Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 4457|Trả lời: 24
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Lịch Sử - Xuất Bản] Hitler Và Trận Đánh Normandie | Hans Speidel (hoàn)

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả


Tên tác phẩm: Hitler Và Trận Đánh Normandie
Tác giả: Hans Speidel
Dịch giả: (Nếu có, đối với tác phẩm edit thì phải ghi rõ Editor): Người Sông Kiên và Lê Thị Duyên
Độ dài: 16 chương bao gồm cả Lời Nói Đầu
Thể loại: khác, lịch sử
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
Nguồn: http://vnthuquan.net/(S(c2ilyaae ... 343tq83a3q3m3237nvn
Đánh máy: HuyTran, Tuusacqui, Ct.Ly, hoalacocay, thiensu05, abuchot (vnthuquan)
Nhà xuất bản: Sông Kiên
Ngày xuất bản: 1974

Mục lục

Lời Nói Đầu
- 1 - MÙA XUÂN NĂM 1944 TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ
- 2 -
- 3 - TÌNH HÌNH NỘI BỘ CỦA QUÂN ĐỨC
- 4 - NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH PHÍA TÂY TRƯỚC KHI CÓ CUỘC ĐỔ BỘ CỦA PHE ĐỒNG MINH. VỀ PHÍA ĐỐI PHƯƠNG (Đồng Minh)
- 5 - VẤN ĐỀ ĐIỀU BINH KHIỂN TƯỚNG VÀ LỰC LƯỢNG ĐỨC TẠI MẶT TRẬN MIỀN TÂY
- 6 - NHỮNG NHẬN XÉT VỀ CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG CÔNG CUỘC CHUẨN BỊ
- 7 - CUỘC XÂM CHIẾM TỪ NGÀY 6 ĐẾN NGÀY 9-6-1944
- 8 - TỪ 9 THÁNG 6 ĐẾN 24 THÁNG 7 NĂM 1944 CÁC BIẾN CỐ QUÂN SỰ
- 9 - CUỘC HỘI NGHỊ VỚI ADOLF HITLER TẠI MARGIVAL NGÀY 17 THÁNG SÁU
- 10 - THỐNG CHẾ VON KLUGE NẰM QUYỀN TƯ LỆNH TỐI CAO BINH ĐOÀN B  NGÀY 20 THÁNG 7 NĂM 1944
- 11 - TỪ NGÀY 25 THÁNG 7 ĐẾN NGÀY 18 THÁNG 8 NĂM 1944 AVRANCHES – MORTAIN “Vùng Túi Falaise”
- 12 - TỪ 19 THÁNG 8 ĐẾN 5 THÁNG 9 NĂM 1944 THOÁT RA KHỎI "TÚI FALAISE" RÚT LUI VỀ BỨC TƯỜNG PHÍA TÂY
- 13 - THỦ TIÊU THỐNG CHẾ ROMMEL
- 14 - ERWIN ROMMEL QUÂN NHÂN ÔNG FELDMARSCHALL
- 15 - NHẬN XÉT VỀ TRẬN ĐÁNH NORMANDIE
HẾT

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 17:39:15 | Chỉ xem của tác giả
Lời Nói Đầu

Nguyên tác L'INVASION 44 của Đại tướng HANS SPEIDEL, tham mưu trưởng của thống chế ROMMEL.

Cuộc đổ bộ Normandie dưới cái nhìn của phe Đức quốc xã

CHIẾN LƯỢC GIA CHỊU TRÁCH NHIỆM PHÒNG THỦ BỨC TƯỜNG THÀNH ĐẠI TÂY DƯƠNG, ĐẠI TƯỚNG HANS SPEIDEL THAM MƯU TRƯỞNG CỦA THỐNG CHẾ ROMMEL - TƯ LỆNH BINH ĐOÀN B- MẶT TRẬN MIỀN TÂY


Trong thời kỳ nguy kịch từ tháng tư đến tháng bảy năm 1944, Đại tướng Hans Speidel là tham mưu trưởng của Thống chế Rommel, tư lệnh Binh đoàn B, mặt trận Miền Tây. Chắc chắn là tác giả có đủ tư cách nhất bên phía Đức để thuật lại các biến cố đánh dấu cuộc đổ bộ ngày 6 tháng 6 ở Normandie cùng các biến cố xảy ra trước đó và tiếp theo sau đó, để rút ra từ đấy bài học lịch sử, cũng như để hồi tưởng lại các xung đột đã xâu xé Bộ Tổng tư lệnh Đức ở cấp bực cao cấp nhất.

Dưới quyền Thống chế Rommel, Đại tướng Hans Speidel đã thiết lập kế hoạch phòng thủ chống lại cuộc đổ bộ của phe đồng minh. Ông đã tìm mọi cách thuyết phục Hitler chuẩn y kế hoạch của mình nhưng hoài công vô ích và ông đã phải điều khiển cuộc chiến trong những điều kiện thảm hại do Fuhrer áp đặt.

Cùng với Rommel và các Đại tướng Von Stulpnagel, Von Falkenhausen và Von Schwerin, ông đã bí mật chuẩn bị âm mưu ngày 20 tháng bảy mà sự thất bại đã đưa ông vào móng vuốt của Sở mật thám Gestapo.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 18:11:57 | Chỉ xem của tác giả
- 1 -
MÙA XUÂN NĂM 1944
TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ

VỚI KHOẢNG THỜI GIAN CỦA NĂM 1943, ĐỨC Quốc Xã đi tới cao điểm tột cùng của chiến tranh. Leo thang đến mức đó, họ gặp phải tình trạng hỗn độn ngày càng trầm trọng trong vấn đề chỉ huy chính trị và quân sự. Trái lại, Đồng minh đang lớn mạnh vì đã giải quyết xong vấn đề tập trung và thống nhất lực lượng để điều khiển cuộc chiến tranh và quy định mục tiêu chính trị.

Chính trong cuộc hội nghị tại Casablanca ngày 23 tháng giêng năm 1943, hai ông Roosevelt và Churchill đã đồng ý với nhau buộc nước Đức phải đầu hàng vô điều kiện. Sự thất bại liên tiếp của Đức về chính trị cũng như quân sự tạo cho phe Đồng Minh đà phấn khởi và niềm tin chiến thắng; tháng hai, Đức thua trận ở Stalingrad; tháng năm, liên quân Đức-Ý đầu hàng; mùa hè, mất đảo Sicile, Mussolini bị hạ bệ, quân Đồng minh đổ bộ lên Ý, tháng chín, quân Ý đầu hàng, tiềm lực chiến tranh dưới đáy biển và trên không bị phá vỡ. Tất cả những sự kiện này giúp cho cái thế liên kết giữa lực lượng Anh và Nga thêm chặt chẽ. Trong cuộc họp ở Le Caire ngày 1 tháng 11 năm 1943, nghe đâu các ông Roosevelt, Churchill và Tưởng giới Thạch đã đồng ý với nhau mở cuộc hành quân vào khu vực Balkans nhằm mục đích tiêu diệt quân Đức, đồng thời ngăn chặn không cho Hồng quân Nga chiếm Trung Âu; chẳng hiểu chuyện đó có thực không, chứ cứ như hội nghị Têhéran ngày 1 tháng 12 năm 1943[1] thì người ta thấy hai ông Roosevelt và Churchill đã ký tên thừa nhận những ước muốn của ông Joseph Staline. Mấy ông thỏa thuận trên nguyên tắc mở mặt trận thứ hai “không phải trong vùng Balkans”; mà là một cuộc tấn công quyết định đánh thẳng vào lãnh thổ Đức, nhờ điều kiện thuận lợi của “cuộc chiếm đóng nước Pháp”. Thời gian nầy, chính phủ Hoa kỳ liệu có hiểu được tầm mức chính trị quan trọng của cuộc hành quân vào vùng Balkans không? Hoặc giả, họ coi thường Nga sô, trong khi họ còn đang mải đối phó với những toan tính của Anh quốc? Lúc này ta chưa có thể khẳng định rõ ràng. Dẫu thế nào đi chăng nữa, thì sự từ chối của Đồng minh đối với cuộc hành quân trong vùng Balkans đã gây ảnh hưởng quan trọng sau khi chiến tranh kết liễu: chính sự từ chối ấy đã quyết định cán cân lực lượng chính trị thời hậu chiến. Nhờ sự giúp đỡ của quân Anh, Staline trở thành “kẻ kế thừa dòng họ Habsbourg”.

Một sự thỏa thuận khác không kém phần quan trọng xảy ra vào ngày 24 tháng 12 năm 1913, tôn phong tướng Eisenhower vào chức vụ Tổng tư lệnh lực lượng Đồng minh, nhằm mục tiêu đổ bộ tràn vào nước Pháp.

Từ năm 1942, những kế hoạch của một cuộc đổ bộ đã được một bộ tham mưu chiến lược Anh-Mỹ nghiên cứu trên đất Anh. Tin tức hội nghị Téhéran được kịp thời thông báo về Văn phòng Chính trị Đức nhưng Hitler không liệu định đúng tầm quan trọng của vấn đề. Tình hình cuộc chiến mùa xuân năm 1944 đã diễn ra như sau:

Ý rút khỏi vòng chiến. Dù vậy, ngày mùng 1 tháng 4 năm 1944, Hitler vẫn còn cho rằng sự “ra đi” ấy của Ý là để “tập trung lực lượng Đức, làm tăng uy thế Đức”.

Sự cam kết giữ vững nền trung lập mà Tây ban Nha ký ngày 10 tháng 2 năm 1943 vẫn chưa có gì quan trọng trên thực tế.

Hung gia Lợi do Đô đốc Horthy lãnh đạo, đã liên lạc với phe Đồng minh qua sự điều đình của viên đại sứ Hung gia Lợi tại Lisbonne về vấn đề một cuộc đình chiến vì Hung muốn có hòa bình xé lẻ. Khi Hitler hay tin, ông ta buộc Đô đốc Horthy phải thành lập một chính phủ khác, giao cho ông Stojay, cựu đại sứ Hung tại Bá Linh, điều khiển. Nhận thấy chính phủ nầy khó sai khiến, tháng 10 năm 1944, Hitler lật đổ luôn, cho ông Salassy thay thế và ra lệnh bắt giữ Đô đốc Horthy.

Trong vùng Balkans, Bảo gia Lợi đang là một nước không có chính phủ vì vua Boris đã bị truất phế.

Phần đất phía Đông của Lỗ ma ni trở thành vùng chiến địa khi hai Binh đoàn Đức ở mặt trận phía Nam, đụng lực lượng hùng hậu của Nga, phải tiến sâu vào lãnh thổ Lỗ, rút về ngã Bessarabie[2].

Thổ nhĩ Kỳ ngã dần về phe Đồng minh trong khoảng thời gian mùa Xuân năm 1944 nầy, dù rằng trước đó, hồi tháng 6 năm 1943, Thổ cân nhắc hoàn cảnh quân sự và chính trị, đã gửi một phái đoàn quân sự cao cấp tới Đại bản doanh của Fuhrer và tới thăm vùng mặt trận Miền Đông. Như vậy, phía hông của quân Đức tại vùng Cận Đông đã tỏ ra không có gì bảo đảm.

Đối với Nhật bản, Hitler chỉ trông đợi được một sự giúp đỡ gián tiếp, nhưng ông ta hy vọng một cuộc tấn công mãnh liệt của Nhật vào Mãn Châu.

Hitler không thể bám víu vào sự can dự của quân đội Nhật để chống kẻ thù Nga sô trên chiến trường Âu châu.

Nhưng niềm hy vọng chính yếu nhất của Hitler là sẽ thấy được sự liên kết của các lực lượng tây phương bị tan vỡ cùng với lực lượng Sô viết, thấy được Anh quốc sụp đổ vì “tinh thần đã bị kiệt quệ”.

Hitler tưởng rằng, nhờ sự sử dụng loại “vũ khí thần sầu quỷ khốc”[3] có thể kết liễu sự đề kháng của Anh một cách mau chóng và dứt khoát.

Trong những điều kiện ấy, tình hình chung về chính trị không cho phép người ta nhìn thấy một kết cuộc chiến thắng về phía Đức. Đồng thời, cũng không thể nào có được một kết thúc dằng co dưới sự điều khiển của Hitler.

Chú thích:

[1] Đọc: “Hitler, cuộc mưu sát các lãnh tụ Đồng minh”, Sông Kiên xuất bản.

[2] Đọc: “Độc hành” của C. V. Gheorghiu. Người Sông Kiên và Lê thị Duyên dịch. Sông kiên xuất bản.

[3] Đọc: “Cuộc săn tìm vũ khí bí mật của Hitler”. Sông Kiên xuất bản.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 18:17:23 | Chỉ xem của tác giả
- 2-

TÌNH HÌNH QUÂN SỰ CŨNG ĐEN TỐI NHƯ TÌNH hình chính trị. Thời kỳ vàng son đã chấm dứt sau những chiến thắng liên tiếp thực hiện được nhờ một Bộ chỉ huy hoàn toàn quân sự trong năm 1939 tại Ba lan, năm 1940 tại Pháp với những mục tiêu rõ rệt.

Ở phía Tây, một bộ phận của hải-lục-không quân Đức, sút kém cả về lượng cũng như về phẩm, đang làm mồi cho cuộc tấn công của phe Đồng minh, phía sau “bức tường thành” mới mẻ trải dài trên Đại tây dương.

Mặt trận Phi châu và Địa trung hải đã thất bại hoàn toàn. Bằng một cuộc tiến quân đúng phương pháp, địch thủ đẩy phòng tuyến của quân Đức-Ý tại miền trung nước Ý lùi dần về phía Bắc.

Ở phía Đông, Hitler đã bắt đầu tiến quân, nhưng không chọn hẳn một trục tấn công mà chỉ xua ba Binh đoàn của ông tiến thẳng đến ba mục tiêu: vùng Ukraine gồm khu kỹ nghệ Stalino và Kharkov, Mạc tư khoa và Leningrad. Cuộc tấn công ngưng lại nửa chừng trong khi chưa đạt được mục tiêu nào, dù là mục tiêu ở giữa hay ở mặt Bắc.

Năm 1942, Hitler hạ lệnh mang một cánh quân nhỏ đánh tràn ra vùng hạ lưu sông Don và từ đó đánh thẳng tới Caucase, chiếm lấy trục giao thông Poti-Bakou, để rồi từ vùng sông Don thượng tiến sang sông Volga đến Stalingrad. Như vậy là trái với binh thư của Clausewitz, vì Hitler đã chiếm đất trong khi công việc phải làm là tiêu diệt lực lượng địch. Địch quân đã khéo léo lẩn tránh. Tham mưu trưởng quân đội, đại tướng Halder, bị cất chức vào tháng chín năm 1942.

Sau những thất bại chiến lược của năm 1942, và trong cuộc thư hùng đang diễn ra ở Stalingrad, Hitler điều động quân đội các nước liên minh lập ra một hàng rào phòng ngự phía sườn cho quân của ông dọc theo sông Don; những cánh quân tiếp viện nầy, yếu kém về võ trang cũng như khả năng tác chiến gồm có: đệ I lộ quân Lỗ, đệ VIII lộ quân Ý, đệ II lộ quân Hung. Sứ mạng giao phó không thể thực hiện được vì sự tổ chức ô hợp của họ và vì mùa Đông bên Nga quá lạnh. Số phận Stalingrad đã được an bài. Nó liên hệ với thái độ cố chấp và óc thiển cận của Hitler khi ông ta trở chiều, quay sang mục tiêu chính trị và tuyên truyền. Tư lệnh lộ quân thứ VI không sao xoay sở được để gỡ khỏi thế bí dù trong thời gian đáng lẽ ông ta có thể trông cậy vào những cánh quân tiếp viện.

Năm 1943, sau cuộc phản công có hiệu quả tại thị trấn Kharkov và Bjelgorod, vào tháng Ba, Hitler mở cuộc tấn công mùa hè lấy tên là “Cuộc hành quân Citadelle”, khởi đi từ vùng Bjelgorod và Orel, dùng kế “dụ địch” và bẻ gãy từ trong trứng nước cuộc tấn công của địch.

Cuộc hành quân nầy chỉ có thể có viễn tưởng thành công nếu nó được thực hiện phối hợp kịp thời với cuộc hành quân Kharkov-Bjelgorod tháng ba năm 1943 – một cuộc phản công cuối cùng gặt hái thành quả. Thất bại của “cuộc hành quân Citadelle” đã phân định một giai đoạn quân sự như sau:

Cuộc phản công của quân Nga bắt đầu chuyển động. Nó chỉ ngưng lại trong những khoảng thời gian ngắn để chỉnh đốn lại hàng ngũ và tiếp tế lương thực, súng đạn. Nó lớn mạnh cho tới năm 1945, ngày Đức Quốc Xã sụp đổ.

Hitler gọi cuộc hành quân của Nga là “cuộc chiến tranh tiêu hao” đối với Liên bang Sô viết. Tưởng không cần phải nhắc tới cái ưu thế về tiềm lực tổng quát của Nga trong thời kỳ ấy.

Theo lệnh của Hitler, phòng tuyến sông Dnieper không được củng cố, lấy cớ rằng “quân đội sẽ giật lùi về phía sau, không chịu giữ vững tiền tuyến”. Chính vì vậy, người ta tha hồ bàn tán về thái độ mất tin tưởng và hằn học của ông đối với những người lính ngoài mặt trận. Bất cần những đề nghị do Bộ Tổng tham mưu liên tiếp trình lên, Hitler không vạch ra một kế hoạch dài hạn nào. Ông không chấp nhận bất cứ một sự sửa soạn nào cho những con đường thoái quân. Những con đường thoái quân đã không được nghĩ tới ngay từ mùa đông đầu tiên tại Nga cuối năm 1941, đầu năm 1942. Cũng vẫn là những lý do tâm lý của Hitler đã giải thích tại sao những con đường thoái quân không được tạo dựng tại mặt trận Miền Tây.

Tháng giêng năm 1944, khi hai Quân đoàn quân Đức bị vây hãm gần Tscherkassy, và khi việc xin rút lui trình lên Bộ chỉ huy tối cao, Hitler hạ lệnh phải giữ vững vị trí; ông ta tưởng rằng sau nầy có thể mở một cuộc hành quân phát xuất từ trục Tscherkassy-Korsoun, chiếm lấy thành phố Kiev, “cắt đứt phòng tuyến của Nga”. Sở dĩ trong vùng “Tscherkassy dầu sôi lửa bỏng” nầy không xảy ra một trận tiêu diệt chiến là vì bộ chỉ huy chiến trường, sau nhiều ngày tranh đấu với Hitler và Bộ tư lệnh tối cao, đã tự ý mở đường tháo lui trước khi được lệnh. Nhờ vậy trong số 54 ngàn quân sĩ Đức, 35 ngàn người đã được cứu thoát.

Mùa xuân năm 1944, lộ quân thứ XVII đang trú đóng ở bán đảo Crimée lâm vào tình trạng hấp hối. Nếu kịp thời di tản khỏi bán đảo nầy có lẽ họ đã được cứu sống. Ngày mùng 1 tháng giêng năm 1944, Hitler vẫn còn tin rằng mình có thể giữ vững vùng đầu cầu ở Sébastopol mặc dù nó đã bị thu hẹp. Ông ta coi biện pháp nầy là biện pháp cần thiết bởi vì ông vừa thực hiện được một đòn tâm lý chiến tại Thổ nhĩ Kỳ. Lộ quân thứ VI chùn lại, tả tơi xơ xác vì phải mở đường máu rút lui từ Odessa về biên thùy Lỗ ma ni. Lộ quân thứ VIII dưới quyền điều khiển của tướng Bộ binh Otto Woehler còn chiến đấu cầm cự giữa khoảng hai con sông Bug và Dnieste; đây là tấm gương dũng cảm của “con sư tử bị thương”. Đối phương, với một lực lượng hùng mạnh gấp bội, lăm le tràn ngập cạnh sườn phía Bắc cánh quân của tướng Otto Woehler và bao vây đệ I lộ quân thiết giáp đang bị tách rời.

Chủ trương rút lui đúng lúc khỏi vùng Bessarabie và việc chuẩn bị tuyến phòng ngự dọc theo sông Pruth dùng dãy núi Carpathes làm trục, lại được đề nghị lên Hitler, coi như một giải pháp trung dung, giải pháp nầy dành cho Hitler tất cả sự tự do để quyết định tối hậu về chiến lược. Nhưng đề nghị nầy đã bị bác bỏ.

Các Thống chế Von Klest và Von Manstein chỉ huy Binh đoàn A và Binh đoàn trấn giữ Miền Nam, bị thay thế vào ngày 31 tháng ba bởi hai tướng tân thăng, Tướng Schôrner và Thống chế Model.

Một sự yên tĩnh giả tạo diễn ra trước phòng tuyến của hai Binh đoàn đóng ở mặt bắc và ở giữa; hai cánh quân nầy độc lập về phương diện tác chiến. Những tin tức liên quan tới sự sửa soạn một cuộc tấn công quy mô của quân Nga đối đầu với Binh đoàn đóng ở giữa được cấp báo về Tổng hành dinh của Fuhrer.

Ngày 1 tháng giêng, Adolf Hitler đã nhìn thấy, hay đúng ra là không muốn nhìn thấy vấn đề cốt yếu của mặt trận miền Đông, nghĩa là, không muốn nhìn thấy việc chiếm đóng giải đất bằng phẳng của Nga có thể bị thất bại – một sự thất bại căn bản trong chủ trương của ông nhằm khai thác kho lương thực và nguyên liệu Trung Âu.

Tình trạng căng thẳng trong giới quân sự cao cấp nhất đã trở thành hiển nhiên dưới mắt mọi người khi tướng Zeitler, tham mưu trưởng quân lực cùng với các cộng sự viên bỏ phòng họp ở Obersalzberg bước ra, giữa lúc Đại tướng Jodl và tướng Warlimont bắt đầu phúc trình về cái mà người ta gọi là “những khu vực hành quân OKW” - Na uy, Phần lan, Tây Âu, Địa trung hải, Balkans.

Lối chỉ huy của Bộ tư lệnh tối cao quân lực theo kiểu “lưỡng đầu chế” nầy đã phát xuất ngay từ trong tư tưởng của Hitler. Tướng Jodl tham mưu trưởng chiến lược nằm trong Bộ tư lệnh tối cao quân lực, dưới sự điều khiển trực tiếp của Hitler, nắm trọn quyền chỉ huy các cuộc hành quân trên khắp các chiến trường; chỉ riêng có mặt trận Miền Đông là dành cho Đại tướng Zeitler, Tham mưu trưởng quân lực lo liệu theo phận sự của ông. Ông ta thiết lập một bộ phận giống như một “bộ Tư lệnh tối cao mặt trận Miền Đông”, thâu nhận một số quyền hành ít hơn quyền hành của những tướng Hindenburg và Ludendorff trong trận Thế chiến thứ nhất. Sự chia quyền trong Bộ Tư lệnh tối cao không phải chỉ gây nên những đụng chạm hàng ngày mà còn tác hại tới đường lối chỉ huy chung trên các mặt trận. Điều tai hại nầy xuất hiện rõ ràng nhất trong thời kỳ quân Sô viết tấn công cánh quân ở mặt trận giữa, vào mùa Hè, kể từ ngày 20 tháng 6 năm 1944.

Những nhận thức và yêu sách của Thủy sư Đô Đốc Doenitz và Thống chế không quân Goering thường khi mâu thuẫn nhau, càng làm cho tình hình của Bộ tư lệnh thêm phức tạp.

Từ mùa xuân năm 1943, trong một cuộc trắc nghiệm luôn luôn tăng trưởng, tình trạng hải chiến biểu lộ tính chất vô hiệu của chiến tranh dưới đáy biển – một cuộc chiến tranh kéo theo những thiệt hại nặng nề, khó hàn gắn.

Vết thương rớm máu của Không quân trong cuộc tấn công nước Anh cũng chưa sao chữa trị được.

Bởi vậy, mùa Xuân năm 1944, tình hình quân sự cho thấy rất ít hy vọng. Tuy nhiên, mặt trận Miền Tây, Miền Nam và Miền Đông vẫn còn dai dẳng. Giai đoạn tan rã về quân sự chưa tới.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 18:21:13 | Chỉ xem của tác giả
- 3 -
TÌNH HÌNH NỘI BỘ CỦA QUÂN ĐỨC

TÌNH HÌNH QUÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ BỊ LUNG LAY làm cho cơ cấu tổ chức của Quân lực Đức – cơ cấu nội bộ – phải chịu đựng nhiều biến đổi sâu rộng.

Ngày 2 tháng 8 năm 1934, Hitler đảm trách quyền chỉ huy tối cao và xác định sự nhập cuộc của ông trong bức thư ngày 20 tháng 8 năm 1934 gửi cho Đại tướng Von Blomberg:

“Hôm nay, sau khi đạo luật mùng 2 tháng 8 được phê chuẩn, tôi muốn tỏ bày cùng Đại tướng và nhờ Đại tướng tỏ bày cùng Quân đội những lời cảm ơn của tôi đối với lời tuyên thệ trung thành mà Đại tướng đã dành cho tôi trong cương vị Quốc trưởng và Tổng Tư Lệnh Tối cao của Quân lực. Cũng như những sĩ quan và binh lính đang phục vụ tân Quốc gia “nơi chính bản thân tôi”, tôi sẽ luôn luôn tự coi như bổn phận tối thượng để hành động nhằm bảo vệ và giữ vững uy thế bất khả xâm phạm của Quân đội. Như thế tôi sẽ làm trọn lời di chúc của cố Thống chế Hindenburg; tôi sẽ trung thành với ý nguyện của chính tôi là đặt Quân đội vào trong lòng Dân tộc và chỉ có Quân đội mới được quyền võ trang. Adolf Hitler, Fuhrer và Reichskanzler.”

Lời tuyên thệ nầy, mà Hitler cũng đã từng thề trước Quốc trưởng Von Hindenburg, được ông ta giữ cho tới ngày 4 tháng 2 năm 1938; cho tới ngày nầy ông vẫn từ chối không đưa chính trị vào quân đội. Kể cả những năm đầu nắm quyền bính, ông cũng tự kềm chế không phán xét về những vấn đề quân sự.

Âm mưu chiếm quyền của lực lượng bán quân sự S.A bị phá vỡ bởi những biến cố ngày 30 tháng 6 năm 1934. Nhưng đến năm 1937, Heinrich Himmler, lãnh tụ SS, nhờ sự võ trang các đơn vị SS, đã tạo ra được cái thế “lưỡng đầu chế” giữa Quân đội và lực lượng Waffen SS, đồng thời đưa yêu sách cho Bộ Tổng tư lệnh về các vấn đề chính trị và quân sự của lực lượng SS. Như vậy là Hitler đã chối bỏ lời hứa “chỉ có quân đội mới được quyền võ trang”.

Tổ chức Waffen SS được thừa nhận với những ưu thế của một đội vệ binh, nó được hứa hẹn trở thành quân đội tương lai trong thời bình. Nhân số của cái Quốc gia trong Quốc gia, quân đội trong Quân đội nầy đã đếm được tới 700.000 người khi chiến tranh vừa kết liễu.

Cái ưu thế của quân đội theo truyền thống lịch sử đã bị chấm dứt ngày 4 tháng 2 năm 1938 bằng một âm mưu bôi lọ Đại tướng Nam tước Von Fritsch và vào thời kỳ Hitler nắm quyền Tổng tư lệnh tối cao quân lực. Tiếp theo đó là một thái độ thụ động rất nguy hiểm của một số chỉ huy trưởng quân sự.

Những tướng lãnh nầy – cũng như những nhân vật ngoài đời sống dân sự - thường là những con cưng của chế độ trong thời kỳ vàng son của họ. Họ đâu có nhìn thấy những gì sẽ đập vào lưng họ sau nầy. Bằng một thủ đoạn khéo léo và thận trọng, người ta lạm dụng dần dần những đức tính truyền thống của Quân đội. Chỉ riêng có tướng Beck là đã từng đôi ba phen tranh đấu, và đặc biệt nhất là vào năm 1938, ông không sợ liên lụy tới tính mạng và địa vị, dám chống đối lại những sự vận động thầm kín tai hại của một vị Quốc trưởng độc đoán và bao biện. Các thắng lợi đoạt được trong lãnh vực chính trị đối ngoại tại Munich (Hội nghị Munich họp vào tháng 9 năm 1938 gồm các nhà lãnh đạo Anh, Pháp, Đức, Ý, quyết định về vấn đề đất đai giữa Tiệp khắc và Thụy điển), nhờ phe Đồng minh, đã làm Đại tướng Beck và người kế vị ông là tướng Halder phải bó tay.

Với đà chuyển động của chiến tranh, nhất là từ năm 1944, Hitler cố gắng biến Quân đội thành một “tổ chức chính trị”. Sức mạnh của Quân đội nầy trước đây dựa vào sự vững chắc của các thành viên trong mục tiêu hoạt động bất vụ lợi đối với Tổ quốc. Nhưng hiện giờ thì đa số các tướng lãnh chỉ huy đã bắt đầu thừa nhận uy thế của Hitler, nhất là sau những kinh nghiệm chiến trường tại Ba lan, Na uy, Pháp và vùng Balkans. Sự suy tôn Hitler là “đại nguyên soái của mọi thời đại” phát xuất từ đó. Hitler và Goebbels biết khéo léo động viên tâm lý quần chúng và chủ trương tiến tới chế độ “quân phiệt cách mạng”. Đến nỗi rằng, một nhóm sĩ quan, say sưa giấc mộng làm người hùng Nã phá Luân đã trở thành “công chức”, trong khi ngày xưa trong Quân đội, quan niệm của Washington đã nắm giữ phần ưu thắng: “Chỉ những tay anh hùng mã thượng mới xứng đáng vào hàng sĩ quan!”

Tuy nhiên, một số đông sĩ quan các cấp thấp nhất là khối sĩ quan tham mưu, đã kín đáo chống lại sự nhiễm độc chính trị của Quân đội; theo ý họ thì chính trị trong Quân đội chỉ có thể đưa đến chỗ cắt đứt những dây liên lạc thân tín từng thắt chặt tình đoàn kết giữa cấp chỉ huy và binh lính. Họ cũng không tán thành việc Hitler nắm quyền chỉ huy Quân đội. Chúng ta hãy thêm vào trong vấn đề nầy sự độc đoán, bản năng thống trị của chính Hitler. Ác hại thay, tính khí đặc biệt ấy không phải chỉ xuất hiện trong các mệnh lệnh ban cho các ủy viên và cho Bộ chỉ huy mà ngay trong lãnh vực điều hành quân pháp nữa. Mùa Đông năm 1943-1944, mọi người ngạc nhiên vì sự nhồi nhét vào trong Quân đội một lớp sĩ quan chỉ huy thuộc thành phần đảng viên Quốc xã (N.S.F.O). Đây là những cấp chỉ huy chính trị mặc quân phục, tương tự như những Chính ủy của Hồng quân Nga sô. Như vậy là Hitler muốn bắt chước Nga chứ không theo kinh nghiệm của Lazare Carnot – người đã muốn, lúc thành lập quân đội cách mạng Pháp trong thời kỳ nhân dân vùng dậy, tách biệt mọi chính trị khỏi cơ cấu chỉ huy trong quân đội.

Lôi kéo quân đội vào trong mê hồn trận của các phe phái, tiêu diệt sự trung thành và niềm tin đối với truyền thống cũ bằng chế độ ủy viên Quốc Xã, đào xới tới cội rễ quyền lực của Quân đội, Hitler đã đập nát cơ cấu nội bộ và uy tín đối ngoại của quân đội. Những sĩ quan “lập trường bấp bênh” đều bị giải ngũ. Người ta chối bỏ nguyên tắc mà từ thời vua Fréđêric-le-Grand đã áp dụng ngay trong lãnh vực quân sự là bảo đảm tự do của những nhân vật có trách nhiệm. Kết cuộc, người ta thấy một người như Heinrich Himmler đã trở thành Tư lệnh của một Binh đoàn. Kiến thức, khả năng quân sự, nhất là lương tri của một trách nhiệm tinh thần trước Thượng đế và Dân tộc Đức bắt đầu bị biến dạng.

Những cấp chỉ huy đã từng cố gắng biểu lộ nhân phẩm trong một quan niệm nhân bản cao cả, nay nói chẳng ai nghe. Những đức tính trong vùng hào quang của thời Ludwig Beck đã bị loại bỏ.

Những cấp chỉ huy thuộc mọi đẳng cấp, giống như trong quân đội các nước đương thời trước kia, chia ra làm ba nhóm:

- Những người quân nhân tận tụy, nhắm mắt vâng lời, tính tình dung dị, bạ cả tin.

- Những người lính đảng phái đầy tham vọng, xu thời.

- Những người lính có lương tri phụng sự tình yêu Tổ quốc.

Chúng ta sẽ phân tích ở đoạn dưới trạng thái tinh thần và kiến thức của ba nhóm nầy theo quan điểm xã hội và tâm lý. Ở đây, chúng ta chỉ nói qua về nhóm thứ ba.

Trước chiến tranh, một đám sĩ quan khá đông đảo, phần đông là ở Bộ Tổng tham mưu, đã không chấp nhận đường lối đối nội và đối ngoại của Adolf Hitler. Sau nhiều lần cúi mặt làm thinh trước những tội lỗi (thí dụ làm thinh trong vụ ám sát hai tướng Von Schleicher và Von Bredow ngày 30 tháng 6 năm 1934) họ đã có ý định can thiệp vào hồi năm 1938.

Nhưng khi hai tướng Nam tước Fritsch và Beck bị khai trừ, thì chẳng còn có gì để gọi là một sự phản đối: một ý chí tự giác, sức mạnh và khả năng. Đến cuối năm 1937 sang đầu năm 1938 dân chúng và Quân đội cũng đồng ý về những yêu sách mà Hitler đã đề ra, mà trong lãnh vực đối ngoại – những yêu sách ấy đã có thể giải quyết được trong tinh thần hòa bình. Thắng lợi hiển nhiên của Hitler tại Hội nghị Munich được tiếp nối bằng bản Hiệp ước giao hảo với Pháp ký ngày 6 tháng 12 năm 1938. Ít ai ngờ đến những sự phát triển bên trong cũng như bên ngoài của sự tham nhũng và lòng đạo đức giả, và có ý nghi ngờ Hitler không giữ lời hứa và muốn chiến tranh.

Trong thời gian chiến tranh, vấn đề trở nên khó khăn lạ lùng đối với các cấp chỉ huy quân sự. Trong đại đa số trường hợp, những người lính ngoài mặt trận đã chiến đấu dũng cảm; thật là bất công và vụng về khi muốn chối bỏ sự kính trọng đối với người lính Đức – sự kính trọng mà người lính ở các nước văn minh, ngay cả nước thù địch, luôn luôn được hưởng. Sự phê phán của lịch sử thường vượt qua những lời chê bai nhất thời của một kẻ địch đã bại trận. Chưa ai từng nghĩ rằng mình muốn lôi cổ những tên lính của những phe phái từng chém giết nhau trong chiến tranh tôn giáo hồi thế kỷ XVI và XVII ra xử trước tòa. Không ai kết tội các viên Thống chế và sĩ quan của Nã phá Luân – đúng ra là của nước Pháp – dù rằng bản thân Nã phá Luân đã bị coi như kẻ xâm lăng và bị ô danh một thời vì tội đó. Những cuộc hành hình tập thể do Quận công Albe chủ trương vào năm 1568 và tư cách của những xứ Bắc Mỹ sau cuộc chiến tranh Nam-Bắc chỉ là những trường hợp ngoại lệ.

Một thành phần sĩ quan vốn dĩ được đào tạo nhằm phục vụ một hình thức chế độ quân chủ, không hề nghĩ đến việc ngẩng đầu lên chỉ trích việc lãnh đạo Quốc gia, cũng như được chuẩn bị cho một ý tưởng theo đó một cuộc đảo chánh có thể trở nên cần thiết. Điều nầy tạo cho họ một sức mạnh, khi mà vị quân vương tự cảm thấy mình nhận trách nhiệm trước Thượng đế để nắm quyền chỉ huy Quân đội nhưng đó lại là một nhược điểm, từ ngày mà một kẻ vô thần nắm giữ vận mạng của quân lực Đức.

Từ năm 1920 trở đi, khối sĩ quan của Reighswehr (tổ chức Quốc phòng Đức từ 1919 tới 1935) đã được đặt một cách cố ý ngoài vòng chính trị: thái độ nầy đã biểu lộ trước những yêu sách của cơ cấu chính trị cũng như trước nhu cầu về an ninh của các nhân vật lãnh đạo. Nhưng sự né tránh chính trị nầy thường không đề cập tới sự phân biệt rõ ràng giữa chính trị đảng phái và chính trị thuần túy. Vì những kinh nghiệm cần thiết không thể tập họp được nên ta không thể rút ra ở đó một sự nhân xét xác đáng.

Dĩ nhiên, các cấp lãnh đạo tối cao trong thời kỳ chiến tranh không thể đi từ sự phục tùng đối với Thượng đế đến ý thức và sự phục tùng đối với những con người trần tục. Nhưng tình trạng mập mờ nầy ở Đức không phải chỉ có giới hạn. “Một sự từ khước phục tùng” và sự sửa soạn một cuộc đảo chánh đòi hỏi ở cấp lãnh đạo tối cao – và chỉ cấp lãnh đạo nầy thôi – một cái nhìn sâu rộng đặc biệt, một sự can đảm hiển nhiên.

Quyết định ấy đáng lẽ ra có thể thực hiện dễ dàng đối với những phần tử ưu tú trong giới lãnh đạo ấy, nếu họ đã không bị bó buộc phải đầu hàng vô điều kiện ở Casablanca: đó đúng là một sự trở ngại khó đo lường đứng về phương diện tâm lý đối với những kẻ cầm súng chiến đấu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 18:37:47 | Chỉ xem của tác giả
- 4 -
NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH PHÍA TÂY TRƯỚC KHI CÓ CUỘC ĐỔ BỘ CỦA PHE ĐỒNG MINH.
VỀ PHÍA ĐỐI PHƯƠNG (Đồng Minh)

NGÀY 1 THÁNG 4 NĂM 1944, Ở OBERSALZBERG, Tham mưu trưởng Binh đoàn B, vừa mới được bổ nhiệm, tự thấy mình phải đặt câu hỏi tìm biết coi rốt cuộc Đồng minh tây phương có mưu định mở một cuộc xâm lược quy mô không. Tư lệnh Binh đoàn B, Thống chế Rommel cùng với Bộ tham mưu của ông chưa bao giờ ngờ rằng mình đang phải chờ đợi một cuộc đánh chiếm lớn lao có tính cách một cuộc tấn công quyết định về chung cuộc của chiến tranh.

Ở Anh, có chừng 75 tổ hợp quân sự có sức mạnh ngang với một sư đoàn. Theo ý kiến của Binh đoàn, thì trong số đó có 65 đơn vị gồm các sĩ quan và binh sĩ hiện dịch sau một thời gian huấn luyện kéo dài trong nhiều năm, có thể tham dự ngay một cuộc đổ bộ. Đó là từ 40 đến 45 sư đoàn Anh và từ 20 đến 25 sư đoàn Hoa Kỳ. Tất cả những đơn vị nầy đã được cơ giới hóa đầy đủ (sư đoàn thiết giáp). Ngoài ra, còn có thêm 7 sư đoàn không vận. Dưới quyền tổng chỉ huy của Đại tướng Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower, những lực lượng ấy gồm: Binh đoàn XII của tướng Omar N. Bradley, với đệ I lộ quân của tướng Courtney H. Hodges và đệ III lộ quân của tướng George S. Patton, và binh đoàn XXI Anh cát lợi của thống chế Sir Bernard L. Montgomery, với đệ I lộ quân Gia nã đại của tướng H. D. G. Crerar và đệ II lộ quân Anh cát lợi của tướng Miles C. Dempsey.

Nếu những nghi ngờ còn có thể tồn tại đối với khả năng của một cuộc đánh chiếm, thì sau những tin tức đưa về hồi tháng 3 năm 1941, những nghi ngờ ấy đã bị tiêu tan. Những đạo quân tinh nhuệ của Anh và của Mỹ (sư đoàn 1 và 7 thiết giáp, sư đoàn 1 không vận, sư đoàn 51 Bộ binh Anh, sư đoàn 1 và 9 Bộ binh Mỹ), một đạo quân đặc biệt về đổ bộ và phương tiện chuyên chở đầy đủ, đã được chuyển từ Địa Trung Hải và miền Nam nước Ý đến Anh Quốc.

Trung tâm của cuộc chiến được chuyển từ khu vực Địa Trung Hải về Anh Quốc. Ý đại lợi trở thành mặt trận phụ thuộc.

Vũ khí và đồ trang bị của các sư đoàn quân Đồng minh thật đáng chú ý, nó không thiếu một thứ gì thuộc loại kỹ thuật tối tân vừa mới sáng chế: những hải cảng nhân tạo giúp cho những đoàn quân đổ bộ khỏi bị lệ thuộc vào những Hải cảng thường trực đã được tổ chức từ trước. Những bãi đáp ghép bằng những tấm sắt cuộn lại được đã biến những cánh đồng cỏ thành sân bay chỉ trong vòng ít ngày. Một ống dẫn dầu chuyển vận đầy đủ nhiên liệu ra ngoài biển Manche (biển nằm giữa Anh và Pháp) để giải quyết vấn đề tiếp tế căn bản. Những bộ phận tiền chế của những cây cầu bằng sắt cho phép đoàn quân vượt các sông ngòi và chướng ngại một cách mau lẹ và chắc chắn.

Những chiến hạm của Hoa Kỳ và Hoàng gia Anh được tập trung tại các hải cảng và các vịnh thuộc quần đảo Anh. Sức chuyên chở của những tàu biển có thể chuyển vận được 20 sư đoàn một lượt. Nhờ sắp đặt những khoảng cách ngắn của các bến đỗ quân và việc phòng không hữu hiệu, người ta có thể tin cậy vào một sự hoạt động lanh lẹ của những chuyến tàu chạy tới chạy lui.

Không lực Đồng minh với 17.000 phi cơ ứng chiến, đủ sức mạnh thực hiện cùng một lúc một trận không tập nhằm vào hậu phương của Đức và trên lãnh thổ Đức, đồng thời phối hợp với một cuộc đổ bộ đại quy mô.

Ngoài ra Đồng minh còn có một màng lưới tình báo giăng sẵn trong thời bình, nay được tăng cường đúng mức và được giúp đỡ tại Pháp bởi phong trào kháng chiến Pháp. Phong trào này xuất hiện từ mùa đông năm 1943 – 1944, thực ra chỉ hoạt động được ở mạn Bắc sông Loire với vai trò yếu ớt. Cho tới mùa xuân năm 1944, họ chưa hề có được những hoạt động phá hoại nào với tầm mức rộng lớn.

Tất cả những triệu chứng của một cuộc đánh chiếm rộng lớn đã thấy hiện rõ sau sự tăng gia cường độ không tập vào cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1944 và được Bộ tham mưu của Binh đoàn B ghi chép kỹ càng và theo dõi trên bản đồ chiến trận.

Những chuyến bay thám thính, những trận ném bom ‘du kích’, những cuộc tấn công bất thần của hải quân đối phương, công việc gài mìn, với thủy lôi, những hoạt động phá hoại của các phong trào kháng chiến: tất cả những triệu chứng này tập trung trong vùng giữa sông Somme và đường giao thông Saint-Malo-Orleans.

Tuy nhiên, một sự nhận xét chính xác về tiềm lực của đối phương thực ra rất khó khăn vì Binh đoàn nhận được những tài liệu cần thiết sau khi những tài liệu này đã được ‘tu chỉnh’ bởi nhiều giới chức thẩm quyền: Tư lệnh mặt trận Miền Tây, Bộ Tư lệnh tối cao của quân đội, Cơ quan đặc trách về quân đội ngoại quốc của mặt trận Miền Tây, Bộ chỉ huy tối cao của Ban hành quân Lục quân (Wehrmacht). Sự liên lạc trực tiếp giữa Binh đoàn và Cơ quan tình báo quân sự Abwehr – cơ quan có nhiệm vụ cung cấp cho bộ Tư lệnh tối cao của quân lực những tin tức về đối phương – bị ngăn cấm tuyệt đối theo một ‘ lệnh căn bản’ của tư lệnh mặt trận Miền Tây. Vì vậy Binh đoàn không có trong tay một chút dữ kiện nào về sự hoạt động của phong trào kháng chiến Pháp và sự liên kết giữa phong trào này với Đồng minh trong trường hợp xảy ra một cuộc đổ bộ; họ chỉ nhận được tin tức do một cấp khác chuyển tới. Bộ Tư lệnh Binh đoàn không có một sĩ quan chuyên môn nào của Abwehr trong Bộ tham mưu cả.

Những tài liệu trong lãnh vực chính trị cũng như quân sự phải đi tới theo đường quanh co. Thống chế Rommel không được chính thức biết rõ sự phát triển của các cuộc hành quân tại Ý và mặt trận Miền Đông. Ông ta chỉ có bổn phận và quyền được giữ sự ‘ liên lạc chặt chẽ’ hàng ngày. Sau hết, đường dây điện thoại và những phương tiện truyền tin khác chỉ được sử dụng với sự thận trọng tối đa.

Về sau này, sự thiếu sót tin tức đã cảm thấy rõ ràng khi giả thuyết về một cuộc đổ bộ thứ hai được đặt ra. Đồng thời, trong lĩnh vực kỹ thuật của nhiều loại khí giới, Binh đoàn cũng không được Bộ Tư Lệnh tối cao cho biết, hoặc về sự tiến bộ của loại hỏa tiễn V[1] mà người ta vẫn đang mong đợi, hoặc về sự hoàn thành loại bom hạch tâm, hoặc về những phương tiện trợ chiến mà Hải quân đã dùng, hay về những khu trục cơ phản lực.

Một khi những lực lượng của cuộc tiến quân ba mặt giáp công đã được chuẩn bị sẵn sàng ở Anh vào cuối tháng tư, thì điều quan trọng là làm sao đoán biết được thời gian khởi diễn của nó. Những hạn chế di chuyển tại các thành phố bên Anh, sự tham dự của lực lượng địa phương quân (Home Guard). Những lời phàn nàn chỉ trích phát xuất từ nền kinh tế Anh, và nhất là sự tăng gia cường độ không tập, cho thấy trước một chuyển động đột khởi của cuộc chiến. Nó chỉ còn chờ hoàn cảnh khí tượng. Theo luận cứ của Hải Quân chiến đấu, Tư lệnh Lục quân Đức ấn định ngày 18 tháng 5 như là ngày ‘chắc chắn có thể’ mở đầu cuộc đổ bộ. Nhưng rồi cái ngày được chú ý ấy qua đi không có chuyện gì đột biến nên Hải đoàn mặt trận miền Tây chỉ phải đón nhận cuộc tấn công vào tháng 8.

Về phần Thống chế Rommel thì hàng ngày ông chờ đợi cuộc đổ bộ khai diễn: bởi vậy ông chuẩn bị quân lính của ông; ông tận dụng thời gian một cách thích thú cho những sự chuẩn bị về chính trị, về chiến lược và sự kiện toàn lực lượng phòng bị của binh đoàn ông.

Ông đã nhiều lần đề nghị được mở một cuộc tấn công để thăm dò nơi tập trung lực lượng địch và để gây hỗn loạn cho hàng ngũ địch. Dự án nầy đáng lẽ phải được thực hiện nhờ những cuộc tấn công của tiềm thủy đĩnh nhắm vào các hải cảng địch và nhờ ở những thủy lôi tự động loại mới, nhưng đã bị Hitler ngăn cản, trong khi sự tổ chức những cuộc không tập vào vùng tập trung quân đội và khí cụ của địch nhờ ở loại hỏa tiễn V1 cũng thường xuyên bị trì hoãn.

Theo ý kiến của Thống chế Rommel hồi tháng 4 năm 1944 thì những vùng đổ bộ có thể là ở cửa sông Somme, sông Bresle, sông Arques và sông Seine với những bến như Abbeville, Le Havre, bờ biển Calvados và quân cảng Cherbourg thuộc bán đảo Colentin. Ông cho rằng một cuộc tấn công chớp nhoáng một hải cảng lớn lao là điều can hệ đối với mạng sống của đoàn quân tấn công. Nhưng ông không thể ngờ tới tầm quan trọng của một ‘hải cảng nhân tạo’, tỷ như các hải cảng được dựng lên bất thần để sử dụng trong hồi tháng 6 tại bờ biển Calvados.

Ưu thế về không quân của Đồng minh đã được công nhận trong mọi trường hợp.

Dầu vậy, hải quân vẫn từ chối không chấp nhận những khả năng của cuộc đổ bộ trong vùng cửa sông Seine và dọc theo vịnh Calvados. Người ta cho rằng cuộc đổ bộ của lực lượng địch dọc theo bờ biển này không thể nào có được vì có những lớp đá ngầm cản trở. Bởi vậy những công sự tăng cường phòng thủ phần này của vùng Normandie không có gì đáng chú ý lắm.

Khi những nguồn tin về địch quân xác nhận sự quan trọng của vùng biển Normandie, nơi sẽ xảy ra cuộc đổ bộ, thống chế Rommel, vào đầu tháng 5 đã yêu cầu được đặt dưới quyền sử dụng của ông Quân đoàn III phòng không hiện đóng rải rác tại miền Trung và miền Bắc nước Pháp: với 4 trung đoàn phòng không và hai mươi bốn đội cao xạ tối tân D.C.A., quân đoàn này có một hỏa lực đáng kể trong việc phòng thủ chống phi cơ và thiết giáp tại vùng đất giữa hai con sông Orne và Vire miền Normandie. Thống chế Goering, tư lệnh không quân, đã từ chối.

Cuối tháng 5, hải quân phái đến vùng cửa sông Vire một vài pháo hạm nhỏ, đấy là những chiếc tàu tuần duyên võ trang đại bác, thường không có khu vực trách nhiệm.

Trong khi Hitler trông mong một cuộc đổ bộ của địch quân trên phòng tuyến biển Manche (chỗ mũi Gris-Nez) thì thống chế Rommel, qua những cảm nghĩ của ông về địch tình hồi đầu tháng 5, lại không tin hẳn như vậy. Theo ông, mặc dù có sự tiếp cận của căn cứ phát xuất, địch quân sẽ không đưa đầu vào một chỗ mà sự phòng thủ của đối phương được coi là mạnh nhứt. Tại vùng biển Bretagne cũng vậy, bất chấp những điều kiện thuận lợi về bến đổ bộ, theo ý ông, khó có thể xảy ra cuộc đổ bộ, căn cứ vào khả năng hành quân yếu kém của đối phương sau đó dù cho cuộc đổ bộ có thành công phần nào đi nữa.

Giả thuyết của Bộ Tổng tư lệnh Quân lực, theo đó địch quân sẽ có thể đổ bộ bằng những lực lượng khá quan trọng dọc theo bờ biển Bỉ và cửa con sông Escaut, cũng chỉ được vị Tư lệnh Binh đoàn đón nhận một cách dè dặt. Những mưu toan như vậy của địch quân, ông cho rằng nó đối nghịch với lý lẽ của sự tập trung, tại các hải cảng phía Nam và trong vùng xứ Galles phía tây nước Anh, một khối lượng tàu chuyên chở quân đổ bộ. Đồng thời, tấm bảng theo dõi hoạt động của Không quân địch cũng trái ngược với cách nhận xét như vậy.

Theo ý kiến của Thống chế Rommel, thì nhiều cuộc đổ bộ từng đợt, đồng loạt hoặc liên tiếp, có thể xảy ra trong khu vực liên hệ có tính cách chiến lược; cũng còn phải kể tới khả năng của một kế hoạch 'điệu hổ ly sơn'. Dưới mắt ông thì vùng bờ biển giữa sông Somme và vịnh Saint-Malo sẽ là vùng bị nguy hiểm.

Ngoài khu vực mà Bộ tư lệnh Binh đoàn phòng bị, người ta còn báo tin rằng địch quân có ý định đánh chiếm hai bên bờ sông Gironde và vùng bờ biển Địa trung hải. Dầu vậy, người ta cũng gạt bỏ ý nghĩ về một cuộc đổ bộ tại vùng Bordeaux vì cho là không thể thực hiện được. Còn về cuộc đánh chiếm tại vùng bờ biển Địa trung hải với những cuộc hành quân tiếp nối trên hai bờ sông Rhône để làm lung lay phòng tuyến Đại tây dương, người ta đặt xuống hàng thứ yếu qua những nghiên cứu chiến lược.

Về sự diễn tiến tiếp sau những cuộc hành quân của Đồng minh, Rommel suy đoán như sau: Cuộc đổ bộ thực hiện xong dù ở Bắc hay Nam ngạn sông Seine (kèm theo cuộc hành quân khóa chặt vùng Bretagne), mục tiêu thứ nhất của địch là khu vực rộng lớn của Ba lê. Từ đó, tất cả những lực lượng tập họp lại, họ tấn công thẳng vào lãnh thổ Đức. Thống chế Rommel cho rằng cuộc đánh chiếm vùng địa bàn Ba lê có tính cách quyết định bởi những lý do chính trị, chiến lược và tâm lý.

Chú thích:

[1] Đọc "Cuộc săn tìm vũ khí bí mật của Hitler" - Bản dịch Người sông Kiên và Lê thị Duyên - Sông Kiên xuất bản
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 18:46:58 | Chỉ xem của tác giả
- 5 -
VẤN ĐỀ ĐIỀU BINH KHIỂN TƯỚNG VÀ LỰC LƯỢNG ĐỨC TẠI MẶT TRẬN MIỀN TÂY

HUẤN LỆNH CỦA HITLER

HUẤN LỆNH CỦA HITLER ĐỐI VỚI MẶT TRẬN Miền Tây gồm những điều như sau:

Một trận đánh quyết định tại vùng Tường thành Đại tây dương, nghĩa là trận đánh có tính cách phòng ngự dọc theo bờ biển, nơi được hình dung như một chiến tuyến chính và phải cố thủ với bất cứ giá nào. Mưu toan đánh chiếm của địch phải được bẻ gẫy trước và trong khi cuộc đổ bộ diễn ra; những lực lượng đã đổ bộ được sẽ bị tiêu diệt tại chỗ bằng một cuộc phản công thích ứng.

Tự do chiến lược bị ngăn cấm tại mặt trận Miền Tây. Huấn lệnh buộc phải giữ từng tấc đất. Cấm không được bàn tới những chiến lược trong đó phỏng đoán về những mưu toan mà địch có thể sẽ áp dụng sau cuộc đổ bộ thành công tại vùng nội địa Pháp.

Hitler gạt bỏ mọi sáng kiến của trí óc. Những kinh nghiệm tại các chiến trường khác đã chứng tỏ rằng người ta chỉ chối bỏ sự tự do chiến lược vì ở trong thế bại.

Tổng tư lệnh lực lượng Anh, sau cuộc thất bại trên lục địa Âu Châu, và sau vụ tháo chạy khỏi Dunkerque tháng 6 năm 1940, cũng đã tự mình nghiên cứu những kế hoạch rộng lớn nhằm đẩy lui những cuộc đổ bộ của Đức lên đất Anh. Những kế hoạch nầy phát sinh từ những huấn lệnh chiến lược của Winston Churchill.

SỰ PHỐI HỢP CHỈ HUY

Sự phối hợp chỉ huy tại mặt trận miền Tây không đáp ứng đúng những định luật về chiến lược mà cũng chẳng thỏa mãn những đòi hỏi của hoàn cảnh và của lý trí. Hitler tưởng có thể áp dụng đối với chiến tranh cái nguyên tắc cách mạng mà ông vẫn thường áp dụng đối với vấn đề phân cách quyền hành. Ông tự cho rằng đã vận dụng được sự tranh chấp giữa các lực lượng khác biệt để phục vụ cho quyền lợi của mình. Điều này không những chỉ kéo theo một tình trạng rối ren trong vấn đề chỉ huy mà nó còn đưa dẫn tới sự hỗn độn. Dưới quyền của Tư lệnh mặt trận Miền Tây (Thống chế Von Runstedt) có Binh đoàn B (Thống chế Rommel) trách nhiệm vùng Pays-Bas - cửa sông Loire, và binh đoàn G (Đại tướng Blaskowitz) trách nhiệm vùng cửa sông Loire – biên thùy Tây Ban Nha – Địa Trung Hải – dãy núi Alpes.

Tư lệnh Hải đoàn mặt trận Miền Tây (đô đốc Krancke) nhận lệnh trực tiếp của Tư lệnh Hải quân. Đệ tam không đoàn (Thống chế Sperrle) nhận lệnh của Thống chế Goering, tư lệnh Không quân. Những cuộc hành quân trên biển và trên không vì vậy không thể được điều khiển hoặc ra lệnh bởi Tư lệnh Binh đoàn B. Những vị tư lệnh nầy chỉ được thông báo hạn chế về các hoạt động của hai binh chủng kia và thường là rất trễ. Họ có thể đưa ra đề nghị mà không biết chắc chắn có được chấp thuận hay không.

Ngoài ra, Thống chế Rommel đã nhận huấn lệnh riêng của Fuhrer săn sóc việc tổ chức phòng thủ chiến tuyến Miền Tây, từ Đan Mạch tới vịnh Gascogne, đến dãy núi Pyrenees, qua vùng Địa Trung Hải tới chân dãy núi Alpes; thêm vào đó ông phải lo thống nhất tất cả những biện pháp phòng thủ. Nhưng ông lại không có quyền tư lệnh. Người ta chỉ cho phép ông báo cáo trực tiếp với Hitler hay với Bộ tư lệnh tối cao của Quân lực. Ông vẫn phải thi hành lệnh của Tư lệnh mặt trận Miền Tây.

Những vị chỉ huy quân sự tại Pháp (tướng bộ binh Karl Heinrich von Stulpnagel), tại Bỉ và miền Bắc nước Pháp (tướng bộ binh Alexander von Falkenhausen) tại vùng Pays-Bas (tướng không quân Christiansen), về phương diện quân sự, được đặt dưới quyền của Tư lệnh mặt trận Miền Tây, nhưng về phương diện quản trị và áp dụng chiến lược trong vùng, họ trực thuộc Tổng tư lệnh Quân Lực. Quyền cai trị trong vùng chiếm đóng, kể từ mùa Xuân 1942, được hành sự bởi những sĩ quan mật vụ cao cấp (S.S), những sĩ quan cảnh sát và an ninh: họ nhận lệnh từ Himmler những mệnh lệnh mà các cấp chỉ huy quân sự không hề hay biết. Bởi vậy, Tư lệnh mặt trận Miền Tây luôn luôn bị đặt trước những sự việc đã rồi, trong tất cả những vấn đề lưu đày và bắn giết - ấy là chỉ kể tới lãnh vực quan trọng này.

Ngoài ra, tư lệnh tối cao của SS và cảnh sát còn kiểm soát quân đội bằng những nhân viên an ninh.

Tình hình chính trị tại Pháp không được tốt đẹp lắm sau những chuyện bất hòa xảy ra giữa các giới chức của Đảng và những cấp chỉ huy của SS. Tòa đại sứ Đức tại Pháp do Abetz điều khiển, do đó đã thành nơi chống chọi nhau vì tình trạng hòa bình chưa có giữa Pháp và Đức. Tình trạng luật lệ của chế độ chiếm đóng được duy trì, bất chấp những vi phạm đầy dẫy. Abetz nhận chỉ thị của Tổng trưởng Ngoại Giao Ribbentrop và hợp tác với chính phủ Vichy. Nhưng ông ta khước từ mỗi khi Hitler và Himmler nhận xét ông là người đắc lực. Thống chế Pétain già nua cảm thấy bị lừa gạt bởi những giới chức chính trị và đã nhiều lần nói rõ điều này với bọn lính Đức.

Tổ chức Todt cũng vậy, cũng làm việc tùy theo cái mà người ta gọi là “những mệnh lệnh của Fuhrer”, theo chỉ thị của Tổng trưởng Quân trang và Quân giới, và còn theo những chỉ thị khác của Tư lệnh lục quân Đức. Cũng ở điểm nầy, Tư lệnh mặt trận miền Tây chỉ có thể góp ý kiến chứ không có quyền ra lệnh. Một bằng chứng hiển nhiên của sự hỗn tạp này xuất hiện trong sự khác biệt về cách trang bị các đồn lũy ở miền duyên hải và những hòn đảo trong biển Manche.

Chính Binh đoàn B với vùng trách nhiệm phòng thủ khoảng chừng 2.00 cây số cũng không được quyết định gì trong việc xây đắp các công sự phòng thủ. Binh đoàn cũng vẫn phải đắm mình vào mê lộ bất tận của các cơ quan Hành chánh. Tất cả những sự trình bày của Binh đoàn này vẫn ở trong tình trạng không có kết quả. Tổ chức Todt thuộc loại siêu tổ chức và siêu trang bị. Họ xây đắp đồn lũy thường là tùy hứng, không chú trọng tới những đòi hỏi khẩn thiết về quân sự. Tổng trưởng trang bị Speer đã cố gắng, nhưng quá trễ, kiểu chính tất cả các điều ấy.

Trong cuộc tháo lui từ đất Pháp, thường xảy ra tình trạng những cấp chỉ huy cao cấp SS và những bộ chỉ huy không quân không đếm xỉa gì đến hoàn cảnh quân sự, bỏ giáo cuốn cờ, rút vội đơn vị của mình đi, lấy cớ là cần thiết lập vị trí trong khu vực chống đỡ tiếp giáp nước Đức. Bấy giờ, người ta chứng kiến thấy một cuộc trốn chạy thực sự mà Bộ tư lệnh Binh đoàn đã tìm cách tránh không cho xảy ra trong khu vực trách nhiệm của mình với tất cả mọi sự hy sinh. Sự vô trật tự thảm hại này thường hay làm cản trở việc thi hành những huấn lệnh giờ chót của Bộ tư lệnh tối cao mặt trận miền Tây.

Thống chế Rommel, bằng vào các kinh nghiệm mà ông đã thu thập được trong vùng Địa Trung Hải, qua những thí dụ do Đồng minh cung cấp trong thời đệ I và đệ II thế chiến: Vị Tổng tư lệnh Hoa Kỳ, tướng Eisenhower, để tổ chức cuộc đổ bộ, đã nhận được quyền chỉ huy thật sự tất cả các lực lượng hải lục, không quân Anh – Mỹ. Bằng văn thư và bằng lời nói, Rommel yêu cầu được đặt dưới quyền ông, trong khu vực do ông chỉ huy, ba binh chủng Hải lục Không quân và tổ chức Todt, nhằm thực hiện sứ mạng một cuộc tử thủ.

Đề nghị nầy, dù được nhắc đi nhắc lại đôi ba lần, vẫn bị từ chối phũ phàng. Hitler chủ trương lối chỉ huy bập bềnh ấy: ông ta không muốn để cho quyền hành rộng lớn rơi vào tay mộtngười, nhất là rơi vào taycủa Rommel. Quyền lợi quốc gia đã bị hy sinh cho sự ngờ vực của Bộ tư lệnh tối cao.

Đúng là vì cái duyên cớ chia để trị ấy mà mặt trận Miền Tây mất tính chất thuần nhất của nó và bị rơi vào tình trạng hỗn loạn vô chính phủ.

THỐNG CHẾ ROMMEL VÀ BỘ THAM MƯU BINH ĐOÀN B

Bộ tư lệnh của Binh đoàn B đóng sát chiến tuyến trong lâu đài La Roche-Guyon, ở mé tây Ile-de-France, trên khúc lượn rộng lớn của sông Seine, vòng lên mạn Bắc, giữa Mantes và Vernon, cách Ba Lê 60 cây số về phía hạ lưu. Lâu đài của dòng quận công La Rochefoucauld là một dinh thự vương giả ở vùng Normandie, đã có từ năm 1.000 ; hậu diện quay ra phía những mỏm núi đá. Những di tích của lầu thành ngày xưa, với tòa vọng lâu đứng xa nhìn rõ, vây quanh ngọn đồi một cách hùng vĩ. Chỉ riêng có bộ tham mưu hành quân gọn nhẹ là đóng trong lâu đài, vì Thống chế vẫn để cho gia đình quận công ở lại, không bắt di cư. Trong gian phòng “Salle des Gardes” người ta có thể nhìn thấy chân dung vị quận công danh tiếng La Rochefoucauld, vị thống chế và là tác giả tập Cách Ngôn, một tác phẩm mà ảnh hưởng chẳng có liên quan gì tới chỗ này. Quận công La Rochefoucauld-Liancourt, một nhà từ thiện và lỗi lạc về chính trị, cũng đã ra đời trong lâu đài này.

Thống chế ở một căn nhà nhỏ vuông vức có sân thượng trồng đầy hoa hồng. Phòng làm việc của ông trang hoàng công phu theo một kiểu cách rất đẹp, với những đồ thủ công hoa mỹ thuộc loại Gobelins, và một chiếc bàn viết thời trung cổ, khảm xà cừ - chiếc bàn mà hồi năm 1685, Tể tướng Louvois đã ký chỉ dụ bãi bỏ sắc luật Edit-de-Nantes liên quan tới những hoạt động của Cơ đốc giáo: gian phòng làm cho người ta cảm thấy rõ nền văn hóa cổ thời của nước Pháp. Khi cuộc đổ bộ của phe Đồng Minh đã mở màn, và khi những cuộc oanh tạc của đối phương ngày một gia tăng, Rommel đồng ý cho Quận công được mang đi chôn giấu những đồ cổ, dưới những tảng đá trong ngôi nhà thờ. Những đồ cổ này về sau còn nguyên vẹn và vẫn còn y nguyên chỗ đó.

Bộ tham mưu của Binh đoàn chỉ vỏn vẹn là một ban tham mưu gọn nhẹ đảm trách công việc. Nó gồm có Trung tướng tham mưu trưởng Hans Speidel, Đại tá von Tempelhoff, phòng hành quân “IA”, đại tá Staubwasser, phòng tình báo “IC”, Đại tá Freyberg, phòng đầu vụ và tư lệnh các binh chủng: Đại tá Lattmann (pháo binh), Trung tướng Meise (công binh), Trung tướng Gehrke (truyền tin), Phó đề đốc Friedriech Ruge, sĩ quan Hải quân biệt phái. Ngoài ra, ban tham mưu này còn có một sĩ quan của Bộ tham mưu Không quân, một vài sĩ quan tùy viên và một phóng viên chiến trường. Bộ phận Tổng hành Dinh – một bộ phận không có quyền hành gì – đã bị giải tán trước khi cuộc đổ bộ mở màn. Họ được giao cho tham mưu trưởng đặc trách về nước Pháp để nơi đây sử dụng tùy nghi. Riêng về sĩ quan giám sát của Đảng Quốc Xã, binh đoàn đã sái lệnh, không cho họ ở trong bộ tham mưu. Sự kiện này, về sau, tham mưu trưởng Binh đoàn bị khiển trách trong các cuộc điều tra của Gestapo. Tháng 8 năm 1944, khi nắm quyền chỉ huy, Thống chế Model liền thiết lập ngay trong bộ tham mưu cơ quan giám sát chính trị này, một cơ quan có quyền báo cáo trực tiếp về cho Himmler và Bormann.

Trong nội tình Bộ tham mưu, công việc tỏ rõ dấu hiệu của một sự ăn ý hoàn toàn và sự tế nhị của từng cá nhân; nơi đây có được cái cảnh “trong ấm ngoài êm” và trạng thái thăng bằng hoàn hảo về tinh thần. Những cộng sự viên tận dụng được mọi khả năng sáng kiến. Trong những tuần lễ “bình yên” trước khi có cuộc đánh chiếm của quân Đồng Minh, Thống chế làm việc thật hăng say, vất vả. Gần như ngày nào ông cũng đi tới các đơn vị, không cần có đoàn hộ tống hùng hậu mà thường thường chỉ đi với viên sĩ quan tùy viên duy nhất là đại úy Laing, hoặc với phó đề đốc Ruge; ông phó đề đốc nầy là con người hào hiệp, trí thức nên được Thống chế tín nhiệm đặc biệt. Buổi sáng, Thống chế ra đi từ lúc 5,6 giờ, sau khi ăn sáng với viên tham mưu trưởng và hỏi han ông này những điều quan trọng nhất. Nghỉ ngơi một lúc buổi trưa tại một tiền đồn, rồi ông đi cho tới chiều. Khi ông về thì những cuộc thảo luận lại bắt đầu cho tới bữa ăn tối, bữa ăn đơn giản như của một nhân viên thứ cấp. Thống chế ngồi ăn chung với những cộng sự viên thân tín của ông, thường thường khoảng chừng mươi người, và thêm vào đó có một số khách được mời dự. Ông rất điều độ, uống rượu ít và không bao giờ hút thuốc. Ngồi vào bàn ăn, ông nói đủ thứ chuyện. Sau bữa ăn, ông cùng với viên tham mưu trưởng và Phó đề đốc đi dạo trong khu vườn xinh đẹp và gợi cảm của tòa lâu đài. Ông thích đứng dưới hai cây bách hương ngắm cảnh yên tĩnh của vùng thung lũng sông Seine và khung trời phía tây. Sau những cuộc thảo luận tiếp nữa, ông đi ngủ rất sớm.

Trong khi đi thăm tiền đồn, ông giải thích tình hình và dự án hoạt động cho sĩ quan và binh lính nghe. Ông khéo léo giữ một thái độ vừa phải, không khen nhiều, không chê quá… Ông nhấn mạnh tới sự quan trọng đặc biệt về tác phong của quân lính đối với dân chúng. Ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần những điều luật về nhân đạo phải được áp dụng trong thời chiến cũng như thời bình. Ông chú ý tới sự tôn trọng đúng mức quyền sống của con người; ông gây một tinh thần hào hiệp, một tinh thần đang bị thiếu sót trong thời đại của chúng ta và đã bị coi như yếu đuối theo tâm lý của Hitler[1].

SỰ PHÂN PHỐI CÁC LỰC LƯỢNG CỦA ĐỨC TRONG MÙA XUÂN 1944

Lục quân

Tháng 4 năm 1944, dưới quyền của Thống chế Rommel, Tư lệnh Binh đoàn B có hai lộ quân với tám Bộ tổng chỉ huy, 24 sư đoàn bộ binh, 5 sư đoàn không quân. Những lực lượng này được phân phối như sau:

Tư lệnh vùng Pays-Bas với một bộ tổng chỉ huy (bí số: EXXXVIII), hai sư đoàn bộ binh (347, 709) và một sư đoàn không quân (sư đoàn 16).

Tư lệnh vùng nầy là tướng không quân Christiansen; quân sĩ gọi ông là “ Krischan”. Trong Đệ I thế chiến, ông là người được chú ý trong bộ chỉ huy của một hộ tống hạm và đã được khen thưởng; sau ông chuyển sang ngành không lực Hải quân. Từ năm 1933, ông được thăng chức Đại tướng hiện dịch và được bổ nhiệm nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong binh chủng Không quân. Ông là một nhà hàng hải đầy chân tình, một mẫu người tốt, nhưng kinh nghiệm, học vấn và kiến thức chưa đạt tới tầm vóc của cấp tư lệnh lộ quân; riêng về chiến lược bộ chiến ông không lý hội được gì cả. Sự thăng bổ ông lên hàng tư lệnh lại càng dị thường; không cần quan tâm tới những nhu cầu tối yếu về quân sự, Thống chế Goering chỉ muốn đặt một người phụ tá đầy đủ tín nhiệm vào một chức vụ trọng yếu. Tham mưu trưởng của Christiansen xuất thân từ ngành kỵ binh và từ bộ tổng tham mưu; đó là Trung tướng von Wuhlisch, ông cố gắng bù đắp những nhược điểm của Christiansen. Ông nầy đã để cho ông phát huy rộng rãi mọi sáng kiến của mình.

Lộ quân thứ XV có bốn bộ tổng chỉ huy (LXXXIX, LXXXII, LXVII, LXXXI) sáu sư đoàn bộ binh (sư đoàn 70 gồm những binh lính đau bao tử, nhưng điều đó không cản trở họ chiến đấu dũng mãnh, sư đoàn 47, 49, 344, 348 và 711) hai sư đoàn không quân (sư đoàn 17 và 18) dàn ở tuyến đầu. Tám sư đoàn bộ binh (sư đoàn 64, 712, 182 –trừ bị, 326, 331, 83, 89, 346) và một sư đoàn không quân (sư đoàn 19) dàn ở hậu tuyến.

Tư lệnh Lộ quân thứ XV đại tướng Von Salmuth, là một người giàu kinh nghiệm về chiến thuật, chiến lược trong thời bình cũng như trong thời chiến. Ông từng là Tham mưu trưởng của Thống chế Von Bock tại chiến trường miền Tây năm 1940 và năm 1941, tại chiến trường Miền Đông, ông đã điều động quân đoàn thứ XXX đến tận vùng bán đảo Crimee; trong mùa đông sôi động năm 1942 -1943, ông chỉ huy Lộ quân thứ II gần Kursk. Chính ở đấy ông đã bị cắt chức tư lệnh vì tinh thần ‘đoàn thể’ của ông bị ngờ vực, điều gia dĩ rất là bất công. Là một kẻ chống đối chế độ Quốc xã, ông cảm thấy trước được ngày thảm bại của chế độ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 18:48:07 | Chỉ xem của tác giả
- 5 -
(tiếp theo)

Lộ quân thứ VII, với ba bộ tổng chỉ huy (LXXXIV, LXXIV, XXL) về sau nầy có đệ nhị Lữ đoàn dù, 7 sư đoàn bộ binh (sư đoàn 716, 352, 243 – không được đầy đủ, sư đoàn 319- trên những hòn đảo ngoài biển Manche, sư đoàn 266, 343, 265) dàn trên tuyến đầu, và hai sư đoàn bộ binh (84 và 353) một sư đoàn không vận (sư đoàn 91) và sau đó có hai sư đoàn dù dàn ở hậu tuyến.

Tư lệnh lộ quân là Đại tướng Dollmann, xuất thân từ ngành pháo binh. Ông am hiểu tường tận về tham mưu và chỉ huy; nhưng về chiến trường, ông chỉ mới có kinh nghiệm trong trận vượt sông Rhine thượng, một trận đánh kể ra không phải là trận sinh tử trên chiến trường Miền Tây, năm 1940. Sức khoẻ của ông khá yếu kém.

Những phương thức của Hitler đã làm đau đớn sâu xa lương tri của một con người và lương tri một người quân nhân nơi ông. Ông chết ngày 29 tháng 6 năm 1944 tại Bộ chỉ huy vì chứng bệnh tắc mạch máu. Trước đó ít ngày, Hitler đã quyết định thay thế tướng Dollmann nhưng Rommel không đồng ý.

Về phần lực lượng thiết giáp, tại vùng trách nhiệm của Binh đoàn, có ‘tướng thiết giáp mặt trận Miền Tây’, với một bộ tổng chỉ huy (lữ đoàn 1 thiết giáp SS) và 5 sư đoàn xe bọc sắt (sư đoàn 1 SS, 12 SS, 2, 21, 116).

Ở Pháp, về phía nam sông Loire, có lữ đoàn thiết giáp hạm LXIII với sư đoàn 9 và 11, cùng sư đoàn 2 và 17 thiết giáp hạm SS, những đơn vị nầy đang nằm dưỡng quân hoặc đang trong tình trạng tổ chức lại.

Tướng ‘thiết giáp mặt trận Miền Tây’, đại tướng bá tước Geyr von Schweppenburg, đóng ở Ba Lê; ông có một bộ tham mưu điều nghiên mà theo sự dự liệu sẽ trở thành bộ tham mưu hành quân. Đối với tất cả những vấn đề huấn luyện và tổ chức, ông tùy thuộc Đại tướng Guderian, tổng thanh tra lực lượng thiết giáp; về hành quân, trước hết, ông lệ thuộc vào Tổng tư lệnh mặt trận Miền Tây.

Đại tướng bá tước Geyr von Schweppenburg là một người vượt trên khỏi mức bình thưòng; ông xuất sắc trong lãnh vực quân sự cũng như chính trị, và theo tư cách lý thuyết gia ông có nhiều kinh nghiệm về chiến tranh cơ giới. Hồi trước đây, với tư cách là tùy viên quân sự tại Luân Đôn, ông đã không ngần ngại và kiêng nể gì khi báo động sự tách riêng ngày càng gia tăng của nước Đức. Cũng bởi những lời khuyến cáo ấy mà ông đã bị triệu hồi.

Chiều dài của phòng tuyến Đại tây dương ước độ 4000 cây số, chứa đựng 60 sư đoàn bộ binh trấn nhậm. Những sư đoàn này gồm nhiều thành phần già cỗi; những bộ tham mưu từng trải chiến trận rất yếu. Sự huấn luyện thường được giao cho các cấp chỉ huy đủ mọi cấp bậc, phần đông là lớn tuổi, nên không thích hợp với sứ mạng của họ. Về phương diện vật chất, những sư đoàn này trang bị rất yếu kém không khác gì thời Đệ I Thế chiến. Được phú dữ (trang bị?) một kỵ binh chẳng lấy gì làm đông đảo, họ hầu như nằm im bất động; chính họ đã phải cố gắng để có thể tự mình lo việc tiếp liệu. Những đơn vị này không thể nào có được tầm vóc ngang với kẻ địch của họ, một kẻ địch xuất hiện bất thần, cơ giới hóa, lẹ làng trong giả thuyết khi những cuộc đụng độ diễn ra dưới hình thức chiến tranh di động. Rommel đã nhiều lần lưu ý Bộ Tổng Tư lệnh Lục quân về các sự thiếu sót này; ngay cả khi trước mặt Hitler, ông cũng không ngần ngại biểu lộ rằng những sư đoàn ấy là những sư đoàn vô dụng trong một cuộc chiến tranh tân kỳ. Tất cả những lời trình bày của ông đều bị gạt ra một bên. Hitler cổ võ một chiến thuật đưa đến cho người lính sự tự sát sau những công sự phòng thủ của họ; họ không cần phải di động.

Những đơn vị thiết giáp chưa được tổ chức lại hoàn bị và sự huấn luyện vẫn còn dở dang. Thiếu cấp chỉ huy và thiếu khí cụ. Dầu vậy khả năng chiến đấu của các sư đoàn thiết giáp cũng vượt trên khả năng chiến đấu của các sư đoàn bộ binh đóng trong vùng. Tuy nhiên, nó chỉ tiến bộ được chừng 30 phần trăm so với khả năng chiến đấu của những đơn vị thiết giáp hồi năm 1940 - 1941. Trước hết sự huấn luyện của nó thiếu sót ở vấn đề thích ứng với loại vũ khí của không quân, một sự thiếu sót đã nhiều lần kêu ca. Trái lại, ở về phía địch quân, loại vũ khí của không quân lại rất được phát triển.

Bộ tư lệnh không quân cũng tỏ ra không am tường gì mấy những đòi hỏi này. Vốn dĩ đã thiếu sự thống nhất chỉ huy nên người ta không thể tổ chức những sự diễn tập phối hợp giữa cấp chỉ huy và binh sĩ, giữa bộ binh và không quân, đặc biệt là trong lãnh vực truyền tin.

Hải quân

Hải quân đã phải chịu đựng trong suốt cuộc chiến một tình trạng bi đát, lúng túng: tình trạng muốn thực hiện ý định mà không thể thực hiện được. Do nơi sức mạnh và vị trí chiến lược, Hải quân chỉ có thể là một lực lượng phụ thuộc. Chiến trường càng mở rộng, nó càng phải làm tròn những sứ mạng mới, những sứ mạng vượt khỏi huấn thị lúc đầu của Hitler, hạn định trong vùng lục địa.

Khi Đô đốc Reader bị cất chức, mặc dù ông đã cố ý không dính dáng gì đến chính trị, thì bên cạnh Hitler thiếu hẳn sự thăng bằng về quyền năng. Thực vậy, Hải quân chiến đấu là một binh chủng đã từ chối không theo những nhận thức về chính trị của Bộ tư lệnh tối cao một cách mạnh mẽ hơn cả Lục quân nữa. Tình trạng này xuất hiện cùng với sự bổ nhiệm Thủy sư Đô đốc Doenitz kế vị Đô đốc Reader; vả chăng nó trái ngược với ý muốn và lời khuyên của Đô đốc Reader. Nếu ở vào một vài khía cạnh nào đó, ngành Hải quân đã bị đánh giá quá cao thì cái lý do sâu sắc là, từ sau khi Blomberg ra đi, không còn có sự phối hợp thực sự trong vấn đề chỉ huy của quân lực, và không một giới chức thẩm quyền nào có thể định nghĩa rõ ràng được sứ mạng của ba binh chủng. Sự thiếu thống nhất trong cách điều nghiên những vấn đề chiến lược tổng quát cũng đã cho thấy nó khá nguy hiểm. Cũng như binh chủng Không quân, Hải quân an phận thủ thường và không mấy khi tỏ lộ sự hiểu biết cần thiết của họ đối với những đòi hỏi về một chiến lược thống nhất. Sau này dù họ tiến gần tới Đảng Quốc xã thì cũng chỉ để giữ gìn các đặc quyền của họ, mặc dù một số đông sĩ quan Hải quân đã tỏ ra thật sự là những người bạn tốt trong những sự giao thiệp trực tiếp với Quân đội.

Tư lệnh Hải đoàn mặt trận Miền Tây, Đề đốc Krancke (có phó Đề đốc Hoffmann làm tham mưu trưởng) tỏ ra bảo thủ tính chất độc lập của mình, sau những huấn lệnh của Đô đốc Doenitz, ông không có thể tự giải quyết được một cuộc tiếp viện rộng lớn khi biến cố xảy đến. Trong khi những đơn vị hải quân đóng tại Ba Lê - ước độ 5000 người – đáng lẽ ra phải được đưa đến tiền tuyến đang bị nguy, thì Hải đoàn lại đề nghị, vào buổi chiều ngày 20 tháng bảy 1944[2], dùng họ vào công cuộc giải thoát sở an ninh (S.D) đã bị vị tư lệnh quân sự ở Pháp bắt giữ: thực tế đó là đưa họ chống lại Quân đội.

Hải đoàn mặt trận Miền Tây gồm vài chiếc diệt lôi hạm, khoảng từ 10 tới 15 ngư lôi đỉnh, vài tiểu đỉnh tuần thám có tốc độ nhanh, một số tàu vét mìn, tuần dương hạm, tàu chở dầu và tàu Hải quân công xưởng. Trong trường hợp xảy ra cuộc đánh chiếm Âu châu, 40 tiềm thủy đỉnh đang túc trực tại bờ biển Đại tây dương phải tham dự ngay vào cuộc chiến. Nhưng chỉ có 6 đơn vị đã rời bến, và trước ưu thế quá lớn lao của Hải quân và không quân địch nên những đơn vị này không thu đạt được kết quả nào.

Hiệu suất của tàu ngầm không đủ bù đắp cho sự thiệt hại mà loại «vũ khí» này đã phải gánh chịu.

Đã từ lâu, không có màng lưới trinh sát nào của Hải quân và Không quân ngoài biển khơi.

Căn cứ vào những biến cố, chúng ta có thể hiểu ngay rằng tại sao buổi chiều ngày 14 tháng 6 năm 1944, 38 tàu trên mặt biển – trong số đó có 4 ngư lôi đỉnh – đã bị đánh chìm tại bến đậu và trong vùng trú ẩn của tàu ngầm tại hải cảng Le Havre trong trận không tập của địch. Hầu hết những ngư lôi đỉnh và tuần dương hạm đã bị loại ra ngoài vòng chiến. Cuộc tấn công của các phi đội địch đã được thực hiện ở một cao độ rất thấp và không có gì chống lại được công tác phá hoại của họ.

Ngày 29 tháng 6, nếu căn cứ vào những tài liệu của Đô đốc Doenitz tại Obersalzberg, người ta thấy Hải đoàn của Đức tại mặt trận Miền Tây còn được một ngư lôi đỉnh, 12 tuần dương hạm, 8 tiềm thủy đỉnh trong đó có chiếc Schnorchel, một chiếc tàu mới mẻ làm nhiệm vụ an ninh, lo phá những luồng radar dò xét của địch. Mặt khác, một số đông ban chỉ huy Hải quân, không còn tương xứng với quân số cũng như với những sứ mạng thật sự của các lực lượng hải chiến đã chỉ có thể, trước sự bị phá hủy gần như toàn bộ của hệ thống truyền tin, làm tăng thêm sự hỗn loạn. Thí dụ của tình trạng là vấn đề đặt hướng bắn cho pháo đội phòng duyên. Hải quân đã đòi hỏi nắm quyền điều hướng trận chiến bằng đại pháo bao lâu kẻ địch còn ở trên mặt nước. Đến lúc cuộc đổ bộ xảy ra thì chính Lục quân lại phải đảm đương tất cả công việc điều hướng pháo binh. Ngay từ trong giai đoạn chuẩn bị, những cách bố trí này cũng đã đưa tới sự bất đồng ý kiến về nguyên tắc kỹ thuật giữa pháo binh của Hải quân và đại pháo của Lục quân (sự chọn lựa vị trí gióng súng, các đài quan sát, tiếp tế đạn dược).

Binh đoàn B đã nhiều lần muốn thay đổi những cách bố trí này, nhưng ý kiến của Thống chế Rommel luôn luôn bị Hitler gạt bỏ. Còn đối với tầm tác xạ hữu hiệu của pháo đội trên chiến hạm của địch nhắm vào nội địa thì bộ chỉ huy Hải đoàn mặt trận Miền Tây đã trích toán theo tưởng tượng. Họ đã tưởng rằng tầm tác xạ ấy chỉ có thể vào sâu chừng 15 cây số ở những nơi bờ biển bằng phẳng; thực ra nó đã đạt tới mức từ 35 đến 40 cây số. Những ai đã từng chiến đấu ở vùng bờ biển Caen chắc hẳn am tường chuyện đó.

Không quân

Vấn đề tham chiến và khả năng hoạt động của Không quân tại mặt trận Miền Tây cũng như trên không phận của chính nước Đức đã thực sự trở nên nóng bỏng. Nhưng không làm sao nhận được của Bộ Tư lệnh tối cao Không quân những chỉ dẫn cụ thể về sứ mạng, về quân số và khả năng của họ, Thống chế Hermann Goering tránh mọi sự tuyên bố và chỉ đưa ra những câu trả lời mơ hồ. Trong những tháng dầu sôi lửa bỏng, ông không lúc nào dám đưa ra cảm tưởng của cá nhân ông và ông chỉ cố gắng hành sử quyền tư lệnh từ lâu đài Karinhall của ông hoặc từ Đông Phổ. Người ta không làm sao có được những lời giải thích khách quan, vả lại dường như chính Goering cũng không nắm vững được tình trạng thật sự của binh chủng Không quân của ông.

Phi đội thứ III – tư lệnh: thống chế Sperrle (với tham mưu trưởng là trung tướng Koller và kế đó là tướng Plocher) - nằm dưới quyền điều khiển trực tiếp của Thống chế Goering. Tổng tư lệnh Lục quân Đức chỉ có quyền nhưng rất hạn chế trong phạm vi đường hướng. Thống chế Sperrle, tư lệnh phi đội thứ III, là một con người tràn đầy sinh lực nhưng khi ông hiểu rõ được sự tổ chức không tốt đẹp ấy, thì sự hiếu động nơi ông lại biến thành cáu giận và mỉa mai. Ông luôn luôn cố gắng hợp tác trong tinh thần thân thiện với mọi cơ cấu bạn cũng như ông đã đồng ý kiến với các quan niệm chính trị của Rommel. Ông bị Hitler cất chức ngày 18 tháng 8 và đã đóng vai trò «con vật hy sinh» thế cho Goering.

Nếu theo những tài liệu thu lượm được của Phi đội thứ III trong phạm vi trách nhiệm thì từ hồi đầu tháng 6, trên toàn khắp trận tuyến Miền Tây, không lực Đức chỉ còn có 90 oanh tạc cơ và 70 khu trục cơ sẵn sàng ứng chiến trong số khoảng chừng 500 máy bay. Vì không lực địch quá trội nên những oanh tạc cơ và khu trục cơ này không làm nên trò trống gì. Ngày 1 tháng 4 năm 1944, Hitler đã hứa chắc với Tham mưu trưởng Binh đoàn B là sẽ cấp cho ngay trong đợt đầu, 1000 khu trục cơ phản lực: người ta chẳng bao giờ được nhìn thấy những khu trực cơ ấy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 18:49:57 | Chỉ xem của tác giả
- 5 -
(tiếp theo)

Về phía địch, ngày 6 tháng 6, họ tung ra 25.000 phi vụ để yểm trợ cho cuộc đổ bộ.

Không lực của Anh và của Mỹ, kể từ mùa Xuân 1944, đã làm bá chủ vòm trời và làm tê liệt tất cả mọi hoạt động của không quân Đức. Những máy bay của chúng tôi không thể đảm trách được công cuộc dò thám đầy đủ tin tức, cung cấp những không ảnh về lãnh thổ Anh, và trước hết là những tin tức về các lực lượng trú đóng tại các hải cảng địch, hoặc đang di chuyển trên Đại tây dương – tuy rất gần phòng tuyến. Chúng tôi không bố trí nổi những lực lượng không quân khả dĩ đẩy lui được những cuộc tấn công liên tiếp của máy bay địch, hoặc thực hiện một hệ thống ánh sáng phòng không, dù là tạm thời, bằng phương thức tập trung ánh sáng của căn cứ. Những oanh tạc chiến đấu cơ địch kiểu tối tân nhất với đoàn phi công tài ba, đã lần lần ngăn cấm mọi sự vận chuyển ban ngày của chúng tôi và gây ra cho chúng tôi những sự thiệt hại nặng nề. Những đoàn máy bay oanh tạc phá hủy những yếu điểm của hệ thống thiết lộ và đường bộ, những công trình mỹ (kỹ?) thuật thuộc đủ mọi loại, đến mức đã làm cho vấn đề tiếp tế trở nên thực sự tuyệt vọng trong trường hợp xảy ra cuộc đánh chiếm. Những vụ phá hoại đường xe lửa phía Tây phòng tuyến Bruxelles – Paris – Orléans đã làm cho việc tiếp tế thường xuyên bằng xe lửa không thể thực hiện được nữa kể từ trung tuần tháng 5. Việc xử dụng xa lộ trong vấn đề tiếp tế cũng bị bế tắc vì thiếu xe vận tải và nhiên liệu. Sự thiếu tiếp viện đã là nguyên nhân chính cho sự thất bại xảy ra từ mặt trận Phi châu năm 1912, trong cuộc hành quân ở Miền Đông cùng năm ấy và sau đó là trong cuộc chiến tranh di động tại Miền Tây. Tất cả những cây cầu trên sông Seine ở về phía dưới thành phố Ba Lê và những cây cầu bắc qua sông Loire ở về phía dưới thành phố Orléans đều bị những cuộc không tập phá hủy trước ngày 6 tháng 5 năm 1944. Cầu nổi không được thiết lập, bất chấp những ý kiến nhắc đi nhắc lại về chuyện đó; vật liệu để dựng những cây cầu tạm thời không có đủ số lượng cần thiết.

Không quân chiến lược địch liên tiếp thực hiện những cuộc tấn công trên lãnh thổ Đức và trên những vùng đất do Đức chiếm đóng.

Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận rằng một số phi công Đức vẫn hoạt động trên không, bất chấp ưu thế khủng khiếp của địch và thường là không còn hy vọng đáp xuống khi sân bay bị bom của Đồng Minh triệt hạ.

Thống chế Rommel không ngừng báo cáo bằnglời và bằng văn thư về Hitler ngay cả trước khi xảy ra cuộc đánh chiếm, để nhấn mạnh tới tư cách quan trọng của cuộc chiến đấu phối hợp ba binh chủng, và để làm nổi bật lên, như một yếu tố căn bản, sự yếu kém của không quân Đức. Ông dựa trên sự so sánh rút ra từ những kinh nghiệm của những cuộc hành quân và tiếp tế tại Phi Châu. Ông diễn đạt ý kiến với Hitler như sau:«Tới năm thứ năm của cuộc chiến. Bộ tư lệnh tối cao dĩ nhiên phải hiểu được rằng không quân phối hợp với lục quân sẽ tạo được một ảnh hưởng có tính cách quyết định, không chỉ ở trong những trận đánh mà trong cuộc chiến toàn diện.» Tất cả những lời thỉnh cầu, những lời báo động của ông không tạo nổi một tiếng vang nào. Hitler đã đưa ra những lời hứa hẹn về các loại vũ khí mới và về sự tham chiến của hàng ngàn khu trục cơ phản lực, để Rommel khỏi phải đề nghị hoặc trình bày gì nữa.

Thống chế Rommel không yên tâm về viễn tượng dựa vào loại “vũ khí thần sầu quỹ khốc.”[3]. Đã nhiều lần ông yêu cầu Tổng trưởng Speer cho biết về tình trạng của những phát minh ấy và sự tiến bộ của chúng cũng như về cái lúc nó bắt đầu hoạt động được.

Ông được trả lời là còn có một khoảng cách rộng giữa sự sưu tầm của khoa học và kỹ thuật, chế tạo loại bom nguyên tử. Thực ra, giáo sư tiến sĩ Otto Hahn đã sáng tạo ra được những phương pháp khoa học, nhưng về phần thực hiện người ta còn thiếu tiềm lực mạnh mẽ mà Hoa Kỳ sẵn có. Trong khi Đức đang thực hiện những cuộc thí nghiệm đầu tiên vào mùa Xuân năm 1943, thì cơ sở chế tạo và tồn trữ “nước nặng” (eaulourde: một loại nước kỹ nghệ) ở Thụy Điển lại bị các toán biệt kích cảm tử Anh và Thụy Điển phá huỷ; khi cơ sở này hoạt động trở lại được, vào tháng mười 1943 thì nó lại bị một cuộc dội bom san bằng. Giáo sư tiến sĩ Werner de Heisenber Goellilngen tuyên bố: “Người ta luôn luôn hỏi chúng ta, ngay cả ở bên Anh và bên Mỹ, là tại sao trong lúc ấy, Đức không toan tính chế tạo bom nguyên tử. Câu trả lời giản dị nhất đối với vấn đề đó là: Vì công việc ấy không còn có thể thành công được nữa trong khi chiến tranh đang diễn ra.”

Qua lời tuyên bố này, chúng ta cũng có thể chú ý đến sự thiếu ưu thế về không quân. Cứ suy xét theo kinh nghiệm của cuộc ném quả bom nguyên tử đầu tiên vào tháng 8 năm 1945 do không quân Hoa Kỳ thực hiện thì thấy rằng cần phải có lực lượng thật hùng hậu trên không trung mới có thể đưa được quả bom đến đúng mục tiêu của nó.

Nhiều lần Rommel cũng đã phê bình bằng lời và bằng văn thư tổ chức nhân sự của không quân Đức. Thí dụ như ở mặt trận Miền Tây không quân đã duy trì một hệ thống tình báo và điều nghiên quá lớn, đòi hỏi tới 50.000 nhân viên. Các cơ quan yểm trợ của không quân ở Miền Tây đã sử dụng một quân số hơn 300.000 người. Thông thường trong binh chủng không quân, quân số yểm trợ đông gấp 10 lần quân số phi hành, nhưng ở đây nó lại đông gấp trăm lần. Những con số này chỉ có thể cắt nghĩa được bởi nhu cầu muốn tạo một nhóm tay chân bộ hạ đông đảo của Goering, cũng như của Himmler: đó là một sự suy đồi đặc thù của tất cả các đại lãnh tụ cách mạng!

Không quân còn đặt dưới quyền sử dụng của mình Lữ đoàn III phòng không - một điều trái ngược với mọi lý lẽ và với những sự yêu cầu của Binh đoàn; Lữ đoàn III phòng không này nhận lệnh trực tiếp từ Ba Lê (Phi đội III) hoặc từ Đông Phổ (Goering). Khi cuộc đánh chiếm của quân Đồng minh khởi diễn, Lữ đoàn phòng không này không thể di chuyển lẹ làng vì nó bị phân phối rất luộn thuộm. Sự sử dụng hoả lực tập trung đáng kể của nó lẽ ra đã có thể có được một tầm quan trọng chủ yếu trong những ngày đầu của cuộc đổ bộ; nhưng vũ khí đặc sắc này chẳng bao giờ thực hiện được sự thống nhất mục tiêu hỏa lực và phòng không nhằm vào những điểm sinh tử của chiến trường. Tướng Tư lệnh Lữ đoàn III cao xạ phòng không đã bị Goering triệu về Đông phổ trong khi trận đánh Normandie đang tiếp diễn và đã vắng mặt trong suốt nhiều ngày mà Binh đoàn không được thông báo gì cả.

Ngưòi ta thấy diễn ra trên không trung cảnh tượng giống đã xảy ra như ở Phi Châu và ở Ý nhưng còn trầm trọng hơn. Đối phương làm bá chủ bầu trời bên trên phòng tuyến của những vùng Đức chiếm đóng và lãnh thổ Đức; các phi công đã biến dạng trên nền trời.

Những lỗi lầm phạm phải trong việc thiết kế, tổ chức và chỉ huy hầu như đã làm mục rữa không quân trước khi có trận đánh quyết định. Tất cả những sáng kiến dự liệu cho một cuộc chiến tranh trên không với tính chất chiến lược đã bị thất bại. Trận không chiến trên không phận Anh sau cuộc di tản lớn lao khối Dunkerque của đoàn quân viễn chinh năm 1940, sự hủy bỏ Đại Hạm đội chống Anh quốc, trận đánh trên Đại Tây dương, việc phòng thủ lãnh thổ Đức chống những cuộc không tập của Anh, Mỹ, sự thất bại trong vấn đề tiếp tế cho Stalingrad, Tscherkassy, Crimée và Phi châu bằng đường hàng không đã cấu thành những chương buồn thảm cho câu chuyện lịch sử nầy. Những phi công dũng cảm của chúng tôi là những nạn nhân của bộ chỉ huy của họ.

Trái lại, không quân Anh- Mỹ ở mặt trận miền Tây và trên đất Đức đã sớm hoàn thành mục tiêu chỉ định.

BỨC TRƯỜNG THÀNH ĐẠI TÂY DƯƠNG

Bức trường thành Đại tây dương là một đồn lũy chạy dài theo bờ biển mà sức mạnh của nó hay biến đổi. Ở những vị trí mà bộ Tư lệnh tối cao Lục quân Đức ước đoán có cuộc đổ bộ, và trên những cứ điểm sinh tử dọc theo bờ biển Manche, trước hết là mũi Gris-nez ở cửa sông Seine, chỗ pháo đài phía Bắc mỏm Cotentin, trên những hòn đảo “anglo - normandes”, ở quân cảng Brest và Lorient, đồn lũy kiên cố hơn. Trái lại, lúc Thống chế Rommel nắm quyền tổng chỉ huy thì người ta hầu như bỏ ngỏ bờ biển Calvados nhất là chỗ bãi phẳng phía trước thị trấn Bayeux.

Năm 1941, Hitler đã hạ lệnh đặt tuyến phòng thủ chính dọc theo bở biển. Vì bờ biển quá dài, người ta khó thể dự trù việc thiết lập một hệ thống của những vị trí tăng cường. Bờ biển Manche, và nhóm đảo "anglo - normandes”, phía trước Saint-Malo, những đảo Jersey, Guernesey và Sercq nằm trong một kế hoạch thực hiện trong 8 năm thành những đồn lũy “vô cùng kiên cố” . Đó là ý định của Hitler. Vì vậy mới phát sinh ra những đội “trọng pháo tấn công” đặt tại mũi Gris-nez với những đội như Lindemann (3 giàn đại pháo 406 ly), đội Grand Electeur (4 giàn đại pháo 280 ly), đội Todt (4 giàn đại pháo 380 ly)và đội Friedrich- August (3 giàn đại pháo 303 ly). Tất cả những đội trọng pháo này phải được sử dụng để yểm trợ cho việc tổ chức chiến tuyến Manche.

Mùa xuân năm 1914, trên nhóm đảo nhỏ “anglo – normandes”, người ta đã đặt 8 giàn trọng pháo với những khẩu đại pháo 3 ly, trong khi đó thì suốt một phòng tuyến đài trên 1.000 cây số từ Dieppe đến Saint- Nazaire cũng chỉ có một số lượng tương đương với 37 khẩu đại pháo. Một sư đoàn bộ binh có thêm một trung đoàn thiết giáp và một trung đoàn cao xạ tăng cường được chỉ định võ trang cho những giàn trọng pháo ấy. Người ta không hề xây dựng phi trường, dù rằng những hòn đảo “anglo – normandes” đáng lẽ ra chỉ có thể có một tầm mức quan trọng nếu nó là những phi trường quân sự. Rommel là một người phản đối kịch liệt việc dùng những hòn đảo làm thành lũy và ông ta yêu cầu rút bỏ những đồn quân vô ích ấy.

Toàn diện hệ thống thành lũy thiếu hẳn một ý thức điều khiển và thiếu vật liệu. Nó cũng chịu chung số phận về những khó khăn hành chánh - kết quả tất nhiên của sự lộn xộn về chỉ huy.

Vào năm 1944 các bờ biển chỉ có những đồn lũy dựng lên như những điểm tựa với những đài radar, những căn cứ chỉ huy, những giàn trọng pháo. Nhưng những công sự bảo vệ lại cũng chỉ là công sự thuộc loại chiến dịch, rất ít chỗ được xây bê tông vì thiếu vật liệu. Những điểm tựa lẻ loi đôi khi cách nhau bằng nhiều cây số. Hải quân đã quyết định rằng khoảng bờ biển giữa hai cửa sông Orne và Vire không cần đề phòng một cuộc đổ bộ vì nhờ địa hình địa vật của nó (có nhiều đá ngầm). Hơn một sư đoàn đã “bao sân” khu vực rộng chừng 50 cây số.

Sau cuộc thị sát khắp phòng tuyến lần đầu tiên vào mùa đông năm 1943 – 1944, Thống chế Rommel tỏ vẻ thất vọng về sức mạnh của “Bức trường thành Đại tây dương”, ông tìm cách tranh thủ thời gian nhờ vào sự làm việc của chính các đơn vị trú phòng, nhất là dọc theo bờ biển Normandie. Ông nghiên cứu lại những phương thức khả dĩ làm cho cuộc đổ bộ của địch gặp khó khăn thêm.

Tất cả những biện pháp liên quan tới việc phòng thủ bờ biển nghĩa là những sơ đồ và việc xây đắp đồn lũy, là do tay một kỹ sư, mà viên kỹ sư này lại không hiểu gì về chiến thuật chiến lược, không có được cái nhìn bao quát về tình hình chung của cuộc chiến cũng như chưa có một chút kinh nghiệm nào khả dĩ cho phép ông cộng tác với quân đội.

Từ 1941 đến 1943, ngươờ ta chưa thể hoàn tất được một kế hoạch phối trí về việc xây dựng thành lũy, mang chất liệu của cuộc phòng thủ bờ biển và nhằm mục đích thiết lập những giàn trọng pháo nói riêng, vì có sự chống đối về nguyên tắc làm chia rẽ Lục quân, Hải quân và tổ chức Todt. Rommel đề ra một sự cải tổ sâu rộng trong việc nghiên cứu những vấn đề này. Không những ông chỉ mang vào đó một sự hăng say lớn lao của cá nhân ông, mà còn đưa ra được những kiến thức phi thường về kỹ thuật, làm hoảng hồn những tay chuyên nghiệp. Những chỉ thị của ông có kèm theo họa đồ do chính tay ông vẽ, những chỉ thị này chứa đựng những phát minh và những dẫn ý căn bản.

Muốn làm cho cuộc đổ bộ của địch thêm khó khăn, ông đã cho đặt những chướng ngại vật ở mé bờ biển xếp thành những lớp san hô nhân tạo. Những con đường đổ bộ chỗ nước quá sâu sẽ được gài thủy lôi. Người ta chuẩn bị vô hiệu hóa các hải cảng.

Lằn mức của thủy triều dâng lên bãi biển trở thành đường phòng thủ chính và suốt khoảng chiều dài của bờ biển được biến cải thành từng loạt điểm tựa có gài thủy lôi. Nhưng hỏa lực của pháo binh – cách 18 hay 20 cây số mới có một pháo đội – không thể được tăng cường đúng mức, trước hết, vì thiếu bộ phận máy ngắm.

Trong lãnh vực này, Thống chế tìm ra những cách thức thích nghi và chấp nhận đề nghị của sư đoàn 21 thiết giáp chủ trương chế ra những bộ phận phóng đạn hàng loạt, bắn ra khơi một cách chính xác (giống như kiểu súng nhiều nòng của Nga: “Orgues à la Staline”). Nhưng vấn đề này được giải quyết quá trễ.

Để ngăn ngừa nguy hiểm trên những cuộc ném bom tập trung, người ta phân tán những công sự trú ẩn của binh lính và làm cho những công sự này thêm vững chắc. Chống lại những cuộc đổ quân bằng máy bay, người ta tổ chức một phòng tuyến trên đất liền nhằm khóa chặt vòng đai chiến lũy ngoài bờ biển, sâu vào phía trong từ 3 tới 5 cây số tùy theo địa hình từng chỗ. Cách bố phòng này nhằm ngăn chận sự liên lạc của địch giữa hai cánh quân từ biển vào và từ máy bay đổ xuống.

Chống quân nhảy dù và các máy bay lượn (Planeurs). Thống chế cho dựng những chướng ngại vật bằng những thân cây đốn xuống, ràng buộc với nhau bằng những dây kẽm, và thường là có gài mìn. Nhưng vì những công việc này đòi hỏi quá nhiều thời giờ và vật liệu nên nó chỉ hạn chế trong những khu vực thường bị máy bay chú trọng tấn công.

Rommel đã có ý tưởng rất rõ ràng về những cuộc hành quân không vận kể cả những khi thời tiết tỏ ra ít thích hợp với phi cơ; ông chỉ dẫn cho binh lính hiểu rõ như vậy. Ông đòi hỏi Hải quân phải đặt thủy lôi ngoài biển, nhưng thoạt đầu chỉ đặt được ở vùng biển Gironde thay vì ở vịnh sông Seine.

Việc gài thủy lôi, nói đúng ra đã được thực hiện dưới hình thức “rào cản sấm chớp”; những rào cản này sẽ được giăng ra lập tức trước một cuộc tấn công. Khi cuộc đánh chiếm mở màn thì tại bờ biển Normandie chưa có hàng rào thủy lôi. Riêng việc dùng thủy lôi tấn công do phi cơ thả xuống thì đã bị bộ tư lệnh tối cao quân lực gạt ra ngoài kế hoạch phòng thủ.

Những công việc thực hiện quan trọng đến nỗi phải nhờ vào sự hợp tác của dân chúng. Thống chế Rommel đề ra nguyên tắc là không một người dân Pháp nào tại địa phương bị cưỡng chế làm lao công, nhưng họ sẽ được trả tiền đàng hoàng khi họ tự nguyện làm việc. Những dân phu người Pháp phải được đối xử mọi mặt như người Đức. Riêng đối với việc bố trí những chướng ngại vật, phải nhận rằng dân chúng rất hăng hái tham gia vì ở những nơi nào có chướng ngại vật cuộc đổ bộ bằng máy bay sẽ khó xảy ra, kể cả những trận đánh trên bộ.

Có thể có ngập lụt tùy theo tính chất đất đai từng nơi. Người ta chỉ có thể chuẩn bị việc dự trữ nước ngọt trên phòng tuyến gần hải cảng le Havre, trong vùng lưu vực sông Dive và tại bờ biển phía đông của bán đảo Colentin, và việc chuẩn bị này đã được thực hiện. Trong mọi tình trạng về nguyên nhân, phải chú ý tới những thiệt hại gây ra bởi nước biển: vấn đề này theo kinh nghiệm của đệ nhất thế chiến, đòi hỏi trên mười năm làm việc.

Việc tuyên truyền quảng cáo cho Bức trường thành Đại tây dương bắt đầu từ năm 1942 khi cuộc tấn công thăm dò của quân Anh tại Dieppe bị đẩy lui và khi cuộc bài binh bố trận được coi như “một thắng lợi lớn về phòng thủ”. Những lực lượng Hải lục không quân địch đã thực hiện tại nhiều nơi trong thị trấn Dieppe một cuộc thí nghiệm về một lối đánh cảm tử rộng lớn, cuộc thí nghiệm này rõ ràng là để thăm dò lực lượng, định rõ vị trí quân Đức và thu thập những tin tức điều nghiên về một cuộc đổ bộ phối hợp. Những mệnh lệnh bắt được trong người những tù binh đã nêu rõ hạn định thời gian, không gian và quân số trong âm mưu của Anh. Khốn nỗi, những cấp chỉ huy tại mặt trận phía Tây đã để cho họ bị lôi cuốn bởi ấn tượng của một cuộc tuyên truyền rộng lớn đang tìm cách chuyển hướng sự chú ý của dư luận về mặt Tây để làm cho quên đi các cuộc hành quân ở miền Đông.

Để che giấu sự thiếu sót của những đồn lũy và để đánh lừa địch quân, Goebbels, theo những kinh nghiệm thu lượm được ở Bức tường thành phía Tây trong thời gian cuối mùa hè, đã phát động một chiến dịch tuyên truyền về vấn đề này tại Đức và nhằm vào nước ngoài: đối với ông, tất cả mọi phương tiện đều tốt. Ông lấy đội trọng pháo tấn công đặt tại mũi Gris – nez làm một thí dụ và tạo cho nó có sức mạnh thực sự để làm cho dân chúng Đức tin tưởng rằng bức trường thành Đại tây dương có một sức mạnh phòng vệ như vậy ở khắp mọi chỗ.

Trong cuộc chiến đấu dành để tranh thủ thời gian và đạt tới những mục tiêu chính trị - mà chúng ta sẽ phân tích say này - Thống chế Rommel đành làm lơ để cho người ta tuyên bố về những phương tiện phòng thủ mới, những chướng ngại vật trên bờ biển và chướng ngại vật chống cuộc đổ bộ bằng máy bay; ông để cho người ta phóng đại những chuyện đó trong quần chúng. Cũng chính vì những lý do ấy mà Rommel, bị thúc đẩy bởi sự cần thiết, đã đồng ý để cho cái quan niệm của mình về sự tuyên truyền phóng đại được trình bày trên phim ảnh và báo chí. Nhưng khi biết được rằng Tiến sĩ Goebbels đã quyết định ra lệnh cho các phóng viên báo chí không được ghi rõ ưu thế không quân của Đồng minh, ông liền phản đối sự coi thường ấy đối với địch quân, và trách cứ Goebbels về sự phổ biến sai lầm trong dư luận quần chúng, vì điều này chỉ có thể làm suy giảm tín nhiệm của dân chúng Đức trong vấn đề chỉ huy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 18:51:59 | Chỉ xem của tác giả
- 5 -
(tiếp theo)

Những biện pháp dùng để đánh lừa kẻ địch đã được cấp chỉ huy và binh lính áp dụng. Thí dụ: Việc phổ biến những tin tức liên quan đến những toán quân “tưởng tượng” mới tới, đến sự bắt đầu hoạt động của những bộ tham mưu mới thành lập, đến cái mà người ta gọi là một “nhân tài sắp xuất hiện”, tài liệu nghiên cứu về kế hoạch vận chuyển bằng đường hỏa xa, nghiên cứu về sự tổ chức những đơn vị mới do tất cả các giới chức thẩm quyền đảm trách, kể cả sự nghiên cứu của Hỏa xa Pháp dưới hình thức một loại công tác thông dụng và cần thiết, sau cùng, những tin tức liên quan đến những hoạt động ngày đêm của từng đoàn xe vận tải và tin tức về việc thiết lập những cơ sở tưởng tượng.

Rommel không có ảo tưởng về sự hữu hiệu của những biện pháp ấy; tuy nhiên tất cả mọi phương tiện dùng để tranh thủ thời gian đều hợp với ý ông. Nhưng đối với những phương pháp phô trương được Tổng trưởng tuyên truyền Đức quốc xã sử dụng thả giàn thì thực khó mà biết được hậu quả “gậy ông đập lưng ông” về phương diện tuyên truyền.

Về sau, Rommel phải yêu cầu Hitler cho ngưng ngay lối tuyên truyền phản sự thực liên quan đến Bức trường thành Đại tây dương - một công trình mà chính ông đã tham gia bằng nhiều phương diện.

* * *

NHẬN XÉT CHIẾN LƯỢC TRƯỚC KHI CÓ CUỘC ĐÁNH CHIẾM CỦA ĐỒNG MINH.

Trrước khi lên đường tới mặt trận miền Tây ngày 1 tháng 4 năm 1944, tân Tham mưu trưởng của Rommel hỏi hành dinh ở Obersalzberg để xin chỉ thị về vấn đề chỉ huy chiến lược. Nhưng Hitler và bộ Tư lệnh tối cao quân lực từ chối, lấy cớ rằng những chỉ thị như vậy là “thừa”. Tư lệnh mặt trận Miền Tây và Binh đoàn B, theo cương vị của nó, đã nhận được mệnh lệnh về một cuộc phòng thủ cứng rắn trên các bờ biển, không có thể đưa ra sáng kiến chiến lược bằng cách nào khác. Trong trường hợp xảy ra một cuộc đổ bộ ở một nơi nào đó, thì chỉ còn có liệng kẻ thù trở ra biển bằng "một cuộc giao tranh trên bờ biển". Những kinh nghiệm ở Salerne và Nettuno không hề được ghi nhận: trên hai địa điểm của bờ biển phía Tây nước Ý ấy, những lực lượng Anh với quân số trội hơn đã đổ bộ lên được dưới sự bảo vệ của Không quân và Hải quân của họ. Những đội thiết giáp trừ bị của Đức không thể ngăn cản kịp thời vì ở xa quá và vì ưu thế của không lực địch.

Trong trường hợp bị đe dọa đánh chiếm, phải chăng người ta đã có ý dự trù gửi đến đúng lúc nhiều đơn vị thiết giáp hung mạnh khác (từ 8 đến 10 sư đoàn), những động cơ phản lực đẩy và tàu chiến, đặc biệt là tàu ngầm, chưa kể đến sự tham dự có tính cách quyết định của loại vũ khí mới là hỏa tiễn V[4].

Cái quan niệm về sự phòng thủ bờ biển bằng mọi giá chịu ảnh hường, trong quyết định của Hitler, các lý do uy tín: cùng giống như ở Stalingrad, ở mặt trận sông Don, ở bán đảo Crimée, đảo Sicile và ở Ý. Nhưng “kẻ muốn phòng thủ tất cả không phòng thủ được gì cả”, vì “tuyến phòng thủ rộng lớn quá người ta không đủ quân… Những kẻ có trí óc kém cỏi mới muốn phòng thủ tất cả, những người hiểu biết chỉ nhắm vào mục tiêu chính” (Frédéric le Grand). Người ta hy sinh một sức mạnh mà sự tự do điều quân chắc chắn sẽ mang lại cho một cuộc phòng thủ thẳng đường và cứng nhắc vùng bờ biển. Điều này đã giúp cho Đồng minh giảm bớt được nguy hiểm trong cuộc đổ bộ lớn lao; thêm vào đó, quân Anh và quân Mỹ đang chế ngự mặt biển trong khi hạm đội Đức vắng bóng. Không quân Đức đã bị loại ra khỏi vòng chiến; điều này đã loại bỏ hẳn yếu tố căn bản về sự nguy hiểm đối với những cánh quân đánh chiếm. Bức tường thành Đại tây dương, về phương diện quân số và đồn lũy, chỉ là một đường đóng quân không có chiều sâu và lực lượng dự trữ quan trọng; những cánh quân đổ bộ của Đồng minh hơn hẳn lực lượng phòng thủ về số lượng, vũ khí và nhất là tính cách di động.

Các bài học rút tỉa được từ các cuộc đổ bộ vĩ đại trong lịch sử không cho thấy một sự so sánh trùng hợp bao giờ. Trên chiến trường Ai cập, năm 1798, Napoléon đã phải đụng độ với một hạm đội địch hùng mạnh hơn làm cho hạm đội của ông bị tiêu diệt ở Aboukir. Năm 1851, hạm đội Nga rất hùng hậu, nhưng chuyện rất lạ, nóđã không tham dự chiến trận khi quân Đồng minh đến nơi ở Crimée. Cũng như vậy, năm 1904, Nga cũng có một hạm đội hùng hậu; nhưng quân Nhật đã đánh cho tan tành trước khi họ đổ bộ lên vịnh Cao ly và – cũng như sau này ở Trân châu cảng – họ đột kích Port Arthur. Chỉ có tình trạng Hải quân các tiểu bang miền Nam nước Mỹ trong cuộc Nam Bắc phân tranh ở Mỹ là giống tình trạng quân Đức năm 1944: những tiểu bang Bắc Mỹ có một hạm đội trội hơn làm cho hạm đội miền Nam không sao chống cự được.

Trước những kinh nghiệm còn nóng bỏng tại Ý, Thống chế Rommel biết rằng, trong một cuộc hành quân đổ bộ địch sẽ thắng nhanh chóng và chắc chắn, chỉ trong vòng ba ngày đầu gay cấn, nếu sự tương quan về lực lượng, nhất là trên không và trên biển, không thay đổi sâu rộng. Trong khi suy nghĩ, ông tự hỏi, sau khi quân Đồng minh đã đổ bộ được rồi, làm thế nào để phá vỡ những toan tính chiến lược của họ mà trước hết không phải gạt bỏ mệnh lệnh của Hitler liên quan đến việc cố thủ bờ biển. Căn cứ theo những lời xác nhận của Hitler, ông tin là ở khu vực Ba lê đã có một lực lượng thiết giáp khá sung mãn sẵn sàng mở những cuộc hành quân.

Ông trù liệu những gì có thể xảy đến: - địch đổ bộ ở khoảng giữa sông Seine và sông Loire; phản công; tạm rút về phòng tuyến sông Seine, nơi có thể giữ vững được, rồi tấn công ở phía nam sông Seine, tung ra những trận đánh từ phía đông và phía nam nhằm tiêu diệt lực lượng đổ bộ của địch;

- địch đổ bộ giữa sông Somme và sông Seine; phản công; vị trí cố thủ sẽ là phòng tuyến Amiens – Vernon và trên sông Oise; phản công ở khu vực giữa những con sông, điều tất nhiên sẽ đưa đến một cuộc tấn công trực diện;

- địch đổ bộ lên phía bắc sông Somme (điều này không chắc chắn lắm vì những lý do chiến lược chiến thuật và cũng vì địa thế nữa); phản công; đánh từ mạn nam sang mạn bắc.

Trong trường hợp địch đổ bộ ở phía nam sông Loire và vùng bờ biển Địa trung hải, người ta phải rút về vùng Midi của Pháp và giữ vững phòng tuyến sông Loire. Tập trung một lực lượng từ hai tới ba lộ quân với một số lượng dồi dào về thiết giáp, ở giữa khúc ngoặt của sông Loire và sông Jara, nhằm mở những cuộc hành quân chiến lược.

Nếu địch quân đồng loạt đổ bộ lên được phía nam sông Seine và dọc theo bờ biển Địa trung hải, người ta sẽ phải rút bỏ vùng Midi; như vậy sẽ phải giữ lấy phòng tuyến sông Seine – Yonne – Kinh Bourgogne và tập trung một loạt những cuộc hành quân quan trọng khu vực Troyes – Djon – Langres – Srint – Dizier.

Những trường hợp khác biệt này đã được nghiên cứu với tính cách riêng rẽ, linh động; mỗi lần nghiên cứu là một lần những lực lượng thiết giáp được đặt trong giả thuyết phối hợp với những lực lượng không quân sung mãn. Ngoài ra người ta dự trù tất cả những gì xảy đến bất thần, và nói chung, người ta lo liệu khi sẽ phải thực hiện một cuộc triệt thoái khỏi đất Pháp, Bỉ, Hòa lan, cùng với cuộc di tản chiến thuật phía sau sông Meuse, rồi phía sau bức tường thành miền Tây, hoặc vừa đánh vừa lùi, hoặc sau một cuộc đình chiến. (Những đột biến chiến lược, những cần thiết về chuyên môn, thời hạn và nhu cầu về quân số.)

Nếu, sau khi cuộc đánh chiếm của Đồng minh đã đạt thắng lợi, Hitler đã đưa ra được những quyết định chiến lược, nghĩa là quyết định bất thần di tản kịp thời khỏi vùng Midi, giữ phòng tuyến sông Seine, tổ chức một lực lượng trừ bị có tính cách chiến lược nhằm vào một cuộc phản công, có lẽ những biến cố thảm khốc của mùa hè năm 1044 đã không xảy đến quá nhanh chóng như vậy: Chính Rommel đã trình bày ý kiến của ông vào những ngày 17 và 29 tháng sáu 1914. Nhưng kết quả duy nhất về những cuộc đàm luận của ông chỉ là mệnh lệnh chính thức của Fuhrer ngày 2 tháng bảy 1944, làm nhớ lại mệnh lệnh tại Stalingrad mùa đông 1943: “Mọi mưu toan của địch toan chọc thủng phòng tuyến phải được ngăn chặn bằng một cuộc kháng cự kiên trì tại chỗ, mọi chủ trương rút ngắn phòng tuyến đều bị cấm chỉ, không có vấn đề tự do hành quân.”

Ngay trong khi chiến trận đang gay cấn, thống chế muốn áp dụng sự giải quyết của ông về sự linh động trong chiến lược, ngược lại với ý muốn của Hitler. Sự quyết định này tất nhiên là đã trễ, nhưng dầu sao nó cũng không quá muộn nếu nó còn được thực hiện trước khi quân Đồng minh chọc thủng phòng tuyến Avranches. Một cấp có quyền hành cao hơn đã không cho phép Rommel thực hiện cái quyết định cứu vãn tình thế ấy.

VẤN ĐỀ NHỮNG LỰC LƯỢNG TRỪ BỊ CHIẾN LƯỢC

Chiến lược tại mặt trận Miền Tây là đã dựa trên mệnh lệnh rõ ràng phải phòng thủ bờ biển bằng mọi giá. Về vấn đề những lực lượng trừ bị di động thì trước hết chỉ có một bộ chỉ huy tổng quát về thiết giáp và sáu sư đoàn thiết giáp là sẵn sàng sử dụng được.

Thống chế Von Rundstedt, xuất thân từ trường phái xưa cũ không hề chú ý tới những kinh nghiệm nóng bỏng ở mặt trận Miền Đông và Địa trung hải và không nhận xét được những phương thức chiến đấu của quân Anh-Mỹ. Ông đề nghị tập họp những toán trừ bị nhỏ trong vùng Nam và Đông Ba-lê để có thể ứng phó sau một cuộc đổ bộ của địch Ông tưởng như vậy là bảo vệ được sự tự do hành động của ông và có thể làm cho cái ưu thế hồi trước của Bộ chỉ huy Đức và binh lính của ông tung hoành tùy ý. Cái kế hoạch này có thể đúng, nếu Hải quân và Không quân Đức ngang sức với Hải và Không quân địch, hoặc ít ra nó đủ khà năng đương đầu với họ. Nhưng sự so sánh lực lượng đôi bên, sự yếu kém và thiếu sót của các đồn lũy phòng thủ bờ biển đã làm cho sự sửa soạn và thực hiện một cuộc hành quân như vậy trở nên cấp bách. Cho nên, cuộc chiến đấu tranh thủ thời gian này không thể thực hiện được với sự chiếm giữ mỏng manh vùng bờ biển. Cái cột trụ chính của cuộc hành quân như vậy chắc sẽ bị sụp đổ sớm.

Căn cứ theo tình thế lúc đó và dựa trên những kinh nghiệm mới xảy ra tại Ý, Rommel muốn đưa ngay sáu sư đoàn thiết giáp tới những địa điểm được coi như sẽ bị đánh chiếm. Theo ý ông thì không thể nào đẩy lui được những mũi dùi của địch mở rộng sau ra sau cuộc đổ bộ nều không có những lực lượng thiết giáp trừ bị ấy. Một hay hai sư đòan thiết giáp không đủ để dập tắt đám cháy trong tình trạng Không quân như vậy và trong sự thiếu thốn đường dây tiếp tế. Rommel cho rằng sứ mạng chiến lược ấy cần tới ít nhất là năm sư đoàn thiết giáp. Những sư đoàn này phải được chuẩn bị cho tất cả mọi kế hoạch linh động như phản công, tiêu diệt những lực lượng quan trọng của địch từ máy bay đổ xuống, chuyển vận từ phòng tuyến này tới phòng tuyến khác (ra khỏi quân khu sông Seine) và chiến đấu để bảo vệ cuộc rút quân. Trong khu vực trấn động của nó, đoàn thiết giáp này sẽ hợp lực để mở rộng khu vực phòng thủ sâu vào phía trong và thiết lập những chướng ngại vật chống máy bay.

Tất cả những sứ mạng này chỉ có thể làm tròn với từ năm đến sáu sư đoàn đủ tầm vóc, khi cuộc chiến đấu phối hộp được thành một lực lượng phòng thủ mà phần lớn là di động, không có Không quân và Hải quân yểm trợ, chống một kẻ xâm lăng hoàn toàn cơ giới hoá, sẵn có ưu thế hùng mạnh về Hải và Không quân.

Trận tấn công của địch bằng máy bay mở màn, từ tháng 4 năm 1944 và những hậu quả của nó cho thấy trước một cách chắc chắn rằng nếu sự tập trung ở quá sâu trong vùng hậu tuyến – thì dụ khu “Đại Ba lê” - thì những lực lượng trừ bị sẽ tới chiến trường bao giờ cũng quá trễ. Trong một buổi hội nghị, Thống chế tuyên bố: “Nếu những lực lượng của ta, trong giai đoạn đầu của cuộc đổ bộ, không đón đánh được địch, nó sẽ chẳng bao giờ xoay trở được nữa, bởi không quân địch quá trội… Nếu chúng ta không đạt được sứ mạng ngăn ngừa quân Đồng minh tiến theo đường biển, hoặc không đẩy lui được họ xuống biển trong 48 giờ đầu thì cuộc đánh chiếm của họ sẽ thành công; vì vắng thiếu những lực lượng trừ bị có tính cách chiến lược và trước sự nghèo thiếu hoàn toàn của Hai quân và Không quân, chúng ta sẽ thất bại.”

Kết quả của những trận đánh ở Salerne và Neltuno thực đã quá rõ ràng. Hơn nữa, những kinh nghiệm của cuộc chiến này cho thấy rằng chỉ những sư đoàn đã được chỉ định trợ chiến và đã có mặt ngay trong vùng chiến trận mới có thể thực sự tham dự tức khắc. Riêng về lực lượng mà người ta gọi là tổng trừ bị O.K.W[5] sự quyết định cho tham chiến thường quá trễ; sự quyết định cũng có một hành trình kỳ khôi không khác gì những toán quân bị liệng vào trận một cách bất ngờ và trơ trọi, theo những mệnh lệnh bất thần và ngẫu hứng của vị Tư lệnh tối cao: những toán quân thực ra đã bị hy sinh. Sau những nhận xét về chính trị, Thống chế nhận thấy cần phải có dưới quyền mình nhiều đơn vị thiết giáp vững mạnh để ứng phó với mọi bất trắc.

Đối với cá nhân Rommel, quả thực là một sự hy sinh lớn lao khi ông nghiên cứu cuộc chiến dưới hình thức chiến lược của nó, mà rồi chỉ có thể chuẩn bị nó dọc theo bờ biển với tính cách chiến thuật. Ông há chẳng đã từng đưa ra được những bằng chứng đáng cảm kích về tài chỉ huy có tính cách chiến lược đối với những đơn vị thiết giáp tối tân tại mặt trận Phi châu sao? Nhưng ông cũng hiểu rằng nếu phía sườn của quân ông bị phá vỡ ở những cứ điểm sinh tử tại mạn Bắc hay mạn Nam sông Seine, thì một cuộc hành quân nghinh địch sẽ không thể thực hiện được nữa.

Đã nhiều lần ông để nghị phải chuẩn bị sẵn sàng một lực lượng trừ bị có khả năng chiến lược – khoảng từ 6 đến 8 sư đoàn thiết giáp và 5 đến 7 sư đoàn bộ binh cơ giới. Những đơn vị này đặt dưới quyền chỉ huy duy nhất của Binh đoàn thiết giáp mặt trận Miền Tây, đóng trong khu vực Ba lê và ở mặt Đông khu vực này. Đó chính là điều Hitler đã hứa với Tham mưu trưởng Binh đoàn B ngày 1 tháng tư năm 1944. Những lực lượng này hợp thành Binh đoàn và Binh đoàn này, sau mỗi cuộc đổ bộ thành công của địch, sẽ hoạt động đúng như những điều đã nghiên cứu, sẽ chống trả kẻ địch bằng những trận bôn tập: lối đánh này giữ vững được tính chất chủ động của đoàn quân.

Ngoài ra, Rommel cổ võ sự thăm dò, vả trước tiên là sự xây dựng tuyến phòng thủ trên nội địa Pháp. Trong những nhận xét chung về chiến lược, trước hết, trong đầu óc ông, ông chú trọng đến phòng tuyến sông Seine và sông Yonne.

Sau khi đã cẩn thận xác định quan điểm giữa ông và Rommel, Thống chế Von Rundstedt chấp nhận ý kiến và đề nghị của Rommel. Những đội thiết giáp sẵn sàng ứng chiến đáng lẽ đặt trong vùng kế cận phòng tuyến, nay được đưa tới phía sau khu vực bờ biển, nơi xem ra có thể bị nguy khốn hơn cả, ở khoảng Bắc và Nam sông Seine.

Đại tướng Guderian, Tổng thanh tra các đơn vị thiết giáp, cùng với tướng Geyr von Schweppenburg tán thành giải pháp của Von Rundstedt; ông tới thăm Bộ tư lệnh của Binh đoàn vào tháng 5 năm 1944. Sau khi nghe những lời giải thích của Rommel và được thông báo rõ về những huấn lệnh chiến lược tại mặt trận Miền Tây, ông không phát biểu một sự phản đối quyết liệt nào đối với việc điều động và sử dụng những sư đoàn thiết giáp ứng chiến tức thời như đã trù liệu. Chính ông cũng muốn yêu cầu Hitler về việc gửi ngay đến một đoàn thiết giáp sung mãn có khả năng chiến lược. Nhưng tất cả mọi lời hứa của Bộ tư lệnh Tối cao quân lực vẫn ở trong tình trạng không hiệu quả. Không một lực lượng trừ bị di động và thiết giáp nào được gửi tới mặt trận Miền Tây – dù là một lực lượng thuộc bất cứ loại nào.

Những lời hứa như vậy của Hitler, chứng tỏ đó là một sự khinh suất lớn lao, vì cứ xem xét vấn đề một cách thuần túy và giản dị thì thấy rằng khó có thể trích lẩy những lực lượng khác từ mặt trận Miền Động, khi mà Hitler không thể giải quyết sự thu ngắn căn bản của chiến tuyến này. Ở Tổng hành dinh của Futhrer, sự chỉ huy dựa trên những quan điểm không phải là chiến lược mà là chiến thuật.

Sự tiến triển của những biến cố đã cho thấy Rommel hữu lý. Do bởi ưu thế Không quân và sự điều động lẹ làng những sức mạnh của phi cơ địch, không thể nào đưa được những sư đoàn thiết giáp đóng ở trung tâm nước Pháp kịp thời ra vùng bờ biển để tham chiến. Chưa ra được tới phòng tuyến Normandie, những lực lượng này đã bị đánh khập khễnh rồi.

Nếu cứ như lời Rommel đề nghị, ông đã có được lợi thế là những lực lượng thiết giáp đặt dưới quyền sử dụng của ông ở ngay sát chiến tuyến, sự tham chiến của nó trong ba ngày đầu gay cấn của cuộc đổ bộ chắc có lẽ đã tạo được một tình hình khác hẳn.

Chú thích

[1] Đọc “Rommel, con cáo già của sa mạc”. Bản dịch Người Sông Kiên và Lê Thị Duyên, Sông Kiên xuất bản.

[2] Sau khi cuộc mưu sát Hitler đã xảy ra và bị thất bại - đọc "Những trận đánh lịch sử của Hitler" - Sông Kiên xuất bản.

[3] Đọc: "Cuộc săn tìm vũ khí bí mật của Hitler" - Bản dịch Người Sông Kiên và Lê thị Duyên – Sông Kiên xuất bản.

[4] Đọc: Cuộc săn tìm vũ khí bí mật của Hitler – Bản dịch Người Sông Kiên và Lê thị Duyên – Sông Kiên xuất bản.

[5] O.K.W:Oberkommando der Wehramacht: Bộ Tổng Tư Lệnh tối cao quân lực.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách