Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: SupiaSup
Thu gọn cột thông tin

[Huyền Huyễn - Xuất Bản] Từng Thề Ước | Đồng Hoa (Chương 19)

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 5-5-2014 07:43:37 | Xem tất
Chương 13


Gió thu se sắt lùa biên ải [1].


13.1


Y đặt mảnh sọ còn sót lại của Vân Trạch xuống trước mặt mẹ. Luy Tổ chẳng hề khóc lóc kêu gào, chỉ đờ đẫn nâng mảnh sọ lên ôm vào lòng, luôn tay ve vuốt, miệng mấp máy, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra bà đang hát ru, “À ơi, thỏ chạy tung tăng, ngựa phi lộp cộp, ơi con cưng của mẹ, không đau đâu mà…”

Nóng lui lạnh tới, vắng thỏ bặt chim, chớp mắt đã cuối thu.

Như thường lệ, sau khi cùng dùng bữa tối, A Hành và Thiếu Hạo ở chung một phòng, ai làm việc nấy.


A Hành đang đọc sách y, chợt ngẩng lên thấy Thiếu Hạo chăm chú nhìn mình, bèn gập sách lại hỏi, “Sao thế? Chàng muốn đi nghỉ rồi à?”

Thiếu Hạo đáp: “Du Võng đang tập kết đại quân, e rằng sắp tới sẽ tấn công Hiên Viên. Theo thám tử Cao Tân báo về thì Du Võng muốn đòi lại vùng đất khi xưa bị Hiên Viên lừa gạt chiếm mất. Nàng thấy sao?”

“Sao lại muốn nghe ý kiến của thiếp? Thiếp đâu có dẫn quân tác chiến!”

“Trên bàn cờ gió mây vần vũ, hai người chúng ta chỉ là những con cờ bị lợi dụng mà thôi, nếu không cam lòng làm con cờ thì phải cố gắng vươn lên, hơn nữa, để được ta xem trọng, nàng buộc phải có năng lực khiến ta nể vì.”

A Hành lập tức ngồi thẳng dậy, ngẫm nghĩ một hồi rồi hỏi: “Sao Du Võng vội vã động binh với Hiên Viên thế? Y vừa đăng cơ được mấy tháng, vương vị còn ngồi chưa vững kia mà.”

Thiếu Hạo đáp: “Chính vì ngồi chưa vững nên y mới buộc phải động binh.”

A Hành ngạc nhiên, liền khiêm nhường thỉnh giáo: “Xin rửa tai lắng nghe.”

“Hiên Viên tộc sau khi lập quốc đất đai cằn cỗi nên vẫn luôn khuếch trương về phía Đông, xâm lấn không ít lãnh địa của Thần Nông, Vương tộc Thần Nông nằm giữa Trung nguyên, Hiên Viên chẳng xâm phạm được đến lợi ích của họ nhưng các nước chư hầu của Thần Nông phải gánh thiệt hại nặng nề, đem lòng căm hận Hiên Viên đã lâu. Chẳng qua khi xưa họ e ngại Viêm Đế đời trước đức cao vọng trọng, không dám gây chiến, còn bây giờ họ có sợ gì Du Võng, ắt hẳn đã liên kết với nhau xin phát binh, lại được mấy đại tướng nắm giữ binh quyền như Chúc Dung, Cộng Công đứng bên thêm dầu vào lửa, tát nước theo mưa nữa. Nếu thua trận, bọn Chúc Dung sẽ tha hồ đổ tại Du Võng dốt nát vô dụng còn nếu thắng, chúng vừa được lòng quân sĩ, lại được cả sự hỗ trợ từ các chư hầu. Lúc này Du Võng chưa ngồi vững trên vương vị, lại thêm bản tính thiếu quyết đoán, dưới sự ép buộc của quần thần, đành chịu để họ thao túng thôi.”

A Hành thở dài, “ Mọi người đều cho rằng đế vương muốn gì làm nấy, mấy ai biết được đế vương cũng luôn luôn bị kìm hãm, nhưng mà…”

“Nhưng mà làm sao?”

Để thăm dò tin tức về Xi Vưu, A Hành đành nghiến răng làm bộ bình thản nói: “Nhưng bên cạnh Du Võng còn có Xi Vưu hỗ trợ, bằng vào tính tình Xi Vưu, hắn chẳng chịu để kẻ khác thao túng cắt đặt đâu.”

Thiếu Hạo thản nhiên đáp, giọng điệu vẫn điềm đạm như cũ: “Nàng nói phải, có điều bây giờ không đến lượt hắn làm chủ.”

Nghĩ đến Xi Vưu hiện giờ chỉ có một chức quan hữu danh vô thực, chẳng thể khống chế cục diện triều đình, A Hành không khỏi than thầm.

Thiếu Hạo nói tiếp: “Du Võng hiện giờ chỉ giống được Viêm Đế đời trước ở lòng nhân đức, chứ mưu trí và quyết đoán thì thua xa, hầu như cả đại hoang đều cho rằng Viêm Đế phong Xi Vưu làm Đốc Quốc Đại tướng quân là để bổ sung cho khiếm khuyết của Du Võng, nhưng ta lại thấy Viêm Đế còn có dụng ý sâu xa hơn kia.”

“Dụng ý sâu xa hơn ư?”

“Mấy vạn năm trước, thực lực Cao Tân vốn vượt xa Thần Nông, Viêm Đế đời thứ ba của Thần Nông là người nhìn ra trông rộng, lại vô cùng quyết đoán, đã bỏ lệ phong đất cho những người trong họ tộc, mà thi hành luật mới, bất kể có phải người trong vương thất hay không, cũng chẳng cần câu nệ là thần hay người, miễn lập công cho Thần Nông thì sẽ được phong vương, được toàn quyền thu thuế trên đất phong của mình. Nhờ cải cách đó mà lớp lớp anh hùng xuất hiện ở Thần Nông, vận nước càng lúc càng hưng thịnh, dần dần áp đảo cả Cao Tân. Nhưng về lâu về dài, chế độ phong vương cho người khác họ dần dà để lộ nhược điểm, các nước chư hầu cha truyền con nối rồi kết mối thông gia với nhau, thế lực cũng đan cài vào nhau, khó tránh chỉ tin dùng người thân của mình, con em các nhà quý tộc rất dễ trở thành tướng quân hay quan lớn, còn những kẻ xuất thân bần hàn thì khó mà cất mặt lên được. Kẻ tài hoa tuyệt thế thường ẩn giữa đám tiện dân, nhưng vì thể chế hủ hậu nên chẳng những không có cơ hội thi thố tài năng mà còn bị đám con cháu quý tộc làm nhục, trong lòng họ hẳn đã dồn nén rất nhiều uất ức, một khi bị kích động sẽ trở nên vô cùng đáng sợ.”

Nghe tới đây A Hành dần hiểu ý Thiếu Hạo, bèn tiếp lời: “Xi Vưu xuất thân tiện dân, không có huyết thống quý tộc nhưng hắn chính là niềm hy vọng lập công dựng nghiệp, thi thố tài năng của những người tài xuất thân hèn kém, họ sẽ tự động tụ họp lại dưới cờ của hắn, để cho hắn dẫn dắt. Nhờ luồng sinh khí mới này, Thần Nông quốc mới có thể tìm lại được phong quang thuở trước, đây là dụng ý thật sự của Viêm Đế!”

Thiếu Hạo gật đầu cười, chẳng hiểu là tán thưởng A Hành nhìn thấu sự việc hay khâm phục tầm nhìn của Viêm Đế, “Xi Vưu tính tình ngông cuồng phóng túng, xem thường quy tắc thế tục nhưng lại rất trọng tình trọng nghĩa, anh dũng mưu trí, chính là bậc minh chủ của những con người nghèo khổ ấy, sớm muộn sẽ có ngày bọn họ liều mạng vì hắn. Chừng đó hắn mới có thể trở thành Đốc Quốc Đại tướng quân thật sự, vung kiếm chỉ huy thiên quân vạn mã.”

A Hành nghe đến chấn động cả tâm thần, vừa mừng vừa lo nói: “Thần Nông nằm giữa Trung nguyên, đất đai màu mỡ, sản vật phong phú, dân chúng đông đảo, nếu lại thêm một minh quân biết khai thác triệt để sản vật cũng như tận dụng mọi khả năng của người tài thì chẳng kẻ địch nào dám động vào nữa cả.”

Thiếu Hạo nghiêm mặt, “Dân số Thần Nông gấp đôi Cao Tân, lại sẵn địa hình hiểm trở, đâu đâu cũng là cửa ải dễ thủ khó công, trong khi Cao Tân toàn đồng bằng bát ngát, chỉ có sông nước là bức bình phong thiên nhiên bao quanh che chở, một khi Thần Nông tộc vượt sông thì ngày vong quốc của Cao Tân đã điểm.”

Tâm trạng A Hành cũng trở nên nặng nề. Hiên Viên tuy địa hình phức tạp, khí hậu đa dạng, cũng có nhiều quan ải để chống giặc, nhưng tiếc rằng đất đai cằn cỗi, sản vật nghèo nàn, dù bao năm nay phụ vương nàng dốc sức bù trì, sửa đê khai khẩn nhưng vẫn chẳng bì được với mảnh đất Trung nguyên một năm hai vụ mùa.

Thiếu Hạo khẽ thở dài, “Thật ra những khuyết điểm đó đều khắc phục được cả, điểm yếu chí mạng của Cao Tân chính là thể chế cứng nhắc đến bất di bất dịch ngàn vạn năm nay, chỉ coi trọng dòng dõi và huyết thống, nghiêm cấm kết hôn giữa những người không cùng giai cấp, triều chính thì bị con em vương tộc cùng bốn bộ Thanh Long, Thường Hy, Hy Hòa, Bạch Hổ lũng đoạn, khiến bao kẻ có tài trong Thần tộc, Nhân tộc hay Yêu tộc phải ôm hận bỏ đi. Tri Mạt, đệ nhất công thần của phụ vương nàng vốn thuộc Yêu tộc Cao Tân, vì xuất thân thấp kém nên bị người Cao Tân phỉ nhổ, ấy vậy mà y lại có thể theo phò tá phụ vương nàng dựng nên hùng đồ bá nghiệp tại Hiên Viên, được tôn xưng làm Đế sư.”

Nghĩ tới vận mệnh tương lai của hai đất nước, A Hành và Thiếu Hạo đều nghe lòng ngổn ngang trăm mối.

A Hành chợt hỏi: “Nếu bây giờ Thần Nông tuyên chiến với Hiên Viên, liệu Cao Tân có tham chiến không?”

Thiếu Hạo bình thản đáp: “Không đâu! Ta rất muốn biết lực lượng tích lũy suốt mấy ngàn năm nay của Hiên Viên ra sao, giờ đã có Thần Nông xung phong do thám hộ, Cao Tân đương nhiên sẽ khoanh tay đứng nhìn. Dù Hoàng Đế tới thuyết phục phụ vương tham chiến, ta cũng nhất định khuyên can!”

A Hành gượng cười: “Chàng có cần thẳng thắn đến thế không?”

“Khi nào cần dối gạt, ta sẵn sàng nói dối không chớp mắt, nhưng chuyện này không cần phải thế, dù sao nàng cũng nhận ra ngay ấy mà!”

A Hành chợt hiểu vì sao Đại ca và Thiếu Hạo có thể thành bạn thân, hai người bọn họ đều có thái độ thẳng thắn đến gần như tàn khốc. Nàng liếc đồng hồ nước rồi đứng dậy gom sách vở lại, “Chúng ta đi nghỉ thôi!”

Thiếu Hạo cùng A Hành nằm song song trên giường, cách nhau ít nhất hai thước.

A Hành bỗng lên tiếng: “Sáng mai thiếp định tới gặp phụ vương và mẫu hậu, xin hai người cho phép xuất cung. Chàng nói giúp thiếp mấy lời được chăng?”

“E rằng khó đấy. Cao Tân là Thần tộc từ thượng cổ, được xưng là dân tộc có lễ giáo, phong tục cổ hủ, phép tắc nghiêm ngặt, đừng nói là vương tử phi, ngay đến vương hậu cũng không thể tùy tiện ra ngoài.”

“Phụ vương cho thiếp mang theo ba ngàn tằm giống, nghe nói vì không hợp thủy thổ nên đã chết mất một nửa. Thiếp định nói rõ với phụ vương xin xuất cung khảo sát thủy thổ dân tình các nơi, chọn ra giống tằm Cao Tân phù hợp.”

Thiếu Hạo nghĩ ngợi một hồi đoạn nói: “Phụ vương tính tình nho nhã, chỉ thích thư họa ca múa, lại rất dịu dàng chiều chuộng phụ nữ nên chủ yếu khó khăn về phía vương hậu thôi, phụ vương đâu có để tâm chuyện hậu cung. Có điều vải vóc của Cao Tân đều trông cả vào đó, nếu sản lượng thấp sẽ khiến chất lượng vải kém đi, mặc lên người không thoải mái. Nguyên liệu dệt nên tơ lụa cho vương thất quý tộc Cao Tân mấy ngàn năm nay đều phải mua từ Hiên Viên, đây là khoản chi phí rất lớn, chúng ta cứ vin vào đó mà thỉnh cầu, hẳn phụ vương sẽ ủng hộ nàng, vương hậu cũng chẳng thể không nhượng bộ.’

“Cảm ơn chàng!”

Trong bóng tối, cả hai người đều làm thinh, qua một hồi lâu, Thiếu Hạo mới nói khẽ: “Cảm ơn nàng chịu dạy dân chúng Cao Tân chăn tằm dệt vải!”

“Chàng đừng quên chúng ta là đồng minh, hiện giờ thiếp đang là Đại vương tử phi của Cao Tân, đây cũng là việc nên làm thôi mà.”

A Hành trở mình quay lưng về phía Thiếu Hạo, Thiếu Hạo cũng trở mình, quay lưng lại phía A Hành.

Nhờ Thiếu Hạo giúp đỡ, A Hành đã được Tuấn Đế cho phép ra vào Ngũ Thần sơn, tuy nhiên phải có thị nữ và thị vệ đi cùng. Dù hiện tại chẳng được tự do như lúc ở Hiên Viên, nhưng nàng cũng hài lòng với kết qủa này lắm rồi.

Ngày tháng thấm thoắt trôi đi sau vẻ ngoài yên ả.

Cuối năm đó, Viêm Đế Du Võng phái sứ giả tới yết kiến Hoàng Đế, đòi Hoàng Đế trả lại phần đất đã xâm lấn của Thần Nông, bị Hoàng Đế cự tuyệt yêu cầu.

Trước trăm quan Thần Nông trên đỉnh Tử Kim, Viêm Đế tuyên bố chính thức khai chiến với Hiên Viên, giành lại lãnh thổ đã bị Hiên Viên lừa gạt chiếm giữ.

Cả triều đường sục sôi hào khí, các chiến sĩ trẻ chỉ mong được lấy máu mình rửa nhục cho tổ tiên, dưới thời Viêm Đế đời thứ bảy, nguyện vọng này không sao thực hiện được, nhưng đến thời Viêm Đế đời thứ tám, cuối cùng cũng đã đạt thành.

Chúc Dung được phong làm Chinh Tây Tường quân, dẫn năm trăm chiến binh Thần tộc, ba ngàn chiến binh Yêu tộc cùng năm vạn chiến binh Nhân tộc tiến đánh Hiên Viên, giành lại lãnh thổ bị xâm lấn.

Trận đầu tiên là mấu chốt để củng cố sĩ khí toàn quốc gia, có thể nói chỉ được thắng, không được bại nên A Hành đoán rằng phụ vương sẽ phái Đại ca Thanh Dương thống lĩnh ba quân chặn địch, nào ngờ Đại tướng quân chỉ huy quân đội Hiên Viên lại là Tam ca Hiên Viên Huy.

Hiên Viên Huy là con trai Tam phi Đổng Ngư thị, A Hành rất hiếm khi gặp vị ca ca này, cũng chẳng biết gì về năng lực của y.

Nàng liền đem thắc mắc hỏi Thiếu Hạo: “Sao phụ vương không phái Đại ca nhỉ? Chúc Dung hiệu là Hỏa thần, chuyên điều khiển lửa, tới lúc then chốt nhất định sẽ bày Hỏa trận, lấy lửa đánh thành, mà băng tuyết của Đại ca lại vừa khéo khắc chế được lửa của hắn.”

Đang đánh đàn chợt nghe A Hành hỏi vậy, Thiếu Hạo vừa gảy tiếp vừa đáp: “Nếu bây giờ Thần Nông tấn công Cao Tân, phụ vương cũng chẳng phái ta đi nghênh địch đâu.”

A Hành nghĩ ngợi một lát rồi nói, vẻ không muốn tin: “Sao phụ vương lại nghi kị Đại ca chứ? Đại ca là do phụ vương một tay dạy dỗ kia mà!”

Thiếu Hạo thản nhiên: “Khi con cái còn nhỏ, vẫn đang là con mình, Hoàng Đế thân làm cha đương nhiên sẽ dốc tâm huyết dạy dỗ nên một đứa con tài giỏi, nhưng dần dần con cái sẽ lớn lên, trở thành bề tôi, Hoàng Đế thân làm đế vương, hiển nhiên không thể để một bề tôi thâu tóm tất cả được, ông ta vẫn làm những việc nên làm ở từng địa vị khác nhau đấy chứ.”

A Hành dễ dàng chấp nhận việc Tuấn Đế nghi kỵ Thiếu Hạo nhưng lại khó mà chịu được cảnh phụ vương kiêng dè Đại ca, xem ra người ta chỉ có thể bình tĩnh trước những sự việc không can hệ tới mình thôi.

Tựa hồ rất hiểu cảm giác của nàng, Thiếu Hạo chỉ chăm chú gảy đàn, mặc A Hành ngây người ngồi đó.

Một hồi lâu sau, A Hành mới khó nhọc cất tiếng: “Chàng và Đại ca thật không hổ là bạn bè đồng cảnh ngộ, người ngoài đều kính trọng hai người như tuyệt thế anh hùng đời nay, còn người nhà lại chỉ chăm chăm đề phòng các vị hệt loạn thần tặc tử!”

Thiếu Hạo ngừng tay đàn, ngẫm lại lời A Hành vừa nói rồi bật cười: “Thật ra Thanh Dương còn khổ sở hơn ta.” Thấy A Hành ngơ ngơ ngác ngác, y nói tiếp: “Sau này từ từ nàng sẽ hiểu.”

Chúc Dung chia quân làm hai ngả tấn công biên giới phía Tây của Hiên Viên, bao vây ải Đồng Nhĩ, Hiên Viên Huy nhớ kỹ lời Hoàng Đế dặn dò, cứ giữ chặt trong thành không ra ngoài.

Ải Đồng Nhĩ dễ thủ khó công, Hiên Viên huy lại một mực cố thủ trong thành câu giờ, cứ theo tính khí nóng nảy của Chúc Dung thì sớm muộn gì cũng sơ sảy, chỉ cần hắn sơ sảy, Hiên Viên sẽ lập tức phản công.

Giữ thành thoạt nhìn có vẻ dễ dàng nhưng trải qua bao triều đại, danh tướng thạo công thành thì nhiều chứ giỏi giữ thành thì chẳng có mấy ai. Thủ thành thực ra là tâm lý chiến, thời gian kéo dài, quân Thần Nông từ xa tới sốt ruột đã đành, ngay cả quân Hiên Viên cũng thấy mệt mỏi. Để ép Hiên Viên động binh nghênh chiến, quân Thần Nông đã giở ra đủ mọi thủ đoạn. Trước sự khiêu khích của Thần Nông, binh sĩ Hiên Viên, hầu hết đều là những trang nam nhi bừng bừng nhiệt huyết, chỉ hận không thể xông ra quyết một trận sống mái với Thần Nông nhưng Hiên Viên Huy cứ lần lữa chẳng chịu nghênh chiến, dần dà khiến lòng quân oán thán.

Ba quân bắt đầu nảy sinh lời ong tiếng ve, nói Hiên Viên Huy hèn nhát, chỉ giỏi làm rùa rút đầu trong thành, nếu đổi lại là Đại điện hạ Thanh Dương hẳn đã đánh cho Chúc Dung tan tác từ lâu.

Hiên Viên Huy vốn đã mất hết kiên nhẫn lại nghe được những lời xì xầm của thuộc hạ, nhớ tới lời mẹ tha thiết dặn dò trước khi ra trận, lòng càng hoảng loạn hơn.

Trước lúc ra đi, Đổng Ngư thị mẹ y đã gọi y cùng Cửu đệ Di Bành lại bảo, “Có vài chuyện xưa nay mẹ vẫn giấu các con, giờ đây hai đứa đã lớn cả, cũng nên cho các con được biết. Ta và người đàn bà trên Triêu Vân phong kia sớm muộn gì cũng có ngày phải sống mái với nhau, bà ta không chết thì ta chết. Nếu Thanh Dương kế thừa vương vị thì ba mẹ con ta chỉ có đường tự tử thôi.”

Di Bành bất lực khuyên nhủ, “Mẹ à, mấy chuyện đó qua lâu rồi mà. Bây giờ Đại ca tốt với chúng con lắm, mẹ cứ canh cánh bên lòng chuyện cũ làm gì?”

“Tốt lắm ư?” Đổng Ngư thị giáng cho Di Bành một bạt tai, “Ta bảo con phải đề phòng nó bao nhiêu lần rồi kia mà? Con cứ hồ đồ như thế, sớm muộn cũng có ngày chết về tay nó cho xem! Nó đã thò lưỡi rắn vào miệng con mà con vẫn coi nó là anh em tốt à? Nếu con giúp Tam ca con một tay thì Thanh Dương đâu thể bành trướng thế lực như bây giờ?”

Dường như đã hoàn toàn thất vọng với Di Bành, Đổng Ngư thị quay sang buồn bã nhìn Hiên Viên Huy, “Huy nhi, lần này con ra quân nhất định phải thắng lợi! Đây là thời cơ ngàn năm có một của mẹ con ta, chỉ thắng trận con mới có thể được phụ vương trọng dụng, con nhớ nhé, nhất định phải chứng minh năng lực của con không kém gì Thanh Dương, phải thể hiện với phụ vương rằng con mới là đứa con trai ưu tú nhất của Người.”

Hiên Viên Huy chẳng biết đáp sao cho phải, đành quỳ xuống dập đầu, “Xin mẹ yên tâm, con nhất định sẽ dốc hết toàn lực.”

Lời hứa với mẹ vẫn đè nặng trong lòng, từng giờ từng phút nhắc nhở y. Chuyện này liên quan tới sự sống chết của ba mẹ con y nên y nhất định phải thắng, nhất định thế!

Hai tên thuộc hạ nôn nóng lập công đã nhận ra tâm tình xáo trộn của Hiên Viên Huy, liền xúi y mở cổng thành nghênh chiến, “Chúc Dung bôn ba đường xa tới đây, lại giằng co bao lâu nay, hẳn người ngựa đều mệt nhoài cả rồi, chúng ta lấy nhàn chống mệt, nhân sĩ khí bây giờ đang vượng, thừa lúc đêm khuya đánh úp một mẻ nhất định sẽ lập được công lớn.”

Hiên Viên Huy đang cần lập công lớn để khẳng định bản thân, vừa nghe đến “nhất định sẽ lập được công lớn” đã thấy nhiệt huyết trào lên, vội hạ quyết tâm ngay.

Y liền triệu tập các tướng lại bàn kế nửa đêm đánh úp Chúc Dung, tướng lĩnh thảy đều đồng tình, duy chỉ có quan chủ quản vận lương là Ứng Long kiên quyết phản đối, nhưng Hiên Viên Huy chẳng để vào tai, còn khiển trách Ứng Long: “Ngươi chỉ là một tên Yêu tộc nhãi nhép, lấy tư cách gì nói càn trước mặt các đại tướng Thần tộc bọn ta?”

Hết thảy tướng lĩnh Thần tộc trong phòng đều cười rộ lên, Ứng Long thấy vậy đành cúi đầu im lặng.

Nửa đêm Hiên Viên Huy đích thân dẫn theo tinh anh Thần tộc đánh úp Chúc Dung, còn bố trí mấy vạn đại quân Nhân tộc vây bủa bên ngoài sẵn sàng truy quét quân Thần Nông trốn chạy.

Mọi chuyện đều nằm trong dự liệu của Hiên Viên, đại quân Chúc Dung hầu như không hề đề phòng, vừa đánh đã bỏ chạy tán loạn.

Thấy ngọn cờ Ngũ Sắc Hỏa Diễm của Chúc Dung chạy về hướng Bắc, nơi chỉ có một dải đồng bằng bao la, hoàn toàn không thể phòng thủ, Hiên Viên Huy mừng rỡ khôn cùng, thầm nghĩ nếu giết được Chúc Dung, hẳn sáng mai thôi là mình nổi danh khắp đại hoang, rồi y lại lan man nghĩ tới Hiên Viên Thanh Dương, nghĩ tới phụ vương, nghĩ tới mẹ… Vì quá hăng hái, y quên khuấy cả thận trọng, chỉ lo tập trung tất cả quân đội Thần tộc đuổi giết Chúc Dung.

Bọn Hiên Viên Huy vừa đuổi tới nơi, đột nhiên lá cờ Ngũ Sắc Hỏa Diễm phân ra thành năm ngọn lửa, bập bùng vờn quanh. Hiên Viên Huy cười nhạt, biết Chúc Dung chuyên dùng hỏa công, y đã có chuẩn bị sẵn, bèn lệnh cho quân đội Hiên Viên bày trận hô mưa.

Chúc Dung cưỡi trên Tất Phương điểu lắc đầu cười, mỗi trận pháp không chỉ dựa vào tinh lực của Thần tộc mà còn phải biết cách vận dụng linh hoạt, hiện giờ đang giữa tháng Chạp đông giá, vùng này lại khô hạn lâu ngày, rõ ràng là địa điểm tốt để bày trận hỏa công, chứ hô mưa làm sao nổi.

Thần Nông thoạt nhìn như thể đang bỏ chạy tán loạn nhưng thực tế ai nấy đều đã ổn định vị trí đâu vào đó, Chúc Dung ngồi giữa trận thúc động linh lực, chỉ trong chớp mắt, ngọn lửa bắt đầu rần rật khắp vùng.

Hiên Viên Huy cũng lệnh cho các tướng sĩ hô mưa, nhưng thế trận của Hiên Viên bị vây giữa thế trận của Chúc Dung, linh khí trời đất ở đây lại hợp hỏa chứ không hợp thủy, dần dà, mưa của họ càng lúc càng nhỏ lại, trong khi lửa của Chúc Dung mỗi lúc một lớn, như muốn nuốt chửng quân địch.

Hiên Viên Huy bắt đầu hoảng sợ.

Hai bên giao tranh, bên nào dũng cảm hơn thì thắng! Chủ tướng vừa hoảng hốt, lòng quân lập tức hoang mang, binh lính bỏ chạy tán loạn, trận pháp liền tan vỡ. Quân Hiên Viên bỏ chạy càng lúc càng đông, nhưng trên trời dưới đất đâu đâu cũng có binh lính Thần Nông trấn giữ, thấy kẻ nào giết kẻ nấy.

Nhận ra mình đang bị lửa đỏ bao vây, Hiên Viên Huy toan cưỡi tọa kỵ bỏ trốn, nào ngờ Chúc Dung đã giáng Lôi Đình hỏa ép y phải đáp xuống đất.

Thế lửa càng lúc càng mạnh, tọa kỵ của Hiên Viên Huy thất kinh, giằng cương chạy trốn, chẳng buồn nghe lệnh y nữa.

Mất đi tọa kỵ, Hiên Viên Huy chỉ biết chạy tới chạy lui giữa hỏa trận, vận linh lực xua tan từng luồng hơi nóng, có điều hảo trận này do năm trăm Thần binh của Thần Nông chung sức tạo thành, lại được Hỏa thần Chúc Dung dốc toàn lực điều khiển, linh lực của Hiên Viên Huy làm sao chống nổi.

Dần dà y cạn kiệt linh lực, bị U Minh hỏa xâm nhập thân thể, thiêu đốt ruột gan, khắp người từ trong ra ngoài đều đỏ rực lên, phải gào thảm xin tha.

Chúc Dung đứng trên Tất Phương điểu nhìn xuống thấy hết mọi chuyện, đắc ý cười ha hả.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-5-2014 07:49:04 | Xem tất
Chương 13


Gió thu se sắt lùa biên ải [1].


13.2


Từ xa trông lại, thấy ánh lửa đỏ rực trời, Ứng Long biết đại cuộc đã hết cách cứu vãn, lập tức lệnh cho một đội quân Yêu tộc thông thuộc địa hình dẫn theo đại quân Nhân tộc rút lui. Còn y cùng hai ngàn quân Yêu tộc đóng ở hai bên sườn núi, vừa bắn tên yểm trợ đại quân Nhân tộc vừa lợi dụng dòng sông trong sơn cốc bố trí một trận thủy nhỏ, ngăn cản quân Thần Nông truy sát.

Chém giết suốt một đêm, đến nỗi trời đất cũng thành ra u ám, binh lính phơi thây đầy nội.

Trời vừa sáng, tin ải Đồng Nhĩ thất thủ đã truyền về Hiên Viên thành.

Toàn bộ tướng sĩ Thần tộc do Hiên Viên Huy dẫn đầu đều bị tiêu diệt, Yêu tộc thương vong nặng nề, Nhân tộc nhờ trốn vào núi sâu nên chẳng tổn thương một binh một tốt, quả là kỳ tích.

Hoàng Đế nghe trình tấu mà run rẩy cả người, ngồi phịch xuống ghế, không nói nổi một lời, hồi lâu mới trầm giọng ra lệnh: “Lập tức lôi tên Ứng Long lâm trận bỏ chạy xử tử, tất cả lính đào ngũ đều biến làm nô lệ, bắt làm lao dịch trong quân.”

Thanh Dương biết Hoàng Đế vì mất con mà đau lòng quá độ, sinh ra căm phẫn nên chẳng dám khuyên giải, chỉ đỡ lời: “Ứng Long chết không đủ đền tội, có điều hắn đã tận mắt chứng kiến trận chiến, lời nói ra là đáng tin nhất, chi bằng giải hắn về đây hỏi rõ tình hình quân địch rồi xử tử cũng chẳng muộn.”

Hoàng Đế chẳng còn sức mà lên tiếng nữa, chỉ xua tay tỏ ý Thanh Dương cứ toàn quyền quyết xử lý.

Thanh Dương nhận lệnh bước ra, bảo thị nữ Chu Du: “Ngươi lập tức tới biên giới cùng các quan viên áp giải Ứng Long về đây, nhớ chăm sóc cho hắn tử tế, dọc đường nhất định phải tôn trọng hắn, tuyệt đối không được thất lễ.”

Chu Du ngỡ ngàng, “Tại sao phải thế ạ? Chẳng phải hắn chết đến nơi rồi sao?”

Thanh Dương giải thích: “Chúc Dung thần lực cao cường, được tôn làm Hỏa thần. Ứng Long chỉ có hai ngàn quân Yêu tộc mà dám giao tranh với Chúc Dung, lợi dụng địa thế bảo toàn được tướng sĩ Nhân tộc, để cho Yêu tộc thương vong nặng nề, có thể nói là một viên tướng tài hiếm thấy, hội tụ đủ cả nhân, trí, dũng, tuy hiện giờ phụ vương đau lòng quá độ thành ra sơ suất nhưng khi bình tĩnh lại nhất định sẽ nghĩ thông mà trọng dụng hắn.”

Đang nói chợt y trông thấy Tam phi Đổng Ngư thị tóc tai rũ rượi nhào xuống khỏi xe loan, hai chân xỏ hai chiếc hài cọc cạch, hiển nhiên vừa nghe tin đã chạy đến đây xác nhận ngay, chẳng kịp rửa mặt chải đầu.

Đồng Ngư thị vừa chạy vừa gào lên thảm thiết, “Bệ hạ, bọn chúng nói láo, bọn chúng phao tin đồn nhảm…” Trông thấy Thanh Dương, bà ta liền trợn tròn mắt, căm hận nói, “Ngươi, nhất định là ngươi. Có phải là qủy kế của ngươi không? Ta biết ngươi muốn hại chết chúng từ lâu rồi, ngươi muốn báo thù cho Vân Trạch, là ngươi hại chết Huy nhi…” Bà ta vừa kêu khóc vừa lao tới đánh Thanh Dương, đám thị nữ phải cản lại.

Chu Du tái mặt sợ hãi nhưng Thanh Dương chẳng lấy đó làm điều, chỉ cung kính hành lễ với Đổng Ngư thị rồi lập tức bỏ đi.

Tiếng khóc thảm thiết của Đổng Ngư thị còn văng vẳng sau lưng y, “Huy nhi không việc gì, Huy nhi sẽ không việc gì đâu…”

Những lời này sao nghe quen đến thế…

Hơn ngàn năm trước, mẹ y cũng từng tái mét mặt khi đứng trước mặt y, luôn miệng lẩm bẩm: “Vân Trạch không việc gì, Vân Trạch sẽ không việc gì đâu…”

Bà tuyệt vọng nắm chặt lấy tay y, như thể cầu xin y khẳng định với mình “Vân Trạch không việc gì đâu”.

Y cũng muốn an ủi mẹ bằng câu “Mẹ yên lòng, Vân Trạch không sao đâu” biết bao, nhưng chẳng làm sao cất nổi lời, chỉ biết lặng lẽ quỳ trước mặt bà dập đầu thật mạnh, ra sức dập đầu.

Mẹ y nhũn người ra như bị rút hết gân cốt, ngồi phệt xuống đất.

Y đặt mảnh sọ còn sót lại của Vân Trạch xuống trước mặt mẹ.

Luy Tổ chẳng hề khóc lóc kêu gào, chỉ đờ đẫn nâng mảnh sọ lên ôm vào lòng, luôn tay ve vuốt, miệng mấp máy, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra bà đang hát ru, “À ơi, thỏ chạy tung tăng, ngựa phi lộp cộp, ơi con cưng của mẹ, không đau đâu mà…”

Thanh Dương còn nhớ thuở nhỏ Vân Trạch rất sợ đau, hễ trượt chân hay vấp ngã là khóc òa lên, lần nào như lần nấy mẹ đều ôm Vân Trạch vào lòng khe khẽ ru hời, Vân Trạch sợ đau như vậy mà lại bị thiêu sống đến chết.

Ánh mắt Thanh Dương buốt lạnh, khóe miệng càng lúc càng mím chặt.

Tin đại quân Hiên Viên bị tiêu diệt, một vị vương tử bỏ mình truyền đến Cao Tân, khiến triều đình nhốn nháo cả lên.

Quan viên trong triều kẻ chủ trương phái binh chi viện Hiên Viên kẻo một khi Thần Nông đánh bại Hiên Viên thì Cao Tân sẽ trở thành mục tiêu kế tiếp, kẻ lại phản đối, nói Hiên Viên chẳng qua mới thua một trận, Cao Tân nên nghe ngóng tình hình thêm đã, còn có kẻ đề nghị nên tặng mỹ nữ và lễ vật cho Thần Nông để bày tỏ thiện ý, nếu kết nối thông gia được với Thần Nông là hay nhất.

A Hành đang ở ngoài thành dạy đám phụ nữ quay tơ dệt vải, nghe tin này lập tức quay về Ngũ Thần sơn.

Về tới nơi, nàng cũng không dám xông vào giữa triều đường làm phiền các quan bàn luận, đành phải đứng ngoài đợi.

Hai vị vương tử Quý Ly và Tam Thân đều chủ trương chi viện Hiên Viên, sát cánh cùng nhau chống lại Thần Nông, còn mười mấy vị vương tử Yến Long, Trung Dung, Hắc Xi, vân vân… lại cho rằng không nên giúp Hiên Viên, ai nấy đều khăng khăng theo ý mình, tranh cãi rất găng.

Tuấn Đế bảo bọn họ yên lặng rồi hỏi Thiếu Hạo, “Con thấy thế nào?”

Yến Long và Trung Dung cười nhạt, Thiếu Hạo là rể Hiên Viên, cần gì phải hỏi nữa.

Vậy mà Thiếu Hạo chỉ đáp gọn: “Nhi thần nghĩ chúng ta nên án binh bất động.”

Tuấn Đế liền phán: “Vậy cứ thế đi, ta cũng mệt rồi, bãi triều!”

Thấy Thiếu Hạo phản đối xuất quân chi viện, Bán Hạ lén liếc A Hành nhưng nàng chẳng phản ứng gì, chỉ lặng lẽ đứng dưới thềm vắng đợi.

Thiếu Hạo bước ra khỏi đại điện cùng Quý Ly, đang đi chợt y dừng bước, nhường Quý Ly đi trước còn mình băng qua dãy hành lang trùng trùng, bước tới trước mặt A Hành, chủ động nắm lấy tay nàng, “Hai ta đi dạo một chút rồi hẵng về cung nhé.”

Bán Hạ cùng các thị nữ biết ý lui cả xuống dưới.

Thiếu Hạo lên tiếng hỏi: “Nàng nghe thấy ta nói gì rồi ư?”

“Vâng.”

“Nàng giận sao?”

A Hành đáp: “Thoạt đầu nghe nói cái gì toàn quân bị diệt, thiếp vô cùng lo sợ, vội sấp sấp ngửa ngửa chạy về, nhưng nghe chàng nói lại thấy yên lòng. Nhất định chàng nhận thấy Hiên Viên chưa bị tổn thương nguyên khí nên mới ung dung không xuất quân như thế, chứ nếu tình hình Hiên Viên nguy cấp, hẳn chàng đã phải nôn nóng từ lâu.”

Thiếu Hạo khẽ cười, tiếng cười lồng lộng trong gió, toát lên vẻ thích thú, “Trận chiến này e rằng chẳng thể kết thúc ngay trong một sớm một chiều, Cao Tân quả thật không cần phải vội.”

Nói đến đây Thiếu Hạo chợt ngừng lời, đưa mắt nhìn A Hành như thể đang đố nàng.

A Hành chẳng chịu lép vế, ngẫm nghĩ một hồi rồi đáp: “Bản thân Du Võng vốn không muốn gây chiến, phái Chúc Dung ra trận là việc cực chẳng đã mà thôi. Chúc Dung cũng chỉ muốn lấy lòng tướng sĩ và lôi kéo chư hầu chứ đâu có định đánh thật, giờ y đã thắng một trận vẻ vang, giết được một vị vương tử Hiên Viên, có thể nói là lập công lớn rồi, nếu đánh nữa sẽ phải tiến sâu vào lãnh thổ Hiên Viên khổ chiến, một kẻ không chịu tiêu hao binh lực của mình như Chúc Dung nhất định không chịu tiến sâu thêm đâu, nếu có quan viên nào xúi giục tiếp tục đánh, y cũng sẽ đứng về phía Du Võng vì lợi ích bản thân cho xem.”

Thiếu Hạo gật đầu, “Thật chẳng hổ là muội muội của Thanh Dương, tiến bộ rất nhanh, có lẽ chẳng bao lâu nữa nàng có thể cầm quân ra trận rồi.”

A Hành chắp tay thi lễ với Thiếu Hạo, “Đó là nhờ thiếp được thầy giỏi chỉ bảo, ngày ngày đều cùng chàng bàn luận những chuyện này, chỉ cần không phải gỗ mục thì nhất định phải có tiến bộ chứ, có điều…”

“Có điều làm sao?”

“Thiếp rất ít khi tiếp xúc với Tam ca, gần như chẳng có ấn tượng gì, nói thật, nghe tin huynh ấy chết trận, thiếp kinh ngạc nhiều hơn là đau buồn, nhưng huynh ấy là con trai của người phụ nữ mà phụ vương sủng ái nhất, e rằng bây giờ phụ vương thiếp đang đau lòng khôn xiết, dù Chúc Dung không tiến đánh Hiên Viên nữa, phụ vương thiếp cũng chưa chắc chịu bỏ qua cho y.”

Thiếu Hạo phân tích: “Luận về tài tình phẩm mạo phụ vương ta đều đứng đầu, chỉ phải cái tai thính quá, hơi một tí gió lay cỏ động là nơm nớp đề phòng mấy đứa con trai, nhưng nếu có đứa con nào bị giết hại, nhất định Người sẽ lập tức xuất quân báo thù cho chúng ta không tiếc bất cứ thứ gì, còn phụ vương nàng thì khác, Hoàng Đế chỉ đau lòng trong chốc lát mà thôi, qua cơn đau xót sẽ lại lấy đại cuộc làm trọng.”

Nghe Thiếu Hạo nói, A Hành thấy lạnh buốt cả cõi lòng.

Nghĩ tới Thanh Dương, ánh mắt Thiếu Hạo chợt thấp thoáng lo âu, “A Hành, nàng có biết mình còn một ca ca nữa không?”

“Thiếp cũng có nghe loáng thoáng, luận vai vế huynh ấy đáng ra là Nhị ca, có điều qua đời quá sớm nên mọi người cũng không nhắc tới.”

“Nàng biết y chết thế nào không?”

“Tứ ca kể với thiếp là huynh ấy mắc bệnh mà chết, thiếp sợ mẹ đau lòng nên xưa nay chẳng dám hỏi tới, kể ra thì tên huynh ấy là gì thiếp cũng không biết nữa. Sao đột nhiên chàng lại hỏi chuyện này?”

“Có sao đâu, đột nhiên ta nghĩ tới thì hỏi thôi.”

A Hành buồn bã, “Cứ nói tuổi thọ của Thần tộc lâu dài nhưng chín ca ca của thiếp nay chỉ còn bảy. Chúng ta luôn ỷ tuổi thọ dài lâu, chẳng để tâm tới việc gì cả, lại cho rằng dù thế nào cũng còn rất nhiều thời gian, mà đâu biết thực ra rất nhiều thứ chỉ vụt qua trong chớp mắt, sinh mệnh đằng đẵng càng khiến cho nỗi đau dài ra vô tận mà thôi.”

Thiếu Hạo đưa mắt nhìn nàng rồi hỏi: “Thư tửu và hùng tửu ta cất đều ngon cả, nàng có muốn thử uống hai loại cùng lúc không?”

“Hay lắm!”

Quả thật phải uống một trận say khướt mới hóa giải được nỗi buồn vì toàn quân bị diệt, nỗi đau vì mất đi một người anh trai chôn sâu trong lòng A Hành.

Thiếu Hạo ngẩng lên trời huýt một tiếng lanh lảnh, triệu gọi Huyền điểu tọa kỵ đỗ xuống. Y nắm tay A Hành bước lên lưng Huyền điểu, mặc đám thị nữ thị vệ cuống quýt chạy theo hỏi: “Điện hạ, vương tử phi, hai vị đi đâu thế?”

A Hành bực bội cau mày với Thiếu Hạo, đoạn ngoảnh lại đổi sang vẻ mặt tươi cười, tựa vào lòng Thiếu Hạo, lấy giọng nhõng nhẽo trả lời bọn họ: “Vợ chồng ta đi làm chuyện vợ chồng, các ngươi cũng muốn theo nhìn ư?”

Đám thị nữ Hiên Viên còn đỡ, nhưng hết thảy thị nữ thị vệ Cao Tân đều kinh hãi khựng lại, không dám tin rằng đường đường vương tử phi lại dám thốt ra những lời dâm loạn đến thế.

A Hành nháy mắt với Thiếu Hạo, Thiếu Hạo lắc đầu cười lớn, lệnh cho Huyền điểu bay vút đi.

Đúng như Thiếu Hạo và A Hành phân tích, sau khi khao thưởng Chúc Dung thật hậu hĩnh, Du Võng chẳng mấy mặn mà với những lời đề nghị tiếp tục thừa thắng truy kích, Chúc Dung cũng lấy cớ quân sĩ không hợp thủy thổ, phát sinh bệnh tả để từ chối tiến sâu vào lãnh thổ Hiên Viên.

Về phía Hiên Viên, Hoàng Đế cũng phong thưởng Ứng Long thuộc Yêu tộc, khen ngợi y đã bảo tồn được binh lực Nhân tộc quý báu cho Hiên Viên.

Trước sự ưu ái của Hoàng Đế, Ứng Long chỉ biết khấu tạ liên hồi.

Đợi Ứng Long cùng các quan viên khác lui ra, trong đại điện chỉ còn lại Hoàng Đế và Thanh Dương, Hoàng Đế mới quay sang bảo: “Lần này con làm rất tốt, nếu không có con, ta chẳng những đã giết lầm một viên tướng tài hiếm có mà còn làm mất lòng Yêu tộc. Không có lương thảo, không có binh khí, thậm chí không có lãnh thổ đều có thể nghĩ cách, nhưng để mất lòng dân thì chẳng cách nào cứu vãn được cả. Con cũng phải nhớ lấy, trên đời này thứ đáng quý nhất chính là lòng dân, nhất định không được để mất lòng dân.”

Thanh Dương cung kính: “Nhi thần sẽ nhớ kỹ lời phụ vương dạy bảo.”

Hoàng Đế lại hỏi: “Chuyện Chúc Dung con thấy thế nào?”

Thanh Dương đáp: “Chúc Dung giết chết Tam đệ, đương nhiên chẳng thể bỏ qua, con xin được dẫn quân thảo phạt hắn, nhất định đem đầu hắn về gặp phụ vương.”

Hoàng Đế lắc đầu: “Không thể giết Chúc Dung được! Mẹ và bà hắn đều xuất thân tôn quý, có thế lực hùng hậu ở Thần Nông, nếu giết chết Chúc Dung chẳng khác nào bức mấy bộ lạc lớn kia tử chiến với chúng ta. Dân số Thần Nông đông gấp ba Hiên Viên, nếu họ quyết tử chiến với ta, dù quân ta có kiêu dũng mấy chăng nữa cũng không chống nổi đâu.”

Thanh Dương nghĩ ngợi một lát rồi nói: “Nhi thần ngu ngốc không hiểu ý Người, xin phụ vương giảng giải thêm cho.”

Hoàng Đế giải thích: “Cách hay nhất không phải là giết chết Chúc Dung, mà là khiến hắn quy thuận chúng ta, để thế lực của hắn thu về dưới trướng Hiên Viên.”

“Sao có thể được? Chúc Dung là người Thần Nông chính gốc mà!”

Hoàng Đế nhướng mày, ánh mắt sắc như dao, vặn lại: “Sao không được chứ? Thủy tổ của Thần Nông khi xưa chẳng phải cũng là thuộc hạ Bàn Cổ sao?”

Thanh Dương vội chữa lại: “Phụ vương nói rất có lý, Chúc Dung lòng tham không đáy, tự coi mình là kẻ có thần lực cao cường nhất trong Thần Nông tộc, đời nào cam lòng đứng dưới một Du Võng bất tài vô dụng. Chỉ cần đem món lợi lớn ra nhử hắn, hắn nhất định sẽ động lòng.”

Hoàng Đế gật đầu cười, “Có điều Chúc Dung cũng chỉ là một con chó hoang thôi, thoạt đầu phải lấy gậy đánh cho nhụt hết nhuệ khí để nó biết sợ rồi mới đem thỏ béo ra dụ dỗ, dần dà thuần hóa nó thành chó nhà.”

“Nhi thần hiểu rồi.”

“Chuyện này giao cả cho con, ta biết con có cài thám tử vào Thần Nông quốc, cứ sai chúng phao tin đồn nhảm để Du Võng cùng quan lại trong triều đinh ninh rằng Chúc Dung sớm muộn sẽ tạo phản, đợi khi nào Chúc Dung nhận ra cả triều đình đều nghĩ mình sắp làm phản, chừng đó hắn muốn không phản cũng không được.”

Thanh Dương quỳ xuống dập đầu, “Vâng.” Y hiểu những lời này của Hoàng Đế vừa là giao nhiệm vụ, cũng vừa là cảnh cáo ngầm, con làm gì ta đều biết hết.

Hoàng Đế cúi đầu lật lật công văn, “Con lui xuống đi.”

Thanh Dương đứng dậy hỏi, “Tam đệ vừa qua đời, hôn sự của Xương Ý có phải lùi lại không ạ?”

Hoàng Đế nghĩ ngợi rồi đáp, “Không cần, cũng đâu phải bậc bề trên qua đời, khỏi cần giữ quy củ chịu tang. Hơn nữa mùa xuân sang năm mới tới hôn lễ của Xương Ý, còn hơn một năm nữa, cứ cử hành đúng hạn đi! Giờ đang là lúc Hiên Viên cần dùng người, Xương Ý lại kết hôn với nữ tộc trưởng tương lai của Nhược Thủy, sau này chiêu mộ quân lính từ Nhược Thủy tộc cũng thuận tiện hơn nhiều.”

Chẳng rõ đang nhớ tới chuyện gì, Hoàng Đế chợt ngẩn ra, hồi lâu mới nói, “Tuy hôn sự có mẹ các con lo liệu nhưng mấy năm nay tinh thần bà ấy không được tốt, con nên đỡ đần thêm cho bà ấy, nhất định hôn lễ phải tổ chức thật trọng thể, mời hết khách khứa bốn phương để Nhược Thủy tộc thấy rằng chúng ta hết sức tôn trọng họ. Nhược Thủy tộc kiêu dũng thiện chiến nhưng tâm tư rất thuần phác, chúng ta càng tỏ lòng tôn trọng họ, họ sẽ càng trung thành với chúng ta.”

Lúc Thanh Dương còn nhỏ, Hoàng Đế chưa lập nên Hiên Viên quốc, Luy Tổ cũng chưa trở thành vương hậu nên chưa có danh xưng mẫu hậu, giờ đây Hoàng Đế bỗng vô tình dùng lại cách xưng hô ngày cũ ân cần dặn dò khiến Thanh Dương nghe mà chợt xót xa, chỉ biết cúi đầu thành tâm vâng dạ, đợi Hoàng Đế căn dặn xong xuôi, y bèn cáo từ lui ra.

Thấy Thanh Dương bước ra khỏi đại điện, Chu Du liền rảo bước theo sau, vừa đi vừa nói: “Tên khốn Ứng Long kia thật tệ, hôm nay nô tỳ trông thấy y bèn lên tiếng chào hỏi, chúc mừng y thăng quan tiến chức, nào ngờ y lạnh như tiền, chẳng hề tỏ vẻ biết ơn, cũng chẳng thèm nghĩ xem nếu không nhờ điện hạ, y đã phải bỏ mạng từ lâu rồi!”

Thanh Dương lườm Chu Du, chế giễu: “Ngươi đã ở bên ta hơn ngàn năm, cũng tu thành hình người mấy trăm năm nay rồi, sao vẫn dốt đặc cán mai như khúc gỗ thế?”

Chu Du ấm ức ra mặt nhưng chẳng dám phản bác, chỉ biết lẩm bẩm trong lòng, nô tỳ vốn là khúc gỗ mà!

Thanh Dương bèn nhẫn nại cắt nghĩa, “Ta cứu y là bởi phẩm chất và mưu trí của y, muốn cho y một cơ hội thi thố tài năng, nếu y tỏ vẻ thân thiết với chúng ta, ngược lại chính là phụ lòng ta, khiến ta thất vọng vì đã cứu y đó.”

“Thế là thế nào?” Chu Du vẫn ngơ ngác không hiểu. Thanh Dương hết cả kiên nhẫn, lạnh lùng nói: “Nếu y quá thân cận với ta thì phụ vương sẽ đắn đo khi dùng y, vậy há chẳng phải phụ tâm ý ta cứu y ư?”

“À! Té ra là thế, xem chừng nô tỳ trách oan y rồi! Nô tỳ đã nói Yêu tộc của nô tỳ luôn uống nước nhớ nguồn mà!”

Thanh Dương lắc đầu ngán ngẩm nhìn Chu Du, vừa đi vừa dặn: “Nhược Thủy tộc sùng bái nhược mộc[1],nhưng nhược mộc rời khỏi Nhược Thủy thì không sao sống nổi, ngươi nghĩ cách trồng cho được nhược mộc ở Hiên Viên đi, khi nào Xương Ý thành hôn cùng Trọc Sơn Xương Phó, ta muốn nhược mộc nở hoa dọc hai bên đường đón dâu.”

[1] Theo Sơn Hải kinh: ở Nam Hải, nơi hai dòng nước trong đục giao hòa vào nhau, có một loài cây tên nhược mộc, là khởi nguồn của Nhược Thủy. (ND)

Chu Du cười hì hì, “Việc này cứ giao cho nô tỳ, nô tỳ sẽ đi nài nỉ ông tổ của nhược mộc, lão ta còn nợ nô tỳ, cảm phiền con cháu lão nở hoa một lần chỉ là chuyện nhỏ.”

“Còn nữa, nhớ thúc cho đám dâu trên Triêu Vân phong chín sớm lên đấy.”

“Biết rồi biết rồi, Tứ điện hạ và vương cơ đều thích ăn dâu lạnh, chừng nào họ tới điện hạ nhớ làm một trận tuyết, nhân đó hái luôn dâu lạnh tươi rói, ngon hơn dâu ướp lạnh trong hầm băng nhiều.”

Thanh Dương nghe vậy lạnh lùng trừng mắt nhìn Chu Du khiến ả giật nảy mình vội cúi gằm mặt xuống than thầm, người ta ngốc thì lườm, người ta thông minh thì trừng, thế là sao đây!

Hết chương 13.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-5-2014 07:52:58 | Xem tất
Chương 14


ắm chặt tay, bên nhau mãi mãi[1] .


14.1


[1] Trích trong Kinh Thi, bài Kích cổ. (ND)

Ngẩng đầu nhìn tàng cây rợp những hoa, năm năm tháng tháng hóa như cũ, hoa có cười chê người đổi lòng? Nói cái gì hẹn biển thề non, chớp mắt đã tan theo bọt nước.


Gần mười người đàn bà xúm xít quanh một cái nong lớn, trong nong là mười mấy nắm tằm giống màu sắc khác nhau, A Hành lần lượt nhặt từng loại lên giảng giải.


“Những giống tằm phổ biến nhất ở đại hoang là tằm dâu, tằm tạc, tằm thầu dầu, tằm sắn, tằm dâu ngựa, tằm long não, tằm dẻ, tằm xư, tằm ô cựu, tằm liễu, tằm hổ phách… Đa phần chỉ cần nghe tên là biết thức ăn chủ yếu của giống tằm đó là gì. Các giống tằm khác nhau cũng có công dụng khác nhau, ví như tằm thầu dầu không ươm được tơ nhưng có thể kéo lụa sống, còn loại màu vàng kim này là tằm hổ phách, chuyên ăn lá cây kim, tơ dai mà lóng lánh như hổ phách, có điều sản lượng rất thấp nên chỉ dùng dệt vải vóc thượng đẳng thôi…”

Đám đàn bà nhặt tằm giống lên vừa phân biệt thật kỹ, vừa rì rầm trao đổi.

A Hành bước tới manh chiếu trúc trải cạnh đó, khoanh chân ngồi xuống sàng lọc những giống tằm láo nháo mà người làng thu thập được, đương lúc trời nóng bức, nàng lại hao tâm tổn sức phân loại nên chẳng mấy chốc đã đổ mồ hôi đầy đầu. A Hành đưa tay quệt mồ hôi trán, đang định kiếm miếng nước uống chợt thấy một cốc nước đưa tới trước mặt.

Ngỡ rằng ai đó trong số đàn bà kia đem đến cho mình, nàng thuận tay đón lấy uống một hơi cạn sạch rồi cười nói: “Cảm ơn.” Nghiêng người đưa trả chiếc cốc mới nhận ra là Thiếu Hạo.

Y đang ngồi xổm một bên tò mò nhìn nàng lựa tằm giống, còn đám người trong sân chẳng biết đã tản đi tự lúc nào.

“Chàng tới khi nào vậy? Sao chẳng gọi thiếp?” A Hành hết sức bất ngờ.

“Hôm nay trong triều chẳng có việc gì nên ta ra mấy thôn làng bên ngoài đi dạo nghe nói nhà nào nhà nấy đều có thể tới nhận tằm giống miễn phí, vừa khéo tiện đường, ta liền tới thăm nàng, thấy nàng đang giảng giải cho mấy phụ nữ kia có vẻ rất thú vị, ta bèn đứng ngoài lắng tai nghe, thật chẳng ngờ con tằm giống bé xíu mà cũng chứa nhiều kiến thức đến thế.”

A Hành nhoẻn cười, cúi xuống tiếp tục sàng lọc.

Thiếu Hạo hỏi: “Nàng lấy đâu ra nhiều tiền thế?”

“Chàng quên những thứ phụ vương và vương hậu thưởng cho thiếp rồi sao? Những vật dụng chuyên dùng trong vương thất thiếp đều sai Bán Hạ cất đi, còn các thứ khác chất đống trong kho cũng chỉ tổ bám bụi, chi bằng đem ra mướn người thu thập những loại tằm láo nháo về gây nên tằm giống.”

“Hèn chi dân tình mười dặm tám làng quanh đây đều hết lời ca ngợi phụ vương, té ra là vì chuyện này.”

“Thiếp dùng những thứ phụ vương ban thưởng nên đương nhiên ân trạch này thuộc về phụ vương rồi.”

Thiếu Hạo khẽ nói: “Cảm ơn nàng.”

A Hành thấy sắc mặt Thiếu Hạo u ám, tựa hồ vừa xảy ra chuyện gì đó không vui, nhưng y đã không nói, nàng cũng chẳng tiện gặng hỏi, bèn trỏ mấy con tằm giống trước mặt bảo, “Chàng giúp thiếp lựa giống tằm đi, cứ dùng linh lực kiểm tra, nếu thấy trứng tằm tốt, nở đều thì giữ lại, nếu thấy không tốt tức là không thể gây giống được, thì để thả lại ra đồng hoang.”

Thiếu Hạo khoanh chân ngồi xuống cạnh A Hành, bắt đầu sàng lọc. Y sẵn có linh lực cao cường nên tằm giống vừa qua tay đã tự động chia thành hai loại, chẳng hề mất công nhọc sức. Ỷ lại Thiếu Hạo, A Hành trốn việc không làm nữa, chỉ ngồi một bên vừa hóng mát vừa xem y làm.

Thiếu Hạo lại hỏi nàng: “Hôn lễ của Xương Ý đã định vào mùa xuân sang năm, Thanh Dương phái sứ giả tới xin phép phụ vương để sang năm đón nàng về Hiên Viên dự lễ cưới Xương Ý đó.”

A Hành mừng rỡ, “Thế phụ vương nói sao?”

“Phụ vương nhận lời rồi, còn bảo ta về cùng với nàng để bái kiến nhạc phụ nhạc mẫu.”

Nghĩ tới hôn lễ của Tứ ca, lại nghĩ tới việc mình được về nhà, A Hành vô cùng vui sướng, nheo nheo mắt ngắm vầng dương rực rỡ trên đầu ngọn cây.

Hai người làm thinh chẳng ai nói gì nên nghe rất rõ những âm thanh trong làng đưa lại, nào là tiếng trâu kéo cày, tiếng trẻ con đùa giỡn đuổi nhau… A Hành lại chạnh lòng nhớ tới Cửu Lê, giờ đang là tiết hoa đào nở rộ trong núi Cửu Lê, Mễ Đóa và Kim Đan đã con đàn cháu đống rồi chăng? Họ vẫn ca vang khúc sơn ca tỏ lòng mình với đối phương trong bóng hoàng hôn loang rực mặt sông kia chứ?

Thiếu Hạo cất tiếng hỏi: “Nàng đang nghĩ gì thế?”

A Hành khẽ đáp: “Nếu vĩnh viễn không có chiến tranh, cứ bình yên thế này mãi thì hay quá.”

Thiếu Hạo dịu giọng an ủi, “Sẽ như thế, nhất định sẽ như thế mà.”

A Hành vờ bình thản hỏi: “Gần đây phía Thần Nông sao rồi?”

Thật ra điều nàng muốn biết là Xi Vưu dạo này ra sao. Từ khi gả tới Cao Tân, hết bị thám tử của Tuấn Đế dòm ngó lại bị thị nữ do Hoàng Đế phái tới vây quanh, A Hành gần như bị cách ly với thế giới, chẳng nhận được chút tin tức nào từ bên ngoài.

“Thú vị lắm.”

“Sao cơ?”

“Nhân lúc Chúc Dung bận đi đánh ải Đồng Nhĩ, Xi Vưu đã tạo dựng một đội quân, thoạt đầu chỉ có mấy chục người, toàn là đàn ông Cửu Lê tộc, Xi Vưu bèn đăng bảng chiêu mộ dũng sĩ trên khắp Thần Nông, bất kể xuất thân sang hèn, địa vị cao thấp, chỉ trong mấy tháng đã tuyển được năm trăm người. Chúc Dung ngồi không vững ở ải Đồng Nhĩ nhưng Du Võng lại sai hắn giữ ải, ngoài miệng nói là để thưởng cho hắn, bảo vệ chiến công của hắn, thực tế là ngăn không cho hắn quay về cản trở việc của Xi Vưu, hiện giờ Chúc Dung đang khốn đốn mà chẳng biết kêu ai.”

A Hành không nhịn được cười: “Thật chẳng khác nào đem Chúc Dung đày ra biên ải, chiêu hiểm thế này không giống chủ ý của Du Võng, ắt là ý của Xi Vưu đây.”

Vẻ mặt Thiếu Hạo nặng nề như chất chứa trùng trùng tâm sự, hồi lâu y mới nói khẽ: “Vừa nãy ta bị phụ vương quở mắng trên đại điện.”

“Sao thế?”

“Nói ra thì dài dòng lắm, một lời không hết được.”

“Chàng cứ thong thả kể đi, thiếp rảnh rỗi mà.”

“Thần Nông và Cao Tân đều là Thần tộc thượng cổ, duy trì dòng dõi rất khắt khe, mấy vạn năm nay để giữ gìn lợi ích cho tộc mình, họ nghiêm cấm những kẻ không cùng đẳng cấp kết hôn với nhau. Viêm Đế đời trước muốn cưới Viêm Hậu xuất thân thấp kém cũng chật vật muôn vàn, sau cùng phải nói thác rằng Viêm Hậu thuộc chi thứ của Xích Thủy thị mới có thể miễn cưỡng kết hôn. Bởi đã nếm mùi đau khổ nên suốt thời gian tại vị, Viêm Đế luôn nỗ lực phá bỏ quy định khắt khe về dòng dõi, có điều muốn cải cách một tập tục đã mấy vạn năm nhất định phải máu chảy đầu rơi, mà Viêm Đế lại là người nhân hậu, không nỡ lòng nào, bởi thế dù ông ta cố gắng đến mấy đi chăng nữa cũng chỉ thay đổi được bề ngoài chứ không sao chạm tới gốc rễ. Nhưng Xi Vưu thì khác, để đạt được mục đích, hắn chẳng ngại gì thây phơi đầy nội, dưới tay hắn, ắt hẳn Thần Nông sẽ thay da đổi thịt. Hiên Viên vốn khác hẳn hai nước chúng ta, nên khỏi cần nhắc tới.”

“Phải, Hiên Viên không giống với hai nước kia.” Giọng điệu A Hành toát lên vẻ kiêu ngạo, “Thiếp phát hiện phụ nữ Cao Tân khi bình phẩm về đàn ông chẳng thèm đếm xỉa gì tới phẩm cách tài hoa của họ mà đầu tiên phải quan tâm tới dòng dõi huyết thống trước đã, như thế chỉ những kẻ con nhà dòng dõi, mang huyết thống cao quý mới đáng để kết hôn vậy, những lời đó thoạt nghe chỉ là chuyện vãn khuê phòng, nhưng lại phản ánh rất nhiều điều. Người Hiên Viên bọn thiếp tuy không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi hai đại Thần tộc, nhưng phụ vương thiếp từng nói: “Thần tiên, con người hay yêu quái trừ chủng tộc bất đồng còn lại đều bình đẳng, chẳng có gì là cao quý hay đê tiện cả, thật hoang đường hết sức.” Dù là người hay yêu quái, sự sang hèn của bản thân chỉ phụ thuộc vào chính những hành động của mình mà thôi. Ở Hiên Viên, bất kể chàng thuộc Thần tộc, Nhân tộc hay Yêu tộc, bất kể chàng sinh ra trong nhà quyền quý hay nghèo hèn, chỉ cần có tài, chàng sẽ được mọi người kính trọng.”

Thiếu Hạo nói: “Đến giờ Cao Tân vẫn chìm trong niềm tự mãn của một Thần tộc thượng cổ chứ nào chịu nhìn nhận sự cổ hủ của mình, ngay phụ vương cũng đâu có nhận ra Thần Nông đang chuyển mình mạnh mẽ, họ chỉ coi chuyện tranh đấu giữa Chúc Dung và Xi Vưu như một cuộc chiến giành quyền lực mà thôi. Hôm nay trên triều ta tâu rằng cuộc tranh đấu giữa Xi Vưu và Chúc Dung thật ra là cuộc xung đột giữa hai giai tầng rồi thử đề xuất một vài cải cách nhưng phụ vương rất không vui, nói lễ nghi tôn ti là gốc để lập quốc, vậy mà ta lại dám nói càn đòi thay đổi.”

Những chuyện này A Hành chẳng làm sao tháo gỡ giùm y được, nàng đành lựa lời khuyên giải: “Chàng cứ từ từ, có những chuyện không thể nóng vội được đâu.”

Thiếu Hạo thở dài: “Chỉ mong có thể khuyên phụ vương để ngài dần hiểu ra thôi! Nếu Cao Tân cứ khư khư bảo thủ thế này thì sớm muộn sẽ mất nước. Có lúc ta cũng thực ngưỡng mộ Xi Vưu, hắn muốn gì làm nấy, chẳng ngại gì cả.”

A Hành lặng thinh, đăm đắm trông vời xa xăm.

Lựa giống tằm xong, Thiếu Hạo quay sang hành lễ với A Hành, “Vương tử phi nương nương, ta làm xong rồi, chúng ta về nhà được chưa?”

A Hành cười đáp: “Về thôi.”

Cùng Thiếu Hạo cưỡi Huyền điểu quay về, thầm nghĩ tới đám cưới sắp tới của Tứ ca, A Hành sực nhớ ra phải chuẩn bị quà gặp mặt cho chị dâu tương lai.

Thấy nàng lặng yên không nói, Thiếu Hạo bèn hỏi: “Đang nghĩ gì thế?”

“Thiếp đang nghĩ xem nên tặng quà gì cho Tứ tẩu.”

“Nàng đã nghe ngóng xem Tứ tẩu thích gì chưa?”

“Thiếp chẳng biết gì hết, tại cái tính của Tứ ca đó! Hỏi mười câu huynh ấy chỉ đáp nửa câu, thiếp lải nhải bên tai huynh ấy cả ngày chỉ moi được mỗi chuyện chị ấy là con nhà vọng tộc ở đó, họ Trọc Sơn.”

“Thần Nông có Cửu Lê, Hiên Viên có Nhược Thủy, đều là những vùng dân tình thuần phác mà dũng mãnh, chỉ nể trọng những kẻ anh hùng kiêu dũng, Tứ tẩu này của nàng chẳng những xuất thân từ vọng tộc Trọc Sơn thị mà còn là nữ tộc trưởng tương lai của Nhược Thủy nữa đó.”

“Hả? Tứ ca định cưới nữ tộc trưởng Nhược Thủy?” A Hành trợn tròn mắt, “Thiếp cứ ngỡ Tứ ca sẽ cưới một cô gái dịu dàng hiền thục kia, ai dè huynh ấy lại thích nữ trung hào kiệt!”

Thiếu Hạo bật cười, “Nàng định tặng gì cho nữ anh hùng nào?”

A Hành nghĩ ngợi một thoáng, chợt sáng mắt lên, nghiêng đầu nhìn THiếu Hạo cười ranh mãnh: “Xưa nay anh hùng chuộng danh khí! Món quà thích hợp nhất phải làm phiền Thiếu Hạo điện hạ vang danh thiên hạ về nghề rèn rồi, có điều nghe nói xưa nay y không rèn binh khí, chẳng hiểu y có chịu ra tay giúp đỡ hay chăng?”

“Không phải y không chịu, nhưng…”

A Hành hồi hộp hỏi: “Nhưng sao?”

Thiếu Hạo ngẩng đầu nhìn trời, làm bộ nghĩ ngợi một hồi, “Cũng chẳng có nhưng gì cả, năm xưa lấy không bí quyết nấu Thư tửu của nàng, xem như là trả lễ vậy! Có điều hơi gấp gáp, thời gian một năm thì chỉ rèn được chủy thủ tùy thân thôi.”

A Hành thở phào nhẹ nhõm, nàng xúc động lắc lắc cánh tay Thiếu Hạo, mừng rỡ hơn cả khi y làm lợi cho mình: “Cảm ơn chàng, cảm ơn chàng, cảm ơn…”

Thiếu Hạo cười, “Huynh muội nàng y hệt nhau, lúc nào cũng chỉ chăm chăm muốn dâng cho đối phương những thứ tốt nhất trên đời.”

A Hành chẳng hề phủ nhận mà còn nhoẻn cười gật đầu, “Tứ ca là ca ca tốt nhất trên đời đó.”

“Thế còn Thanh Dương?”

A Hành tắt hẳn nụ cười, khẽ nói: “Đại ca giống phụ vương, đều lấy đại cuộc làm trọng.”

Thiếu Hạo định nói gì đó nhưng sau cùng chỉ gượng cười làm thinh.

Tối đến A Hành ngồi ở giường, tấm áo đỏ rực đã gập vuông vắn đặt trên đầu gối. Nàng vừa vuốt ve tấm áo vừa nhớ lại năm xưa trên Thần Nông sơn, Xi Vưu bắt nàng hứa rằng mồng tám tháng Tư hàng năm sẽ gặp nhau dưới cội hoa đào, nàng đã nói với hắn, miễn là năm nào hắn cũng mặc áo nàng may thì nàng sẽ tới gặp. Trong lời nói đã có ý hẹn ước cả đời, Xi Vưu hiểu ý nàng nên mừng rỡ khôn cùng .

Lúc sắp thành hôn với Thiếu Hạo, bên cạnh nàng luôn có thị nữ giám sát, còn chỗ Xi Vưu hắn cũng trùng trùng nguy cơ, bởi thế nàng không dám báo tin cho hắn, lỡ bị phát hiện chẳng những sẽ liên lụy tới mẹ và Tứ ca mà còn có thể đẩy Xi Vưu vào đường cùng nữa.

Có lẽ giờ đây nàng và Thiếu Hạo thành hôn đã lâu, lại thêm tin tức bay về đều khiến Hoàng Đế yên lòng nên ông dần nới lỏng vòng kiềm tỏa, đám thị nữ cũng quen với việc nàng bận bịu chạy đi chạy lại, chẳng còn cảnh giác như xưa.

Sáng mai nàng định tới thôn trại Nhân tộc xem tằm, chắc có thể tìm cơ hội sai A Tệ lén đem áo rời khỏi Cao Tân, đưa đến cho Xi Vưu, trông thấy áo, ắt Xi Vưu sẽ hiểu nàng muốn nói gì. Dù xui xẻo rơi vào tay kẻ xấu đi nữa, chúng cũng chỉ thấy một manh áo mà thôi.

Hai ngày sau, A Hành dâng thư lên Tuấn Đế xin tới miền Bắc cực Cao Tân dạy dân chăn tằm dệt lụa, vì đường sá xa xôi nên không thể ngày đi tối về Ngũ Thần sơn được.

Thời gian này, Tuấn Đế luôn để ý mọi hành vi của Hiên Viên Bạt trong dân gian, đương nhiên cũng nghe thấy hết những lời tán tụng của muôn dân đối với mình, so với một Thiếu Hạo thâm trầm tinh minh, ông còn thích nàng dâu khéo trồng hoa nhổ cỏ, bình phẩm thư họa này hơn, liền vui vẻ chuẩn y ngay.

Đám thị vệ và thị nữ Cao Tân tộc theo Hiên Viên Bạt đi đi lại lại vô số làng mạc, chưa từng có điều gì sơ suất, chỉ thấy vương tử phi hết lòng lo toan cho trăm họ Cao Tân, đương nhiên cũng dần lơi lỏng cảnh giác.

Chập tối, A Hành tạo ra một người gỗ thế vai mình đi ngủ thật sớm. Còn bản thân nàng lại cùng A Tệ lẻn tới Cửu Lê, ngôi làng này rất gần Thần Nông quốc, trăng vừa lên đến ngọn cây, nàng đã tới nơi.

Hoa đào trên sườn núi rực rỡ đua tươi, ánh lửa trong sơn cốc sáng lòa cả mắt. Thanh niên thiếu nữ đều quây quần dưới gốc đào, bên đống lửa, cao giọng hát những khúc tình ca say lòng người.

A Hành đứng dưới cội đào lặng lẽ đợi.

Đợi mãi đến khi trăng tà bóng ngả vẫn chưa thấy Xi Vưu tới.

A Hành ôm lấy A Tệ hỏi nhỏ: “A Tệ, mày đem áo đưa cho hắn rồi chứ?”

“Gừ…” A Tệ gật đầu lia lịa, nhớn nhác ngóng trông.

Thấy vậy A Hành xoa đầu nó an ủi, “Đừng nôn nóng, hắn sẽ tới mà.” Nhưng thực tế lòng nàng còn chênh chao nôn nóng hơn ai hết.

Tựa vào A Tệ, A Hành vừa lẳng lặng nghe đám thanh niên thiếu nữ hát sơn ca, vừa đợi Xi Vưu.

Ngọn lửa dần lụi tắt, khúc ca dần bặt tiếng, chỉ có ngàn cội hoa đào trong sơn cốc vẫn rực rỡ huy hoàng, âm thầm mà nở rộ.

Xi Vưu vẫn không thấy tới.

A Hành ôm lấy A Tệ, lòng đau như xé. Cao Tân cung đình quy củ ngặt nghèo, lần này để tới gặp Xi Vưu, nàng đã phải chuẩn bị từ hơn nửa năm trước, mượn cớ dạy muôn dân trồng dâu nuôi tằm xin Tuấn Đế đồng ý cho nàng xuất cung, rồi lại giữ bổn phận từng ly từng tí nhằm đổi được lòng tin của Tuấn Đế, vất vả cả nửa năm mới đổi được tự do một đêm, vậy mà Xi Vưu lại một lần nữa thất hẹn.

Nàng đã chuẩn bị bao điều để nói với hắn, nỗi bất lực của nàng, cơn giận của nàng, cơn giận vì năm ngoái hắn đã thất hẹn, giận vì hắn không chịu tin nàng, và mà hết thảy dự định ngọt ngào đều uổng phí, bao lời gan ruột chẳng biết thổ lộ cùng ai.

Lại là bi thương, lại là phẫn nộ, nước mắt cứ thế lã chã rơi.

Đột nhiên Liệt Dương hoan hỉ kêu quang quác, A Tệ vừa mừng rối rít vừa nhảy cẫng lên. A Hành ngẩng đầu trông, liền thấy một bóng áo đỏ trong mây đang phấp phới bay đến. Nàng vội nín khóc nhoẻn miệng cười, vừa cuống quýt lau nước mắt vừa sửa lại búi tóc, quần áo, còn thấp thỏm hỏi A Tệ: “Thế này đã được chưa? Có rối không?”

Cánh đại bàng xẹt ngang trời như sao băng rồi đâm bổ xuống, nàng hồi hộp đứng lặng, A Tệ mừng rỡ nhào đến, toan nhảy xổ vào lòng Xi Vưu như mọi bận, đột nhiên nó khựng lại, hoang mang nhìn đại bàng.

Trên lưng đại bàng chẳng có một ai, nó chỉ lượn quanh cội đào một vòng, thả manh áo đỏ ngậm trong miệng xuống rồi đập cánh bay vút đi.

“Hu…u…u…” A Tệ kêu lên ai oán, bối rối vòng đi vòng lại quanh tấm áo.

Mặt A Hành trắng bệch, nàng đã hứa chỉ cần hắn hàng năm đều mặc tấm áo này, nàng sẽ tới gặp hắn, lần này nàng cố ý đưa áo tới nhưng hắn lại sai đại bàng ngậm hồng bào quăng xuống dưới cội hoa đào, tỏ rõ rằng hắn sẽ không bao giờ mặc nữa.

A Hành loạng choạng chạy tới nhặt tấm áo lên, thất thần ôm vào lòng, đờ đẫn.

Cánh đào rơi lả tả như mưa, chẳng mấy chốc, đầu nàng, vai nàng đỏ rực những hoa.

Nghe Liệt Dương kêu lên quang quác, A Hành mới sực tỉnh, nhìn dáng vẻ lo lắng của A Tệ và Liệt Dương, oan giận và bi thương đan xen dâng ngập lòng, nàng liệng phắt tấm áo xuống đất ngươi đã chẳng cần, ta còn cần làm chi!

Nhưng tình cảm đã trao đi nào phải muốn quăng là quăng được, dù giận hắn oán hắn, hắn vẫn mãi ở trong tim nàng.

Ngẩng đầu nhìn tàng cây rợp những hoa, năm năm tháng tháng hoa như cũ, hoa có cười chê người đổi lòng? Nói cái gì hẹn biển thề non, chớp mắt đã tan theo bọt nước.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-5-2014 07:59:43 | Xem tất
Chương 14


Gió thu se sắt lùa biên ải [1].


14.2


Hành phẫn nộ đập một chưởng vào thân cây, lập tức hoa đào trên cành rào rào rụng xuống như mưa, ngón tay nàng vẫn sờ thấy vô số chữ “Xi Vưu” vạch lên thân cây năm ngoái, nếu hắn thấy những chữ này, lẽ nào chẳng hiểu cho lòng nàng, tiếc rằng ngay cả đến đây, hắn cũng không buồn đến nữa.

Nàng rút trâm ngọc, vạch bên cạnh mấy trăm chữ Xi Vưu kia một câu hoi đầy căm giận, “Đã chẳng giữ lời, sao còn hứa hẹn?” Chưa viết hết câu, ngọc trâm đã gãy đôi. A Hành cưỡi lên lưng A Tệ, chẳng nói chẳng rằng, chỉ vỗ vỗ vào người nó, A Tệ hiểu ý nàng, lặng lẽ bay về Cao Tân.

Bấy giờ Xi Vưu đang đứng chơi vơi trên sườn dốc chót vót gần Cửu Lê, tựa hồ chỉ cần một cơn gió là rớt xuống. Hắn không khoác áo ngoài mà chỉ vận áo lót, rõ ràng vừa cởi ra chưa lâu.

Khe núi dưới chân hắn lô chô đá nhọn, um tùm cây cối, lại thêm một dòng suối róc rách men theo sườn núi hai bên, quãng rộng quãng hẹp, nước suối lúc xiết lúc chậm, sau cùng tụ lại thành đầm nước trong leo lẻo. Đang giữa mùa hoa đào nở rộ, đôi bên khe núi đỏ rực những hoa, dưới ánh trăng bát ngát hệt ráng chiều, như gấm lụa, đẹp tựa cõi mơ, gió vừa thổi qua, muôn ngàn cánh hoa đã lả tả đổ xuống sơn cốc, phất phơ như tuyết.

Xi Vưu lặng lẽ ngắm nhìn cảnh tượng dưới chân, hồi lâu chẳng hề động đậy.

Đột nhiên hắn như bừng tỉnh giấc mộng, vội ngoảnh đầu trông về phía Cửu Lê, thảng thốt. Nàng đến rồi ư? Nàng đang đợi hắn ư? Nàng ân ái mặn nồng với Thiếu Hạo như thế, sao còn vất vả giữ lời hẹn hoa đào gì nữa chứ?

Phân vân do dự một hồi, Xi Vưu cao giọng gọi: “Tiêu Dao!”

Đại bàng vừa đỗ xuống hắn đã vội vàng nhảy ngay lên, bay vụt về phía Cửu Lê.

Ánh trăng tịch mịch rọi xuống khe núi rực sắc đào, gió đêm lành lạnh, dưới cội đào nào thấy bóng ai, chỉ còn một manh áo đỏ tươi như máu bị quăng dưới đất, cánh hoa rụng phủ dày, hiển nhiên nằm dưới đất đã lâu, xem ra từ lúc Tiêu Dao quăng xuống cũng chẳng ai động tới.

Xi Vưu nhặt áo lên, ngước nhìn tàng hao cười nhạt, mấy lần nhấc tay định ném đi nhưng lại chẳng đành lòng.

Lát sau hắn ngửa mặt cười dài, nhảy lên lưng đại bàng bỏ đi thẳng.

Tháng Tư năm sau, khi sắc đào nhuộm đỏ khắp núi rừng, A Hành và Thiếu Hạo cùng về Hiên Viên dự hôn lễ của Xương Ý.

Trước khi kết hôn, A Hành hầu như chẳng có cảm giác gì với ba chữ Hiên Viên tộc, nhưng từ sau đám cưới, dù đi tới đâu, mọi người nhìn vào nàng, nhận xét đầu tiên là người của Hiên Viên tộc, vì xuất thân Hiên Viên, có những kẻ thuộc Thần tộc coi thường nàng, cũng có những kẻ Yêu tộc kính trọng nàng, bấy giờ nàng mới thực sự hiểu ra ý nghĩa mà một dòng họ đại diện.

Nàng đã rời nhà rồi lại quay về vô số lần, nhưng trước giờ chưa bao giờ mừng rỡ vì được về nhà thế này.

A Hành vừa vào đến lãnh thổ Hiên Viên, nàng đã tươi cười reo lên: “Về tới nhà rồi!”

Thấy nàng tươi tỉnh, A Tệ và Liệt Dương cũng vui lây, A Tệ vừa bay vừa kêu líu ríu rất êm tai, khiến Huyền điểu tọa kỵ của Thiếu Hạo phải hoan hỷ cất tiếng hót theo.

Thiếu Hạo rớt lại sau mấy trượng, âm thầm nhìn theo A Hành đang hào hứng hoa chân múa tay. Từ ngày gả tới Cao Tân, nàng luôn dè dặt thận trọng, từng cử chỉ hành vi lời ăn tiếng nói đều nhất nhất tuân theo nghi lễ Cao Tân, chưa từng được thoải mái tự do như hiện giờ.

A Tệ càng bay càng nhanh, thẳng một mạch đến Hiên Viên sơn, còn sớm hơn bọn họ dự tính nửa ngày.

A Hành định cho cả nhà một bất ngờ, ai dè Thanh Dương tựa hồ cảm giác thấy bọn họ về đến, đã đứng trước điện chờ sẵn. Trái lại, đám cung nữa quét tước trước điện kinh ngạc khôn xiết, vội chạy như bay vào trong bẩm báo: “Vương cơ về rồi! Vương cơ về rồi!”

Thiếu Hạo vừa bước xuống tọa kỵ, đã lên tiếng ghẹo Thanh Dương: “Mấy chục năm không gặp, nom tiểu đệ Thanh Dương vẫn như xưa.”

Thanh Dương thản nhiên cười: “Ở đây là Hiên Viên sơn, ngươi lại là con rể đến chơi, phải đổi cách xưng hô, gọi ta là Đại ca.”

Thiếu Hạo liếc A Hành cười nói: “Đợi chừng nào ngươi thắng được ta rồi tính!”

Thanh Dương đáp ngay: “Chọn ngày chẳng bằng gặp ngày!” Nói rồi chỉ vào rừng dâu, làm động tác mời.

“Được!” Thiếu Hạo thẳng thắn nhận lời, theo Thanh Dương về rừng dâu.

Chu Du hấp tấp đuổi theo, càu nhàu, “Hai vị công tử đã đánh suốt ngàn năm nay rồi, cứ gì mỗi lần gặp lại lôi nhau ra phân thắng bại chứ!”

Thiếu Hạo ngoảnh lại nhìn Chu Du, “Ngươi cứ chê khúc gỗ này ngu ngốc, nhưng ta thấy khá đấy chứ.”

Thanh Dương thoáng nét cười, “Ngốc lắm, rèn giũa mấy trăm năm vẫn ngốc đến kinh ngạc.”

Chu Du tức điên mà không dám lên tiếng, đành siết chặt tay lầm bầm: “Nô tì nghe thấy đấy, nô tỳ nghe thấy đấy…”

Thanh Dương và Thiếu Hạo vừa cười nói vừa giăng cấm chế. Bàn tay Thanh Dương trắng xóa những tuyết, từng đóa băng mẫu đơn ngưng kết quanh mình, cả rừng dâu bỗng trở nên lạnh buốt. Thiếu Hạo cười cười đứng đó, vạt áo không gió mà bay, nước từ dưới đất phụt lên quanh người, từng đóa hoa nước bắn tung như những bông lan nở rộ.

Chu Du can ngăn không nổi đành quay sang cầu viện A Hành, “Vương cơ nói giùm một câu đi.”

Trông thấy mẹ và Tứ ca, A Hành lè lưỡi với Chu Du tỏ vẻ lực bất tòng tâm rồi chạy vụt về phía Luy Tổ, nhào vào lòng bà, “Mẹ!”

Luy Tổ tươi cười ôm lấy nàng, A Hành tựa vào lòng mẹ, soi Xương Ý từ trên xuống dưới, “Trông Tứ ca ra dáng chú rể ghê, chúc mừng huynh!”

Nhìn Xương Ý đỏ mặt tía tai, A Hành phá lên cười khanh khách, đang định ghẹo thêm thì Luy Tổ đã vỗ vỗ lưng nàng, “Hôm nay là ngày lành của Tứ ca con, đừng bắt nạt nó nữa.”

A Hành nũng nịu, “Mẹ thiên vị quá, Tứ ca đã có Tứ tẩu chiều chuộng rồi mà mẹ vẫn thiên vị huynh ấy!”

Xương ý lườm nàng, “Lẽ nào Thiếu Hạo không chiều muội? Mọi người nghe được bao nhiêu chuyện về hai người rồi đó.”

A Hành gục mặt vào vai mẹ, gương mặt tắt hẳn nụ cười nhưng giọng nói vẫn nhí nhảnh, “Mẹ, Tứ ca bắt nạt con, mẹ giúp con với!”

Đột nhiên, những bông tuyết trắng xóa như lông ngỗng âm thầm trút xuống khiến Xương Ý ngơ ngác ngẩng lên.

A Hành trỏ vào rừng dâu, “Đại ca đang giao đấu với Thiếu Hạo, hy vọng cả hai đừng ai bị thương quá nặng.”

Luy Tổ mỉm cười đưa tay hứng tuyết, đoạn quay sang dặn thị nữ theo sau: “Tuyết rơi đúng lúc lắm, đợi lát nữa các ngươi đi hái ít dâu lạnh đi.”

Chu Du lẩm bẩm than, “Thật không biết là muốn thắng Thiếu Hạo hay muốn mượn lý do chính đáng để làm tuyết rơi nữa.”

Thiếu Hạo cùng Thanh Dương ra khỏi rừng dâu, sắc mặt Thiếu Hạo tái nhợt, khóe môi Thanh Dương ứa máu, hiển nhiên cả hai đều bị thương không nhẹ.

Chu Du cuống quýt móc đơn dược trong người ra đưa cho Thanh Dương nhưng y chỉ xua tay lạnh lùng, “Tục Mệnh đan của ngươi chẳng có tác dụng gì với ta đâu, cứ giữ lại cho mình đi!”

Xương Ý liền trêu: “Xem ra vẫn là Thiếu Hạo ca ca… à, Thiếu Hạo muội phu thắng rồi!” Hiếm lắm mới có khi chòng ghẹo bắt nạt được Thiếu Hạo, Xương Ý chưa nói dứt câu đã cười phá lên.

Thiếu Hạo nghe nói cười cười, chẳng thừa nhận cũng chẳng phủ nhận, tiến lên mấy bước quỳ xuống trước mặt Luy Tổ hành đại lễ, đổi giọng gọi bà là mẫu hậu.

Luy Tổ nhận ba lạy của y rồi ra hiệu cho Xương Ý đỡ y dậy.

Xương Ý nói với Thiếu Hạo: “Hồi nhỏ lần đầu tiên gọi Thiếu Hạo ca ca, ta đã ước giá mà Thiếu Hạo là ca ca của mình thật, ngờ đâu hôm nay chúng ta lại thành người một nhà thật rồi!”

Thiếu Hạo vẫn tươi cười như thường, nhưng ánh mắt thoáng vẻ hoảng hốt.

Luy Tổ một tay dắt A Hành, một tay dắt Xương Ý bước vào tẩm điện, Thanh Dương và Thiếu Hạo sánh vai đi sau.

A Hành cùng Xương Ý vẫn chứng nào tật nấy, vừa đi vừa nói, vừa nói vừa cười, râm ran cả lên. Xương Ý đấu võ mồm không lại A Hành còn định quay lại kêu Thiếu Hạo đòi phân xử.

Thiếu Hạo chỉ cười không nói gì, nụ cười từ khóe môi lan dần lên ánh mắt. Cung đình Cao Tân lễ giáo nghiêm ngặt, y không có mẹ, cũng chẳng có huynh đệ ruột rà, trong trí nhớ, từ nhỏ y đã phải để ý lời ăn tiếng nói từng chút một, luôn luôn đề phòng để khỏi bị người ta hãm hại, xưa nay chưa bao giờ làm con của một người mẹ, cũng chưa bao giờ làm huynh trưởng của các em. Y cứ ngỡ rằng vương tộc chính là như vậy, nhưng lần này y mới cảm nhận được, thì ra anh chị em với nhau có thể thoải mái nói cười, thuận hòa vui vẻ thế này đây.

Đến giữa Ngọ, nghe kẻ hầu vào bẩm đoàn đưa dâu đã tiếp cận Hiên Viên sơn, Xương Ý cuống quýt lên, chân tay như thừa thãi cả, vừa đội mũ mặc áo vừa luôn miệng hỏi Thiếu Hạo, “Hôm đó lúc đón A Hành về, đệ nói những gì?” Chẳng đợi Thiếu Hạo trả lời, y lại nói tiếp: “Hôm đó hai người suôn sẻ hết mọi bề, lỡ hôm nay có sự cố gì, ta phải làm sao đây?”

A Hành và Thiếu Hạo đưa mắt nhìn nhau, Thiếu Hạo mỉm cười làm thinh còn A Hành cười đáp: “Tứ ca yên tâm đi, nếu huynh không xử lý được thì Tứ tẩu sẽ xử lý!”

Xương Ý lườm A Hành rồi ngẩng lên trời lẩm nhẩm cầu khẩn: “Lạy trời cho mọi bề suôn sẻ, mọi bề suôn sẻ!” Khấn xong vẫn chần chừ bất động, lại quay sang Thanh Dương, “Đại ca, huynh cùng xuống núi với đệ nhé?” Gương mặt y đầy vẻ nài nỉ, tội nghiệp vô cùng, hệt như hồi nhỏ mỗi khi có chuyện gì rắc rối lại đi tìm Đại ca nhờ vả.

Thanh Dương chịu hết nổi bèn đẩy thẳng Xương Ý vào xe mây, sốt ruột mắng, “Đệ đi rước dâu chứ đâu phải đi đánh lộn, ta đi theo làm gì? Mau đi nghênh đón cô dâu đi!”

Xương Ý vẫn bấu chặt tay áo Thanh Dương, căng thẳng nài nỉ: “Đại ca, huynh đợi đã, đệ còn muốn hỏi…”

“Hỏi cái gì mà hỏi? Ta đã lấy vợ đâu mà biết!” Thanh Dương giật tay ra, một chưởng quét qua lưng chim loan kéo xe mây, chim loan liền hót vang bay thẳng xuống núi.

Xe mây tròng trành nghiêng ngả rồi biến mất giữa biển mây, tiếng gọi của Xương Ý vẫn văng vẳng lại: “Đại ca, Đại ca…” Thanh Dương bực bội cau mày.

A Hành cười lăn cười bò với Thiếu Hạo: “Trong mắt Tứ ca, Đại ca cái gì cũng biết, cái gì cũng giỏi, việc gì cũng phải tìm Đại ca.”

Thiếu Hạo cười cười không đáp. Trên danh nghĩa, y có hơn hai mươi người em trai, nhưng chẳng đứa nào coi y là Đại ca cả, y chỉ là hòn đá ngáng đường chúng bước lên vương vị mà thôi. Nhìn Thanh Dương bực bội như vậy, nhưng kỳ thực trong lòng hắn rất sung sướng. Cả hai đều hiểu, ở vị trí của mình không thể tin tưởng bất kỳ ai, cũng chẳng có ai dám tin tưởng hai người bọn họ, có được một người toàn tâm toàn ý tin cậy là chuyện chỉ có thể gặp chứ chẳng thể cầu.

Đợi đoàn xe rước dâu của Xương Ý đi xa, Thanh Dương, Thiếu Hạo và A Hành mới thong thả xuống núi.

Thấy hai bên đường là hai hàng cây cao vút, thân đỏ sẫm, lá xanh biếc, A Hành tò mò hỏi: “Cây gì thế này?”

Chu Du đắc ý cười khoe: “Trừ giống phù tang ở Thang cốc[2], trên đại hoang còn ba loại thần mộc khác là nhược mộc, tầm mộc và kiến mộc. Đây chính là nhược mộc nổi tiếng khắp nơi. Nhược mộc rời khỏi Nhược Thủy thì không thể ra hoa, nhưng nô tỳ đã khiến bọn chúng nở hoa vào hôm nay đó.”

[2] Thang cốc hay còn gọi là Dương cốc, theo truyền thuyết là nơi mặt trời mọc. Theo Sơn Hải kinh, ở Thang cốc có loài cây phù tang, là như lá dâu, còn gọi là phù mộc. (ND)

Dọc hai bên đường bọn họ đi qua, nhược mộc nở hoa rực rỡ từ chân núi lên tận đỉnh, từng đóa từng đóa hoa to bằng miệng chén đỏ chói, nhuộm thắm cả đất trời.

A Hành ngây ra trước sắc đỏ rạng rỡ ấy, dưới biển hoa đở thắm kia, nàng nhìn thấy nổi lên một bóng áo đỏ rực còn chói mắt hơn.

Đặt cạnh vóc dáng cao lớn, khoác tấm áo đỏ rực như máu của Xi Vưu, những cây nhược mộc chót vót đều nhạt nhòa hẳn đi. Hắn chăm chú nhìn A Hành, vẻ mặt lạnh lùng xa cách nhưng cặp mắt lại rực lên nóng bỏng, bao ánh nhìn là bấy nhiêu khổ đau và khát vọng. A Hành cũng ngơ ngẩn nhìn hắn, nghe đau đớn quặn lên trong lòng.

Xe mây đỗ lại, Thanh Dương và Thiếu Hạo bước tới trước mặt Xi Vưu nói lời cảm tạ bọn họ không quản đường sá xa xôi tới tham dự hôn lễ. A Hành sững sờ nhận ra đây chẳng phải là ảo ảnh, Xi Vưu quả thật đang đứng dưới gốc nhược mộc.

Chẳng ngờ lần này lại gặp Xi Vưu ở đây, A Hành hoảng hốt, không dám nhìn về phía hắn, cũng chẳng dám tiến lại, đành vờ chăm chú ngắm nhược mộc hoa.

Thấy Thanh Dương gọi nàng qua bên đó, A Hành biết mình trốn không nổi, đành cố định thần, tươi cười bước tới trước mặt bọn họ.

Có đông đủ mọi người, Vân Tang không muốn vồn vã với A Hành nên chỉ trao đổi xã giao mấy câu, giữ đúng lễ tiết vương tộc gặp nhau. A Hành cũng biết Vân Tang nhiều mối lo âu, giờ đây nàng mới dần dà hiểu được giữa vương tộc với nhau có bao nhiêu phức tạp. Chẳng phải Đại ca nàng và Thiếu Hạo trước mặt mọi người vẫn khách sáo xã giao với nhau đó thôi, nghĩ vậy, nàng cũng bày ra một nụ cười giả tạo che mắt quan khách.

Nào ngờ gã Hậu Thổ lạ hoắc vừa gặp A Hành đã tỏ vẻ thân thiết vô cùng, khác hẳn thái độ nhã nhặn kín đáo thường ngày, còn kéo cả Mộc Cận tới hành lễ với A Hành, luôn miệng gọi “vương tử phi”, trái lại, Xi Vưu chỉ hờ hững vái một cái: “Vương cơ dạo này ổn chứ?”

Mộc Cận ngỡ Xi Vưu không hiểu lễ nghi nên lỡ lời, bèn nhắc khẽ: “Nữ tử đã thành hôn sẽ xưng hô theo vai vế bên chồng, phải gọi là vương tử phi.”

Thanh Dương và Thiếu Hạo hình như đều không nghe thấy gì, A Hành rung động, lo âu cùng vui mừng dâng ngập cả lòng, nỗi oán hận đã vơi đi quá nửa, liền đáp: “Mọi chuyện ổn cả.”

Xi Vưu cười hỏi tiếp: “Chẳng biết những lúc vương cơ ân ái mặn nồng cùng Thiếu Hạo, có khi nào chạnh lòng nhớ tới người xưa chăng?”

Mọi người nghe nói đều tái mặt, may sao đúng lúc đó đoàn đưa dâu Nhược Thủy đến nơi, hỷ nhạc rộ lên rộn rã, át cả câu hỏi của Xi Vưu.

Hai ả thị nữ vén rèm xe, nữ tử áo đỏ rực ngồi ngay ngắn bên trong, dung mạo thanh tú, mày mắt đoan trang, áo cưới nàng vận cũng chiết eo hẹp tay hệt như phục trang cưỡi ngựa bắn cung, càng làm nổi bật vẻ hiên ngang hào sảng.

Hỷ nương đặt một đầu dải lụa hồng vào tay tân nương, đầu kia do Xương Ý cầm, ra hiệu cho tân nương đi theo Xương Ý. Chỉ cần xuống khỏi xe đưa dâu theo Xương Ý lên xe loan, nàng đã trở thành con dâu của Hiên Viên.

Nào ngờ tân nương nắm lấy dải lụa nhưng chẳng hề bước xuống, trái lại còn đứng lên càng xe, ngạo nghễ đưa mắt nhìn chúng nhân bên dưới. Bị khí thế của nàng chấn nhiếp, tiếng nói cười xôn xao chợt ngưng bặt.

Xương Ý đang căng thẳng lo lắng nên vẫn chưa phát hiện ra, chỉ nắm chặt lấy dải lụa hồng cắm cúi đi, đột nhiên dải lụa căng ra khiến y suýt chút ngã lăn quay, bèn quay phắt lại, trông thấy tân nương đang ngạo nghễ đứng trên xe, toàn thân hỷ phục rực rỡ lóa mắt.

Trọc Sơn Xương Phó giơ tay làm hiệu, lập tức đoàn đưa dâu phía sau ngưng tấu nhạc, cả đám người dũng mãnh như hổ báo đều ngẩng đầu ưỡn ngực, đứng thẳng tắp nghiêm trang.

Đoàn rước dâu của Hiên Viên thấy đối phương như vậy cũng từ từ ngưng tấu nhạc, một trời rộn rã tiếng kèn sáo chợt trở nên tĩnh lặng trang nghiêm lạ thường.

Trọc Sơn Xương Phó cao giọng: “Hôm nay, Trọc Sơn Xương Phó của Nhược Thủy tộc ta được gả cho Hiên Viên Xương Ý của Hiên Viên tộc, cảm ơn các vị chẳng quản đường sá xa xôi tới tham dự hôn lễ, xin các vị làm chứng cho chúng ta.”

Khách khứa khắp nơi đều dồn mắt về phía Trọc Sơn Xương Phó, không đoán ra nàng định làm gì.

Xương Phó nhìn thẳng vào mắt Xương Ý, “Nữ nhi Nhược Thủy tộc bọn thiếp suốt đời chung thủy với một chồng, đời này kiếp này thiếp nguyện theo chàng đến răng long đầu bạc, chàng có bằng lòng cả đời chỉ có mình thiếp là vợ không?”

Thế này là muốn Xương Ý thề không nạp phi trước bàn dân thiên hạ, Thanh Dương biến hẳn sắc mặt, định bước ra lên tiếng nhưng A Hành đã níu lấy tay y, ánh mắt lộ vẻ khẩn cầu: “Đại ca!”

Thanh Dương giật mạnh tay A Hành ra, bước tới trước mặt Xương Phó định lên tiếng, nào ngờ Xương Ý đã định thần lại, chẳng chút do dự đáp ngay: “Ta bằng lòng!”

Tiếng xôn xao rộ lên khắp nơi, Thanh Dương giận tím mặt, trừng mắt nhìn Xương Ý, ánh mắt vô cùng phức tạp.

Xương Phó lại hỏi tiếp: “Tương lai thiếp trở thành tộc trưởng Nhược Thủy, người trong tộc sẽ liều mình chiến đấu đến người cuối cùng vì thiếp, thiếp cũng phải bảo vệ bọn họ đến hơi thở cuối cùng, nếu lấy thiếp, chàng phải cùng thiếp bảo vệ cho nhược mộc của Nhược Thủy năm năm đều nở hoa, chàng có bằng lòng không?”

Xương Ý mỉm cười bình thản đáp: “Ta chỉ biết rằng từ nay về sau ta là phu quân của nàng, ta sẽ dùng tính mạng mình để bảo vệ cho nàng.”

Xương Phó nhoẻn miệng cười tươi tắn, hạnh phúc càng khiến nhan sắc của nàng thêm rạng rỡ, còn đẹp hơn cả những đóa nhược mộc hoa đỏ thắm rợp trời kia. Nàng nắm chặt dải lụa hồng bước xuống xe, chạy vụt tới trước mặt Xương Ý, tươi cười tuyên bố với tộc nhân: “Từ nay về sau, Xương Phó sẽ chung họa phúc, cùng sống chết với Xương Ý.”

Sau lưng nàng, tất cả phụ nữ Nhược Thủy đều rộ lên hoan hô vang trời dậy đất. Còn Hiên Viên tộc bên này thì ngượng ngùng im lặng, mọi người đều nhìn về phía Thanh Dương, chẳng biết nên phản ứng ra sao.

Thấy A Hành tươi cười cất tiếng hoan hô, Chu Du liếc trộm Thanh Dương đang tái mặt vì giận rồi cũng ra sức vỗ tay, vừa vỗ tay vừa hoan hô theo A Hành, Hiên Viên tộc thấy vương cơ như vậy mới rộ lên hoan hô cười nói, chẳng chút e dè.

Nam nhi Nhược Thủy thổi kèn, nữ nhi rung chuông Nhược Mộc Hoa, vừa ca hát vừa nhảy múa, lại khiêng ra từng vò lớn rượu ngon, rót cho mỗi vị khách một bát thật lớn. Mọi người cũng vui lây cùng những nàng con gái Nhược Thủy chân thành thẳng thắn, tất cả nghi lễ ban đầu loạn hết lên, đành hùa theo bọn họ nâng chén chúc mừng.

Xương Ý dắt Xương Phó lại trước mặt Thanh Dương và A Hành, giới thiệu: “Đây là Đại ca ta, đây là tiểu muội của ta, còn đây là muội phu Thiếu Hạo.”

Vừa nãy trước bao nhiêu khách khứa đại hoang, Xương Phó hào sảng hiên ngang, dõng dạc thẳng thắn nhường ấy, vậy mà lúc này lại đỏ mặt thẹn thùng, hồi hộp hành lễ chào hỏi Thanh Dương, như sợ Thanh Dương ghét bỏ mình.

Thật lòng A Hành rất thích vị Tứ tẩu này, vội rút ngay lễ vật đã chuẩn bị sẵn, hai tay đưa cho Xương Phó, “Tẩu tẩu, thanh chủy thủ này là muội và Thiếu Hạo rèn cho tẩu đấy.” A Hành vẽ kiểu, Thiếu Hạo dùng sắt Hàn sơn, nước Thang cốc, lửa mặt trời, rèn suốt một năm mới xong.

“Là binh khí do Cao Tân Thiếu Hạo rèn ư?” Đây quả là món quà mà mọi kẻ học võ đều khao khát, Xương Phó không nén nổi kinh ngạc, liền nhận lấy xem thật kỹ. Chuôi và vỏ đều bằng gỗ phù tang, bên trên khắc hoa văn nhược mộc hoa, Xương Phó từ từ rút chủy thủ ra, thấy lưỡi dao lấp loáng như nước, soi gương được. Nàng thích thú không rời tay, vội cảm ơn A Hành và Thiếu Hạo.

Để đáp lễ, nàng tháo chiếc vòng bằng nhược mộc trên tay xuống, đeo vào tay A Hành, “Chiếc vòng này chỉ làm bằng gỗ thường, nhưng có khắc lời thề của nhi nữ Nhược Thủy chúng ta trên đó, bất kể lúc nào muội có gặp khó khăn, nhi nữ Nhược Thủy chúng ta sẽ đeo cung tên che chắn cho muội.”

A Hành ung dung hành lễ, “Đa tạ tẩu tẩu.”

Xương Ý đăm đăm nhìn thê tử, ánh mắt ngập tràn niềm vui cùng hạnh phúc khiến Xương Phó đỏ mặt cúi đầu, chẳng dám ngẩng lên.

Thấy tình cảnh đó, Thanh Dương chỉ biết than thầm, bất lực bảo Xương Ý: “Nghi lễ loạn hết lên rồi, thôi hai người lên núi luôn đi, phụ vương và mẫu hậu đang ở Triêu Vân điện chờ bọn đệ tới dập đầu hành lễ đó.”

Chu Du vội gọi xe ngọc lại.

A Hành tiễn hai người lên xe rồi ngơ ngẩn trông theo, cỗ xe đã khuất sau làn mây mà vẫn chưa định thần lại được.

Bên tai chợt vang lên tiếng Xi Vưu, “Cô rõ những ân ân ái ái như của bọn họ lắm nhỉ? Duyên mới đã là châu là ngọc, tình xưa chỉ là mắt cá, còn đoái hoài tới làm gì, sai A Tệ đến đưa áo làm chi?”

A Hành giật thót người, vội lách mình né ra mấy bước mới kịp trấn tĩnh quay lại đáp: “Ta cùng Thiếu Hạo tình đầu ý hợp, đầm ấm hạnh phúc, chẳng hiểu Đại tướng quân đang nói gì nữa.”

Căm hận và bất lực ngập đầy trong mắt Xi Vưu, hắn đau đớn thốt, “Cô không hiểu ta coi cô là gì thật ư? Cô đúng là đồ ong bướm lả lơi, nhu nhược hèn nhát, ích kỷ tàn nhẫn, vậy mà ta vẫn không sao quên nổi.”

Thấy Thanh Dương và Thiếu Hạo đều đang nhìn mình, A Hành sầm mặt, “Có lẽ trước đây ta đã làm gì đó khiến Đại tướng quân hiểu lầm, nhưng giờ ta đã là vương tử phi của Cao Tân, xin ngài hãy tự trọng.” Dứt lời, nàng đi thẳng về phía Thiếu Hạo, đứng bên cạnh y, bấy giờ Thanh Dương mới dời mắt đi nơi khác.

Xi Vưu phá lên cười ha hả, vừa cười vừa bưng bát rượu lên tu ừng ực uống cạn.

A Hành nghe lòng lạnh buốt, đành ráng giữ nụ cười trên môi, đờ đẫn nhìn thẳng phía trước.

Thiếu nữ Nhược Thủy bưng vò rượu tới chúc mừng, Thiếu Hạo liền đưa A Hành một bát, “Nhược tửu của Nhược Thủy rất có phong vị riêng, nàng nếm thử xem.”

A Hành mỉm cười bưng lên uống, chỉ thấy đắng chát trong miệng, “Ừm, ngon lắm.”

Hậu Thổ bưng hai bát rượu tiến lại, A Hành ngỡ gã định kính rượu trò chuyện với Thiếu Hạo nên khéo léo tránh đi, nào ngờ gã bước tới đưa một bát cho nàng, chăm chú nhìn nàng cười cười không nói, A Hành đành ngượng nghịu cười đáp lễ, “Đa tạ Tướng quân” rồi ngửa cổ dốc cạn bát rượu.

Ánh mắt Hậu Thổ không giấu nổi thất vọng, “Vương tử phi không nhận ra tôi ư?”

A Hành sững người, mấy năm nay, Hậu Thổ nổi danh ngang với Xi Vưu, đều là anh tài mới nổi xuất sắc nhất Thần Nông tộc gần đây, đương nhiên nàng đã nghe tiếng từ lâu nhưng mới chỉ gặp mặt một lần duy nhất lúc cùng Xi Vưu lên Thần Nông sơn tìm Viêm Đế xin thuốc giải, đúng lúc gã phụng mệnh trấn giữ Thần Nông sơn. Lần đó nàng lại dùng Trụ Nhan hoa thay đổi dung mạo nên nói đúng ra A Hành đã gặp Hậu Thổ nhưng Hậu Thổ chưa từng gặp A Hành. Có điều, vẻ thất vọng hằn rõ trong mắt gã khiến A Hành hơi cảm động, toan hỏi rõ tại sao thì Xích điểu đã đậu xuống vai Hậu Thổ, thả tấm thẻ ngọc nho nhỏ vào tay gã, Hậu Thổ liền nghiêm mặt, nhìn A Hành định nói gì đó nhưng lại thôi, sau cùng chỉ hành lễ rồi vội vã đi khỏi.

Lòng A Hành trăm mối ngổn ngang, lại chẳng bụng dạ nào mà nghĩ ngợi nhiều, bèn tìm một góc yên tĩnh, ừng ực nốc Nhược tửu như uống nước.

Vân Tang lặng lẽ tới gần nhưng thấy Chu Du đứng hầu bên A Hành, nàng chỉ cười nói mấy lời khách sáo rồi quay mình định đi, nào ngờ A Hành bỗng níu lại, “Không sao đâu, Chu Du là thị nữ của Đại ca muội, có thể tin được.” Đoạn quay sang nửa năn nỉ, nửa ra lệnh cho Chu Du: “Tỷ tỷ tốt bụng ơi, muội muốn nói riêng với Vân Tang mấy câu, tỷ canh chừng giùm bọn muội với.”

Trước khi đi, Thanh Dương chỉ dặn Chu Du chông trừng A Hành, không được để A Hành cùng Xi Vưu gặp riêng nhau chứ không dặn không cho A Hành cùng Vân Tang nói chuyện riêng, nên Chu Du mau mắn nhận lời, bước sang một bên canh chừng.

Vân Tang ngồi xuống cạnh A Hành, chăm chú nhìn nàng, “Nghe nói muội cùng Thiếu Hạo ân ái mặn nồng, keo sơn khăng khít?”

A Hành gượng cười, ngửa cổ ừng ực dốc cạn bát rượu.

Vân Tang hiểu rõ ngọn ngành, chỉ biết thở dài, “Xương Phó thật đáng ngưỡng mộ! Có thể tự do thoải mái, muốn yêu thì yêu, không chịu chung chồng cùng kẻ khác liền buộc Tứ ca muội lập lời thề trước mặt mọi người. Tứ ca muội cũng rất chân thành, biết rõ phụ vương muội sẽ nổi giận, vậy mà vẫn lập lời thề không chút do dự.”

A Hành liếc nàng, “Tỷ cần gì phải ngưỡng mộ người khác? Viêm Đế Du Võng là em trai tỷ, đâu thể ép buộc được tỷ, nếu tỷ chịu hạ giá[3] thì Nặc Nại cũng chẳng ngần ngại lập lời thề, suốt đời suốt kiếp ở bên tỷ.”

[3] Hạ giá: chỉ việc công chúa (trong tác phẩm này là “vương cơ”) kết hôn với người có địa vị thấp hơn mình, ví như tướng quân, quan lại…

“Nha đầu chết tiệt, ăn nói càng lúc càng không ra thể thống gì cả.” Vân Tang đỏ bừng mặt, trong vẻ ngượng ngùng lại toát lên bao ngọt ngào êm dịu không lời.

Trông bộ dạng Vân Tang, A Hành bật cười, xem ra lần trước Nặc Nại lên Thần Nông sơn cũng chẳng uổng công, mọi hiềm khích giữa đôi bên đã hóa giải cả rồi, “Chừng nào đến tỷ và Nặc Nại?”

“Chừng nào cái gì?” Vân Tang giả vờ không hiểu.

“Chừng nào thành hôn đó! Tỷ là Trưởng vương cơ của Thần Nông, hạ giá lấy Nặc Nại cũng có phần thiệt thòi, có điều đèn nhà ai nhà nấy rạng, cần gì quan tâm kẻ khác nói gì, chỉ cần Nặc Nại kiên trì nhẫn nại, nhất định Thiếu Hạo sẽ giúp y.”

Vân Tang gật đầu, “Nặc Nại chẳng nhẫn nại thận trọng được thế đâu, y chưa từng coi ta là vương cơ, chỉ cần ta đồng ý, y sẽ chính thức lên đỉnh Tử Kim cầu hôn.”

“Vậy tại sao…”

“Du Võng là đệ đệ ngoan của ta, chuyện gì nó cũng nghĩ cho ta, lẽ nào ta có thể ích kỷ không nghĩ cho nó ư? Tính tình Du Võng muội biết rồi đấy, ngai vị này nó ngồi chật vật vô cùng, bọn Chúc Dung lúc nào cũng chòng chọc nhìn vào nó, hiện giờ Xi Vưu chưa đủ lông đủ cánh, chỉ có ta mới miễn cưỡng trấn áp được chúng đôi phần, nếu bây giờ ta thành hôn, lại gả cho một tướng quân ngoại tộc thì sẽ rất bất lợi cho Du Võng, nên ta đành nói Nặc Nại đợi ta hai trăm năm. Hai trăm năm nữa, Xi Vưu đủ khả năng nắm giữ quân đội Thần Nông, có hắn phụ tá Du Võng, ta mới có thể yên tâm xuất giá.” Vân Tang cười, đoạn thở phào nhẹ nhõm, “Lúc đó ta cũng có thể thật sự từ bỏ thân phận Trưởng vương cơ, làm một người phụ nữ bình thường, kiến thức nông cạn, bụng dạ hẹp hòi, chỉ lo toan về gạo dầu mắm muối, ngày ngày nấu canh bồi bổ cho chồng.”

A Hành vui vẻ nói, “Chúc mừng tỷ tỷ! Bao năm nay tỷ đã phải nghĩ cho cha, cho muội muội đệ đệ, cũng đến lúc nên nghĩ cho chính mình rồi.”

Vâng Tang cười hỏi lại: “Thế còn muội? Từ nhỏ muội đã ngang ngược quật cường, ta chẳng tin muội chịu nghe phụ vương muội sắp xếp đâu.”

“Muội tự có tính toán của mình.” A Hành rót hai bát rượu, đưa một bát cho Vân Tang, “Tỷ thấy hôm nay Tứ ca muội hạnh phúc nhường nào rồi đấy, thuở nhỏ, bất kể chuyện gì Tứ ca cũng nhường nhịn muội, bảo vệ cho muội, bây giờ muội cũng nên nhường Tứ ca, bảo vệ Tứ ca để Tứ ca có thể yên ổn ở bên người Tứ ca thật lòng yêu thương. Chỉ cần mẹ và Tứ ca được bình yên, dù có thiệt thòi đến mấy muội cũng vẫn vui vẻ.”

Vân Tang lắc đầu cảm thán, “A Hành, muội lớn thật rồi!” Nhưng tự đáy lòng, Vân Tang lại mong mỏi A Hành có thể mãi mãi như khi trước xiết bao.

“Cạn!” A Hành chạm bát với Vân Tang, Vân Tang vốn không thích uống rượu nhưng hôm nay bất luận ra sao, nàng cũng phải uống cùng A Hành.

Hai người cứ thế chuốc hết bát này sang bát khác, chẳng bao lâu Vân Tang đã say lăn ra không biết trời trăng gì, để lại một mình A Hành tự rót tự uống, mãi đến lúc mê man mất hết ý thức.

Hết chương 14.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2014 13:49:19 | Xem tất
Chương 15


Ngỡ vô tình, thực vẫn hữu tình[1] .


15.1


[1] Trích trong bài thơ Trúc chi từ kỳ thập của Lưu Vũ Tích (772 – 842). (ND)



Từ lâu y đã quen với cảm giác từ từ bị bóng đêm nhấn chìm thế này rồi, bởi từ nhỏ đến lớn, mỗi ngày của y đều là như vậy. Hết lần này đến lần khác, y đã quen bình thản nhìn từng kẻ thân bằng quyến thuộc vứt bỏ mình chẳng hề do dự, đến nỗi y cảm thấy như vậy mới là bình thường.


Bên dưới Hiên Viên sơn vẫn tưng bừng hỷ khí nhưng tình hình trên núi lại vô cùng căng thẳng. Thiếu Hạo, Thanh Dương, Xi Vưu, Hậu Thổ trước sau đều nhận được một tin giống nhau.

Hà Đồ Lạc Thư xuất hiện tại Ngu uyên.

Theo truyền thuyết, Hà Đồ Lạc Thư là địa đồ do Bàn Cổ đại đế tạo ra, không chỉ ghi lại hình thế núi sông khắp đại hoang mà còn chép cả những thay đổi khí hậu ở từng địa phương, nếu có được bức địa đồ đó, chẳng những nắm được địa lý các nơi mà còn có thể lợi dụng đặc điểm khí hậu để bày trận, là bảo bối binh gia hằng tranh đoạt.

Sau khi Bàn Cổ đại đế qua đời, Hà Đồ Lạc Thư cũng biến mất, nghe đồn Bàn Cổ đại đế đã giấu nó vào một quả trứng ngọc, giao cho gà vàng trông coi, gà vàng liền biến thành một ngọn núi. Mấy vạn năm nay, vô số kẻ trong Thần tộc đã đạp nát núi non trên đại hoang để tìm Hà Đồ Lạc Thư nhưng chẳng thấy tăm tích, vậy mà hôm nay lại có trinh thám của Thần tộc trông thấy gà vàng trong truyền thuyết xuất hiện gần Ngu uyên.

Đừng nói Thiếu Hạo, Thanh Dương, Hậu Thổ thảy đều biến sắc mà ngay cả kẻ luôn hờ hững trước mọi việc là Xi Vưu cũng chuẩn bị khởi hành đến Ngu uyên.

Tỉnh lại, A Hành phát hiện mình đang nằm trong Chỉ Nguyệt điện, nơi ở của Tam phi Đồng Ngư thị, còn phụ vương khoác áo bào đen đang ngồi lặng bên song, vầng trăng vằng vặc nửa ẩn nửa hiện sau làn mây như chiếc lưỡi câu ngọc ngà móc vào khung cửa, tựa hồ chính vầng trăng đã kéo cửa sổ mở ra.

Phụ vương nàng ngắm trăng đến ngơ ngẩn xuất thần như đang nhớ lại chuyện gì đó xa xưa lắm, vẻ dịu dàng hoang mang khôn tả còn đọng trên gương mặt chưa phai nét tuấn tú.

Chưa bao giờ thấy phụ vương kỳ lạ như thế này, A Hành chỉ biết nín thở, âm thầm quan sát.

Chợt Hoàng đế nhìn ánh trăng cả cười, vẻ ôn nhu lập tức biến mất: “Tỉnh rồi thì lại đây”.

A Hành vội lại gần quỳ xuống bên gối ông, “Sao phụ vương còn chưa ngủ?”

Hoàng đế cười nhìn nàng, “Thiếu Hạo đối tốt với con chứ?”

A Hành cúi đầu, “Tốt lắm, thưa phụ vương!”

“Ta đang mong được bế cháu ngoại đấy nhé!”

A Hành lí nhí, “Con biết, nhưng chuyện này không gấp được đâu ạ.”

“Các con đều thuộc dòng dõi Thần tộc chính thống, Thiếu Hạo linh lực cao cường, hai đứa lại ân ái mặn nồng như thế, theo lý mà nói…” Hoàng đế cau mày. “Lẽ nào còn có ẩn tình? Nhân lúc còn đang ở nhà chưa về bên ấy, để thầy thuốc khám thử xem sao.”

Một luồng hơi lạnh buốt chạy dọc từ chân lên khiến A Hành nhũn cả người, lát sau mới nhận ra phụ vương đang hoài nghi Thiếu Hạo lén giở thủ đoạn chứ không phải ngờ vực mình.

Hoàng Đế lại nói: “Phải rồi! Vừa nãy nhận được tin báo nói Hà Đồ Lạc Thư đã xuất hiện tại Ngu uyên. Con cũng biết đấy, Tây Lăng tộc của mẹ con tuy không dành được thiên hạ nhưng vẫn có địa vị ngang ngửa với Thần Nông và Cao Tân, đều là trọng thần dưới trướng Bàn Cổ đại đế. Mẹ con từng kể với ta rằng trong tộc có truyền thuyết nói Hà Đồ Lạc Thư không chỉ là một tấm địa đồ mà còn ẩn giấu bí mật trọng đại sánh ngang với Bàn Cổ khai thiên lập địa, ta nghĩ đây cũng là nguyên nhân khiến Thần Nông và Cao Tân huy động nhân lực rầm rộ như vậy, tuy ta chẳng tin mấy chuyện vu vơ đó nhưng quyết không thể để Hà Đồ Lạc Thư rơi vào tay hai phe kia được.”

“Mấy vạn năm nay, có biết bao tin đồn nhảm về Hà Đồ Lạc Thư rồi, chắc gì lần này đã là thật?”

“Bất kể thật hay giả chúng ta cũng nhất định phải tranh lấy, nếu để Thần Nông tộc dành được nó thì ngày tàn của Hiên Viên đã cận kề rồi đó. Thanh Dương đã dẫn thủ hạ tới Ngu uyên, nhưng Thiếu Hạo, Yến Long, Trung Dung của Cao Tân, Xi Vưu, Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ của Thần Nông cũng lũ lượt đổ về đó, để một mình Thanh Dương đi ta không yên tâm, muốn cử Xương Ý tới giúp đỡ.”

A Hành thấy lòng chùng hẳn xuống, nếu phụ vương thật sự muốn cử Tứ ca đi, sao còn giữ nàng lại Chỉ Nguyệt điện, dùng Tỉnh Tửu thạch làm nàng tỉnh rượu làm gì?

“Xin phụ vương cử con đi thay, đêm nay là tân hôn của Tứ ca, là đêm tân hôn đầu tiên và cũng là duy nhất của Tứ ca mà.”

Thấy Hoàng Đế yên lặng nhìn mình, A Hành quỳ xuống thưa: “Tuy linh lực của con không bằng Tứ ca nhưng con và Thiếu Hạo là vợ chồng, hơn nữa chuyện này đến cuối cùng là đấu trí chứ đâu phải là đấu dũng.”

Nghe nàng trình bày, Hoàng Đế cũng gật đầu ưng thuận, “Con nhớ lấy, nếu chúng ta không dành được thì thà hủy nó đi, quyết không để rơi vào tay kẻ khác.”

A Hành đập đầu thi lễ rồi đứng dậy toan đi.

“Hành nhi.”

A Hành nghe tiếng ngoảnh lại, Hoàng Đế liền đứng dậy, đặt hai tay lên vai nàng, “An nguy của cả Hiên Viên đều đặt lên vai con đó.”

Trước uy thế của phụ vương, A Hành cơ hồ nghẹt thở, chỉ biết gật đầu.

Đợi Hoàng Đế buông tay, nàng vội cúi đầu lui ra, đột nhiên, nàng ngẩng lên trông thấy Đồng Ngư thị đang đứng gần đó, cặp mắt sáng rực hệt như mắt mèo chòng chọc dán vào nàng.

A Hành giật thót mình, sực nhớ ra Đồng Ngư thị vừa mất con trai, nàng cũng lờ mờ hiểu được đôi phần, bèn bước lại hành lễ với bà ta, nhưng Đồng Ngư thị chẳng nói chẳng rằng, chỉ nghiến răng nghiến lợi nhìn nàng chằm chằm khiến A Hành lạnh cả người, vội cáo từ lui ra.

Giọng bà ta âm u vẳng lại sau lưng nàng: “Các người đừng vội đắc ý, ta nhất định phải khiến con đàn bà lòng dạ rắn rết Tây Lăng Luy nếm đủ mùi đau khổ!”

A Hành giận sôi gan, quay phắt lại.

Đồng Ngư thị chỉ mặt nàng cười sằng sặc: “Đại ca ngươi hại chết Huy nhi, nó đã muốn thiêu sống Huy nhi từ lâu rồi, nó hận Huy nhi thiêu chết Vân…”

Vừa nói đến đó Di Bành đã xông đến bịt miệng bà ta lại rồi quay qua cười xòa với nàng: “Mẹ ta bị kích động quá mức nên ăn nói linh tinh, muội đừng chấp nhé.”

“Cửu ca.” A Hành nguôi giận tươi cười tiến đế nhưng Di Bành đã kéo mẹ mình lùi lại, ánh mắt đầy cảnh giác.

Thấy vậy nàng khựng lại, lòng buồn mênh mang, Di Bành và nàng chỉ hơn kém nhau vài tuổi, lại học chung một thầy, thuở nhỏ vẫn ngày ngày chơi đùa cùng nhau, thân mật khăng khít, vậy mà sau này lớn lên, chẳng hiểu sao càng lúc càng xa lạ.

“Cửu ca, muội về đây.” Nàng gượng cười, rảo bước ra khỏi điện.

Ra khỏi Chỉ Nguyệt điện, A Hành liền kêu A Tệ bay thẳng tới Ngu uyên.

Gương mặt Đồng Ngư thị cứ chập chờn trong đầu nàng, lẽ nào Tam ca thật sự bị Đại ca hại chết ư? Sao lại thế? Vì Tam ca cản trở việc Đại ca kế thừa vương vị chăng?

Đột nhiên nàng giật thót mình, phụ vương thường ở lại Chỉ Nguyệt điện, lẽ nào không nghe thấy những lời linh tinh của bà ta? Nàng không muốn nghĩ xấu cho phụ vương, nhưng phụ vương trước dùng Tứ ca buộc nàng phải xung phong đi Ngu uyên, sau đó Đồng Ngư thị lại xuất hiện đúng lúc như thế khiến nàng không khỏi liên tưởng liệu đây có phải một lời cảnh cáo của phụ vương chăng? Cảnh cáo nếu nàng không đạt được Hà Đồ Lạc Thư thì mẹ nàng sẽ bị đẩy vào hiểm cảnh?

A Hành chợt thấy lạnh từ trong lạnh ra, cả người run lẩy bẩy, bèn rạp mình ôm chặt lấy A Tệ.

A Tệ cũng cảm nhận được, liền ngoảnh lại cọ cọ vào má nàng như an ủi.

Ngu uyên là nơi mặt trời lặn, nằm ở đầu cuối đại hoang, vùng cực Tây hoang vu không một bóng người, cũng là một trong năm thánh địa lớn từ thời thượng cổ, nhưng người trên đại hoang không ai hiểu vì sao nó lại được tôn làm thánh địa sánh ngang với Thang cốc nơi mặt trời mọc lên, Quy khư nơi đầu nguồn con nước, Ngọc sơn nơi ngọc linh quy tụ và Nam Bắc minh nơi hai cực hợp lại làm một. Ngu uyên sở hữu nguồn sức mạnh có thể nhấn chìm mọi thứ, chẳng sinh vật nào sống nổi ở đó, gọi là thánh địa, chi bằng gọi là ma vực còn đúng hơn, bởi vậy dần dà người đại hoang bèn gọi Ngu uyên là ma vực.

Lúc A Hành tới nơi là chính Ngọ, cũng là thời điểm sức mạnh của Ngu uyên suy yếu nhất trong ngày, khói đen vần vũ trên vùng trời Ngu uyên cơ hồ đã nhạt đi nhiều, nhưng chẳng có thần tiên hay yêu quái nào dám xông vào làn khói cuồn cuộn đó.

Liệt Dương sẵn tính nóng nảy chẳng đợi A Hành lên tiếng đã xông thẳng vào màn khói đen, lập tức khói đen quấn quanh mình nó kéo xuống, nhìn bên dưới cũng chỉ thấy mịt mù khói đen, chẳng trông rõ vật gì, càng xuống dưới, khói đen càng dày đặc như một thứ dầu đen kịt, Liệt Dương hơi sờ sợ vội lật mình bay vút lên, đỗ xuống vai A Hành.

A Hành nhìn qua con lạch không mọc nổi một ngọn cỏ, mắt trông về phía Tây chỉ thấy khói đen cuồn cuộn ngút mắt trào lên như sóng, lại tựa như mặt biển đen mênh mông chẳng thấy bến bờ, chẳng ai biết nó rộng bao nhiêu, cũng chẳng ai biết nó sâu chừng nào.

Nàng quay sang hỏi Chu Du: “Mọi chuyện thế nào rồi? Có phải là Hà Đồ Lạc Thư thật không đó?”

“Điện hạ đã dùng linh lực tra xét rồi, có vẻ lần này là thật đó.” Ả chỉ tay về phía vách núi ngoài cùng của Ngu uyên. Lúc này đây phân nửa vách núi vẫn chìm trong màn khói đen, chỉ có phân nửa lộ ra dưới ánh mặt trời, nửa đen nửa vàng, càng toát lên vẻ đẹp đầy quỷ dị.

“Nghe nói gà vàng chui vào sơn động, điện hạ đã đuổi theo hơn một canh giờ rồi.” Chu Du ngẩng đầu nhìn vầng dương đã bắt đầu ngả về Tây, thấp thỏm: “Mặt trời càng ngả về Tây thì sức mạnh nhấn chìm vạn vật của Ngu uyên càng mạnh lên, sau cùng còn hút luôn cả mặt trời vào, thần lực mạnh thế nào cũng không thoát nổi.”

Nàng liền giao A Tệ và Liệt Dương lại cho Chu Du, “Ngươi trông nom chúng giùm ta, đừng để chúng xông vào đó. Ta đi xem Đại ca thế nào.”

“Vương cơ phải cẩn thận đó! Nhớ ra khỏi Ngu uyên trước khi mặt trời lặn nhé!”

A Hành quăng tơ Thiên Tằm bám vào vách núi rồi xông thẳng vào cửa động.

Bên trong tối đen như mực, chẳng nhìn thấy bất cứ thứ gì, A Hành cầm mộc khúc mê cốc[2] soi đường, thận trọng tiến vào.

[2] Mê cốc: một loài thực vật được nhắc tới trong phần Nam Sơn kinh của Sơn Hải kinh, có thể phát sáng soi đường, đề phòng bị lạc. Theo Sơn Hải kinh chép lại: “Núi Chiêu Diêu có một loài cây, hình dạng như kẻ, màu đen, phát sáng, tên gọi mê cốc, đeo vào sẽ không bị lạc đường.”

Đi một lúc ước chừng một tuần trà, nàng trông thấy Thanh Dương. Y đang ngồi xếp bằng trên mặt đất, mặt tái nhợt, vạt áo lấm tấm máu, hiển nhiên đã bị trọng thương.

Trông thấy A Hành, y đùng đùng nổi giận, “Sao muội lại đến đây?”

“Huynh đến được, sao muội lại không thể?” Nàng tiến lại xem xét vết thương của y, “Là âm thương, Yến Long đả thương huynh sao?”

Nói rồi nàng dúi cho Đại ca một viên đan dược, “Thuốc này không trị được thương, nhưng có thể giúp huynh điều hòa nội tức.”

Thanh Dương chẳng buồn hỏi lại, nhận lấy uống ngay, “Nói chính xác là Yến Long và Thiếu Hạo cùng đả thương ta, sáng hôm qua tỷ thí với Thiếu Hạo đã bị thương nên hôm nay Yến Long mới thừa nước đục thả câu.”

“Phát hiện Hà Đồ Lạc Thư chưa?”

“Chỉ cần tìm thấy gà vàng, moi trứng ngọc trong bụng nó ra là được, tìm được gà vàng không khó, cái khó là làm sao đối phó được với đám cao thủ Thần tộc cũng đang lăm le giành Hà Đồ Lạc Thư kia.”

“Chúng đâu cả rồi?”

Thiếu Hạo đang bị Hậu Thổ cầm chân, y cũng đã thụ thương, hơn nữa thổ linh của Hậu Thổ lại khắc chế thủy linh của Thiếu Hạo, nếu như bình thường thì chẳng có gì đáng ngại, nhưng Ngu uyên là nơi vạn linh giai không, có mỗi thổ linh nên linh lực của Thiếu Hạo khó mà thi triển được, chỉ có thể đánh ngang tay với Hậu Thổ thôi. Chúc Dung và Cộng Công đụng phải Yến Long, đôi bên cũng đang giao tranh ác liệt. Trung Dung và Xi Vưu đuổi theo gà vàng cả rồi. Ta vừa tiến vào sơn động chưa bao lâu đã bị Yến Long đánh lén nên định tránh sang một bên, để chúng quần nhau chán đi đã.”

Cảm nhận được tình hình mới qua lưới tơ tằm giăng sẵn, Thanh Dương chợt rùng mình, “Xi Vưu đả thương Chúc Dung, bắt được gà vàng rồi…” Cả sơn động nhoáng lên một luồng sáng xanh biếc dịu dàng, chẳng cần Thanh Dương phải nói, A Hành cũng đoán ra, “Xi Vưu giành được Hà Đồ Lạc Thư rồi.”

Thanh Dương lập tức đứng dậy, “Thiếu Hạo đột nhiên biến mất trong thổ trận của Hậu Thổ, ắt hẳn là đuổi theo Xi Vưu rồi.”

A Hành kéo y lại, “Đại ca, để muội đi.”

Thanh Dương đưa mắt nhìn nàng, A Hành gấp gáp nói: “Hiện giờ chúng ta đuổi theo cũng chẳng kịp nữa rồi, chi bằng cứ đón lõng trên đường rút lui của chúng, huynh ở trong tối, muội ở ngoài sáng. Huynh ra cửa động đợi muội, lấy nhàn cự mệt, để muội đi dụ địch, đến lúc đó hai ta kẻ trong tối người ngoài sáng cùng phối hợp, nhất định sẽ có cơ hội đoạt lấy Hà Đồ Lạc Thư.”

Thanh Dương hành sự quả quyết, liền gật đầu, lẩn vào trong bóng tối.

A Hành vận linh lực lên tay, thận trọng tiến vào.

Vào sâu trong động, nàng mới thật sự cảm nhận được sự đáng sợ của Ngu uyên, mỗi bước đi, linh lực lại vơi đi một chút, hơn nữa, mặt trời càng ngả xuống gần Ngu uyên, mức độ tiêu hao càng tăng dần.

Đột nhiên, một lưỡi thổ đao từ dưới đất chỉa lên, nàng vừa tránh khỏi đã thấy vách động đâm ra tua tủa thổ kiếm, cứ chặt gãy lại thấy cái mới mọc lên, bốn bề đều là đất, những lưỡi kiếm cứ đâm ra liên miên không dứt.

Vách động sau lưng nàng như hóa thành một cánh cung, bắn ra từng loạt từng loạt thổ kiếm dày đặc như mưa, A Hành tránh né đến phờ cả người, chợt thấy một thanh thổ kiếm từ đằng trước đâm thẳng tới, nàng tự biết không sao tránh nổi, đành hét toáng lên, giương mắt trơ trơ nhìn thanh kiếm đâm vào ngực mình.

Hậu Thổ ẩn thân giữa đám đất đá nghe nàng hét vội thu kiếm lại, thanh kiếm dừng sựng trước ngực nàng, gã cũng theo đó mà hiện thân, ngạc nhiên gọi: “Bạt tỷ tỷ? Sao tỷ lại ở đây?”

A Hành còn chưa kịp hoàn hồn, nàng không sao tưởng tượng được gã Hậu Thổ tuấn tú nhã nhặn trước mặt chính là kẻ bừng bừng sát khí, suýt lấy mạng mình vừa nãy. Nàng bên khom lưng thi lễ: Đa tạ Tướng quân nương tay.”

Hậu Thổ vội đỡ lấy nàng, vừa thất vọng vừa hoảng hốt hỏi: “Nếu nói cảm tạ thì đệ cảm tạ tỷ tỷ mới phải, tỷ vẫn chưa nhớ ra đệ ư?”

A Hành giơ mê cốc soi vào mặt gã, nhìn thật kỹ. Thuở nhỏ nàng có tới Thần Nông một lần, nếu từng gặp gã thì hẳn là từ hồi đó, tiếc rằng chuyện xưa nàng đã quên gần hết, chỉ nhớ có lần mình đánh cho mấy tên vương tôn công tử vỡ đầu chảy máu, để xoa dịu cơn giận của họ, Đại ca phạt nàng phải bưng tảng đá nặng trịch đứng suốt đêm, nhưng tại sao lại đánh nhau nhỉ? À, hình như là bởi chúng ăn hiếp một đứa bé, tuy đứa nhỏ đó là hậu duệ vương tộc nhưng mẹ nó lại là người thuộc Yêu tộc, thân phận thấp kém nên luôn bị những đứa trẻ khác khinh miệt. Đứa nhỏ đó có đôi mắt nai dịu dàng vô hạn, tròng mắt nâu ngơ ngác, lông mi dài thật dài, lại rất mau nước mắt, mỗi khi bị đám trẻ kia làm nhục, nó chẳng hề phản kháng kêu la, chỉ rúc mình trong xó âm thầm khóc. Lúc nàng bị phạt đứng, nó lén lút tới thăm, còn hỏi nhỏ: “Có nặng không?”

Nàng lắc đầu cười còn nó lại bật khóc nức nở như thể chính mình bị phạt vậy, thoạt đầu nàng dịu giọng dỗ dành, nhưng càng dỗ nó càng khóc tợn, nước mắt lã chã như mưa, y hệt con gái, khiến nàng phát bực, bèn mắng cho mấy câu. Thằng nhỏ bị nàng mắng chỉ biết ngây ra nhìn nàng đến quên cả khóc.

A Hành nhìn vào mắt Hậu Thổ, lắp bắp, “Đệ… đệ là… đứa bé mau nước mắt đó ư?”

Vị anh hùng nổi danh khắp thiên hạ như Hậu Thổ không ngờ lại đỏ bừng mặt, “Là đệ đây, có điều mấy trăm năm nay đệ không khóc nữa. Đệ còn nhớ tỷ tỷ từng mắng rằng nam tử hán chỉ đổ máu chứ không rơi lệ mà!”

A Hành ngượng ngùng cười, buông lời cảm khái: “Giờ đệ đã trở thành nam tử hán chân chính rồi!”

Hậu Thổ vẫn bịn rịn chưa muốn đi khỏi, nhưng nơi này chẳng phải chỗ ôn lại chuyện xưa, đành nói: “Tỷ tỷ mau đi đi, thể chất của tỷ là mộc linh, mà Ngu uyên lại là nơi cây cỏ không mọc nổi, mặt trời càng ngả về Tây thì linh khí của tỷ sẽ càng bị khắc chế nhiều hơn, sau cùng e rằng chẳng còn sức mà rời khỏi đây nữa đâu.”

A Hành cười tán thành: “Vậy ta đi đây, à phải, đệ có gặp Thiếu Hạo không?”

Hậu Thổ ngượng ngập đáp: “Bọn đệ vừa giao thủ khi nãy, Thiếu Hạo thật không hổ là Thiếu Hạo, nơi này toàn thổ linh, y hình như lại đang bị thương, vậy mà đệ vẫn chỉ đấu ngang tay với y, có điều…”

“Sao cơ?”

Hậu Thổ áy náy nói: “Có điều về sau y nôn nóng xông ra khỏi thổ kiếm trận của đệ nên bị thương nhẹ. Nếu tỷ tỷ tới tìm y thì mau đi đi, giờ y bị thương nên lại thêm thương, nấn ná ở đây không tiện đâu.”

“Đa tạ đệ.”

Hậu Thổ vội nói: “Tỷ tỷ đừng khách khí với đệ như thế. Đệ nói rồi mà, kẻ nên cảm tạ là đệ mới phải. Có lẽ chuyện xưa đối với tỷ chẳng đáng gì nhưng đối với một đứa nhỏ bơ vơ cô độc, tự ti yếu đuối như đệ thì…” Hậu Thổ nghẹn lời, ánh mắt sẫm lại, lát sau mới bình tĩnh nói tiếp: “Nhờ có tỷ mà đứa nhỏ ngày xưa mới có thể trở thành Hậu Thổ hôm nay.”

A Hành biết từng câu chữ của gã đều xuất phát tự đáy lòng, bèn hào sảng nói: “Được! Từ nay về sau ta sẽ coi đệ như đệ đệ mình, không khách khí nữa.”

Hậu Thổ mừng rỡ nhoẻn cười.

Nhớ đến Xi Vưu cùng Thiếu Hạo, nàng lại càng sợ họ vì Hà Đồ Lạc Thư mà giao tranh, vội nhớn nhác toan đi, Hậu Thổ thấy vậy bèn trao cho nàng một quả cầu bằng đất vàng, “Nơi đây ngoài thổ linh thì vạn linh giai không, món pháp bảo này do đệ luyện ra, chỉ cần tỷ nắm nó trong tay, đi đến bất cứ nơi nào có đất cũng có thể ẩn thân, hòa mình vào đất, lúc nguy cấp quăng nó ra còn có thể điều khiển thổ linh trong vòng ba trượng xung quanh, nhưng không kéo dài được lâu đâu.”

A Hành toan mở miệng cảm ơn nhưng rồi lại lè lưỡi cười cười nhận lấy quả cầu gã đưa
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2014 13:52:23 | Xem tất
Chương 15


Ngỡ vô tình, thực vẫn hữu tình[1] .


15.2


Mặc Hậu Thổ ba lần bảy lượt dặn dò nàng rời khỏi Ngu uyên cho mau, A Hành vẫn chạy thẳng vào trong, có điều càng lúc nàng càng thấy áp lực đè nặng lên mình như thể bị một bàn tay khổng lồ trì kéo xuống vậy.

Ngửi mùi máu tanh thoang thoảng trong không khí, nàng ngỡ Xi Vưu và Thiếu Hạo đã giao tranh với nhau, vội cuống cuồng chạy đến, tim cơ hồ nhảy thót ra khỏi lồng ngực, chẳng biết rốt cuộc là ai bị thương.

Lần theo mùi máu, nàng tìm tới nơi giao đấu nhưng chẳng gặp Xi Vưu, chỉ thấy Yến Long và Thiếu Hạo. A Hành nắm pháp bảo của Hậu Thổ trong tay, nín thở dán mình sau vách động âm thầm nghe ngóng.

Thiếu Hạo ngồi xếp bằng trên mặt đất, bao quanh là một bong bóng nước màu lam khổng lồ, Yến Long ôm đàn đi vòng quanh Thiếu Hạo, vừa đi vừa gảy, không nghe thấy tiếng đàn nhưng hễ y gảy là bong bóng nước quanh Thiếu Hạo lại co vào một chút, chẳng khác nào một trái tim đang khổ sở vùng vẫy.

Chẳng hiểu Thiếu Hạo bị thương ở đâu, chỉ thấy bạch bào trên người y vấy đầy máu.

Yến Long càng cười càng đắc ý, khí thế gảy đàn cũng càng lúc càng tiêu sái tự nhiên. Bóng nước bao quanh Thiếu Hạo càng lúc càng co lại.

Thiếu Hạo cất tiếng: “Ngươi thật không biết nặng nhẹ! Dù muốn giết ta cũng không nên đánh lén lúc ta giao thủ với Xi Vưu! Để Hà Đồ Lạc Thư rơi vào tay Xi Vưu, ngươi có từng nghĩ tới hậu quả chưa?”

Yến Long cười đáp: “Đừng lo, ta xử lý ngươi xong sẽ hỏi đến hắn. Hà Đồ Lạc Thư đương nhiên khó tìm, nhưng cơ hội để giết ngươi còn khó kiếm hơn, ta đợi hơn hai ngàn năm mới có ngày hôm nay đó. Hai tên đần độn Chúc Dung và Cộng Công tưởng rằng dựa vào năng lực của chúng mà cầm chân được ta ư, ha ha, ta chẳng qua chỉ vờ giết thời gian với chúng, để hai kẻ lợi hại thực sự là Hậu Thổ và Xi Vưu lại cho ngươi, sẵn tiện tiêu hao linh lực của ngươi thôi, chỉ tiếc ngươi quá vô dụng, đệ nhất cao thủ Thần tộc quái gì mà lại bị Hậu Thổ và Xi Vưu đả thương đến nông nỗi này.”

Vết máu trên áo Thiếu Hạo càng lúc càng nhiều, bong bóng nước cũng mỏng dần đi, thu nhỏ lại.

Yến Long vừa cười vừa lắc đầu, thưởng thức cảnh tượng Thiếu Hạo bất lực tránh né. Từ lúc sinh ra, Thiếu Hạo vẫn luôn là kẻ địch của y. Từ nhỏ đến lớn, y làm gì cũng bị đem ra so sánh với Thiếu Hạo, dù nỗ lực cỡ nào, làm tốt tới đâu, chỉ cần thua kém Thiếu Hạo thì đều thành công cốc. Từ nhỏ tới lớn, y cũng được coi là thiên tư siêu quần, thông tuệ xuất chúng, năng nổ giỏi giang, nhưng hễ đụng phải Thiếu Hạo là lại thất bại, đến nỗi y lấy làm thắc mắc, ông trời đã sinh ra Thiếu Hạo, sao còn sinh ra y? Lẽ nào y chỉ dùng để làm nền cho Thiếu Hạo thôi ư?

Đây là lần đầu tiên y trông thấy hy vọng thắng lợi, miễn là Thiếu Hạo không còn, y sẽ có thể trở thành Yến Long chứ không phải là Nhị vương tử Cao Tân thua kém Thiếu Hạo về mọi mặt nữa.

Yến Long dụng lực gảy liên tiếp ba lần khiến bóng nước choang một tiếng vỡ tan tành, Thiếu Hạo đổ gục xuống, máu từ tai rỉ ra.

Yến Long phá lên cười, bước lại gần Thiếu Hạo, nghe Thiếu Hạo thều thào nói: “Đừng lãng phí linh lực với ta nữa, ta không còn sức rời khỏi Ngu uyên đâu, ngươi mau đi đoạt lại Hà Đồ Lạc Thư đi.”

Yến Long tàn nhẫn bồi thêm cho Thiếu Hạo mấy cú đá, “Đừng làm bộ làm tịch như Cao Tân là của riêng ngươi nữa, lẽ nào chỉ mình ngươi biết lo cho dân cho nước còn ta thì không ư? Từ nay trở đi, ta chính là Đại vương tử của Cao Tân, việc của Cao Tân sẽ do ta lo liệu.”

Nói rồi y vận linh lực trên tay, toan hạ một chưởng lấy mạng Thiếu Hạo, đột nhiên Hậu Thổ từ đâu cười ha hả xông ra, lập tức hang động vặn vẹo biến hình, thổ đao từ dưới đất chỉa lên, khói bụi mù mịt khắp nơi, chẳng nhìn thấy gì hết.

Ngu uyên là lãnh địa của thổ linh, tại đây, thần lực của Hậu Thổ có thể tăng gấp bội, Yến Long lại không giỏi cận chiến, y giật thót mình, vội chăm chú tránh né thổ kiếm thổ đao, đồng thời cao giọng: “Hà Đồ Lạc Thư rơi vào tay Xi Vưu rồi.”

Giọng Hậu Thổ từ đâu đó vẳng lại, nghe chữ được chữ mất, “Thật không?”

Yến Long cười nhạt, “Ta gạt ngươi làm gì?”

“Vậy được, cáo từ!”

Chỉ lát sau khói bụi mịt mù đều tan đi, để lại mặt đất trống trơn, xem ra Thiếu Hạo nhân lúc hỗn loạn đã chuồn mất. Yến Long điên tiết bèn ngưng tụ linh lực toan đuổi theo, chợt y khựng lại nghĩ thầm, chẳng rõ vừa nãy Hậu Thổ nhìn trộm được bao nhiêu, lỡ như Tuấn Đế biết y ra tay giết Thiếu Hạo thì dù có lòng thiên vị, phụ vương cũng sẽ trừng phạt y thật nặng.

Sức mạnh của Ngu uyên càng lúc càng tăng, không thể nấn ná ở đây thêm nữa, Thiếu Hạo bị thương nặng như vậy ắt chẳng thể rời khỏi nơi này, chi bằng để Ngu uyên kết liễu Thiếu Hạo, sau này dù Hậu Thổ nói gì đi nữa y cũng có thể hùng hồn bẩm lại với phụ vương rằng Thiếu Hạo bị Hậu Thổ và Xi Vưu vây đánh, không may bị thương nặng, linh lực cạn kiệt, không kịp thoát khỏi Ngu uyên nên bỏ mạng, vậy là kín kẽ như áo trời chẳng thấy đường may.

Yến Long đắn đo một hồi rồi vội vã chạy thẳng ra ngoài.

Đợi y khuất dạng, Thiếu Hạo và A Hành nấp gần đó mới dám thở phào nhẹ nhõm.

“Cảm ơn nàng.” Thiếu Hạo không vướng bụi trần lúc xưa, giờ chẳng những bê bết máu me mà còn lấm lem mặt mũi, nhưng khí độ ung dung vẫn y hệt thuở nào.

“Cần gì khách khí thế? Muốn cảm tạ thì phải cảm tạ chàng hàng ngày tận tình dạy dỗ thiếp. Nếu chàng không kể với thiếp rằng phụ vương hiền từ nhân hậu thì thiếp cũng chẳng dám tin đóng giả Hậu Thổ lại có thể dọa Yến Long sợ không dám đuổi theo đâu.”

Thiếu Hạo lại hỏi: “Trụ Nhan hoa của nàng có thể thay đổi dung mạo, nhưng sao nàng lại khống chế được thổ linh khiến cho Yến Long tin nàng là Hậu Thổ?”

“Nói ra thì dài dòng lắm, dù sao lần này cũng phải cảm ơn Hậu Thổ.” A Hành cõng Thiếu Hạo dậy. “Chúng ta mau rời khỏi đây thôi, sức mạnh của Ngu uyên càng lúc càng tăng kìa.”

Vừa nãy nàng một thân một mình xông ra đã tiêu hao kha khá sức lực, giờ đây lại cõng theo Thiếu Hạo nên tốc độ càng lúc càng chậm.

Đi mãi đi mãi vẫn chưa ra được khỏi động, trong khi đó áp lực cứ ngày một tăng thêm, chân nàng nặng trịch như sắp dính vào mặt đất, lại thêm sức nặng của Thiếu Hạo trên lưng, mỗi lần cất bước, A Hành đều phải vận hết linh lực.

Thấy nàng càng đi càng chậm, Thiếu Hạo hiểu ngay rằng nàng không đủ linh lực, giỏi lắm cũng chỉ có thể tự mình rời khỏi mà thôi.

“A Hành, bỏ ta xuống, nhân lúc mặt trời chưa lặn hẳn nàng mau đi đi, thà thoát được một người còn hơn cả hai cùng chết.”

Trong lòng A Hành đang giằng xé kịch liệt, nàng đâu phải không hiểu đạo lý mà Thiếu Hạo nói. Vừa khó nhọc lê bước vừa cân nhắc thiệt hơn, chợt nhớ tới mẹ và Tứ ca, nàng đột nhiên khựng lại mà nhủ thầm, mình không thể chết được.

Thiếu Hạo thấy là hiểu, liền nhúc ngắc toan tuột xuống.

A Hành đặt y ngồi tựa vào tường, cúi gằm mặt không dám nhìn vào mắt y: “Xin lỗi chàng.”

Thiếu Hạo cười, “Khỏi cần xin lỗi, nếu đổi lại là ta hẳn đã không mạo hiểm ra tay cứu người trước mặt Yến Long rồi, nàng mau đi đi!”

A Hành nghiến răng, vận linh lực chạy vụt ra ngoài.

Nàng cắm đầu cắm cổ chạy trong đêm tối, nhưng chạy thế nào cũng không thoát được bóng đêm. Nụ cười của Thiếu Hạo còn rành rành trước mắt nàng, cứ chạy thêm một bước, gương mặt ấy lại rõ thêm một phần, tất cả tháng ngày từ khi quen biết tới nay đều biến thành muôn mặt nụ cười, cười hờ hững, cười vui vẻ, cười khanh khách… Lần đầu tiên nàng nhận ra rằng, bất kể lúc nào, Thiếu Hạo cũng mỉm cười. Kể cả khi nãy y cũng vẫn tươi cười.

Nàng dừng phắt lại, nghiến răng chạy ngược trở về.

Bốn bề tối đen như mực, lại im phăng phắc, Thiếu Hạo đang nhắm mắt chờ chết đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân chậm chạp mà nặng nhọc, nhưng y chẳng buồn mở mắt ra.

Mãi tới khi tiếng bước chân dừng trước mặt mình, y mới từ từ mở mắt, đăm đăm nhìn A Hành, chẳng nói một lời.

A Hành cũng chẳng nói chẳng rằng dụng lực cõng y lên, thân thể Thiếu Hạo dưới lực hút của Ngu uyên đã nặng tựa ngàn cân, nàng chỉ có thể lê từng bước từng bước một.

Thiếu Hạo lặng thinh, hai tay rũ trên vai A Hành.

A Hành vừa thở hổn hển vừa bấu víu vào những mẩu đá gồ lên trong động, dùng sức dịch chuyển về phía trước.

Nhiệt độ trong động càng lúc càng tăng, lực hút cũng mỗi lúc một mạnh, A Hành cơ hồ không nhích nổi một bước nhưng vẫn nghiến chặt răng, bám vào mẩu đá lết tới trước, hai tay xước xát hết cả.

Hai người lê lết bằng tốc độ của ốc sên, nhích được một chút là phải trả giá bằng bao nhiêu máu chảy.

Bỗng Thiếu Hạo gắng gượng giơ tay lên bám lấy mẩu đá, gắng hết sức nhích thân thể mình và A Hành lên phía trước, máu của hai người hòa lẫn vào nhau trên vách động.

Đi thêm được chừng mười trượng thì A Hành không nhấc nổi chân lên nữa, nàng ra sức đá chân ra nhưng bàn chân cứ dính chặt lấy mặt đất, như thể mọc lên từ đó vậy.

Nàng gắng gượng nhấc, gắng sức nhấc, gắng hết sức nhấc chân lên…

Thân hình nàng ngả ngả nghiêng nghiêng rồi ngả phịch xuống đất, kéo theo cả Thiếu Hạo.

A Hành vùng vẫy toan bò dậy nhưng cả người nàng đã dính chặt vào mặt đất, không sao dậy nổi, Thiếu Hạo bên cạnh dường như đoán trước được kết quả này, chỉ một mực nằm im, chẳng buồn nhúc nhích.

A Hành nằm đè lên cánh tay Thiếu Hạo cười khúc khích, “Thiếp ngốc thật đấy! Chẳng cứu được chàng mà chính mình còn chết chùm theo, sao khi nãy chàng không khuyên thiếp thêm mấy câu nữa hả? Cứ tỏ vẻ một lòng muốn chết, không cần thiếp nhiều chuyện có phải đỡ không?”

Thiếu Hạo nhắm nghiền mắt làm thinh, lát sau mới lên tiếng: “Vì ta cũng sợ chết lắm.”

Khi nãy sau khi A Hành đi khỏi, y chẳng hề thấy sợ hãi, chỉ ngồi yên bình tĩnh cảm nhận sức mạnh của Ngu uyên đang tăng lên từng chút một, cũng từng chút từng chút nuốt lấy mình. Từ lâu y đã quen với cảm giác từ từ bị bóng đêm nhấn chìm thế này rồi, bởi từ nhỏ đến lớn, mỗi ngày của y đều là như vậy. Y từng coi phụ vương là chỗ dựa vững chắc nhất nhưng lại quên khuấy rằng phụ vương là phụ vương duy nhất của y, nhưng y không phải con trai duy nhất của phụ vương, y từng ngỡ rằng vú già thương mình nhất, nhưng suốt mấy trăm năm ngày nào bà ta cũng bỏ độc vào đồ ăn của y, từng cho rằng có thể tin tưởng muội muội nhưng cô ta lại đem hết thảy lời ăn tiếng nói của y mách với Tuấn Hậu không sót một chữ, từng tưởng rằng… Hết lần này đến lần khác, y đã quen bình thản nhìn từng kẻ thân bằng quyến thuộc vứt bỏ mình chẳng hề do dự, đến nỗi y cảm thấy vậy mới là bình thường.

Vậy mà khi nghe tiếng chân A Hành trở lại, sự bình thản của y chợt vỡ vụn, tim bỗng đập liên hồi, như đang âm thầm khát khao một điều gì đó. Đối mặt với mười vạn đại quân Thần Nông, y vẫn có thể cười nói như thường, nhưng trong khoảnh khắc đó, y thậm chí còn chẳng có can đảm mở mắt ra nhìn nữa.

A Hành thở dài, “Thiếp cũng sợ chết.” Nhớ tới Xi Vưu, nàng thật không cam tâm bỏ mạng ở đây!

Thiếu Hạo lặng thinh không nói, chỉ chăm chăm nhìn vào bóng đêm, lạ thay, tuy hiện giờ lực hút lớn đến nỗi không sao ngồi dậy nổi nhưng y lại chẳng hề có cảm giác bị màn đêm nhấn chìm như lúc trước, có lẽ không phải y sợ chết, mà sợ phải chết đi trong cô độc. Bóng tối của Ngu uyên thật ra không đáng sợ, cái đáng sợ là bóng đêm thăm thẳm khi bị hết thảy mọi người ruồng bỏ.

Thiếu Hạo đột ngột lên tiếng, “A Hành, nếu như, ta chỉ nói là nếu thôi nhé, nếu có kiếp sau, ta không còn là Cao Tân Thiếu Hạo, nàng cũng chẳng còn là Hiên Viên Bạt nữa, bất kể nàng trở thành người như thế nào, ta cũng muốn được làm chồng nàng, suốt đời không xa rời.”

A Hành khẽ cười, “Kiếp này trói buộc nhau chưa đủ hay sao mà còn muốn dằng dai sang tận kiếp sau? Nếu thật sự có kiếp sau, thiếp chỉ muốn sống thanh thanh bạch bạch một đời.”

Thiếu Hạo bật cười theo, “Nàng nói phải lắm.”

“A Hành, A Hành…”

Tiếng gọi lo âu chẳng biết từ đâu truyền tới, văng vẳng trong sơn động tối om.

A Hành cùng Thiếu Hạo dỏng tai nghe ngóng một thoáng, đoạn nàng la toáng lên: “Đại ca, muội ở đây, muội ở đây này!”

A Hành run giọng mừng rỡ bảo Thiếu Hạo: “Đại ca tới tìm thiếp! Đại ca thiếp tới tìm thiếp, chúng ta được cứu rồi! Hai ta không chết đâu!”

Thiếu Hạo chỉ chăm chú nhìn nàng, cười không nói.

Bị sức mạnh của Ngu uyên quấy nhiễu, Thanh Dương lại chịu thêm một vết thương. Y vận linh lực không tìm được A Hành, chỉ có thể lần theo tiếng đáp của nàng mà tìm đến, trông thấy cả Thiếu Hạo trọng thương nằm dưới đất, y hết sức bất ngờ, nhất thời cứ yên lặng nhìn cả hai, vẻ mặt nặng nề, hồi lâu không lên tiếng.

A Hành hiểu ngay rằng Đại ca thân mang trọng thương, lực hút của Ngu uyên lại quá mạnh, y chỉ có thể cứu một trong hai người mà thôi.

Thiếu Hạo hờ hững cười, “Đừng lề mề nữa đi, ta chỉ hận rằng chúng ta vẫn chưa phân thắng bại.”

Thấy Thanh Dương bế A Hành lên, Thiếu Hạo cũng ngừng lời, mỉm cười nhắm nghiền mắt lại.

Thanh Dương nhìn y lần cuối rồi rảo bước chạy như bay ra ngoài. A Hành ôm lấy cổ Đại ca, mở to mắt nhìn lại phía sau, thấy bóng áo trắng của Thiếu Hạo càng lúc càng nhỏ dần, tựa hồ đang từ từ bị bóng tối nhấn chìm. Nàng gục đầu vào cổ Đại ca, nước mắt tuôn lã chã. Lần cuối cùng đưa mắt nhìn nàng, Thiếu Hạo còn mỉm cười như thể an ủi nàng, không sao đâu! Nhưng rõ ràng y đã nói y sợ chết kia mà!

Gương mặt Thanh Dương sắt lại như đá, chỉ chăm chăm cắm cúi chạy thẳng ra ngoài, nhưng hai bên thái dương cứ phập phồng liên hồi, gân xanh cũng nổi đầy cả hai tay.

“Quác quác, quác quác.”

A Hành ngẩng phắt lên gọi lớn, “Liệt Dương, A Tệ!”

Trong tiếng quang quác điếc tai, Liệt Dương nhào đến đậu trên tay A Hành, A Tệ theo sau, luôn miệng kêu “kiu kíu”, mừng rỡ nhìn nàng. Chẳng hiều chúng gặp phải chuyện gì mà con xác xơ lông lá, con kia sém cả bộ lông, dường như đã giao tranh với ai đó.

Thanh Dương kinh ngạc nhìn hai con vật trước mặt. Thú vật có linh cảm vô cùng nhạy bén, thường thường còn linh mẫn hơn cả những tay cao thủ Thần tộc linh lực cao cường, bởi thế khi mặt trời vừa ngả xuống gần Ngu uyên, tất cả tọa kỵ đều lui lại phía sau, tránh xa khỏi đó. Không phải chúng không trung thành với chủ nhân mà đó chính là bản năng sinh tồn của muông thú, vậy mà hai con vật này lại dám xông vào tìm A Hành, vượt qua cả nỗi sợ bản năng.

Trông thấy A Tệ, A Hành phá lên cười rồi mừng mừng tủi tủi trỏ vào trong, “Mau đi cứu Thiên Hạo ra, mau lên!”

A Tệ tung người xông thẳng vào trong, Thanh Dương lập tức đặt A Hành xuống đất chạy ngược trở lại.

A Hành nằm dài trên mặt đất, ôm chặt lấy Liệt Dương, cười khúc khích. Liệt Dương bực bội lắc lắc mình, vừa lắc vừa mổ mổ nàng nhưng A Hành chẳng những không né mà còn siết chặt hơn nữa, Liệt Dương bị siết đến hết cả giận, đành ngẩng đầu chịu đựng.

Lát sau A Tệ đã cõng Thiếu Hạo chạy tới, Thanh Dương bế xốc A Hành lên, tất cả liều mạng xông ra, chẳng ai nói với ai một lời.

Mọi người vừa xông ra khỏi cửa động thì mặt trời lặn xuống Ngu uyên, làn khói đen phía trên Ngu uyên dày thêm, đen đặc như mực, chẳng trông thấy bất cứ thứ gì.

“Điện hạ!” Chu Du mừng rỡ gọi lớn, ả ôm chặt lấy Trùng Minh điểu, mặt mũi tay chân chi chít vết thương, nhếch nhác đứng trên vách núi, thấy khói đen lan đến chân mình, ả tái mét mặt, thân người ngả nghiêng chực ngã nhưng chẳng hề xê dịch nửa bước.

Thanh Dương khẽ huýt một tiếng, lập tức Trùng Minh điểu run rẩy bay đến, y nhảy lên tọa kỵ, bay thẳng ra khỏi Ngu uyên.

Mãi tới khi rời khỏi Ngu uyên, mọi người mới lếch thếch đậu xuống, ngoảnh đầu trông lại cả vùng trời Tây đều vần vũ khói đen, mặt trời đang lặn xuống Ngu uyên từng chút từng chút một.

Thanh Dương giận dữ hỏi Chu Du, “Sao ngươi còn đứng ngây ra ở Ngu uyên thế, định chờ chết đấy à?” Y giận ả có gan chờ chết mà chẳng xông vào trợ giúp.

Chu Du hùng hồn đáp, “Chẳng phải điện hạ bảo nô tỳ đứng đợi ư? Đương nhiên nô tỳ cứ phải đứng đó đợi chứ sao.”

Thanh Dương sững sờ còn Thiếu Hạo đang nằm phục trên lưng A Tệ nghe vậy cười không ra tiếng.

Chu Du quỳ xuống tạ tội với A Hành, “Vương cơ sai nô tỳ trông nom A Tệ và Liệt Dương, nhưng thấy mặt trời đã kề sát Ngu uyên mà vương cơ vẫn chưa ra, chúng liền liều mạng xông vào trong, nô tỳ giữ thế nào cũng không được.”

A Hành ngẩn người, đành nói: “Chẳng sao đâu, may mà ngươi không giữ được chúng.” Đứng trên vách núi chờ chết và chờ chết trong sơn động có gì khác nhau đâu? Ả Chu Du này… quả nhiên là đầu gỗ mà.

Lúc này mọi người mới hiểu những vết cào xước trên người Chu Du từ đâu mà có, A Tệ và Liệt Dương sao lại tả tơi lông lá. Thiếu Hạo phá lên cười ngặt nghẽo, vừa ho sù sụ vừa bảo Thanh Dương: “Ngươi nói khúc gỗ này rốt cuộc có đầu óc hay không?”

Thanh Dương cau mày nhìn ra đỉnh núi phía xa, chẳng buồn để ý kẻ khác nói gì.

A Hành chỉ bị thương ngoài da chứ không thương tổn linh lực, vừa rời khỏi Ngu uyên, nàng đã hồi phục nhanh chóng, bèn lại bên hồ nước rửa bùn đất máu me dính trên mặt trên tay.

A Tệ bám theo nàng tới bên hồ, Thiếu Hạo rớt khỏi lưng nó, ùm một tiếng lăn tõm xuống hồ, may sao A Hành nhanh tay nhanh mắt giữ được y lại.

Thiếu Hạo cười: “Ta tu luyện thủy tinh mà, lần này cảm ơn nàng giúp đỡ.”

Bấy giờ A Hành mới sực hiểu ra hồ nước là nơi trị thương của y. Nước là gốc rễ của vạn vật, thần tiên tu tập thủy tinh dù bị thương nặng tới đâu cũng mau hồi phục hơn hẳn kẻ khác.

A Hành nhoẻn cười thả tay ra để Thiếu Hạo từ từ chìm xuống đáy nước.

Thanh Dương bước tới bên nàng, hai chân giẫm thẳng lên mặt nước, lập tức cả hồ nước bắt đầu đóng băng.

Y dặn dò: “Ta và Thiếu Hạo đều bị thương nên trước khi tiến vào Ngu uyên, để đề phòng bất trắc, hai ta đã hợp lực giăng một trận pháp bên ngoài Ngu uyên, hiện giờ Xi Vưu đang khốn đốn trong đó, trước khi Thiếu Hạo kịp hồi phục vết thương, nhất định chúng ta phải đoạt lấy Hà Đồ Lạc Thư từ tay Xi Vưu.”

A Hành tròn mắt kinh ngạc: “Hai người ai nấy dẫn theo thuộc hạ tới Ngu uyên, còn chẳng có cơ hội gặp nhau, sao có thể hợp lực bày trận vậy?”

Thanh Dương thản nhiên đáp, “Chừng nào muội giao du với một kẻ suốt mấy ngàn năm sẽ biết rằng có những chuyện chẳng cần phải nói ra.”

Nhìn hồ nước đã đóng băng toàn bộ, A Hành nửa đùa nửa cợt nói: “Hẳn y cũng hiểu được ý đồ của huynh khi ngăn trở y trị thương lúc này.”

Chu Du vừa biến mất đã lại ló ra từ đâu đó, gơ tay chỉ chỉ cho Thanh Dương một hồ nước nhỏ ở xa, đó chính là hồ nước đầu tiên mà bọn họ bắt gặp từ khi thoát khỏi Ngu uyên.

Thanh Dương giậm mạnh lên mặt hồ đóng băng bên dưới, lập tức lớp băng lách cách nứt ra, y cũng theo đó chìm xuống dưới.

A Hành còn đang ngơ ngác đã thấy Thanh Dương cầm tượng gỗ nhảy ra khỏi hồ, quăng pho tượng xuống dưới chân nàng rồi nhảy lên lưng Trùng Minh điểu bay vút về phía hồ nước Chu Du chỉ.

A Hành nhặt pho tượng lên, nhận ra nó được chạm khắc vô cùng sống động, hệt như Thiếu Hạo thu nhỏ vây, nơi trái tim còn điểm một chấm máu tươi trích từ tim Thiếu Hạo. Thì ra vừa rời khỏi Ngu uyên, y đã dùng Khôi Lôi thuật hoán đổi bản thân, kẻ dọc đường cười nói đùa cợt với họ chỉ là một con rối gỗ mà thôi.

Nghĩ đến Thiếu Hạo vừa cảm kích tạ ơn mình chỉ là một con rối gỗ, A Hành lạnh cả sống lưng.

Thấy A Hành ngẩn người, Chu Du ngỡ rằng nàng không hiểu sao mình lại tìm được Thiếu Hạo, bèn trỏ mấy cây thù du nói, “Trước khi tiến vào Ngu uyên, điện hạ dặn nô tỳ phải lưu ý tất cả mọi nơi có nước, nô tỳ bèn lén trồng bên mỗi hồ nước một cây thù du[3], nếu không e rằng đã bị Thiếu Hạo qua mặt rồi.”

[3] Thù du: một loài cây rụng lá, ra hoa li ti màu vàng, quả có hình oval, màu đỏ, vị chua, có thể dùng làm thuốc. (ND)

Lúc A Hành cùng A Tệ đuổi đến nơi, cả hồ nước đã đông cứng lại thành băng, Thanh Dương đang nhắm mắt ngồi xếp bằng trên mặt băng.

A Hành cất tiếng, “Xin lỗi Đại ca.”

Thanh Dương dặn, “Ta cầm chân Thiếu Hạo ở đây, muội đem Chu Du cùng…” Thanh Dương quan sát A Tệ và Liệt Dương, cũng chẳng coi chúng là súc vật nữa, “Cùng bọn chúng đi đoạt lấy Hà Đồ Lạc Thư về. Nhớ đừng ra tay vội, để Yến Long và Xi Vưu đánh đến nỗi hai bên đều thương tích, bấy giờ hẵng lợi dụng trận pháp đoạt Hà Đồ Lạc Thư, có điều muội cũng đừng chần chừ chậm trễ, linh khí địa thế nơi này rất có lợi cho Thiếu Hạo, ta chẳng nắm chắc sẽ giữ chân y được bao lâu đâu!”

A Hành đang định đi chợt nghe Thanh Dương nói tiếp: “Muội nhớ đừng để Yến Long chết, y là con cờ hay nhất để kiềm chế Thiếu Hạo đấy.”

“Muội hiểu rồi.”

“Còn gì nữa không?”

A Hành vụt hỏi: “Tam ca là do huynh giết ư?”

Thanh Dương cười nhạt đáp: “Là Chúc Dung giết, muội nghe đâu được mấy câu tầm xàm ba láp này thế?”

“Hôm nọ muội nghe được ở chỗ phụ vương đấy. Tuy phụ vương chẳng nói rõ ra nhưng Đồng Ngư thị lẩm bẩm nói với muội, có lẽ phụ vương cũng đem lòng hoài nghi.”

Thanh Dương nhếch môi cười, “Mấy chuyện này không cần muội lo, đi đoạt Hà Đồ Lạc Thư đi.”

“Đại ca, huynh đừng vì dã tâm của mình mà đẩy mẹ và Tứ ca vào vòng nguy hiểm, bằng không, muội nhất định sẽ không tha thứ cho huynh đâu!”

Dứt lời nàng nhảy lên lưng A Tệ, bay vút lên trời.

Hết chương 15.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2014 13:59:26 | Xem tất
Chương 16


Cảnh ấy đêm này thoắt trôi nhanh[1] .


16.1


[1] Trích trong bài từ theo điệu Dương Quan khúc, nhan đề Trăng trung thu của Tô Thức. (ND)


Bấy giờ Xi Vưu mới như sực tỉnh, vội bước tới trước mặt A Hành, toan đặt miện hoa lên đầu nàng, nào ngờ A Hành nghiêng đầu né tránh, “Ta không cần vương miện, chỉ cần đóa hoa đào tượng trưng cho tấm lòng của ngươi là đủ.”


Theo lời Đại ca, A Hành chỉ khoanh tay đứng ngoài quan sát.

Dựa trên phương vị ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ, Thanh Dương đã bố trí một tấm gương băng năm mặt, hễ đứng trước gương là có thể thu hết tình hình trong trận pháp vào tầm mắt.

Hậu Thổ, Chúc Dung, Trung Dung đều đang bị vây trong trận pháp. Hậu Thổ hành sự cẩn trọng, không nôn nóng vội vàng mà bình tĩnh thăm dò xung quanh, trong khi Chúc Dung tính tình nóng nảy đã tả xung hữu đột khắp nơi, phóng hỏa thiêu núi, trông biển lửa phừng phừng như vậy nhưng thực tế những thứ hắn đốt chỉ là ảo ảnh, còn Trung Dung lại cưỡi Huyền điểu bay mãi bay mãi, có điều thật ra y vẫn bay vòng tại chỗ.

Yến Long vốn chẳng coi trận pháp vào đâu, chỉ ngồi trên đầu nũi gảy đàn, vẻ mặt bình thản, phong thái nhàn nhã, tiếng đàn khi vang vang mạnh mẽ như sóng to gió lớn, lúc lại thê thiết triền miên tựa người đẹp khóc than.

Theo tiếng đàn của Yến Long, những tảng đá trong sơn cốc lần lượt vỡ nát, mấy lần suýt đánh trúng Xi Vưu khiến hắn phải nhảy lên nhảy xuống, tránh trái né phải liên hồi, tuy ỷ vào thân pháp linh hoạt như dã thú cũng gắng gượng duy trì được ít lâu, nhưng càng lúc hắn càng kiệt sức, quần áo tóc tai đều lấm lem bùn đất.

Thấy Xi Vưu sắp bại, Liệt Dương hể hả vô cùng, nó đập cánh phành phạch, ngửa cổ kêu quang quác, trái lại A Tệ thấy Xi Vưu bị Yến Long bức hiếp thì vô cùng lo lắng, cứ lấy đầu hích hích A Hành, ngỡ ngàng không hiểu sao nàng chỉ khoanh tay đứng nhìn.

Chu Du lè lưỡi than, “Yến Long đã thành danh cả ngàn năm, còn tên Xi Vưu này chẳng qua chỉ mới tu hành năm sáu trăm năm là cùng, vậy mà có thể cầm cự với Yến Long bao lâu, hèn chi Đại điện hạ lại để tâm tới gã này đến thế.” Thông qua những ngọn cỏ dưới chân, ả vươn dài linh thức của mình ra, lặng lẽ cảm nhận một hồi rồi tiếp tục than thở: “Tiếc ghê, sát khí của Yến Long nặng quá, chắc Xi Vưu sắp chết rồi!”

Ả vừa dứt lời, tiếng đàn của Yến Long chợt trở nên dịu dàng hết mực, hệt như gió mát trăng trong, suối reo róc rách, tiếng đá nứt lách tách cũng ngừng bặt, cả sơn cốc chìm trong tĩnh lặng, vậy mà trông Xi Vưu vô cùng căng thẳng, lập tức ngồi xuống xếp bằng vận toàn bộ linh lực kháng cự, từ bốn phía vươn lên những nhánh dây leo bao lấy hắn vào giữa.

Chu Du thở dài thườn thượt, lại sinh lòng trắc ẩn với Xi Vưu, “Ái dà! Đây mới là Mị Hoặc Tâm Âm đáng sợ nhất trong Âm Tập chi thuật[2], có thể tiêu diệt thiên quân vạn mã chỉ trong nháy mắt đó!”

[2] Âm Tập chi thuật: thuật sử dụng âm thanh để tấn công người khác. (ND)

Cái gọi là Mị Hoặc Tâm Âm chính là lợi dụng sức mạnh âm thanh để khống chế tình cảm trong lòng, có thể là vui mừng, đau thương hoặc phẫn nộ… Dù là Thần tộc, Yêu tộc hay Nhân tộc, chỉ cần có trí tuệ ắt sẽ có thất tình lục dục, cảm xúc buồn vui, một khi bị Yến Long nắm được sơ hở, lợi dụng tiếng đàn tấn công vào nhược điểm trong tình cảm, sớm muộn gì cũng phải sụp đổ bởi tâm tình cực đoan của chính mình.

Lần trước Xi Vưu từng lợi dụng tiếng kêu mê hoặc của A Tệ khiến cả đám tinh nhuệ trên Thần Nông sơn khốn đốn, chưa đánh đã thua, công lực của Yến Long còn hơn A Tệ gấp trăm lần, uy lực đương nhiên chẳng phải nghĩ bàn, thêm vào đó Xi Vưu yêu hận đều vô cùng quyết liệt, tính tình cực đoan nên càng dễ bị thao túng trong mắt Chu Du và Yến Long, Xi Vưu coi như cầm chắc cái chết.

Theo tiếng đàn nỉ non của Yến Long, những dây leo xanh biếc bao bọc quanh Xi Vưu dần dần ngả vàng, cây lá trong rừng cũng lần lượt úa vàng như thể trời đã vào thu, vạn vật sắp đến hồi điêu linh phiêu tán.

Yến Long khẽ mỉm cười, đợi chừng nào tất cả lá cây rụng xuống thì Xi Vưu cũng cạn kiệt linh lực mà chết! Nghĩ vậy y lại vận thêm linh lực vào mười đầu ngón tay.

Đúng lúc này trong rừng chợt vang lên tiếng hổ gầm, làm rối loạn khúc nhạc của Yến Long.

Y ráng định thần lại, tiếp tục gảy đàn, tiếc rằng trong rừng càng lúc càng nhốn nháo.

Hổ gầm, sói tru, vượn hú, ngựa hí, chim kêu, trùng gáy… dường như tất cả các loài động vật đều thức dậy, đây con này kêu, kia con nọ hót theo tiếng đàn của Yến Long. Tiếng kêu của một hai con thú chẳng đáng gì nhưng cả trăm ngàn con họp lại cùng gầm rú lên thì thật vô cùng đáng sợ.

Khác với con người, dã thú chẳng có giận hờn yêu hận nên chẳng thể bị tiếng đàn chi phối tâm tình. Nếu chỉ có tiếng sói tru chẳng hạn, Yến Long có thể mượn tiếng đàn mô phỏng tiếng hổ gầm để bầy sói biết sợ mà lui, nhưng cả ngàn con thú gầm rống ầm ĩ thế này, y chẳng làm sao dọa nổi chúng, ngược lại toàn bộ sức mạnh gửi vào tiếng đàn đều bị chúng làm loạn cả lên.

Chu Du như mở cờ trong bụng, vỗ tay reo, “Xi Vưu giỏi quá! Chiêu thế này mà hắn cũng nghĩ ra để phá giải Mị Hoặc Tâm Âm được. Ngươi lợi dụng tình cảm con người để tấn công thì ta tặng ngươi một bầy dã thú vô tình, xem ngươi làm sao nào?”

Khóe môi A Hành thấp thoáng nụ cười nhưng giọng điệu vẫn thản nhiên, “Thần lực của hắn không bằng Yến Long, đành phải giở mấy trò láu cá ấy thôi!” Nói rồi nàng liếc nhìn vào gương băng, “Hậu Thổ tìm thấy cửa ra rồi kìa!”

Thấy Hậu Thổ đắp đất toan phá trận, Chu Du vội kéo A Hành lùi lại, vừa kịp lúc tấm gương băng trước mặt hai người vỡ vụn, linh lực của Thiếu Hạo và Thanh Dương biến thành mưa tuyết lả tả đầy trời.

Cùng lúc đó, Xi Vưu nắm được sơ hở trong tiếng đàn của Yến Long, liền điều khiển cây cỏ trên sườn núi nhất loạt xoay tròn đâm thẳng về phía Yến Long, từng cọng cỏ đều mảnh như sợi tóc, cứng tựa kim châm, Âm Tập chi thuật của Yến Long lại không phù hợp đánh xáp lá cà, y chỉ có thể ôm đàn tránh trái né phải, tiếng đàn cũng loạn cả lên, quần áo trên mình bị cứa rách tơi tả.

Bấy giờ Xi Vưu mới rẽ đám dây leo nhảy ra, cười ha hả, “Sau Thiên Thảo châm còn có Vạn Diệp nhận, mời vương tử từ từ thưởng thức.” Lá vàng trong rừng tựa vô số rắn vàng từ bốn phương tám hướng bay vùn vụt về phía Yến Long, khiến tròng mắt y co rút lại vì hoảng hốt, mặt mày tái dại đi, cuống quýt ngã nhào xuống đất, lăn trái tránh phải.

Xi Vưu đứng trên tảng đá, cả người đầy máu, quần áo xốc xếch nhưng vẫn đầy vẻ kiêu ngạo tự đắc hệt như chim công xòe cánh, cười khẩy nói: “Thì ra Âm Tập chi thuật nổi tiếng khắp Thần tộc cũng chỉ đến thế, nói cái gì ‘không tổn hại mảy may mà nháy mắt hạ được thiên quân vạn mã’, chẳng qua là trò láu cá vặt, tránh tránh né né không dám giao đấu trực diện mà thôi. Lần sau dùng tới Tập Âm chi thuật, vương tử nhớ kêu một trăm thần tướng vây quanh bảo vệ để ngài thong thả tấu đàn nhé.”

Yến Long thân là vương tử Cao Tân, xưa nay chưa từng bị mai mỉa như thế bao giờ, y uất đến thiếu điều sặc tiết, thoáng cái, một chiếc lá đã xẹt qua cổ tay.

“Á!” Yến Long thét lên thảm thiết, máu bắn tung tóe, một bàn tay cùng cây đàn trong tay văng ra.

Xi Vưu cười nhạt toan gia tăng linh lực kết liễu Yến Long, đột nhiên hắn thoáng trông thấy bóng thiếu nữ áo xanh từ từ xuất hiện giữa cả trời lá úa, Lang điểu trắng muốt đậu trên vai, bên cạnh còn có một con hồ ly cao lớn đen tuyền.

Nữ tử thong thả dừng bước, chú hồ ly bên cạnh nàng liền hoan hỷ chạy thẳng về phía Xi Vưu. Thấy A Tệ sắp lao vào đám lá khô nhọn sắc như dao, Xi Vưu vội thu hồi linh lực, chỉ trong nháy mắt A Tệ đã xuyên qua một trời lá rơi lả tả, nhào vào lòng hắn, vừa vẫy đuôi mừng vừa cào cào vào áo hắn, trái dụi đầu phải nhảy nhót, kêu líu kíu vui sướng.

Xi Vưu ngồi xuống vuốt vuốt lưng A Tệ nhưng cặp mắt cứ dán chặt vào bóng A Hành đứng bên sườn núi, khẽ hỏi nhỏ A Tệ, “Sao cô ta lại tới đây? Chắc cũng vì Hà Đồ Lạc Thư hả?”

A Tệ chẳng hiểu cái gì là Hà Đồ Lạc Thư, chỉ mải nhảy cỡn lên vì lại được gặp Xi Vưu mà nó quý mến.

Bây giờ trận pháp đã bị phá, ảo ảnh thảy đều tan biến cả, Trung Dung bay trên không, trông thấy Yến Long bị trọng thương, vội gọi ầm lên: “Nhị ca, Nhị ca…” rồi cuống quýt bảo Huyền điểu đỗ xuống.

Thấy Yến Long cau rúm mặt lại vì đau, Trung Dung một tay đỡ y dậy, tay kia nhặt bàn tay đứt, nhảy lên lưng Huyền điểu bay về phía Đông chuồn thẳng.

Trước lúc đi khỏi, Yến Long còn cao giọng ném lại cho Xi Vưu một câu: “Mối thù hôm nay, ngày sau ta nhất định sẽ trả!”

Xi Vưu phá lên cười, coi như gió thoảng ngoài tai.

Sau khi phá được trận pháp, Chúc Dung và Hậu Thổ lập tức lẩn vào rừng, đứng ngoài quan sát Xi Vưu cùng Yến Long giao đấu. Tuy Chúc Dung căm ghét Xi Vưu nhưng hắn còn hận Yến Long hơn nhiều bởi lần trước Yến Long đã đánh bại hắn trước mặt bao người ở hội Bàn Đào, thấy Yến Long bị Xi Vưu đánh trọng thương, Chúc Dung hả hê cười phá lên: “Ta đã bảo mà, Âm Tập chi thuật của Yến Long để làm màu thì được, chứ dùng ứng chiến có ra gì, năm xưa nếu chẳng phải ta sơ ý bị hắn chớp thời cơ thì đời nào lại bại dưới tay hắn?”

Hậu Thổ cau mày, ánh mắt thoáng âu lo, “Trước đây chúng ta giết Hiên Viên Huy đã là đắc tội với Hiên Viên tộc, nay lại đánh Yến Long trọng thương, kết oán với Cao Tân tộc, cứ thế này Thần Nông tộc sẽ ngày càng bị cô lập.”

Chúc Dung lên giọng khiển trách: “Ngươi yếu đuối chẳng khác đàn bà, nên biết rằng giết một tên thì bớt được một tên, đây mới là cách tốt nhất để đối phó kẻ địch! Yến Long chỉ biết mượn tiếng đàn tấn công kẻ khác, nay hắn đã mất một bàn tay, còn gì đáng sợ? Bây giờ điều chúng ta phải suy nghĩ là làm sao giành được Hà Đồ Lạc Thư từ tay Xi Vưu.”

Thấy Hậu Thổ lặng thinh, Chúc Dung trừng mắt nhìn gã, nói tiếp: “Ngươi chớ quên rằng Xi Vưu là dã thú, bản tính khát máu, nếu hắn thấu triệt được Hà Đồ Lạc Thư, ngươi có biết hậu quả sẽ ra sao không? Ngươi tưởng hắn sẽ để yên cho tên đần độn Du Võng làm Viêm Đế mãi ư?”

Hậu Thổ cung kính cúi đầu, giấu đi biểu cảm trong đôi mắt.

Trông thấy nữ tử áo xanh đi về phía Xi Vưu, Chúc Dung không nhận ra A Hành dùng Trụ Nhan hoa thay đổi dung mạo, bèn quay sang hỏi Hậu Thổ: “Ả kia là ai thế nhỉ?”

Hậu Thổ lờ mờ đoán ra A Hành nhưng chẳng muốn nói, chỉ trả lời qua quýt: “Chắc là bằng hữu của Xi Vưu!”

“Bằng hữu ư? Không phải tình nhân của hắn đó chứ?” Chúc Dung cười gằn, “Chẳng phải kia chính là còn Lang điểu phóng hỏa đốt Chi Ấp lần trước hay sao? Hèn chi Viêm Đế dặn ta không được đả thương nó, hóa ra lại vì Xi Vưu!”

Hậu Thổ thản nhiên nói, “Trên đời có mấy vạn con Lang điểu lận, ngài quá đa nghi rồi.”

“Hừm!” Chúc Dung phất tay áo, trừng mắt căm hận nhìn Xi Vưu, “Chúng ta qua xem xem!” Nói rồi nhảy lên Tất Phương điểu bay đi.

Hậu Thổ khẽ thở dài, thân mình cũng hòa lẫn vào một mảnh núi rừng.

Vừa tới trước mặt Xi Vưu, A Hành đã thấy hắn cười giễu cợt: “Chẳng hay cô là vương cơ của Hiên Viên tộc hay vương tử phi của Cao Tân tộc đây?”

A Hành mỉm cười hỏi lại: “Là vương cơ thì sao, mà là vương tử phi thì sao?”

Xi Vưu trỏ lên trời, “Hà Đồ Lạc Thư đang ở trong bụng Tiêu Dao, nếu là Hiên Viên vương cơ, ta sẽ niệm tình giao hảo mà cho cô ta thêm mấy ngày để cô ta tìm cách trộm lấy Hà Đồ Lạc Thư, còn nếu là Cao Tân vương tử phi thì xin lỗi, ta không quen biết người này, đành lệnh cho Tiêu Dao lập tức đem Hà Đồ Lạc Thư về cho Du Võng thôi.”

Tiêu Dao chính là đại bàng tọa kỵ của Xi Vưu. Thấy đại bàng đen cả gan bay lòng vòng ngay trên đầu mình, Liệt Dương hậm hực ngẩng đầu nhìn đại bàng quang quác mấy tiếng cảnh cáo, nào ngờ bị đại bàng lờ tịt. Lần đầu tiên Liệt Dương thấy một con chim không tuân lời mình, liền nổi cơn thịnh nộ, toan xông lên dạy cho đối phương biết thế nào là lễ độ.

A Hành vội nhăn lại: “Liệt Dương, đó không phải đại bàng thường mà là giống đại bàng do cá côn ở Bắc Minh[3] biến thành đó. Rồng đứng đầu các loài thủy tộc, phượng hoàng là vua của muôn chim nhưng dưới nước nó chẳng quy thuận rồng, trên trời cũng không xem phượng hoàng vào đâu cả, mày đừng trêu vào.” Cá côn Bắc Minh là loài dị thú thần kỳ nhất trên đại hoang, sinh tại Bắc Minh, chôn ở Nam Minh, vốn là thân cá, thường gọi là côn nhưng vừa ra khỏi trứng đã có thể biến thành chim, lúc hóa chim gọi là đại bàng, vô cùng nhanh nhẹn, nghe nói giống đại bàng do cá côn biến thành mỗi lần vỗ cánh có thể bay vút lên cao chín vạn dặm.

[3] Theo thiên Tiêu Dao Du trong Nam Hoa kinh của Trang Tử: “Bắc Minh có loài cá, tục gọi là côn. Thân mình rất lớn, chẳng biết tới mấy ngàn dặm. Hóa thành chim, tên gọi là chim bằng (đại bàng). Giang cánh bay lượn, sải cánh rộng như mây che rợp một góc trời. Thường nương sóng to gió cả mà bay thẳng tới Nam Minh.”

Tuy chưa hoàn toàn là chim nhưng mỗi lần đập cánh nó có thể bay xa mấy ngàn dặm, Xi Vưu giao Hà Đồ Lạc Thư cho nó quả vô cùng sáng suốt, bất kể thần tiên hay yêu quái cũng không sao đuổi kịp.

A Hành quay sang Xi Vưu, thẳng thắn: “Ta là Hiên Viên vương cơ, Hiên Viên Bạt.”

Xi Vưu chăm chú nhìn nàng, “Dù mang ơn cứu mạng của cô, ta cũng chỉ có thể cho cô ba ngày thôi, sau ba ngày ta sẽ giao Hà Đồ Thư Lạc cho Du Võng.”

“Được!”

Xi Vưu huýt một tiếng lanh lảnh, lập tức đại bàng đậu xuống ngay bên cạnh. Hắn nhảy lên lưng đại bàng, chìa tay cho nàng: “Muốn Hà Đồ Lạc Thư thì theo ta.”

A Hành phân vân nhìn A Tệ và Liệt Dương, chưa biết phải làm sao với chúng. Xi Vưu liền nói: “Chúng không đuổi kịp Tiêu Dao đâu, cô cứ đi với ta, chúng sẽ đến sau.”

A Hành nắm lấy tay Xi Vưu, nhảy lên lưng Tiêu Dao.

Tiêu Dao chỉ đợi có thế, liền vỗ cánh bay vút lên chín tầng mây, A Hành đứng không vững, hơi loạng choạng ngã ngửa ra sau, vừa vặn ngã vào lòng Xi Vưu, hắn bèn thừa nước đục thả câu, vòng tay siết chặt lấy nàng mặc nàng vùng vẫy, cả người hắn lắc lư lảo đảo nhưng vẫn ôm riết chẳng chịu buông, còn ghé tai nàng nói nhỏ: “Tiêu Dao bay nhanh lắm, hiện giờ ta chỉ đủ sức miễn cưỡng khống chế nó thôi, hay là cô muốn cả hai rơi xuống tan xương nát thịt hả? À mà cũng hay đấy, sống chẳng được chung chăn, chết lại chôn chung huyệt.”

Thân hình Xi Vưu chao đi, suýt nữa rớt khỏi lưng Tiêu Dao, A Hành hoảng sợ thét lên, đành để yên không dám giãy dụa nữa.

Tiêu Dao bay vùn vụt như tên bắn khiến A Hành không kịp trông rõ gì hết, chỉ thấy trắng xóa một màu, mây mù cuộn lên như từng đợt sóng đổ ập tới, quất vào mặt bỏng rát.

Xi Vưu thích thú phá lên cười khanh khách, Tiêu Dao cũng điên chẳng kém gì chủ, nghe tiếng hắn cười, nó càng cao hứng bay nhanh hơn, rồi đột ngột bổ nhào xuống dưới, mắt thấy sắp tan xác tới nơi, bỗng dưng nó lại bay vút lên không, xẹt ngang qua đỉnh núi, chớp mắt đã lên đến chín tầng mây. A Hành vừa kịp thở phào đã lại thấy Tiêu Dao bất ngờ chao nghiêng người, nàng vội hốt hoảng bám chặt lấy Xi Vưu.

Nỗi sợ hãi ban đầu tan đi, dần dà, một cảm giác khác lại len vào lòng.

Trời cao lồng lộng, đường mây thênh thang, dường như thế gian chỉ còn hai người bọn họ, chẳng có bất kỳ thứ gì đuổi kịp được hai người, cũng không còn gì trói buộc nổi họ nữa, cả đất trời trải ra bát ngát cho họ thả sức ngao du.

Xi Vưu ghé tai nàng hỏi lớn: “Cô thấy thế nào?”

A Hành lặng yên không đáp, nhưng thân thể đang căng cứng từ từ thả lỏng ra, vô tình tựa vào lòng hắn, đến linh lực cũng tiêu tán, phó mặc tất cả sống chết vào tay Xi Vưu. Ít ra trong lúc này nàng cũng có thể dựa cả vào hắn, tạm thời vứt bỏ hết mọi trách nhiệm và ràng buộc.

Cảm thấy linh lực trên người A Hành cơ hồ đều tan biến hết, Xi Vưu thoáng kinh ngạc nhưng hắn chẳng buồn nghĩ thêm nữa, chỉ ôm chặt lấy nàng, cùng nàng thả sức ngao du giữa chín tầng mây, lúc vút lên cao, khi chao xuống thấp.

Bay mãi bay mãi, chẳng rõ đã qua bao lâu, đột nhiên Tiêu Dao lại lao vút xuống khiến A Hành Thấy như thể mình sắp ngã lộn cổ, lồng ngực nàng bị lên chặt cơ hồ nghẹt thở, hai người một đại bàng cứ thế vùn vụt lao xuống, lâu thật là lâu, đương lúc nàng ngỡ sẽ rơi thế này mãi mãi thì đà lao chợt dừng sững lại, may có linh lực của Xi Vưu, bằng không hẳn nàng đã bắn văng ra.

Xi Vưu khẽ nói: “Chúng ta về tới nhà rồi.”

A Hành sững sờ, từ từ mở mắt ra, thấy hoa đào nở rực cả triền núi, như mây như ráng, lộng lẫy đẹp tươi, mấy chái nhà trúc xanh biêng biếc thấp thoáng ẩn hiện sau những cội đào đỏ thắm.

Thì ra bay suốt bao lâu, họ cuối cùng đã đến Cửu Lê.

Xi Vưu chìa tay, Tiêu Dao liền nhả ra một quả trứng ngọc to xấp xỉ quả trứng gà rồi bay vút lên, biến mất giữa trời đêm, chẳng hề kêu một tiếng.

Hắn giơ quả trứng ra lắc lắc trước mặt nàng rồi lại bỏ vào trong áo: “Hà Đồ Lạc Thư cô muốn ở đây này.” Dứt lời hắn đi thẳng về phía thôn trại.

A Hành cắn môi, rảo bước đuổi theo hắn.

Tới bản Xi Vưu trời còn chưa sáng, bốn bề yên tĩnh, Xi Vưu ngả người nằm xuống tế đài, ngửa mặt nhìn trời.

A Hành ngồi xuống bên hắn: “Ngươi định làm gì trong ba ngày này?”

Xi Vưu đặt tay lên môi ra hiệu cho nàng đừng lên tiếng rồi yên lặng ngắm bầu không. Lát sau, hắn nhắm nghiền mắt lại, chìm vào giấc ngủ.

A Hành đành lẳng lặng ngồi bên hắn, thấy màn đêm ở Cửu Lê yên bình xiết bao, nhẹ nhõm xiết bao, chẳng bao lâu sau, mí mắt nàng cũng trĩu xuống. Mấy ngày nay nàng hết về dự hôn lễ của Tứ ca lại vội vội vàng vàng đi Ngu uyên đoạt Hà Đồ Lạc Thư, tinh thần luôn căng như dây đàn, chẳng khi nào được ngơi nghỉ, lúc này vừa thả lỏng, nàng liền thấy buồn ngủ díp cả mắt, bèn dựa vào tường ngủ thiếp đi.

Sáng sớm ra, đám người Vu sư thức dậy toan quét dọn tế đài thì phát hiện trên đó có người. Một nam tử vận hồng bào rách rưới nằm ngửa trên tế đài, tay chân giang ra thành hình chữ “đại”, tuy đang say ngủ nhưng vẫn không giấu được vẻ ngông cuồng, cách đó không xa còn một nữ tử áo xanh ngồi co ro dựa vào tường mà ngủ, nụ cười vương vấn trên môi.

Đại vu sư vội vã chạy đi gọi Vu vương. Vu vương chống gậy tới nơi, trông thấy bèn cười móm mém xua tay ra hiệu mọi người lẳng lặng lui ra.

Ngủ một giấc dài thật dài, tỉnh dậy A Hành mới nhận ra mình đang đắp một tấm thảm lông thú, còn Xi Vưu đã mất dạng. Nàng vội bật dậy gọi toáng lên: “Xi Vưu!”

Liền nghe giọng hắn uể oải: “Gọi gì thế?”

A Hành ngó đầu ra, trông thấy Xi Vưu đang ngồi dưới cội đào sưởi nắng cùng Vu vương. Hắn cởi trần, bên dưới chỉ quấn một chiếc khố đen dài đến bắp chân, để lộ ra làn da nâu rám nắng khỏe khoắn.

A Hành vừa bước xuống tế đài vừa ngẩng đầu nhìn trời, thấy vầng dương đã ngả về Tây, nàng không khỏi cau mày tự trách mình ngủ say như chết.

Xi Vưu vươn vai, cố ý đãi giọng nói: “Ai da, sắp hết một ngày rồi mà còn chưa biết Hà Đồ Lạc Thư giấu ở đâu nữa!”

A Hành càng trông hắn càng ngứa mắt liền đá lật nhào cái ghế hắn đang ngồi khiến hắn ngã lăn ra đất, đá xong mới sực nhớ ra Xi Vưu là vị thần được cả Cửu Lê tôn kính, làm vậy trước mặt Vu vương chẳng khác nào sỉ nhục cả Cửu Lê, bèn quay sang cười lỏn lẻn với vị Độc vương mà Thần tộc cũng phải nhường nhịn ba phần.

Vu vương thấy vậy chỉ cười khà, khom lưng đứng dậy nói với Xi Vưu đang nằm bò dưới đất: “Hai vị khéo đến quá, tối nay là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê, hai vị nhớ tới xem náo nhiệt nhé.”

Đợi Vu vương đi khỏi, A Hành liền ngồi ngay vào chiếc ghế bập bênh của lão, vừa lắc lư vừa ngắm Xi Vưu, thầm nghĩ không biết hắn giấu Hà Đồ Lạc Thư ở chỗ nào.

Xi Vưu bật dậy vọt lại ngồi xuống ghế bập bênh, thấy A Hành chăm chú nhìn mình, ánh mắt hắn thoáng vẻ lạnh lùng, như cười mà chẳng cười nói: “Nếu cô muốn biết thì lại đây mà sờ, sờ khắp cả người ta là biết ngay!”

“Phì!” A Hành đỏ mặt lườm hắn rồi quay ngoắt đi.

Ánh mặt trời rọi qua tán lá, ấm áp mà không chói gắt khiến thân thể thư thái vô cùng, cơ hồ xương cốt đều tan chảy ra cả.

Một bên tế đài là núi lửa điệp trùng, bên kia lại là vách non dựng đứng, trên vách nở đầy hoa dại, rực rỡ như gấm lụa, ngọn thác từ đỉnh tuôn ra tựa dải lụa trắng phất phơ rào rào đổ xuống những tảng đá bên dưới, khiến hơi nước bốc lên mịt mù. Ánh mặt trời rọi qua tạo thành nửa dải cầu vồng lấp lánh thấp thoáng sau bức màn hơi nước, nghiêng nghiêng vắt ngang tế đài trắng muốt, bắc lên tận trời.

Nước từ thác đổ xuống chảy vào hồ, men theo con lạch trắng phau đá cuội, lượn vòng quanh tế đài, trên mặt nước lác đác mấy cánh hoa, thi thoảng còn thấy vài chú cá mải vờn nhị hoa nhảy vọt lên rồi lại quẫy đuôi rơi tõm xuống nước, làm bắn tung tóe vô vàn bọt nước lấp loáng ánh bạc.

A Hành ngây người ra nhìn, bất giác quên bẵng cả Hà Đồ Lạc Thư, đến nỗi cánh đào rơi đầy đầu tóc cũng chẳng hay.

Xi Vưu nghiêng đầu ngắm nàng, vẻ mặt lạnh lùng trong mắt tan dần, thay vào đó là vô vàn âu yếm.

Một người ngây ra ngắm cảnh sắc thiên nhiên biến ảo, một kẻ đắm đuối ngắm người kia, hai người cứ thế tạo nên một bức tranh phong cảnh u nhã mà êm đềm.

Mãi tới khi mặt trời xuống núi, chim mỏi về rừng, thấy một đàn chim bay ngang đầu, A Hành mới sực nhớ ra mục đích của chuyến đi này.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2014 14:01:08 | Xem tất
Chương 16


Cảnh ấy đêm này thoắt trôi nhanh[1] .


16.2


Ánh mắt nàng chợt tối sầm, môi mím chặt, cả gương mặt toát lên vẻ kiên định, thấy vậy, cặp mắt Xi Vưu cũng trở nên lạnh buốt, hắn quay ngoắt đi trước khi nàng kịp ngoảnh lại.

A Hành quay lại trông thấy Xi Vưu đang cười ngạo nghễ, phóng mắt ngắm nhìn rừng đào tít tắp trên sườn núi.

Vừa lúc đó Vu nương sai người tới mời bọn họ dùng bữa, Xi Vưu liền đứng dậy đi thẳng, buông thõng một câu, “Tối nay ta đi chơi tết Khiêu Hoa, nếu còn nhớ mình từng hứa những gì thì cô cứ tới xem.”

A Hành ngồi lặng trên ghế bập bênh không đáp, chỉ ngẩng đầu nhìn hoa đào rợp rợp trên đầu.

Chính ngày này năm xưa, trong lúc nàng cần Xi Vưu nhất, chẳng nề đánh lén Đại ca, trốn khỏi Triêu Vân phong để đợi hắn suốt đêm dưới cội đào thì hắn lại lỡ hẹn không tới. Nếu hôm đó hắn tới đúng hẹn, chẳng rõ hiện giờ bọn họ sẽ ra sao? Cũng ngày này năm ngoái, nàng nhọc công tính toán suốt một năm mới lấy cớ dạy dân chăn tằm dệt lụa để xin Tuấn Đế xuất cung lẻn tới Cửu Lê, đợi Xi Vưu đến nửa đêm, nhưng chỉ đợi được một manh áo đỏ đứt tình đoạn nghĩa.

Năm nay ngày này lại đến, nhưng nàng chẳng rõ mình có còn dũng khí tin vào lời thề ước dưới cội hoa đào không gặp không về nữa hay chăng?

Như thường lệ, tết Khiêu Hoa chẳng có tế đài, chẳng cần Vu sư, cũng chẳng thấy vật tế, chỉ có từng đống lửa bập bùng cùng muôn ngàn đóa hoa nở khắp núi rừng, vô số đôi nam nữ ngồi bên đống lửa, dưới bóng hoa hát ca nhảy múa.

Nghe kể rằng mấy vạn năm trước, nam nữ các tộc có thể gặp gỡ hẹn hò nhau vào một ngày nhất định rồi tự ước hẹn hôn nhân, nhưng theo thời gian, tập tục này dần dần mai một chỉ còn Cửu Lê tộc vẫn theo lệ cũ, nam nữ yêu nhau không cần xin phép mẹ cha, cũng chẳng cần mối mai làm chứng, miễn là chàng có lòng em có ý thì có thể lập tức kết thành đôi.

Ánh sao ác quá đi thôi

Dụ em vào tận rừng chơi mới kỳ

Móc chân em ngã chúi đi

Đất gồ hay phẳng anh thì biết đâu

Nghe thiếu nữ mau mồm mau miệng tường thuật chuyện bực mình hôm qua, mọi người đều cười rộ, bao ánh mắt giễu cợt đổ dồn về phía tình lang của cô nàng khiến chàng ta cuống cả lên, vò đầu bứt tai nghĩ cách đối đáp lại.

Nghe lời hát A Hành vừa ngượng vừa tức cười, không nhịn được, phá lên cùng mọi người. Nàng bưng ống trúc sóng sánh Ca tửu, vừa nghe hát vừa nhắp từng ngụm nhỏ.

Tiếng hát véo von cứ dập dờn, bên đối bên đáp, đôi ba cô gái đánh đố người yêu đã thỏa lòng, bèn nhận lấy đóa hoa đào chàng tặng, cài lên mái tóc. Dân chúng đại hoang coi hoa đào là biểu tượng của tình yêu nam nữ có lẽ bắt nguồn từ tập tục cổ này đây.

A Hành gỡ Trụ Nhan hoa trên tóc xuống, Trụ Nhan hoa vốn là một đóa hoa đào đỏ thắm yêu kiều, cũng là đóa hoa đào đẹp nhất trong sơn cốc. Ngắm Trụ Nhan hoa, nàng chợt nghĩ có khi nào năm đó Xi Vưu tặng nàng Trụ Nhan hoa chỉ vì thấy đó là một đóa hoa đào mỹ lệ, chứ không phải bởi nó là thần khí?

A Hành lặng ngắm Trụ Nhan hoa, lòng muôn mối tơ vò.

Đột nhiên, trong sơn cốc vút lên một tiếng ca hào sảng mà phóng khoáng, ngạo nghễ mà bộc trực, át hẳn những giọng ca khác, tựa hồ mãnh hổ hạ sơn, đầy mạnh mẽ hoang dại, lại như thông reo đỉnh núi, chân thành tha thiết, dằng dặc bi thương, dịu dàng gọi tùng bách đi xa mau trở lại.

A ối à ối a

Mắt ta mình cứ khoét ra

Để cho máu thấm đầy tà áo xanh

Ví bằng lọt được mắt mình

Máu như hoa rải đầy cành cũng cam…

A ối a ối à

Tim ta mình cứ móc ra

Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa

Ví lòng mình có bóng ta

Cam lòng tưới máu như hoa khắp đồi…

Nghe tiếng ca sang sảng, mọi người đều ngừng ca múa, nhìn quanh tìm kiếm người hát.

Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com

Xi Vưu vừa hát vừa bước lại khiến đám thiếu nữ Cửu Lê tộc ngỡ ngàng trước gã trai lạ mặt, thân hình rắn rỏi hơn cây thanh giang trên vách núi, ánh mắt sắc bén hơn chim ưng sải cánh giữa bầu không, khí thế oai nghiêm hơn ngọn núi cao nhất Cửu Lê, giọng ca tha thiết hơn dòng nước sâu nhất Cửu Lê.

A ối a ối à

Tim ta mình cứ móc ra

Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa

Ví lòng mình có bóng ta

Cam lòng tưới máu như hoa khắp đồi…

Bóng áo đỏ của hắn băng qua đám người đông nghịt, bước tới trước mặt A Hành. Chiếc áo hắn mặc trên mình là chính tay nàng dệt tặng hắn. Cuối cùng hắn vẫn đến dưới cội hoa đào chứ không nỡ vứt bỏ manh áo ấy, nghĩ vậy, nỗi oán giận trong nàng lại vơi đi, thay vào đó là cảm giác ngọt ngào thấm ra từ tận đáy lòng.

Giọng ca của hắn dần trầm xuống, cứ hát đi hát lại:

A ối à ối a

Mắt ta mình cứ khoét ra

Để cho máu thấm đầy tà áo xanh

Ví bằng lọt được mắt mình

Máu như hoa rải đầy cành cũng cam…

A ối a ối à

Tim ta mình cứ móc ra

Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa

Ví lòng mình có bóng ta

Cam lòng tưới máu như hoa khắp đồi…

Ánh mắt Xi Vưu tràn ngập nỗi khổ tương tư cầu mà chẳng được, không biết tỏ cùng ai, chỉ có thể gửi gắm vào tiếng ca, lặp đi lặp lại cho vơi bớt nỗi lòng.

Xi Vưu cầm lấy Trụ Nhan hoa trong tay A Hành, biến thành một chiếc vương miện hoa đào, hai tay dâng đến trước mặt nàng như dâng vương miện, “Cái này không phải là vương miện nhưng nếu cô muốn có vương miện, ta sẽ tặng cô một chiếc, nhất định không kém cái Thiếu Hạo có thể tặng cô.”

A Hàng rơm rớm nước mắt, Mễ Đóa giật giật áo nàng, nhắc nhỏ: “Nhận đi, nhận lấy đi.”

Mễ Đóa giục giã, A Hành chỉ đứng dậy cúi đầu, vòng qua người Xi Vưu đi thẳng.

Vẻ nồng nhiệt trong mắt Xi Vưu dần lụi tắt, toan vứt vương miện hoa đi, chợt nghe thấy sau lưng vang lên tiếng ca rất khẽ.

Cây cao ngất ngưởng giữa non xanh

Vấn vít dây mây quấn quýt cành

Cây níu chặt mây, mây quấn quýt

Khăng khăng khít khít giữ vẹn tình…

Xi Vưu ngỡ ngàng ngoảnh lại, trông thấy A Hành đứng bên đống lửa, hai má đỏ hồng, cất tiếng hát khe khẽ đến cơ hồ nghe không rõ, nhưng nàng quả thật đang học theo phong tục Cửu Lê, mượn khúc sơn ca giãi bày tình ý với Xi Vưu trước mặt mọi người.

Chiều chiếu sớm sớm mãi bên nhau

Tháng tháng năm năm đến bạc đầu

Cây chết mây còn, còn quấn quýt

Cây còn mây chết, chẳng rời nhau…

Gió táp mưa sa sá gì đâu

Sống chết bên nhau đến bạc đầu

Mây còn cây chết còn quấn quýt

Mây chết cây còn há lìa nhau?

Xi Vưu nhìn A Hành, ánh mắt phức tạp.

Tám năm trước họ đã ước hẹn cùng nhau, hàng năm mỗi khi hoa đào nở rộ lại gặp gỡ dưới cội đào. Mỗi lần gặp, hắn hết năn nỉ lại dỗ dành rồi lừa gạt nàng hát tặng mình một khúc tình ca, nhưng lần nào lần nấy nàng đều ngượng ngùng chối đây đẩy, còn mắng yêu hắn gian manh, bởi theo phong tục dân gian ở Cửu Lê, chàng trai hát tình ca để mời gọi bạn tình, nếu cô gái cất tiếng hát đáp lại cũng có nghĩa là bằng lòng vui vầy cùng anh ta.

Trước giờ A Hành chưa từng hát tình ca tặng hắn vậy mà năm nay, trước mắt mọi người, nàng lại cất giọng hát khúc ca cho một mình hắn.

Kim Đan liền đẩy Xi Vưu, “Kìa tiểu huynh đệ, sao cậu cứ đứng ngây ra thế?”

Bấy giờ Xi Vưu mới như sực tỉnh, vội bước tới trước mặt A Hành, toan đặt vương miện hoa lên đầu nàng, nào ngờ A Hành nghiêng đầu né tránh, “Ta không cần vương miện, chỉ cần đóa hoa đào tượng trưng cho tấm lòng của ngươi là đủ.”

Lập tức hắn biến miện hoa trở lại thành Trụ Nhan hoa gài lên tóc nàng.

Mọi người ở đó không quen biết Xi Vưu, nhưng nhận ra thiếu nữ đang thẹn thùng kia chính là Vu nữ Tây Lăng Hành từng chữa trị cho vô số người ở đây, thấy Vu nữ mà bọn họ tôn kính tìm được ý trung nhân, ai nấy đều mừng rỡ hoan hô.

Xi Vưu nắm tay A Hành hỏi nhỏ, như thể vẫn còn chưa dám tin: “A Hành, cô bằng lòng thật ư?”

A Hành nắm lấy tay hắn, siết chặt.

Mấy gã thiếu niên vẫn theo Vu sư học việc cứ chòng chọc quan sát Xi Vưu rồi xì xào to nhỏ, đùn đẩy nhau mãi mới thấy một tên cả gan cao giọng hỏi Xi Vưu: “Này! Ngươi là ai mà to gan thế, dám ve vãn Tây Lăng Vu nữ của bọn ta? Ngươi có biết đây là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê tộc không? Người ngoài muốn tham gia phải có Vu vương đồng ý mới được.”

Xi Vưu cười sảng khoái: “Ta tên Xi Vưu, hơn năm trăm năm trước từng sống trong núi Cửu Lê, đương nhiên có tư cách tham dự tết Khiêu Hoa của Cửu Lê rồi.”

Nghe hắn nói, hết thảy người ở đó đều kinh hoàng ngẩn người ra, gã thiếu niên vừa hỏi run rẩy quỳ sụp xuống, lập tức mọi người cũng lục tục quỳ theo, dập đầu với Xi Vưu.

Xi Vưu lắc đầu quay sang bảo A Hành: “Có biết cũng chẳng làm gì, thôi, mình đi đi!”

Đoạn hắn dắt tay nàng thong dong đi khỏi, thoắt chốc, mọi người ngẩng đầu lên đã thấy khuất bóng hai người.

Nước chảy róc rách, gió thổi hiu hiu. Bầu không tĩnh lặng lấp lánh muôn ngàn vì sao, tựa như đôi mắt người tình long lanh bao điều muốn nói.

A Hành ngồi trên nhà sàn giữa rừng đào, ngẩng đầu ngắm sao trời.

Xi Vưu bưng mấy vò Ca tửu từ trong nhà ra, đưa ống hút cho A Hành, nàng thuận tay nhận lấy uống liền một mạch nửa vò, bắt đầu ngà ngà say.

Xi Vưu ngồi xuống bên cạnh, quàng tay ôm eo A Hành, đoạn tranh lấy ống hút, hớp một ngụm rượu, quay sang mớm vào miệng nàng.

A Hành cười ngượng nghịu tránh né nhưng tránh không khỏi, đành mặc cho bờ môi nóng rãy của hắn in lên môi mình, nhận lấy ngụm rượu hắn mớm. Khác hẳn vẻ ranh mãnh từng trải hàng ngày, lúc này đây tay chân Xi Vưu hết sức lóng ngóng vụng về, càng thể hiện tấm tình chân thành say đắm của hắn.

Niềm khao khát bao năm nay mới trở thành hiện thực, Xi Vưu chỉ nghe thấy tiếng tim đập thình thịch, chẳng rõ là tim mình hay tim A Hành.

Tâm trạng Xi Vưu lên xuống như thủy triều, khi thì ngùn ngụt dục vọng, con dã thú bên trong lồng lộn muốn xông ra, chỉ hận chưa được tan ngay vào thân thể A Hành, lúc lại bình tĩnh mở to mắt nhìn nàng, từ đáy lòng vang lên một giọng nói buồn bực, giận dữ. Cùng với sự biến đổi đó, hắn lúc thì ngấu nghiến hôn nàng, khi lại chần chừ lưỡng lự. Trong khi đó, A Hành vẫn chủ động ôm chặt lấy hắn, nhẹ nhành hôn hắn, thổi bùng ngọn lửa dục vọng của hắn.

Toàn thân Xi Vưu nóng như lửa đốt, luôn miệng thì thầm gọi tên nàng: “A Hành, A Hành, A Hành… nàng bằng lòng thật chứ?”

A Hành không đáp, chỉ cầm tay hắn cởi dây lưng của mình, vạt áo lụa vừa hé ra đã thấy thấp thoáng trong ngọc trắng ngà, con dã thú bên trong Xi Vưu lập tức gầm rú xông ra, đè nghiến nàng xuống.

Xi Vưu vừa ngấu nghiến hôn nàng, vừa giật phăng quần nàng xuống, A Hành không ngừng thì thào tên hắn, “Xi Vưu, Xi Vưu, Xi Vưu…”, những tiếng gọi như ngọn roi của người dạy thú, khơi dậy nhu tình trong lòng Xi Vưu khiến hắn chợt e ngại làm đau nàng, động tác cũng dần dần dịu dàng hơn.

Đóa Trụ Nhan hoa cài trên đầu A Hành cũng bị những luồng linh lực đan xen mà hai người vô tình phóng thích tác động, nở bung ra vô số cánh đào đỏ thắm, phủ ngợp đất trời bằng một trận mưa hoa.

Muôn ngàn cánh đào lả tả trút xuống như mưa, dưới ánh trăng, giữa đám trúc phượng vĩ, trên lan can, hai con người quấn quýt lấy nhau, môi kề má áp, uyển chuyển triền miên.

Những ve vuốt dịu dàng của Xi Vưu tựa ngọn gió xuân tháng Ba hây hẩy lướt qua mình A Hành, mà tấm thân nàng là một đóa hoa bừng nở đón gió, nhưng khi tiến được vào trong nàng, hắn lại càng lúc càng mạnh mẽ, như biển lửa rít gào, như cuồng phong bạo vũ cuốn nàng theo, mỗi lúc A Hành ngỡ rằng sóng đã yên biển đã lặng thì ngay sau đó, một cơn sóng mới lại dấy lên, dấy lên, nhấn chìm nàng. Ý thức của nàng cũng bị cuốn theo từng cơn sóng dữ, cơn sau cao hơn cơn trước, đợt khoái cảm này vừa trào tuôn thì đợt khác lại ập tới, khiến nàng cũng kinh ngạc, chẳng hiểu sao thân thể mình có thể sản sinh ra nhiều khoái cảm đến vậy.

Theo từng cơn sướng khoái, ý thức nàng cũng càng lúc càng bâng khuâng mơ hồ, như bay bổng lên chín tầng mây rồi đột ngột bùng nổ khiến nàng không kìm được tiếng rít, cả người run lên bần bật trước niềm hoan lạc cực cùng.

Xi Vưu ôm chặt lấy nàng, vừa hôn vừa hỏi khẽ: “Thích không?”

A Hành lả người đi, nói chẳng nên lời, chỉ nhoẻn cười hạnh phúc.

Từ trong khe núi nghe văng vẳng tiếng ca vọng lại.

“Chàng là cây lớn đỉnh non, em dây mây vấn vít sườn núi xanh. Chàng cao em thấp vẫn tình, níu chân quấn quýt quanh chàng chàng ơi, chừng nào chàng mệt rã rời, thời em đây mới buông lơi cho chàng…”

Má kề má môi kề môi, ngón tay Xi Vưu vân vê nghịch mấy sợi tóc của nàng, chợt nghe tiếng ca, hắn khẽ bật cười, nụ cười đượm đầy mệt mỏi sau cơn ái ân hoan lạc, khác hẳn vẻ sắc sảo ngạo mạn hôm qua.

A Hành đỏ bừng mặt, “Chàng cười gì thế?”

“Nàng xấu hổ chuyện gì thì ta cười chuyện ấy.” Hắn đan tay vào tay nàng, nhắc lại rành rọt từng chữ: “Cây chết mây còn, còn quấn quýt. Cây còn mây chết chẳng rời nhau!”

A Hành siết chặt tay hắn, “Thật ra ta và Thiếu Hạo không phải như người ta đồn đại đâu, ta và y chỉ vờ làm bộ ân ái để che mắt phụ vương ta và Tuấn Đế thôi, y đã ứng thuận một ngày nào đó sẽ cho ta tự do rời khỏi…”

“Hừ!” Vừa nghe đến tên Thiếu Hạo, Xi Vưu đã thấy bực mình, cơn giận thường thấy ở những con đực khi sống chết quyết đấu để giữ con cái lại cho riêng mình chợt bùng lên, hắn đặt tay lên môi A Hành ngăn nàng nói tiếp, “Ba ngày này chỉ thuộc về riêng hai ta thôi, đừng nhắc tới chuyện khác nữa. Tết Khiêu Hoa sang năm, ta sẽ đợi nàng dưới cội hoa đào, nếu nàng tới gặp mặt, chúng ta sẽ bàn tính tới bước đường sau này nhé.”

A Hành gật đầu cười.

Xi Vưu hôn lên môi nàng, mặc cho cơn mưa hoa lại bắt đầu lả tả đổ xuống.

Sáng hôm sau A Hành tỉnh dậy đã chẳng còn thấy Xi Vưu bên cạnh, hồi tưởng lại cảnh tượng đêm qua, nàng vội trùm chăn kín đầu để giấu nỗi thẹn thùng, nhưng lại không khỏi nhoẻn cười ngượng nghịu. Thì ra nam nữ ái ân lại khoái lạc thích thú đến nhường ấy.

Đương lúc vừa hạnh phúc vừa ngượng ngùng, nàng chợt nghe thấy bên ngoài vang lên tràng cười rộn rã, vội mặc quần áo bước ra lan can, thấy A Tệ và Liệt Dương đã tới tự lúc nào, đang nô giỡn với Xi Vưu giữa hồ, ngay dưới thác nước.

A Tệ lúc dùng móng cào lúc lấy cánh đập Xi Vưu làm bọt nước bắn tung tóe, còn Liệt Dương bay vòng vòng trên không, vừa bay vừa khạc ra lửa thiêu đốt Xi Vưu, vậy mà hắn vẫn nhanh nhẹn tránh thoát, khiến lửa của Liệt Dương không rơi xuống nước thì lại táp phải A Tệ làm A Tệ luôn miệng rít lên ngụp xuống hồ, chỉ còn chiếc đuôi bông xù mượt như nhung ve qua vẩy lại trên mặt nước.

A Hành ngồi trên lan can vừa chải tóc vừa tươi cười xem cả ba đánh lộn.

Xi Vưu ngẩng lên gọi nàng: “Xuống ăn cơm đi, ăn xong mình sẽ vào núi chơi. Hôm qua chúng ta cùng Tiêu Dao đi trước làm hai bạn nhỏ này giận, hôm nay ta phải nhận lời dắt chúng vào núi chơi, chúng mới chịu làm lành với ta đó.”

Xi Vưu làm cơm rất ngon, đặc biệt là món thịt nướng thơm nức mũi, ngon đến nỗi A Tệ liên tục vẫy đuôi với hắn.

Ăn cơm xong, hai người dắt theo A Tệ và Liệt Dương vào núi chơi.

Thoạt đầu lúc mới khởi hành, A Tệ còn quấn quýt quanh A Hành, nhưng vừa trông thấy mấy cánh bướm rực rỡ đủ màu, nó lập tức bỏ nàng lại phía sau, tung tăng chạy khắp nơi vồ bướm. Sáng nay Liệt Dương cũng vừa được Xi Vưu chỉ dạy, lại khống chế được phượng hoàng nội đan linh hoạt hơn nên chỉ nhăm nhe thử nghiệm xem sao, bèn tập phun lửa về phía mặt hồ, nhân đó, Xi Vưu với A Hành mới dành được chút tĩnh tại bên nhau.

Xi Vưu nằm dài xuống thảm cỏ, đầu gối lên hai tay, miệng ngậm cọng cỏ, ngửa mặt nhìn trời đầy khoan khoái, A Hành ngồi bên cạnh hắn, dõi mắt nhìn theo A Tệ đang tung tăng giữa những lùm cây.

“A Hành!”

“Hở?”

“Có thật là cây chết mây còn còn quấn quýt, cây còn mây chết chẳng rời nhau không?”

A Hành đăm đăm nhìn hắn không đáp, chỉ gật gật đầu, cặp mắt trong veo chẳng gợn chút tạp niệm, hệt như mặt hồ mỹ lệ nhất giữa rừng núi Cửu Lê.

Xi Vưu rút Hà Đồ Lạc Thư ra, “Cái này nàng định thế nào đây?”

A Hành nghiêng đầu ngẫm nghĩ, “Phụ vương một lòng muốn đoạt Hà Đồ Lạc Thư nên ta nhất định phải dâng lên. Có điều nếu chàng giao nó cho ta, chỉ e bọn Chúc Dung chẳng chịu tin đâu, chúng sẽ cho rằng chàng một mình nuốt trọn đó.”

“Ta hơi đâu mà quan tâm bọn chúng nghĩ gì.”

“Lẽ nào các huynh đệ mình nghĩ gì chàng cũng không màng được ư, nghe nói hiện giờ chàng có rất nhiều huynh đệ tốt kia mà?”

Nét mặt Xi Vưu chợt phấn chấn hẳn lên, “Bọn họ đều là những dũng sĩ chân chính.”

A Hành đề nghị: “Chúng ta chia trứng ngọc ra làm hai phần, như vậy ai cũng đoạt được Hà Đồ Lạc Thư, mà ai cũng không đoạt được, ta có cái để dâng lên phụ vương, mà chàng cũng dễ bề ăn nói với Thần Nông.”

“Hay lắm!” Xi Vưu liền gọi Liệt Dương lại, “Lại đây, ta kiểm tra xem Phượng Hoàng huyền hỏa của mày đã vận dụng thành thục chưa. Mày điều khiển cho ngọn lửa mảnh hơn sợi tơ tằm rồi từ từ xẻ đôi quả trứng này ra xem.”

Liệt Dương quác lên một tiếng đầy tự phụ rồi phun ra một sợi lửa nóng rãy, mảnh hơn cả tơ tằm.

Vừa nghe mấy tiếng xì xì, thượng cổ chí bảo Hà Đồ Lạc Thư đã bị xẻ làm hai nửa. Xi Vưu đưa một nửa cho A Hành còn nửa kia nhét vào túi ngầm giấu trong giày, “Đôi giày này thoạt nhìn giản dị nhưng lại do Vu vương dày công thiết kế, nếu đụng vào mà không biết bí mật bên trong sẽ khởi động bộ phận chứa chất độc đấy.”

A Hành nín cười quan sát đôi giày, “Chàng rõ ràng là lắm mưu ma chước quỷ!”

“Thuở nhỏ ta lớn lên giữa bầy dã thú, điều đầu tiên phải học chính là làm sao cất giấu thức ăn, nếu cất không kỹ thì thức ăn mình vất vả săn được sẽ bị những con lớn hơn đoạt mất, dốc sức săn mồi mà không được ăn, rất có thể sẽ chẳng còn cơ hội bắt được con mồi nào khác nữa, sau cùng lại biến thành thức ăn cho kẻ khác.” Xi Vưu chăm chú nhìn nàng, nghiêm trang nói, “Dã thú muốn sống sót không thể chỉ dựa vào sức mạnh, mà xảo trá, nhạy bén, đa nghi, hung tàn đều phải có, không được thiếu thứ gì.”

Nhớ về thời thơ ấu hạnh phúc của mình, lại liên tưởng tới Xi Vưu, A Hành chợt thấy xót xa vô hạn, bèn nắm chặt tay hắn, “Từ nay về sau, hai ta sẽ sánh vai chiến đấu, khi nào chàng mệt mỏi muốn nghỉ ngơi, ta sẽ trông giữ thức ăn cho chàng.”

Xi Vưu đăm đăm nhìn A Hành, vừa cười vui vẻ, vừa siết chặt tay nàng, đoạn từ từ ngả người lại định hôn nàng, nhưng vừa chạm môi vào môi nàng, đột nhiên A Tệ nhảy phốc vào giữa hai bọn họ, quấn quýt lấy A Hành, cọ cọ vào người nàng, cũng cọ luôn bao nhiêu vết bẩn trên mình vào người nàng rồi nằm lăn xuống phơi bụng ra, huơ huơ móng vuốt, tỏ ý làm nũng đòi nàng gãi ngứa.

Xi Vưu vừa tức cười vừa bực bèn cốc cho A Tệ một cái, A Tệ nghiêng đầu ngơ ngác nhìn hắn, vẫn chưa hiểu vì sao Xi Vưu đột nhiên tức tối đánh mình, cặp mắt hồ ly long lanh tròn xoe, đáng thương hết sức.

Liệt Dương hiểu chuyện, cứ ngoác mỏ ra cười quang quác, cười lộn cổ từ trên cây xuống đất, lại lăn ra đất tiếp tục cười, vừa cười vừa khép hai cánh lại với nhau, làm điệu bộ hai người thân mật giảng giải cho A Tệ.

Hở?

A Tệ hết nghiêng đầu sang phải lại nghiêng sang trái, mãi vẫn chưa hiểu ý Liệt Dương.

Chỉ có A Hành thẹn quá hóa giận, quay lại bảo Xi Vưu: “Thay ta dạy con chim thối tha kia một bài học đi.”

Nghe vậy Liệt Dương vội chuồn thẳng, trước khi chuồn còn không quên ngoảnh về phía Xi Vưu và A Hành khạc lửa, một lùm cây đuổi theo sát sau lưng khiến nó phải nhảy vọt lên tránh trái né phải, càng trốn càng xa, chỉ thấy mấy cọng lông trắng bị xiến đứt rơi lả tả, lùm cây vẫn bám sát phía sau, không chịu buông tha.

Thấy Liệt Dương bị lùm cây đuổi sát sau lưng, A Tệ thích thú bay vút lên, đuổi theo lùm cây.

A Hành thở phào nhẹ nhõm, “Cuối cùng cũng được yên tĩnh rồi!”

Xi Vưu tiếp lời: “Cuối cùng cũng được yên tĩnh rồi, chúng ta có thể…” Xi Vưu hướng hai ngón cái về phía nhau máy máy, rồi nháy mắt với A Hành.

“Chàng học theo con chim thối tha kia làm gì? Kệ chàng đấy.” A Hành vừa mắng vừa bật dậy chạy vụt lên sườn núi.

Xi Vưu cười khanh khách đuổi theo nàng, kẻ chạy người đuổi, dần dà hắn bắt kịp nàng, liền nhào tới ôm chầm lấy A Hành vào lòng, cúi đầu hôn lên môi nàng.

A Tệ từ trên trời nhìn xuống lại ngỡ hai người đang chơi đùa gì đó, vội kêu líu kíu vui vẻ lao tới, mặc kệ lùm cây đuổi đánh Liệt Dương, nó níu cả bốn chân lên người Xi Vưu, đẩy hai người ngã vật ra, cả ba quấn lấy nhau lăn tròn trên cỏ.

Liệt Dương chẳng chịu thua thiệt, cũng nhào trở lại.

Thoát chốc, dưới vòm trời cao xanh đã rộn lên tiếng chim quang quác, hồ ly líu kíu cùng giọng A Hành cười khanh khách và Xi Vưu chửi ông ổng.

Hết chương 16.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2014 14:39:40 | Xem tất
Chương 17


Trời đất bao la còn lúc hết .


17.1


“Từ khi gặp gỡ tới nay, ngươi hết theo lại đuổi, luôn miệng thề thốt chỉ cần trong mắt ta có ngươi, ngươi cam lòng máu nhuộm thẫm áo, chỉ cần trong lòng ta có ngươi, ngươi cam lòng tưới máu đẫm đồng hoang. Trong mắt ta có ngươi, trong lòng ta có ngươi rồi đó, nhưng trong mắt ngươi, trong lòng ngươi đã bao giờ thật sự có ta chưa? Ta nói ngươi hay, kể từ bây giờ hai ta đoạn tuyệt ân tình, ta sẽ quên tất cả mọi chuyện về ngươi, nếu trong mắt ta còn bóng hình ngươi, ta sẽ móc mắt mình ra, nếu trong lòng ta còn nghĩ tới ngươi, ta sẽ bóp nát trái tim mình!”


Sáng hôm sau, A Hành tỉnh dậy trong vòng tay Xi Vưu.

Nàng khẽ nói: “Đại ca đang loanh quanh gần Ngu uyên đợi ta, ta phải đi đây.”

Xi Vưu cảm thán: “Vậy là đã ba ngày rồi.” Thời gian trôi qua thực quá nhanh.

A Hành ôm chặt lấy Xi Vưu, quyến luyến chẳng rời.

Hai người quấn quýt hồi lâu, mãi tới khi Tiêu Dao từ trên không đáp xuống, xẹt qua cửa sổ rồi lại bay vút lên trời, như thúc giục bọn họ lên đường.

Xi Vưu hôn lên trán A Hành rồi trở dậy mặc áo.

Thấy sắp phải chia tay, A Hành vội nói rõ ràng mọi chuyện, “Ta gả cho Thiếu Hạo chỉ là vì…”

Xi Vưu vừa mặc lại đồ vừa đáp: “Ta chẳng quan tâm nàng đã thành hôn hay chưa, vấn đề giữa hai ta không phải là Thiếu Hạo.” Đoạn hắn ngoảnh lại nhìn nàng, “Mọi chuyện đều do nàng quyết định mà thôi, ta chỉ muốn nơi này của nàng!” Hắn đặt tay lên ngực A Hành, “Nàng có bằng lòng trao chân tình cho ta chăng?”

A Hành gật gật đầu.

Xi Vưu cười, cặp mắt sáng rực nhìn sâu vào mắt nàng, “Chỉ cần nàng thật lòng với ta là đủ, mọi trở ngại trên thế gian này đều có thể đẩy lùi!”

Chẳng phải vậy sao? Chỉ cần hai người bọn họ đồng lòng, dù phía trước đầy chông gai, họ cũng nhất định đạp bằng trở ngại, vạch ra một con đường đi tới. Cứ nghĩ sớm muộn sẽ có ngày được ở bên Xi Vưu mãi mãi, ngày ngày tháng tháng đều như ba ngày vừa qua, A Hành lại thấy rộn rã xôn xao cả cõi lòng.

A Hành lưu luyến từ biệt Xi Vưu, đi tìm Thanh Dương.

Dù A Tệ gắng hết sức nhưng khi nàng tới được Ngu uyên đã là nửa đêm.

Từ xa nhìn lại, thấy lửa đỏ rực trời, A Hành không hiểu ra sao, chỉ biết giục giã A Tệ mau mau bay đến đó. Tới gần hơn một chút nàng mới trông thấy Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ đang hợp lực thúc động hỏa trận vây khốn Thanh Dương và Xương Ý. Tuy linh lực tu hành của ba huynh muội nàng khác nhau nhưng từ lúc sinh ra đêm nào cũng bị mẫu thân gói trong kén tằm treo trên cây dâu mà ngủ nên linh lực của cả ba có thể tương thông. Lúc này Xương Ý đang đặt một tay lên vai Thanh Dương để linh lực toàn thân mình tương thông với y.

Thanh Dương vẫn giữ vẻ mặt lạnh lùng thản nhiên như thường, nhưng dù có Xương Ý hợp lực, những đóa băng mẫu đơn xung quanh hai người cũng chỉ lớn cỡ nắm tay, hiển nhiên thương thế của y lại trở nặng.

Thanh Dương luôn là mối uy hiếp lớn nhất đối với Thần Nông tộc, Chúc Dung khó khăn lắm mới vớ được thời cơ ngàn năm có một này, hắn rắp tâm giải quyết triệt để Thanh Dương.

A Hành lòng nóng như lửa đốt nhưng trước mắt là ba đại cao thủ Thần Nông, lại thêm hỏa trận phừng phừng, bản thân nàng linh lực thấp kém, lại tu luyện mộc linh, làm sao chống nổi?

Phải làm sao đây?

Đương lúc bần thần nghĩ ngợi nàng chợt thấy Chu Du cưỡi Trùng Minh điểu đáp xuống, vội hỏi: “Sao Đại ca và Tứ ca lại bị Chúc Dung bao vây?”

“Vương cơ đi theo Xi Vưu không bao lâu thì Tứ điện hạ nhớn nhác đuổi tới, nghe nói vương cơ đi tìm Xi Vưu đoạt Hà Đồ Lạc Thư, Tứ điện hạ bèn nổi nóng cãi vã với Đại điện hạ, nói Đại điện hạ lợi dụng vương cơ, sau đó Tứ điện hạ đùng đùng đi tìm vương cơ. Nào ngờ sau đó Chúc Dung tìm thấy Đại điện hạ thương tích đầy mình bèn gọi cả Cộng Công và Hậu Thổ lại, định thừa cơ giết chết Đại điện hạ. Đáng lẽ Đại điện hạ có thể nhân lúc bọn chúng chưa kịp tụ tập đông đủ, trận pháp chưa hoàn thành mà chạy đi, nhưng Thiếu Hạo vẫn đang trị thương dưới băng, nếu Đại điện hạ đi rồi, không chừng Chúc Dung sẽ tìm thấy Thiếu Hạo, bằng vào tính tình của hắn, nhất định…” Chu Du chặt tay vào gáy làm động tác cắt cổ, “Đại điện hạ làm băng dưới hồ tan ra rồi một mực trấn giữ bên hồ, nửa bước không rời nên mới bị bọn Chúc Dung bày trận vây khốn. Tứ điện hạ đi được nửa đường, phát hiện ra hỏa linh biến đổi khác thường, sợ Đại điện hạ xảy ra chuyện bèn vòng lại, cuối cùng rơi vào tình trạng như hiện giờ.”

Nhìn ngọn lửa đỏ rực đằng xa, Chu Du rầu rĩ thở dài, “Thật khó hiểu, Đại điện hạ lúc thì kiêng dè đến mức chỉ mong Thiếu Hạo chết ngay lập tức, khi lại bất chấp mạng sống để cứu y, chắc vì nô tỳ không có trái tim nên chẳng làm sao hiểu nổi.”

A Hành chẳng còn lòng dạ nào để tâm tới thắc mắc của Chu Du, chỉ móc nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư mà Xi Vưu giao cho mình nhét vào tay ả, hạ giọng dặn dò.

Chu Du nghe lời cưỡi Trùng Minh điểu bay vút đi, giơ nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư lên cao giọng nói: “Đại điện hạ, nô tỳ lấy được Hà Đồ Lạc Thư rồi, giờ làm sao đây?” Vừa dứt lời, tất cả mọi người đều ngẩng lên nhìn ả.

Thanh Dương giận dữ gầm lên: “Chạy đi!”

Chu Du lập tức bỏ chạy.

Chúc Dung con rô cũng tiếc, con diếc cũng tham, hết nhìn Cộng Công lại nhìn Hậu Thổ, sau cùng hét bảo Cộng Công: “Mau đuổi theo! Nhất định phải đoạt lấy đem về, hưng vong của cả Thần Nông tộc đều nằm trong tay ngươi đó!”

Cộng Công tức tốc đuổi theo Chu Du.

A Hành khẽ cắn môi, dụ được một tên đi, vẫn còn hai tên!

Nàng ung dung bước ra, vừa trông thấy nàng, Hậu Thổ tái mặt, không dám nhìn thẳng vào mắt nàng, còn Chúc Dung lại cười rộ lên: “Hôm nay đúng là ngày lành tháng tốt, ông trời thấy hai kẻ bỏ mạng vẫn chưa đủ đây mà! Xi Vưu, con đàn bà này giao cho ngươi đấy.”

A Hành kinh ngạc ngoảnh lại, nhận ra Xi Vưu đã đứng ngay sau lưng mình.

Trông thấy hắn A Hành bình tĩnh hẳn, ánh mắt thoáng vui mừng, nhưng cặp mắt Xi Vưu vẫn lạnh lùng u ám khiến nàng hơi thắc mắc, cảm giác có gì đó không ổn, lại chẳng dám nghĩ nhiều.

Mắt thấy mấy đóa Băng Tâm đơn cuối cùng sắp tan biến, A Hành vội cất tay dệt nên một tấm lưới băng tàm, vừa định quăng ra cứu viện thì thấy tay chân đã bị dây mây trói chặt.

Nàng ngỡ ngàng ngoảnh lại, quả nhiên thấy Xi Vưu ra tay trói mình.

Biển lửa phừng phừng nuốt trọn mấy đóa băng mẫu đơn cuối cùng rồi đổ ập vào Thanh Dương khiến hai bàn tay y cháy sém, thân mình lảo đảo quỵ xuống, Xương Ý toan tiếp cứu Đại ca nhưng bản thân y cũng đã kiệt sức, linh lực tung ra chẳng động được tới cọng tóc hai người Chúc Dung và Hậu Thổ liên thủ, đành bó tay để mặc cho ngọn lửa từ từ nuốt trọn mình và Đại ca.

Thấy hai người anh sắp bị ngọn lửa nuốt chửng, A Hành đỏ hoe mắt, ra sức vùng vẫy nhưng không sao thoát được đám dây leo, nàng gào lên với Xi Vưu: “Xi Vưu, đó là anh trai ta mà.”

Xi Vưu chòng chọc nhìn nàng, “Chẳng phải đã nói với nàng rồi sao, ta là dã thú, để sống sót giữa rừng già thì phải xảo quyệt, đa nghi, nhạy bén, hung tàn, không chừa gì cả.”

A Hành cuống quýt khóc òa lên, “Chàng từng nói bất kể ta muốn gì, chàng sẽ giúp ta đoạt lấy kia mà, ta chỉ muốn các anh của mình thôi.”

Xi Vưu vẫy tay, Tiêu Dao trên không liền quăng xuống một người bị đám dây leo trói chặt, là Chu Du.

Xi Vưu móc trong người Chu Du ra nửa quả trứng ngọc, căn vặn: “Cái gì đây?”

“Nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư của ta.”

“Thế còn đây?” Xi Vưu lại móc ra nửa quả trứng nữa từ Chu Du.

A Hành kinh ngạc, há hốc miệng nói không nên lời.

“Cô không còn mặt mũi nào trả lời nữa phải không? Để ta nói cô nghe! Lúc cô ân ái trên giường cùng ta thì thị nữ của cô đã lén tới trộm trứng ngọc, ta biết nhưng cứ để ả trộm lấy đem đi là vì muốn xem xem rốt cuộc cô định vờ vịt đến chừng nào.”

A Hành chợt hiểu ra mọi chuyện, quay sang nhìn Đại ca đang chìm trong biển lửa, thì ra, Đại ca quả thật đã lợi dụng nàng. Nhưng y là Đại ca của nàng.

Hai tay Xi Vưu cầm hai nửa trứng ngọc, lòng ngổn ngang bao bi thương, đau đớn, căm hận cùng oán hận.

“Hiên viên vương cơ, vì cái gì mà ngay cả bản thân mình cô cũng bán rẻ sao? Cô tưởng ta cần thứ này lắm ư? Nếu muốn đoạt thiên hạ thì dù không có Hà Đồ Lạc Thư, ta cũng đoạt được như thường. Ta đã năm lần bảy lượt hỏi cô, nhắc nhở cô, vậy mà cô lại…”

Xi Vưu không nén nổi căm phẫn, bật lên thành tiếng cười đầy bi thương, “Bất kể cô ham mê quyền lực hay mê mẩn hư vinh gì cũng được, ta chỉ có một nguyện vọng nhỏ nhoi là mong cô thật lòng với ta mà thôi. Hiên viên vương cơ ơi là Hiên viên vương cơ, cả trái tim mình ta còn có thể trao cho cô thì Hà Đồ Lạc Thư có đáng gì? Nếu cô hỏi thẳng, ta hoàn toàn có thể giao nó cho cô kia mà! Cớ gì phải dùng lời ngon tiếng ngọt gạt gẫm ta hết lần này sang lần khác?”

A Hành ầng ậng nước mắt, “Không phải ta mà!”

“Rốt cuộc cô là loại đàn bà gì hả? Cả thiên hạ đều biết cô cùng Thiếu Hạo phu thê ân ái, ai ai cũng nói cô tha thiết yêu thương y, thế mà vừa ngoảnh mặt cô đã có thể hoan lạc thâu đêm bên ta, còn trơ tráo gạt ta rằng cô và y chỉ là đóng kịch, vậy còn ta? Cô và ta là gì đây? Khi gặp Thiếu Hạo, cô lại nói cô và ta chỉ là vờ vĩnh, phải không?”

“Không… Không phải đâu.”

Xi Vưu túm lấy tay A Hành, gí sát mặt nàng hỏi: “Lúc rên xiết quằn quại bên dưới ta, cô vẫn chỉ chăm chăm lo xem ả thị nữ kia đã đánh cắp được Hà Đồ Lạc Thư trót lọt chưa đúng không?”

A Hành lắc đầu quầy quậy, nước mắt như mưa.

Xi Vưu chòng chọc nhìn nàng, gằn từng tiếng: “Tại sao bao tết Khiêu Hoa trước cô chẳng hề đáp lại lời mời gọi của ta vậy mà lần này đáp ứng mau lẹ thế? Cô thành thật nói xem, thực sự cô không có bất kỳ mục đích gì sao?”

“Không có!” A Hành vừa buột miệng lại ngập ngừng. Đương nhiên nàng làm vậy là vì yêu Xi Vưu, nhưng có lẽ một phần bởi phụ vương nói sẽ mời y sư trong cung tới thăm khám cho nàng, nàng sợ để lộ sơ hở, nên lập tức cùng Xi Vưu… Có điều nàng cũng thật lòng muốn trao thân cho hắn mà.

Xi Vưu xảo trá như hồ ly, há chẳng nhìn ra vẻ ngập ngừng trong mắt A Hành, mối nghi hoặc trong lòng được chứng thực, bi thương cũng theo đó trào dâng như nước vỡ bờ, lửa giận bùng lên ngút trời, hắn liền rảy mạnh A Hành ra, ghê tởm đến nỗi không muốn đụng vào nàng.

Mấy trăm năm trước, hắn thà bị thương cũng quyết không lại gần nàng, sợ mình làm tổn thương đến nàng, bao lâu nay dè dặt thăm dò nàng, tiếp cận nàng, bề ngoài nhìn vào có vẻ gian xảo, thực ra chỉ vì biết rõ mình không cầm lòng nổi trước nàng, vậy mà cuối cùng một mảnh chân tình vẫn bị nàng phũ phàng phụ rẫy.

Nhìn dáng vẻ của Xi Vưu, lòng nàng đau như dao cắt, nước mắt ròng ròng nói: “Giờ ta có nói gì chàng cũng chẳng chịu tin, thôi thì ta cầu xin chàng một việc, xin chàng hãy cứu các ca ca của ta, được không?”

Xi Vưu lạnh lùng: “Cô quên rồi ư? Dã thú chẳng những xảo trá đa nghi mà còn rất hung tàn nữa! Kẻ khác làm ta rơi một giọt máu, ta phải đòi hắn đền lại một mạng, bắn một mũi tên vào ta, ta sẽ trả lại mười mũi!”

Dứt lời hắn khoanh tay bình thản đứng xem Chúc Dung thiêu sống Thanh Dương và Xương Ý.

A Hành vừa vật mình khoác lóc vừa tha thiết van nài: “Xi Vưu, Xi Vưu…”

Xi Vưu vẫn lạnh lùng làm ngơ.

Xi Vưu đã giăng sẵn kết giới nên Hậu Thổ không thể nghe được hắn cùng A Hành cãi vã, nhưng thấy A Hành bị trói chặt, ra sức vùng vẫy đến nỗi đầu tóc rũ rượi, nước mắt đầm đìa, gã cũng mím chặt môi, lòng thầm hổ thẹn.

Mặc cho A Hành hết lời van vỉ, Xi Vưu vẫn một mực lạnh lùng thờ ơ, dần dà nàng đâm ra tuyệt vọng, không gắng vật nài thêm nữa, chỉ thẫn thờ nhìn ngọn lửa thiêu đốt hai anh trai mình, nước mắt lã chã, ánh lửa phừng phừng in hằn vào đáy mắt nàng, cả cõi lòng nàng cũng chết dần theo ngọn lửa, xác thân còn một mảnh trống không.

Nhìn vẻ mặt đau thương đến tuyệt vọng của A Hành, Xi Vưu chẳng hề thấy khoan khoái vì trả được thù, trái lại niềm căm phẫn trong lòng càng trào lên mãnh liệt hơn, hắn vẫy tay kéo A Hành lại, gằn giọng hỏi: “Chẳng phải cô khéo dùng lời ngon tiếng ngọt lắm hay sao? Sao giờ không khua môi múa mép nữa đi? Lẽ nào tình cảm của cô với các ca ca mình cũng là giả nốt?”

A Hành thê thiết nhìn hắn, chậm rãi thốt từng chữ: “Xi Vưu, hôm nay nếu đổi lại là ta thì ta sẽ tin chàng! Lẽ nào quen biết mấy mươi năm lại không bằng mối hiểu lầm ba ngày ư?” Dứt lời nàng chẳng buồn nhìn Xi Vưu nữa, chỉ đăm đăm trông về phía hỏa trận, như muốn ghi khắc lại tất cả cảnh tượng hôm nay.

Lần đầu tiên nàng hiểu ra rằng nỗi đau lớn nhất trong đời không phải là bản thân chết đi, mà là phải trơ mắt nhìn những người thân yêu lìa trần mà chẳng thể làm gì được.

Không bắt được Chu Du, Cộng Công đành tiu nghỉu về không, vừa tới nơi lại thấy Chu Du đã bị trói gô, còn chưa kịp mở miệng hỏi nguyên do, Chúc Dung đã kéo tuột hắn vào trợ trận. Có thêm linh lực của Cộng Công ngọn lửa càng mạnh thêm, nuốt trọn cả Xương Ý và Thanh Dương.

A Hành nghiến đến muốn vỡ răng, sắc mặt trắng bệch, cặp mắt đờ đẫn vô hồn chẳng còn nước mắt mà rơi nữa, thay vào đó, máu bắt đầu ứa ra từ khóe miệng.

Mặc cho Xi Vưu gọi nàng, lắc nàng, A Hành cứ đờ ra như khúc gỗ, chỉ có đôi mắt thẫn thờ dán chặt vào đống lửa ngùn ngụt ngút trời.

Bỗng Xi Vưu nhận ra rằng, nếu ngọn lửa kia còn tiếp tục thiêu đốt thì nàng A Hành mà hắn quen biết cũng sẽ chết đi, mãi mãi không bao giờ trở lại.

Tuy còn chưa nguôi căm hận A Hành nhưng hắn cũng chẳng nỡ nhìn nàng chết, thầm đấu tranh giằng co một hồi lâu, cuối cùng Xi Vưu giơ tay lên, chuẩn bị phát lực dập lửa.

Hậu Thổ chần chừ do dự mãi cũng định lén thu lại linh lực.

Đột nhiên một con thủy long khổng lồ từ dưới lòng hồ gầm rít xông lên, quét qua cả hỏa trận.

Thủy hỏa giao tranh phát ra tiếng ùng oàng điếc tai, thủy long dần dần nhỏ lại, ánh lửa cũng từ từ lụi tắt.

Đúng lúc thủy long biến mất, Thiếu Hạo bế theo A Hành nhẹ nhàng đáp xuống giữa hỏa trận, ngọn lửa phừng phừng đã bị y chặn đứng.

Vừa đặt chân xuống đất, A Hành liền nhào tới chỗ các anh, quên cả cảm ơn Thiếu Hạo.

Xương Ý nằm phục trên người Thanh Dương, ôm chặt đầu Thanh Dương trong lòng, A Hành phải dùng sức mới kéo được Xương Ý ra. Lưng Xương Ý bị bỏng nặng, nhưng như một phép lạ, Thanh Dương chẳng hề thương tổn mảy may, chỉ hôn mê vì cạn kiệt linh lực mà thôi.

Nhìn cảnh tượng trước mắt, bọn Chúc Dung, Hậu Thổ, Cộng Công đều lấy làm kinh hãi, chẳng ngờ trong vương tộc vẫn còn tình anh em khăng khít nhường kia.

Thiếu Hạo vừa lấy nước ngăn lửa mỉm cười nhìn khắp lượt mọi người: “Bốn đại cao thủ Thần Nông đều ở đây, quả là náo nhiệt!”

Nước vốn là khắc tinh của lửa, thêm vào đó linh lực của Thiếu Hạo lại vượt trội hơn, nghĩ vậy Chúc Dung không khỏi chột dạ, nhưng vẫn gượng cười đáp: “Không ngờ Thiếu Hạo lại rình sẵn dưới hồ, đúng là khiến người ta kinh ngạc.”

Thiếu Hạo cười: “Xá đệ vô dụng, lỡ tay làm bị thương tại hạ, ba ngày trước tại hạ đã ở dưới hồ này trị thương rồi, chính các vị quấy rầy tại hạ chứ không phải tại hạ cố ý rình mò đâu nhé.”

Y ngang nhiên thừa nhận mình bị thương, còn chỉ rõ đã trị thương ba ngày nay, càng khiến Chúc Dung thêm phần sợ sệt, nhưng hắn vẫn tiếc rẻ cơ hội hiếm hoi trước mắt. Tính ra nếu bốn người bọn hắn đồng tâm hợp lực lại cũng chẳng ngán gì Thiếu Hạo, nhưng Xi Vưu vốn ngông cuồng ngạo mạn, nào chịu nghe hắn sai khiến, Hậu Thổ bề ngoài hòa nhã mà bên trong âm hiểm, chẳng trông cậy được gì, chỉ dựa vào một mình tên ngốc Cộng Công thì không ăn thua.

Lỡ như Thiếu Hạo đả thương hắn, liệu Xi Vưu và Hậu Thổ có trở mặt thành thù, giết chết hắn không?

Chúc Dung đắn đo giây lát rồi thu linh lực lại, quay sang nói với Thiếu Hạo: “Nể mặt điện hạ, ta tha mạng Hiên Viên Thanh Dương đó.”

“Đa tạ.” Thiếu Hạo tươi cười tạ ơn, thật ra lần này y trúng thương rất nặng, lại bị Thanh Dương liên tục quấy nhiễu cản trở việc trị thương, hiện giờ, y vốn chẳng thể thắng nổi Chúc Dung.

“Vậy chúng ta xin cáo từ, các vị, hẹn ngày sau gặp lại.” Thiếu Hạo cười cười ôm quyền chào từ biệt khắp lượt.

Thiếu Hạo cứu tỉnh Thanh Dương, Chu Du đỡ Thanh Dương lên lưng Trùng Minh điểu, A Hành ôm Xương Ý cưỡi A Tệ, còn Thiếu Hạo đứng trên lưng Huyền điểu, chuẩn bị lên đường.

“Khoan đã!”

Xi Vưu đột nhiên tiến lại, vừa tung vừa hứng hai mảnh Hà Đồ Lạc Thư trong tay, ánh mắt mọi người cũng dán chặt vào đó, hết trợn mắt lên lại cụp mắt xuống nhìn theo hai nửa trứng ngọc.

“Thanh Dương, Thiếu Hạo, ta muốn đem cái này đổi lấy một thứ của các ngươi.”

Thanh Dương cùng Thiếu Hạo đồng thanh hỏi: “Đổi lấy thứ gì?”

Chúc Dung cùng Cộng Công đồng thanh phản đối: “Không được!”

Hậu Thổ làm thinh, chỉ âm thầm vận linh lực.

Xi Vưu cười cười chỉ A Hành: “Cô ta!”

Chúc Dung không nhịn nổi ngoác miệng chửi: “Đồ điên, ngươi tưởng một mình ngươi đoạt được Hà Đồ Lạc Thư đấy phỏng, nếu không có chúng ta, ngươi nghĩ mình có đoạt được không?” Xi Vưu chẳng buồn để ý đến hắn, chỉ chăm chú nhìn Thanh Dương và Thiếu Hạo: “Ta muốn mời vương tử phi tới Thần Nông chơi vài ngày, không biết ý hai vị thế nào?”

Thanh Dương và Thiếu Hạo đều lặng yên không đáp.

A Hành lạnh từ trong lòng lạnh ra, cả người run lẩy bẩy, nụ cười của Xi Vưu tàn nhẫn làm sao, hắn vốn không cần nàng, hắn chỉ muốn nàng tận mắt thấy mình còn không bằng một món đồ trong mắt Đại ca và phu quân, mà thảm hại nhất là – nàng quả thật không bằng một món đồ!

Xi Vưu bẻ trứng ngọc làm đôi cho Thiếu Hạo và Thanh Dương nhìn, “Địa thế núi sông, khí hậu các nơi trong thiên hạ đều nằm cả ở đây, nếu hai người đồng ý thì mỗi người nhận lấy một nửa, nếu chỉ một người đồng ý thì ta sẽ giao luôn hai nửa cho kẻ đó.”

Xi Vưu vô cùng nham hiểm xảo trá, chỉ mấy câu đã ép Thiếu Hạo và Thanh Dương vào thế đối địch nhau. Thanh Dương và Thiếu Hạo thừa biết quỷ kế của hắn, nhưng không thể không theo, liền đưa mắt nhìn đối phương vẻ đề phòng, ánh mắt vừa chạm nhau đã lập tức ngoảnh đi.

Xi Vưu đứng ngoài khoái trá quan sát vẻ mặt Thiếu Hạo và Thanh Dương, hệt như mèo vờn chuột.

Đột nhiên A Hành lên tiếng: “Đủ rồi, ta sẽ đi theo ngươi!”

Dứt lời nàng ôm Xương Ý tới trước mặt Thanh Dương: “Nếu không đoạt được Hà Đồ Lạc Thư thì lấy gì giao nộp cho phụ vương, Đại ca cứ để muội theo Xi Vưu tới Thần Nông một chuyến.”

A Hành một mực tươi cười như thể chứng minh chuyện này do mình nàng quyết định chứ không phải bị Thanh Dương đem ra làm vật trao đổi. Nhìn gương mặt tươi cười của nàng, Thiếu Hạo càng hiểu rõ những suy tư ẩn sau nụ cười tươi tắn ấy, dường như nàng nghĩ chỉ cần giữ được nụ cười đó thì có thể gắng gượng chống đỡ hết thảy.

Tận mắt thấy A Hành đi về phía Xi Vưu, Thiếu Hạo bỗng buột miệng gọi: “A Hành!”

Nghe y gọi, A Hành dừng bước, ngỡ ngàng ngoảnh lại.

Trong đêm, đôi mắt nàng lấp lánh như hai vì sao sáng khiến Thiếu Hạo liên tưởng tới những ánh sao bềnh bồng trên sóng nước Cao Tân – những ánh sao mà y phải dốc lòng bảo vệ.

Lời ra đến đầu lưỡi lại bị nuốt xuống, bất lực cùng khổ tâm đắng nghét trong miệng càng làm nụ cười của y thêm vẻ dịu dàng: “Dọc đường nhớ giữ gìn, mấy ngày nữa ta sẽ phái thị vệ tới đón nàng.”

A Hành nhoẻn cười đáp lại, vừa cười vừa ngoảnh đầu đi, rảo chân bước tới bên cạnh Xi Vưu.

Xi Vưu giơ cả hai tay lên, hai mảnh trứng ngọc lần lượt rơi vào tay Thanh Dương và Thiếu Hạo.

Thanh Dương liếc nhìn Thiếu Hạo rồi sai Chu Du điều khiển Trùng Minh điểu bay về phía Đông Bắc.

Thiếu Hạo thầm kiểm tra thương thế bản thân một lượt rồi cưỡi Huyền điểu bay về phía Đông Nam.

Chúc Dung căm hận chửi rủa sa sả nhưng chẳng dám đuổi theo Thiếu Hạo, bèn nhảy lên Tất Phương điểu truy sát Thanh Dương.

A Hành lập tức cưỡi A Tệ xông ra chặn đường Chúc Dung, vừa dùng Trụ Nhan hoa dựng lên một bức tường hoa đào dày đặc, vừa hét gọi Xi Vưu: “Ngươi đừng quên lời mình hứa đấy.”

Nàng không nhắc tới lời hứa thì thôi, vừa nhắc tới, Xi Vưu liền nghĩ đến những lời đường mật giả dối mấy ngày nay, trước kia ân ái ngọt ngào bao nhiêu thì giờ đây lại căm uất phẫn hận bất nhiêu, hắn lạnh lùng đáp: “Đương nhiên rồi, ta nào có quên, ta hứa đem cô ra làm vật trao đổi chứ có hứa sau khi trao đổi xong Chúc Dung không được đoạt lại đâu.”

Nỗi thương tâm thất vọng trong lòng A Hành hoàn toàn biến thành đau đớn tuyệt vọng, gã đàn ông này là kẻ mà nàng phải vượt qua trùng trùng gian khó, thận trọng từng li từng tí mới có thể trao gửi cả tấm chân tình, là kẻ khiến nàng chẳng ngại đối đầu với số mệnh, cố hết sức để được ở bên, cũng là kẻ mà nàng ngỡ bất luận sinh tử, họa phúc đều mãi mãi tin tưởng nàng, yêu thương, bảo vệ nàng, kề vai sát cánh với nàng đấy ư?

“Chàng hận ta đến thế ư? Lẽ nào trừ bản tính đa nghi và hung tàn của dã thú, chàng chẳng có chút xíu tin tưởng và nhân ái nào của con người sao?” Mới hôm qua thôi, còn luôn miệng rót vào tai nàng bao tình sâu nghĩa nặng, vậy mà nháy mắt đã rũ sạch không.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2014 14:42:30 | Xem tất
Chương 17


Trời đất bao la còn lúc hết .


17.2


Trước là bị Thanh Dương cùng Thiếu Hạo ruồng bỏ, sau lại bị Xi Vưu ngoảnh mặt, trái tim A Hành bỗng chốc chết lịm, nàng bất chấp tất cả lao vào Chúc Dung, ngăn hắn đuổi theo các anh trai đang trọng thương.

Chúc Dung đứng đằng trước, chếch về bên trái nàng. Thoạt trông thấy Xi Vưu vì A Hành mà rối như tơ vò, cử động thất thường, hắn chợt nảy ra một ý. Ẩn mình sau đám lửa phừng phừng, hắn khẽ búng tay, bắn mấy đốm U Minh hỏa nhỏ xíu về phía A Hành. Trong ánh lửa đỏ ngút trời, thân thể A Hành vừa khéo ở ngay trong tầm bắn tới của U Minh hỏa, vậy mà Xi Vưu chẳng hề trông thấy, chỉ thấy khắp người nàng bung ra vô số sợi tơ tằm, áp đảo cả địa hỏa của Chúc Dung.

A Hành lao vút lên như muốn tấn công Chúc Dung. Biết rõ A Hành chẳng phải đối thủ của Chúc Dung, Xi Vưu chỉ khoanh tay đứng yên tại chỗ, phóng ra mấy sợi dây leo xanh mướt, trói chặt lấy A Hành từ trên không, ngăn nàng ra tay với Chúc Dung.

Hậu Thổ ở đằng trước, chếch về bên phải nàng, đột nhiên trông thấy Chúc Dung vận dụng cả U Minh hỏa có thể thiêu trụi vạn vật đánh lén A Hành, hơn nữa đã bắn tới ngay trước ngực nàng. Tuy nhiên, U Minh hỏa uy lực đáng sợ lại mang nhược điểm chí mạng là tốc độ bay rất chậm, bởi thế dù phát hiện trễ, A Hành vẫn có khả năng né kịp. Có điều đúng lúc nàng nhảy vọt lên không né U Minh hỏa bắn tới, Hậu Thổ thở phào nhẹ nhõm đã giật mình kinh hãi trông thấy Xi Vưu tung dây leo trói chặt A Hành, khiến nàng tránh không khỏi đòn của Chúc Dung, người ngoài nhìn vào chẳng khác nào Xi Vưu cùng Chúc Dung phối hợp lấy mạng A Hành vậy.

Hậu Thổ tức tốc ngưng tụ một tấm khiên đất chắn trước mặt A Hành, tiếc rằng vẫn chậm một bước, tuy chặn được phần lớn U Minh hỏa nhưng vẫn còn một đốm U Minh hỏa lọt qua khiên, bắn trúng mỏm vai nàng. Một đốm lửa nhỏ cũng có thể đốt trụi cả thảo nguyên, huống hồ đây lại là U Minh hỏa được Chúc Dung tôi luyện cả ngàn năm, uy lực càng khỏi phải tưởng tượng.

Xi Vưu từ đầu đến cuối vẫn đứng xa quan sát, không hiểu đã xảy ra chuyện gì, nhưng thấy Hậu Thổ đột nhiên hốt hoảng dốc toàn bộ linh lực dựng lên tấm khiên chắn trước ngực A Hành, nhìn sang thấy Chúc Dung dương dương tự đắc, hắn liền chột dạ, lập tức cởi trói cho nàng.

Cả bờ vai A Hành đỏ rực lên như lửa đốt, nàng ôm vai ngoảnh lại nhìn Xi Vưu cười thê thiết.

Trong mắt nàng chỉ còn giá lạnh thấu tim cùng tro tàn tuyệt vọng.

Xi Vưu tê tái cả cõi lòng vội bay vụt tới, bao thất vọng, phẫn nộ, bi thương vì bị nàng lừa gạt thảy đều quẳng sang một bên.

A Hành cưỡi A Tệ tả xung hữu đột toan phá vòng vây lửa của Chúc Dung còn Liệt Dương dùng Phượng Hoàng huyền hỏa tấn công hắn. Trong nháy mắt, địa hỏa của Chúc Dung giao tranh cùng Phượng Hoàng huyền hỏa của Liệt Dương xẹt ra tia lửa tứ tung, nhuộm đỏ rực cả đất trời.

Thật ra mục đích của Chúc Dung không phải là A Hành, hắn chỉ muốn đả thương A Hành khiến Xi Vưu chấn động tâm thần, thừa dịp bốn bề hỗn loạn vờ công kích A Hành, thu hút sự chú ý của Xi Vưu rồi âm thầm phóng U Minh hỏa đánh lén Xi Vưu mà thôi. Xi Vưu vốn là chướng ngại vật cản trở hắn tiến tới vương vị, chỉ cần giết được Xi Vưu, con đường trước mặt hắn sẽ thênh thang rộng mở, còn Hà Đồ Lạc Thư ngày sau từ từ nghĩ cách đoạt về cũng chẳng sao.

Nghĩ sao làm vậy U Minh hỏa của Chúc Dung ẩn sau ánh lửa đỏ rực trời âm thầm bay về phía Xi Vưu đang dốc toàn lực xông tới.

U Minh hỏa bay rất chậm, nhưng Xi Vưu lại xông tới nhanh như chớp. Mắt thấy Xi Vưu chỉ còn cách U Minh hỏa trong gang tấc, Chúc Dung kích động đến run lên bần bật, lần này tên Xi Vưu giời đánh không chết cũng sắp phải chết đến nơi rồi.

Hậu Thổ đứng ngoài thấy hết sự tình, lòng thoáng do dự nhưng cuối cùng chỉ khoanh tay mặc kệ, chẳng buồn ngăn trở.

Tuy cõi lòng đã chết lịm nhưng thần trí A Hành lại vô cùng tỉnh táo, nàng trông rõ từng đốm lửa U Minh hòa ẩn sau vô số đốm lửa lách tách của địa hỏa, âm thầm bay về phía Xi Vưu.

Chẳng kịp nghĩ ngợi, nàng tung người lao tới chắn trước mặt Xi Vưu, tất cả U Minh hỏa đều bay vào lục phủ ngũ tạng nàng.

Hậu Thổ xưa nay rất giỏi kiềm chế cũng phải thét lên thảm thiết, U Minh hỏa chẳng những thiêu trụi thân xác mà còn tiêu diệt cả linh thức, trúng phải một đốm lửa đã vô cùng nguy hiểm, huống hồ là bấy nhiêu U Minh hỏa? Chỉ một phút ích kỷ của gã lại sắp hại chết Bạt tỷ tỷ mà gã mang nặng ân tình.

Thấy Hậu Thổ gào thảm, Xi Vưu vẫn chưa hiểu mô tê gì, mãi tới khi thấy từng đốm lửa hồng thấu qua sau lưng A Hành, hắn mới sững sờ nhận ra mọi chuyện.

Chúc Dung một đòn không trúng, biết rõ chẳng còn cơ hội đánh lén lần hai, vội cao giọng gọi Cộng Công rồi lập tức cưỡi tọa kỵ truy đuổi Thanh Dương.

Xi Vưu không còn lòng dạ nào để ý tới Chúc Dung nữa, chỉ lo dốc sức cùng Hậu Thổ kẻ trước người sau đuổi theo A Hành. Xi Vưu gọi lớn: “A Hành, mau dừng lại đi.”

Hậu Thổ cũng luôn miệng gọi tên nàng: “Bạt tỷ tỷ, Bạt tỷ tỷ, tỷ dừng lại đã, để đệ dùng linh lực giúp tỷ ngăn chặn U Minh hỏa, sau đó chúng ta sẽ về Quy khư ở Cao Tân ngay.”

A Hành bị U Minh hỏa thiêu đốt đến choáng váng đầu óc, trí não cũng như cõi lòng đều đầy ứ bi thương, có nghe cũng chẳng hiểu được gì, chỉ biết thúc A Tệ dốc hết sức bay thật mau, đời này kiếp này, nàng vĩnh viễn không muốn gặp lại Xi Vưu nữa.

Xi Vưu dấy cuồng phong toan bắt nàng lại.

A Hành dốc toàn bộ linh lực, dùng Trụ Nhan hoa dựng lên một bức bình phong bằng hoa đào, chặn đứng cuống phong của Xi Vưu. Không còn linh lực áp chế, U Minh hỏa từ vai và ngực nàng tức tốc lan ra khắp người, cả thân mình A Hành đều tỏa rực hồng quang.

Xi Vưu kinh hoảng ra mặt, chẳng dám bắt A Hành lại nữa, đành xuống giọng van vỉ nàng: “A Hành, đừng vận linh lực nữa, ta van nàng đừng vận linh lực nữa mà!”

Hắn cùng Hậu Thổ không dám tiến sát lại gần, đành lủi thủi theo sau A Hành. A Hành thấy lục phủ ngũ tạng mình như sôi lên ùng ục, cơn đau xé lòng nát ruột bùng lên thiêu đốt nội tạng khiến nàng lảo đảo suýt ngã khỏi lưng A Tệ.

Xi Vưu đưa mắt ra hiệu cho Hậu Thổ rồi cất tiếng: “A Hành, nàng muốn gạt ta thì cứ việc gạt, ta không giận nàng, cũng không để bụng đâu, dù nàng chỉ có tình cảm giả tạo, ta vẫn cam lòng!”

Không nhắc tới còn đỡ, hắn vừa dứt lời, bi thương và căm uất đồng loạt dâng lên nghẹn ứ lồng ngực A Hành, nàng rút Trụ Nhan hoa ném trả Xi Vưu, lạnh lùng nói: “Từ khi gặp gỡ tới nay, ngươi hết theo lại đuổi, luôn miệng thề thốt chỉ cần trong mắt ta có ngươi, ngươi cam lòng máu nhuộm thẫm áo, chỉ cần trong lòng ta có ngươi, ngươi cam lòng tưới máu đẫm đồng hoang. Trong mắt ta có ngươi, trong lòng ta có ngươi rồi đó, nhưng trong mắt ngươi, trong lòng ngươi đã bao giờ thật sự có ta chưa? Ta nói ngươi hay, kể từ bây giờ hai ta đoạn tuyệt ân tình, ta sẽ quên tất cả mọi chuyện về ngươi, nếu trong mắt ta còn bóng hình ngươi, ta sẽ móc mắt mình ra, nếu trong lòng ta còn nghĩ tới ngươi, ta sẽ bóp nát trái tim mình!”

Nhân lúc A Hành nói chuyện, lơ là phòng vệ, Hậu Thổ lập tức ra tay.

A Hành đột nhiên phát hiện mình không sao cử động được, cả người đều bị đất sét bọc kín, chẳng khác nào một pho tượng. A Tệ cũng bị thổ linh trói chặt, lơ lửng giữa không trung, bất động.

Xi Vưu sai Tiêu Dao bay xuống đỡ lấy nàng, bất chợt, hắn bàng hoàng nhận ra bọn họ kẻ đuổi người chạy, bất giác đã bay thẳng tới Ngu uyên tự lúc nào. Bên dưới A Hành không phải hư không mà là Ngu uyên, nơi ẩn chứa nguồn sức mạnh có khả năng nuốt trọn mọi thứ, dù là giống đại bàng do cá côn hóa thành cũng chẳng dám lớn mật xông vào.

U Minh hỏa thiêu đốt tâm can khiến A Hành đang bị bọc kín trong đất sét cũng run bắn người lên vì đau đớn.

Xi Vưu lòng như lửa đốt, liền thúc Tiêu Dao gắng hết sức tiếp cận Ngu uyên, toan tung dây leo kéo nàng lại.

Đôi bên cách nhau một màn khói đen giăng kín bầu trời Ngu uyên, trong khoảnh khắc hai ánh mắt giao nhau, nhìn thấu vẻ quyết tuyệt nơi đáy mắt nàng, Xi Vưu bỗng lạnh toát cả người.

Ba ngày trước, khi mượn khúc sơn ca đáp lại lời mời gọi của hắn, nhận lấy Trụ Nhan hoa hắn tặng, là nàng toàn tâm toàn ý, hôm nay bi thương phẫn hận ném Trụ Nhan hoa trả cho hắn, cũng là nàng kiên quyết khăng khăng.

U Minh hỏa thiêu đốt lục phủ ngũ tạng A Hành, đau thấu tim gan, đó là cái giá đau đớn nhất mà nàng phải trả vì nông nổi cả tin, tùy tiện hẹn ước, nhưng đổi lại bao ôn nhu đằm thắm bấy nhiêu năm cùng niềm hoan lạc đến rã rời thể xác – nàng không hối hận!

Trên Tiểu Nguyệt đỉnh cùng thề ước, năm năm hẹn nhau dưới cội hoa đào, không gặp không về, suốt đời suốt kiếp, nàng đã quyết dù ngày sau xảy ra chuyện gì, nàng cũng không hối hận.

Nàng không hề hối hận vì đã yêu Xi Vưu, nhưng nàng quyết định từ nay trở đi sẽ lãng quên triệt để.

“A Hành, ta nhất định phải cứu được nàng.” Dây leo của Xi Vưu đã vươn tới gần nàng.

Nàng đăm đăm nhìn hắn một lần sau cuối rồi kiên quyết nhắm mắt lại, gắng sức chao người đi, cả thân hình rớt khỏi lưng A Tệ rơi thẳng xuống dưới, dây leo của Xi Vưu chụp hụt.

“A… Hành…”

Xi Vưu thét lên xé lòng, bất chấp mọi thứ nhào khỏi lưng Tiêu Dao, toan kéo nàng lại.

Hai người một trước một sau vùn vụt rơi xuống như sao băng.

Sau cùng hắn tung dây mây bắt được A Hành, nhưng làn khói đen dày đặc phía trên Ngu uyên đã quấn lấy đầu A Hành kéo nàng xuống.

Xi Vưu vận hết linh lực cố giữ lấy A Hành, dây mây đứt một sợi, hắn lại dốc sức tái sinh một sợi, nhưng linh lực của hắn không sao đấu nổi với Ngu uyên, ngay bản thân mình cũng bị kéo ghì xuống. Tiêu Dao xòe vuốt quắp chặt Xi Vưu, thân hình bỗng lớn bổng, nó ra sức đập cánh gắng gượng bay lên, cuốn theo bão lốc vần vũ cả bầu trời.

Chỉ một lần vỗ cánh Tiêu Dao có thể bay xa mấy ngàn dặm, nhưng lúc này đây, nó ráng hết sức cũng không quắp nổi Xi Vưu lên, thân thể A Hành bị chìm lút đến eo, còn Xi Vưu cũng càng lúc càng bị kéo rịt xuống Ngu uyên, lôi cả Tiêu Dao xuống theo.

Tiêu Dao nửa muốn vùng bay lên theo bản năng sinh tồn, nửa lại không nỡ bỏ Xi Vưu, kẻ vừa là cha cũng vừa là bạn nó, chỉ biết ngẩng cổ nhìn trời cất tiếng kêu thê thiết, bất lực chờ tử vong nhấn chìm từng chút từng chút một.

Liệt Dương liều mạng xông qua cơn lốc mà Tiêu Dao đập cánh cuốn lên, ngậm lấy túm lông trên đỉnh đầu Tiêu Dao ráng sức kéo nó lên, ráng tới nỗi mỏ Liệt Dương cùng đỉnh đầu Tiêu Dao đều ứa máu.

A Tệ bị trói đứng trên không cũng muốn lao đến giúp nhưng nó kêu không kêu được, cựa không cựa nổi, chỉ biết khóc ròng mà trông, thân thể A Hành càng chìm lút xuống Ngu uyên, nước mắt A Tệ càng lã chã.

Hậu Thổ vẫn đương dốc hết linh lực giúp A Hành phong tỏa U Minh hỏa, nhưng khi nàng lút xuống Ngu uyên đến tận eo, gã kinh hãi nhận ra mình không thể cảm nhận được hơi thở của nàng nữa, bên trong lớp đất sét chẳng còn mảy may sinh khí, A Hành đã bị U Minh hỏa thiêu chết.

Bạt tỷ tỷ từng bảo vệ động viên gã trong lúc gã bơ vơ nhất đã chết rồi! Người khiến gã có thể trở thành Hậu Thổ ngày nay đã chết! Người con gái mà gã đã bao lần âm thầm thề rằng, đợi khi nào trở thành đại anh hùng, gã nhất định sẽ báo đáp giờ đây không còn nữa!

Hậu Thổ hồn bay phách lạc, đờ cả người ra.

Mãi tới khi làn khói đen sắp cuốn lấy Xi Vưu, Hậu Thổ mới sực tỉnh, vội thu lại thổ linh trên người A Hành, thét gọi Xi Vưu: “Bạt tỷ tỷ chết rồi! Ngươi buông tay đi!”

Xi Vưu run bắn cả người, chẳng những không buông tay mà còn cắn lưỡi, dùng máu trong tim tưới đẫm dám dây leo, ra sức kéo A Hành lên. Chỉ tiếc linh lực của hắn không sao bì nổi sức mạnh của cả Ngu uyên, hắn càng dùng sức thì bản thân càng bị hút vào.

Hậu Thổ hét lên thảm thiết: “Tỷ ấy chết rồi, chết thật rồi, ngươi kéo cũng chẳng ăn thua gì đâu!”

“Xi Vưu, ngươi điên rồi à? Ngươi chỉ đang kéo một cái xác thôi, biết không hả?”

“Xi Vưu, Bạt tỷ tỷ đã cứu mạng ngươi, ngươi không được phép bỏ mạng ở đây!”

Xi Vưu vẫn một mực yên lặng, như câm như điếc, chỉ ra sức giữ chặt lấy A Hành, cặp mắt trân trân nhìn nàng không chớp, ánh mắt điên cuồng tuyệt vọng mà trĩu nặng bi thương.

Bất luận Hậu Thổ réo gọi, khuyên ngăn ra sao, Xi Vưu vẫn khăng khăng không thừa nhận A Hành đã chết, cố chấp giữ chặt lấy nàng chẳng chịu buông tay, sau cùng Hậu Thổ cũng hiểu ra Xi Vưu nhất quyết không thể để A Hành tuột khỏi tay mình chìm vào vực tối vĩnh hằng kia được.

Lần đầu tiên gã phải thay đổi quan điểm về kẻ vẫn bị bọn gã khinh miệt, coi như cầm thú.

Thấy Xi Vưu cũng sắp chìm xuống Ngu uyên, Hậu Thổ bèn ngưng tụ linh lực toàn thân, vung ra một cây cột đất đập vào gáy hắn.

Xi Vưu vừa ngất đi, dây mây cũng nhất tề đứt lìa, không còn bị dây mây ràng giữ, Tiêu Dao liền quắp Xi Vưu bay vụt lên. Liệt Dương nhễu máu đầy mỏ, toan kêu lên mừng rỡ, chợt phát hiện chỉ có mình Xi Vưu được kéo lên, còn A Hành đã chìm xuống Ngu uyên thăm thẳm chẳng thấy tung tích, bèn rít lên một tiếng bi thương xông thẳng xuống dưới, trong nháy mắt, đốm trắng nhỏ nhoi đã bị vực sâu tăm tối nuốt trọn, Hậu Thổ không kịp ngăn cản.

Gã định cởi trói cho A Tệ thì trông thấy Liệt Dương như vậy, lập tức bỏ ngay ý định, chỉ từ từ thu hồi linh lực, kéo A Tệ lại gần mình.

A Tệ trừng trừng nhìn xuống Ngu uyên, tiếng kêu nghẹn ứ trong cổ họng mà không cất ra tiếng nổi, A Hành của nó, Liệt Dương của nó… Nó cũng muốn xông vào đó nhưng không sao động đậy được, chỉ có thể tuyệt vọng trào nước mắt, khóc mãi khóc mãi, nước mắt cũng cạn khô, chỉ còn huyết lệ lã chã nhuộm đỏ cả lớp đất đang ghì chặt nó trên không.

Hậu Thổ đứng giữa không trung lặng lẽ nhìn về phía Ngu uyên cuồn cuộn khói đen, nét mặt bình thản nhưng chuyện cũ cứ quặn lên trong lòng, không sao dứt áo mà đi được.

Thuở ấy gã còn là một đứa nhỏ yếu đuối nhút nhát, vì mẹ đẻ xuất thân Yêu tộc hèn mọn nên luôn bị bọn trẻ khinh miệt giày xéo, bản thân gã lại quá đỗi tự ti nhu nhược, chẳng dám phản kháng, chỉ biết chui vào xó âm thầm rơi nước mắt. Xưa nay không ai buồn ngó ngàng đến gã, ngay cả sư phụ cũng ghét gã tay chân lóng ngóng, hở ra là mắng mỏ, chỉ mình vị tỷ tỷ áo xanh dịu dàng tươi cười lau nước mắt cho gã, bảo vệ gã, còn răn dạy gã: “Ai đánh đệ thì đệ cứ đánh lại, đệ là nam tử hán kia mà”, lại giận giữ mắng gã: “Yêu tộc thì sao hả? Ta từng gặp vô số anh hùng xuất thân Yêu tộc, đệ nhát gan vô dụng là tại bản thân đệ, đừng đổ trách nhiệm lên đầu mẹ mình.”

Gã còn chưa kịp kể với nàng, suốt bao đêm lạnh lẽo cô đơn, cả người đau như dần, gã chỉ biết nhẩm đi nhẩm lại lời nàng, không ngừng tự hứa với lòng nhất định phải trở thành đại anh hùng được người người tôn kính, có vậy hôm sau gã mới có thể tiếp tục hiên ngang bước vào học đường nhan nhản những ánh mắt miệt thị.

Mãi một lúc lâu, từng giọt lệ bắt đầu chầm chậm lăn ra từ hai hốc mắt Hậu Thổ, theo dòng nước mắt chảy dài, gã mỗi lúc một nghẹn ngào nức nở, rồi òa lên thảm thiết, bao đau thương kìm nén đều trút cả vào tiếng khóc, gã cứ thế cưỡi trên lưng Hỏa xà[2] mà khóc, hệt như đứa nhỏ bấy nhiêu năm về trước.

[2] Hỏa xà: loài rắn được ghi lại trong Sơn Hải kinh, biết bay lượn và chiêu hô hồng thủy, “mặt người mình sói, có cánh bay, trườn bò như rắn, tiếng kêu the thé, có thể chiêu hô hồng thủy.”

Chỉ có điều chẳng còn vị tỷ tỷ áo xanh chạy lại ôm gã vào lòng, dịu dàng lau nước mắt cho gã nữa.

Vì e sợ nguồn sức mạnh khủng khiếp của Ngu uyên, không một sinh vật nào dám bén mảng tới đây, cả bầu không đều tĩnh mịch như chết, chỉ có tiếng Hậu Thổ khóc than thấu tận trời cao.

Tiêu Dao từ trên cao trông xuống Hậu Thổ và A Tệ, móng vuốt vẫn quắp lấy Xi Vưu đang hôn mê.

Côn bằng ngạo nghễ tung bay giữa dọc ngang trời đất lần đầu tiên hiểu được thế nào là nỗi đau mất mát, nó cũng lờ mờ nhận ra rằng có những trói buộc là cam tâm tình nguyện, đồng thời có những nỗi đau khổ lại đượm đầy hạnh phúc. Giống như nó có thể tung cánh vượt chín tầng trời, xòe đuôi dạo khắp bốn bể, nhưng không sao dứt khỏi một tiếng gọi của Xi Vưu vậy.

Có điều bây giờ Xi Vưu đã chính tay bức tử A Hành, hủy diệt mối ràng buộc mà hắn cam tâm tình nguyện cùng niềm đau khổ đượm đầy hạnh phúc của bản thân.

Một khi tỉnh lại, hắn sẽ ra sao đây?

Chân trời đằng Đông dần sáng lên, làn khói đen trên Ngu uyên cũng nhạt dần, một ngày mới lại bắt đầu, chỉ tiếc là tất cả đã chẳng còn như xưa nữa.

Hết chương 17.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách