏ ấy. Đó là một cái vòng tròn lớn và nặng. Không phải làm bằng vàng, mà bằng một kim loại hiếm có hơn và nặng hơn, lấy về từ các mỏ tại núi Hartal. Đó là chất bạch kim, như các ông thường gọi tên cho nó. Tôi nhớ là chiếc nhẫn có nạm một miếng pha lê rỗng, bên trong miếng pha lê này có thể đã được giấu một vài chất lỏng. Tôi tin chắc rằng bí quyết của Parme không dính gì tới một mình thứ kim loại đó, vì ngôi đền có đầy rẫy những đồ vật bằng bạch kim. Có lẽ đúng là anh ta đã giấu chất thuốc độc quý giá đó trong lỗ hổng của miếng pha lê. Khi tôi vừa mới đi tới kết luận đó thì bằng cách tìm hiểu rõ ý nghĩa một trong các giấy tờ của anh ta, tôi khám phá ra rằng tôi đã có lý và chỉ còn một ít chất lỏng trong miếng pha lê của chiếc nhẫn đền Thoth.
“Nhưng làm thế nào tìm thấy chiếc nhẫn đó? Parme không mang nó trong mình khi anh ta được lột bỏ quần áo để ướp xác: tôi biết rất chắc chắn về điều này. Nó cũng không có ở trong các tư trang của anh ta. Tôi đã tốn công lục lọi tất cả mọi căn phòng mà anh ta đã đi lại, tất cả các hộp đựng đồ, tất cả các chai lọ, tất cả các đồ vật của riêng anh. Tôi đã xem xét tỉ mỉ cát tại sa mạc ở những nơi mà anh ta thường tự dạo chơi. Nhưng chiếc nhẫn đền Thoth vẫn không tài nào tìm thấy. Có lẽ nỗi vất vả và những sự nghiên cứu của tôi cuối cùng sẽ thắng được các trở ngại nếu một tai họa mới không xảy ra.
“Chiến tranh đã được phát động chống lại người Hyksos, nhưng các đạo quân của Đại Quốc Vương đã bị đánh tan tành trong sa mạc. Những bộ lạc du mục xông vào chúng tôi như đàn cào cào trong những năm hạn hán. Trong khắp nước ban ngày thì máu chảy, ban đêm thì những đám cháy hoàn hành. Abaris là thành lũy của nước Ai Cập, nhưng chúng tôi đã không thể đẩy lui bọn man rợ. Thành phố bị thất thủ. Viên thống đốc và các binh sĩ đều bị chặt đầu. Tôi cùng với nhiều người khác bị bắt mang đi.
“Trong bao nhiêu năm dài dằng dặc tôi đã chăn cừu trong những đồng bằng lớn ở gần sông Euphrate. Ông chủ của tôi chết, con trai của ông cũng trở nên già lão, nhưng lúc nào tôi cũng ở xa cái chết như vậy. Sau cùng tôi đã trốn đi được trên một con lạc đà chạy nhanh và tôi trở về Ai Cập. Người Hyksos định cư trong nước mà chúng đã chinh phục được, vị vua của chúng tri vì nước Ai Cập. Abaris đã bị san bằng, thành phố bị cháy rụi và các ngôi đền lớn lao chỉ còn lại một mô đất mà người ta khó lòng nhận ra. Khắp mọi nơi, các ngôi mộ đều bị đào bới và các đền đài đều bị phá hủy. Không còn một vết tích nào về ngôi mộ của nàng tiên của tôi. Mộ được chôn trong bãi cát của sa mạc; những cây cọ để làm dấu cho nơi đó đã biến dạng. Những giấy tờ của Parme và những di vật của ngôi đền Thoth vương vãi rải rác trong các sa mạc của Syrie. Đi tìm kiếm chúng thật cũng uổng công.
“Bắt đầu từ lúc đó, tôi từ bỏ hy vọng một ngày nào đó tìm thấy chiếc nhẫn và khám phá ra liều thuốc tinh vi. Tôi đành phải sống một cách kiên nhẫn mà tôi có thể chịu đựng được, chờ đợi cái ngày mà hiệu lực của nước thuốc tan đi. Làm sao mà ông có thể hiểu được cái tội ác của thời gian, ông là người chỉ biết có một khoảng cách thu hẹp đi từ cái nôi trẻ nít tới nấm mồ! Tôi đã biết được tội ác của thời gian với cái giá mà tôi phải trả bằng cách trôi nổi trên dòng lịch sử. Tôi đã già khi thành Ilion thất thủ. Khi Hérodote tới Memphis thì tôi đã rất già. Khi Tân Thánh kinh xuất hiện trên trái đất thì tôi đã mệt mỏi vì những năm tháng chồng chất. Tuy nhiên, tới ngày nay ông vẫn còn thấy tôi giống như nhiều người khác. Thứ nước thuốc đáng nguyền rủa đó đã bảo vệ tôi chống lại điều mà tôi đã hết lòng mong mỏi. Bây giờ thì, rút lại, tôi đã tới kỳ hạn!
“Tôi đã chu du khắp thiền hạ; tôi dã cư ngụ với tất cả mọi dân tộc trên trái đất. Tôi nói được đủ mọi ngôn ngữ. Tôi học các ngôn ngữ đó để giết thì giờ. Tôi không cần nói rằng những năm tháng đi chậm chạp làm sao, kể từ buổi bình minh dài dặc của nền văn minh cận đại, những năm tháng khủng khiếp thời trung cổ, những thời gian đen tối thuở man rợ. Tất cả những điều này bây giờ đều ở đằng sau tôi. Tôi đã không bao giờ nhìn một người đàn bà khác với lòng thương mến. Nàng tiên của tôi biết rằng tôi vẫn chung thủy với nàng.
“Tôi có thói quen hay đọc tất cả những gì các nhà bác học công bố về Ai Cập cổ đại. Tôi biết tất cả mọi hoàn cảnh: khi thì thoải mái dễ chịu, khi thì khốn khổ, nhưng bao giờ tôi cũng có đủ tiền để mua các báo bàn về đề tài này. Chín tháng trước đây, ở San Francisco tôi được đọc một báo cáo về một vài khám phá thực hiện trong miền Abaris. Suýt nữa thì tim tôi ngừng đập. Bài báo nói rằng chuyên viên về các cuộc đào bới đã dò tìm những ngôi mộ vừa mới phát hiện. Trong một trong những ngôi mộ này, ông ấy đã tìm thấy xác ướp còn nguyên vẹn với một tấm bia xác định rằng đây là xác người con gái của viên thống đốc thành phố vào thời Tuthmoris. Bài báo thêm rằng khi mở quan tài ra, nhà bác học đã tìm thấy một cái nhẫn lớn bằng bạch kim có nhận một miếng pha lê đặt trên mình người đàn bà được ướp. Đó đúng là nơi mà Parme đã cất giấu chiếc nhẫn của đền Thoth! Đúng thật anh ta đã có lý khi nói rằng không bao giờ tôi tìm thấy chiếc nhẫn đó, vì không có người Ai Cập nào lại đi làm vẩn đục linh hồn mình bằng cách đào bới mồ mả của một người bạn đã được vùi sâu chôn chặt.
“Ngay chiều hôm đó tôi rời khỏi San Francisco; một vài tuần lễ sau đó tôi đã ở Abaris, nhìn nhận rằng một vài đống cát và đá cũng xứng đáng để mang tên cái thành phố phồn thịnh này. Tôi vội vàng chạy tới chỗ những người Pháp là những người thực hiện các vụ đào bới này và tôi hỏi họ xem chiếc nhẫn để ở đâu. Họ trả lời tôi rằng xác ướp và cái nhẫn đã được gởi tới viện bảo tàng Boulak ở Le Caire. Tôi đi tới Le Caire, tại đó tôi được biết rằng Mariette Boy đòi quyền sở hữu các thứ đó và đã đưa chúng xuống tàu chở về viện bảo tàng Louvre. Tôi đuổi theo chúng. Sau cùng, trong căn phòng cổ vật Ai Cập, sau một thời kỳ ngăn cách bốn ngàn năm, tôi đã tới bên di thể của nàng tiên của tôi và bên chiếc nhẫn mà tôi đã tìm kiếm bấy lâu.
“Nhưng làm cách nào để đoạt lại những thứ đó? Làm cách nào đem về với chúng tôi? Tình cờ một chân bảo vệ bị bỏ trống. Tôi tìm gặp ông giám đốc. Tôi nói cho ông tin rằng tôi biết rất nhiều về các vấn đề thuộc Ai Cập. Trong lúc nôn nóng tôi đã nói quá nhiều về những vấn đề này. Ông ta bảo tôi rằng có lẽ một chức giáo sư sẽ thích hợp với tôi hơn là một chân gác cửa. Tôi biết nhiều việc hơn ông ấy. Chỉ với sự vụng về quá sức, bằng cách làm cho ông ấy tin rằng ông ấy đã đánh giá quá cao các khả năng của tôi, tôi mới xin được phép ở trong căn phòng này với vài thứ tư trang của tôi. Đây là đêm đầu tiên và cũng là đêm cuối cùng của tôi ở đây.
“Đó là câu chuyện của tôi, ông Vansta Smith ạ. Tôi sẽ không nói nhiều hơn với một người có sự tinh tế như ông. Nhờ một sự trùng hợp kỳ lạ của hoàn cảnh mà đêm hôm nay ông đã thấy khuôn mặt của người đàn bà mà tôi đã yêu vào cái thời quá xa xưa ấy. Tủ kính chứa đựng rất nhiều nhẫn với những miếng pha lê nạm ở mặt và tôi phải thử chất bạch kim để thấy rằng chất lỏng quả thực nằm trong cái nhẫn này và cuối cùng tôi sẽ có thể giải thoát tôi khỏi cái sức khỏe đáng nguyền rủa đó thêm nữa. Tôi cảm thấy đã được giải thoát. Ông có thể kể lại câu chuyện của tôi hay giữ bí mật nó tùy thích ở ý ông. Tôi mắc nợ ông sự bồi thường này, vì đêm nay ông đã chỉ còn cách chết có trong gang tấc. Đúng ra tôi đã phải làm bất cứ một điều gì để khỏi bị cản trở. Nếu tôi đã thấy ông khi tôi đi tới, thì tôi tin rằng tôi đã phải làm cho ông mất hết khả năng làm hại tôi hoặc lên tiếng báo động, hoặc chống lại ý định của tôi. Đây là cửa ra vào. Nó mở ra phố Rivoli. Thôi chào ông”.
Trên hè phố, người Anh quay nhìn lại. Trong một vài giây, cái bóng mảnh khảnh của người Ai Cập hiện rõ trên ngưỡng cửa hẹp. Rồi cánh cửa đóng sập lại và tiếng chốt cửa ken két vang lên trong sự yên lặng của ban đêm.
Sáng hôm sau nữa, sau ngày ông trở về London, ông John Vansta Smith đã đọc một bài báo ngắn rõ ràng của thông tín viên báo Times ở Paris gởi về:
“Tin vặt kỳ lạ tại viện bảo tàng Louvre. Sáng hôm qua, một sự kiện kỳ lạ đã xảy ra trong căn phòng chính về Đông Phương. Những công nhân phụ trách việc lau chùi các phòng và đã tìm thấy một trong những người bảo vệ nằm chết ở đó; hai tay anh ra ôm choàng lấy một cái xác ướp với một vòng tay xiết quá chặt khiến người ta phải hết sức vất vả mới tách rời họ ra khỏi nhau. Một tủ kính đựng những nhẫn và cà rá loại có giá trị đã bị mở ra. Nhà chức trách nghĩ rằng anh bảo vệ đang bê cái xác ướp đi với ý định bán nó cho một nhà sưu tập tư nhân nào đó; nhưng anh ta bị chết bất thần vì bệnh đau tim mà anh ta mắc phải từ lâu. Đó là một người đàn ông với một tuổi tác khó đoán và anh ta có những thói quen dị thường, anh ta không để lại một người nào để thương khóc cái kết cục bi thảm và chẳng hợp thời của anh.”
________Hết_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 14:12:43 | Xem tất
12. Hang Blue John

Câu chuyện được kể ra dưới đây đã được tìm thấy trong những giấy tờ của bác sỹ Jaines Hardcastle, người đã chết vì bệnh lao phổi ngày 4 tháng 2 năm 1908 tại số 36 ở khu nhà Upper Country South Kesington. Những bè bạn thân thiết của ông đã không chịu bày tỏ một ý kiến nào về sự giao dịch có tính cách đặc biệt giữa ông và họ, nhưng họ đã nhất trí nói rằng người bạn quá cố ấy có một tinh thần khoa học và điềm đạm, ông không có vẻ gì là một người giàu trí tưởng tượng và không thể bịa đặt những chuyện ly kì ra ngoài sự bình thường. Tập truyện được để trong một phong bì bên ngoài có hàng chữ như sau: “Bản lược thuật những sự cố đã xảy ra tại vùng lân cận trang trại của cô Allerton, ở Derbyshire miền tây bắc vào mùa xuân năm trước”. Phong bì có dấu niêm kín. Ở mặt sau có những dòng chữ bằng bút chì.
“Bạn Seaton thân mến,
“Chắc chắn bạn sẽ thấy thích thú, có lẽ đôi chút sợ hãi, là sự hoài nghi của bạn khi tiếp nhận câu chuyện của tôi, đã làm tôi không dám nói tới vấn đề này. Do đó tôi để tài liệu này trong các giấy tờ của tôi, sau khi tôi chết rồi không chừng những người xa lạ sẽ bày tỏ sự tin tưởng về tôi còn hơn là bạn của tôi?
Những sự sưu tra được thực hiện để tìm ra nhân vật Seaton đó đều vô hiệu. Tôi xin phép được nói thêm rằng thời gian cư ngụ của người quá cố tại trang trại Allerton cũng như sự mô tả đại cương về các tình huống (tôi không nói tới sự giải thích của ông về vụ này) đã được kiểm chứng rõ ràng. Tôi xin ngưng lời mào đầu ở đây để ghi lại câu chuyện đúng như nó đã được phát hiện.

17 tháng tư – Tôi đã cảm thấy ngay sự bổ ích mà không khí kỳ diệu của vùng cao nguyên mang lại cho tôi. Trang trại nhà Allerton tọa lạc ở độ cao năm trăm thước bên trên mặt biển do đó khí hậu rất lành mạnh. Ngoài những cơn ho thường lệ vào buổi sáng, tôi không cảm thấy một điều gì khó chịu cả. Với sữa tươi và thịt cừu trong vùng, có thể là tôi sẽ lên cân. Tôi tin rằng Sauderson sẽ hài lòng.
Hai cô con gái nhà Allerton đều có vẻ độc đáo và đáng yêu một cách quý phái; cả hai cô đều là gái lớn tuổi, cùng nhỏ bé, nhưng cần mẫn như nhau, họ sẵn sàng dành cho một người bện xa lạ tất cả tấm lòng mà họ có thể hiến dâng cho người thân yêu của họ. Đúng thật, các cô gái già là những người rất hữu ích! Đó là một trong những sức mạnh mà xã hội gìn giữ để dự phòng... nguời ta hay có thiện kiến coi các cô gái già như những người đàn bà vô dụng nhưng nếu không có sự giúp đỡ tận tâm của họ thì một gã đàn ông khốn khổ vô dụng sẽ làm được việc gì? Trở lại câu chuyện, các cô rất mau chóng để lộ ra qua thái độ giản dị cái lý do mà Saunderson đã giới thiệu tôi tới nhà họ. Vị giáo sư là người tự lập thân, hồi trai trẻ đã làm thuê cho các trang trại ở quanh vùng này.
Nơi đây rất hẻo lánh; những cuộc dạo chơi không thiếu gì cảnh đẹp. Trang trại có những đồng cở nằm sâu trong một thung lung lũng lởm chởm đá. Ở hai bên đường có những quả đồi đá vôi kỳ ảo; những tảng đá ở đó rất mềm đến nỗi ta có thể dùng tay bóp vỡ chúng.
Tất cả vùng quê này đều có vẻ như trống rỗng. Nếu tôi có thể đập vào nó bằng một cái búa khổng lồ, chắc nó sẽ vọng lên như một cái trống, nếu nó không tan vụn ra và để lộ một cái biển ngầm dưới mặt đất. Đúng, chắc chắn phải có một cái biển ngầm lớn, vì ở khắp mọi phía đều có những con suối uốn khúc quanh sườn núi, rồi biến mất trong lòng đất, không bao giờ xuất hiện lại nữa. Ở khắp mọi nơi giữa các tảng đá đều có những hang động. Nếu đi vào đó, người ta sẽ vào trong những hang động lớn xuyến sâu vào tận lòng trái đất với vô số khúc quanh. Tôi có một cái đèn nhỏ; và với tôi đó là một sự vui thú lớn khi mang nó theo trong những nơi hoang vắng kỳ bí này và được ngắm nhìn các hiệu ứng của màu đen và màu trắng khi chiếu ánh đèn lên những nhũ đá che phủ các khung vòm cao khi tắt đèn đi; ta đang đứng trong những màn đêm tối tăm nhất. Đốt đèn lên đó là một cảnh tiên trong truyện ngàn lẻ một đêm.
Một trong các hang động kỳ quái này làm tôi đặc biệt quan tâm vì nó là một tác phẩm của con người chớ không phải là của tạo hóa. Trước khi đặt chân đến nơi này, chưa bao giờ tôi nghe thấy người ta nói tới Blue John. Đây là một cái thên đặt cho một thứ kim loại có màu tía rực rỡ, mà người ta chỉ tìm thấy ở hai hoặc ba vùng trên thể giới. Nó quý hiếm đến nỗi một cái bình tầm thường bằng Blue John cũng có giá rất đắt. Với bản năng kỳ lạ của họ, người La mã đã tìm ra kim loại đó trong thung lũng này và họ đã đào một cái hầm xuyên ngang rất sâu trên sườn núi. Cái hầm mỏ của họ được đặt tên là hang Blue John: một vòm cầu đục vào vách núi dùng làm lối ra vào; những bụi cây rậm đã phủ kín miệng hang. Những thợ mỏ La mã đã khoét một hành lang đẹp đẽ chạy xuyên qua những hang động lớn đã bị nước xói mòn đến nỗi nến người nào đi sâu vào hang Blue John, thì tốt hơn hết là nên đánh dấu các tiêu điểm và phải mang theo rất nhiều nến; bằng không sẽ có sự rủi ro rất lớn là có thể không bao giờ còn lại nhìn thấy ánh sáng mặt trời nữa. Tôi chưa dám mạo hiểm; nhưng hôm nay tôi dừng lại ở lối vào của cửa vòm, và đưa mắt nhìn kỹ vào các ngõ ngách tối tăm mà tôi thấy lờ mờ ở phía trong. Tôi tự hứa hẹn rằng ngay sau khi bình phục, tôi sẽ dành những ngày nghỉ để thám hiểm những bí ẩn dưới mặt đất để xem những người La mã đã vào tới độ sâu bao nhiêu trong các ngọn đồi ở Derbyshire này.
Những người dân quê dị đoan quá chừng! Tuy vậy chàng thanh niên Armitage đã gây cho tôi một ấn tượng tuyệt vời! Anh ta có nghị lực và có học vấn; tôi đã đặt anh ta cao hơn vị trí xa hội thực sự của anh ta. Và trong khi tôi dừng bước trước hang Blue John, thì anh ta đi qua đồng cỏ đến nơi và nói với tôi.
- Chào bác sỹ, ông không sợ à, ít ra ông cũng biết sợ chứ?
- Sợ à? Và tôi sợ cái gì cơ chứ?
- Sợ nó đó, anh ấy trả lời tôi và lấy ngón tay cái chỉ vào cái vòm đen sì. Sợ con quái vật sống trong hang động Blue John đó!
Sự dễ tin khiến các chuyện hoang đường được loan truyền trong một vùng hẻo lánh thật không thể ngờ được! Tôi hỏi anh ta về nguồn gốc của sự xác quyết ấy. Hình như ai cũng biết rằng thỉnh thoảng có những con cừu đã mất tích trong đồng cỏ. Armitage quả quyết rằng chúng đã bị bắt đi. Anh ta nhất định không chịu tin là chúng đã bỏ đi lang thang, và bị lạc trong núi. Một lần người ta đã tìm thấy một vũng máu và một vài búi lông. Nhưng tới đó người ta vẫn phải chấp nhận một lối giải thích khá tự nhiên. Hơn nữa, nhũng con cừu mất tích chỉ vào những đêm không có trăng, trời tối đen như mực; tôi phản đối, ai cũng biết rằng một tên ăn trộm bắt gà bắt vịt tầm thường cũng thích chọn những đêm tối mịt để hành nghề nữa là, một lần khác, một lỗ hổng đã được khoét ở một bức tường, và những hòn đã đã bị khuân đi bỏ vương vãi tại một khoảng cách khá xa; theo ý tôi thì đây là công việc của một hay nhiều người. Cuối cùng, Armitage đã tóm tắt tất cả lập luận của anh ta bằng cách kể lại cho tôi nghe rằng anh ta đã nghe rõ ràng tiếng con quái vật và bất cứ ai cũng có thể nghe tiếng của nó, với điều kiện là phải đứng rình khá lâu ở gần hang. Đó là một tiếng gầm xa xôi, với một sức mạnh khủng khiếp. Tôi chỉ có thể mỉm cười vì tôi biết những tiếng vòng kỳ dị phát ra bởi luồng nước ngầm dưới mặt đất chảy quanh co trong các hang sâu đước kết tạo bằng đá vôi. Thái độ không tin của tôi làm Armitage bực bội, và anh ta đã từ giã tôi một cách hơi vội vã.
Nhưng đây là một việc kinh dị nhất trong chuyện này. Tôi vẫn đứng yên ở lối vào hang, và tôi đang ngẫm nghĩ tới tất cả những lời giải thích mà các sự kiện do Armitage kể lại có thể chấp nhận được thì bỗng nhiên từ đáy sâu của hang dội lên một tiếng động hết sức kỳ quái. Biết mô tả nó ra sao đây? Trước hết, nó có vẻ như vọng tới từ một nơi rất xa, phát ra ngay trong ruột của quả đất. Hai là, mặc dù sự xa xôi đó, chắc chắn là rất mạnh. Sau hết, đây không phải là tiếng nổ ầm ầm, cũng không phải tiếng khối băng tan tức khắc gây ra một thác nước hay sự sụp lở các tảng đá; đó là một thứ tiếng rên rỉ chói tai, rung đông, ngâm nga, giống như tiếng hí của một con ngựa. Không còn chối cãi được nữa, tôi thấy mình đang đứng trước một điều gì hết sức đặc biệt, và tôi phải đặt một ý nghĩa mới vào những lời nói của Armitage. Tôi đợi trong một nửa giờ trước cửa hang Blue John, nhưng tôi không nghe thấy gì nữa; do đó tôi quay về trang trại, lòng rất băn khoăn vì sự việc xảy ra. Tôi quyết định sẽ thám hiểm cái hang này khi đã phục hồi sức khỏe! Chắc chắn là sự giải thích của Armitage quá mơ hồ, không đáng bàn luận; nhưng nó cũng không ngăn cản được sự thật là tiếng động kia rất quái dị. Nó vẫn còn vọng trong tai tôi khi tôi viết những dòng này.
20 tháng tư- Trong ba ngày vừa qua, tôi đã thực hiện vài chuyến dạo chơi chung quanh hang Blue John, tôi đã đi vào cả phía bên trong, nhưng không vào quá xa vì cái đèn của tôi không được sáng lắm. Tôi muốn tiến hành một cuộc thăm dò kỹ lưỡng. Tôi không nghe thấy một tiếng động nào giống như tiếng mà tôi tình cờ nghe thấy hôm nọ, đến nỗi tôi phải tự hỏi rằng có phải tôi đã là nạn nhân của bệnh ảo giác có lẽ được gây ra bởi buổi nói chuyện với Armitage? Chắc chắn là ý nghĩ của anh ta không đứng vững được! Tuy nhiên tôi phải nhìn nhận rằng các bụi cây một phần nào lấp kín cửa hang có vẻ như đã bị rẽ ra và bị dẫm nát bởi một con vật to lớn. Tôi bắt đầu thích thú. Tôi không hé một lời với các tiểu thư nhà Allerton: các cô gái đã quá dị đoan rồi! Nhưng tôi mua những cây nến và đơn độc một mình mở cuộc điều tra.
Sáng hôm nay, tôi nhận thấy trong số rất nhiều búi lông cừu rải rác trên các bụi cây ở gần cái hang có một búi nhuốm máu. Tất nhiên là lý trí của tôi bảo tôi rằng nếu những con cừu mạo hiểm vào những nơi thế này, chúng rất dễ bị thương tích vì các tảng đá gồ ghề. Tuy nhiên, khi nhìn thấy những vết máu đỏ thẫm này, tôi run lên và kinh hoàng lùi lại, một luồng hơi hôi thối hình như bốc lên từ những khoảng sâu tăm tối mà tôi cố căng mắt thăm dò một lần nữa. Thật sự có thể có một con vật không có tên, khủng khiếp ẩn nấp trong đó không? Vào lúc hoàn toàn mạnh khỏe, chắc hẳn tôi không thể nào có được loại cảm giác này, nhưng khi ta bị yếu kém về sức khỏe, ta trở nên nhút nhát hơn và óc tưởng tượng gây ra sự quái dị.
Lúc đó, quyết tâm của tôi yếu đi và tôi cảm thấy sẵn sàng từ bỏ việc thám hiểm cái hầm mỏ cũ, và nhìn nhận rằng cái hầm mỏ đó có một điều bí mật. Nhưng chiều hôm nay tôi lấy lại sự hăng hái, những dây thần kinh của tôi đã bình tĩnh lại. Tôi hy vọng là ngày mai tôi sẽ đi sâu hơn vào vấn đề này.
22 tháng tư – Tôi phải dùng cách viết ra giấy để kể lại chính xác tối đa cuộc mạo hiểm ly kỳ của tôi ngày hôm qua. Tôi đã khởi hành vào buổi chiều và đi tới hang Blue John. Tôi xin thú thật rằng những điều linh cảm của tôi lại hiện ra; khi thăm dò những chỗ sâu thẳm của cái hang, đúng ra tôi nên phải có một người bạn đồng hành trong cuộc thám hiểm. Nhưng tôi đã lấy lại sư can đảm, tôi thắp nến lên, vượt qua hàng rào cản của những bụi cây và đi vào bên trong hang.
Trong khoảng chừng hai mươi thước, hang hơi dốc thoai thoải; mặt đất phủ đầy những đá vụn. Tiếp theo là một lối đi dài chạy theo chiều ngang được khoét vào đá kiên cố. Tôi không phải là nhà địa chất học nhưng chắc chắn là cái vòm cong phia bên trong đã được cấu tạo bằng một chất cứng hơn đá vôi; đó đây, ở một vài chỗ, tôi còn nhìn rõ thấy dấu vết của những dụng cụ do những thợ mỏ thời xưa bỏ lại khi họ đào cái hầm này, các dấu vết còn rất rõ ràng và nguyên vẹn như mới có ngày hôm qua, tôi đi chập choạng từng bước một trong cái hành lang cổ xưa như trái đất; ngọn lửa yếu ớt của cây nến chỉ tỏa ra một vòng ánh sáng mập mờ quanh tôi, vào nó còn làm cho bóng tối đen đặc hơn, đáng sợ hơn. Cuối cùng, tôi đi tới một chỗ mà cái hành lang của người La mã đưa tới một cái hang rộng mênh mông do bị xói mòn, với những nhũ đá vôi tích tụ lại trông như cây nến dài. Từ căn phong trung tâm này, tôi nhận ra một cách mơ hồ rằng có nhiều hành lang do các suối ngầm tạo ra đã ăn sâu vào trong lòng trái đất. Tôi lưỡng lự: tôi nên quay trở lại hay cứ liều mạng bước tới trong cái mê cung hiểm nghèo này? Bỗng nhiên tôi cảm thấy dưới chân có một điều gì khác thường.
Một phần lớn mặt đất trong hang được phủ những cục đá hay những tảng vôi. Nhưng ngay ở chỗ tôi đứng, cái vòm rất cao có nước nhỏ xuống làm thành một lớp bùn nhão. Và ở giữa lớp bùn này, tôi phát hiện ra một vết hằn sâu có bề mặt khá lớn; một vết hằn trong một vũng bùn hình thể không rõ ràng, sâu, rộng không đều đặn như kiểu một tảng đá lớn đã rơi xuống nơi này. Nhưng không có một tảng đá nào nằm quanh nơi này và tôi cũng không trông thấy điều gì có thể cho tôi biết về nguyên ủy của vết hằn. Nó rộng qua không thể do một con vật nào gây ra được; hơn nữa, nó là một vết duy nhất, cái vũng bùn không thể bằng một bước mà vượt qua được. Sau khi xem xét kỹ càng, tôi quay ra tìm hiểu bóng tối đen đặc vây quanh tôi, và tôi phải thú thật là trong một vài khoảnh khắc tim tôi đã đập nhanh hơn, và mặc dù tôi đã cố gắng giữ, cây nến vẫn cứ run lên trong bàn tay tôi.
Sau đó, tôi lấy lại ngay can đảm, trong khi nghĩ ngợi rằng vết hằn này, cú theo hình dạng và tầm cỡ phi thường của nó, không thuộc về một con vật quen thuộc nào; ngay cả nó cũng quá lớn để cho là do một con voi đã gây ra. Do đó tôi quyết định là những nỗi lo sợ vu vơ không thể ngăn cản được việc tiếp tục cuộc thám hiểm của tôi. Trước khi đi vào xa hơn, tôi đã thận trọng ghi nhận một gờ đã được hình thành một cách kỳ lạ trên vách đá, gờ đá này sẽ giúp tôi nhận ra cửa vào của cái hành lang của người La mã. Đây là sự thận trọng cần thiết, vì cái hang lớn là giao điểm của rất nhiều hành lang. Sau khi đã ấn định các tiêu điểm, tôi kiểm soát lại số nến và diêm mang theo, và khi đã vững bụng, tôi thong thả tiếp tục tiến bước trên bề mặt gồ ghề lởm chởm đá của cái hang.
Và bây giờ thì tôi gặp một trở ngại làm tôi vất vả, một con suối rộng chừng năm hay sáu thước chảy ngang qua đường đi của tôi; thoạt đầu tôi đi dọc theo nó trong ít lâu để cố tìm ra một chỗ đi qua nó mà không phải lội. Cuối cùng tôi đã nhìn thấy một tảng đá phẳng làm thành một chỗ cạn mà tôi có thể nhảy một bước là tới. Nhưng tảng đá đứng gập ghềnh trong dòng nước chảy đã nghiêng đi khi tôi đặt chân lên và tôi đã ngã xuống nước lạnh như băng. Cây nến tắt ngúm; tôi phải mò mẫm, bì bõm trong khoảng tối tăm mù mịt.
Tôi đã đứng lên được, lòng thấy vui thích hơn là hoảng sợ vì sự rủi ro này. Cây nến đã tuột khỏi tay và bị nước suối cuốn đi. Nhưng tôi còn hai cây khác trong túi áo. Sự cố không có gì quan trong cả. Tuy nhiên, tới lúc tôi muốn châm cây nến thứ hai tôi mới cảm thấy hết sự khó khăn của hoàn cảnh này. Bao diêm đã ướt sũng sau khi tôi ngã xuống nước. Không thể đánh một que diêm nào ra lửa.
Tôi có cảm giác như có một bàn tay bằng đá đề nặng lên trái tim tôi. Bóng tối đục mờ một cách khủng khiếp. Với sự cố gắng lớn lao, tôi tự trấn tĩnh và pháchọa lại trong ý nghĩ hình thể mặt đất của cái hang như tôi vừa nhìn thấy. Hỡi ôi, các tiêu điểm mà tôi có trong đầu lại ở khá cao trên các vách đá và tôi không thể tìm ra chúng bằng cách lấy tay sờ soạng. Tôi nhớ khá rõ ràng vị trí các vách của hành lang; do đó tôi hy vọng là bằng cách lần mò tôi cũng sẽ tới được lối vào hành lang của người La mã. Tôi bắt đầu cất bước di chuyển rất chậm chạp, luôn luôn va vào các vách đá.
Tôi đã mau lẹ hiểu rằng cách thức này sẽ chẳng lợi ích gì. Trong bóng tối dày đặc của màn đêm, tôi đã mất hết mọi ý niệm về phương hướng. Sau khi đi chừng mười bước, tôi không còn biết mình đang ở chỗ nào. Tiếng nước vỗ ì oạp là âm thanh duy nhất tôi nghe thấy, nó chỉ rõ cho tôi biết con suối chảy nơi nào, nhưng từ lúc rời khỏi bờ suối tôi đã bị lạc đường. Tôi phải từ bỏ việc tìm đường trong bóng tối dày đặc.
Tôi ngồi trên một tảng đá lớn và ngẫm nghĩ về cảnh ngộ nguy nan này. Không có ai biết về dự định cuộc thám hiểm của tôi, do đó có rất ít cơ hội để có một toán cứu hộ mạo hiểm vào trong hang Blue John. Tôi chỉ còn trông cậy vào khả năng của chính mình.
Khi tôi bị ngã xuống nước, chỉ có một nửa người tôi bị ướt thôi. Bên vai phải của tôi nằm trên mức nước nên vẫn khô. Tôi cầm lấy bao diêm và tôi đặt nó vào nách bên trái. Tác động của không khí ẩm ướt trong hang có thể đựợc hóa giải bằng hơi nóng thân thể tôi. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, tôi cũng vẫn không có ánh sáng trong vài giờ đồng hồ. Tôi chỉ còn cách là phải đợi.
May mắn là tôi đã nhét mấy cái bánh bích quy vào túi trước khi rời khỏi trang trại. Tôi nhai ngấu nghiến chúng bằng cách làm cho chúng ẩm đi với một ngụm cái thứ nước chết toi nàym vốn là nguyên nhân của tất cả mọi khốn khổ của tôi. Rồi tôi tìm ra một chỗ ngồi thoải mái hơn tỏng số các tảng đá. Sau khi lầnmò một lúc, tôi đã tìm thấy một chỗ mà tôi có thể dựa lưng vào. Tôi ngồi xuống và duỗi chân ra. Bị ướt đẫm và lạnh cứng người, tôi cố tự trấn an bằng cách nghĩ rằng khoa học hiện đại đã quy định cho căn bệnh của tôi những cửa mở bao gồm những cuộc tản bộ trong mọi thời tiết. Được ru ngủ bằng tiếng rù rì buồn tẻ của con suối, bị mệt lử vì màn đêm đen đặc, tôi đã đắm chìm vào một giấc ngủ đầy lo âu sợ hãi.
Tôi đã ngủ bao lâu rồi? Tôi không biêt gì cả. Có lẽ là một giờ, có lẽ là nhiều giờ. Bỗng nhiên tôi ngồi nhỏm dậy, thần kinh căng thẳng và các giác quan tỉnh táo. Không còn nghi ngờ gì nữa, tôi đã nghe thấy một tiếng động. Một tiếng động hoàn toàn khác hẳn tiếng rù rì của nước. Tiếng động đã ngừng, nhưng tôi vẫn còn thấy âm vang trong tai tôi. Có phải đó là một toán cứu hộ không? Chắc hẳn là họ đã gọi lên; nhưng cái tiếng mà tôi vừa nghe, dù rất mơ hồ, không phát ra từ con người. Tim tôi đập thình thịch, tôi không dám thở mạnh... Lại tiếng động đó! Và lại nó nữa! Và lúc này nó trở nên liên tiếp. Có tiếng chân bước. Đúng, chắc chắn là tiếng chân bước của một sinh vật! Nhưng tiếng bước chân kỳ dị làm sao! Nghe tiếng bước chân này, tôi có cảm tưởng là một khối lượng đồ sộ được chống đỡ bằng những bàn chân xốp nhẹ nên sự di chuyển chỉ phát ra một tiếng động tắc nghẹn. Trong bóng tối mịt mùng, tiếng bước chân vẫn đều đặn rõ ràng. Và chắc chắn là nó đang hướng về phía tôi.
Tôi thấy rợn tóc gáy, toàn thân tôi lạnh như băng. Vậy là có một con quái vật sống trong cái hang động lắm ngõ ngách này? Với sự mau lẹ trong bước đi của nó, chắc chắn là nó nhìn thấy trong đêm tối cũng rõ như lúc ban ngày. Tôi ngồi co rúm lại trên tảng đá. Tôi muốn làm cách nào chui sâu vào trong tảng đá. Những bước chân đi tới gần. Tôi nghe thấy chúng dừng lại. Rồi tôi đoán phỏng chừng rằng con vật dừng lại để uống nước trong suối. Rồi sự yên lặng trở lại, nó chỉ bị ngắt quãng bởi những tiếng khụt khịt và tiếng thở phì phò khủng khiếp. Con quái vật có ngửi thấy tôi không? Lỗ mũi tôi đã bắt đầu ngửi thấy một mùi nặng nề hôi thối độc hại. Những bước chân lại vang lên trong bóng tối, lần này thì ở mạn bờ suối mà tôi đang ngồi. Cách chỗ tôi vài thước, những hòn đá lăn đi, bị nghiền vỡ và kêu lách cách. Không dám thở mạnh nữa, tôi cố thu nhỏ thân mình lại được chừng nào hay chừng ấy. Rồi những bước chân xa dần. Tôi nghe thấy những tiếng ì oạp lớn của nước khi con vật lội qua suối, sau đó những bước chân im bặt trong khoảng xa ở hướng mà chúng đã vọng lên.
(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 14:13:36 | Xem tất
12. Hang Blue John (tiếp)

Tôi đã ngồi rất lâu trên tảng đá, bị kinh hoàng đến nỗi không nhúc nhích được. Tôi nghĩ tới tiếng động phát ra từ những hố thẳm của cái hang, tới sự sợ hãi của Armitage, tới vết hằn trong vũng bùn. Sau hết, tôi đã có chứng cớ hẳn hoi là có một con quái vật ngoài sức tưởng tượng sống trong hang, nó không giống bất cứ một con vật nào mà ta biết trên mặt đất; và nó ẩn náu trong lòng núi. Nói về tính chất hay hình dạng của nó, tôi không thể hình dung được nó thế nào; tôi chỉ biết rằng con vật khổng lồ này có những bước chân nhẹ nhàng. Giữa lý trí và các giác quan của tôi đã có một cuộc đấu tranh. Lý trí của tôi nói rằng, những con quái vật loại này không thể có trên đời và các giác quan của tôi lại nói rằng những con vật đó có thật hòan toàn. Rút cục lại, tôi cảm thấy sẵn sàng chấp nhận rằng chuyến mạo hiểm này chỉ là một cơn ác mộng và cho rằng tình trạng bệnh hoạn của tôi có thể gây ra một ảo giác. Nhưng một sự cố sau cùng đã sớm xua tan ngay khỏi tâm trí tôi mọi khả năng nghi ngờ.
Tôi lấy những que diêm trong nách ra, sờ tay vào thấy chúng đã khô hẳn. Tôi cúi xuống chỗ khe hở giữa các tảng đá và bật thử một que. Trước nỗi vui mừng của tôi, nó đã bật thành lửa ngay nhát quẹt thứ nhất. Tôi đốt một cây nến, không khỏi nhìn về sau lòng đầy kinh hãi, tôi vội vàng bước về phía hành lang của người La mã. Trên đường đi, tôi đứng lặng người đi, không phải chỉ có một vết thôi, mà những ba vết. Ba vết lõm giống nhau, cùng một kích cỡ khủng khiếp, cùng một đường nét không rõ ràng, cùng một chiều sâu chứng tỏ cái khối nặng đã tạo ra chúng. Một sự kinh hoàng khó tả tràn ngâp lòng tôi. Cúi gập người xuống, lấy bàn tay che cây nến, tôi chạy thẳng đến bậc thềm cửa hang Blue John. Mệt đứt hơi, tôi nằm vật xuống đám cỏ tươi, dưới ánh sáng thân thương của những ngôi sao. Khi tôi về tới trang trại thì đã ba giờ sáng. Hôm nay, tôi vẫn còn run rẩy toàn thân. Tôi không nói gì cả. Tôi phải xử sự một cách dũng cảm. Nếu tôi kể lại cuộc mạo hiểm của tôi cho những người đàn bà yếu đuối cô đơn hay cho những người nông dân quê mùa thì có trời mới biết được là họ sẽ phản ứng ra sao? Tôi chỉ nói với người nào có thể hiểu được tôi thôi.
25 tháng tư – trong hai ngày liền tôi đã không rời khỏi giường nằm, một cuộc mạo hiểm không thể tin được. Tôi dùng tính từ này là có dụng ý. Từ sau chuyến đi thám hiểm hang Blue John tôi đã trải qua một kinh nghiệm cũng khiến cho tôi hoang mang gần như việc phát hiện ra con quái vật vậy. Tôi đã nói là tôi sẽ tim quanh quẩn nơi đây, một người nào có thể hiểu được tôi và giúp đỡ ý kiến cho tôi. Có một ông bác sĩ đang hành nghề cách đây vài cây số tên là Mark Johnson, và giáo sư Saunderson đã giới thiệu tôi với ông. Khi cảm thẩy đủ khỏe khoắn để thực hiện một chuyến đi bằng xe hơi, tôi liền tới nhà ông và kể cho ông nghe tất cả câu chuyện của tôi. Ông đã nghe tôi nói với sự chăm chú đặc biệt. Sau đó ông đã khám bệnh hết sức kỹ càng cho tôi, nhưng chỉ đưa cho tôi tấm danh thiếp của một ông Picton nào đó ở Castlenton, khuyên tôi nên tới gặp ông đó ngay tức thì, và bảo tôi hãy thuật lại chính xác những sự việc mà tôi vừa mô tả xong. Theo ý ông bác sĩ này thì ông Picton mới thực sự là người mà tôi cần tới. Thế là tôi đi theo hướng nhà ga và đi xe lửa tới cái thành phố nhỏ cách xa chừng mười lăm cây số. Chắc là ông Picton phải có một địa vị rất quan trọng, vì tấm biển đồng của ông ấy được gắn trên cái của một tòa nhà lớn ở ngoại ô thành phố. Tôi đang sắp bấm chuông thì một linh cảm đã ngăn bàn tay tôi lại. Tôi đi sang bên kia đường, và hỏi thăm một người bán hàng. Tôi hỏi ông ta: “Ông có thể vui lòng cho tôi biết ông Picton là ai không ạ?” – “Được chứ! Đó là một bác sĩ tâm thần hay nhất ở Derbyshire, và ông ấy trông coi cái nhà thương điên mà ông nhìn thấy kia kìa”, người bán hàng trả lời tôi. Chắc ai cũng đoán được là tôi đã vội vàng rời khỏi Castleton như thế nào. Tôi quay về trang trại, dọc đường không khỏi chửi thầm những gã bụng đầy chữ nghĩa nhưng thiếu óc tưởng tượng, không thể quan niệm được trong thiên nhiên một thứ gì khác ngoại những vật mà chính họ nhìn thấy bằng cặp mắt thiển cận của họ. Dù sao lúc này tôi cũng đã bình tĩnh hơn, tôi nhận thấy là bác sĩ Johnson đã không dành cho tôi một niềm tin lớn hơn niềm tin mà tôi đã dành cho Armitage.
27 tháng tư – Khi còn là một sinh viên tôi đã nổi tiếng là can đảm và liều lĩnh. Tôi nhớ trong một lần đi rình ma ở Coltbridge, chính tôi đã tự ý ở lại trong cái nhà có ma. Có phải tại vì tôi đã có tuổi (tuy nhiên tôi mới có 35 tuổi) hay vì tôi bị đau ốm khiến cho các đức tính thuở xưa bị cùn nhụt? Nói tóm lại, chỉ nguyên việc nghĩ tới cái hang khủng khiếp ở trong núi và khi tôi tự nhủ rằng cái hang đó có một con quái vật là tim tôi đã ngừng đập rồi. Tôi sẽ làm gì đây? Không một giờ phút nào mà tôi không tự đặt ra câu hỏi này. Nếu tôi không nói gì thì sự bí ẩn cứ còn nằm nguyên đó. Nhưng nếu tôi nói ra thì tôi sẽ bị đặt trước hai khả năng, một là người ta sẽ cho tôi là một thằng điên và người ta sẽ nhốt tôi lại, hai là tôi sẽ làm cho cả vùng quê kinh động. Nói tóm lại, tôi nghĩ tốt hơn hết là tôi hãy chờ đợi, và chuẩn bị một chuyến thám hiểm có chuẩn bị kỹ hơn và cũng hữu hiệu hơn lần trước. Những việc thu xếp đầu tiên đã đưa tôi tới Castleton, tôi mua sắm những vật dụng cần thiết: một cái đèn khí đá tốt và một khẩu súng săn hai nòng lớn. Tôi đã thuê khẩu súng này, nhưng đã mua hơn một chục viên đạn để săn thú lớn, những viên đạn này bắn chết được cả tê giác. Bây giờ tôi cảm thấy đã sẵn sàng để đương đầu với anh bạn quái vật trong hang sâu. Nếu tôi có sức khoẻ tốt hơn và nếu tôi có một sự đột khởi về nghị lực, chắc tôi sẽ mau chóng kết thúc được vụ này. Nhưng vụ này liên quan tới ai, hay tới cái gì đây? À, đây là một vấn đề làm tôi không ngủ được. Bao nhiêu là giả thuyết đã hiện ra trong đầu tôi và tôi đã gạt đi hết cái này tới cái nọ. Tất cả đều không thể xảy ra được! Nhưng cái tiếng kêu, cái vết hằn lõm những bước chân trong hang, tôi buộc lòng phảI nhìn nhận chúng là những sự thật. Tôi nghĩ tới những con rồng trong huyền thoại cổ xưa. Phải chăng, những con quái vật đó tồn tại ở những nơi khác bên ngoài truyện thần tiên? Có thể nào mà tôi, một người trong giữa muôn người, lại được số mệnh định cho việc phát hiện ra sự sinh tồn có thực của chúng?
3 tháng năm – Tôi nằm ỳ trên giường trong nhiều ngày vì những biến chuyển thất thường của mùa xuân ở nước Anh, và trong thời gian đó một vài sự cố đã xảy ra; ngoài tôi ra không ai có thể cảm nhận được bản chất thật sự của nó. Tôi xin nói thêm rằng, chúng tôi đã có những đêm đầy mây mù và không có trăng; và theo điều người ta nói với tôi thì trong những đêm ấy, những con cừu đã biến mất dạng. Đúng thế, những con cừu đã hoàn toàn biến dạng. Hai con thuộc về chị em nhà Allerton, một con là của ông già Pearson, và một con khác là của bà Mourton. Bốn con trong ba đêm. Chúng không để lại một dấu vết nào cũng không nơi nào người ta thấy những gã bụi đời và những tên ăn trôm gia súc. Nhưng còn việc quan trọng hơn nữa – Anh thanh niên Armitage cũng mất tích luôn. Khoảng chập tối hôm thứ tư, anh ta rời khỏi nhà ở ngoài cánh đồng và từ đó không ai nghe thấy nói tới anh ta nữa. Vì đó là một người không có họ hàng thân thích nên sự mất tích của anh ta chỉ khơi lên một nỗi xúc động vừa phải. Những kẻ lắm chuyện thì nói rằng anh ta mắc nợ, đã kiếm được việc làm ở nơi khác và sẽ mau chóng cho biết tin về mình, dù là chỉ để thu nhặt những thứ còn bỏ lại trong ngôi nhà cũ. Nhưng tôi thì lại có những linh cảm khác đáng sợ hơn. Rất có thể là sự mất tích của những con cừu đã thúc đẩy anh ta lao mình vào một cuộc mạo hiểm gây ra sự mất tích của anh ta. Chẳng hạn như anh ta đã rình con quái vật và nó đã bắt được anh ta, lôi anh ta tới một xó xỉnh hóc hiểm trong đáy sâu của dãy núi thì sao? Thật là một số phận không thể tưởng tượng được cho một người dân văn minh của nước Anh ở thể kỷ hai mươi này! Không thể tưởng tượng đựoc nhưng tôi thì đoán rằng nó có thể xảy ra và ngay cả nó đã là một sự thật, trong vụ này chỉ có một điều là tôi phải chịu trách nhiệm đến bao nhiêu về cái chết của anh ta? Tôi sẽ chịu trách nhiệm đến mức độ nào về sự bất hạnh khác có thể sắp xảy ra? Tôi không được phép nghi ngờ nữa; ý thức được những điều mình đã biết, tôi không thể lảng tránh; bổn phận của tôi là phải tự đảm bảo với mình rằng phải làm một điều gì đó và nếu cần thì chính bản thân tôi sẽ làm việc này được rồi. Tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Sáng hôm nay tôi tới Ty cảnh sát để thuật lại câu chuyện của tôi. Viên thanh tra đã ghi chép vào một quyển sổ lớn, ông ta đã chào tôi một cách vô cùng trịnh trọng; nhưng ngay sau khi tôi khép cửa lại thì tôi đã nghe thấy những tiếng cười lớn. Chắc hẳn ông ta đã chế nhạo sự ngây thơ của tôi. Tôi sẽ tự xoay sở một mình vậy.
10 tháng sáu – Tôi viết tiếp cuốn nhật ký này trên giường nằm, sau sáu tuần ngưng viết. Tôi đã bị một cú sốc khủng khiếp cả về tinh thần lẫn thể xác, sau một cuộc mạo hiểm mà người ta rất hiếm khi phải trải qua. Nhưng ít nhất tôi cũng đã đạt tới mục đích mà tôi tự đặt ra cho mình. Sự hiểm nguy phát sinh từ con quái vật ở hang Blue John đã được loại trừ vĩnh viễn. Đây là một việc mà tôi, một kẻ tật bệnh sắp hết hơi, đã hoàn thành cho xã hội. Tôi xin thuật lại một cách hết sức rành mạch những điều đã xảy ra.
Hôm thứ sáu., mồng 3 tháng năm, đêm tối như mực. Đây là một đêm lý tưởng cho sự xuất hiện của con quái vật. Vào lúc mười một giờ đêm, tôi rời khỏi trang trại, mang theo cái đèn khí đá và khẩu súng, sau khi để lại trên bàn trong phòng một mảnh giấy ghi lại là nếu sự vắng mặt của tôi kéo dài thì phải tìm tôi ở hang Blue John. Tôi đi tới lối vào của cửa vòm kiểu La mã. Tôi khôm mình trên một tảng đá dốc nghiêng chỗ lối vào, tôi tắt đèn đi và ngồi rình, khẩu súng đã nạp đạn cầm sẵn trong tay.
Một phiên gác buồn nẫu ruột! Trên các sườn đồi, tôi nhận ra những ánh đèn của các trang trại rải rác ở đó đây. Chuông của giáo đường Chapel – le – Dale điểm từng giờ một cách yếu ớt. Những biểu hiện sự có mặt ở xa xôi của các đồng bào của tôi chỉ làm tăng thêm cảm giác cô đơn thay vì thúc ép tôi phải khắc phục nỗi kinh hoàng làm cho tôi muốn quay về trang trại và dứt khoát từ bỏ việc này. Nhưng mỗ người chúng ta đều có lòng tự trọng nằm sâu trong tâm khảm, lòng tự trọng này chống lại việc bỏ dở một công cuộc vừa mới bắt đầu. Cảm nhận về lòng kiêu hãnh cá nhân đã giúp đỡ tôi rất nhiều, chỉ nhờ vào một mình nó mà tôi đứng vững được trong khi tất cả mọi bản năng của tôi đều xui tôi bỏ trốn. Lúc này tôi rất sung sướng đã có được sức mạnh ấy. Bất kể những gì nó bắt tôi phải trả, phẩm cách người của tôi đã không có gì để phải xấu hổ.
Chuông đã điểm nửa đêm. Rồi một giờ. Hai giờ. Đây là lúc tối nhất của một đêm. Những đám mấy thấp bay bên trên mặt đất. Trên trời không có một ngôi sao. Ở một nơi nào đó trên các ghềnh đá, một con cú rúc lên, tiếng thở dài êm dịu cách quãng của gió là tiếng động duy nhất mà tai tôi thu nhận được, rồi thì bỗng nhiên tôi nghe thấy nó! Từ đằng xa, ở phía dưới, trong cái hang vang lên tiếng chân như bị tắc nghẹn của con vật, bước chân vừa nhẹ nhàng vừa nặng nề. Tôi cũng nghe thấy tiếng những hòn đá lăn đi khi con quái vật dẫm chân lên. Những bước chân đã tới gần. Con vật đã tiến tới rất gần chỗ tôi. Tôi nghe thấy tiếng các bụi cây kêu lắc rắc khi bị con vật rẽ ra và làm gãy nát chung quanh lối vào; rồi một cách lờ mờ trong bóng tối tôi nhận ra một khốI đồ sộ một loại thú không ra hình dạng gì, kỳ quái, từ trong hang chui ra một cách mau lẹ và yên lặng. Sự sợ hãi và kinh hoàng làm tê kiệt cả người tôi. Tuy là tôi đã ngồi rình rất lâu, nhưng đứng trước con quái vật, tôi trở thành bất động, không còn chút sức lực nào. Con vật cứ tiến tới, nó đi qua gần sát chỗ tôi và nó đã biến mất trong màn đêm. Tôi chuẩn bị hết can đảm để đợi lúc nó trở về. Trong làng quê đang ngon giấc ngủ, không một tiếng động nào phát lộ sự hiện diện của nó. Tôi không tài nào ước tính được khoảng cách mà nó đang đứng hay đoán được nó đang làm gì, hay tính được giờ phút nó trở về hang. Nhưng tôi đã thề là cân não của tôi sẽ không chùn lại lần thứ hai tôi đặt khẩu súng đã nạp đạn lên trên các tảng đá.
Thế mà suýt nữa tôi đã để dịp may qua khỏ. Tôi đã hoàn toàn không nghe thấy tiếng con vật đi qua đồng cỏ. Bốn nhiên tôi nhận ra thân hình đò sộ của nó đáng đi về phía cửa hang. Một sự suy giảm lần nữa về ý chí đã ngăn cản tôi bóp cò súng, tôi phảI cố gắng hết sức mình đề động đậy ngón tay trỏ. Trong khi các bụi cây đang bị dập nát bởI bước chân của con vật (nó đã lẫn lộn với bóng tối của lỗ hang) thì tôi nổ súng. Dưới tia sáng loè của phát súng, tôi nhìn thấy một khối lớn có lông dài rậm rạp, màu xám của lông chuyển thành màu trắng ở phần bên dưới thân mình nóm phần này tận cùng bằng những cái chân cong queo, to lớn. Tôi chỉ nhìn thấy nó trong khoảng khắc một ánh chớp. Rồi nghe thấy tiếng những hòn đá lăn lộc cộc, con quái vật rút lui vào trong hang ổ của nó. Ngay tức thì, bởi một sự chuyển biến phấn khởi trong tâm trạng, tôi gạt bỏ được hết nỗi sợ sệt, gỡ tấm che chiếc đèn khí đá ra, tôi nhảy ra khỏi tảng đá và khẩu súng lăm lăm trong tay, tôi tiến sâu vào hành lang của người La mã, đuổi theo con quái vật.
Cái đèn khí đá chiếu ra trước mặt tôi một tia sáng mạnh không thể so sánh một chút nào với ánh lửa vàng lập loè của cây nến đã dẫn đường cho tôi mười hai ngày trước đây trong cùng một vòm cong này. Trong khi tôi chạy, tôi nhìn thấy con quái vật đang lảo đảo trốn tránh; cái thân mình đồ sộ của nó choán hết chỗ trống giữa các vách đá, lông nó giống như dây gai thô và rủ suống từng búi lớn xoắn vào nhau và đung đưa theo mỗi bước chân; ta có thể nói là bộ lông không bị cắt xén của một con cừu khổng lồ, nhưng rõ ràng là nó lớn như một con voi và nó có vẻ vừa to vừa cao. Tôi vẫn còn sững sờ khi tôi nghĩ rằng tôi đã dám săn đuổi một con quái vật như thế này vào tận lòng trái đất; nhưng khi máu đã nóng lên và khi con mồi đang tìm cách tẩu thoát thì cái bản năng cố hữu của người thợ săn đã trỗi dậy và xin chào giã biệt sự khôn ngoan! Thề là với khẩu súng trong tay, tôi chồm theo con quái vật với hết cả tốc độ của đôi chân.
Tôi nhận thấy nó nhanh nhẹn dị thường. Nhưng rồi tôi cũng nhận thấy một cách băng khoăn lo ngại là nó không kém phần quỷ quyệt. Tôi tưởng là nó chạy trồn vì bị kinh hoàng và bây giờ tôi chỉ việc đuổi theo thôi. Không một giây phút nào mà tôi không nghĩ là nó có thể quay lại và lao vào tôi. Ở đoạn trên, tôi đã nói rõ là cái hành lang của ngườI La mã dẫn tới một cái hang lớn chính giữa. Tôi vội vã chạy tới đó, đầu óc bị lởn vởn nỗi lo sợ làm mất dấu vết con quái vật. Nhưng con quái vật đã quay lại, và tôi với nó đứng đối mặt nhau.
Cảnh tượng này được soi sáng một cách mãnh liệt bởi ngọn đèn khí đá, nó sẽ còn mãi mãi khắc sâu trong ký ức của tôi. Con quái vật đứng thẳng lên bằng hai chân sau như một con gấu và nó khom xuống phía trên đầu tôi, to lớn và đầy đe dọa; không một ác mộng nào có thể hình dung được nó. Tôi đã nói là nó khom xuống như một con gấu, thật sự trong dáng vẻ của nó cũng có một vài nét của con gấu (khi ta chấp nhận rằng có thể có một loại gấu mười lần lớn hơn một con gấu thường), trong những cái bàn chân trước quắp lại với những cái móng trắng như ngà của nó, trong bộ lông bù xù trong cái mõm đỏ há hốc ra lởm chởm những cái răng gớm ghê. Chỉ có một điểm làm nó khác với con gấu hay bất kể một con vật nào sống trên mặt đất, khi phát hiên ra điều này, tôi run rẩy khắp tứ chi, cặp mắt long lanh trước ánh đèn của tôi là những cục tròn lớn, lồi ra, trắng bệch và không có thị giác. Trong một vài giây, nó lắc lư những bàn chân to lớn của nó trên đầu tôi. Rồi ngã về phía trước đè lên người tôi, cả tôi và cái đèn đều bị đè gí trên mặt đất và tôi không còn nhớ được gì nữa.
Khi tôi tỉnh lại thì thấy mình đang ỏ trong trang trại của gia đình Allerton. Hai ngày đã trôi qua kể từ cuộc mạo hiểm khủng khiếp của tôi trong hang Blue John. Hình như tôi đã nằm bất tỉnh suốt đêm trong cái hang, sau vụ chấn thương với những chỗ gãy nguy hiểm ở cánh tay trái và hai cái xương sườn. Sáng ra, hai chị em nhà Allerton phát hiện ra mảnh giấy của tôi, độ hơn một chục tá điền đã họp nhau lại, lần theo dấu vết của tôi và tôi đã được đưa về phòng mình trong cơn mê sảng dữ dội. Họ không tìm thấy một vết tích nào chứng tỏ sự hiện diện của con quái vật, họ không tìm thấy vết máu chứng tỏ rằng viên đạn của tôi đã bắn xuyên qua mình nó. Ngoài các thương tích của tôi và những hằn sâu trên vũng bùn, không có gì chứng minh cho những lời nói của tôi.
Sáu tuần lễ đã trôi qua, và tôi đã có thể đi ra bên ngoài ngồi phơi nắng. Ngay trước mặt tôi là một cái sườn đồi màu xám xịt, và tôi phân biệt được cái khe hở đen làm dấu cho miệng hang Blue John. Nhưng lỗ hang này không còn là nguồn gốc sự kinh hoàng nữa. Không bao giờ còn con quái vật từ cái hành lang gơm ghiếc này xông ra thế giới của con người, nhưng đầu óc trí thức, những nhà bác học, bac sĩ Johnson và rất nhiều người khác chắc sẽ mỉm cười khi đọc bài tường thuật của tôi. Nhưng các dân quê vùng lân cận không bao giờ nghi ngờ sự thật của câu chuyện này. Sau khi tôi có thể nói được một ngày, họ đã tụ tập vài trăm người chung quanh hang Blue John. Tôi đọc tờ báo Castleton Courier.
“Đặc phái viên của chúng tôi và các vị có nhiệt tâm tới từ Matloc Buxton, v.v…, đã hoài công tự hứa là sẽ đi xuống cái hang để thám hiểm đến nơi đến chốn, với ý định là kiểm chứng sự xác thực của câu chuyện giật gân của bác sỹ James Hardcastle. Những người trong khu vực đã đảm đương vụ này và ngay từ lúc sáng tinh mơ họ đã làm việc một cách cực nhọc để lấp kín cái hang Blue John. Cái hang chạy vào một hành lang dốc và những hòn đá lớn được một số đông người tình nguyện chở tới đã được quăng vào bên trong cho tới khi miệng hang bị bít kín. Đó là chương cuốI cùng của câu chuyện đã làm say mê cả nước. Dư luận ở địa phương vẫn còn bị chia rẽ kịch liệt. Ở một bên thì có nhiều người nêu lên tình trạng sức khoẻ yếu kém của bác sỹ Hardcastle và họ nói rằng, các vết thương trong não bộ có nguồn gốc từ bện lao đã có thể sinh ra những ảo giác kỳ quái, cũng theo các giới chức này, một ý tưởng mạnh mẽ đã có thể dẫn dắt vị bác sỹ đi vào trong hang, và chỉ một cái ngã mạnh cũng thành nguyên nhân các vết thương của ông. Về phía bên kia thì cái truyền thuyết về con quái vật sống trong hang đã được lan truyền rất lâu trước khi bác sĩ Hardcastle tới vùng này, những tá điền cho rằng truyền thuyết này được làm vững thêm bởi câu chuyện của vị bác sĩ cũng như bởi các vết thương của ông, Sự việc này sẽ còn nguyên ở chỗ đó, vì người ta không biết làm thế nào để có một giải pháp dứt khoát vào lúc này.
Trước khi bài báo này được ấn hành, lẽ ra tờ báo ấy phải khôn ngoan một chút để gởi thông tín viên của họ tới gặp tôi. Tôi đã suy nghĩ về vụ này nhiều hơn bất cứ ai khác, và không nghi ngờ gì lẽ ra tôi đã có thể làm sáng tỏ một cách có khoa học sự bí mật vẫn còn tồn tại trong dân chúng. Ở đây, tôi chỉ đưa ra lời giải thích duy nhất mà tôi thấy là có thể làm sáng tỏ được tất cả mọi việc. Giả thuyết của tôi có thể có vẻ không xảy ra được dù sao thì cũng không có ai lại liều lĩnh mà cho rằng nó không thể xảy ra.
Tôi tin rằng (và tờ báo cũng vạch ra rằng quan điểm của tôi đã được hình thành từ trước lúc khởi sự các cuộc mạo hiểm cá nhân của tôi) trong phần đất này của nước Anh có một cái biển ngầm tiếp nhận nước từ vô số những con suối chảy lòng vòng và biến dạng trong núi đá vôi nơi nào có khối dự trữ mưốc quan trọng thì cũng sinh ra sự nước bốc thành hơi, và có sương mù hay mưa; do đó có khả năng sinh ra cây cỏ. Lập luận này lại gợi ý rằng một đời sống động vật có thể phát sinh theo kiểu đời sống thực vật, những dòng giống và những chủng loại xuất hiện lúc khởi đầu lịch sử thế giới, khi sự giao tiếp với không khí bên ngoài còn dễ dàng hơn. Do đó ở nơi này, những động vật và thực vật đặc biệt đã phát sinh, bao gồm cả những quái vật mà tôi đã nhìn thấy: có thể là một con gấu già ở các hang động đã đượclàm to hơn và biến đổi hình dạng rất nhiều vì môi trường mới của nó. Trong những khoảng thời gian dài vô tận, hai loại sinh vật, một loại ở bên trong và một loại ở bên ngoài đã sống riêng biệt sinh trưởng một cách đều đặn ở cách xa nhau. Rồi một khu vực nào đó đá xuất hiện trong đáy sâu thẳm của núi, khe nứt này đã để cho một trong số các con quái vật đó leo lên phía mặt đất, và nhờ vào các đường hầm của người La mã thở hít được không khí trong lành. Giống như tất cả các loài sinh vật sống bên dưới mặt đất, con quái vật cũng mất thị giác, nhưng sự tật nguyền này chắc chắn đã nhận được của tạo hóa những đền bù ở các phương diện khác. Nhất định là nó đã có một phương tiện để định hướng đi và để săn bắt những con cừu trên các sườn núi. Còn về cái sở thích của nó đối với các đêm tối mịt, thì giả thuyết của tôi cho rằng ánh sáng đã làm cho nó rất đau đớn và con quái vật chỉ thích hợp với một thế giới tối đen như mực. Có lẽ cái đèn khí đá của tôi đã cứu sông tôi khi tôi và nó đứng đối mặt nhau. Đây là cách thức mà tôi giải bài toán hiểm hóc. Tôi trao lại các sự kiện này cho hậu thế; nếu bạn có thể giải thích được các sự kiện này, xin đừng bỏ qua chúng; nếu bạn nhún vai cũng không sao. Cả sự hoài nghi lẫn sự tán thành của bạn đều chẳng thay đổi được các sự việc và càng không thể gây ảnh hưởng tới một người mà sứ mệnh trên cõi đất này đã sắp chấm dứt.
Đó là câu chuyện ly kỳ của bác sĩ James Hardcestle.
________Hết_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 14:14:44 | Xem tất
13. Cái tháng máy

Ông phi đội trưởng Stangate đã có đủ mọi thứ để trở thành một người sung sướng. Ông đã ra khỏi cuộc chiến tranh yên lành và khỏe mạnh, với cái danh tiếng vững bàn đạt được trong một binh chủng có nhiều vị anh hung nhất. Ông vừa mới được ba mươi tuổi, một sự nghiệp lớn lao và hoàn mỹ đang mở ra trước mắt ông. Và nhất là mỹ nhân Mary MacLean đang đi vịn vào cánh tay ông và nàng đã hứa với ông rằng suốt cả đời này sẽ ở bên cánh tay đó. Tuy nhiên, một mối lo buồn đang đè nặng lên trái tim ông.
Ông đã không thể tự giải thích điều đó cho ông, và ông đã cố gắng tìm cách lý giải để rũ bỏ nó đi. Bên trên đầu ông, bầu trời xanh thẳm, cũng như mặt biển phía trước ông xanh thẳm, và khắp chung quanh trải ra những những khu vuờn đẹp đẽ cùng với một đám đông những khách nhà du hân hoan vui thú. Và nhất là bộ mặt dịu hiền đang quay về phía ôngvới một sự khẩnkhoản đầy vẻ thắc mắc, Tại sao ông không thể tham gia vào một cảnh quanvui tươi như thế? Ông đã đưa ra nhiều cố gắng nhưng chúng vẫn chưa đỉ để dụ hoặc cái bản năng cấp táo của một tình nương.
- Có việc gì vậy, Tom? Nàng hỏi ông với sự bồn chồn lo lắng. Em nhận thấy có điều gì làm anh buồn bã. Hãy nói cho em biết xem em có thể giúp đỡ anh bằng cách nào đó chăng.
Ông bật cười lớn, đôi chút mắc cỡ.
- Thật là một tội lỗi khi làm hỏng cuôc du ngoạn nhỏ của chúng ta đó! Ông nói. Khi anh nghĩ tới điều này, anh lại muốn tự đánh đòn mình. Em cớ lo sợ, em cưng ạ, vì anh biết những đám mây mù của anh sẽ tan đi trong chốc lát. Anh tìn rằng anh còn đầy đủ khí lực, hình như nghề phi hành đã bẻ gẫy mọi khí lực hoặc đã bảo đảm cho chúng ta đến suốt đời.
- Vậy là không có gì là dứt khoát à?
- Không. Không có gì là dứt khoát cả. đó chính là điều tệ hại. Nếu điều này là đúng, anh sẽ có thể chiến đấu một cách dễ dàng hơn. Đúng là một sự trầm cảm nặng nề ở đây, ở trong ngực và ở trong đầu. Em yêu của anh, anh xin lỗi nhé! Anh là một kẻ thô bạo đã làm em u buồn với những sự ngu ngốc như vậy
- Nhưng em lại muốn được chia sẻsự bực bội nhỏ bé nhất của anh mà!
- Này, nó đã đi khỏim biến mất tàn lụi rồi. Chúng ta không nên nói tới nó nữa.
Nàng ném cho ông một cái nhìn thấu tận tim gan.
- Không, Tom, chỉ cần nhìn vào anh thôi. Hãy nói với em đi, có phải anh thường tự cảm thấy như vậy không? Thật sự anh không có vẻ khỏe mạnh lắm. Anh hãy ngồi xuống đây, anh yêu quí, dưới bong mát và nói cho em biết anh lo buồn về chuyện gì.
Họ cùng ngồi xuống dưới bóng của cây Tháp lớn cao hai trăm mét ở bên cạnh họ.
- Anh có một năng khiếu kỳ cục, ông nói. Anh không nghĩ rằng anh đã nói điều này với bất kỳ một ai. Nhưng khi một sự hiểm nguy tức thì đe dọa anh thì anh bị bao vây bởi những linh cảm kỳ lạ. Chắc chắn là hôm nay, thật kỳ cục. Em hãy nhìn kìa, cái gốc cây thật hiền hòa… Tuy nhiên đây là lần thứ nhất mà sự bực bội này đưa anh tới chỗ nhầm lẫn
- Anh đã cảm nhận thấy nó lúc nào trước đây à?
- Khi anh còn là đứa trẻ con, anh đã cảm thấy nó vào một buổi sáng: suýt nữa anh bị chết đuối vào buổi chiều. Anh đã cảm thấy nó khi một tên trộn lẻn vào Morton Hall và khi cái áo dài của anh bị một viên đạn xuyên qua. Rồi trong cuộc chiến tranh anh đã cảm thấy nó hai lần trước khi bị tập kích thình lình và đã thoát nạn một cách thần kỳ; nó đã nhập vào anh trong lúc anh đang leo lên máy bay của anh. Rồi nó tan biến một cách đột ngột, tựa như một đám sương mù trước ánh nắng mặt trời. Em này, nó đi đó, nó đá đi khỏi rồi! hãy nhìn vào anh! Có thật vậy không?
Đúng thật vậy. Trong vòng một phút, bộ mặt bơ phờ đã biến thành bộmặt trẻ con cười toe toét. Mary bật cười lớn. Rõ ràng là trong tâm hồn của Tom nay chỉ còn sự hoan lác sinh động của tuổi thanh xuân.
- Tạ ơn thựong đế! Ông kêu lên. Mary này, chính là đôi mắt than thương của em đã chữa khỏi bệnh cho anh. Anh không còn có thể chịu dược sự u buồn sầu mông trong cai nhìn của em. Thật là một cơn ác mộng xuẩn ngốc là sao! Bây giờ thì anh sẽ không bao giờ còn tin vào những sự linh cảm của anh nữa. Em yêu quý, chúng ta chỉ còn vừa đủ thì giờ để đi dạo một vòng trước bữa điểm tâm. Chúng ta sẽ đi xem một trò vui trong chợ phiên hay đi xem quay bánh xe lớn hay trên tàu thủy bay, hay xem gì đây?
- Anh nghĩ thế nào về cái Tháp? Nàng hỏi trong khi ngẩng cái mũi xinh đẹp lên. Cái không khí tuyệt diệu ở đó và cái toàn cảnh từ trên cao nhìn xuống chắc chắn sẽ xua đuổi những đám mây cuối cùng ra khỏi tâm trí anh.
Ông nhìn đồng hồ của ông.
- Đã quá trưa rồi nhưng anh nghĩ là chúng ta có thể làm việc đó trong một giờ đồng hồ. Này thang máy không vận hành. Anh bán vé, chuyện gì xảy ra vậy?
Người nhân viên lắc đầu gtrong khi chỉ vào một toán nhỏ đang tập hợp trước lối vào.
- Họ đang đợi, thưa ông. Thang máy bị hỏng, nhưng lúc này thì bộ phận máy móc đang được kiểm tra lại và tín hiệu sẽ được phát ra trong một vài phút. Nếu ông nhập bọn với những người khác, tôi xin hứa việc đó sẽ không lâu đâu.
Khi họ vừa chiếm được chỗ đứng trong nhóm người thì cái vách thép của thang máy lướt đi trên cái cạnh. Thế là đã có hy vọng cho tương lai gần cận. Các du khách ùa vào chỗ mở ngỏ và chờ đợi trên sân. Họ cũng không đông lắm vì đám đông thường xuất hiện nhiều nhất vào buổi chiều, nhưng đó là những người miền Bắc khả ái và vui vẻ, họ sống những ngày nghỉ ỏ Northam. Tất cả bọ họ đều nhìn lên không, và theo dõi một cách chăm chú một người đàn ông đang tụt xuống dọc theo cái sườn bằng thép. Đây không phải là một trò chơi của trẻ con, nhưng nếu anh ta đi cũng nhanh như một người thế tục bình thường trên các bậc của một cái cầu thang.
- Trời oi! Người bán vé nói khi chính anh ta cũng ngẩng đầu lên nhìn. Sáng hôm nay Jim đã làm việc gấp gáp.
- Người đó là ai? Thiếu tá Stangate hỏi.
- Thưa ông, đó là Jom Barnes, người thợ giỏi nhất đã từng leo lên một cái sàn. Anh ấy gần như lúc nào cúng sống ở trên đó. Tất cả những trôn đinh ốc, những đinh con tán đều nằm dưới sự coi sóc của anh ấy. Anh chàng Jim này là một thứ người làm cho ta cảm kích.
- Nhưng chớ có tranh luận về tôn giáo với anh ta. Một người nào đó trong nhóm nói.
Người nhân viên bật cười lớn.
- À, vậy là ông có biết anh ta hả? Người ấy nói. Không, tốt nhất là ông đừng bàn cãi về tôn giáo với anh ta.
- Tại sao? Viên sĩ quan hỏi.
- Bởi vì anh ấy coi những câu chuyện về tôn giáo là rất nghiêm trọng. Anh ấy là ánh sáng của giáo phái của anh ấy.
- Không có gì là khó khăn trong việc đó. Người vừa nói xong lại cất tiếng nói. Người ta bảo tôi rằng trong giáo hội của anh ta chỉ vỏn vẹn có sáu người. anh ta tưởng tượng rằng bầu trời không lớn hơn cái nghị hội của riêng anh tam và anh loại ra ngoài tất cả những nghị hội khác.
- Tốt nhất là đừng nói với anh ta trong khi tỏng tay anh ta đang cầm cái búa kia. Người bán vé thì thầm. Chào Jim, sáng nay có khỏe không?
Người đàn ông lướt nhanh dọc theo quãng mười mét cuối cùng rồi y lấy thăng bằng đứng yên trên một thanh ngang để nhìn xuống nhóm nhỏ người trong thang máy. Với cách y đứng ở đó, trong bộ quần áo bằng da, với những cái kìm và các dụng cụ khác đeo lủng lẳng ở cái dây thắt lưng nâu. Y vẫn giữ được cái nhìn của một tay nghệ sĩ. Rất cao, rất gầy, chắc là y phải có sức vóc của một anh khổng lồ. Y có những chân tay dài, mềm dẻo, một bộ mặt đẹp trai, vừa cao quý, vừa khắc khổ, cặp mắt và mái tóc đen sậm , một cái mũi cong, một chòm râu sậm. Y giữ chắc thăng bằng bằng một bàn tay gân guốc, trong khi bàn tay kia làm lắc lư trên đầu gối y một cái búa bằng thép.
- Mọi sự đều sẵn sàng ở trên đó, y nói. Tôi sẽ đi lên cùng quý vị.
Y nhảy từ cái thanh ngang xuống và nhập bọn với các du khách trong cái thang máy.
- Tôi nghĩ rằng lúc nào ông cũng đang canh chừng chúng phải không? Mary MacLean nói.
- Thưa cô, chính vì việc đó mà tôi được trả lương. Từ sáng tới tối, và thường khi từ tối tới sáng, tôi phải ở đây. Có nhiều lần, tôi cảm thấy hình như tôi không phải là một con người mà là một con chim trời. Những con chim bay quanh tôi, những đồ súc vật, khi tôi đứng trên những giàn đỡ và chúng kêu với tôi hàng đống tiếng cho tới khi ngay chính tôi cũng bắt đầu kêu lên như chúng.
- Đây là một công việc rất quan trọng! Viên thiếu tá nói lẩm bẩm trong khi nhìn mặt nghiêng bằng thép của cái Tháp đang nổi bật lên rõ ràng trên bầu trời xanh
- Đúng vậy, thưa ông. Và không có một đinh vít hay một trôn ốc nào mà không nằm dưới sự trách nhiệm của tôi. Đây là cái búa của tôi để làm cho chúng kêu lên rõ ràng và cái mỏ lết vặn đinh ốc để xiết chặt chúng lại. Giống như vị chúa tể trên mặt đất, tôi là, phải, tôi là chúa tể của cái Tháp với đủ quyền sinh sát. Mà đúng vậy, quyền sinh sát!
Động cơ thủy lực đã bắt đầu chạy, cái thang máy chuyển động rất chậm chạp và bắt đầu đi lên. Toàn cảnh huy hoàng của bờ biển phơi bày ra mỗi lúc một rõ ràng. Những hành khách đã quá mải mê đến nỗi không một mảy may nhận thấy là cái thang máy đã đột ngột dừng lại giữa những đầu thang ở khoảng một trăm sáu mười mét bên trên mặt đất. Barnes, người thợ máy làu bàu rằng chắc đã có gì trục trặc ở trên đó, y nhảy như một con mèo vào cái lỗ hổng toang hoác ngăn cách họ với tấm lưới sắt của cái sườn bằng kim loại, và y biến dạng trong khoảng không. Nhóm người nhỏ bị treo lơ lửng giữa trời và mắt đất đã mất đi đôi chút tính em lệ của dân Anh, khi gặp những tình huống như thế, và các du khách bắt đầu trao đổi cảm tưởng của họ. Một cặp trai gái tên là Billy và Dolly nói với các bạn đồng hành rằng họ là những minh tinh của chương trình tại trường đua ngựa và họ làm khuây khỏa những người đứng bên bằng sự lém lỉnh của họ, một người đàn bà tươi mát, tròn trĩnh, đứa con trai của bà, hai cặp vợ chồng làm thành nhóm thính giả say mê của họ.
- Cháu thích làm thủy thủ anh? Billy, nhà hài kịch hài hước nói khi trả lời một nhận xét của đứa bé. Coi chừng đó, đồ nhóc con, cháu sẽ là một xác chết đẹp nếu cháu không đề phòng. Cháu hãy nhìn y đứng trên cái rìa kia kìa! Vào một giờ phút như thế, tôi không thể chịu đựng được việc trông thấy cảnh đó.
- Từ giờ nào trở đi thì ông mới có thể chịu đựng được? Một người đi chào hàng cao lớn hỏi.
- Trước lúc buổi trưa thì các khí lực của tôi chẳng ra trò trồng gì. Thật tình khi tôi nhìn xuống bên dưới và khi trông thấy mọi người giống như các chấm đen nhỏ li ti thì tôi sợ hãi vô cùng. Trong gia đình tôi, tất cả mọi người đều giống nhau, vào buổi sáng.
- Tôi có cảm tưởng rằng, Dolly nói, nàng là một phụ nữ trẻ da dẻ hồng hào, tất cả bọn họ đã giống nhau lúc tối hôm qua.
Mọi người đều cười lớn.
- Billy bị đo ván rồi. Chàng kịch sĩ hài hước tuyên bố. Nhưng nếu người ta chế nhạo gia đình tôi, tôi sẽ rời khỏi phòng.
- Thực sự đúng là đã tới giờ mà chúng ta rời khỏi căn phòng, người đi chào hàng nói, ông ta có vẻ bực bội. Thật là xấu hổ cho cái kiểu mà họ giữ chúng ta trên không thế này! Tôi sẽ viết thư về công ty.
- Cái nút bấm chuông ở đâu? Billy hỏi. Tôi sẽ bấm chuông.
- Và gã ... gã con trai? Mary MacLean hỏi.
- Người bán vé, người tài xế, người... tôi không biết ai đã làm cho chiếc ô tô buýt cũ kỹ này lên xuống? Có phải họ bị trục trặc về xăng? Có phải họ bị gãy lò xo lớn? Hay là cái gì đây?
- Dù sao đi nữa thì cảnh quan cũng rất đẹp! Viên thiếu tá nói.
- Xin thú thật về cảnh quan thì tôi đã có khá nhiều rồi! Billy nói. Tôi chỉ muốn đi xuống thôi!
- Tôi đã bắt đầu cảm thấy bực bội rồi đó! Người đàn bà tươi mát và tròn trĩnh lêu lớn. Tôi hy vọng là không co gì bị gãy trong cái thang máy.
- Dolly, hãy nắm lấy vạt áo của tôi! Tôi sẽ nhin bên trên cái rìa. Ôi, lạy Chúa, tôi phát ốm lên đây, tôi buồn nôn đây! ở phía dưới có một con ngựa, nó không lớn hơn một con chuột. Và tôi không trông thấy người nào quan tâm tới chúng ta. Cái ông già tiên tri cùng lên với chúng ta đó đâu rồi?
- Ông ấy đã để cho chúng ta rơi xuống khi ông ấy biết trước là chúng ta sẽ có sự truc trặc.
- Vậy thì hãy nói đi, Dolly nói xen vào, nàng có vẻ bối rối, tôi không thấy chuyện này là dễ chịu đâu! Chúng tta đang ở một trăm sáu mươi mét trên không trung, tôi có cảm tưởng là chúng ta sẽ chịu thế này suốt cả ngày. Tôi đang được chờ đợi cho cuộc trình diễn buổi sảng ở Trường Đua ngựa. Nếu tôi không có mặt khá sớm ở dưới đó thì mặc kệ công ty. Tôi đã được dán quảng cáo trong khắp cả thành phố cho một bài hát mới.
- Một bài hát mới à? Bài nào vậy hả Dolly?
- Một chậu gừng chính cống, tôi đoán chắc là thế! Bài đó có tên là “Trên đường tới Ascot”. Để hát bài này tôi đã có một cái mũ đường kính một thước hai.
- Vậy thì Dolly này, hãy làm cuộc tổng diễn tập trong khi chúng ta chờ đợi!
- Không! Vị cô nương trẻ kia không hiểu đâu.
- Tôi rất thích thú được nghe hát bài đó! Mary MacLean nói lớn. Nhất là cô đừng thấy khó chịu vì tôi!
- Những lời hát được viết trên cái mũ. Tôi không thể hát những câu thơ mà không có cái mũ, nhưng có một điệp khúc thú vị:
“Nếu bạn muốn có một bùa hộ thân nhỏ bé
khi bạn đi trên đường tới Ascot
hãy sờ mó vào người đàn bà có cái mũ to như bánh xe bò...”
Nàng có một giọng dịu dàng và ý thức về vần điệu.
- Bây giờ mời tất cả mọi người cùng hát! Nàng nói lớn.
Và cái nhóm nhỏ những người tình cờ hội ngộ đó ráng hết hơi sức hát theo nàng.
- Chác là chúng ta sẽ phải đánh thức một người nào đó dậy! Billy nói. Không nên à? Vậy thì tất cả chúng ta cùng la lên!
Sự cố gắng thật là mạnhmẽ, nhưng vô hiệu quả. Không có tiếng trả lời từ bất cứ nơi nào. Ban quản trị ở bên dưới hoặc là không biết hoặc là bất lực.
(Còn nữa)

                                
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 22-9-2011 14:15:29 | Xem tất
13. Cái tháng máy (tiếp)

Các hành khách bắt đầu lo sợ. Người đi chào hàng to lớn đã mất hết sắc diện hồng hào. Billy vẫn còn gắng gượng nói bông đùa, nhưng không thành công. Viên sĩ quan y phục màu xanh nước biển tức thì thay thế anhvới tư cách trưởng nhóm. Tất cả mọi người đều nhìn ông ta, cầu cứu ông ta.
- Thưa ông, ông khuyên chúng tôi nên làm gì? Ông không nghĩ rằng có sự hiểm nguy là bất thần bị rơi xuống phải không?
- Không một chút nào! Nhưng dù sao thì cũng rất khó chịu khi cảm thấy bị kẹt ở đây. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ có thể nhảy một cái vượit qua khoảng không này để đứng lên giàn đõ rồi xem cái gì bị trục trặc...
- Không, Tom? Vì lòng kính Chúa, cin đừng rời bỏ chúng tôi.
- Có những người có lòng dũng cảm vững vàng! Billy nói, nhảy qua trên một khoảng trống mổttăm sáu mươi mét.
- Tôi tin rằng trong thời chiến tranh, vị trượng phu này đã làm những việc còn tệ hại hơn thế.
- Nhưng tôi, tôi sẽ khôngl àm việc đó! Ngay cả nếu họ dán cho tôi những chữ to như thế này trên những tấm bích chương của họ. Đó là công việc của lão thày bói già. Tôi không muốn làm lão ta bị thất nghiệp dù tôi chắng tốn kém gì.
Ở ba mặt cái thang máy có những vách bằng gỗ với những cửa sổ để ngắm phong cảnh. Mặt thứ tư nhìn ra biển thì được mở ngỏ. Satangate cúi mình xuống chỗ đó để nhìn ra khoảng không. Từ trên chỗ cao hơn lọt tới tai ông một tiếng động khô khan, đặc biệt âm vang của kim loại, như thể một sợi dây đàn rất căng vừa được đẩy lên. Một khoảng cách nào đó phía trên ông, có lẽ chhừng ba mươi mét, ông chợt trông thấy một cánh taydài, nâu, đầy bắp thịt đang vung vẩy một cách điên cuồng giữa những sợi dây cáp. Ông không trông thấy cáiđầu của người đó nhưng ông đã bị mê hoặc bởi cái cánh tay trần đang kéo, víu và đẩy.
- Mọi việc đều tôt đẹp, ông loan báo. Có một người nào đó đang làm việc trên đó để xếp đặt lại mọi sự đâu vào đó.
Mọi người đều thở phào nhẹ nhõm.
- Đó là ông thầy bói già Isaie, Billy vừa nói vừa uốn éo cái cổ. Tôi không trông thấy lão ta nhưng cái cánh tay của lão thì có thể nhận ra trong hàng ngàn cái cánh tay. Lão ta có cái gì trong tayvật? Người ta sẽ nói là một cái tuốc-nơ-vít... Không, lạy Chúa, đó là một cai dũa!
Trong khi anh ra nói thì một tiếng động khô khan và âm vang nữa vang lên trong khoảng không, vầng trán của viên sỹ quan nhăn lại.
- Thật kỳ quái, người ta có thể nói đúng là tiếng động giống như tiếng động mà sợi dây cáp bằng thép của chúng tôi phát ra khi nó đứt hết sợi này đến sợi khác ở Dixmude. Cái thứ này sẽ bi thảm đến thế nào? Ơ kìa! Các ông định làm gì đây?
Người đàn ông đã làm xong công việc; y thong thả đu xuống dọc theo cái sườn bằng sắt.
- ... Y tới kìa, Stangate loan báo cho các bạn đồng hành đang ngỡ ngàng của ông, mọi sự đều tôt đẹp, Mary ạ! Các ông, các bà đừng sợ sệt! Thật là xuẩn ngốc để nghĩ rằng y tìm cách là yếu sợi dây đang nắm giữ chúng ta.
Ở trên không xuất hiện một đôi giày. Rồi tới cái quần bằng da, cái thắt lưng với các dụng cụ đeo lủng lẳng, cái thân mình nổi vằn các bắp thịt, và cuối cùng là bộ mặt hung hãn, sạm đen của anh công nhân. Y đã cởi bỏ áo ngoài, và cái áo sơ mi không ài cúc phơi trần cái thân mình đầy lông lá. Ở trên cao một tiếng rung động nữa vang lên, cũng vẫn khô khan, cũng vẫn giống như một tiếng lách cách. Người đàn ông đó tụt xuống không vội vã. Y lấy thế thăng bằng đứng trên cái giàn đỡ chặn ngang, tựa vào cái sường và đứng yên ở đó, hai tay khoanh lại, chằm chằm nhìn các hành khách chen chúc trên sàn đứng của thang máy.
- Ê này! Stangate gọi. Có sự cố gì vây?
Người đàn ông vẫn vô cảm và im lặng, cái nhìn trừng trừng của y có một vẻ gì có tính đe dọa.
Viên phi công nổi giận
- Anh trở nên điếc rồi anh? Ông quát lên với y. Anh định để chúng tôi phải treo ở đây bao lâu nữa đây?
Người đàn ông đó vẫn không nhúc nhích. Y có điệu bộ của một con quỷ dữ.
- Anh con trai này, tôi sẽ khiếu nại về anh đó! Billy nói với một giọng run rẩy. Sự việc sẽ không nằm yên ở đó đâu, tôi hứa với anh điều này!
- Hãy nghe tôi nói đây! Viên sĩ quan quát lớn. Chúng tôi có mang theo các phụ nữ và anh đang làm cho họ sợ hãi. Tại sao chúng tôi lại bị kẹt ở đây? Có phải thang máy bị hỏng không?
- Các ông ở đây, bởi vì tôi đã chêm một cái đòn cân vào sợi dây cáp phía trên các ông.
- Anh đã làm nghẽn đường dây hả? Tại sao anh lại dám làm một việc như thể? Có phải đó là một sự đùa cợt hay là cai gì? Rút ngay đòn cân đó ra nếu không thì mặc kệ anh...
Người đàn ông không trả lời gì cả
- ... Anh có nghe thấy lời tôi nói không? Tại sao anh không trả lời? chúng tôi đã chịu đựng khá nhiều rồi, tôi đoan chắc với anh về điều đó!
Bị một cơn hoảng hốt độe ngột, Mary MacLean nắm lấy tay vị hôn phu của nàng.
- Ôi, Tom! Nàng kêu lên. Hãy nhìn mắt y kìa! Hãy nhìn cặp mắt khủng khiếp của y! Đó là một thằng điên!
Người công nhân đột nhiên phục hồi khả năng nói của y. Bộ mặt u ám của y đã thay đổi dưới sự bùng nổ của cơn cuồng nộ. Cặp mắt y sáng rực lên như những cục than hồng, y vung vẩy một cánh tay.
- Xem đây! Y quát lên, những người bị coi là điên dại đối với lũ trẻ con ở đời này thật sự là những đứa con của Chúa và là những cư dân của miếu đường trong nội tâm. Ta là người sẵn sàng đứng ra làm chứng ở cấp độ tối cao, vì thật ra bây giờ đã tới ngày mà người hèn mọn sẽ được xưng dương và kẻ ác bị loại trừ trong tội lỗi của nó!
- Mẹ! Mẹ! Thằng con trai nhỏ phát điên khùng kêu lên.
- Kìa, mọi việc đều tốt đẹp, Jack ạ! Người phụ nữ tươi mát và tròn trịa nói. Tại sao anh lại muốn làm cho đứa bé này phải khóc? À, anh là một kẻ dị hợm bảnh bao, đúng thế!
- Thà để cho nó khoc bây giờ còn hơn là phải khóc ở màn đêm tăm tối bên ngoài. Hãy để cho nó tìm sự cứu rỗi trong khi hãy còn đủ thì giờ!
Viên sĩ quan đo lường khoảng trống bằng một con mắt lão luyện. Nó phải tới hai mét rưỡi, và gã điên kia sẽ có thể làm cho ông chao đảo trước khi ông có đủ thì giờ đặt chân lên. Đây sẽ là một ý định vô vọng. Ông co nói một vài lời có tính cách xoa dịu.
- Này cậu trai trẻ của ta, cậu đã đưa sự đùa cợt quá xa rồi đó! Tại sao cậu lại muốn làm hai chúng ta? Hãy leo lên trên ấy đi và rút cái nêm ra. Chúng ta sẽ không nói tới chuyện này nữa...
Một tiếng động khác của sự rách đứt laịiphát ra từ trên cao.
- ... Lạy chúa, sợi dây cáp sắp đứt rồi! Stangate la lớn. Này! Hãy đứng sang một bênm tôi sẽ leo lên để xem việc gì đang xảy ra.
Anh công nhân đã rút cái búa ra khỏi thắt lưng y và y vung vẩy cái búa một cách điên cuồng.
- Hãy lùi lại đó, anh trai trẻ! Lùi lại đi! Nếu anh nhảy lên anh sẽ chỉ làm cái chết của anh tới mau hơn thôi!
- Tom, nhân danh Chúa, đừng có nhảy lên! Cấp cứu! Cấp cứu! Các hành khách đồng thanh la hét. Gã đàn ông đó mỉm cười vẻ hung ác.
- Không có ai sẽ tới cứu giúp các người đâu. Nếu họ có muốn tới giúp đỡ các người thì họ cũng sẽ không htể tới được. Các người sẽ tỏ ra khôn ngoan hơn khi xét lại lưông tâm mình để khỏi bị ném vào hỏa ngục muôn đời. Đúng, hết sợi này tới sợi nọ, sợi dây cáp treo các người đang giãn ra. Nghe đây. Lại một sợi nữa bị đứt đó! Mỗi khi có một sợi bị đứt, sự căng lại gia tăng lên những sợi khác. Các người còn đủ số sợi cho năm phút nữa và sau đó là cõi vĩnh hằng.
Một tiếng rên rỉ kinh hoàng nổi lên từ nhóm các tù nhân của cái thang máy. Stangate cảm thấy một lớp mồ hôi lạnh trên trán ông khi ông luồn cánh tay quanh thân mình người thiếu nữ đang lảo đảo. Nếu ông có thể làm cho con quỷ chứa đầy thù hận này sao lãng đi chỉ trong một lát thôi thì ông sẽ nhảy lên và đánh liều với số mạng trong một trận cận chiến.
- Nghe đây, anh bạn! Leo lên đi và hãy cắt đứt sợi dây cáp nếu anh muốn! Ông la lên. Chíng tôi không thể làm được điều gì. Anh là kẻ mạnh nhất. Leo lên đi! Và mong rằng mọi chuyện sẽ chấm dứt!
- Để anh có thể nhảy lên đây mà không gặp nguy hiểm hả? Gã đàn ông cưồi khẩy. Ta đã làm chấn động tất cả rồi, ta chỉ còn phải chờ thôi.
Sự phẫn nộ tràn đầy tâm trí viên sĩ quan trẻ tuổi.
- Đồ đạo tặc! Ông hét lên với y. Tại sao người còn đứng đất nhe răng ra cười. ta sẽ cho ngươi một vật nào đó để cười, chính ta đây. Đưa cho tôi cái ba-toong của người nào đó!
Gã đàn ông vung vẩy cái búa của y.
- Tới đây, vật thì hãy tới đây! Hãy trình diện trước vị quan tòa của anh!
- Y sẽ giết anh, anh Tom! Ồ không, toi van xin anh, nếu chúng ta phải chết thì ít nhất là sẽ cùng chết với nhau!
- Thưa ông, ở vào địa vị ông thì tôi sẽ không mạo hiểm trong việc này! Billy nói. Y sẽ đập lên đầu ông trước khi ông đặt được chân lên. Cố chịu đựng đi, Dolly! Sự ngất xỉu sẽ không dàn xếp được việc gì cả. Thưa cô, cô hãy nói với ông ấy đi. Có lẽ ông ấy sẽ nghe lời cô.
- Tại sao anh muốn làm hại chúng tôi? Mary hỏi. Chúng tôi đã làm gì hại anh bao giờ? Tôi tim chắc rằng anh sẽ phải tội sau đó, nếu sự bất hạnh xảy ra cho chúng tôi. Bây giờ anh hãy tỏ ra tử tế và biết điều, và giúp cho chúng tôi đi xuống.
Trong một vài khoảnh khắc, cặp mắt hung tợn của gã đàn ông dịu đi trước bộ mặt dịu hiền đang nhìn y. Rồi diện mạo y lại trở nên cứng rắn.
- Bàn tay ta là dành cho công việc này, hỡi người đàn bà kia. Không phải việc của người đầy tớ là bỏ bê nhiệm vụ của mình.
- Nhưng tại sao đó lại là nhiệm vụ của anh?
- Bởi vì một tiếng nói, trong đáy lòng ta xác nhận điều đó. Ta đã nghe thấy tiếng nói đó lúc ban đêm, và cả lúc ban ngày nữa. Khi ta nằm một mình trên giàn đỡ và khi ta trông thấy bọn gian ác bên dưới chân ta, trong các đường phố, kẻ nào cũng hối hả trong một mục đích xấu xa. “John Barnes, John Barnes, tiếng nói bảo ta, mii ở đây để phát một tín hiệu cho cái thế hệ của những kẻ tội lỗi! Một tín hiệu để chỉ cho chúng thấy rằng chúa đã nhìn thấy và kẻ có tội lỗi sẽ bị phán xét”. Ta là ai mà dám bất tuân lời nói của Chúa?
- Tiếng nói của quỷ dữ, Stangate đính chính. Cô thiếu nữ này đã mắc những tội lỗi gì để bắt buộc người phải phàm cho họ chết?
- Anh cũng giống như những người khác. Không tốt, mà cũng không xấu. Suốt cả ngày, họ đi trước mặt ta, hết toán này đến toán khác, với những tiếng la lối ngu xuẩn, những bài hát điên khùng và những lời nói lảm nhảm vô ích của họ. Tư tưởng của họ bị cột chặt vào những mục đích của xác thịt. Đã quá lâu rồi ta đã đứng tách ra, đã quá lâu rồi ta không thèm biểu lộ! Nhưng bây giờ thì ngày cuồng nộ nó đã tới và sự hiến tế đã sẵn sàng. Chớ tưởng rằng một giọng lưỡi của đàn bà sẽ làm ta từ bỏ bổn phận của ta!
- Tất cả đều vô ích thôi! Mary kêu lớn. Vô ích! Tôi trông thất sự chết trong mắt y!
Một sợi nữa của dây cáp lại đứt.
- Các người hãy sám hối đi! Gã điên quát lên, còn một sợi nữa và đó là sự kết thúc!
Thiếu tá Stangate có cảm tưởng là ông đang sống trong một cơn ác mộng ly kỳ, khủng khiếp. Có thể nào là sau bao lần thoát chết trong cuộc chiến tranh, mà luc này ở giữa nước Anh thanh bình, ông lại phải nằm dưới quyền sinh sát của một thằng điên, và vị hôn thê của ông, người mà ông mong được bảo vệ chống lại ngay cả cái bóng của sự hiểm nguy lại là nạn nhân của gã điên khùng khủng khiếp này? Tất cả lòng dũng cảm, tất cả sự cường tráng của ông đều căng thăng trong một nỗ lực siêu phàm.
- A, chúng ta sẽ không chết như những con cừu trong lò sát sinh! Ông hét lên trong khi lao hết trọng lượng của ông vào một trong các bức vách gỗ của thang máy và lấy chân đạp lên phía trên. Hãy xông tới đi các bạn! Đạp lên trên! Đó chỉ là sự ghép lại của các tấm ván. Nó lung lay rồi, làm cho tấm ván đổ xuống! Được rồi. Tất cả mọi người cùng làm một lần nữa! Đó! Bây giờ tất cả cái vách! Đẩy sập nó xuống! Tuyệt diệu...
Cái vách ngang của căn phòng nhỏ đã bị đẩy sập và bung ra những mảnh gỗ bay vào khoảng không. Barnes nhón một bước vũ điệu trên giàn đỡ, cái búa ở trên không.
- Chớ có vượt qua! Y hét lớn. Không làm gì được đâu! Chắc chắn là ngày ấy đã tới!
- Từ chỗ này tới giàn đỡ không quá sáu mươi phân. Viên sĩ quan quát lên. Hãy bước qua đi! Mau lên! Mau lên! Tất cả mọi người! Tôi sẽ khống chế con quỷ này!
Ông giật lấy cái ba-toong kếch xù của người chào hàng và ông đứng đối diện với gã điên khùng, thách y nhảy xuống.
- Bây giờ đến lượt ngươi đó, anh bạn! Ông rít lên, tới đây, ngươi và cái búa của ngươi. Ta đợi ngươi đó!
Ở phía trên đầu ông, ông nghe thấy một tiếng lách cách khô khan nữa và cái sàn đứng mảnh mai bắt đầu chao đảo. Ông liếc mắt về phía sau, các bạn đồng hành của ông tất cả đều bình yên và mạnh khỏe trên cái giàn đỡ ngang. Trông họ giống như một hàng những người bị đắm tàu đang kinh hoàng. Họ bám lấy tấm lưới thép. Nhưng chân họ thì ở trên tấm giàn đỡ bằng sắt. Với hai bước chân và một cái nhảy, ông đã tới bên cạnh họ, cũng trong lúc đó, tên tội phạm vung vẩy cái búa, nhảy xuống sàn đứng của thang máy. Họ trông thấy y ở đó, nét mặt dúm dó, hai mắt tóe lửa đang cố đứng vững trên cái sàn lắc lư. Một giây đồng hồ sau đó, họ không còn trông thấy gì nữa, trong một tiếng lách cách hung bạo, cái thang máy và y đã biến dạng. Một sự yên lặng dài, rồi tới một tiếng động nặng chịch và tiếng loảng xoảng vỡ của một sự rơi khủng khiếp ở mãi xa.
Mặt trắng bệch ra vì sợ hãi, những người được thoát nạn còn bám chặt lấy những thanh thép lạnh lẽo và nhìn xuống đáy của cái hố sâu toang hoác. Viên thiếu tá phá tan sự im lặng.
- Bây giờ họ sẽ tới kiếm chúng ta! Chúng ta đã được cứu thoát! Ông nói lớn trong lúc lau mồ hôi trên trán nhưng nhờ ơn Chúa, chúng ta đã thoát nạn rồi.
________Hết_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách