Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: SupiaSup
Thu gọn cột thông tin

[Huyền Huyễn - Xuất Bản] Từng Thề Ước | Đồng Hoa (Chương 19)

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 2-12-2013 11:46:57 | Xem tất
Chương 8


Cây cao mây quấn mãi chẳng rời.


8.2


Trước sự thết đãi nhiệt tình của ông lão và Mễ Đóa, A Hành đã được ăn một bữa tối cực kỳ thịnh soạn.

Trong lúc chuyện trò, A Hành biết được Mễ Đóa tuổi đã lớn, đáng lẽ phải lấy chồng từ lâu nhưng con dâu của ông lão ốm nặng, nằm liệt giường, quanh năm mọi chuyện lớn nhỏ ở nhà đều trông vào Mễ Đóa, bởi thế mà cô lần lữa chưa chịu gả đi.

Phòng của Mễ Đóa là gian phòng đẹp nhất trong nhà, cô nhường lại cho A Hành.

Người Cửu Lê luôn dành cho khách những gì tốt đẹp nhất, đây là đạo đãi khách của họ, cảm nhận được điều đó, A Hành chẳng còn cách nào khác hơn là tiếp nhận.

Rửa mặt xong xuôi, nàng bèn ra ngồi trước bàn trúc hong tóc. Vành trăng non nhạt nhòa treo giữa nền trời đen thẫm, gió đêm từ trên núi đưa xuống mang theo hương thơm cây cỏ, khe suối gần đó róc rách chảy như đang ngân nga một khúc nhạc đồng quê.

Một người đàn ông từ dưới núi đi lên, ngồi xuống tảng đá lớn bên bờ suối thổi sáo.

Bỗng cửa nhà cót két hé ra, Mễ Đóa nhanh như sóc chạy về phía con suối, thoáng chốc, A Hành trông thấy hai bóng người ôm chầm lấy nhau.

Loáng thoáng nghe thấy tiếng chuyện trò.

“Khách ăn cá ta bắt có thích không?”

“Thích lắm, luôn miệng khen ngon.”

“Đó là tại muội nấu ăn ngon.”

Hai người cứ thế dìu nhau mà lên núi.

A Hành chợt nhoẻn cười, đưa mắt trông về phía núi xa, thầm nghĩ, chàng như cây lớn, thiếp tựa dây mây, cây lớn che chở cho dây mây, dây mây quấn quýt quanh cây lớn, gió táp mưa sa vẫn chẳng rời, mãi mãi bên nhau hoài khăng khít.

Phòng bên chợt vang lên tiếng ho sù sụ, cùng tiếng uống nước ừng ực.

Ông lão đã tỉnh rồi, liệu lão có biết cháu gái mình lén lút hẹn hò với bạn tình không nhỉ?

A Hành thấy hơi thắc mắc, nhưng cũng chẳng lấy thế làm lo lắng. Nam hoan nữ ái vốn là chuyện tự nhiên trong trời đất, chỉ là ở vùng này, nó vẫn giữ nguyên những nét ban sơ thuần phác mà thôi.

Chẳng hiểu sao hình bóng Xi Vưu lại hiện ra trước mắt nàng, hắn đã lớn lên giữa một vùng non nước thế này ư? Liệu hắn có biết đánh cá không? Hắn cũng biết hát những khúc sơn ca lanh lảnh mà tình tứ như vậy sao? Hắn đã từng hát cho ai nghe chưa nhỉ…

Đêm đó A Hành gối đầu lên những gió mát trăng trong giữa núi rừng, chìm vào giấc mộng thơm ngây ngất.

Sáng hôm sau, tiếng gà trống gáy le te đánh thức nàng dậy.

Bình minh ở đây chẳng hề đượm vẻ tịch mịch chết chóc như trên Ngọc sơn, cũng không có loan kêu phượng hót líu lo êm tai như tại Triêu Vân phong.

Sáng sớm ra mọi người gặp nhau đều niềm nở hỏi chào, tiếng mấy cô thiếu nữ lao xao hẹn nhau đi hái dâu, tiếng đám đàn ông lấy công cụ loảng xoảng, tiếng các bà mẹ cao giọng mắng con, tiếng đám trẻ khóc lóc ầm ĩ hòa cùng tiếng bò rống ò ò, dê kêu be be và gà mái cục ta cục tác…

Rất ồn ào! Nhưng…

A Hành mỉm cười, nhưng cũng đầy sức sống!

Nàng còn gặp cả mẹ của Mễ Đóa, bà đau ốm quanh năm, bị bệnh tật giày vò đến nỗi chỉ còn da bọc xương, chẳng nói nổi một câu hoàn chỉnh.

A Hành cũng biết người yêu của Mễ Đóa tên là Kim Đan, hai hôm nay không ở trong bản, theo lời Mễ Đóa thì y sang bản khác tìm vợ. Nghe vậy A Hành kinh ngạc, “Chẳng phải hai người là… Cô không giận sao?”

Mễ Đóa cười khổ lắc đầu, “Mẹ tôi nằm liệt giường, em trai còn nhỏ dại, giờ đây tôi là người phụ nữ duy nhất trong gia đình, cả nhà không thể không có tôi được, y đã đợi tôi bốn năm rồi, chẳng thể đợi thêm nữa đâu.”

“Vậy hai người phải chia tay sao?”

“Ừm, sau này y phải đối tốt với người con gái khác thôi.” Mễ Đóa lộ vẻ buồn rầu nhưng vẫn gượng cười đáp.

“Cô biết hai người phải chia tay mà đêm đến vẫn… vẫn lén lút hẹn gặp y ư?” A Hành thắc mắc.

Mễ Đóa vô cùng kinh ngạc, cô ta cũng không sao hiểu nổi A Hành, “Chính vì chúng tôi phải chia tay nên mới nắm lấy mọi cơ hội được ở bên nhau, gắng hết sức mà gặp gỡ.”

A Hành không nói rõ được quan điểm của Mễ Đóa đúng ở chỗ nào, nhưng cũng không biết là sai ở đâu cả. Có lẽ, tại vùng rừng núi cách xa thế tục này thì quan điểm đó đúng, còn ở chốn phồn hoa đầy những phép tắc lễ nghi thì quan điểm đó lại sai.

Nàng không muốn Kim Đan rời xa Mễ Đóa nhưng cách duy nhất để Mễ Đóa có thể lấy Kim Đan là trong nhà phải có thêm một người phụ nữ cáng đáng gia đình.

Nàng đề nghị Mễ Đóa tìm Vu sư đến xem bệnh cho bà mẹ nhưng Mễ Đóa nói năm ngoái Kim Đan cùng mấy gã trai trong bản đã khiêng mẹ mình tới bản Xi Vưu, tiếc rằng Đại vu sư nói bệnh này sức người chẳng thể chữa nổi, đành phó mặc cho ý trời.

Nàng biết trên đời này có những căn bệnh không cách nào trị nổi, ngay cả Viêm Đế y thuật đứng đầu thiên hạ cũng đâu cứu được con gái Dao Cơ của mình.

Lòng đầy bực bội, nàng bèn chạy thẳng tới đỉnh núi vắng vẻ thăm A Tệ cùng Liệt Dương, trông thấy hai bọn chúng đang vờn nghịch chiếc tay nải lộn xộn cả lên, hại nàng phải sắp xếp lại. Đột nhiên giữa đống đồ đạc linh tinh, A Hành nhìn thấy một túi đào khô.

Đây là đào tiên mà nàng hái trên Ngọc sơn, đem phơi khô để A Tệ và Liệt Dương ăn vặt, nhưng chúng ăn suốt mấy chục năm đã chán ngấy, chẳng buồn đụng đến nữa.

A Hành liền cầm một miếng lên, tiện tay bỏ vào miệng nhai rồi nhảy dựng lên chạy xuống núi.

Nàng định dùng đào tiên để cứu mẹ Mễ Đóa nhưng đã có tiền lệ của A Tệ, nàng không dám trực tiếp cho bà ta ăn mà ngâm một miếng vào nước rồi cho bà uống thứ nước đó.

Ngày đầu tiên, A Hành vừa chữa vừa nơm nớp lo sợ, may sao mẹ Mễ Đóa chẳng xảy ra chuyện gì, đến ngày thứ hai, bà bắt đầu thấy đói muốn ăn cơm khiến Mễ Đóa kinh ngạc, nửa mừng nửa tủi bởi đã bốn năm nay, mẹ cô chưa hề chủ động đòi ăn cơm bao giờ.

Thấy có vẻ hiệu quả, A Hành lại tiếp tục ngâm đào khô với nước.

Sau ba ngày uống nước đào khô, mẹ Mễ Đóa dần ăn uống được, tuy vẫn chưa thể ngồi dậy nhưng rõ ràng bệnh tình đã có chuyển biến tốt, chỉ cần từ từ điều dưỡng, sớm muộn sẽ xuống đất đi lại được.

Trở về bản, nghe nói bệnh tình mẹ Mễ Đóa đã đỡ, Kim Đan liền khiêng ngay con dê béo nhất trong nhà hăm hở sải bước tới nhà Mễ Đóa, ngắc ngứ nói không nên lời, chỉ biết ấn con dê béo múp vào lòng A Hành.

A Hành hoảng hốt vội nhảy tót lên bàn gọi Mễ Đóa kêu cứu, nàng vừa trợn mắt vừa nhìn con dê vừa hú vía nhủ thầm: may mà không phải một con trâu.

Mễ Đóa từ trong phòng mẹ mình chạy ra, trông thấy Kim Đan, cô sững người rồi bưng mặt ngồi thụp xuống đất khóc òa lên, ông nội cô ngồi bên bếp lửa cũng phải quay đi, lấy tay che mặt lén lau nước mắt.

A Hành thấy vậy liền tụt xuống bàn, vỗ vỗ lưng Mễ Đóa an ủi, “Đừng khóc, đừng khóc mà, sao lúc Kim Đan ca ca của cô đi cô không khóc mà giờ y quay về lại khóc lóc thế này?”

Tin A Hành trị khỏi bệnh cho mẹ Mễ Đóa đã lan khắp bản, người bệnh trong bản bắt đầu lũ lượt kéo tới nhờ xem bệnh khiến nàng kinh hồn bạt vía, nhưng đã lỡ ăn cơm và uống Ca tửu khắp các nhà trong bản nên chẳng thể từ chối được, đành sao y bản chính, tiếp tục dùng nước ngâm đào khô mà chữa bệnh thôi. Vừa ngâm đào vào nước, nàng vừa thầm khấn Vương Mẫu, chỉ mong rằng mấy trái đào ngàn năm nở hoa, ngàn năm nữa mới ra quả này của bà thật sự lợi hại như người đại hoang vẫn đồn đại.

Trong lúc A Hành nơm nớp lo sợ, những người dùng nước của nàng dẫu bệnh chẳng lui thì cũng đỡ hẳn đau đớn, ít nhất có thể bình tĩnh thản nhiên mà chờ chết.

Mọi người mừng rỡ bèn mượn lời ca tiếng hát để tỏ lòng cảm kích đối với nàng, theo tiếng ca lanh lảnh, tiếng thơm về y thuật của A Hành cũng từ từ lan ra khắp trăm thôn bản lớn nhỏ của Cửu Lê tộc. Người mang bệnh nặng đều ấp ủ một tia hy vọng, tới cầu khẩn A Hành. Bọn họ trèo đèo lội suối, băng rừng vượt sông mà tới, dắt theo những con trâu đầu cơ nghiệp, những con gà mái mắn đẻ nhất trong nhà, thành khẩn quỳ xuống trước A Hành, gương mặt sạm đen vì sương gió đầy vẻ mong mỏi và van xin.

A Hành không sao cự tuyệt nổi, đành phải nhận lấy. Thực lòng nàng vẫn luôn muốn ra đi, nhưng chẳng rõ vì sao, hễ tới lúc định đi nàng lại lần lữa, nhủ lòng nấn ná thêm một ngày. Nàng cũng không rõ rốt cuộc thứ gì đã níu chân mình lại nữa, có lẽ là cảnh nước non hùng vĩ mỹ lệ của Cửu Lê, có lẽ là những gương mặt chất phác nhiệt tình của người dân bản Đức Ngõa, có lẽ là khúc ca phóng khoáng mà nồng nàn hay vò Ca tửu đậm đà sóng sánh, có lẽ là những quả dại ngọt lành mà các cô gái âm thầm để lại trước cửa nhà, có lẽ là những bàn tay trẻ nít nhỏ bé đen sạm nắm lấy chéo áo nàng, cũng có lẽ chỉ là tiếng hò trâu kéo cày ngoài ruộng cũng nên.

Bởi vô vàn lý do không sao nói rõ ấy, nàng cứ thế ở lại nơi này hết ngày này sang ngày khác.

Sáng sớm ra, A Hành vừa mở mắt đã bắt đầu đấu tranh tư tưởng, không biết hôm nay có nên đi hay không?

Nàng cứ một lát nghĩ lý do nên đi lại một lát nghĩ lý do nên ở, cuối cùng quên hết sạch mọi lý do, chỉ băn khoăn không biết bệnh tình Xi Vưu rốt cuộc ra sao, chẳng hiểu Vu vương đã giải được độc cho hắn hay chưa nữa? Liệu có phải hắn đã quay về Thần Nông sơn rồi không nhỉ?

Trằn trọc mãi, đột nhiên nàng cảm thấy buổi sáng hôm nay rất lạ, chẳng nghe thấy tiếng đàn ông gọi nhau đi làm, cũng không nghe thấy tiếng phụ nữ mắng con, tiếng trẻ nhỏ khóc lóc… cả bản đều im phăng phắc như tờ.

Nàng vội vã chạy xuống thang, liền trông thấy Vu vương đang quỳ trước cửa nhà, dập đầu sát đất, lưng cong tựa cánh cung, hệt như một bức tượng người thành tâm cầu khẩn.

Cả bản lặng phắc, mọi người đều lấp ló đằng xa, hoang mang nghi hoặc nhìn lại bên này, không hiểu sao vị Vu vương vĩ đại của họ lại quỳ sụp trước mặt A Hành.

A Hành vội cúi xuống đỡ lão dậy, hoảng hốt hỏi: “Xi Vưu vẫn chưa giải được độc ư?”

Thấy Vu vương lắc đầu, nàng nói ngay: “Chúng ta tới bản Xi Vưu đi.” Đại vu sư dắt A Hành lên đài tế, trông thấy Xi Vưu đang nằm giữa đài, nàng bèn quỳ xuống xem xét vết thương của hắn.

Vu vương nói: “Tuy vết kiếm thương lợi hại thật, nhưng được linh khí núi sông Cửu Lê bảo hộ, vết thương của Xi Vưu đại nhân có thể từ từ lành lại.”

A Hành vội hỏi: “Vậy vấn đề trí mạng là chất độc kia ư?”

Vu vương gật đầu, “Tộc Cửu Lê rất giỏi sai sử độc vật, nổi tiếng khắp đại hoang về dùng độc, nhưng chúng ta thiên về trùng độc, còn đây lại là độc dược, lão nghĩ nát óc cũng không giải nổi.”

“Lão biết Xi Vưu bị Đại ca ta đả thương mà còn dám xin ta cứu hắn ư? Lão không sợ độc này là do chúng ta hạ à?” “Lão sống trên đời đã chín mươi hai năm, chuyện khác có lẽ chẳng biết được bao nhiêu, nhưng lòng người thì đã thấy nhiều rồi,” Vu vương vuốt đoạn kiếm gãy trong tay, trầm giọng nói: “Kiếm là do thợ rèn dốc hết tâm huyết tạo nên, nếu lòng kẻ rèn kiếm không coi trời đất vào đâu thì chẳng thể rèn nổi thanh kiếm có khí thế nuốt trời diệt đất, kẻ rèn ra được thanh kiếm thế này nhất định sẽ không trao nó cho người tùy tiện dùng độc, xem thường kiếm hồn đâu.”

A Hành ngước mắt nhìn Vu vương, im lặng.

Vu vương lại nói tiếp: “Kẻ hạ độc này vô cùng tàn nhẫn, chất độc đã tiềm phục trong người Xi Vưu đại nhân từ lâu, ít ra cũng phải mấy chục năm rồi, hàng ngày chẳng có gì khác lạ, chỉ tới khi ngài bị thương nặng, phải vận linh lực trị thương thì mới phát tác. Độc tính sẽ theo linh lực vận hành mà lan đi khắp cơ thể, khiến đại nhân chẳng những không thể dùng linh lực trị thương mà còn chẳng thể vận linh lực bức độc nữa, chỉ đành bó tay chờ chết. Linh thể của Xi Vưu đại nhân đã không chống chọi nổi nữa rồi…” Sắc mặt Vu vương vô cùng buồn bã.

“Các Đại vu sư đề nghị lão tới Thần Nông sơn cầu cứu, nhưng lão đã khước từ.”

“Tại sao thế?”

“Nghe sư phụ nói Xi Vưu đại nhân lớn lên ở nơi hoang dã, nắm rõ mọi thứ độc trùng độc thảo, tuy lão được tôn làm Vu vương của Cửu Lê, lại nhờ giỏi dùng độc mà được người đại hoang gọi là Độc vương, ngay cao thủ Thần tộc cũng phải nhường nhịn ba phần, nhưng lão chẳng cách nào hạ độc dược đại nhân, vậy kẻ có bản lĩnh hạ độc làm hại Xi Vưu đại nhân chỉ có thể là cao thủ Thần tộc am hiểu dược tính mà thôi. Trên đời này, Thần Nông vương tộc thông thạo y thuật nhất, kẻ hạ độc này có lẽ cũng xuất thân từ đó, làm sao lão dám đi cầu cứu bọn họ đây? Nếu Xi Vưu đại nhân phải chết, lão mong rằng ngài có thể yên nghỉ ở dải non nước Cửu Lê này.”

Nghe lão nói vậy, A Hành càng thêm phần kính trọng lão nhân cơ trí trước mặt.

Nhưng giờ phải làm sao đây? Không thể cầu cứu Thần Nông, không thể cầu cứu Cao Tân, càng không thể cầu cứu Hiên Viên được. Nghĩ đi nghĩ lại, A Hành cảm thấy mình đã cùng đường, chẳng có ai để trông chờ cả.

Thấy A Hành lộ vẻ lo lắng, Vu vương có phần bứt rứt, “Tây Lăng cô nương đừng quá tự trách mình. Tộc Cửu Lê chúng ta sùng bái trời đất, xem trọng hiện tại trước mắt, chỉ theo đuổi lạc thú tức thời, chuyện sống chết giao cả cho trời đất quyết định. Dù phải chết như thế này, lão nghĩ Xi Vưu đại nhân cũng chẳng có gì ân hận đâu.”

A Hành sầm mặt: “Xi Vưu nhất định không muốn chết tức tưởi thế này, dù có chết hắn cũng phải khiến tất cả những kẻ căm hận mình khốn đốn mới cam.” Nói rồi A Hành thoáng lộ nụ cười.

Vu vương không kìm được cũng cười theo, “Yêu bằng cả sinh mệnh, lại dùng cái chết mà trả hận, đó mới chính là người Cửu Lê, kẻ khác thấy chúng ta man rợ hung ác, thực ra chỉ chúng ta mới hiểu rõ sự trân quý của mạng sống, chúng ta sợ chết nhưng không khiếp nhược trước cái chết, bởi thế lão có thể dốc hết sức chữa trị cho Xi Vưu đại nhân, nhưng cũng có thể bình thản nhìn ngài ra đi.”

A Hành nói: “Cảm ơn lão đã giảng giải, có điều Xi Vưu còn nợ ơn cứu mạng của ta hai lần, ta chưa đòi lại, hắn đừng mơ quỵt nợ dễ dàng như vậy!”

A Hành ngẩng đầu huýt dài một tiếng, theo tiếng huýt, Liệt Dương và A Tệ từ trời bay xuống, đậu trên đài tế. Nàng xoa đầu A Tệ dỗ dành, “Xi Vưu bị bệnh, ta muốn xin ít máu của mày được không?” A Tệ lớn lên ở Ngọc sơn, ăn đào tiên uống ngọc tủy nên cơ thể cũng ngưng tụ linh khí đất trời của Ngọc sơn.

A Tệ nghe nói liền cúi đầu dịu dàng cọ cọ vào người A Hành như an ủi. A Hành lại quay sang bảo Vu vương: “Làm phiền ngài rồi.”

Vu vương cầm bát ngọc cùng dao bạc vẫn dùng khi cúng tế bước tới bên A Tệ, A Tệ hiểu ý liền giơ chân trước lên để lão kề dao cắt một nhát, máu tươi trào ra, mùi hương lạ lùng cũng bốc lên sực nức.

A Hành quay lưng lại phía bọn họ, tự cắt cổ tay mình và Xi Vưu, đưa tay nắm lấy tay hắn để máu độc trong người Xi Vưu chảy sang cơ thể mình.

Thấy Vu vương bưng bát máu sóng sánh lại gần, A Hành liền bảo lão cho Xi Vưu uống, “Máu này không giải được độc nhưng cũng có thể trì hoãn độc tính khỏi lan ra, hàng ngày lão cắt một bát máu trên người A Tệ cho hắn uống, ta phải đi một thời gian, mấy ngày nữa sẽ cho Liệt Dương mang thuốc giải về.”

Dứt lời A Hành quay gót bỏ đi nhưng vừa đi được mấy bước, nàng bỗng thấy gấu váy bị thứ gì đó níu lại, không đi được, bèn ngoảnh lại nhìn, phát hiện Xi Vưu đang nắm chặt lấy gấu váy mình.

Vu vương nói: “Xi Vưu đại nhân không muốn để cô nương đi.”

A Hành đành dùng linh lực gỡ tay hắn ra rồi ghé tai nói nhỏ: “Ta không để ngươi chết đâu.” Nói rồi nàng rảo chân bước xuống đài tế.

Không có A Tệ để cưỡi, A Hành không đi nhanh được, lại thêm Liệt Dương cứ lởn vởn bay lòng vòng trên đầu nàng, chẳng hề có vẻ sốt ruột như hôm qua. A Hành dốc hết sức vận linh lực, vừa để đi lại cho nhanh, vừa để độc tính lan khắp toàn thân. Một người một chim đi suốt một ngày đường, xa khỏi Cửu Lê tộc.

Đến chập tối, khi mặt trời đã nhuốm sắc hoàng hôn lên khắp đất trời, sắc mặt A Hành bắt đầu tái dần, tim đập chậm lại, từ từ cảm thấy nghẹt thở. Nàng đành ngồi xuống dưới gốc cây nghỉ chân.

Liệt Dương đậu xuống trước mặt, lo lắng nhìn nàng rồi kêu lên quang quác khiến tất cả chim chóc trong rừng đều rớt cả xuống đất.

A Hành xé một mảnh tay áo buộc vào chân Liệt Dương, ra lệnh, “Tới Thần Nông sơn, tìm Vân Tang đi.” Nàng thở hổn hển, không sao nói tiếp được nữa, đành dựa vào thân cây, đưa tay chỉ lên trời.

Liệt Dương lại ngẩng đầu kêu quác quác, gọi tất cả chim chóc xung quanh run rẩy bay đến, con trước con sau tự động vây quanh A Hành. Nhanh như chớp, Liệt Dương dang cánh bay vút lên, thoáng chốc đã mất hút.

Nơi này đã nằm trong địa phận Thần Nông, với đà bay của Liệt Dương, ắt chẳng bao lâu sẽ đến nơi. Dẫu kẻ khác có trông thấy mảnh tay áo đó cũng chẳng hiểu là ý gì, càng không thể phát hiện tính mạng Xi Vưu chỉ còn trong sớm tối, nhưng Vân Tang đã theo mẹ nàng học nghệ mười năm, rất dễ nhận ra vải vóc do bà dệt thành, hễ nhìn qua là biết nàng đang cầu cứu, chắc hẳn sẽ đến ngay.

A Hành không gắng gượng nổi nữa, từ từ nhắm mắt lại.

Dưới bóng chiều tà, giữa nơi rừng vắng, bầy chim bị Liệt Dương uy hiếp từng con từng con lần lượt nằm xuống thành một tấm bình phong sặc sỡ đủ màu, bao bọc A Hành ở giữa.

A Hành lờ mờ thấy ánh vàng lấp lánh trước mắt mình, hình ảnh Xi Vưu hết lần này sang lần khác cứ hiện lên trong lòng, lại thêm cả những bức thư trao đi gửi lại suốt sáu mươi năm, thì ra, trí nhớ của nàng tốt đến mức chính nàng cũng kinh ngạc, bao nhiêu thư từ như thế mà vẫn nhớ rõ mồn một.

“Ngang qua Khâu Thương, hoa đào nở đỏ rực hai bên bờ, thấy cô gái giặt lụa bên suối, ta lại nhớ cô.”

A Hành chợt nhoẻn miệng cười, mùa hoa năm nay đã qua rồi, để sang năm đi, sang năm nàng muốn ngắm hoa đào ở nhân gian, ắt hẳn còn đẹp hơn hoa đào trên Ngọc sơn nhiều. Thật ra nàng vẫn luôn muốn hỏi Xi Vưu tại sao là “lại nhớ”, lẽ nào ngươi thường nhớ tới ta ư?

A Hành từ từ mất đi ý thức nhưng khóe miệng vẫn giữ nụ cười, trong lòng còn đọng lại cảnh tượng bình yên mà tươi đẹp sau cùng: dải nước biếc Khâu Thương uốn lượn như một chiếc đai bích ngọc, Xi Vưu vận tấm áo đỏ rực đứng trước mũi thuyền thả trôi theo dòng, khắp vài dặm ven bờ hoa đào nở rộ, ngào ngạt hương đưa, đẹp tươi rạng rỡ.

A Hành tha thiết mong Vân Tang đến nhưng nàng không biết rằng bấy giờ Vân Tang không ở Thần Nông.

Sau khi từ biệt Thiếu Hạo và A Hành tại hẻm núi hoang, Vân Tang liền cải trang đi thẳng tới Cao Tân.

Trước nay nàng chỉ trăn trở với những âu lo của mình mà chẳng hề để tâm tới cảm nhận của Nặc Nại, y là thần tử, cũng là bạn của Thiếu Hạo nhưng đêm hôm mưa gió lại ôm ấp thê tử Thiếu Hạo suốt đêm, Cao Tân lễ giáo nghiêm ngặt, Nặc Nại tính tình thanh cao, sau đêm đó, y đã bất lực, hoảng hốt, nhục nhã, hổ thẹn đến nhường nào?

Bất lực vì mình không kiềm chế nổi tình cảm, hoảng hốt sợ chuốc lấy đại họa cho gia tộc vì dám giành vợ của vương tử, nhục nhã vì sự đê hèn bỉ ổi của bản thân, hổ thẹn vì đã phản bội bạn bè. Có lẽ chỉ vùi đầu vào sa đọa suốt ngày, tự chà đạp bản thân, y mới có thể đối mặt với Thiếu Hạo, nhưng Thiếu Hạo lại chẳng hay chẳng biết, còn lo lắng quan tâm, khuyên nhủ y giữ mình trong sạch, hẳn mỗi sự quan tâm chân thành đó cũng chính là một lần lăng trì giày vò y, khiến y càng thêm căm ghét khinh bỉ bản thân mình.

Khi gặp gỡ trên Ngọc sơn, Vân Tang chỉ nhất thời xúc động mà thăm dò, nào ngờ có ngày sự vô tâm của nàng lại bị bè lũ Yến Long lợi dụng, đẩy Nặc Nại cùng cả gia tộc, thậm chí cả ngôi vị tương lai của Thiếu Hạo vào vòng nguy hiểm.

Vân Tang vô cùng căm hận bản thân, sống trong vương tộc, từ nhỏ tới lớn nàng chưa từng làm sai điều gì, vậy mà hôm đó giữa chốn núi cao sông sâu tình cờ gặp gỡ, nước như gương soi, lòng vừa xao xuyến, chợt giận chợt mừng khiến nàng quên bẵng thân phận của mình, ngỡ rằng có thể như một thiếu nữ bình thường, có rung động mãnh liệt, có thấp thỏm không yên, tự cho phép mình thăm dò, tiếp cận.

Một thân một mình đến Cao Tân thế này, nàng cũng không biết liệu mình có gặp được Nặc Nại đang bị giam trong thiên lao hay không, càng không biết nếu nói rõ thân phận với y, y sẽ đối xử với mình ra sao nữa, chắc hẳn, y không đời nào chịu tha thứ cho nàng.

Nhưng nàng nhất định phải gặp được y.

Giữa màn đêm thăm thẳm, muôn ngàn vì sao sáng như bảo thạch giăng khắp bầu trời, lấp lánh mỹ lệ khôn xiết, dù nơi đồng không mông quạnh hay chốn cung điện nguy nga, dù ở Thần Nông, Cao Tân hay nơi nào đi nữa cũng là một màn đêm như thế, một bầu trời sao như thế.

Đồng hoang tĩnh lặng, sao sáng đầy trời, A Hành thiêm thiếp ngủ giữa vòng vây bảo hộ của muôn chim, khóe môi còn ẩn hiện nụ cười, sinh mệnh của nàng cũng cứ thế vùn vụt trôi qua trong cơn mê ngủ.

Giữa phủ đệ nguy nga rường chạm cột khắc, Thiếu Hạo uể oải đặt văn thư trong tay xuống, bước tới bên song, cầm vò rượu lên thong thả uống, đột nhiên như sực nhớ điều gì, y bèn rút một mảnh khăn lụa trong ngực ra, bên trên là bí quyết nấu rượu mà A Hành chép lại cho mình. Y cúi đầu xem một lượt rồi ngẩng lên nhìn trời, thấy muôn sao lấp lánh tựa ngàn vạn ngọn đèn trong các gia đình ở nhân gian, chẳng rõ giờ này A Hành đang ngồi nghe chuyện dưới ngọn đèn nào, bất giác khóe môi Thiếu Hạo thấp thoáng nụ cười.

Kiếm vàng thương bạc, canh giữ nghiêm ngặt, bên ngoài thiên lao, Vân Tang đeo mặt nạ lên, cải trang thành một thiếu nữ dung mạo rất bình thường, mặt nạ này dùng tơ Nhân Diện dệt thành, mỏng như cánh ve, vì không dùng linh lực để thay đổi gương mặt nên dù đụng phải thần tiên linh lực cao hơn hẳn mình, nàng cũng không sợ bị lộ thân phận. Vân Tang ngẩng đầu nhìn trời vừa lúc một vì sao băng xẹt ngang qua, nàng lặng lẽ trông theo vệt sao khuất cuối chân trời, âm thầm cầu khấn.

Vân Tang định thần lại, tay trái xách một bình Triển Ti Ngọc Liên đựng đầy nước, tay phải cầm trường kiếm. Nàng đã bỏ viên thuốc mà Viêm Đế cho mình để chạy thoát phòng khi gặp nguy vào bình nước, từng làn khói xanh có công dụng mê hoặc tâm thần phơ phất bốc lên từ chiếc bình Ngọc Liên nơi tay trái, vấn vít quanh mình nàng, Vân Tang xách bình cầm kiếm bay vút vào thiên lao.

Núi cao sừng sững, gió mát hây hẩy, những chiếc chuông gió bằng xương thú treo quanh đài tế cũng ngân lên leng keng không dứt, dịu dàng như một khúc ca dao ru người vào giấc ngủ.

Xi Vưu nằm giữa đài tế say ngủ, còn Vu vương và A Tệ ngồi canh bên dưới.

Vu vương tựa lưng vào tường ngủ gà ngủ gật, A Tệ dường như cũng đang ngủ, có điều đôi tai hồ ly nhòn nhọn vẫn dỏng lên nghe ngóng, đầy cảnh giác. Rất lâu rất lâu sau, Xi Vưu bỗng từ từ mở mắt, chăm chú nhìn bầu trời sao trên đầu rồi chầm chậm đưa tay lên, nhìn vết dao cắt nơi tay, hắn dần dần hiểu ra ngọn nguồn mọi chuyện, bèn hít vào một hơi, trở mình ngồi dậy. Ngay lập tức, A Tệ cũng đứng lên.

“A Tệ, chúng ta đi Thần Nông sơn.” Xi Vưu cưỡi lên lưng A Tệ, Vu vương bấy giờ mới sực tỉnh, vội nắm lấy vạt áo hắn. “Chất độc của ngài còn chưa giải, không thể cưỡi tọa kỵ bay đi thế này được.”

“Ngươi là Vu vương đời thứ mấy hả? Ngươi dám dạy ta phải làm thế nào sao?” Trước ánh mắt tàn nhẫn vô tình như dã thú, tựa hồ chẳng còn chút nhân tính của Xi Vưu, Vu vương đành sợ sệt quỳ xuống, không dám ngẩng đầu lên.

Xi Vưu vỗ vỗ lên mình A Tệ, lập tức A Tệ vỗ cánh bay lên, một người một thú biến mất giữa bầu trời đêm thăm thẳm.

Hết chương 8.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 14:51:56 | Xem tất
Chương 9


Chữa vạn người, riêng mình khó chữa.


9.1


A Hành đứng dậy ngoảnh đầu lại, trông thấy Xi Vưu đang đứng bên lề con đường mòn ngẩng đầu nhìn mình, ánh mắt hiền hòa mà kiên định, tựa hồ nàng có nấn ná lại đó bao lâu, hắn cũng sẵn lòng chờ đợi.

Dường như hắn là điểm sáng duy nhất giữa một vùng dào dạt những bi thương biêng biếc.

Thần Nông sơn nằm giữa Trung Nguyên, phong cảnh đẹp đẽ, khí thế hào hùng, cả thảy gồm chín núi hai sông hai mươi tám đỉnh, phía Bắc thông với đầu mối giao thông Trạch Châu, phía Nam trông ra bình nguyên Yên Xuyên phì nhiêu, Đông có tấm bình phong thiên nhiên Nguyệt Hà che chắn, Tây là Chỉ Ấp, đô thành phồn hoa nhất thiên hạ. Trông thấy Thần Nông sơn, người ta mới hiểu thế nào là khí thế vương giả, thế nào là Trung Nguyên trù phú, cũng như biết nguyên nhân vì sao Thần Nông tộc lại đông đúc nhất trong Tam đại Thần tộc.

Lúc A Hành mơ màng tỉnh lại, nàng đã thấy mình ở dưới Thần Nông sơn. A Hành nhìn Xi Vưu rồi lại nhìn sang Liệt Dương và A Tệ, ngỡ ngàng, “Ngươi, ngươi… ta, sao ta lại ở đây? Vân Tang tỷ tỷ đâu rồi?”

Xi Vưu sáp lại bên nàng cợt nhả: “Vợ yêu, thì ra cô lấy mạng đổi mạng để cứu ta à?”

“Nói bậy! Thứ chuyên rước vạ vào thân như ngươi, ta chỉ mong chết sớm đi cho đỡ chật đất!”

Nghe thấy vậy Xi Vưu liền vạch tay nàng ra chỉ vết thương còn chưa khép miệng, “Chỉ cần được Vân Tang đưa lên núi, nhất định Viêm Đế sẽ cứu cô, nhưng thuốc giải chỉ có một, nếu cô lén đổi thuốc để Liệt Dương mang tới cho ta thì bản thân cô phải tính sao?

Bị vạch trần mọi toan tính, A Hành thẹn quá hóa giận bèn vùng khỏi tay Xi Vưu, “Ngươi đừng tưởng bở, dù có mười Xi Vưu chết đi ta vẫn sống phây phây!”

Xi Vưu cười tít mắt tiếp: “Vậy mới phải! Về sau cô tuyệt đối đừng ngốc như thế nữa, chỉ cần lúc ta còn sống, cô đối tốt với ta là được. Một khi ta chết rồi, cứ việc quăng xác ta vào núi cho dã thú tới chén sạch, như thể ta chưa từng tồn tại trên đời, cô cũng nên quên luôn đi mà vui vẻ sống tiếp cuộc đời mình.”

Tuy Xi Vưu tỏ vẻ cợt nhả nhưng lời nói ra lại rất nghiêm túc, thật chẳng hiểu rốt cuộc hắn đã phải trải qua những gì, mới có thể nhìn thấy sinh tử như vậy nữa. Nghe hắn nói, A Hành tái mặt, “Đừng nói vớ vẩn, tuy chúng ta được uống máu A Tệ nhưng cũng chẳng cầm cự được lâu đâu, không hiểu trấn giữ Thần Nông sơn là kẻ nào nữa, chúng ta phải mau nghĩ cách gặp Viêm Đế đi.”

Xi Vưu đáp: “Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ.”

Chúc Dung được tôn xưng là đệ nhất cao thủ Thần Nông tộc, Cộng Công được gọi là Thủy thần, Hậu Thổ là anh tài mới nổi mấy năm gần đây, thanh danh trong thần tộc chẳng kém gì Xi Vưu. A Hành sầm mặt, “Vậy đâu phải là trấn giữ Thần Nông sơn? Rõ ràng là có mưu đồ khác mà. Rốt cuộc kẻ nào đã hạ độc hại người? Có bạn bè nào tin cậy được để tìm cách đưa tin cho Viêm Đế không?”

Ánh mắt Xi Vưu lóe lên vẻ tàn độc, lạnh lùng đáp: “Lòng người khó lường, đến lúc sống chết trước mắt, trừ bản thân ra chẳng thể tin ai cả!”

Bộ dạng đa nghi thận trọng hiện giờ của Xi Vưu khác hẳn giáng vẻ cười cợt nói năng xem nhẹ sống chết vừa nãy, đột nhiên A Hành nảy dạ tò mò về quá khứ của hắn, chẳng rõ hắn đã trải qua những chuyện gì mới tạo nên tính cách phức tạp thế này?

Thấy Xi Vưu trầm tư nhìn về phía Thần Nông sơn như thể nghĩ cách đối phó, A Hành lòng dạ ngổn ngang, bất chấp hậu quả bị phụ vương cùng Đại ca hay biết, nhanh nhảu lên tiếng, “Ta sẽ lấy danh nghĩa vương cơ Hiên Viên xin gặp Viêm Đế.”

Xi Vưu vội giữ nàng lại, “Ta không đồng ý! Tây Lăng Hành!”

Hắn giơ tay vuốt ve Trụ Nhan hoa trên tóc nàng, “Đào là tinh hoa của năm loài cây, ngọc là linh hồn của đá, Trụ Nhan hoa là kỳ bảo do mộc linh của cây đào cùng ngọc linh trên Ngọc sơn hội tụ mười mấy vạn năm mới ngưng tụ thành, ý nghĩa thật sự của hai chữ “trụ nhan” chính là giữ lại cho cô bất kỳ dung mạo nào mà cô muốn, chứ không chỉ đơn giản là trẻ mãi không già đâu. Nghĩ xem mình thích biến thành hình dạng thế nào, một lúc sau, cô sẽ biến thành thế ấy, tới chừng đó, cô chẳng thể nhận mình là Hiên Viên Bạt được nữa rồi.”

Chẳng để A Hành kịp hiểu ý mình, hắn đã cười hì hì quay sang bảo Liệt Dương: “Mày ở Ngọc Sơn bao nhiêu năm như thế hẳn linh lực đã tăng cao, này, nhìn thấy tòa thành kia không? Mau qua đó luyện tập Phượng Hoàng huyền hỏa của mày đi, thấy thứ gì gai mắt cứ việc cho nó một mồi lửa.”

Liệt Dương trước giờ chỉ sợ thiên hạ không loạn, vừa nghe nói liền phấn chấn tinh thần dang cánh bay đi ngay, A Hành không sao ngăn lại được, bèn hoảng hốt quay sang túm lấy Xi Vưu: “Đó là thủ phủ của Thần Nông tộc mà! Ngươi điên rồi sao, sao lại sai Liệt Dương phóng hỏa đốt thành?”

Xi Vưu ngỡ ngàng đáp: “Ta đâu có phóng hỏa đốt thủ phủ Hiên Viên tộc, cô lo cái gì?”

“Ta lo cái gì ư? Đó là kinh đô một nước đấy! Nếu người ta biết được ta là chủ của Liệt Dương, Thần Nông tộc sẽ lập tức phát binh đánh dẹp Hiên Viên tộc ngay!”

Nói đến đây A Hành đã thấy cửa Đông thành Chỉ Ấp cháy phừng phừng, nàng chỉ biết ôm mặt lẩm bẩm: “Đáng lẽ ta không nên dây dưa với kẻ điên rồ như ngươi, sao ta lại mau quên thế nhỉ?”

Xi Vưu lạnh lùng nhìn Chỉ Ấp từ từ biến thành biển lửa rồi ngẩng lên trời, thấy Chúc Dung cưỡi tọa kỵ Tất Phương điểu đang vội vã bay về phía Chỉ Ấp. Tuy Chúc Dung được xưng tụng là Hỏa thần nắm giữ tất cả lửa trong thiên hạ nhưng Xi Vưu biết hắn còn thiếu Phượng Hoàng huyền hỏa, tiếc rằng Phượng Hoàng là giống chim lành, lại là vua của muôn chim nên Chúc Dung không dám nảy lòng tham, nào ngờ hôm nay lại có Phượng Hoàng huyền hỏa từ trên trời rơi xuống, nhất định hắn sẽ rời khỏi Thần Nông sơn đuổi theo.

Xi Vưu vỗ về A Tệ ra ý bảo nó chở hai người lên đỉnh Tử Kim cao nhất Thần Nông sơn.

Thấy vậy A Hành chẳng buồn nổi giận nữa, chỉ xoa xoa má căng thẳng hỏi: “Lỡ như gặp phải thần tiên linh lực cao cường hơn mình nhiều, liệu ta có bị phát hiện không?”

“Cô đâu có dựa vào linh lực để biến hình, dù tu vi bọn họ có cao thế nào đi nữa cũng không bì nổi với thiên địa tạo hóa đâu, chỉ cần cô cẩn thận thì chẳng ai nhận ra được cả.”

A Hành nghe vậy liên thở phào nhẹ nhõm, rồi lại hồi hộp hỏi tiếp: “Xung quanh đều có binh lính canh gác, rốt cuộc ngươi định làm gì đây?”

Xi Vưu danh tay cười đáp: “Sợ rồi à? Vợ yêu, ta lúc nào cũng dang rộng vòng tay che chở cho cô mà.”

A Hành hít một hơi thật sâu, cố nhịn không cho hắn một đá.

Thị vệ từ hai bên sườn núi ló ra, cao giọng: “Viêm Đế đang bế quan luyện thuốc, xin quý khách về cho!”

Xi Vưu lệnh cho A Tệ đỗ xuống sơn cốc, trong khi A Hành cẩn thận đề phòng, hắn ngồi xổm xuống bên A Tệ, khẽ hỏi: “Mày thích A Hành lắm ư?”

A Tệ nghe hỏi liền vẫy đuôi thật lực, nhếch mép cười hớn hở rồi ngả đầu vào người A Hành. Đang lúc căng thẳng, A Hành chẳng để ý gì đến nó, chỉ thì thào với Xi Vưu: “Chúng ta bị bao vây rồi.”

Xi Vưu phớt lờ nàng, cứ vuốt ve A Tệ hỏi, “Nhưng sau này A Hành sẽ lấy chồng, chồng nàng chưa chắc đã thích mày, nói không chừng còn ghét mày nữa đấy.”

A Tệ nghe xong bèn đờ cả mặt ra, cặp mắt tròn xoe trợn trừng, đuôi dựng đứng, hai bên mép đang nhếch từ từ hạ xuống.

Xi Vưu lại bồi thêm: “A Hành lấy chồng rồi sẽ sinh con, đến lúc đó nàng ta yêu thương con mình, nhất định sẽ bỏ rơi mày. Mày còn nhớ chuyện cha dượng mà ta kể dọc đường lên Hiên Viên sơn không? Mấy gã cha dượng đó đều sẽ tìm trăm phương ngàn kế tống khứ đứa nhỏ trước mặt mình đi!”

A Tệ run lên bần bật, cụp ngay đuôi lại, hai bên mép bắt đầu trễ xuống, nước mắt ngân ngấn.

A Hành đang căng thẳng nghe thấy vậy liền nối giận, “Ngươi kể cho nó chuyện cha dượng bạc đãi trẻ con làm gì?”

Nói rồi nàng vội vỗ về A Tệ, “Mày đừng nghe tên vô lại ấy nói bậy, hắn cố ý dọa mày đó.”

Xi Vưu vẫn chăm chú nhìn A Tệ, nghiêm túc nói tiếp: “Mày nghĩ mà xem, đến lúc đó A Hành có con của mình, không cần mày nữa, Liệt Dương cũng không cần mày nữa, tội nghiệp quá!”

Nghe Xi Vưu nói, A Tệ òa lên khóc nức nở. Từ lúc sinh ra nó đã coi A Hành như mẹ, cho rằng mình sẽ mãi mãi ở bên nàng nên hết sức yên tâm, về sau có thêm Liệt Dương ngày ngày vui đùa cùng nhau, lại càng vô tư vô lự, mãi đến giờ nó mới nhận ra tất cả mọi thứ mình có đều có thể biến mất trong nháy mắt, lần đầu tiên, A Tệ hiểu thế nào là “mất mát”.

A Hành lấy làm lạ trừng mắt nhìn Xi Vưu, “Bây giờ là lúc nào rồi hả? Ngươi còn rảnh rỗi đi bắt nạt trẻ con nữa, đúng là điên!”

Nàng dịu giọng dỗ dành A Tệ, nhưng cứ nghĩ tới có ngày mất đi một A Hành yêu thương mình nhường này, A Tệ lại càng thêm buồn bã, càng lúc càng khóc lóc thảm thiết hơn, hệt như cái ngày đau khổ đó đã đến vậy.

Sơn cốc mà Xi Vưu quyết định đỗ lại được gọi là Hồi Âm cốc, nằm trên con đường bắt buộc phải đi qua để lên đỉnh Tử Kim, thị vệ canh giữ nơi này đều được tuyển chọn kỹ càng trong đám anh tài tinh nhuệ của Thần tộc.

Hồi Âm cốc có địa thế đặc thù, chỉ cầm một thanh âm nhỏ cũng có thể bị khuếch đại lên thành tiếng vọng lan đi, Viêm Đế đời đó đã lợi dụng địa thế thiên nhiên này, bố trí thị vệ ở các nơi đặc biệt của vách âm, hễ có người nào lẻn vào, đám thị vệ sẽ chú ý ngay, bởi vậy hơn vạn năm nay chưa một ai dám liều mạng đi qua Hồi Âm cốc.

Nhờ hiệu ứng tiếng vọng ở đây, tiếng nức nở của A Tệ được khuếch đại lên như thể có cả trăm A Tệ đang than khóc, tiếng khóc bi ai ầm ầm lan đi như sấm động ngày xuân. Tiếng kêu của hồ ly có thể mê hoặc lòng người, tệ tệ lại là loài có tiếng kêu êm tai nhất trong Hồ tộc, A Tệ ăn đào tiên, uống ngọc tủy, linh khí dồi dào, lúc này tiếng khóc than cất lên từ đáy lòng nó quả khiên nước non ảm đạm, cây cối ủ ê, cả đất trời cũng phải đổi sắc.

Đám thị vệ đang bao vây hai người không kiềm chế nổi trước tiếng khóc của A Tệ, thoạt đầu họ còn vận linh lực chống lại, nhưng ai chẳng có nỗi đau mất mát trong quá khứ, tiếng than khóc của A Tệ khơi gợi lại những nỗi niềm chôn sâu nơi đáy lòng họ, chuyện xưa dồn dập hiện ra, bao nhiêu ly biệt trong đời đan kết lại, đau khổ chất chứa thành sông thành biển, bi thương trào ra không sao nén nổi, cả đám thị vệ đều khóc òa lên.

Khắp Hồi Âm cốc bỗng chốc vang lên khúc ly ca khiến đất trời cũng phải rầu lòng, ngay Hậu Thổ cùng Cộng Công thần lực cao cường cũng không dám manh động, đành chia nhau ra mỗi người giữ lấy một đỉnh núi, trừng mắt nhìn Xi Vưu.

Xi Vưu ngồi trên tảng đá vẫy tay với Cộng Công và Hậu Thổ, hai người kia chần chừ một thoáng rồi cưỡi tọa kỵ bay xuống trước mặt hắn. Xi Vưu đưa mắt nhìn đám thị vệ đang nức nở xung quanh, cười nói: “Hồi Âm cốc hệt như một trận đồ âm thanh thiên nhiên, các thị vệ lại vô tình vận linh lực khởi động trận pháp, họ càng đau buồn thì càng khóc lóc, càng khóc lóc sẽ càng đau buồn, cứ thế đến khi cạn kiệt tinh huyết mà chết.”

Cộng Công và Hậu Thổ tái mặt, hơn trăm thị vệ này là lực lượng tinh nhuệ bảo vệ Thần Nông sơn, nếu mất bọn họ thì hậu quả thật khó lường.

Cộng Công đành thi lễ với Xi Vưu, “Chức trách của chúng ta là phụng mệnh canh giữ Thần Nông sơn, mong ngươi nể tình nhẹ tay cho.”

Xi Vưu nói, “Ta muốn gặp Viêm Đế.”

Cộng Công bối rối đáp, “Chuyện này ta phải xin ý kiến Chúc Dung đại nhân đã.”

Xi Vưu cười, “Đáng lẽ Chúc Dung phải giao cho ngươi toàn quyền phụ trách mọi chuyện trên Thần Nông sơn rồi chứ, nếu ngươi muốn xin ý kiến thì cứ đi đi, dù sao ta cũng chẳng hề hấn gì, muốn đợi bao lâu thì đợi, nhưng những thị vệ này liệu có đợi nổi không? Lẽ nào ngươi định trơ mắt nhìn bọn họ khóc đến chết ư?”

Cộng Công phân vân không sao quyết định, bèn nhìn sang Hậu Thổ, Hậu Thổ trông thanh tú như nữ tử, lời lẽ cũng vô cùng nhã nhặn, “Mọi việc xin nghe theo Cộng Công sắp xếp.” Ngừng một lát, gã lại nói thêm, “Viêm Đế đã dặn không gặp ai cả, nhưng Xi Vưu là đồ đệ duy nhất của ngài kia mà.”

Nhìn đám thị vệ đang khóc than tuyệt vọng xung quanh, Cộng Công đành thở dài bảo Xi Vưu, “Ta chỉ có thể đưa ngươi lên đỉnh Tử Kim xin gặp Viêm Đế, còn hôm nay Viêm Đế có gặp ngươi hay không, ta không đảm bảo được đâu.”

Xi Vưu vội chắp tay cảm tạ, “Một lời của Cộng Công đáng giá ngàn vàng!” Nói rồi hắn nắm tai A Tệ thì thào mấy câu, lập tức hai mắt A Tệ sáng lên, tiếng khóc nín bặt. Thấy A Tệ nghiêng đầu nhìn mình, Xi Vưu trang trọng bồi thêm: “Ta bảo đảm đấy!”

Nghe vậy A Tệ liền nhếch mép lên thành một nụ cười vui vẻ, cong cong tựa vành trăng non.

A Hành nắm lấy tai kia của A Tệ buồn bã nói: “Sao mày ngốc thế? Hắn bảo gì mày cũng tin à?”

A Tệ khẽ gừ gừ, dụi đầu vào người A Hành, cái đuôi xù vẫy qua vẫy lại, phẩy cả vào mặt A Hành, hai mắt như cũng cười tít lên thành hai vành trăng nhỏ cong cong.

A Hành chỉ biết lắc đầu ngao ngán.

A Tệ ngưng khóc, mắt xích của trận pháp cũng mất đi, Cộng Công vận linh lực gầm lên mấy tiếng khí thế nuốt chửng sơn hà, âm vang lan đi khắp Hồi Âm cốc, tất cả thị vệ nghe thấy đều giật nảy mình, nín bặt.

Nghe tiếng gầm của Cộng Công, A Hành ngấm ngầm kinh sợ, bắt đầu quan sát viên tướng được đặt ngang với Chúc Dung nhưng lại luôn đứng khuất sau cái bóng của Chúc Dung này, giờ đây nàng mới hiểu nguồn cơn câu nói của Xi Vưu, “Một lời của Cộng Công đáng giá ngàn vàng.”

Cộng Công cùng Hậu Thổ đưa Xi Vưu và A Hành lên tới đỉnh Tử Kim, đang định vào cầu kiến thì ông lão râu bạc quét tước trước điện đã ngẩng lên lạnh lùng bảo, “Viêm Đế lệnh cho Cộng Công và Hậu Thổ ở lại, còn Xi Vưu tới đỉnh Tiểu Nguyệt gặp ngài.”

Mặc cho hai người Cộng Công, Hậu Thổ tái mặt, Xi Vưu vội chắp tay từ biệt bọn họ.

A Hành thấy đã cách xa khỏi bọn họ mới khẽ lên tiếng hỏi: “Đỉnh Tiểu Nguyệt có gì khác lạ ư?” Ánh mắt Xi Vưu đầy vẻ trầm tư, “Điểm đặc biệt duy nhất của đỉnh Tiểu Nguyệt…”

Đang nói đột nhiên hắn ho lên mấy tiếng, đoạn phun ra một búng máu, tuy nãy giờ chẳng dùng tới chút sức lực nào nhưng để giữ được khí thế trước mặt Cộng Công và Hậu Thổ, hắn đã phải gắng gượng lắm rồi, “Chính là chúng ta chưa một ai đặt chân lên đó.”

A Hành khẽ nói: “Ngươi nghỉ một lát đi đã.”

Xi Vưu cười mệt mỏi, ngả đầu vào vai A Hành, nàng giơ tay định đẩy hắn ra nhưng rồi lại rút tay về, chỉ lặng lẽ ngồi yên cho hắn dựa.

Chẳng bao lâu, hai người đã tới Tiểu Nguyệt đỉnh.

Đó là một ngọn núi bất thường, không có cung điện, không có thị vệ, chẳng có gì hết, duy chỉ có cây cối um tùm. Một chú hươu sao đứng dưới gốc tùng đầu núi nhìn ra, vừa trông thấy hai người, nó liền tác lên mấy tiếng để đón khách.

A Tệ cũng cao hứng hú lên hòa với tiếng tác của hươu sao, trong thoáng chốc dường như cả vùng núi sông đều tươi tắn hẳn.

Chú hươu sao ngẩng cao đầu, tác lên một tiếng thật dài rồi nhảy nhót dẫn đường, như muốn nói: “Các vị, mời theo tôi!”

Hai người bám gót hươu sao men theo con đường nhỏ trong núi, xuyên hoa rẽ liễu mà đi, băng qua khe núi, họ tiến vào một sơn cốc.

Bỗng chốc, ánh lam dập dờn rọi vào mắt khiến ai nấy đều ngỡ như vừa đặt chân lên nền trời xanh biếc.

Cả sơn cốc phủ đầy các loài hoa xanh lam như đỗ quyên, bách hợp, mộc lan, phù dung, tường vi… chẳng hề lẫn chút tạp sắc. Sắc xanh biêng biếc hòa cùng màn sương mịt mù khiến cả sơn cốc toát lên vẻ mờ mờ ảo ảo như một nỗi tương tư đằng đẵng khôn nguôi, tựa hồ Giang Nam mỗi độ đầu xuân, thời tiết chợt ấm chợt lạnh, mưa bụi lất phất bay nhưng bầu trời vẫn xanh thăm thẳm, thậm chí còn điểm xuyết vài tia nằng nhạt, có điều hơi lạnh se se vẫn giăng mắc khắp cảnh vật cũng như trong lòng người.

Phóng tầm mắt ra xa chỉ thấy ba ngôi mộ trên sườn núi, bình lặng an nghỉ giữa biển xanh hoa biếc.

A Hành không bám theo hươu sao nữa mà trèo lên sườn núi tới trước mấy ngôi mộ, rẽ những nhành hoa sơn trà xanh biếc cao tới thắt lưng ra, thấy trên bia mộ lần lượt đề:

Mộ ái thê Thần Nông Thính Yêu,chồng là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên.

Mộ con gái Thần Nông Nữ Oa, cha là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên.

Mộ con gái Thần Nông Dao Cơ, cha là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên.[1]

[1] Theo Sơn Hải kinh và Thái Bình Ngự Lãm chép lại, Viêm Đế có ba con gái, một người là Dao Cơ, từ nhỏ đã yếu đuối bệnh tật, qua đời giữa lúc đang trẻ tuổi, sau khi chết hóa thành giọt sương trên cỏ. Một người nữa là Nữ Oa, không may chết đuối hóa thành chim Tinh Vệ, ngày ngày lấp biển.


Thần Nông thị nếm trăm loài cây cỏ để cứu thiên hạ nhưng lại không cứu nổi con gái mình.

Đây là lần đầu A Hành biết được Viêm Đế Thần Nông nếm cả trăm loài cây cỏ tên thật là Thạch Niên. Chạm vào những con chữ trên bia, nàng nhận ra chúng không phải được khắc lên mà được trực tiếp dùng tinh huyết trong tim viết thành, mỗi tấm bia là vô số giọt tinh huyết quý giá kết tụ, người viết đã dùng cả mạng sống của mình để tưởng nhớ kẻ nằm dưới mộ.

Viêm Đế chỉ cưới duy nhất một người vợ. Hơn ngàn năm trước, Viêm Hậu qua đời. Từ đó đến nay, vì đủ thứ mục đích, các tộc dâng lên không biết bao nữ tử xinh đẹp hiền đức nhưng đều bị Viêm Đế từ chối. Người đời đồn đoán rất nhiều lý do, trong đó đáng tin nhất là nếu Viêm Hậu khác được lập lên, ắt một tộc nào đó sẽ tha hồ bành trướng, mà Viêm Đế không muốn phá vỡ thế cân bằng hiện nay giữa các tộc nên đành bỏ trống ngôi Viêm Hậu.

Nhưng lúc này đây, nhìn dòng chữ trên bia mộ, A Hành lại nghĩ thầm: Có lẽ mọi người đều đoán sai cả, Viêm Đế bỏ trống ngôi Viêm Hậu chỉ vì một nguyên nhân rất đơn giản mà thôi.

Không thấy hai người theo sau, hươu sao nghi hoặc tác lên như giục giã. A Hành đứng dậy ngoảnh đầu lại, trông thấy Xi Vưu đang đứng bên lề con đường mòn ngẩng đầu nhìn mình, ánh mắt hiền hòa mà kiên định, tựa hồ nàng có nấn ná lại đó bao lâu, hắn cũng sẵn lòng chờ đợi.

Dường như hắn là điểm sáng duy nhất giữa một vùng dào dạt những bi thương biêng biếc.

Tim A Hành bỗng nhiên đập mạnh, nàng chăm chú nhìn Xi Vưu rồi tung người nhảy xuống khỏi sườn núi. Thấy vậy Xi Vưu chỉ nhoẻn cười, dịu dàng nhắc nhở: “Cô từ từ thôi kẻo ngã.”

Hươu sao dắt bọn họ băng qua sơn cốc tới một khu đất rộng được phủ kín muôn hồng nghìn tía, mỗi thửa đất ở đây đều trông đủ các loại dược thảo khác nhau.

Một ông lão mặc quần vải thô xắn gấu đang miệt mài cuốc đất, nghe tiếng chân hươu sao, lão mới đứng thẳng dậy, dừng tay, ngoảnh lại cười với họ.

Nhìn ông lão trước mắt dung mạo bình thường, ăn vận giản dị nhưng để ý kỹ lại thấy toát lên khí thế như non xanh nước biếc, thiên địa tự nhiên, A Hành ngấm ngầm kinh hãi, liền hiểu ngay đây chính là Viêm Đế, người đứng đầu Tam Đế.

Viêm Đế lên tiếng, “Thật không ngờ Xi Vưu lại đưa cả khách tới.”

Xi Vưu vào thẳng vấn đề: “Cần thuốc giải, hai liều!” Chưa nói hết câu hắn đã kiệt sức tàn hơi, ngã phịch xuống bờ ruộng, miệng ứa máu đen.

Viêm Đế đưa cho Xi Vưu một viên thuốc giải, “Thứ độc này chỉ có một liều nên cũng chỉ chuẩn bị một liều thuốc giải thôi.”

Nói rồi ông quay sang bảo A Hành: “Tiểu cô nương, để ta khám cho cô nào.”

A Hành đưa tay ra, Viêm Đế vừa xem mạch đã cười hỏi: “Sao cô lại dẫn chất độc vào người mình?”

A Hành trừng mắt nhìn Xi Vưu, trả lời: “Không phải nguyên nhân như ngài nghĩ đâu, chỉ vì hắn còn nợ tôi thôi.” Thấy Xi Vưu bẻ đôi viên thuốc trong tay, nuốt một nửa còn một nửa đưa cho A Hành, Viêm Đế nói: “Dù ngươi có dị bẩm trời sinh nhưng gắng gượng được đến giờ đã là cực hạn rồi, mau uống hết thuốc giải của mình đi.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 15:05:07 | Xem tất
Chương 9


Chữa vạn người, riêng mình khó chữa.


9.2


Xi Vưu không đếm xỉa gì tới Viêm Đế, chỉ chăm chú nhìn A Hành.

Thấy vậy mắt Viêm Đế thoáng vẻ ngạc nhiên, bèn quay sang nhìn kỹ A Hành, “Chất độc trong người tiểu cô nương tạm thời không sao, ta sẽ phối chế thuốc giải cho cô ngay.”

Xi Vưu nghĩ đi nghĩ lại rồi bỏ nốt nửa viên thuốc giải kia vào miệng.

Một chú chim đỏ rực đầu xuống vai Viêm Đế, Viêm Đế gỡ tấm thẻ ngọc khỏi chân nó, đọc xong ông gượng cười hỏi: “Ngươi phóng hỏa đốt Chỉ Ấp ư?”

Xi Vưu nhắm mắt không đáp, hai tay sục sâu vào lòng đất, sắc mặt hắn từ từ khá lên, trong khi đó, mặt đất cùng hết thảy kì hoa dị thảo trông trên núi đều nhợt nhạt hẳn đi, như thể Xi Vưu đã hấp thụ hết sức sống của cả vùng đất này.

Thấy A Hành tròn mắt nhìn đầy kinh hãi, Viêm Đế giải thích: “Hắn tự ngộ được đạo trời, công pháp đi theo một con đường riêng, chúng ta không hiểu được đâu.”

A Hành lúng túng hỏi thêm: “Con lang điểu đó bị bắt rồi ư?”

Viêm Đế vuốt ve con chim đỏ rực trên vai, nó liền sải cánh bay đi, “Ta đã truyền lệnh sai Du Võng trông nom nó rồi, không để Chúc Dung động tới nó đâu.”

Nghe vậy A Hành mới nhẹ lòng, “Đa tạ ngài.”

Viêm Đế thở dài: “Chúc Dung ghét cay ghét đắng Xi Vưu, nếu hắn có mặt, nhất định Xi Vưu không thể lên núi thuận lợi như vậy, có điều hắn vừa nảy lòng tham đã bị Xi Vưu lợi dụng ngay.”

A Hành càng lúc càng bối rối, lẽ nào không phải kẻ hạ độc cố ngăn trở Xi Vưu gặp Viêm Đế ư? Sao nghe như thể Viêm Đế cố ý sai người trấn giữ Thần Nông sơn thế nhỉ?

“Khi nào ông mới chịu chế thuốc giải cho A Hành đây?” Xi Vưu đứng trước mặt hai người, ánh mắt sáng rực, hiển nhiên vết thương đã bắt đầu lành.

Viêm Đế quay lưng đi về phía căn nhà trúc, “Mai mới chế được thuốc giải, hôm nay hai ngươi ở lại đây đi.”

A Hành cùng Xi Vưu nối gót Viêm Đế bước vào căn nhà trúc, Xi Vưu bó gối ngồi xuống bên cửa sổ, Viêm Đế lấy bộ đồ trà ra pha, nhưng A Hành không nỡ để ông làm, bèn giành lấy, “Để tôi, lúc ở nhà tôi thường pha trà cho mẹ.”

Viêm Đế gật đầu cười, đưa cây quạt hương bồ cho A Hành rồi ngồi xuống đối diện với Xi Vưu, trầm ngâm không nói.

Đột nhiên Xi Vưu lên tiếng: “Ta nghi ngờ Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ, thậm chí nghi ngờ cả Du Võng và Vân Tang nhưng vẫn một mực tin rằng ông không biết gì cả. Mãi đến khi tới Thần Nông sơn ta mới phát hiện ra, kẻ có khả năng hạ độc nhất chính là ông, chỉ Thần Nông thị nến trăm loại thảo dược, am hiểu dược tính mới có thể chế được độc chất lợi hại thế này. Tại sao vậy? Sư phụ!”

Tiếng “sư phụ” của Xi Vưu gọi nghe lạnh buốt, khiến cả căn phòng tựa hồ đông cứng lại. A Hành nín thở lén liếc Xi Vưu nhưng hắn đã ngoảnh ra cửa sổ, không sao thấy được sắc mặt.

Viêm Đế im lặng nhìn Xi Vưu, nhất thời không khí trong phòng yên tĩnh đến nghẹt thở.

Tiếng nước sôi sùng sục phá vỡ bầu không khí nặng nề, A Hành lóng ngóng pha trà rồi hấp tấp bưng lên bàn, đoạn kiếm cớ tránh đi, “Tôi ra ngoài xem hươu sao và A Tệ đang làm gì.”

Nào ngờ Xi Vưu bỗng ấn nàng ngồi xuống bên cạnh, “Cô có quyền được biết nguyên nhân mình trúng độc.”

Cặp mắt hắn vẫn nhìn chằm chằm Viêm Đế đầy khiêu khích, “Sư phụ, ông đã muốn giết ta, sao còn thu nhận ta?” Viêm Đế mỉm cười quay sang hỏi A Hành: “Cô có biết Xi Vưu trở thành đồ đệ duy nhất của ta thế nào không?”

A Hành lắc đầu.

Viêm Đế bưng tách trà lên, ngoảnh nhỉn ra cửa sổ, “Mấy trăm năm trước, trong một buổi chầu, quan viên quản lý sự vụ Tây Nam tấu rằng đám tiện dân Cửu Di đã làm phản, còn giết hại mấy trăm quan viên Nhân tộc cùng một quan viên Thần tộc, lúc đó ta đang rối bời vì bệnh tình của Dao Cơ, bèn sai Du Võng lo liệu việc này. Hơn trăm năm sau, Chúc Dung dâng sớ vạch tội Du Võng, thì ra mối họa Cửu Di bắt nguồn từ một con yêu thú không rõ lai lịch, tự ngộ được đạo trời, có khả năng hiệu lệnh muông thú nên được tộc Cửu Di tôn xưng làm Thú vương, nhưng thực ra, nó còn hung tàn ác độc hơn hổ báo. Du Võng thương xót đám tiện dân Cửu Di, không nỡ xuống tay giết hại nó, có điều con yêu thú ấy ngu xuẩn hồ đồ, đã đả thương mười mấy đại tướng của ta. Vì chuyện này mà Du Võng cùng Chúc Dung xung đột liên miên, không sao dàn xếp nổi, ta tra rõ sát nghiệp yêu thú phạm phải rồi khiển trách Du Võng, đồng thời chấp nhận cho Chúc Dung đi tiêu diệt Thú vương của Cửu Di.”

A Hành sớm đã đoán ra con dã thú ấy chính là Xi Vưu, tuy chuyện đã qua lâu nhưng tưởng tượng vẫn thấy kinh hồn bạt vía, Xi Vưu từng bị đám cao thủ Thần tộc truy sát cả trăm năm nay, hèn chi lúc hắn lẩn trốn, đến Đại ca thần lực cao cường cũng tìm không nổi. Viêm Đế nhấp ngụm trà, ngừng một lát mới kể tiếp: “Ta cứ ngỡ rằng thế là xong, nào ngờ một đêm Du Võng đột ngột cầu kiến, nói Cửu Di tộc đã đầu hàng, cam nguyện đời đời kiếp kiếp làm tiện dân, chỉ đưa ra một điều kiện duy nhất là xin tha cho Thú vương của họ. Du Võng vật nài ta triệu Chúc Dung về khiến ta không khỏi nảy dạ tò mò với con dã thú ấy, ngay đêm đó bèn tới Cửu Di. Lúc ta tìm thấy họ trong đầm lầy, tình cảnh bấy giờ vừa nguy hiểm vừa tức cười, dã thú tự đem thân làm mồi, nhử gã Chúc Dung kiêu căng nôn nóng vào vùng đầm lầy thi độc, độc trùng trong đó muôn hình vạn trạng, mấy thần tướng thảy đều trúng độc, còn Chúc Dung rõ ràng có thể phóng một mồi lửa thiêu chết con yêu thú đó, nhưng một khi phát hỏa sẽ làm nổ tung khí ứ tích tụ trong đầm lầy mấy vạn năm nay, dù hắn có hỏa linh hộ thể, quá lắm cũng chỉ bị thương nhẹ nhưng các thần tướng kia thì chết chắc. Bấy giờ Chúc Dung chửi bới ầm ĩ, quyết lột da xẻ thịt dã thú, dã thú cũng chưa sõi tiếng người, chỉ nghiến răng nghiến lợi gầm gừ đồng thời vỗ ngực liên tục, như thế nói, tới đây, tới đây đốt chết ông mày đi!”

Viêm Đế thuật lại rồi bật cười nhìn Xi Vưu, đoạn quay sang bảo A Hành, “Lúc đó ta vô cùng kinh ngạc, dã thú sinh trưởng nơi rừng núi biết cách lợi dụng trùng độc chướng khí cũng chẳng lấy gì làm lạ, chính cái địa điểm nó chọn để cùng chết với kẻ thù hết sức thông minh, đầm lầy vốn là một chỗ kỳ lạ, lẫn lộn cả đất và nước, cả hai đều có thể khắc chế hỏa linh, thêm vào đó nơi này nồng đặc khí ứ, chỉ cần một đốm lửa là nổ tung, Chúc Dung rơi vào đây chắc chắn sẽ mất hết khả năng khống chế mọi thứ. Xem ra con dã thú nói không sõi tiếng người này còn nắm vững cách vận dụng thiên thời địa lời hơn nhiều cao thủ Thần tộc.”

Nghĩ tới trận pháp tiếng vọng khi nãy, A Hành cũng gật đầu tán đồng, Viêm Đế lại kể tiếp: “Ta nhận ra con dã thú đó vốn không phải thú mà là một kẻ không cha không mẹ được muông thú nuôi lớn, bèn lệnh cho Chúc Dung im miệng rồi từ từ bắt quen với nó, mặc cho nó đối với ta đầy thù địch, vừa ra vẻ lắng nghe ta nói lại vừa xảo trá điều khiển độc trùng độc thú đánh lén ta, thăm dò nhược điểm của ta, tiếc rằng nó không biết ta thông thạo dược tính, mấy thứ độc đó vốn không thể làm hại ta được. Càng quan sát ta càng kinh ngạc trước thiên tư của nó, đồng thời cũng càng thêm sợ hãi, thiên tư cao như thế, lại hung tàn hiếu sát như thế, phút chốc ta vừa mừng rỡ vì tìm ra một kẻ có tư chất trời sinh, vừa cảm thấy nên giết hắn ngay lập tức.”

Rõ ràng đây cũng là lần đầu Xi Vưu biết được sự sống chết của mình chỉ phụ thuộc vào một ý nghĩ của Viêm Đế, hắn ngoảnh lại nhìn Viêm Đế vẻ thờ ơ, chẳng biết trong lòng đang nghĩ gì. “

Giữa lúc đương phân vân chưa quyết, bỗng một đóa hoa rụng từ đâu bay lại, con khỉ hung tàn xảo trá đó liền bắt ngay lấy ngắm nghía thật kỹ, bốn bề xung quanh đều bẩn thỉu hôi hám, dường như nó sợ làm bẩn đóa hoa nên đã cẩn thận cài luôn lên đầu. Trông đầu nó lông tóc bù xù lại cài một đóa hoa dại, bộ dạng rất tức cười, còn trợn trừng hai mắt nhìn ta, ta nhịn không được cười phá lên, cũng chẳng định giết nó nữa, bèn lệnh cho bọn Chúc Dung lui cả ra, để lại mình ta với nó trong đầm lầy suốt mười ngày mười đêm, cuối cùng cũng giành được lòng tin của nó, đưa nó rời khỏi đó. Ban đầu ta ra điều kiện rằng sẽ chữa khỏi vết thương và cái chân cho nó, đổi lại nó phải theo ta về Thần Nông sơn, nhưng bị nó từ chối. Dần dà ta nhận ra tuy nó bạo ngược nhưng cũng rất ngây thơ, cách duy nhất để kết bạn với nó là phải thật lòng đối đãi, bèn nói thẳng ra rằng ta thấy nó thông minh đĩnh ngộ, đánh bầy cũng muông thú thì thật đáng tiếc nên muốn nó trở thành một người như ta đây, nghe vậy, nó liền đồng ý tới Thần Nông sơn.”

Xi Vưu chăm chú nhìn A Hành, ánh mắt trong trẻo sáng rõ tựa vầng trăng trong vắt đêm xuân, lại như đóa hoa dại đơn sơ bên khe núi, khiến A Hành vừa hoang mang vừa bối rối, vội ngoảnh đi tránh ánh nhìn của hắn, “Con dã thú đó sau này đã trở thành đồ đệ của ngài, mang tên ‘Xi Vưu’?”

Viêm Đế gượng cười: “Sau khi về Thần Nông sơn, ta cũng mất bao công sức mới thuyết phục được hắn chịu làm đồ đệ đấy. Thoạt đầu phải giải thích mãi cho hắn hiểu sư phụ và đồ đệ nghĩa là gì, hiểu được rồi hắn liền lắc đầu quầy quậy, cho rằng mình bị thiệt, ta đành hứa sẽ xóa bỏ tiện danh Cửu Di, ban tên mới là Cửu Lê, lại đem trứng cá côn ở Bắc Minh ra trao đổi, nói với hắn chỉ cần ấp cho trứng nở thì tương lai có thể bay lên trời, hắn mới chịu miễn cưỡng nhận lời.”

A Hành rất hiểu nụ cười gượng gạo của Viêm Đế, e rằng tất cả thiếu niên trong thiên hạ đều mơ được làm đồ đệ Viêm Đế, vậy mà để thu nhận gã Xi Vưu này, Viêm Đế lại phải vừa lừa vừa nhử.

Viêm Đế nhìn tên đồ đệ của mình, ánh mắt vô cùng phức tạp, “Thiên tư của ngươi vượt xa người thường, ngày tiến ngàn dặm khiến ta vừa mừng vừa sợ. Từ khi quyết định nhận ngươi làm đồ đệ, trong lòng ta đã coi ngươi là người thân nhất, cũng giống như Vân Tang, Du Võng, Mộc Cận vậy, ta vui mừng theo từng bước tiến bộ của ngươi, nhưng ta vẫn là vua một nước, thân làm Viêm Đế, ta không thể không e sợ ngươi. Ta sợ rằng một ngày nào đó, Chúc Dung hay ai đó kích động khiến cuồng tính của ngươi phát tác, ngươi sẽ đem hết sở học của mình ra đối phó với trăm họ Thần Nông nên đành phải hạ độc ngươi.” Dẫu Chúc Dung nóng nảy tham lam thế nào, Hậu Thổ ẩn nhẫn âm trầm ra sao cũng vẫn còn nhược điểm và ràng buộc, chỉ có Xi Vưu không cha không mẹ, không gì níu kéo, tính tình lại cuồng vọng bất kham, trời không ràng đất không buộc nổi mà thôi.

Xi Vưu sốt ruột cất tiếng, “Thôi được rồi, ta không muốn nghe ông dông dài, cũng chẳng buồn tính sổ chuyện ông hạ độc đâu, ông mau giải độc cho A Hành đi, ta mãi mãi không quay lại nữa là xong chứ gì.” Viêm Đế cười nhìn Xi Vưu, nét mặt thoáng vẻ hiền hòa, “Một trăm tám mươi năm trước ngươi nổi giận rời khỏi Thần Nông sơn, ta đã ngỡ rằng ngươi chẳng bao giờ hồi tâm chuyển ý nữa, vậy mà nửa đêm Du Võng lại đuổi theo kéo ngươi về. Khi đó ta biết mình đã nhìn lầm ngươi, nhưng chần chừ trong phút chốc, cuối cùng vẫn không giải độc cho ngươi. Ta vốn định đợi ngươi dự tiệc Bàn Đào trở về. Lệnh cho bọn Chúc Dung trấn giữ Thần Nông sơn, cấm tất cả mọi người lên núi, không phải là để ngăn trở ngươi mà bởi ta đã bị trúng độc, sắp chết tới nơi rồi.” Câu nói sau cùng của Viêm Đế quá kỳ quái, khiến người ta còn tưởng mình nghe lầm, nhưng Viêm Đế lại lặp lại rành rọt, “Xi Vưu, ta đã trúng độc, chẳng sống được bao lâu nữa đâu.”

Xi Vưu vội nắm lấy cổ tay Viêm Đế, Viêm Đế không hề phòng bị, mặc cho hắn khống chế mệnh môn, “Hiên Viên có Thanh Dương, Cao Tân có Thiếu Hạo, còn Thần Nông lại chẳng có kẻ kế nhiệm nào đủ sức đảm đương cả, Du Võng tâm địa thiện lương nhưng năng lực tầm thường, Chúc Dung quá tham lam tàn nhẫn, dã tâm còn cao hơn năng lực, Cộng Công lại cứng nhắc câu nệ hết sức, không biết biến báo, Hậu Thổ tuy có tài, có thể bồi dưỡng được nhưng bề ngoài hiền hòa khiêm tốn mà tâm địa gian trá, nhẫn nhục dè dặt quá mức, đám vô lại không có tiền đồ đó chẳng ai chịu ai, e rằng ta vừa nằm xuống chúng đã đấu đá tranh đoạt lẫn nhau đến long trời lở đất, Du Võng chẳng trấn áp nổi đâu.”

Viêm Đế không nguôi trăn trở, “Hiên Viên Hoàng Đế đã sẵn sàng gươm giáo, nhẫn nhịn cả ngàn năm rồi, giờ đây tin ta chết sẽ thay ông ta rúc hồi kèn giục đại quân Đông tiến. Cao Tân và Thần Nông lại đấu đá suốt mấy vạn năm nay, giữa lúc then chốt để Tuấn Đế hiện thời kế vị, phụ vương ta đã phái mười vạn đại quân áp sát, nếu không có Thiếu Hạo ra sức ngăn cản e rằng Tuấn Đế đã thành đống xương khô từ lâu, thù này há có thể bỏ qua sao?”

Giữa đôi mày Viêm Đế trùng trùng những lo âu, hệt như từng trái từng trái núi sắp đổ sụp xuống khiến A Hành trông mà lạnh toát cả người, tim đập thình thịnh, tựa hồ đã thấy thiên quân vạn mã đang sầm sập kéo đến, vậy mà Xi Vưu dường như chẳng để những lời đó vào tai, chỉ chăm chú dùng linh lực tra xét thân thể Viêm Đế.

Giọng Viêm Đế đượm vẻ bất lực mà thê lương, “Sự yên ổn hòa bình mấy vạn năm nay trên đại hoang kết thúc tới nơi rồi, chúng sinh thiên hạ lại sắp rơi vào vòng chiến loạn liên miên không dứt.”

Thấy Xi Vưu lặng lẽ buông tay ra, Viêm Đế liền chăm chú nhìn hắn, “Nể tình ta chẳng còn sống được bao lâu, ngươi tha thứ cho lão già này được không?”

Xi Vưu lạnh lùng đáp: “Ông đâu đã chết.” Tuy giọng điệu vẫn đầy vẻ vô tình nhưng hắn không nhắc tới chuyện ra đi nữa.

Viêm Đế cười nói: “Ta định trước khi chết sẽ phong ngươi làm Đốc Quân Đại tướng quân, không chỉ thống lĩnh toàn bộ quân đội Thần Nông quốc mà còn có quyền bác bỏ những quyết định của Viêm Đế. Có điều quân đội Thần Nông chia làm sáu, một phần là tùy tùng của Viêm Đế, chỉ Viêm Đế mới có quyền điều động, còn năm phần kia…” Viêm Đế thở dài, “Trên thực tế, ngươi có điều động nổi toàn bộ quân đội hay không, thì phải trông vào bản lĩnh của ngươi thôi.” Nói rồi Viêm Đế đứng dậy, “Ta đi chế thuốc giải cho A Hành.”

Viêm Đế vừa ra ngoài, A Hành đã tóm chặt lấy tay Xi Vưu lắp bắp hỏi: “Viêm Đế… Viêm Đế nói có… có thật không? Viêm Đế là Thần Nông thị y thuật đứng đầu thiên hạ, sao có thể không chữa được cho mình chứ?”

Xi Vưu thản nhiên nói: “Để trị bệnh cứu người, ông ta phải nghiên cứu dược tính, nếm qua quá nhiều chất độc, nhiều loại thuốc hỗn tạp tích tụ trong cơ thể ông ta, cứ thế bào mòn sức khỏe, hai năm nay, hẳn ông ta lại nếm những loài cây cỏ độc không tên, tuy đã giải trừ chất độc vốn có của chúng, nhưng cỏ độc lại khơi dậy độc tố tích tụ trong người suốt mấy ngàn năm, giờ đây vạn độc cùng phát, chẳng thuốc nào trị nổi.”

“Vậy cũng phải có cách gì chứ?”

Xi Vưu cúi đầu nhìn A Hành, khẽ vuốt tóc nàng rồi lặng lẽ lắc đầu.

A Hành đột ngột buông tay Xi Vưu, chạy ra khỏi phòng, nàng ngẩng đầu nhìn trời, ra sức hít vào thật sâu nhưng vẫn thấy tức thở.

Bao năm nay ba nước kết thành thế chân vạc , trăm họ được thái bình yên ổn là nhờ Viêm Đế đức cao vọng trọng, quy tụ được lòng người thiên hạ, dù hùng tài đại lược như phụ vương cũng không dám làm trái ý trời, nhưng nếu Viêm Đế chết đi rồi… A Hành chẳng dám nghĩ tiếp nữa.

Trên sườn núi xa xa, ánh tịch dương đã nhuộm vàng những cánh rừng trùng điệp, A Tệ đang nô đùa với hươu sao, một bên rượt một bên chạy, một bên trốn một bên nấp, tiếng kêu vui vẻ vang khắp núi rừng.

A Hành ngơ ngẩn lần theo dấu chân chúng tới sơn cốc xanh biếc thì mất dấu, chẳng rõ A Tệ và hươu sao đã đi đâu.

Nàng ngồi trên triền núi, dõi mắt nhìn về phía trời Tây đỏ rực ráng chiều.

Ánh tịch dương đang từ từ lịm tắt, bây giờ là thời khắc bình yên đẹp đẽ sau cùng.

Nàng tiện tay ngắt hai chiếc lá đặt lên môi làm kèn thổi, tiếng kèn réo rắt truyền đi trong sơn cốc.

Có người lần theo tiếng kèn tới ngồi cách đó không xa, nhưng A Hành chẳng hề để ý, chỉ mê mải thổi kèn.

Thổi hết một khúc, nàng mới ngoảnh lại, nhận ra Viêm Đế đang lặng lẽ ngồi bên mấy nấm mộ.

Gió chiều lồng lộng, cả biển hoa xanh biêng biếc dập dờn lay động như những ngọn sóng nhấp nhô, bóng dáng Viêm Đế cũng lúc mờ lúc tỏ.

A Hành bước tới ngồi xuống bên cạnh Viêm Đế.

Viêm Đế dõi mắt ngắm tà dương, mỉm cười: “Cô hơi giống một người bạn của ta, không phải giống ở dung mạo, mà giống ở một vài cử chỉ.”

A Hành im lặng, mê mải ngắm hoàng hôn. “

Bà ta tên Tây Lăng Luy, tuy bây giờ rất ít người biết cái tên đó, nhưng hơn ba ngàn năm trước, bà ta là nữ tử nổi tiếng nhất đại hoang, được xưng tụng là Tây Lăng kỳ nữ, phụ vương ta từng sai huynh trưởng ta tới cầu hôn.”

A Hành hỏi: “Bà ấy có nhận lời không?”

Viêm Đế lắc đầu: “Không, nếu bà ta nhận lời thì có lẽ huynh trưởng ta đã trở thành Viêm Đế.” A Hành lại hỏi: “Vậy vợ ngài là người như thế nào?”

Nghe nàng hỏi, Viêm Đế chỉ cười buồn: “Cô thật rất giống bà ta. Rất nhiều năm về trước, A Luy cũng từng hỏi ta câu này, trước bà ấy chưa ai quan tâm tới chuyện đó, sau bà ấy lại chẳng ai dám hỏi chuyện đó nữa, cô là người thứ hai hỏi ta câu này đấy.”

Viêm Đế dịu dàng đặt tay lên mộ vợ, vẻ mặt chan chứa tương tư đằng đẵng, “Ta từ nhỏ linh lực thấp kém, pháp thuật không cao, tướng mạo lại chẳng lấy gì làm xuất chúng nên không được phụ vương xem trọng, các anh em không mấy khi chơi cùng, ta cũng chỉ thích loay hoay trồng hoa trồng cỏ một mình. Ngoài thành Chỉ Ấp có một dòng sông tên Tể Hà, hai bên bờ sông là nơi ở của những người linh lực thấp kém trong Thần tộc, bọn họ không có khả năng làm quan, cũng chẳng hề tòng quân, đành trông vào chút linh lực đó mà buôn bán nhì nhằng để kiếm sống thôi, trong số những người ấy có một cô gái bán hoa rất thích dùng linh lực trồng ra các loài hoa xanh biếc, có mẫu đơn xanh, phù dung xanh, phong tín tử xanh…”

Viêm Đế khẽ vuốt ve đóa sơn trà xanh bên cạnh, “Lần đầu tiên ta gặp nàng là vào một buổi mai ẩm thấp, ta ra bờ sông hái thảo dược còn nàng đi múc nước, trên mình còn vận một chiếc váy dài nền trắng hoa xanh, bên tóc mai còn cài một đóa hoa sơn trà biêng biếc. Lúc đó ngoài bờ sông rất vắng người, hai ta mỗi người đứng ở một bên bờ trông sang nhau, đột nhiên nàng hé miệng cười khiến ta hoảng hốt chẳng dám nhìn lâu, hấp tấp cầm cuốc lên cuốc đất, kết quả cuốc phải chân mình, làm nàng bật cười khúc khích. Ta phải nằm trên giường tĩnh dưỡng suốt một tháng, cũng chẳng hiểu sao vết thương vừa khỏi, ta liền tính toán lựa đúng lúc nàng đi múc nước để ta bờ sông, thoạt đầu mấy tháng một lần, sau dần dà mấy ngày lại ra một lần, sau nữa thì ngày ngày ta đều ra hái thảo dược, nhưng chẳng dám bắt chuyện với nàng. Hồi còn niên thiếu ta vốn rất nhút nhát hướng nội, hễ trông thấy nàng là tim đập chân run, đến nhìn cũng chẳng dám nhìn nhiều, chúng ta cứ thể ở hai bên bờ trông sang nhau mà chẳng trao đổi câu nào cả. Ba năm sau phụ vương lệnh cho ta theo anh trai tới Tây Lăng gia cầu hôn, vì A Luy rất giỏi nuôi tằm, mà ta lại trồng được một gốc dâu bích ngọc, phụ vương cho rằng ta có thể giúp anh lấy lòng A Luy, bèn sai ta đi cùng. Lần cầu hôn đó thất bại thảm hại, anh trai ta bị A Luy xoay cho khóc dở mếu dở, nhưng ta với bà ấy lại thành bạn thân, A Luy còn rủ ta cùng tới đại hoang chơi, đương nhiên ta liền nhận lời ngay, sau này chúng ta quen thêm cả A Mi hát hay múa dẻo, ba người kết thành huynh muội. Trong ba người ta lớn tuổi nhất, nhưng A Luy lại táo tợn nhất, luôn đầu têu nhưng việc ta chẳng bao giờ dám nghĩ đến.”

Viêm Đế lắc đầu cười, vẻ phóng khoáng lồng lộng trên vầng trán rộng, phấn chấn kể tiếp, “Đó là những tháng năm sôi nổi nhất đời ta, đến ta cũng chẳng dám tin mình có thể rượu say gây sự, ẩu đả đánh nhau như thế nữa. Ba người chúng ta còn hẹn ‘sẽ mãi mãi ở bên nhau, mãi mãi vui vẻ như hiện thời’. A Luy cao giọng nói nếu ai vi phạm bà ấy sẽ phạt người đó. Nhưng khi bà ấy gặp gã thiếu niên rạng rỡ như mặt trời đó, chính bà ấy lại vi phạm đầu tiên. Hôm bà ấy đi, chúng ta cùng ngồi trên triền núi ngắm tà dương như thế này, ta thổi một khúc, A Luy hát còn A Mi múa. Ta chưa thổi hết bài, A Mi cũng chưa múa hết điệu thì A Luy đột ngột nói và ấy phải đi, phải đi tìm gã thiếu niên rạng rỡ như mặt trời đó. A Mi vô cùng giận dữ, đùng đùng bỏ đi. Ta tiễn A Luy, bà ta hỏi ta đã phải lòng cô nương nào chưa, đã có người mà mình muốn ở bên suốt đời hay chưa, khiến ta sực nhớ tới nữ tử áo xanh bên bờ Tề Hà kia. A Luy nói với ta, ‘Nếu huynh thích nàng thì nên bày tỏ lòng mình ngay đi, lẽ nào huynh không sợ nàng sẽ lấy người khác ư?’ Nghe bà ta nói, ta đột nhiên phát hoảng lên, lập tức quay về, chẳng kịp từ biệt A Mi nữa.”

Tuy biết sau cùng hai người kết thành chồng vợ nhưng A Hành vẫn hồi hộp hỏi, “Ngài có tìm được bà ấy không? Bà ấy vẫn ở bên bờ Tể Hà chứ?”

“Nửa đêm ta về tới bờ sông, chờ mãi đến bình minh mà chẳng gặp được nàng. Đóa hoa xanh biếc bên bờ vẫn bừng nở trong gió nhưng nữ tử cài hoa chẳng biết đã đi đâu. Ta vừa thất vọng vừa buồn bã, ngơ ngẩn ngồi bên sông suốt từ sáng đến tối như kẻ mất hồn, mãi tới khi đêm buông tối mịt, ta ngoảnh lại mới nhận ra nàng đang đứng phía sau, đóa hoa tang xanh biếc cài bên mái tóc, rưng rưng nước mắt nhìn ta. Thấy vậy, ta ngỡ người nhà nàng qua đời, lòng như lửa đốt, quên khuấy mất chúng ta chẳng quen biết gì nhau, thế nên câu đầu tiên ta nói với nàng là ‘cô đừng quá đau buồn, sau này ta sẽ chăm sóc cho cô.’ Nàng nhoẻn cười gỡ đóa hoa tang ném xuống sông, ‘hai mươi năm nay chẳng thấy ngươi xuất hiện, ta cứ tưởng ngươi đã xảy ra chuyện rồi.’ Bấy giờ ta mới hiểu thì ra nàng cài hoa để tang ta.”

“Sau đó thì sao?”

“Sau đó dĩ nhiên chúng ta còn phải trải qua rất nhiều sóng gió, phụ vương ta nhất quyết không đồng ý, viện cớ thân phận nàng quá thấp hèn, may có Xích Thủy thị giúp đỡ, ghi tên Thính Yêu vào tộc phả, nhờ đó nàng mới được gả cho ta dưới thân phận Xích Thủy thị.” Viếm Đế mìm cười vuốt ve tấm bia mộ.

“Thính Yêu giống như những đóa hoa dại trên triền núi này vậy, thoạt nhìn yếu ớt mong manh nhưng mưa to gió lớn đến mấy cũng chẳng vùi dập nổi, tiếc rằng chính ta lại hại chết nàng. Thể trạng Thính Yêu không tiện mang thai sinh nở nhưng ta thân làm Viêm Đế, nhất định phải có con nối dõi, thế nên nàng vì ta mà mang thai hết lần này sang lần khác, lúc sinh được Du Võng thì thân thể không chống chọi nổi nữa.” Viêm Đế ngả đầu vào bia mộ vợ, khẽ thì thầm: “Người người đều ca tụng ta y thuật quán tuyệt thiên hạ nhưng ta không cứu nổi nàng, chẳng cứu sống được Nữ Oa, cũng chẳng chữa khỏi cho Dao Cơ, một thầy thuốc vô dụng như ta chỉ có thể trơ mắt nhìn bọn họ từng người từng người chế đi trước mắt mình, A Luy, muội nói xem liệu Thính Yêu có oán trách ta không?”

A Hành biết tinh thần Viêm Đế đang rối loạn nên mới lầm lẫn giữa mình và mẹ, nàng đành nín thinh không dám lên tiếng, sợ Viêm Đế bị kích động.

Chỉ nghe Viêm Đế lẩm bẩm nói: “A Luy, ta là kẻ ích kỷ vô cùng! Đã biết sau khi ta chết sẽ có rất nhiều người đau khổ nhưng lại thầm mong mình chết cho mau, lúc Dao Cơ chết đi, ta chỉ muốn theo con bé quách cho rồi, có vậy ta mới được đoàn tụ cùng Thính Yêu. Người trong thiên hạ cứ ngỡ Viêm Đế đau buồn thành bệnh chỉ là nói phóng đại, có ai biết từ sau khi Thính Yêu ra đi, ta đã đổ bệnh, bệnh hơn ngàn năm nay rồi.”

Viêm Đế nắm lấy tay A Hành, “Từ khi ta lên làm Viêm Đế, chúng ta chẳng còn thư từ qua lại gì, nhưng lúc Dao Cơ ra đi muội lại gửi thư khuyên ta đừng đau buồn quá độ, phải biết rằng ta không chỉ là chồng của một người phụ nữ, cha của ba đứa con gái mà còn là Viêm Đế của toàn thiên hạ! Điều này sao ta không hiểu chứ? Nếu không hiểu, năm xưa ta sẽ không phản lại lời thề với Thính Yêu trong đêm tân hôn mà lên ngôi kế vị trở thành Viêm Đế, cũng sẽ không thể gắng gượng hết năm này sang năm khác tới tận hôm nay. Nhưng ta mệt lắm rồi, A Luy ạ! Lần này độc phát, ta đã nghĩ: vậy là muội không thể lấy đạo lý ra khuyên nhủ ta được nữa, ta nhất định phải chết rồi! A Luy, ta với muội tình như anh em, nhưng vì ta là Viêm Đế nên muốn gửi một bức thư cũng phải tránh tránh né né, Thính Yêu cũng vì ta là Viêm Đế mà mất sớm. Đời ta từ khi đăng cơ tới nay, tính kỹ lại những ngày vui vẻ chẳng được bao năm, sinh mệnh dài đằng đẵng mà niềm vui lại hiếm hoi, ta mệt lắm rồi, chỉ muốn nghỉ ngơi mà thôi, ta ích kỷ nên chỉ muốn nghỉ ngơi thôi…”

A Hành ròng ròng nước mắt, khẽ an ủi: “Ngài đừng ngại, cứ nghỉ ngơi đi, ngài đã gắng gượng vì muôn dân Thần Nông bao nhiêu năm nay rồi, chẳng ai nỡ trách ngài ích kỷ đâu.”

Đột nhiên nàng trông thấy Xi Vưu đang chạy như bay tới, người chưa đến mà linh lực đã đến trước, vây quanh bảo vệ cho Viêm Đế, vô số đóa hoa trắng li ti bỗng xuất hiện bao phủ lấy người đứng đầu Thần Nông quốc, linh thức của Viêm Đế cũng theo đó mà từ từ bình ổn, ông ngủ thiếp đi.

Xi Vưu vặn hỏi nàng: “Cô nói gì với ông ta thế? Bây giờ ông ta không chịu được kích động mạnh đâu.”

A Hành buồn rầu đáp: “Ta không nên tò mò hỏi những chuyện liên quan tới Viêm Hậu mới phải.”

Xi Vưu chăm chú nhìn nàng: “Sao cô lại để lộ dung mạo thật ra rồi?”

A Hành nghe nói mới sờ lên mặt, “Vừa nãy Viêm Đế nhắc tới mẹ ta khiến ta bất giác nghĩ tới hình ảnh mẹ mình lúc trẻ, chắc bởi thế nên Trụ Nhan hoa mới biến gương mặt ta trở lại như cũ.” Hèn chi tâm trạng Viêm Đế kích động như vậy, hóa ra đã lầm A Hành là mẹ của nàng.

Hết chương 9
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 15:28:09 | Xem tất
Chương 10


Dưới cội hoa đào cùng thề hứa.


10.1


“Tháng tư hàng năm, khi hoa đào nở đầy trên sườn núi là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê tộc, mọi người đều tụ tập dưới gốc đào hát tình ca tìm người thương. Từ sang năm trở đi, cứ đến tháng Tư, ta sẽ chờ cô dưới cội hoa đào ở Cửu Lê, không gặp không về.”


A Hành trằn trọc suốt đêm không chợp mắt. Trời vừa hửng sáng nàng đã trở dậy, thấy người mệt mỏi vô cùng, nhưng tinh thần lại rất tỉnh táo, không hề buồn ngủ chút nào.

Thấy Viêm Đế đang ngồi dưới hành lang đẽo tượng gỗ, nàng bèn bước lại ngồi đối diện với ông, nhìn ông lão hiền từ trước mặt, nàng không sao chấp nhận nổi việc con người đang gìn giữ sự yên bình cho địa hoang này lại sắp từ giã cõi đời.

Viêm Đế lên tiếng: “Tối qua ra thất thố trước mặt tiểu cô nương, khiến cô phải chê cười rồi.”

A Hành gỡ Trụ Nhan hoa trên tóc xuống, phân trần, “Bá bá, con là con gái của Tây Lăng Luy, tên thật là Hành, mẹ con gọi con là Hành nhi.”

Viêm Đế chăm chú nhìn A Hành hồi lâu rồi từ từ dời mắt nhìn sang Trụ Nhan hoa trong tay nàng, A Hành nhoẻn miệng cười, gài lại đóa hoa lên búi tóc, “Cái này con thắng được bên chỗ dì Mi đó.”

Viêm Đế phì cười, “Nghe nói Tây Vương Mẫu giam con suốt sáu mươi năm, thật không ngờ A Mi về già lại đâm ra khó tính, động tí là cáu kỉnh.” Nói rồi Viêm Đế ngẩn người ra, tắt hẳn nụ cười, “Lần cuối ta gặp A Mi là hôm ta thành hôn, nào ngờ một lần chia tay đã hơn hai ngàn năm rồi, bà ấy có khỏe không?”

A Hành nghĩ ngợi giây lát rồi đáp: “Khỏe lắm ạ, bà ấy thường đứng một mình bên vách núi ngắm hoàng hôn, a, phải rồi, bà ấy rất thích làm người gỗ, tạo ra rất nhiều cung nữ gỗ.”

Viêm Đế chăm chú đẽo một con chim gỗ, “Là ta và mẹ con dạy A Mi làm người gỗ đó, bà ấy thích một con chim gỗ biết hót líu lo nhưng lúc ấy không đủ linh lực để tạo ra nó, cứ năn nỉ đòi ta và A Luy làm hộ mình.”

Sợ khơi lại chuyện xưa, A Hành chẳng dám hỏi tiếp, vội chuyển chủ đề: “Xi Vưu đâu rồi ạ?”

Viêm Đế đáp: “Hắn vẫn đang lăng xăng trên mấy chóp núi bày bố trận pháp gì đó,ta đoán hắn định dựa vào khí đất thế trời để kéo dài mạng sống cho ta. Tuy Xi Vưu chẳng học gì về trận pháp nhưng trời sinh hắn đã nhạy cảm với ngũ hành linh khí, tự có cách bày binh bố trận riêng của mình.”

Đang nói chuyên thì Xi Vưu trở về, thấy thứ Viêm Đế cầm trong tay, hắn cau mày: “Định làm người gỗ à? Ông còn có linh lực hao phí vào những trò này nữa sao?

Để ta giúp ông một tay.”

Viêm Đế khước từ: “Ta muốn tự tay làm lấy.”

Xi Vưu lại nói: “Trên đỉnh Tử Kim dồi dào linh khí hơn đỉnh Tiểu Nguyệt, ông nên chuyển lên đó ở thì hơn.”

“Ta muốn ở lại đây.”

Xi Vưu cười phá lên, “Lão già này đến lúc sắp chết mới khá được một chút, trước đây chưa bao giờ nghe ông nói mình muốn cái gì, lúc nào cũng lải nhải là muôn dân nào là trăm họ! Ông xem, nói ra điều mình muốn có gì khó khăn đâu, có phải là thoải mái hơn suốt ngày cứ canh cánh lo cho thiên hạ không?”

Viêm Đế cũng bật cười vỗ đầu Xi Vưu: “Con khỉ nhà ngươi! Thuốc của A Hành để trong nhà kìa, đi sắc đi.”

“Ta nói bao nhiêu lần rồi? Đừng có vỗ đầu!” Xi Vưu vừa cau nhàu vừa vào phòng lấy thuốc ra, ngồi chồm hỗm bên khe suối sắc thuốc.

Các vị thuốc phải được bỏ vào sắc theo phân lượng và trình tự nghiêm ngặt, Xi Vưu thường ngày vẫn qua loa đại khái, ấy vậy mà giờ đây lại hết sức chăm chú cẩn thận.

A Hành nhìn hắn loay hoay, lòng vừa cảm động vừa e sợ.

Viêm Đế cười hỏi nàng: “Con đang nghĩ gì đó?”

“Có gì đâu ạ.”A Hành cúi đầu đáp.

Viêm Đế lại nói: “Xi Vưu thích con, con thấy sao?”

A Hành hốt hoảng ngẩng lên, chối bay chối biến: “Xi Vưu đùa đấy mà, hắn nhất thời ham vui thích lạ thôi.”

Viêm Đế nhìn Xi Vưu, vẻ hiền từ mà lo lắng hệt như cha già nhìn đứa con trai, “Con nhầm rồi, hắn là kẻ thành thật nhất trên đời này đấy, tình cảm của hắn xuất phát từ đáy lòng, không bợn chút tạp niệm, đó là tình cảm chân thành tha thiết không gì sánh nổi đâu.” Vừa khéo một đôi chim én bay ngang đầu họ, Viêm Đế chỉ tay nói tiếp: “Nhìn đôi én kia có vẻ rất hời hợt, chỉ ngày ngày nô giỡn, chưa từng hứa hẹn suốt đời suốt kiếp bên nhau nhưng chúng vẫn khăng khít cả đời không chia lìa, còn cha con tổ chức đám cưới linh đình đón mẹ con về, thề thốt trọn đời kết tóc, nhưng bao năm nay ông ta đối với bà ấy ra sao?”

A Hành ngây người nhìn đôi én bay xa dần, hồi lâu mới nói nhỏ: “Con sống ở Cửu Lê tộc một thời gian, phát hiện tín điều của họ là ‘con người chỉ sống ở hiện tại’, họ quan niệm chỉ cần vui vẻ trước mắt là được, dù mai này có chết ngay cũng chẳng sao, nhưng từ nhỏ tới lớn, cha lại dạy chúng con phải suy nghĩ kỹ rồi mới hành động, làm bất kỳ việc gì đều phải tính đến lợi ích lâu dài, không được ham vui cái trước mắt, vậy rốt cuộc thế nào mới là đúng đây?” Viêm Đế nghĩ ngợi một hồi đoạn đáp: “Cha con nói cũng không sai, ở vào vị trí của mình, ông ấy buộc phải như vậy. Có điều bao năm nay ta vẫn luôn hối hận vì mình không gần gũi Thính Yêu nhiều hơn nữa, ta luôn cho rằng sau này còn rất nhiều thời gian để bù đắp cho nàng, nhưng chuyện trên đời ai mà lường nổi chứ, chúng ta chỉ có thể nắm giữ được hiện tại mà thôi, dù là thần tiên cũng chẳng biết sau này sẽ xảy ra chuyện gì đâu.”

A Hành trầm ngâm suy nghĩ.

“Cô uống thuốc đi.” Xi Vưu bưng thuốc lại cho nàng.

A Hành uống hết thuốc liền nhoẻn miệng cười ngọt lịm: “Cảm ơn ngươi.”

Hiếm hoi lắm mới thấy A Hành dịu dàng vui vẻ với mình, Xi Vưu kinh ngạc đến đờ cả người ra.

Một con chim đỏ rực bay tới đậu lên vui Viêm Đế, Viêm Đế nói: “Du Võng và Mộc Cận đang lên núi, Xi Vưu, ngươi đưa A Hành vào trong núi đi, bọn chúng chưa biết bệnh tình của ta, ta muốn ngồi đợi chúng một mình.”

A Hành hỏi nhỏ: “Mộc Cận là ai thế?”

Đối với những chuyện này Xi Vưu rất hờ hững, chỉ trả lời ngắn gọn: “Con gái nuôi của Viêm Đế.”

“A, vậy cũng là vương cơ của Thần Nông, hèn chi nghe nói Thần Nông có bốn vị vương cơ, ta còn tưởng là lời đồn nhảm.”

Xi Vưu dắt A Hành lên đỉnh Bạch Tùng.

Đỉnh Bạch Tùng rất đẹp, thông trắng mọc đầy trên vách núi, hình dáng đủ vẻ, trong lúc rong chơi, cứ đi một bước lại thấy một khung cảnh khác nhau, đẹp không bút nào tả xiết.

Nhưng như vậy cũng chẳng có gì là lạ, điều khiến người ta kinh ngạc nhất chính là Xi Vưu, dường như hắn được trời ban cho khả năng thông thuộc núi rừng, chỗ nào có suối nước để uống, chỗ nào có quả dại để ăn, chỗ nào có thể gặp phải gấu… hắn đều biết hết, tựa như hắn là hóa thân của ngọn núi này vậy.

Đi mãi, hai người khát khô cả cổ, Xi Vưu bèn dắt nàng tới bên suối.

A Hành cúi xuống uống mấy ngụm nước, rửa qua mặt mũi rồi quay lại nhìn Xi Vưu, ánh mặt trời chính ngọ xuyên qua tán lá rừng rọi xuống khiến thảm rêu biếc bên bờ suối rực lên xanh ngời. Xi Vưu ngồi chồm hỗm trên tảng đá, tư thế vô cùng bất nhã nhưng lại toát lên vẻ thoải mái và uy nghiêm rất riêng của mãnh thú. Hắn nhoẻn miệng cười với A Hành, ánh mắt sáng rỡ khiến tim nàng bất giác đập rộn lên, không dám nhìn thẳng vào hắn, đành ngoảnh đầu đi, tiện tay cởi giày nhúng chân xuống suối, hai chân vung qua vẩy lại nghịch nước.

Xi Vưu nhảy đến ngồi bên cạnh, cùng vung vẩy chân nghịch nước với nàng.

Ánh mặt trời xuyên qua kẽ lá chiếu xuống dòng suối thành những vệt nắng lung linh, Xi Vưu mải mê vung chân đá những đốm nắng trên mặt nước hệt như một đứa trẻ, mỗi lần đá trúng lại phá lên cười sung sướng, tựa hồ những buồn lo về việc Viêm Đế bệnh nặng sắp qua đời chẳng hề ảnh hưởng gì tới hắn.

Nỗi mệt mỏi và sợ hãi trào lên từ tận đáy lòng A Hành, nàng vô tình ngả người dựa vào vai Xi Vưu.

Xi Vưu khẽ hỏi: “Sao thế?” A Hành hỏi lại hắn: “Viêm Đế còn được bao lâu nữa?”

“Bệnh của ông ấy càng về cuối sẽ càng đau đớn, vạn độc xâu xé bên trong, nhức nhối đến tận xương tủy, khó mà chịu đựng được, càng đi sớm thì càng đỡ chịu khổ, nhưng nhìn bề ngoài ông ta có vẻ thấu triệt tất cả, thật ra lại chẳng bỏ được gì cả, nhất định sẽ vì con dân của mình mà gượng sống đến khi nào không gắng nổi nữa mới thôi.” “Vậy rốt cuộc có thể gắng gượng bao lâu?”

“Chẳng biết nữa, có lẽ là ba năm, có lẽ là năm năm, nhưng dù chúng ta dùng linh lực kéo dài mạng sống cho ông ấy thì cũng không được quá mười năm đâu.”

“Xi Vưu, ta thấy mệt mỏi lắm, ta rất sợ.” Có lẽ non nước nơi này quá đỗi hữu tình, cũng có thể bờ vai Xi Vưu quá vững chãi nên lần đầu tiên, A Hành mới thổ lộ tâm tư của mình. Một khi chiến tranh bắt đầu, những kẻ đầu tiên bị cuốn vào chính là đám con cháu vương tộc như họ.

Xi Vưu áp mặt vào tóc nàng: “Nếu có mệt thì cứ tựa vào vai ta mà nghỉ ngơi, nếu cô sợ thì cứ núp vào lòng ta, để ta bảo vệ cho cô.”

Cảm nhận được hơi thở ấm áp của Xi Vưu, nàng chợt thấy lòng bình yên lạ, “Nếu ta dựa lâu quá, liệu ngươi có mệt không, có bực mình không?” Dường như bờ môi Xi Vưu lướt nhẹ trên tóc nàng rồi kề sát vào tai nàng nói nhỏ, “Không đâu, A Hành, lẽ nào đến giờ cô vẫn không hiểu ư? Ta cam lòng làm bất cứ chuyện gì vì cô.”

Như được vầng dương rạng ngời ấm áp rọi vào tận đáy lòng, cả người A Hành nóng bừng lên, bao nhiêu năm mệt mỏi lo âu đều tan biến cả. Suốt đêm thao thức, cơn buồn ngủ bây giờ mới dâng lên, nàng như con mèo nhỏ, ngáp một cái thật dài, “Buồn ngủ quá.” Nói rồi nàng ngả người nằm xuống phiến đá, Xi Vưu cũng nằm xuống theo. Hai người nằm cách nhau một quãng, giữ khoảng cách thân thiết mà không thân mật. A Hành nghe lòng bình yên lạ lùng, dường như mọi hiểm nguy gian khổ đều đã có Xi Vưu che chắn, lúc này đây, dù trời long đất lở, cũng có một người ở bên bảo vệ cho nàng.

Gió núi hây hẩy, tiếng suối reo róc rách theo gió đưa lại, càng làm nổi rõ sự yên ắng của núi rừng, ánh nắng được lọc qua tán lá, rạng rỡ mà không hề lóa mắt, đem hơi ấm gieo sâu vào đáy lòng bọn họ. Tựa hồ chỉ cần khép mi mắt lại, có thể nghe thấy cả tiếng năm tháng chuyển vần, Xi Vưu cùng A Hành đều nhắm mắt nằm nghỉ như thể cùng cảm nhận cái tĩnh lặng của thời gian cùng sự bình yên của hiện tại.

Khi mặt trời đã khuất hẳn về Tây, A Hành mới chậm rãi mở mắt ra, chỉ thấy trước mặt một dải non xanh nước biếc, rừng rậm um tùm, khói mây đỏ rực bảng lảng khắp nơi tạo thành những hoa văn thiên nhiên, cả bầu trời như biến thành một tấm gấm bảy màu tinh xảo, cánh én chao nghiêng bay lượn giữa tầng mây rực rỡ. A Hành nhìn ngắm đến ngây người hoa mắt. Trong lúc mơ mơ màng màng, nàng nghiêng đầu, vừa khéo bắt gặp một cặp mắt ranh mãnh đen thăm thẳm như trời đêm, mênh mông hun hút, long lanh mà nguy hiểm, A Hành chỉ biết ngẩn ngơ nhìn vào đôi mắt đó, quên hết thảy mình đang ở đâu, đêm nay là đêm nao.

Xi Vưu lặng lẽ sáp lại gần A Hành, bờ môi vừa chạm đến nàng, đột nhiên trong rừng vang lên tiếng quạ kêu quang quác. A Hành sực tỉnh ngồi phắt dậy, đỏ mặt tía tai, tim đập thình thịch nhưng vẫn cố lấy vẻ bình tĩnh nói: “Chúng ta về thôi.”

Xi Vưu thoáng sững ra rồi giận dữ ngửa cổ nhìn trời, gầm lên như dã thú, chỉ giây lát sau, đám chim thú trong rừng đều cuống cuồng bỏ chạy trối chết, chẳng bao lâu đã không còn bóng dáng, cả khu rừng lặng phắc như tờ, đến tiếng dế kêu cũng nín bặt.

Xi Vưu ngồi dậy đăm đăm nhìn A Hành, A Hành cũng vội né tránh ánh mắt hắn, rảo bước quay về Tiểu Nguyệt đỉnh, “Đi nào!”

Xi Vưu lặng lẽ theo sau nàng, đi một lúc lâu, thình lình hắn lên tiếng hỏi: “Bộ đồ đang mặc trên người ta là cô tự tay may đúng không?”

A Hành thoáng khựng lại, nàng không phủ định cũng không khẳng định, chỉ càng rảo bước nhanh hơn.

Xi Vưu cười toe toét, rảo chân đuổi kịp nàng rồi đắc ý nói: “Cô vừa chăm tằm vừa dệt lụa, vất vả hơn hai mươi năm, trên Ngọc sơn bao nhiêu cung nữ, ai mà chẳng biết. Ta đã hỏi rõ ràng từ lâu rồi.”

A Hành thẹn quá hóa giận, bực bội đáp: “Có gì to tát đâu? Chỉ là một chiếc áo thôi mà?” Dứt lời nàng chạy vụt đi, chảng thèm ngó đến Xi Vưu nữa.

Xi Vưu vội đuổi theo sau nàng, vừa đuổi vừa nói: “Ta sẽ mặc nó mãi mãi.”

Nghe vậy A Hành không nhịn nổi nhoẻn miệng cười, lại càng không dám nhìn mặt hắn, càng lúc càng chạy nhanh hơn.

A Hành thoăn thoắt băng qua cánh rừng như một chú hươu nhanh nhẹn, xông thẳng lên đỉnh Tiểu Nguyệt hệt một ngọn gió, vì chạy giữa đám cây cối um tùm, nàng sơ ý va phải một người, lập tức loạng choạng trượt ngã, suýt nữa thì trẹo chân, may sao đối phương kịp thời đỡ lấy.

A Hành ngẩng lên cười, “Cảm…”

Thấy người đứng trước mặt là Thiếu Hạo, tim nàng bỗng đập thình thịch, cả người nhũn ra, đỏ mặt tía tai ngây người tại chỗ.

Thiếu Hạo áy náy hỏi: “Cô nương không bị thương chứ?”

Nói rồi y nhìn ra sau lưng nàng, mỉm cười gật đầu. Nụ cười của Xi Vưu lập tức tắt lịm. Xi Vưu rảo bước tiến lại, một tay đỡ lấy A Hành, tay kia đẩy Thiếu Hạo ra, “Sao vương tử điện hạ lại tới Thần Nông sơn vậy?”

Thiếu Hạo chưa kịp đáp thì Du Võng cùng một thiếu nữ áo đỏ đã sánh vai nhau bước đến, A Hành đoán cô nương kia chính là Mộc Cận[1], con gái nuôi của Viêm Đế, quả là rực rỡ đẹp tươi như đóa hoa dâm bụt, hèn chi lấy tên là Mộc Cận.
[1] Mộc Cận có nghĩ là hoa dâm bụt.


Mộc Cận cười với Xi Vưu: “Vân Tang tỷ tỷ bị thương, may sao gặp được Thiếu Hạo điện hạ, điện hạ liền hộ tống Vân Tang tỷ tỷ về.” Chợt thấy Xi Vưu đang đỡ A Hành, nàng ta tắt hẳn nụ cười.

A Hành nhất thời sốt ruột, vội hỏi ngay: “Vân Tang thế nào rồi?”

Mộc Cận chòng chọc nhìn nàng, ánh mắt thấp thoáng địch ý: “Tên của vương cơ để cho ngươi gọi thẳng ra ư?”

Xi Vưu lạnh lùng xen ngang: “Tên vốn dùng để gọi.”

Mộc Cận bị bất ngờ liền nhìn chằm chằm Xi Vưu, rõ ràng rất ngạc nhiên vì gã Xi Vưu luôn thờ ơ trước mọi chuyện lại lên tiếng bênh vực A Hành, lệ từ từ dâng lên trong mắt nhưng vẫn bướng bỉnh cắn môi không khóc.

Du Võng chăm chú quan sát A Hành rồi từ tốn trả lời nàng: “Dọc đường gặp phải mấy tên Yêu tộc làm càn, vết thương cũng không có gì đáng ngại, chỉ cần nghỉ ngơi mấy tháng là khỏi thôi. Cô nương quen tỷ tỷ ta sao?”

A Hành gật đầu, lòng thầm thắc mắc, sao Vân Tang lại tới Cao Tân nhỉ? Mà sao lại vừa khéo gặp được Thiếu Hạo?

Một con chim đỏ rực bay tới đậu lên vai Du Võng, y bèn quay sang cười bảo mọi người: “Bữa tối đã chuẩn bị xong, phụ vương kêu chúng ta về.”

Trong phòng bày một bàn thức ăn đơn giản, Viêm Đế ngồi ghế đầu, bọn họ lần lượt thi lễ với Viêm Đế, Viêm Đế cũng chăm chú nhìn bọn họ, tâm tình có phần phức tạp. Hôm nay khéo sao bọn hậu sinh vãn bối nắm giữ cục thế thiên hạ tương lại lại tập họp trong căn nhà tranh vách nứa đơn sơ này, chẳng biết liệu mấy trăm năm nữa họ còn nhớ được ngày này hay không?

A Hành hỏi ngay: “Viêm Đế, con không đói, con muốn đi thăm Đại vương cơ được không ạ?”

Viêm Đế liếc Thiếu Hạo rồi đáp: “Con đi đi. Con nha đầu đó lớn rồi, rất nhiều chuyện nó không chịu nói với ta nữa. Con đi chuyện trò hỏi han nó cũng hay.” Rõ ràng ông đã nhận ra chuyện Vân Tang bị yêu quái đả thương chỉ là bịa đặt.

A Hành thi lễ rồi lui ra. Đợi nàng ra khỏi cửa, Mộc Cận không dằn lòng được vội hỏi: “Phụ vương, cô ấy là ai thế ạ?”

Viêm Đế nhìn Xi Vưu rồi lại nhìn sang Thiếu Hạo, đoạn giải thích với Du Võng và Mộc Cận: “Là con gái em kết nghĩa của ta, từ khi muội ấy lấy chồng, vì thân phận của mình, ta phải giữ giới hạn, chúng ta rất ít khi qua lại nên các con chưa từng gặp cô ấy.” Vẻ mặt Viêm Đế vô cùng cảm khái, hiển nhiên là lời thật lòng, ngay cả Thiếu Hạo suy nghĩ kín kẽ cũng phải tin tưởng, không hoài nghi thân phận A Hành nữa.

A Hành khẽ khàng bước vào phòng, trông thấy Vân Tang đang ngồi ủ rũ, ngơ ngẩn nhìn ra cửa sổ.

“Tỷ tỷ.” A Hành gỡ Trụ Nhan hoa ra, ngồi xuống bên cạnh Vân Tang.

Vân Tang bị bất ngờ tròn xoe mắt nhìn nàng, thoạt đầu còn bực bội không hiểu sao A Hành lại ở đây, nhưng thấy đóa hoa đào đẹp đẽ tươi mởn trong tay nàng, Vân Tang liền cầm lấy ngắm nghía một hồi, đoạn thở dài than: “Thì ra Xi Vưu đoạt lấy nó là để tặng muội.” Dứt lời lại gài hoa lên mái tóc nàng, “Thiếu Hạo đang ở trên núi, muội phải cẩn thận, đừng để lộ chân tướng.”

“Muội cũng vừa gặp y rồi.” Cả Trụ Nhan hoa cùng A Hành đều biến hình đổi dạng, “Tỷ tỷ, Thiếu Hạo cứu tỷ thế nào?”

“Ta gặp Nặc Nại rồi.”

“Chẳng phải y ở trong thiên lao ư?” A Hành kinh ngạc rồi sực hiểu ra, “Tỷ lên vào thiên lao của Cao Tân à?”

“Ừ.”

“Vậy tỷ gặp y rồi chứ?”

Vân Tang gật đầu.

“Tỷ nói cho y biết tỷ là ai chưa?” Vân Tang gật đầu.

“Y nói sao?”

Vân Tang ngân ngấn nước mắt, chỉ chực òa lên, “Lúc mới trông thấy ta, y tỏ vẻ thờ ơ, luôn miệng giục ta mau trở ra, nhưng ta thấy rõ ràng y vừa ngạc nhiên lại vừa mừng rỡ. Ta bèn cố lấy can đảm nói thật với y rằng mình không phải Hiên Viên vương cơ Hiên Viên Bạt mà là Vân Tang, Thần Nông vương cơ. Vẻ mặt y…”

Vân Tang ròng ròng nước mắt, “Y không nói một lời, nhưng vẻ mặt y, vẻ mặt y… chuyển từ ngỡ ngàng đến kinh ngạc, từ kinh ngạc sang giận dữ, rồi từ giận dữ dần dần trở thành bi thương. Y trừng trừng nhìn ta, ánh mắt bi thương trống rỗng đó như nói lên rằng trái tim y đang chết dần chết mòn, lúc y nổi giận, ta vô cùng kinh hoàng sợ hãi, nhưng khi y bi ai nhìn ta như thế, ta lại thấy thà rằng y giận dữ, thà rằng ý cứ đánh ta chửi ta đi…”

A Hành hỏi: “Sau đó y nói sao?”

Vân Tang nức nở lắc đầu, “Chẳng nói sao cả, y từ đầu đến cuối không hé răng nửa lời, sau đó đám lính trong thiên lao đuổi kịp bao vây ta, giữa lúc sống chết cách nhau gang tấc, ta van xin y dù ghét ta hận ta thì cũng nói với ta một lời nhưng y dứt khoát ngoảnh đi quay mặt vào tường, như đang nhập định vậy. Ta vừa đánh nhau với binh lính vừa khẩn cầu y: ‘Nếu hôm nay ngươi không lên tiếng thì ra cứ ở lì tại đây’, về sau, về sau… y cuối cùng cũng nói một câu…”

A Hành nhẹ cả người, “Y nói gì?”

“Cút! Y bảo ta cút!”

Vân Tang khóc không ra tiếng, nghẹn ngào kể tiếp: “Lúc đó ta cũng nổi điên lên hét vào mặt y, ‘Ngươi đuổi ta cút, ta cứ không cút đấy.’ Có điều tuy ta có linh dược của phụ vương bảo hộ nhưng vẫn bị thương, cuối cùng bị quân lính bắt được. Khi ấy ta vô cùng hoảng hốt, nếu để Tuấn Đế biết được thân phận thật của ta, nhất định sẽ nổi lên một trận sóng gió to lớn, nhưng ta chẳng hề hối hận! May sao Thiên Hạo tới kịp, y rất nhanh trí, liền hạ lệnh cho tất cả thị vệ lui ra rồi hỏi ta rốt cuộc là ai, thấy ta không chịu hé răng, y nói, ‘Tuy ta không nhìn ta dung mạo thật của ngươi, nhưng ta nhận ra ngươi đeo mặt nạ Nhân Diện Tâm, trên đời này, chỉ có Luy Tổ trên Hiên Viên sơn mới dệt được thứ mặt nạ tinh xảo nhường này từ tơ Nhân Diện Tâm mà thôi, nghe nói bà ta cũng chỉ làm ra bốn chiếc, chia cho bốn người con, mặt nạ ngươi đang đeo lại là của nữ, hẳn là do Hiên Viên Bạt tặng cho.’ Ta càng nghe càng căng thẳng, đánh liều nghĩ, dù sao y cũng không thể lột mặt nạ ta ra được, chỉ cần ta không thừa nhận thì y đừng hòng biết được thân phận của ta, nào ngờ lúc đó Thiếu Hạo nói ra một câu khiến ta vô cùng cảm động.”

Vân Tang ngẩng lên nhìn A Hành, “Y nói rằng, ‘Hiên Viên Bạt là vị hôn thê của ta, bạn bè của nàng cũng là bạn bè của ta, ngươi đã không muốn người khác biết thân phận thì khỏi cần nói với ta, chỉ cần ngươi bảo nơi nào an toàn, ta sẽ phái người thân tín đưa ngươi đến đó.’”

A Hành thấy ngực cuộn lên, lại nghe Vân Tang khẽ thở dài, “Y quân tử như vậy, sao ta có thể ngờ vực được nữa? Thế nên ta nói y đưa ta về Thần Nông sơn, y nhận ra thân phận của ta ngay, trầm ngâm một lát rồi nói, chuyện này càng ít người hay càng tốt, y sẽ đích thân đưa ta về. Dọc đường y chẳng hề hỏi ta sao nửa đêm lại xông vào thiên lao của Cao Tân, về tới Thần nông cũng không nhắc gì đến nguyên nhân thật sự làm ta bị thương, tuy cha biết ta nói dối nhưng ông vẫn luôn yên tâm về ta nên chẳng hỏi nhiều, lỡ như ông biết ta đã làm gì, nhất định sẽ…”

Vân Tang cúi đầu, lấy khăn chậm nước mắt.

A Hành lặng thinh hồi lâu mới nói: “Tỷ tỷ, thật ta Nặc Nại vẫn quan tâm tỷ lắm đó.”

Vân Tang cười ảo não, “Ta tự làm tự chịu, muội khỏi cần an ủi.”

“Y chửi tỷ, bảo tỷ cút, thật ra là đang bảo vệ tỷ, cũng như lúc mới gặp luôn miệng giục tỷ đi mau đó thôi.”

Vân Tang còn thấy hiểu nhân tình thế thái hơn A Hành nhiều, nhưng vì lo nghĩ quá đâm ra rối loạn, lúc này nghe A Hành nói vậy, Vân Tang vẫn nửa tin nửa ngờ, đồng thời một ý nghĩ khác lại trỗi lên càng lúc càng rõ rệt. Nửa đêm có kẻ xông vào thiên lao tuy là chuyện nghiêm trọng nhưng cũng chẳng đến nỗi kinh động tới Thiếu Hạo, vậy mà y tức tốc kéo tới như thế, nhất định là vì Nặc Nại. Hẳn y đã nhận ra quan hệ giữa nàng và Nặc Nại không bình thường nên ngay từ đầu đã rất lễ độ khách sáo. Y bao che cho nàng không chỉ bởi nể mặt Hiên Viên Bạt, mà quan trọng hơn là vì Nặc Nại và Hy Hòa bộ sau lưng Nặc Nại nữa kia.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-12-2013 15:49:15 | Xem tất
Chương 10


Dưới cội hoa đào cùng thề hứa.


10.2


Vân Tang cúi đầu ngồi lặng, nhưng nét mặt dần dần tươi lên, A Hành chăm chú nhìn nàng, lòng thầm buồn bã, Vân Tang cẫn chưa biết bệnh trạng của Viêm Đế, đợi đến khi nàng biết được chẳng rõ còn đau khổ tới nhường nào.

Đột nhiên Vân Tang ngẩng lên, buồn buồn hỏi: “Muội sao thế? Sao trông muội âu sầu vậy?”

A Hành đứng dậy, “Muội ra xem bọn họ thế nào, chắc Thiếu Hạo sắp cáo từ xuống núi rồi.”

Vân Tang siết chặt tay nàng, “Thay ta cảm tạ Thiếu Hạo nhé.”

A Hành gật đầu, Vân Tang dường như định nói thêm gì đó nhưng trầm ngâm một hồi lại thôi, chỉ thở dài buông tay A Hành ra.

A Hành thả bước lững thững đi về phía sườn núi, bỗng Liệt Dương từ đâu bay lại lượn vòng vòng quanh nàng rồi lặng lẽ đầu xuống vai, tựa hồ cũng nhận ta tâm tình nàng đang trĩu nặng.

A Hành vỗ về nó: “Sớm muộn gì Vân Tang cũng biết bệnh tình của Viêm Đế thôi, lúc Dao Cơ tỷ tỷ chết đi, có lẽ Vân Tang ngỡ rằng mọi chuyện đã kết thúc rồi, bao nhiêu đau đớn đều trút ra bằng hết, nào ngờ… Bây giờ là lúc Vân Tang cần được Nặc Nại thông cảm và bỏ qua nhất, chỉ cần trong lòng y vẫn quan tâm tới Vân Tang, nhất định sẽ không nỡ để tỷ ấy phải cùng lúc gánh chịu hai nỗi đau, ắt hắn sẽ tới thăm tỷ ấy.”

Thấy Liệt Dương nghiêng đầu nhìn mình, A Hành bèn rút thẻ ngọc ra, dùng linh lực viết thư cho Nặc Nại, vừa viết được mấy chữ “Viêm Đế bệnh nặng…” sực nhớ tới lời Vân Tang từng nói, “Chuyện trong vương tộc lúc nào cũng phức tạp”, nàng liền khựng lại, trầm ngâm nghĩ ngợi.

Bệnh tình của Viêm Đế liên quan tới cục diện thiên hạ, lại dính dáng cả tới việc kế thừa đế vị ở Thần Nông nên đó là bí mật tối cao, đừng nói tới nước khác mà ngay cả những trọng thần trong nước như Chúc Dung, Hậu Thổ cũng không được biết. E rằng chính Vân Tang cũng chẳng thể nói với Nặc Nại về tình trạng của cha mình, A Hành sao dám tự tiện tiết lộ chuyện đó cho một viên tướng Cao Tân nắm giữ binh quyền kia chứ?

A Hành lặng cả người. Nếu là người thường, vào lúc đau khổ nhất khi cha lâm bệnh nặng, hẳn luôn khao khát có người yêu ở bên mình san sẻ, nhưng Vân Tang còn chẳng có quyền được tâm sự với Nặc Nại. Dù đau buồn đến đâu chăng nữa, Vân Tang vẫn phải vờ như không có chuyện gì, Nặc Nại cũng sẽ không thể nào hiểu được nỗi đau mà Vân Tang sắp phải gánh chịu.

A Hành đứng lặng hồi lâu đoạn xóa hết những câu liên quan tới Viêm Đế, chỉ nói chuyện hiểu lầm bắt nguồn từ lúc Nặc Nại nhận nhầm Vân Tang ở Ao Đột quán, giải thích cặn kẽ mọi việc đều là do Vân Tang nhất thời quá xúc động nên vô tình sơ suất, tuyệt đối không có ý lừa gạt. Khẩn cầu Nặc Nại bỏ qua cho Vân Tang.

Viêm Đế cảm tạ Thiếu Hạo lần nữa rồi sai Du Võng và Xi Vưu tiễn khách, Du Võng cùng Thiếu Hạo sánh vai nhau vừa đi vừa cười nói, Xi Vưu tụt lại phía sau mấy bước đã thấy Mộc Cận tung tăng bám theo, cứ ríu ra ríu rít níu lấy Xi Vưu hỏi chuyện trên tiệc Bàn Đào. Thấy Xi Vưu chẳng nói chẳng rằng, nàng ta cũng đã quen, bèn tự hỏi tự đáp tự tiêu khiển một mình.

Mọi người ra khỏi sơn cốc, bắt gặp A Hành đứng bên sườn núi lặng lẽ nhìn về phía xa xăm, Lang điểu trắng phau đậu trên vai nàng. Nghe thấy tiếng cười nói của bọn họ, nàng liền ngoảnh lại, giữa sắc chiều mênh mông, khói núi man mác, sương mù mờ mịt, dung mạo nàng khi tỏ khi mờ, nhưng nỗi bi thương thấp thoáng vẫn còn vương trên tay áo phất phơ.

Thiếu Hạo chợt nghe lòng rung động, cảm thấy cảnh tượng này quen quen nhưng nghĩ mãi không ra đã từng gặp ở đâu.

Xi Vưu rảo bước lại gần, Liệt Dương quác một tiếng bay tới đậu lên vai hắn. Mộc Cận chưa từng gặp qua con chim nào đẹp đẽ oai nghiêm như thế bèn giờ tay định vuốt ve, nào ngờ bị Lang điểu hung hăng mổ cho một nhát, may sao Mộc Vận rụt tay kịp nên không chảy máu, có điều vẫn rất đau. Thấy nàng nổi giận định đánh Liệt Dương,

Xi Vưu liền lên tiếng cảnh cáo: “Đừng động vào nó.” Mộc Cận uất ức: “Xi Vưu!”

Du Võng cùng Thiếu Hạo hành lễ từ biệt nhau, A Hành cũng bước tới nói với Thiếu Hạo: “Vương cơ nhà tôi chuyển lời cảm ơn tới ngài. Điện hạ, tôi nói với ngài mấy lời được không?”

Du Võng biết ý tránh sang bên, Xi Vưu chăm chú nhìn A Hành nhưng nàng lờ đi như không thấy, chỉ đưa cho Thiếu Hạo một tấm thẻ ngọc, khẽ nói: “Phiền điện hạ giao bức thư này cho Nặc Nại tướng quân.”

Thiếu Hạo giơ tay đón lấy, “Cô nương yên tâm, ta sẽ tự tay đưa nó cho Nặc Nại.”

A Hành thi lễ cảm tạ, Thiếu Hạo đăm đăm nhìn nàng hổi lâu, lắc đầu, “Lạ thật, ta cứ cảm giác từng gặp cô ở đâu rồi.”

Nghe y nói, A Hành giật thót mình, may sao Thiếu Hạo chẳng truy cứu thêm, chỉ mỉm cười bước lên lưng Huyền điểu, chắp tay chào tất cả, “Các vị, hẹn ngày gặp lại.”

Dõi mắt nhìn theo Huyền điểu khuất sau tầng mây, Du Võng cảm phục thốt lên, “Hèn chi cả phụ vương cũng hết lời khen ngợi Thiếu Hạo Thanh Dương, mấy trăm năm trước gặp Thanh Dương, ta từng nghĩ trên đời này làm gì có vị thần nào sánh được với y. Hôm nay gặp Thiếu Hạo, ta mới thật sự tin rằng, Cao Tân và Hiên Viên có được bọn họ quả là may mắn!”

Mộc Cận khinh khỉnh nói: “Thần Nông chúng ta cũng có Xi Vưu!”

Du Võng thở dài, lời lẽ có phần thất vọng nhưng kỳ thực lại âm thầm vui sướng: “Tiếc rằng Xi Vưu không giống họ!”

“Không giống chỗ nào? Xi Vưu…” Mộc Cận ngoảnh lại, trông thấy Xi Vưu đang đứng bên A Hành, vừa trò chuyện vừa đánh lộn với Lang điểu, lửa đỏ cuộn lên giữa những kẽ tay, rõ ràng chẳng buồn nghe Du Võng và nàng nói gì.

Mộc Cận tức tối giậm chân hét: “Xi Vưu, phụ vương dặn chúng ta tiễn Thiếu Hạo xong phải về ngay, Người còn có việc quan trọng dặn dò.”

A Hành buồn bã cáo từ Du Võng, “Điện hạ, tôi không tiện…”

Du Võng thân thiết nói: “Phụ vương dặn ta mời cả cô cùng về. Ngài nói cô là con gái của cô cô, hai ta cũng xem như anh em, ta phải gọi cô là gì đây?”

“Tôi tên A Hành.” “Hành muội muội, muội cứ kêu ra bằng Du Võng, hoặc gọi ca ca cũng được.”

Lúc A Hành cùng bọn Du Võng về tới nơi, Viêm Đế đang ngồi một mình bên đống lửa, trông thấy họ bèn vẫy họ lại đó ngồi.

Viêm Đế bảo Du Võng cùng Mộc Cận: “Ta vốn định nói với Vân Tang cả thể, nhưng giờ nó đang bị thương nên đành tạm giấu một thời gian. Hai người các con phải nhớ, chuyện này liên quan tới an nguy của Thần Nông, chưa được phép của ta nhất định không được cho bất kỳ ai biết, Mộc Cận, con đã rõ chưa?”

Mộc Cận nghiêm mặt lại, cũng phảng phất mấy phần phong thái trầm ổn của Vân Tang, “Con chơi chung với Hậu Thổ từ nhỏ, tình cảm khăng khít nên phụ vương lo rằng con sẽ tiết lộ với y chứ gì. Xin phụ vương cứ yên tâm, tuy hằng ngày con có phần ngang ngạnh nhưng chẳng phải kẻ không biết nặng nhẹ đâu.”

Viêm Đế gật đầu, hiền từ nhìn Du Võng và Mộc Cận rồi nghiêm trang nói: “Ta trúng độc rồi, có lẽ chỉ sống được chừng dăm năm nữa thôi.”

Du Võng cùng Mộc Cận kinh hoàng tròn mắt nhìn Viêm Đế, như không tin nổi tai mình, nhưng họ hiểu Viêm Đế xưa nay chưa từng nói giỡn, trong mắt dần dần lộ vẻ kinh khiếp.

Viêm Đế chẳng nói thêm nữa, chỉ mỉm cười nhìn hai người như đợi cho bọn họ từ từ tiếp nhận sự thực đó.

Một lúc lâu sau, Mộc Cận bật cười khan, “Phụ vương, y thuật của người đứng đầu thiên hạ, làm gì có thứ độc nào người không giải nổi chứ?” Dứt lời nàng đưa mắt nhìn Xi Vưu như đợi hắn phụ họa với mình.

Xi Vưu chỉ lạnh lùng nói: “Sư phụ không còn được lâu nữa đâu.”

Mộc Cận sững người, nước mắt trào ra.

Du Võng gầm lên giận dữ, xông tới toan đánh Xi Vưu, “Người nói láo!”

“Du Võng!” Viêm Đế trầm giọng quát. Du Võng túm lấy cổ áo Xi Vưu, Xi Vưu vẫn giữ vẻ thờ ơ nhưng ánh mắt kiên nghị lại đăm đăm nhìn y như muốn nói, bây giờ là lúc Viêm Đế cần tới sự kiên cường của Du Võng nhất. Qua một hồi, Du Võng từ từ bình tĩnh lại, buông Xi Vưu ra rồi quỳ xuống trước mặt Viêm Đế khẽ gọi “Phụ vương.” Cả người y run lên lẩy bẩy vì phải kìm nén bi thương khiến A Hành cũng cúi đầu xuống không nỡ nhìn.

Tuy Mộc Cận vẫn chưa nén nổi bi thương nhưng thấy mọi người đều nghiêm trang chăm chú, tiếng nức nở của nàng cũng lịm dần, A Hành khẽ khàng dúi cho nàng một chiếc khăn tay.

Viêm Đế bảo Du Võng: “Thần lực của con thấp kém, lòng dạ lại quá yếu mềm, không quyết đoán, khó mà lãnh đạo nổi một tộc. Trước đây ta đã mấy lần định truyền ngôi cho người khác, nhưng lại e còn dẫn tới sóng gió lớn hơn. Dù sao con vẫn là trữ quân[2] danh chính ngôn thuận, dẫu dám Chúc Dung không phục cũng chẳng dám tùy tiện khởi binh tạo phản, nhưng nếu đổi thành người khác, có thể sẽ khiến Thần Nông quốc chia năm xẻ bảy ngay.”

[2] Hoàng đế tương lai, thường dùng để chỉ thái tử.


Du Võng hổ thẹn đáp: “Con hiểu, tại con quá vô dụng, làm phụ vương phải lo nghĩ.”

Viêm Đế mỉm cười vỗ vai Du Võng, “Mẹ con còn không nỡ làm đau một bông hoa cọng cỏ, lúc bà ấy mang thai con, chúng ta thường nói chẳng hiểu con sẽ ra sao, mẹ con bảo ‘thiếp chẳng cần con thần lực cao cường, cũng chẳng cần con ưu tú xuất sắc, chỉ mong con nó ôn hòa lương thiện, cả đời bình yên là được rồi.’”

Du Võng rúng động toàn thân, ngẩn ngơ nhìn Viêm Đế như không tin nổi tai mình. Viêm Đế nói tiếp: “Ta vui lắm, mẹ con chắc hẳn còn vui hơn, con trai đã không phụ kỳ vọng của chúng ta, chẳng những ôn hòa lương thiện mà còn rộng lượng bao dung nữa.”

Khóe mắt Du Võng long lanh ánh lệ, y vội cúi đầu nghẹn ngào nói, “Con cứ tưởng, cứ tưởng phụ vương rất thất vọng về con.”

Viêm Đế lắc đầu, “Xưa nay ta chưa từng thất vọng về con, là ta không phải với con, buộc con phải làm con trai Viêm Đế, nếu con sinh ra trong một gia đình Thần tộc bình thường, hẳn sẽ hạnh phúc hơn bây giờ nhiều, có thể làm bất kỳ việc gì con muốn. Ta có lỗi với con, càng có lỗi với các tỷ tỷ con, tại ta khiến mẹ các con phải gánh vác trọng trách mà đáng lẽ bà ấy không nên gánh vác, cũng tại ta mà Vân Tang không thể làm những việc nó muốn, buộc phải làm Đại vương cơ Thần Nông. Có lẽ ta không phải một vị vua bất tài, nhưng ta lại chẳng thể làm một người chồng tốt, càng không thể làm người cha tốt.”

Du Võng không nén nổi nước mắt chan hòa, “Phụ vương, Người đừng nói thế, mẹ và chúng con đâu bao giờ oán trách Người.” “Giờ đây ta lại sắp giao vận mệnh của cả Thần Nông tộc vào tay con, bắt con phải gánh trách nhiệm mà con không muốn gánh.”

Du Võng dập đầu, “Con nguyện sẽ dốc hết sức mình.”

Viêm Đế đặt cả hai tay lên vai y, ánh mắt ngập những âu lo, nhưng cuối cùng chỉ ra sức đè vào vai y như thể muốn ấn cho y nẳm rạp xuống, Du Võng gắng gượng ưỡn thẳng lưng, bất luận ra sao cũng không chịu khuất phục, tựa hồ trong lúc một người ra sức ấn xuống, một kẻ ra sức chống lại, đã tiếp nhận thứ gì đó.

Hồi lâu Viêm Đế lại nói tiếp: “Ta muốn phong cho Xi Vưu là Đốc Quốc đại tướng quân, con thấy sao?”

Du Võng liền đáp:”Xin nghe theo phụ vương sắp xếp.”

Viêm Đế chỉ Xi Vưu, bảo Du Võng, “Con mau dập đầu với hắn ba cái, thề rằng sẽ tin tưởng hắn suốt đời, không bao giờ ngờ vực, xin hắn thề cả đời này phò trợ cho con.”

Du Võng quỳ xuống trước mặt Xi Vưu, một tay chỉ lên trời, một tay hướng xuống đất thề: “Phụ vương ta ngồi đây, mẹ ta chôn cất ở đây, có cha mẹ chứng kiến, Thần Nông Du Võng ta xin thề vời trờ đất dù xảy ra bất kỳ chuyện gì, ta cũng sẽ suốt đời tin cậy Xi Vưu, không ngờ không vực, nếu trái lời thề thì cha mẹ không tha, trời đất đều trừng trị.” Nói rồi y liền dập đầu binh binh ba cái.

Xi Vưu chỉ thờ ơ nói, “Ta nhận lời, sẽ dốc hết sức giúp đỡ ngươi.”

Xi Vưu thề đơn giản đến nỗi chẳng giống thề thốt chút nào, nhưng Viêm Đế lại thở phảo nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng, ông tươi cười một tay kéo Du Võng, tay kia kéo Xi Vưu, đặt bàn tay hai người vào nhau, “Thần Nông tộc phải trông cậy vào các con rồi.”

Du Võng nắm chặt lấy tay Xi Vưu, rưng rưng nước mắt nhìn hắn cười. Xi Vưu cũng cười tươi siết chặt tay y, dùng sức lắc lắc, Du Võng bèn thụi hắn một quả, “Sau này ta nhờ ngươi làm gì, ngươi đừng có bắt ta đi trộm rượu nữa nhé.” Lần này mới thật sự là lời thề giữa đôi bên, một khi đã siết tay thề, về sau dù núi đao biển lửa, huynh đệ cũng phải sát cánh bên nhau.

Viêm Đế mừng rỡ cười lớn, “Hôm nay chẳng cần hai con khỉ các ngươi đi ăn trộm, Mộc Cận, con vào nhà đem hết rượu ra đây.”

Đột nhiên Vân Tang sắc mặt tái xanh từ góc tối bước ra, mỉm cười lên tiếng, “Đừng quên phần con một chén chứ.” Rõ ràng những lời Viêm Đế nói vừa rồi nàng đã nghe thấy cả.

A Hành lập tức đứng dậy đỡ Vân Tang, lo âu nhìn nàng, Vân Tang bấm tay A Hành, tỏ ý rằng mình không sao, vẫn có thể chịu đựng được.

Ảnh hưởng thái độ thờ ơ của Xi Vưu cùng vẻ điềm tĩnh của Vân Tang nên tuy tâm trạng rất nặng nề, Du Võng và Mộc Cận vẫn giữ được vẻ bình thảnh, chuốc hết chén này sang chén khác, cười nói với Viêm Đế, tạm quên đi bệnh tình của ông.

Viêm Đế bước tới bảo A Hành: “Hành nhi, con đi với ta một quãng nhé, cho tỉnh rượu ấy mà.”

A Hành hiểu Viêm Đế có lời muốn nói, vội đứng dậy đỡ Viêm Đế đi về phía sơn cốc.

Từ khi nhận ra Xi Vưu thích A Hành, Viêm Đế luôn vô tình hoặc cố ý muốn tác hợp cho hai người, dù đứng trên địa vị của bậc cha chú hay vì lòng riêng của đấng quân vương thì mối duyên giữa Hiên Viên và Cao Tân đối với Thần Nông cũng vô cùng bất lợi, có điều cả ngày vui vầy cùng con cái, lòng tư lợi của đế vương đã nhạt đi nhiều, thậm chí, Viêm Đế còn có phần áy náy với A Hành.

Viêm Đế rút ra một cuộn thẻ ngọc đưa cho nàng: “Cái này tặng con, hy vọng một ngày nào đó nó có thể giúp được con.”

A Hành dùng linh thức xem qua, trông thấy mấy chữ lớn ngay trên đầu: “Thần Nông bản thảo kinh?”

“Đây là tâm huyết cả đời ta, coi như quà gặp mặt bá bá tặng con đi.”

“Sao bá bá không truyền cho Vân Tang tỷ tỷ?”

“Vân Tang không có thiên bẩm về mặt này, dù sao y dược cũng liên quan mật thiết tới sống chết, mà trong lòng Vân Tang lại luôn chống đối những điều đó. Hơn nữa đây chẳng phải vật tốt lành gì, bao nhiêu người nhăm nhe muốn đoạt lấy nó, nếu để lại cho Vân Tan, e rằng sẽ dẫn tới mối họa sát nhân.”

Vẻ mặt A Hành nghiêm trang hẳn, nàng hiểu mình đang nắm trong tay tâm huyết cả đời của nhân vật đứng đầu thiên hạ, có thể lấy mạng tuyệt đại anh hùng dễ như trở bàn tay, cũng có thể dựa vào y thuật thần thông mà thao túng thiên hạ, bèn nhắc nhở Viêm Đế: “Nhưng con là con gái Hiên Viên Hoàng Đế!”

Viêm Đế mỉm cười: “Con cũng là con gái nghĩa muội Tây Lăng Luy của ta!”

A Hành thoáng do dự rồi nhận lấy cuộn thẻ ngọc: “Con tạ ơn bá bá!”

Viêm Đế nói: “Con đừng tạ ơn, còn chưa biết được là phúc hay họa đâu!”

A Hành quỳ xuống dập đầu với Viêm Đế, “Bá bá, con định sẽ rời khỏi đây ngay. Trên đời chẳng bức tường nào không thông gió, một khi thân phận con bị phát hiện, e rằng sẽ khơi dậy sóng to gió lớn, khiến Thần Nông tộc đang lúc rối ren này phải gánh thêm đại họa, lại khiến Xi Vưu gặp nguy hiểm, dù là vì bá bá hay vì Xi Vưu, con cũng nên đi sớm là hơn.”

Viêm Đế trầm ngâm nghĩ ngợi, A Hành bị cuốn vào vòng xoáy này một phần là do ông gây nên, vậy mà nàng vẫn luôn nghĩ cho ông, khiến Viêm Đế càng thêm thương xót nàng, nhưng cũng chỉ có thể thương xót mà thôi.

A Hành lại hỏi: “Bá bá có lời gì muốn nhắn với mẹ con không ạ?”

Viêm Đế đăm đăm nhìn về phía cuối trời, thần sắc như đang quay về những ngày tháng vui vẻ mấy ngàn năm trước, dẫu nét băn khoăn vẫn vấn vương trong mắt nhưng nụ cười đã trở nên phóng khoáng hào sảng, phảng phất dáng vẻ thời trai tráng, “Không cần đâu, những lời ta muốn nói bà ấy đều hiểu cả rồi.”

A Hành liền đứng dậy, “Bá Bá, vậy con đi đây, Xi Vưu vẫn còn ở đó, làm phiền bá bá từ biệt hắn giùm con.”  Hành bước tới bên vách núi, cất tiếng gọi Liệt Dương và A Tệ.

“Cô định không từ mà biệt thật đấy à?”

A Hành ngoảnh lại, trông thấy Xi Vưu đứng dưới một trời sao lấp lánh, như bình thản, lại như đang bừng bừng lửa giận.

Nàng lặng người đi. Bỗng có tiếng ho sù sụ vang lên, Vân Tang cưỡi hươu sao chạy tới, hổn hển bảo Xi Vưu: “Nếu ngươi thật lòng quan tâm A Hành thì nên để muội ấy đi đi. Thế lực của bọn Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ hết sức vững mạnh, bệnh tình phụ vương e rằng không giấu được bao lâu, trước đây bọn chúng cho rằng phải vài ngàn năm nữa mới xảy ra chuyện tranh quyền đoạt vị, nên dù dã tâm dã tâm lớn đến đâu cũng cố kìm nén, bây giờ mọi chuyện đột ngột thay đổi, nhất định chúng sẽ rối cả lên, tuy có thể nhất thời chưa dám ra tay với Du Võng, nhưng chúng chẳng kiêng nể gì ngươi đâu.”

Thấy Xi Vưu tỏ vẻ coi thường, Vân Tang nói tiếp: “Một mình ngươi đương nhiên không sợ nhưng hiện giờ trong tay ngươi chẳng có lấy một binh một tốt, ngươi không sợ kẻ nào đó muốn nhổ cỏ tận gốc, làm tổn thương tới A Hành ư?”

Xi Vưu làm thinh không nói.

Biết mình đã chạn tới điểm yếu của Xi Vưu, Vân Tang cũng chẳng nói thêm, chỉ vỗ vỗ lên mình hươu sao, hươu sao liền cõng nàng rời khỏi đó. Nghe tiếng ho khe khẽ vẳng lại, A Hành gọi với theo: “Vân Tang tỷ, tỷ nhớ… phải bảo trọng.”

Vân Tang ngoái lại cười nói: “Yên tâm, tỷ không sao, muội… cũng phải tự chăm sóc lấy mình.” Đôi bên đều rưng rưng nước mắt nhìn nhau, A Hành gật gật đầu cười, Vân Tang cũng cười rồi khuất bóng sau cánh rừng rậm rạp.

Xi Vưu bước tới bên A Hành hỏi nhỏ: “Cô dự định thế nào? Rời khỏi Thần Nông sơn định đi đâu đây?”

A Hành mỉm cười, “Mẹ không cho ta về Hiên Viên sơn nữa, nhân lúc thiên hạ thái bình, ta muốn đi rong chơi khắp nơi như khi xưa vậy.”

Nhớ lại chuyện xưa, khóe miệng Xi Vưu cũng thấp thoáng nụ cười, “Cô đáp ứng ta một chuyện được không?”

“Chuyện gì cơ?”

“Mỗi năm để ta gặp cô một lần.”

“Làm sao gặp được? Bệnh tình Viêm Đế càng nặng thêm, lệnh giới nghiêm của Thần Nông quốc sẽ càng lúc càng nghiêm ngặt, e rằng muốn ra vào cũng rất khó khăn.”

“Tháng Tư hàng năm, khi hoa đào nở đầy trên sườn núi là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê tộc, mọi người đều tụ tập dưới gốc đào hát tình ca, tìm người thương. Từ sang năm trở đi, cứ đến tháng Tư, ta sẽ chờ cô dưới cội đào ở Cửu Lê, không gặp không về.”

Nhớ tới miền đào nguyên ngoài cõi thế tươi đẹp tự do Cửu Lê, A Hành chợt thấy ấm áp ngập lòng, từng cảnh tượng như hiện ra rõ rành rành trước mắt nàng, cuộc hẹn hò dưới trăng của Mê Đóa và Kim Đan, bát Ca tửu sóng sánh đậm đà, khúc tình ca nồng nàn phóng khoáng… Câu nói của Viêm Đế vẫn còn văng vẳng bên tai, nàng muốn như đôi én nhỏ chao liệng giữa núi rừng, ríu rít bên nhau tới bạc đầu hay muốn tháng lại năm qua một mình tựa bóng giữa cung điện nguy nga lộng lẫy đến hết đời giống mẹ?

A Hành nghĩ ngợi miên man hồi lâu không đáp. “Tây Lăng Hành, cô không đồng ý ư?” Xi Vưu nắm chặt lấy nàng, nét mặt lạnh lùng chẳng giấu nổi vẻ thiết tha lo lắng thô bạo uy hiếp bùng lên trong mắt, A Hành không nhịn được phì cười, định mở miện toan nói nhưng lời vừa đến miệng, hai má đã đỏ bừng.

Nàng ngoảnh mặt đi, không dám nhìn Xi Vưu nhưng ngón tay lại khẽ ngoắc lấy tay hắn, nói nhỏ, “Nếu hàng năm ngươi đều mặc áo ta may thì năm nào ta cũng sẽ tới gặp ngươi.”

Nhận ra ý tứ trong lời nói của nàng, Xi Vưu đắm đuối ngắm A Hành đang ngượng đỏ cả tai, mừng rỡ hỏi lại: “Nếu ta mặc suốt đời, cô cũng sẽ đến suốt đời chứ?”

Mặt A Hành đỏ dừ như tôm luộc, nói khẽ đến cơ hồ không nghe thấy: “Nếu ngươi mặc thì ta sẽ tới.”

Xi Vưu cười phá lên ôm chặt lấy nàng, A Hành cúi đầu e thẹn làm thinh, chỉ nghe hoảng loạn và ngọt ngào hòa quyện vào nhau, tim đập thình thịch, cũng chẳng hiểu đó là tiếng tim mình hay tim đối phương nữa.

Qua một hồi lâu, A Hành mới lên tiếng: “Viêm Đế và Du Võng đang đợi ngươi, ta phải đi đây.”

Xi Vưu dặn dò Liệt Dương đang lượn vòng vòng quanh đó: “Ta giao cả A Hành và A Tệ cho mày đấy!”

Liệt Dương lần đầu tiên được giao phó trọng trách, mà kẻ nhờ cậy lại là người nó miễn cưỡng có thể xem trọng, nhưng nó vẫn tỏ vẻ trịnh trọng hiếm thấy, bay tới đậu lên vai A Hành, giơ một cánh tay vỗ vỗ ngực như thể nỏi: “Có ta đây rồi, không phải lo!”

A Hành cùng A Tệ phá lên cười lăn lộn, Liệt Dương thấy vậy bực bội bay đến đậu lên đầu A Tệ, hung hăng giáo huấn A Tệ.

A Tệ quyến luyến kêu một tiếng như từ biệt hươu sao rồi cất cánh bay lên, Xi Vưu vẫn nắm lấy tay A Hành không buông, nhưng A Hành đang từ từ bay lên cao, hắn đành phải lơi dần ra, đúng vào khoảnh khắc khi hai bàn tay sắp rời nhau, A Hành đột nhiên siết chặt tay hắn, dặn: “Ngươi là con nợ của ta, trên đời này chỉ mình ta mới có quyền lấy mạng ngươi, ngươi không được phép bị thương trong tay bọn Chúc Dung đâu đấy!”

Xi Vưu cười rạng rỡ siết chặt tay nàng rồi buông ra, “Ta đồng ý trừ cô ra, bất kỳ ai cũng không đả thương được ta đâu!”

Bóng A Hành và A Tệ xa dần xa dần sau màn mây.

Hươu sao ngẩng mặt nhìn trời, cổ họng bật lên một tiếng kêu bi thương nghẹn ngào. Xi Vưu ngồi thụp xuống, nắm lấy hai tai hươu sao, nói nhỏ, “Đừng buồn, sớm muộn sẽ có ngày ta quang minh chính đại đưa họ quay về đây.”

Hêt chương 10.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-12-2013 15:26:42 | Xem tất
Chương 11


Chàng đừng quên, hẹn nặng tây non[1].


11.1


Trích trong bài “Kim Lũ khúc – Tặng Lương Phần” của Nạp Lan Tinh Đức (1655-1685), từ nhân đời Thanh.


Vương Mẫu vẫn khe khẽ hát khúc đồng dao, say sưa nhảy múa như thể đang tiếp tục điệu múa dang dở từ ngàn năm trước, như thể muốn Viêm Đế trông rõ những lời mà ngàn năm trước bà chưa kịp nói ra.

Chờ đợi cả ngàn năm, cứ ngỡ rằng thế nào cũng được một cơ hội, chỉ cần một cơ hội mà thôi, nhưng cuối cùng… cuối cùng điệu múa này vẫn chẳng thể nào múa hết.  

Sau sáu mươi năm bị Vương Mẫu giam cầm. A Hành mới lại được một mình rong ruổi khắp đại hoang, nhưng giờ đây nàng không còn là Tây Lăng Hành to gan làm loạn nữa, mà đã trở thành Tây Lăng công tử trị bệnh cứu người.

Tây Lăng công tử chữa bệnh cứu người không lấy một xu, chỉ yêu cầu cả nhà người bệnh hàng ngày sớm tối đều hướng về phía Thần Nông sơn thành tâm cầu chúc.

Nghe nói vạn vật đều có linh tính, chỉ cần có lòng thành, thành ý của vạn người trong thiên hạ có thể dung hợp với linh khí đất trời, giảm thiểu đau khổ của thế gian, đây chính là nguyên nhân tại sao thời loạn thường xuất hiện anh hùng, bởi người đời mong có một vị anh hùng để dẹp yên mọi chuyện, anh hùng cũng theo lẽ trời mà sinh ra.

Mỗi lần đi tới đâu, Tây Lăng công tử đều lập trường mở lớp, phàm là người yêu thích y thuật, bất kể thân phận cao thấp địa vị sang hèn đều có thể tới nghe giảng.

Theo bước chân rong chơi khắp cõi đại hoang, y thuật của Tây Lăng công tử cũng càng lúc càng tiến bộ.

Rất nhiều thầy thuốc nổi danh sùng bái Tây Lăng công tử, họ cho rằng trò chuyện với Tây Lăng công tử một lần có thể thông hiểu bao điều, y thuật bước lên một tầng cao mới. Nhưng cũng có người nghi ngờ Tây Lăng công tử, bởi nghe nói có lúc hỏi một số vấn đề đơn giản, công tử lại bỗng nhiên ấp úng không trả lời được.

Dù cho y thuật cao hay thấp, trên con đường rong ruổi của mình, Tây Lăng công tử cũng đã giúp đỡ rất nhiều người, khiến bao kẻ phải đội ơn.

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, chớp mắt đã sáu năm.

Hôm đó Tây Lăng công tử tới Vân Châu thành của Cao Tân quốc, như thường lệ, sáng sớm công tử luận bàn y thuật với các thầy thuốc, đến chiều thì chọn một nơi thoáng đãng ở ngoại thành tiếp người bệnh các phương đồ đến khám bệnh.  

Nơi khám của Tây Lăng công tử rất đơn sơ, chỉ có một manh chiếu cô, công tử ngồi trên chiếu, xung quanh là những người tới nhờ chẩn trị.

Mộ danh tiếng lẫy lừng của Tây Lăng công tử, người ta đổ xô tới xin khám bệnh chật kín cả cánh đồng, từ kẻ ăn mày manh áo chẳng đủ che thân đến danh môn khuê tú ngồi đợi trong kiệu. May sao, các thầy thuốc hồi sáng nghe Tây Lăng công tử thuyết giảng cũng khảng khái ra tay giúp đỡ, họ học theo công tử, trải một tấm chiếu khám bệnh cho người.

Tuy người đông nghẹt nhưng cũng rất yên tĩnh, không ai chen lấn hay náo loạn, mọi người đều trật tự xếp hàng đợi, khiến cả vùng đồng hoang mênh mông bỗng trở nên trang nghiêm trầm mặc.

Thành chủ Vân Châu thành dẫn Nhị vương tử Yến Long của Cao Tân tới bên sườn núi, trông thấy đám người đông nghìn nghịt, Yến Long than thở: “Tây Lăng công tử này nổi tiếng thật.”

Thành chủ cười phụ họa: “Thuộc hạ cũng nghĩ vậy, thế nên nghe tin điện hạ đi ngang bèn mời ngài tới đây.”

“Sao?”

“Thuộc hạ nghĩ nếu điện hạ có thể thu y về dưới trướng, hắn vô cùng có lợi cho uy tín của mình.” Thiếu Hạo rất được lòng trăm họ, bởi thế Yến Long cũng cần những trợ thủ có thể nâng cao danh tiếng cho mình.

Tháy Yến Long gật đầu, thành chủ lại bồi thêm, “Y họ Tây Lăng, nói không chừng là con cháu của Tây Lăng thế gia, mấy ngàn năm nay Tây Lăng thế gia suy vi, con cháu chẳng làm nên công trạng gì, có điều con sâu trăm chân, chết cũng không ngã, dù sa sút nhưng họ có dây mơ rễ má với ba thế gia kia, vẫn là một nguồn lực không nhỏ.”

Yến Long cười hờ hững, “Để ta đi gặp vị Tây Lăng công tử kia.”

Thành chủ định sai thuộc hạ dẹp đường, Yến Long đã ngăn lại, trách: “Bao nhiêu người đang khám bệnh thế kia, đừng quấy rầy bọn họ, ta sẽ tự tới đó.”

“Vâng, là thuộc hạ lo việc không chu đáo.”

Yến Long thong thả nhập vào đoàn người, vừa đi vừa để ý nghe mọi người xung quanh bàn tán về Tây Lăng công tử. Y ăn vận sang trọng, tướng mạo xuất chúng, đám đông đương nhiên tách ra nhường đường cho y.

Tây Lăng công tử nhìn cũng khá trẻ, mặc một bộ áo xanh, ngồi ngay ngắn dưới gốc đa, dung mạo bình thường nhưng thần thái điềm đạm cử chỉ ôn hòa, khiến người ta vừa gặp đã nảy sinh thiện cảm.

Tây Lăng công tử ngước lên trông thấy Yến Long liền ngẩn ra, Yến Long là Nhị vương tử cao quý của Cao Tân, trong cung đầy rẫy thầy thuốc, đường nhiên không tìm tới nơi đây để khám bệnh.

Yến Long chỉ mỉm cười, hơi khom lưng hành lễ với Tây Lăng công tử.

Tây Lăng công tử cũng khom người đáp lễ, nhưng trả lễ xong liền quay qua tiếp đãi bệnh nhân, chẳng để ý gì tới y nữa.

Mãi tới tối mịt, đám người buộc phải tản đi, Tây Lăng công tử mới thôi khám bệnh.

Yến Long cũng rất nhẫn nại, cứ lặng lẽ ngồi bên đợi, thấy người đã tản đi hết mới bước lại nói: “Tại hạ họ Thường, vô cùng kính phục cao nghĩa của công tử, muốn mời công tử dùng mấy chén rượu, nói đôi câu chuyện phiếm giang hồ.”

Tây Lăng công tử khách sáo từ chối, “Tôi vất cả cả ngày rồi, mai lại phải tới nhà người ta thăm bệnh, tối nay cần nghỉ ngơi sớm.”

Yến Long rất khiêm tốn lễ độ, cũng không nài ép, “Vậy tại hạ đợi công tử hết đợt khám bệnh sẽ lại đến mời.”

Liền ba ngày Yến Long đều đến từ sớm, ngồi đợi một bên, chẳng những không làm phiền Tây Lăng công tử, ngược lại còn giúp được rất nhiều việc như chia bệnh nhân thành từng nhóm, bệnh gì thì giao cho thầy thuốc chuyên về bệnh đó, nhờ Yến Long tổ chức có hiệu quả mà năng suất chữa bệnh nâng lên cao vọt.

Sau ba ngày, đợt khám bệnh kết thúc, Yến Long lại tới mời, “Tối nay là tết Phóng Đăng[2] của Cao Tân, tại hạ đã bày sẵn rượu và đồ nhắm, hy vọng công tử có thể đại giá quang lâm, cùng ngắm đèn trôi trên sông.”

[2] Tết thả đèn.


Tây Lăng công tử còn chưa kịp đáp, mấy tên thầy thuốc tới giúp đỡ vốn sẵn thiện cảm với Yến Long đã hùa thêm vào, “Công tử nhận lời đi, vất vả mấy ngày nay cũng nên nghỉ ngơi một chút.”

Thịnh tình khó chối, Tây Lăng công tử đành nhận lời với Yến Long.

Yến Long đưa Tây Lăng công tử lên một con thuyền bày biện trang nhã, hầu cận trên đó đều là thiếu nữ đương thì, ngay đến thuyền nương chèo thuyền cũng mặt hoa da phấn, dáng dấp yêu kiều. Các món ăn trên đó lại càng cầu kỳ hơn, nào là quế hoa viên tử nhưỡng, tùng thử ngư, bích hải minh nguyệt thang[3]…

[3] Bánh trôi chưng rượu quế hoa, cá xốt, canh trứng nấu với rau.


Thiếu nữ răng trắng muốt mắt nhung huyền vận chiếc quần lụa phương Nam, giới thiệu từng món ăn bằng giọng miền Nam ngọt ngào êm ái, quả có một phong vị tình tứ riêng.

Tây Lăng công tử cười khen: “Quả nhiên chưa tới phương Nam chưa biết thế nào là phong lưu.” Kỳ thực trong lòng thầm cảnh giác, ăn chẳng thấy ngon.

Vốn dĩ Tây Lăng chẳng hiểu gì về Yến Long, nhưng qua Vân Tang và Nặc Nại cũng nắm được chút chút chuyện tranh quyền đoạt vị giữa Yến Long và Thiếu Hạo, biết rằng Yến Long là nhân vật không dễ đối phó. Bởi vậy, Yến Long càng lịch thiệp thì Tây Lăng càng căng thẳng.

Ngắm làn sóng biển dập dờn trước mắt, Tây Lăng không khỏi nhớ tới Vân Tang và Nặc Nại, hai kẻ gặp nhau bên bờ nước, chẳng hiểu bây giờ bọn họ ra sao. Tây Lăng đã viết thư hỏi Vân Tang có muốn mình tới Cao Tân thăm Nặc Nại giùm không, Vân Tang đáp rằng hiện giờ thế cuộc phức tạp, chẳng còn lòng dạ nào nghĩ tới chuyện đó. Tây Lăng hiểu ý Vân Tang, đang lúc thay triều đổi đại này, hễ sơ sểnh sẽ nổ ra đại loạn, Vân Tang vừa phải chăm lo cho bệnh tình Viêm Đế lại vừa phải phò trợ một Du Võng nhu nhược, e rằng bốn chữ “dốc cạn tâm sức” cũng không đủ hình dung tình cảnh nàng.

Yến Long thấy Tây Lăng công tử vẻ mặt căng thẳng, tâm thần hoảng hốt bèn rút ra một cây đàn bằng gỗ ngô đồng, cười nói: “Công tử biết chữa bệnh cứu người còn nghề đàn của tại hạ chỉ có thể giải khuây cho người, nay xin gảy một khúc, hy vọng có thể giúp công tử xua tan mệt mỏi.” Yến Long tự phụ ngón đàn của mình là thiên hạ vô song, thường ngày không tùy tiện gảy đàn, đừng nói tới đánh đàn tấu nhạc vì ai bao giờ, có điều lần này hắn muốn chiêu dụ Tây Lăng công tử nên không tiếc hạ mình mà thôi.

Tây Lăng công tử vội thi lễ cảm tạ.

Tay đàn của Yến Long cao diệu vô chừng, quả không hổ là thiên hạ đệ nhất. Thoạt đầu tiếng đàn dịu dàng cất lên tựa làn gió xuân xua tan hết đau khổ trần gian, khiến tâm hồn lâng lâng, bất giác quên hết mọi chuyện phiền não, sau đó tiếng đàn lại hòa vào cùng cảnh vật xung quanh, tiếng trôi giữa cảnh, cảnh hiện theo tiếng, Tây Lăng công tử cũng thả hồn theo tiếng đàn để thưởng thức hết phong cảnh bốn bề.

Người tới thả đèn cầu năm mới bình yên đông nghịt hai bên sông, ai nấy lũ lượt thả đèn xuống nước. Từng chiếc đèn rực rỡ theo dòng nước dập dềnh trôi mãi về nơi xa.

Con thuyền của họ lặng lẽ lướt trên mặt sông như đang đi giữa muôn ngàn ánh sao lấp lánh. Giờ đây Giang Nam đương độ cỏ xanh oanh vàng, hoa hồng liễu biếc, hai bên bờ trăm hoa đua nở, rực rỡ thắm tươi, gió đêm hây hẩy đưa hương, cỏ hoa phất phơ đón gió, đẹp không bút nào tả xiết.

Thầm nghĩ chỉ còn một tháng nữa hoa đào trong núi Cửu Lê nở rộ, mình lại có thể gặp Xi Vưu, Tây Lăng không khỏi bồi hồi trong dạ. Hàng năm, bọn họ đều y hẹn gặp nhau dưới cội hoa đào, tuy sum họp thật ngắn ngủi nhưng vẫn miên man hạnh phúc.

Đột nhiên, mấy tiếng khèn ồ ồ không ra khúc điệu gì chợt vang lên, cắt ngang dòng suy tưởng của Tây Lăng công tử, đồng thời cũng làm loạn tiếng đàn của Yến Long, tinh một tiếng, dây đàn đứt phựt. Yến Long biến sắc, đành trông lên bờ nói: “Hay chúng ta lên bờ đi dạo?”

Tây Lăng công tử gật đầu cười: “Cũng được.”

Thuyền nương cho thuyền cập vào bờ, ánh đèn trên sông càng lúc càng rõ mồn một, Yến Long vừa đi vừa luôn miệng giới thiệu các loại hoa đăng khác nhau với Tây Lăng công tử.

Liên Hoa đăng ngụ ý cát tường an khang, Đào Hoa đăng mong được nhân duyên tốt đẹp, Táo Hoa đăng cầu sớm sinh quý tử.

Tịnh Đế Liên đăng hy vọng mãi mãi bên nhau, Quy Giáp đăng[4] cầu chúc cho cha mẹ sống lâu…

[4] Đèn hoa sen, đèn hoa đào, đèn hoa táo, đèn hoa sen tịnh đế, đèn mai rùa  


Tây Lăng công tử thoạt đầu chỉ ham xem náo nhiệt, sau nghe Yến Long giải thích dần dần cũng hiểu ra trong mỗi chiếc đèn đều chứa đựng lời cầu khẩn chân thành của một người, mỗi ngọn đèn là một tâm nguyện thiết tha.

Mấy đứa trẻ giơ cao đèn hoa chạy xộc tới, trong lúc chạy sơ ý để ngọn đèn bén lửa bùng cháy, ngay lập tức, cả đám đông nhốn nháo lên lo tránh lửa.

Tây Lăng công tử đảo mắt, nhân lúc mọi người đang hỗn loạn, vờ như bị lạc khỏi Yến Long rồi thừa cơ chuồn thẳng. Dụng ý của Yến Long khi nhiệt tình khoản đãi mình lẽ nào Tây Lăng không hiểu, nhưng nàng không thể nào đáp ứng, đã vậy chi bằng chuồn sớm cho xong.

Chạy tới chỗ vắng người, không thấy bóng dáng Yến Long đâu nữa, Tây Lăng công tử khoái chí cười khì, nào ngờ trong rừng đào bỗng vang lên một tràng cười khanh khách.

Tây Lăng sững sờ, “Ai đó?”

Nàng vội ngẩng đầu lên, trông thấy một nam tử áo trắng thần thái phiêu dật đang vắt vẻo ngồi trên cây mận, tay cầm bầu rượu, dáng vẻ tiêu sái như thần tiên say vùi giữa ngàn hoa, những bông hoa mận đầy cành càng tôn lên vẻ phóng khoáng thanh cao, phi phàm xuất chúng của y.

Hóa ra là Thiếu Hạo, hèn chi có thể làm rối loạn tiếng đàn của Yến Long, Tây Lăng lập tức ngẩn người.

Thiếu Hạo cười hỏi: “Công tử tới ngắm hoa đăng trên sông sao?”

“Phải.”

“Thật ra địa điểm tốt nhất để ngắm hoa đăng không phải ở trên sông đâu.”

“Vậy ở đâu?”

Một con Huyền điểu đen tuyền sà xuống trước mặt hai người, Thiếu Hạo chỉ lên trời cười, “Ngắm sao trời phải đứng ở dưới đất, vậy ngắm ánh sao trên mặt đất đương nhiên phải bay lên trời rồi.”

Nói rồi y mời Tây Lăng công tử leo lên Huyền điểu, Tây Lăng thoáng do dự rồi cũng bước lên. Huyền điểu cất cánh bay lên, Tây Lăng công tử sánh vai đứng bên Thiếu Hạo, cùng nhìn xuống mặt đất.

Cao Tân quốc ao hồ đầy rẫy, sông ngòi nhan nhản. Tết Phóng Đăng là ngày hội lớn nhất trong năm của Cao Tân, nhà nào nhà nấy đều làm đèn đem thả, khi nãy ngồi trên thuyền chỉ có thể ngắm đèn trôi trên một dòng sông, còn giờ đây từ trên cao nhìn xuống mới nhận ra tất cả hồ ao sông ngòi đều tràn ngập ánh đèn, lung linh rực rỡ, mênh mang vời vợi như vô vàn ánh sao trên mặt đất, những ánh sao này tụ lại thành muôn ngàn dòng sông sao, hoặc quanh co uốn khúc hoặc bát ngát bao la, mỹ lệ lộng lẫy hơn nhiều bầu trời sao trên không kia.

Tây Lăng tròn mắt ra nhìn, lẩm bẩm: “Đúng là tiên cảnh giữa trần gian, chằng biết mình đang ở trên trời hay dưới đất nữa.”

Thiếu Hạo chăm chú ngăm dải đất Cao Tân lấp lánh ngàn sao, mỉm cười phụ họa: “Hàng năm ta đều thưởng thức cảnh tượng này, vậy mà năm nào cũng rung động tận tâm can.”

Tây Lăng lại hỏi: “Chẳng hay truyền thuyết về tết Phóng Đăng bắt nguồn từ đâu?”

“Từ lâu lắm rồi, truyền thuyết thì nhiều lắm. Có truyền thuyết kể rằng, người yêu của một thiếu nữ xinh đẹp phải đi đánh giặc nơi xa, mãi chẳng thấy về, thiếu nữ đau buồn bèn thắp những ngọn đèn thả xuống sông để dẫn lối cho chàng ta về nhà, chàng dũng sĩ chỉ còn thoi thóp chút hơn tàn, nhờ ngọn đèn đưa đường cuối cùng cũng tìm được đường về, đoàn tụ cùng thiếu nữ. Còn có truyền thuyết kể rằng: trong ngôi làng tươi đẹp bình yên đột nhiên xuất hiện một con thủy quái lớn, để cứu mọi người trong làng, một thiếu niên dũng cảm đã chiến đấu ác liệt với thủy quái rồi hy sinh, mẹ cậu ta hết sức đau lòng, ngày đêm cứ quanh quẩn ngoài bờ sông gọi tên con, để an ủi người mẹ tội nghiệp đó, dân làng bèn thắp những ngọn đèn thả trôi trên sông.”

“Ngươi tin vào truyền thuyết nào?”

Thiếu Hạo đáp: “Ta tin rằng những ngọn đèn đó chính là những ánh sao.”

“Sao ư?”

Thiếu Hạo ngượng nghịu cười, “Mẹ ta qua đời trong lúc sinh ra ta. Vú già nuôi nấng ta thường trỏ những vì sao trên trời an ủi rằng mẹ vẫn ở bên ta, bà đã hóa thành sao trên trời, mãi mãi bảo vệ cho ta. Thoạt đầu ta rất tin lời vú, bất kể lúc vui hay lúc buồn đều cung kính thổ lộ hết với những vì sao đó, ngỡ rằng mẹ ta trên trời có thể nghe thấy mọi điều. Cho tới một lần ta gặp chuyện vô cùng oan ức, đệ đệ có mẹ chở che còn ta chẳng có ai cả, đành chịu bị người ta lăng nhục, ta ấm ức về bảo vú già: “Ta không tin mấy chuyện nhảm nhí của vú nữa, trên đời làm gì có ngôi sao bảo hộ chứ!” Vú già hết sức buồn rầu, bèn dắt ta ra ngoài xem người ta thả đèn, cả dải đất Cao Tân tựa hồ đều biến thành một bầu trời lấp lánh ánh sao, y như đêm nay vậy, vú già nói: “Trông thấy chưa? Đó đều là những ngôi sao bảo hộ đó!”

Tây Lăng chăm chú nhìn những vì sao bên dưới, bấy giờ mới hiểu ý Thiếu Hạo, những ngọn đèn kia là do vô số thiếu nữ, vô số dũng sĩ, vô số người mẹ, vô số đứa con thắp lên, ánh đèn cũng là tấm lòng muốn bảo vệ cho người thân của họ, thế nên gọi là những ngôi sao bảo hộ.

Thiếu Hạo mỉm cười nhìn Tây Lăng công tử, “Tại hạ Cao Tân Thiếu Hạo.”

Đó là cái tên khiến cả đại hoang chấn động, Tây Lăng thật không ngờ Thiếu Hạo lại đột nhiên tiết lộ thân phận của mình, mặt trân trân nhìn y.

“Ta nghĩ người chuyên cần học y ắt hẳn trong lòng có thứ gì đó muốn bảo vệ, chẳng hay điều Tây Lăng công tử muốn bảo vệ nhất là gì đây?”

Tây Lăng công tử trầm ngâm, tuy Tây Lăng chưa để lộ thân phận nhưng đã bị Thiếu Hạo nhìn thấu tâm tư mất rồi. Trước uy phong cùng sức mạnh của phụ vương và Đại ca, rõ ràng Tây Lăng vô cùng nhỏ bé. Chính vì không muốn một ngày kia mình trở thành kẻ vô dụng trước hai người đó nên Tây Lăng phải nỗ lực nghiên cứu y thuật.

Thiếu Hạo cũng không gặng tiếp, chỉ mỉm cười nói: “Y thuật của Tây Lăng công tử chẳng khác nào ngọn lửa, có thể thắp lên ngọn đèn giùm những thiếu nữ và những người mẹ kia, để bọn họ được hạnh phúc. Thay mặt tất cả những thiếu nữ và những người mẹ trên toàn Cao Tân này, ta xin công tử hãy ở lại, cùng ta bảo vệ bức họa tiên cảnh nhân gian ấy.”

Gương mặt Thiếu Hạo ánh lên vẻ kiên quyết vững vàng tựa ngọn núi cao ngàn thước không gì lay chuyển nổi, khiến Tây Lăng chợt thấy tim đập thình thịch, mơ hồ có cảm giác vừa tôn kính lại vừa sờ sợ.

Thiếu Hạo cười nói: “Ta biết đây là quyết định lớn nên công tử không cần phải vội, dù sao công tử vẫn còn ở lại Cao Tân rong chơi, cứ suy nghĩ thật kĩ rồi nói lại với ta. Dù công tử bằng lòng hay không, ta cũng rất biết ơn công tử đã tới Cao Tân, càng hoan nghênh công tử tới Cao Tân lần nữa.”

Tây Lăng công tử chỉ biết gật đầu.

Huyền điểu chở bọn họ đỗ xuống một mảnh sân nhỏ, Tây Lăng công tử đang định chối từ thì Thiếu Hạo đã tươi cười đẩy mở cửa phòng, chỉ thấy trên bàn bày đầy sách vở, “Đây là sách thuốc ta thu thập suốt bao năm nay, hy vọng có thể giúp ích cho công tử.”

Tây Lăng công tử không khỏi động tâm, bước tới cầm một cuốn lật xem, Thiếu Hạo khẽ khàng khép cửa lại, đợi đến khi Tây Lăng công tử ngẩng đầu lên đã không thấy y đâu nữa.

Tây Lăng công tử vốn định từ biệt, nhưng tiếc rẻ đống sách thuốc ở đây nên lại ngồi xuống đọc tiếp.

Suốt mấy ngày Tây Lăng công tử chỉ chúi mũi vào đống sách vở mà Thiếu Hạo thu thập được. Thiếu Hạo chẳng hề tới làm phiền Tây Lăng, thậm chí Tây Lăng còn không có cảm giác y cũng sống dưới cùng một mái nhà. Chỉ thi thoảng thấy mùi rượu thơm lừng đưa lại, Tây Lăng mới nhận ra kẻ đó đang ở gần đây.

Hôm đó đang đọc dở cuốn sách, Tây Lăng lại ngửi thấy mùi rượu, có điều lần này là thư tửu đất Điền, Tây Lăng không nhịn nổi đành mở toang cửa ra, nhưng trước sau nào thấy bóng người.

Đương lúc bực bội, trên nóc nhà chợt vang lên tiếng nói: “Đọc hết sách rồi sao?”

Tây Lăng lùi lại ngẩng lên, trông thấy Thiếu Hạo đang nghiêng mình nằm trên nóc nhà, một tay chống cằm, tay kia ôm hồ lô rượu, sau lưng là vầng trăng vằng vặc, dưới ánh sáng trong vắt mênh mang, trông y chẳng khác nào một vị tiên say khướt giữa vũng trăng.

“Sắp hết rồi, ngài uống rượu gì thế?”

“Thư tửu đất Điền, công tử muốn nếm thử không?” Thiếu Hạo ném hồ lô rượu cho Tây Lăng công tử.

Tây Lăng hớp một hớp, làm bộ không chịu nổi tửu lực, ném trả lại y, “Sao rượu còn phân ra thư hùng?”

Thiếu Hạo mỉm cười ngẩng đầu nhìn trời như đang hồi tưởng lại chuyện gì đó, “Đó là một người bạn cũng rất mê rượu nói cho ta nghe, quả thật rượu cũng chia ra thư hùng.”

Tây Lăng nín thở ngồi xuống chiếc bàn đá trong sân, ra vẻ tò mò hỏi: “Phải là người thế nào mới có thể làm bạn rượu của Thiếu Hạo nổi danh thiên hạ đây?”

Thiếu Hạo hớp một ngụm rượu, khóe môi ẩn hiện nụ cười, y lặng thinh không đáp, hồi lâu mới nói: “Nàng ấy rất thú vị.” Nói rồi y ngoảnh đầu nhìn về phía Tây, “Chẳng biết bây giờ nàng ấy đang vừa uống rượu vừa nghe người ta kể chuyện ở nơi nào nữa.”

Thấy Tây Lăng im lặng, Thiếu Hạo lại lắc lắc hồ lô rượu hỏi: “Muốn nếm nữa không?”

Tây Lăng cười: “Muốn!”

Thiếu Hạo ném hồ lô rượu qua. Hai người kẻ ngồi nơi bàn đá kẻ nằm trên nóc nhà, vừa uống rượu vừa trò chuyện.

Tây Lăng biết Thiếu Hạo cũng toan tính giống Yến Long, thoạt đầu y cố tình phá hỏng kế hoạch của Yến Long, sau đó từng bước lấy lòng khiến mình không sao chối từ ý tốt của y, tuy nhiên cùng là chiêu dụ, Thiếu Hạo lại thực hiện rất tự nhiên chân thành. Chợt nghĩ, nếu mình thật sự là Tây Lăng công tử, e rằng đã sớm quy phục Thiếu Hạo, cam lòng phục vụ cho y rồi.

Hai người trò chuyện đến nửa đêm, Tây Lăng sợ rượu vào lời ra lại lộ tẩy nên không dám uống nữa, đành vờ say liêu xiêu về phòng nằm nghỉ.

Sáng sớm ra, Tây Lăng đang rửa mặt chợt trông thấy vô số tằm bay vào phòng, xếp thành hai chữ to tướng: “Về ngay.”

Tây Lăng đánh rơi cả khăn xuống đất, mặt tái nhợt. Đợi tâm trạng trấn tĩnh lại, Tây Lăng bước ra khỏi phòng, phát hiện Thiếu Hạo đang đứng trong sân dõi mắt trông theo bóng Huyền điểu truyền tin vừa bay đi, vẻ mặt nghiêm trọng lạ thường.

Rốt cuộc là chuyện gì mà đồng loạt kinh động cả Hiên Viên cùng Cao Tân thế này? Tây Lăng thầm suy đoán, tâm trạng càng thêm nặng nề.

Thiếu Hạo lên tiếng: “Ta vốn định cùng công tử ngao du khắp Cao Tân, nhưng hiện giờ ở nhà có việc gọi ta về, đành phải đi trước vậy, thật ngại quá! Công tử muốn đi đâu, để ta phái thuộc hạ hộ tống.”

Tây Lăng đáp: “Không cần đâu, tôi cũng có chút việc phải giải quyết, đang định từ giã điện hạ.”

Thiếu Hạo gật đầu cười, “Vậy công tử bảo trọng, ta rất mong sau này còn có dịp gặp lại nhau.”

Tây Lăng áy náy cười nói, “Nhất định sẽ gặp lại mà.” Thiếu Hạo cũng chẳng nấn ná thêm, liền cưỡi Huyền điểu vội vã đi thẳng.

Tây Lăng đợi y đi khỏi cũng lập tức triệu hồi A Tệ và Liệt Dương, vội vàng quay về Hiên Viên sơn. Trước mắt chỉ có tin Viêm Đế bệnh nặng mới có thể đồng thời kinh động cả mẹ cùng Tuấn Đế, để hai người phải lập tức hạ lệnh gọi bọn họ về nhà. Xem ra khả năng dò thám tin tức của Cao Tân và Hiên Viên cũng một chín một mười
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-12-2013 15:43:33 | Xem tất
Chương 11


Chàng đừng quên, hẹn nặng tây non[1].


11.2


Tây Lăng đau đáu trông về phía Thần Nông sơn, chẳng hiểu Xi Vưu có ổn không?

A Hành còn đang ở giữa chừng không đã thấy Thanh Dương đứng trước điện Triêu Vân đợi.

Nàng vội nhảy từ lưng A Tệ xuống, bước đến trước mặt Thanh Dương, cung kính hành lễ, “Đại ca.”

Thanh Dương chỉ gật đầu, rảo bước đi trước dẫn đường, A Hành lặng lẽ theo sau y. Bước vào chính điện, A Hành chợt trông thấy phụ vương, người đã mấy trăm nay chưa hề đặt chân đến đây đây.

Cha mẹ nàng đang ngồi bên bàn, đối diện nhau uống trà.

Cha nàng thân khoác vương bào, khí độ ung dung, oai phong lẫm liệt, còn mẹ nàng đã bạc trắng mái đầu, mặt sạm gió sương, già nua héo úa. Nếu không biết thân phận của hai người, e rằng chẳng ai dám tin họ lại là vợ chồng.

Đợi Thanh Dương hành lễ xong đứng sang một bên, A Hành liền quỳ xuống dập đầu, “Phụ vương, mẫu hậu, Hành nhi về rồi đây.”

Hoàng Đế cười nói, “Tới ngồi cạnh phụ vương nào, con cứ rong chơi bên ngoài suốt, chẳng chịu tới thăm phụ vương gì cả.”

A Hành ngồi xuống bên cha, tự tay châm trà hầu cha mẹ.

Nàng níu tay cha vừa nũng nịu vừa hỏi dò, “Phụ vương, sao người lại tới đây? Dạo này phụ vương không bận công việc ư?”

Hoàng Đế cười đáp: “Có bận rộn mấy đi nữa cũng phải lo việc chung thân đại sự cho con chứ!”

Tim A Hành đập rộn lên, nàng đưa mắt lên thắc mắc nhìn mẹ. Luy Tổ liền lên tiếng: “Phụ vương con đang định chọn ngày, gấp rút cho con thành hôn cùng Thiếu Hạo.”

A Hành đột nhiên thấy trước mặt tối sầm, phải ráng định thần, cất giọng năn nỉ: “Phụ vương, con chưa muốn lấy chồng đâu!”

Hoàng Đế vẫn thản nhiên uống trà, tay không hề khựng lại, như chẳng nghe thấy lời nàng.

Thanh Dương cúi đầu vừa châm trà vừa lạnh lùng hỏi: “Muội không muốn lấy chồng hay không muốn lấy Thiếu Hạo?”

Nhìn vẻ mặt thờ ơ của Đại ca, A Hành thấy lòng lạnh buốt: “Muội chỉ muốn rong chơi thêm mấy năm nữa thôi, sao đột nhiên bắt muội lấy chồng gấp rút thế?”

Thanh Dương đáp: “Nếu như bình thường, muội muốn chơi thì cứ việc chơi cho thoả sức, nhưng tình thế bây giờ không cho phép muội tuỳ hứng nữa rồi.”

“Tình thế bây giờ làm sao?”

“Người thiên hạ chỉ biết Viêm Đế đang bế quan luyện thuốc, nhưng chúng ta lại được tin báo Viêm Đế đang lâm trọng bệnh, e rằng Thần Nông tộc sắp thay thủ lĩnh mới rồi.”

A Hành siết chặt hai tay, dẫu đã đoán trước bệnh tình Viêm Đế chuyển biến xấu nhưng chính tai nghe thấy điều đó, nàng vẫn thấy khó mà chịu nổi.

Thanh Dương nói tiếp: “Thuộc địa của chúng ta và Thần Nông tiếp giáp nhau, mấy ngàn năm nay hai tộc Hiên Viên và Thần Nông vẫn tranh chấp liên miên, họ đã bất mãn với chúng ta từ lâu, sớm muộn gì Viêm Đế mới kế vị cũng sẽ cất quân đánh ta. Thần Nông quốc nằm giữa Trung Nguyên, đất đai phì nhiêu, sản vật phong phú, dân chúng đông đúc, thực lực mạnh hơn ta nhiều, hơn nữa nền móng của chúng ta không bì được với những Thần tộc thượng cổ kia, nếu Thần Nông liên minh cùng Cao Tân, hẳn Hiên Viên sẽ đứng trước mối hoạ diệt tộc, bởi vậy muội phải thành hôn với Thiếu Hạo càng sớm càng tốt.”

A Hành trừng mắt nhìn Thanh Dương, “Huynh cứ luôn miệng nói nào Hiên Viên nào Thần Nông, vậy còn muội thì sao?”

Thanh Dương thản nhiên nói lạnh băng: “Muội là vương cơ của Hiên Viên, đây là trách nhiệm muội buộc phải gánh vác.”

A Hành lại quay sang cầu khẩn Hoàng Đế: “Phụ vương, xưa nay người thương con nhất mà, con chưa muốn lấy chồng đâu, cho con ở nhà hầu hạ người và mẫu hậu thêm mấy năm nữa nhé.”

Hoàng Đế nghiêm mặt: “Không phải phụ vương không muốn giữ con lại, có điều ta và Tuấn Đế đã trao đổi với nhau, qua ngày mai Thiếu Hạo sẽ đích thân tới Hiên Viên chọn ngày, những chuyện khác đều có thể chiều theo con nhưng hôn sự này nhất định phải nghe lời cha mẹ.”

A Hành vùng vằng hất hết chén đĩa mâm quả trên bàn xuống đất, bỏ chạy ra ngoài, “Muốn lấy thì các người tự đi mà lấy, con không lấy!”

Thấy vậy, Hoàng Đế giận dữ quay sang trách Luy Tổ: “Nhìn xem, nàng chiều chuộng nó thành cái gì rồi! Trong mắt nó còn coi ta là phụ vương không đây? Nếu lần này nó lại lén trốn xuống núi, ta nhất định sẽ nghiêm trị!” Dứt lời, Hoàng Đế phẩy tay áo đùng đùng đứng lên. Dưới sự hộ tống của đám thị vệ, cả đoàn người rầm rộ rời khỏi Triêu Vân phong.

Trong sân trồng đầy những gốc phượng hoàng cao ngất nở hoa rực rỡ, mỗi khi có gió, từng trận hoa rụng rơi lả tả, nhấn chìm cả khoảnh sân giữa màn mưa hồng phấp phới, khiến cảnh sắc nhuốm màu diễm lệ.

A Hành ngước mắt nhìn trời, cảm thấy hít thở cũng khó khăn.

Sau lưng nàng chợt vang lên giọng nói của Luy Tổ: “Sao con không muốn lấy Thiếu Hạo? Tuy ta chưa từng gặp Thiếu Hạo nhưng Thanh Dương và Xương Ý đều hết lời ca tụng y, chắc hẳn cũng rất khá. Lẽ nào con đã có người trong mộng rồi ư?”

A Hành đang chần chừ định nói, chợt trông thấy Thanh Dương đứng sau mẫu hậu trừng mắt nhìn mình, ánh mắt lạnh buốt, còn thấp thoáng vài phần sát khí, trước mắt nàng liền hiện ra cảnh tượng Đại ca vung kiếm đâm vào tim Xi Vưu ngày đó, bất giác ớn lạnh tận đáy lòng, đành nuốt hết những lời toan nói. “Con… con chẳng thích ai cả, chỉ là muốn tự do tự tại thêm mấy năm nữa, chưa muốn lấy chồng.”

Luy Tổ dịu giọng dỗ dành: “Nữ tử nào cũng phải xuất giá thành hôn thôi, con là vương cơ Hiên Viên, rất nhiều việc đã được định sẵn từ khi sinh ra rồi. Đừng sợ, biết đâu sau khi lấy chồng, con lại hối hận sao không thành hôn sớm hơn đấy. Hai hôm nữa Thiếu Hạo tới, mẹ sẽ tìm cách để hai đứa ở riêng bên nhau vài ngày, may ra con hiều được lời mẹ nói chăng.”

A Hành gật đầu khẽ vâng dạ, ánh mắt vẫn trừng trừng nhìn Đại ca.

Đêm đã buông xuống, A Hành thấy toàn thân rời rã nhưng chẳng buồn ngủ chút nào.

Nàng đứng bên song ngắm từng cánh hoa phượng hoàng đỏ rực bay qua trước mắt, bây giờ đương độ hoa đào nở rộ trong núi Cửu Lê, ngày mai chính là tết Khiêu Hoa, Xi Vưu sẽ đợi nàng dưới cội hoa đào, không gặp không về.

A Hành nghe lòng vừa ngọt ngào vừa chua xót, nàng gỡ Trụ Nhan hoa xuống, vờn nghịch trên tay.

Đợi mọi người đều đã say giấc nồng, nàng bắt đầu rón rén ra khỏi cung tìm A Tệ và Liệt Dương.

Nghe tiếng chân nàng, A Tệ và Liệt Dương lập tức tỉnh ngay.

A Hành ra dấu cho chúng im lặng rồi lén lút trèo lên lưng A Tệ nói nhỏ: “Đi Cửu Lê.”

A Tệ và Liệt Dương cất cánh bay lên, không gây ra một tiếng động, nhưng vừa bay lên cao, chuẩn bị dốc sức tăng tốc, A Hành chợt trông thấy Thanh Dương cưỡi trên Trùng Minh điểu[5] ngũ sắc, lạnh lùng nhìn nàng.

[5] Thập Di ký của Tấn Vương gia chép: “Trùng Minh điểu còn tên khác là Song Tinh, mỗi bên mắt có hai con ngươi. Hình dáng như gà, tiếng kêu tựa phượng. Mỗi khi dang cánh có thể đánh đuổi mãnh thú hổ lang, quét sạch yêu ma quỷ quái.”


“Muội định đi đâu thế?”

A Hành không trả lời, chỉ nói: “Huynh đừng quản chuyện còn muội, tránh ra đi!” Nói rồi nàng thúc A Tệ vượt lên, toan cướp đường chuồn đi.

Thanh Dương khoanh tay yên lặng đứng nhìn nhưng linh lực của y đã vây lấy A Tệ, khiến nó không sao bay nổi.

A Hành gỡ Trụ Nhan hoa khỏi búi tóc, Trụ Nhan hoa lập tức nở phồng ra, vô số cánh đào biến thành muôn ngàn lưỡi dao bay về phía Thanh Dương. Lúc này Thanh Dương mới vung một tay lên, toàn bộ những cánh đào bị linh lực của y dồn nén xoắn lại thành một sợi dây đỏ thắm, quấn lấy A Hành.

A Hành vừa điều khiển A Tệ lánh trái né phải vừa vây Trụ Nhan hoa toan gỡ sợi dây ra, nhưng sợi dây vẫn linh hoạt uốn éo như rắn, không chỉ tránh được hết các đòn tấn công mà còn vây chặt lấy nàng.

Để giải vây cho A Hành, Liệt Dương bèn phun ra một chuỗi lửa đỏ lôi kéo sự chú ý của Thanh Dương, nhân lúc y lơ là, A Tệ liền thừa cơ lén cắn đứt dây.

Thấy sợi dây quấn quanh A Hành sắp tuột ra, Thanh Dương nổi cáu quát Liệt Dương: “Súc sinh, còn không mau tránh ra!”

Liệt Dương tức thì phun ra một đám lửa khổng lồ cao đến ba trượng vây lấy Thanh Dương. Trông thấy Phượng Hoàng huyền hỏa, Thanh Dương vô cùng kinh ngạc, hóa ra con chim này còn biết giả ngu giấu nghề, lừa cho kẻ địch coi thường mình rồi bất ngờ tập kích nữa.

Trùng Minh điểu tọa kỵ của y tuy là mãnh cầm hàng đầu trên đại hoang, đấu ngang tay được với cọp beo nhưng muôn chim trời sinh đều kính sợ phượng hoàng, trông thấy Phượng Hoàng huyền hỏa, nghe tiếng phượng gáy thành thót, nó chẳng dám đối kháng trực diện cùng Liệt Dương nữa, động tác cũng chậm chạp đi nhiều.

A Hành vội thừa cơ vùng khỏi dây trói, vươn mình nhảy lên lưng A Tệ bay vút đi, “Liệt Dương, chạy mau!”

Nào ngờ Liệt Dương sẵn tính nóng như lửa, vừa nãy bị Thanh Dương chửi mắng, đời nào chịu nghe lời A Hành mà bỏ chạy, ngược lại còn liều mạng sấn tới tấn công Thanh Dương.

Thấy vậy, Thanh Dương bèn nổi sát tâm, nếu không giết con chim này đi, ắt tọa kỵ Trùng Minh điểu của y còn run rẩy sợ hãi, dù thúc ép thế nào nó cũng chẳng dám dốc toàn lực truy đuổi A Hành. Y ép buộc Trùng Minh điểu bay về phía Liệt Dương, thản nhiên xông qua Phượng Hoàng huyền hỏa đang cháy rừng rực, bàn tay chợt biến thành trắng xóa như tuyết, tấn công Liệt Dương.

A Hành quay đầu trông thấy, hồn phi phách tán, chẳng kịp gọi A Tệ, lập tức bổ nhào trở lại, trong nháy mắt nàng đã dung linh lực chật vật giằng được Liệt Dương ra, nhưng thân mình đang lơ lửng giữa không trung, không tránh nổi chưởng lực của Thanh Dương, liền bị đánh trúng.

Thấy thân hình nàng rơi nhanh xuống dưới, Thanh Dương tái mặt vội nhảy khỏi tọa kỵ, ôm chầm lấy nàng.

Hết thảy mọi việc chỉ diễn ra trong chớp mắt, lúc này A Tệ mới kịp bay ngược trở lại, túm được cả Thanh Dương và A Hành.

Thấy A Hành đỡ một chưởng cho mình, Liệt Dương phẫn nộ kêu lên quang quác, toàn thân bốc lửa rừng rực, biến thành một cuộn lửa đen điên cuồng đâm bổ vào Thanh Dương.

Thanh Dương một tay ôm lấy A Hành, tay kia giơ lên toan giết luôn con Lang điểu tự chuốc tai vạ.

“Đại ca!” A Hành níu chặt lấy tay Thanh Dương cầu khần, nhưng vừa mở miệng nàng đã phun ra một búng máu, bắn hết lên ngực Thanh Dương.

Thanh Dương thu tay lại, chỉ dùng tơ Thiên Tằm biến ra một tấm lưới lớn, quấn chặt lấy Liệt Dương. Tơ Thiên Tằm vốn chẳng chịu được Phượng Hoàng huyền hỏa, nhưng mấy sợi tơ Thiên Tằm này lấy từ tấm áo bảo mà Luy Tổ dệt cho Thanh Dương, lại có linh lực của Thanh Dương bảo hộ nên Liệt Dương không sao đốt cháy nổi.

Thanh Dương tranh thủ khám qua thương thế của em gái, thấy cũng không có gì nghiêm trọng, may mà y chỉ dùng có bốn thành linh lực, y phục trên người A Hành lại do chính tay Luy Tổ dệt nên đã hóa giải mất ba thành.

A Hành ngoan ngoãn dựa vào lòng Đại ca như thể đã từ bỏ ý định chạy trốn vì vết thương, nhưng khi Thanh Dương vừa định trị thương cho nàng, A Hành bất ngờ khống chế mệnh môn y, lại dùng đào hoa chưởng độc của Trụ Nhan hoa phong bế không cho linh khí của y vận hành, giữ chặt Thanh Dương lại.

Nàng cười hì hì nhảy lên lưng A Tệ, ngoái đầu nói với Thanh Dương, “Đại ca, huynh cứ ở đây hóng gió ngắm sao một lát đi, đào hoa chưởng độc này tuy lợi hại nhưng huynh là Hiên Viên Thanh Dương cơ mà, chút độc này có nhằm nhò gì đâu.”

Thanh Dương trừng mắt nhìn nàng: “Muội cũng biết ta là Hiên Viên Thanh Dương, khắp đại hoang này chẳng thần tiên hay yêu quái nào có thể dễ dàng đả thương ta như thế, chẳng qua ta không đề phòng muội muội mình nên muội mới đắc thủ đó thôi! Vì một gã đàn ông khác mà muội dám xuống tay đả thương Đại ca mình, có đáng không?”

A Hành thầm áy náy trong lòng, chỉ nói: “Đại ca, muội không muốn đả thương huynh, chỉ là muội quả thật không muốn lấy Thiếu Hạo.”

Thanh Dương nói: “Muội tưởng muội chạy thoát được ư? Đừng quên phụ vương đã từng nói, nếu phát hiện ra muội trốn xuống núi, Người nhất định sẽ nghiêm trị!”

A Hành nghiến răng thúc A Tệ bay về hướng Cửu Lê, “Đại ca, tha lỗi cho muội.” Nàng đã hứa với Xi Vưu, dù thế nào nàng cũng phải đi gặp hắn.

Chập tối hôm sau, A Hành đã tới sơn trại Cửu Lê tộc.

Hoa đào trong núi Cửu Lê rực rỡ như lửa như tranh, bạt ngàn sơn dã phủ đầy một màu đỏ thắm, xán lạn tựa ráng chiều. A Hành đã quen đường, cứ men theo tiếng ca đi sâu vào trong.

Trong sơn cốc chẳng có đài tế cũng chẳng có lễ vật cúng tế, chỉ thấy từng đống lửa cháy rừng rực. Thanh niên thiếu nữ vây quanh đống lửa ca múa, ăn vận rất giản dị, lời ca cũng rất giản đơn nhưng giọng hát vẫn ngân lên lảnh lót, điệu múa vẫn sôi động, tiếng cười vẫn say đắm lòng người.

Ánh lửa bập bùng khiến gương mặt họ hồng rực lên đầy khỏe khoắn và hạnh phúc.

“Lúa trên nương chẳng cần tro Đã yêu ta chẳng cần dò mối mai Chẳng cần dê béo lợn bầy Hát vang một khúc đón ngay em về” …

Tiếng ca bên đống lửa ngân lên lanh lảnh nhưng A Hành chẳng để lọt tai một chữ. Nàng cứ ngẩn người đứng dưới cội hoa đào năm ngoái vò võ đợi Xi Vưu.

Từ nhỏ tới lớn, A Hành chưa khi nào bơ vơ như bây giờ. Thuở bé nàng luôn được cha cưng chiều, được mẹ bao bọc, muốn thứ gì thì cha cho thứ nấy, có chuyện gì cũng được mẹ chở che. Mãi đến giờ nàng mới hiểu, cha chiểu chuộng mình bởi những thứ nàng muốn chẳng ảnh hưởng tới lợi ích của ông, còn mẹ lại càng không đủ năng lực bảo vệ nàng trước mọi biến cố như nàng tưởng.

Đó vẫn là gia đình nàng, nhưng bỗng chốc hết thảy đều đã đổi thay, khiến nàng vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, chỉ khi nhớ tới Xi Vưu nàng mới thấy bình yên lạ thường, như có một nguồn sức mạnh diệu kỳ ẩn sâu trong lòng vậy. Thật ra nàng chẳng cần Xi Vưu phải làm gì, chỉ mong có thể dựa vào vai hắn, được nghe hắn dỗ dành “Dù gì cô vẫn còn có ta”, chỉ cần một người sẵn sàng làm chỗ dựa mỗi khi nàng mệt mỏi hay kinh hãi, như vậy là đủ tiếp thêm dũng khí để nàng bước tiếp rồi.

Tiếng hát vẫn lanh lảnh vang lên, hết bài này sang bài khác mà Xi Vưu vẫn chưa thấy tới. A Hành ngong ngóng trông chờ, bồi hồi mong đợi, lòng ngổn ngang bao điều muốn tâm sự với Xi Vưu. Nàng không muốn gả cho Thiếu Hạo, bởi thế, bao năm nay nàng đã dốc sức học y, chỉ mong đến một ngày có thể thưa với phụ vương một tiếng: “Con không bằng lòng”, hôm nay, rốt cuộc nàng đã thẳng thắn nói với phụ vương: “Con không bằng lòng” rồi.

Dần dà tiếng ca trong vắt cũng bặt hẳn đi, đám thiếu nữ đều đã tìm thấy người mình mong nhớ, chỉ có Xi Vưu là chưa tới.

Thoạt đầu A Hành còn cố giữ vẻ bình tĩnh, nhưng càng về sau nàng càng sốt ruột, cứ đăm đăm ngước mắt nhìn trời, khắc khoải mong Xi Vưu sẽ đột nhiên hiện ra, cưỡi trên lưng đại bang từ từ đáp xuống.

Ánh lửa càng lúc càng leo lét, trời mỗi lúc một tối dần, đám người xúm quanh đống lửa dần dần tản mác hết, nhưng Xi Vưu vẫn chưa thấy tới.  

A Hành ngẩng đầu nhìn trời, ánh mắt đượm phần buồn bã nhưng vẫn không ngừng tìm lý do biện hộ cho Xi Vưu, có lẽ hắn vướng bận một chút, có lẽ hắn đang trên đường đi… nhất định hắn sẽ tới mà!

Vừa nghĩ ra đủ thứ lý do, nàng vừa mong Xi Vưu sẽ đột ngột hiện ra ngay sau đó.

A Hành đợi mãi đợi mãi, thời gian cứ thế dài ra lê thê rồi dần trở thành một nỗi giày vò, nhưng trong lúc nàng chịu giày vò, thời gian vẫn chầm chậm trôi đi.

Đêm ngả về khuya, đống lửa đã tàn hẳn, cả sơn cốc trở nên tĩnh lặng như tờ.

A Hành vẫn đau đáu trông về phía Thần Nông sơn, một lòng mong mỏi lát nữa thôi Xi Vưu sẽ khoác chiếc áo đỏ rực rẽ khói băng mây mà tới, nét cười hờ hững còn vương vấn trên môi, thoạt trông thấy nàng, nụ cười ấy sẽ đổi thành rạng rỡ, hắn sẽ nhảy phắt từ trên lưng đại bàng xuống bên nàng.

Chỉ cần gặp được hắn, bấy nhiêu khổ đau trong khi chờ đợi đều chẳng là gì cả. Dù trong lòng vô cùng vui sướng, nàng vẫn sẽ vờ giận dỗi không thèm ngó đến hắn, để hắn phải rối rít nhận lỗi xin tha.

Đợi mãi đợi mãi, lòng A Hành đầy những bi thương và phẫn nộ, vừa giận Xi Vưu không giữ đúng lời lại vừa thầm cầu khẩn ông trời cho hắn mau đến! Miễn là hắn tới, nàng sẽ bỏ qua chuyện hắn đến muộn.

Nhưng hắn chẳng hề tới!

Chân trời phía Đông bắt đầu bàng bạc sáng lên, sắp đến bình minh, A Hành đã đợi dưới cội đào suốt cả một đêm. Nếu có thể hạnh phúc ngủ thiếp đi thì một đêm chẳng lấy gì làm dài, chỉ nhắm mắt mở mắt là hết, nhưng nếu vò võ đợi chờ thì một đêm dài dằng dặc như cả ngàn vạn năm, đủ để bãi bể hóa nương dâu, hy vọng thành tuyệt vọng, khiến trái tim chứa chan tình ý chết lặng rồi héo khô.

A Hành không tin Xi Vưu lại có thể nuốt lời. Trời còn chưa sáng, hắn nhất định sẽ tới! Hắn đã hứa dù xảy ra chuyện gì cũng sẽ tới, không gặp không về, hơn nữa giờ đang là lúc nàng cần hắn nhất!

Trên đầu trên vai A Hành phủ đầy cánh hoa, dưới ánh nắng mai trong trẻo, gương mặt nàng bỗng đỏ bừng lên, đỏ hơn cả những đóa hoa, toàn thân nàng rời rã, phải ôm lấy cội đào để cố giữ cho mình đứng vững, ngón tay liên tục rạch vào thân cây, Xi Vưu, Xi Vưu, Xi Vưu… từng vệt từng vệt móng tay nham nhở hằn lên gốc cây, như trái tim tan nát của nàng bây giờ vậy.

Thanh Dương thong thả bước lại gần, vạt áo lam bay phần phật trước gió, toát lên vẻ hững hờ của kẻ đã nhìn thấu tình đời, “Có đáng không? Muội bất chấp tất cả, chống đối phụ vương, đả thương Đại ca, mạo hiểm tới gặp hắn, nhưng còn hắn thì sao?”

Y đứng trước mặt A Hành, thay nàng phủi đi những cánh hoa vương trên vai trên tóc, “Có lẽ hắn bận việc gấp nên chậm trễ, nhưng còn lời hứa của hắn với muội thì sao? Chẳng lẽ chỉ khi nào hắn rảnh rỗi mới giữ lời hứa, còn khi có việc thì muội sẽ bị đẩy lại phía sau ư? Sinh mệnh của thần tiên rất dài, một đời có bao nhiêu là việc gấp, nếu muội chỉ có thể xếp sau những việc gấp đó thì muội giữ lời hứa tới gặp hắn làm gì?”

Nói rồi Thanh Dương kéo tay A Hành, “Theo ta về nhà đi!” A Hành ra sức vùng khỏi tay y, ánh mắt vẫn cố chấp dõi về phía cuối trời Đông, Xi Vưu nói không gặp không về kia mà!

Thấy vậy Thanh Dương đành bất lực lắc đầu, y cũng không nổi giận, chỉ tựa lưng vào một gốc đào đợi cùng A Hành.

Vầng dương dần dần nhô lên, từ một hình bán nguyệt biến thành một chiếc đĩa tròn vành vạnh, tỏa ánh nắng rực rỡ khắp rừng đào. A Hành bị chói không mở nổi mắt, chỉ nghe Thanh Dương nói: “Muội còn muốn đợi bao lâu nữa đây? Theo ta về nhà đi, hắn không tới đâu!”

A Hành nước mắt lưng tròng nhưng vẫn không chịu đi theo Thanh Dương, bọn muội đã hẹn không gặp không về mà! Hắn biết muội đang đợi hắn, nhất định hắn sẽ đến thôi!

Có điều trong lòng nàng chợt vang lên một giọng nói phụ họa với Thanh Dương, hắn không tới đâu, hắn không tới nữa rồi…

Giọng nói đó cứ ong ong bên tai nàng như sấm sét, càng lúc càng vang vọng, A Hành chỉ thấy mắt nổ đom đóm, thân mình xiêu đi rồi ngất lịm.

Thanh Dương vội đỡ lấy A Hành, bấy giờ y mới nhận ra tuy A Hành chỉ phải chịu một thành linh lực từ phát chưởng khi trước của mình, nhưng do gấp rút lên đường, chẳng kịp điều tức, lại đứng đợi suốt đêm, cộng thêm niềm bi thương vô hạn, thương thế đã xâm nhập vào đến tâm mạch nàng.

Thanh Dương vừa giận vừa thương em gái, bèn ôm lấy nàng cưỡi lên Trùng Minh điểu, tức tốc trở về Hiên Viên sơn.

Vừa về đến Hiên Viên sơn, Thanh Dương đã thấy Ly Chu dẫn theo thị vệ chặn đường, Ly Chu là khai quốc công thần của Hiên Viên, Thanh Dương cũng chẳng dám vô lễ, vội bảo Trùng Minh điểu dừng lại.

Ly Chu hành lễ với y rồi cung kính thưa: “Bệ hạ sai thần trói vương cơ đưa đến cung Thượng Viên chờ xử lý.”

Thanh Dương khách sáo: “Tiểu muội bị thương, mong đại nhân để ta đi cùng muội ấy.” Ly Chu thấy A Hành đã hôn mê bất tỉnh, đành nói: “Làm phiền điện hạ vậy.”

Dưới sự áp giải của đám thị vệ, Thanh Dương đưa A hành tới cung Thượng Viên yết kiến Hoàng Đế. Thấy A Hành mê man, Hoàng Đế bèn sai thầy thuốc cứu tỉnh nàng
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-12-2013 16:03:42 | Xem tất
Chương 11


Chàng đừng quên, hẹn nặng tây non[1].


11.3


A Hành tỉnh lại, thấy mình đã nằm trong kim điện, phụ vương đang ngồi tít trên cao. Nàng liền lặng lẽ quỳ phục xuống thềm.

Hoàng Đế hỏi: “Con biết tội chưa?”

A Hành giương mắt quật cường nhìn Hoàng Đế, không đáp. Hoàng Đế lại hỏi tiếp: “Con có bằng lòng lấy Thiếu Hạo không?”

“Con không bằng lòng! Nếu phụ vương muốn trói con lại đưa đến vương cung Cao Tân thì cứ tùy ý!” Tuy giọng nàng yếu ớt nhưng trong kim điện lặng phắc như tờ lại nghe rất rõ ràng.

Thanh Dương lập tức quỳ xuống dập đầu, “Phụ vương, tiểu muội nhất thời còn chưa nghĩ thông, để con khuyên nhủ thêm, nhất định muội ấy sẽ…”

Hoàng Đế ra hiệu cho y im lặng rồi đưa mắt nhìn A Hành, “Bao năm nay ta đã chiều theo ý mẫu hậu con, mặc con muốn gì làm nấy mà lơ là quản giáo, khiến con quên rằng vương tộc cũng có quy củ của vương tộc.” Nói rồi ông quay sang bảo Ly Chu, “Nhốt vương cơ vào Ly Hỏa trận, khi nào nó nghĩ thông thì hãy tới bẩm với ta.”

Thanh Dương nghe truyền tái mặt, thể chất của A Hành là mộc linh, bị nhốt vào Ly Hỏa trận thì khác nào gỗ bị lửa thiêu đốt, đau đớn vô cùng, y liền dập đầu lia lịa, luôn miệng van xin, “Phụ vương, tiểu muội thần lực thấp kém, không chịu nổi giày vò trong Ly Hỏa trận đâu, xin người khai ân.”

Mặc cho Thanh Dương cầu xin, A Hành đứng phắt dậy lạnh lùng hỏi Ly Chu: “Ly Hỏa trận ở đâu? Chúng ta đi!”

Xưa nay Ly Chu vẫn cho rằng nhờ được Luy Tổ bao bọc nên A Hành rất ngây thơ trong sáng, nào ngờ nàng vương cơ hiền hòa này lại cương cường đến thế, không khỏi nảy sinh vài phần ngưỡng mộ, bèn cung kính đáp: “Xin vương cơ đi theo thuộc hạ.”

Thấy A Hành nghênh ngang bỏ đi còn Thanh Dương vẫn quỳ mọp dưới thềm năn nỉ, Hoàng Đế lạnh lùng nói: “Hôn nhân giữa Cao Tân và Hiên Viên là việc trọng đại, nếu con vì cảm xúc nhất thời định rat ay giúp A Hành, ta sẽ phạt cả con luôn đó.”

“Tượng Võng, tới Triêu Vân…” Hoàng Đế toan hạ lệnh đã thấy Tri Mạt, kẻ được xưng tụng là Đế sư bước lên hành lễ: “Xin bệ hạ phái thần đi Triêu Vân phong, thần sẽ khuyên giải vương hậu nương nương, ngăn nương nương đi cứu vương cơ.”

Hoàng Đế nhìn Tri Mạt giây lát rồi phán, “Ta định sai Tượng Võng đi nhưng ngươi đã chủ động đứng ra xin, vậy ngươi đi đi.”

Tri Mạt nhận lệnh quay mình lui ra, lúc ngang qua Thanh Dương lão còn đưa mắt nhìn y ra ý khuyên nhủ, Thanh Dương rùng mình, lấy lại bình tĩnh, dập đầu cung kính thưa với Hoàng Đế: “Nhi thần đã hiểu, đúng là nên giáo huấn tiểu muội một chút.”

Hoàng Đế xua tay cho Thanh Dương lui ra. Ra khỏi cung Thượng Viên, Thanh Dương lạnh lùng cho tùy tùng lui ra, một mình tản bộ.

Trên đường vàng rực nắng, người qua kẻ lại vô cùng náo nhiệt nhưng hướng y đi càng lúc càng vắng vẻ, dẫn tới một con hẻm tồi tàn. Trong hẻm có tiệm giặt giũ, có lò mổ lênh láng máu me và nước thải tràn ra đường, còn cả một quán rượu nho nhỏ, chuyên bán rượu cho thường dân. Giữa ban ngày nên quán vắng tanh vắng ngắt, Thanh Dương đi thẳng vào, ngồi xuống một góc: “Ông chủ, cho một cần rượu.”

“Có ngay!” Chủ quán vừa đáp vừa bưng rượu tới trước mặt Thanh Dương.

Thanh Dương cứ thế lặng lẽ uống từ khi trời đang sáng tới tận tối mịt, rồi say túy lúy gục xuống mặt bàn bẩn thỉu cũ nát ngủ thiếp đi.

Ông chủ cũng để mặc Thanh Dương, chỉ lo làm việc của mình. Lúc mới lên sáu bảy tuổi, hắn trông thấy Thanh Dương lần đầu, đến khi ngoài ba mươi tuổi lại gặp lần thứ hai, hắn đã kinh hoàng trợn mắt nhìn Thanh Dương la lớn: “Yêu quái”, liền bị cha cho một bạt tai, cha hắn nói khi ông tổ của ông nội của ông nội còn bán rượu đã thấy gã đàn ông này rồi, bao năm nay y vẫn như vậy, chẳng biết là thần hay là yêu, dù sao cũng không phải người xấu, mỗi lần tới y chỉ uống rượu, còn thanh toán tiền rượu rất đầy đủ.

Chập tối hôm sau, một nam tử bạch y bước vào quán, đưa cho chủ quán một bầu rượu, “Rót cho một cân rượu.”

“Có ngay!” Chủ quán nhanh nhẹn rót rượu.

Nam tử bạch y đón lấy bầu rượu bước đến cạnh Thanh Dương, đặt một tay lên vai y, tay kia cầm bầu rượu ngửa cổ tu liền mấy hớp.

Thanh Dương ngẩng lên nhìn, nét mặt trở nên mơ màng, mất hẳn vẻ lạnh lùng cố hữu, “Ngươi tới rồi ư?”

Thiếu Hạo hỏi: “Liệu A Hành chịu đựng được bao lâu trong Ly Hỏa trận?”

“Ngươi biết hết rồi sao?”

“A hoàn của ngươi tìm ngươi khắp nơi không thấy, vừa gặp ta nó liền tông tốc kể ra hết, nên ta đoán chắc hẳn ngươi lại tới đây uống rượu.”

“Tâm mạch của A Hành đang bị tổn thương, hằng ngày nó lại rất nhõng nhẽo, chẳng bao giờ chịu chăm chỉ luyện công, ta thật không hiểu sao nó có thể gắng gượng được đến giờ.”

Thiếu Hạo thầm than, anh em ngươi quật cường hệt như nhau, năm xưa ngươi cũng chịu cực hình giày vò của Hoàng Đế suốt nửa năm không hé răng cầu khẩn đấy thôi. Y ngẫm nghĩ: “Trước mặt Hoàng Đế không được nôn nóng, đầu tiên ngươi phải tìm cách đưa ta vào Ly Hoả trận bảo vệ cho A Hành đã, sau đó chúng ta sẽ từ từ nghĩ biện pháp cứu nàng.”

Hai người bước ra khỏi quán, ra tới cửa Thiếu Hạo còn ngoảnh lại giơ bầu rượu lên nói với chủ quán: “Rượu ông cất ngon hơn cả cụ tổ nhà ông, người đầu tiên bán rượu ở đây ấy, nhưng tính tình không trung thực bằng, ông không nên thấy ta nói giọng nơi khác mà đong thiếu cho ta một lạng chứ, bớt một đền mười nhé.”

Vừa dứt lời, chủ quán chợt thấy rượu trong chiếc vò trước mặt bỗng ùng ục mấy tiếng rồi biến mất, kinh hãi đến há hốc cả miệng, tới khi định thần ngẩng lên thì trước cửa đã vắng hoe.

Trong Ly Hỏa trận, dường như ngoài lửa ra chẳng còn gì hết.

Từng đám lửa đỏ bay qua bay lại như sao băng, thiêu rụi mọi thứ trong trận. Bởi thể chất của A Hành là mộc linh nên khi bị lửa hun đốt, nàng chịu đau đớn hơn những thần tiên khác gấp bội.

A Hành nghiến chặt răng, đã mấy lần đau đến ngất đi cũng chừng đó lần bị trận pháp hun cho tỉnh lại, liên tục vật vã trong đau đớn vô bờ.

Càng về sau nỗi đau càng tăng thêm, như thế có vô số ngọn lửa chạy rần rật trong cơ thể khiến A Hành không sao chịu nổi, nàng đau đến nỗi co rúm người lại lăn lộn trong trận pháp.

Tuy Ly Chu là đại thần tâm phúc của Hoàng Đế nhưng lại tận mắt chứng kiến A Hành từ nhỏ lớn lên, thấy nàng vật vã khổ sở lão cũng chẳng đành lòng, bèn cất lời khuyên nhủ: “Vương cơ nhận lỗi với bệ hạ đi, bệ hạ rất thương vương cơ, nhất định sẽ thả vương cơ ra ngay.”

A Hành đau đến nỗi lên cơn co giật nhưng vẫn làm thinh không nói.

Sau cùng nàng cũng chằng còn sức mà lăn lộn nữa, chỉ nằm toi thóp trên mặt đất, có điều Ly Hỏa trận là trận pháp dùng để trừng phạt thần tiên, bởi vậy những đau đớn về thể xác của nàng không hề được giảm nhẹ mà vẫn tiếp tục đẽo xương rứt tủy giày vò nàng.

Rất lâu rất lâu nữa, lâu đến nỗi A Hành cảm thấy trời tàn đất tận, thân thể nàng đột nhiên mát lạnh như nắng hạn gặp mưa rào, bao nhiêu đau đớn đều tan biến cả. Nàng lờ đờ hé mắt ra liền trông thấy nước lửa đan xen, ánh sáng chói lòa, Thiếu Hạo đứng giữa trận pháp như câu ngọc đón gió, chẳng vương chút bụi trần, vô số thủy linh vui vẻ bơi qua lượn lại quanh mình y, đám lửa đỏ rực trời đều bị nước ngăn lại phía ngoài. Thiếu Hạo chăm chú nhìn A Hành, vẻ mặt phức tạp, y đỡ nàng dậy đút nước cho nàng rồi hỏi nhỏ: “Lẽ nào gả cho ta còn đau đớn hơn bị lửa thiêu đốt toàn thân ư?”

A Hành mở miệng toan nói, tiếc rằng cổ họng đã bị lửa hun khô rang, không cất nổi nên lời, chỉ biết lắc đầu.

Thiếu Hạo đặt Quy khư thủy ngọc vân mang bên mình vào miệng nàng, hạ giọng thì thầm: “Lén ngậm nó rồi vờ như nàng rất đau đớn.”

Dứt lời Thiếu Hạo đặt A Hành xuống, rời khỏi Ly Hỏa trận. Hỏa linh nghiêng trời lệch đất lập tức ập đến quanh nàng, cuộn lên từng bước y đi, nhưng lục phủ ngũ tạng A Hành vẫn mát mẻ, chỉ có da dẻ hơi phồng rộp lên, so với nỗi đau đớn ban đầu thì chẳng thấm vào đâu cả.

Theo ý chỉ của Tuấn Đế, Thiếu Hạo ngàn dặn xa xôi tới bái kiến Hoàng Đế xin chọn ngày thành hôn, Hoàng Đế bèn đặt tiệc trong cung Thượng Viên khoản đãi y.

Thiếu Hạo khiêm tốn lễ độ, học thức uyên bác, mấy chuyện tầm phào được y thao thao kể ra, còn trích dẫn điển tích nghe sinh động thú vị hẳn lên, cả đại điện râm ran tiếng cười nói như được tắm trong làn gió mát.

Nghe Hoàng Đế ướm hỏi Tuấn Đế định sắp xếp hôn sự ra sao, Thiếu Hạo liền thưa: “Cao Tân đã chuẩn bị xong xuôi mọi thứ rồi. Cứ theo ý phụ vương con thì càng nhanh càng tốt.”

Các triều thần đua nhau chúc mừng, Hoàng Đế cũng gật đầu cười hài lòng. Thiếu Hạo lại ngượng nghịu nói tiếp: “Theo lễ nghi Cao Tân, sau khi chính thức định ngày, con và vương cơ sẽ không được gặp nhau cho tới hôn lễ. Lần này con mang theo vài món đồ chơi cho vương cơ, ngày mai muốn, muốn… tự tay đưa tặng vương cơ, xin bệ hạ chuẩn y.”

Mọi người hiểu ra đều phá lên cười, đưa tặng quà chỉ là cái cớ, mục đích là muốn gặp mặt nhau. Hoàng Đế cũng mỉm cười nói: “Dĩ nhiên là được.”

Nói rồi ông đưa mắt nhìn tâm phúc bên mình, đoạn căn dặn Thanh Dương: “Con đi báo với Hành nhi một tiếng, dặn nó tối nay nhớ nghỉ ngơi sớm, ngày mai trang điểm lộng lẫy đi gặp Thiếu Hạo, đừng để thất lễ.”

“Nhi thần hiểu.” Thanh Dương nhận lệnh lui khỏi đại điện.

Lúc Thanh Dương tới Ly Hỏa trận, tâm phúc của Hoàng Đế đã lệnh cho Ly Chu giải trừ trận pháp. Nhìn A Hành thương tích khắp người, chỉ còn thoi thóp, Thanh Dương chẳng dám để Luy Tổ trông thấy, đành đưa nàng về phủ mình.

Thanh Dương tu tập thủy linh, lại thêm Quy khư thủy ngọc vạn năm của Thiếu Hạo hỗ trợ nên vết thương bên ngoài của A Hành lành lại rất nhanh.

Thanh Dương xót xa nhìn em gái, “Bị thương đến thế này, muội vẫn không chịu để gả cho Thiếu Hạo ư?”

A Hành quật cường mím môi không đáp. Thanh Dương đột ngột nổi giận: “Là Xi Vưu của Thần Nông phải không? Muội có tin ta đi giết phăng thằng nhãi Cửu Lê đó không?”

A Hành trừng mắt nhìn y, lộ vẻ cố chấp không sợ trời chẳng sợ đất.

Thanh Dương xả giận xong lại nghĩ, tuy bốn anh em mỗi người một tính nhưng nết quật cường thì hệt như nhau, tất phải tìm cách khác.

Y trầm ngâm như nghĩ ngợi xem nên nói từ đâu, hồi lâu mới hỏi: “Muội có biết người được phụ vương sủng ái nhất là ai không?”

A Hành đáp ngay chẳng cần nghĩ, giọng khàn khan: “Tam phi Đồng Ngư thị.” Chuyện này thần tiên nào của Hiên Viên mà không biết chứ.

“Theo tính tình của mẹ, muội nghĩ Người có chịu cầu xin lòng sủng ái của phụ vương không?”

“Dĩ nhiên không rồi!” A Hành ngỡ ngàng, chẳng hiểu Thanh Dương hỏi vậy là có ý gì. Tính khí của mẹ nàng rất kiên cường cứng rắn, lại chẳng chịu giữ gìn dung nhan trẻ đẹp nên từ khi hiểu chuyện, nàng chưa từng thấy phụ vương nghỉ tại Triêu Vân điện bao giờ.

“Hơn năm trăm năm trước, Đồng Ngư thị từng rắp tâm muốn dọn vào Triêu Vân điện.”

A Hành ngẫm nghĩ, bấy giờ mới hiểu ra ý tứ của câu nói này, liền kinh ngạc ngẩng lên: “Ý huynh là… bà ta muốn phụ vương phế hậu ư?”

Thanh Dương lạnh lùng gật đầu.

“Sao muội chả biết gì cả?”

“Xương Ý không muốn cho muội biết những chuyện này, nó xin ta đừng kể lại với muội. Xương Ý và mẹ đều muốn bảo vệ muội, để muội được sống những tháng ngày vô tư vô lự, nhưng muội sớm muộn gì cũng phải trưởng thành, có rất nhiều việc không thể trốn tránh được.”

A Hành sững người nhìn Thanh Dương, trong lòng chỉ canh cánh nghĩ tới việc phế hậu. Thanh Dương cười nhạt hỏi: “A Hành, lẽ nào muội tưởng rằng gia đình ta toàn cha hiền con hiếu, anh em khăng khít sao?”

A Hành chẳng thốt nên lời, tuy nàng biết các anh vẫn ngấm ngầm tranh chấp với nhau, nhưng có lẽ Đại ca quá dũng mãnh nên nàng chưa từng trăn trở về việc này.

Thanh Dương lại hỏi: “Muội có biết tại sao Đồng Ngư thị thôi không lải nhải bên tai phụ vương rằng bà ta thích phong cảnh ở Triêu Vân điện nữa không?”

“Vì huynh sao?”

Thanh Dương cười khẩy lắc đầu, “Nếu vì ta thì bà ta càng muốn tiến vào Triêu Vân điện, có vậy con trai bà ta mới có thể trở thành con đích, mới có thể danh chính ngôn thuận tranh đoạt vương vị với ta.”

“Vậy là vì…”

A Hành chẳng nghĩ ra được nguyên nhân nào nữa cả.

“Vì muội đấy.”

“Vì muội ư?” A Hành tròn mắt kinh ngạc, khi đó nàng vẫn là đứa trẻ ngây ngô, có thể giúp được gì chứ?

“Vì muội có hôn ước cùng Thiếu Hạo, mà Thiếu Hạo rất có khả năng sẽ trở thành Tuấn Đế, phụ vương đông con trai nhưng chỉ có mình muội là con gái. Cao Tân vô cùng coi trọng dòng dõi xuất thân, để muội có thể thuận lợi trở thành vương hậu Cao Tân, phụ vương không thể cướp đoạt thân phận tôn quý của muội.”

A Hành lộ vẻ kinh hãi.

Thanh Dương nói tiếp: “A Hành, mẹ đã dốc hết sức để muội có được năm trăm năm thoải mái vô lo, trong vương tộc điều đó quý giá nhường nào, muội biết không? Muội thấy bây giờ mẹ ra sao rồi đấy, muội hiểu những gì người phải bỏ ra vì chúng ta không? Muội đành lòng để mẹ bị đám phi tử kia làm nhục ư?”

Thấy A Hành cắn môi không đáp, Thanh Dương lại nói tiếp: “Từ nhỏ tới lớn Xương Ý đều che chở cho muội, muội có nghĩ hành động của mình sẽ làm tổn hại đến nó không? Nếu muội hủy hôn với Thiếu Hạo, rất có thể mẹ sẽ phải rời khỏi Triêu Vân điện, e rằng Xương Ý cũng bị phụ vương biếm đi, đến chừng đó, hết thảy mọi đả kích liền trút xuống, theo tính tình của Xương Ý, muội nói nó có ứng phó nổi không?”

A Hành rưng rưng nước mắt, nàng ngỡ rằng từ hôn chỉ là việc riêng của mình, dù bị phụ vương trừng phạt nàng cũng không sợ, ngờ đâu hôn sự của nàng lại liên quan mật thiết tới tính mạng mẹ và anh trai như vậy.

“Nếu vì một gã đàn ông mà muội đành lòng vứt bỏ cả mẹ và Xương Ý, ta cũng không sao ngăn được! Nhưng muội tưởng vứt bỏ mẹ và ca ca thì có thể giành được những gì mình muốn ư?”

A Hành chỉ ngây thơ thuần phác chứ chẳng phải hạng ngu dốt, nghe Đại ca giảng giải nàng đã hiểu cả, bất giác lã chã hai hàng nước mắt. Thấy vậy Thanh Dương lại tiếp tục dồn ép, như thể muốn xóa sạch chút tàn dư hy vọng còn sót lại trong lòng nàng, “Muội cãi lời phụ vương, phá hỏng mối liên minh giữa Hiên Viên và Cao Tân, có lẽ phụ vương không nỡ giết muội nhưng nhất định sẽ lấy mạng Xi Vưu! Vả lại Cao Tân là Thần tộc từ thời thượng cổ, lễ giáo nghiêm ngặt nhất trong các Thần tộc, dù Thiếu Hạo khoan dung đại lượng chẳng tính toán với muội thì vương thất Cao Tân cũng không nuốt trôi nỗi nhục mà Xi Vưu đem lại, ắt hẳn sẽ phái binh ám sát hắn! Theo ta được biết Xi Vưu và Chúc Dung rất căm ghét nhau, biết đâu y chẳng đục nước béo cò mà giết chết Xi Vưu? A Hành, muội định đẩy Xi Vưu vào vòng truy sát của Tam đại Thần tộc ư? Đến chừng đó, dù thiên hạ rộng lớn thật đấy, nhưng bọn muội liệu còn chốn dung thân không?”

A Hành tái mặt đổ gục xuống như thể bị rút hết xương cốt. Thanh Dương chẳng những đã phá nát giấc mộng thiếu nữ của nàng mà còn đạp đổ tất cả những gì tốt đẹp mấy trăm năm nay mẹ và Xương Ý dựng lên cho nàng.

Thanh Dương lại hỏi: “Tri Mạt bá bá đang ở Triêu Vân phong, mẹ vẫn chưa biết chuyện muội bị trừng phạt, muội có muốn cho mẹ biết không?”

A Hành nước mắt như mưa nhưng vẫn cương quyết lắc đầu.

“Vậy được, chúng ta xem như chưa có gì xảy ra, muội nghỉ ngơi một đêm cho khỏe, sáng mai chúng ta quay về Triêu Vân điện, muội hãy nói với phụ vương và mẫu hậu rằng mình bằng lòng gả cho Thiếu Hạo.”

A Hành không đáp, chỉ vùi mặt vào gối, hai mắt nhắm nghiền, chan hòa nước mắt.

Nửa đêm, Xi Vưu đang định cưỡi đại bàng đến Cửu Lê gặp A Hành như đã hẹn, hắn còn toan tới sớm trước tết Khiêu Hoa để chuẩn bị cho nàng một bất ngờ.

Đột nhiên một luồng sáng đỏ rực bốc lên từ đỉnh Tiểu Nguyệt. Trong chớp mắt Xi Vưu biến hẳn sắc mặt, hắn thoáng chần chừ trông về phía Cửu Lê xa tít cuối trời rồi lệnh cho đại bàng quay lại Thần Nông sơn.

Vừa nhảy xuống khỏi lưng đại bàng, hắn đã thấy Vân Tang hớt hải chạy tới đón, sắc mặt tái nhợt, “Phụ vương đã hoàn toàn hôn mê rồi, Du Võng hiện đang ở bên cạnh Người, trước khi Du Võng chính thức lên ngôi, phải phong tỏa tất cả tin tức, bằng không Hiên Viên và Cao Tân biết được sẽ bất ngờ dấy binh, giặc ngoài tất dẫn tới loạn trong, khó mà thu xếp được. Ta đã lấy danh nghĩa phụ vương triệu kiến Chúc Dung, Cộng Công và Hậu Thổ, bọn chúng vẫn chưa biết tình hình, đợi chúng tới ta sẽ lập tức phái trọng binh canh giữ, không cho chúng rời khỏi Thần Nông sơn, ngươi cũng phải hết sức cẩn thận đấy.”

Vân Tang lại quay sang dặn dò thống lĩnh thị vệ Hình Thiên bên cạnh: “Mau khởi động trận pháp, giới nghiêm toàn bộ hai mươi tám đỉnh của Thần Nông sơn, từ giờ trở đi chỉ có vào không có ra. Không được để bất kỳ tin tức nào truyền ra ngoài, kẻ nào nhất mực đòi đi chém ngay tức khắc!”

Đám tinh nhuệ trên Thần Nông sơn mấy đời tận trung với Viêm Đế thảy đều dạ ran, Phong Sơn trận pháp mấy ngàn năm mới khởi động một lần lại được khởi động lần nữa. Phong Sơn trận do Viêm Đế các đời dốc hết tâm huyết tạo nên, trừ phi có tinh huyết trích trong tim Viêm Đế hộ thân, bằng không dù một con ruồi cũng khó mà bay lọt khỏi Thần Nông sơn.

Xi Vưu rảo bước vội vã tới đại điện nhưng chốc chốc lại ngoảnh đầu nhìn về phía Cửu Lê, lòng đầy đau thương buồn bực, chẳng rõ là lo lắng cho Viêm Đế trong điện Tiểu Nguyệt hay lưu luyến A Hành trên Cửu Lê sơn.

Du Võng, Vân Tang và Mộc Cận vây quanh giường bệnh của Viêm Đế suốt đêm, mãi đến gần sáng Viêm Đế mới đột nhiên tỉnh lại.

Thấy vậy, Du Võng cùng Vân Tang vô cùng mừng rỡ, nhưng Viêm Đế đã chẳng thể nói năng gì, chỉ đưa mắt nhìn quanh tìm kiếm. Trong lúc Vân Tang còn ngơ ngác, Du Võng vội quay ra gọi: “Xi Vưu, mau vào đi, phụ vương muốn gặp ngươi.”

Đám Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ chầu chực bên ngoài nghe Du Võng gọi, mỗi người tỏ một thái độ khác nhau nhưng hết thảy đều đổ dồn ánh mắt về phía Xi Vưu. Thấy Xi Vưu vội vã bước vào, Viêm Đế mỉm cười, nét mặt héo úa tiều tụy vì bệnh tật giày vò.

Xi Vưu chợt hồi tưởng lại ông lão gầy gò đầu đội nón tre lưng đeo gùi thuốc mấy trăm năm trước bước vào đầm lầy xoa bụng cười nói: “Ai da, sao ngươi dạy được đám khỉ hái quả cho mình hay vậy? Cho ta một quả với!”

Mấy trăm năm nay, chính là ông lão thoạt nhìn hòa nhã thật thà mà trong bụng gian trá giảo hoạt này dạy hắn tiếng người, dạy hắn biết đọc biết viết, còn lải nhải giảng cho hắn về lễ tiết nhân gian, vắt óc tìm cách mài mòn dã tính trong hắn.

Xi Vưu thấy cay cay sống mũi, liền quỳ sụp xuống bên giường Viêm Đế: “Sư phụ, ta nhất định sẽ giữ lời thề.”

Viêm Đế thở phào nhẹ nhõm, ánh mắt đầy vẻ an ủi, đoạn lại nhìn sang Mộc Cận, Mộc Cận vội dập đầu: “Nếu không có phụ vương thu dưỡng, con đã chết từ lâu rồi. Ơn dưỡng dục của Người thật chẳng biết lấy gì báo đáp, con biết phụ vương vẫn canh cánh lo cho trăm họ Thần Nông, tuy con là phận gái nhưng cũng xin dốc hết sức mình thay Người bảo vệ cho dân chúng Thần Nông.”

Viêm Đế mấp máy môi nhưng chẳng thốt ra nổi một tiếng, lại nhìn sang bên gối.

Vân Tang thấy bên gối đặt một chiếc hộp gỗ bèn mở ra xem, thấy bên trong có hai con chim đẽo bằng gỗ, nàng ngơ ngác không hiểu là thứ gì, có điều nhìn biểu hiện dường như Viêm Đế muốn cầm, bèn đặt hai con chim đó vào tay Viêm Đế.

Viêm Đế chăm chú nhìn đôi chim một lượt rồi nhìn sang Vân Tang, bờ môi mấp máy chẳng thốt nổi nên lời, bấy giờ Vân Tang mới sực hiểu ra, vội ôm chậu sơn trà xanh biếc vẫn đặt trong phòng ngủ vào lòng, nghẹn ngào nói: “Con sẽ, sẽ trồng chúng trên… mộ cha mẹ, cha yên tâm!”

Viêm Đế đăm đăm ngắm những đóa sơn trà, ánh sáng trong mắt nhạt dần nhưng nụ cười trên môi càng lúc càng tươi tắn, sau cùng, đôi mắt Viêm Đế trở nên bạc phếch, nụ cười vẫn ngưng đọng trên môi.

Mộc Cận phủ phục bên giường Viêm Đế khóc lóc thảm thiết, thoạt đầu nàng còn ráng nén tiếng khóc, dần dần không sao nén nổi, tiếng nức nở cứ to dần.

Vân Tang quỳ thẳng đơ không khóc lóc cũng chẳng động đậy, rồi đột nhiên ngã lăn ra đất ngất lịm.

Đám Chúc Dung nghe tiếng khóc xông vào, thấy Viêm Đế đã qua đời, ai nấy đều thấy lòng buồn vô hạn, quỳ xuống đất khóc rống lên.

Vào đúng lúc Viêm Đế tắt thở, đôi chim gỗ trong tay Viêm Đế thình lình cử động, cất cánh bay lên, lượn quanh thi thể một vòng rồi bay ra ngoài cửa sổ.

Đôi chim đỏ rực từ Tiểu Nguyệt đỉnh Thần Nông sơn bay ra, vượt qua Phong Sơn trận pháp, một con bay tới Triêu Vân phong ở Hiên Viên sơn, con kia bay đến Ngọc sơn.

Sáng hôm sau.

Vương Mẫu vừa trang điểm xong, đang ngồi trước đài trang lần lữa chưa buồn đứng dậy, bà ngơ ngẩn ngắm mình trong gương, thấy dung nhan vẫn là thiếu nữ vừa tròn đôi tám, hệt như năm ấy.

Bất giác bà chợt chạnh lòng nhớ tới một khúc điệu vô cùng quen thuộc, trong tiếng nhạc du dương, bà như thấy lại tất cả: mặt trời xế bóng, những đóa hoa rực rỡ nở khắp núi đồi, và bản thân mình đang phơi phới múa.

Sau phút mơ màng, bà bỗng phát hiện ra khúc nhạc đó không chỉ vang lên trong lòng mình, mà còn từ bên ngoài vẳng lại.

Vương Mẫu đứng phắt dậy, mặc cho hộp trang điểm, gương soi, ghế ngồi đổ lỏng chỏng, bà điên cuồng chạy thẳng khỏi đại điện, liền trông thấy một con chim gỗ đỏ rực đang đỗ trên cành đào véo von cất giọng.

Khúc nhạc quen thuộc, nhưng chim gỗ hót lên lại chứa chan những ân hận và xa cách.

Vương Mẫu đờ người, sắc mặt tái nhợt, nước mắt cứ thế trào ra, chảy tràn xuống hai gò má không sao kiềm chế nổi.

Nghe mãi nghe mãi, Vương Mẫu bắt đầu múa theo tiếng chim, vừa múa vừa khóc, vừa múa vừa cười, bà đợi suốt ngàn năm cuối cùng cũng đợi được khúc nhạc này! Nào ai ngờ một khi tới lại là vĩnh biệt!

Khúc nhạc hoàn tất, chim gỗ cũng tan thành tro bụi.

Vương Mẫu vẫn khe khẽ hát khúc đồng dao, say sưa nhảy múa như thể đang tiếp tục điệu múa dang dở từ ngàn năm trước bà chưa kịp nói ra.

Chờ đợi cả ngàn năm, cứ ngỡ rằng thế nào cũng được một cơ hội, chỉ cần một cơ hội mà thôi, nhưng cuối cùng… cuối cùng điệu múa này vẫn chẳng thể nào múa hết.

Tất cả cung nữ đều luống cuống chỉ biết tròn mắt kinh ngạc nhìn Vương Mẫu vừa cười vừa hát, vừa khóc vừa múa.

Trong lúc Vương Mẫu vung tay áo phơi phới múa, mấy bông tuyết lấp lánh lạnh buốt đột nhiên từ trời cao phất phơ bay xuống.

Đám cung nữ chìa tay ra hứng, bàng hoàng không dám tin rằng đó là băng tuyết, nơi này là thánh địa Ngọc sơn quanh năm ấm áp như mùa xuân kia mà!

Từng bông từng bông tuyết lả tả trút xuống, càng lúc càng to, ngàn vạn gốc đào trên Ngọc sơn cũng theo nhau tàn lụi.

Cùng với điệu múa của Vương Mẫu, dung nhan bà cũng từ từ già đi, đám cung nữ ré lên kinh hãi: “Vương Mẫu, Người, mặt của Người!” Vương Mẫu chỉ dịu dàng cười, mặc cho những nếp nhăn lờ mờ lan ra từ khóe miệng, dần dà phủ đầy cả gương mặt.

Tuyết càng rơi càng lớn, cả Ngọc sơn bị băng tuyết bao phủ, nhuộm một màu trắng xóa.

Núi biếc chưa già, lại vì chàng mà bạc cả mái đầu.

Lúc chính ngọ là thời điểm Triêu Vân điện tràn ngập dương quang, Luy Tổ cũng rất thích ngồi bên song dệt vải dưới ánh nắng vàng rực rỡ.

Đột nhiên Luy Tổ vô tình ngẩng lên, trông thấy một cánh chim đỏ rực bay ngang trời rồi chấp chới khuất sau rừng dâu, sắc mặt bỗng tái nhợt, bà quăng thoi xuống chạy ra khỏi Triêu Vân điện.

Con chim đỏ rực đậu xuống cành dâu, véo von cất giọng hót với bà.

Luy Tổ lắng nghe, chợt mỉm cười!

Hơn ba ngàn năm trước, lúc bà dứt áo ra đi, bọn họ đã ngồi trên sườn núi xanh ngắt cỏ non hát khúc ca này đây.

Hoàng hôn hôm ấy đẹp đẽ vô ngần, khúc nhạc của Thạch Niên trầm bổng du dương nhường ấy, điệu múa của A Mi cũng say đắm lòng người như vậy, chỉ có bà là hát qua quýt cho xong, bởi trong lòng còn mải nghĩ đến gã thiếu niên anh tuấn hào sảng dưới Hiên Viên sơn.

Bà bất ngờ hạ quyết tâm đi tìm gã thiếu niên đó, bởi thế Thạch Niên chưa kịp thổi hết khúc nhạc đó, A Mi cũng chưa múa xong điệu múa đó.

Bà đâu có ngờ, khúc nhạc ấy phải hơn ba ngàn năm sau mới thổi hết.

Nếu năm đó bà biết rằng dù sinh mệnh có dài đằng đẵng, dù trong đời còn vô vàn buổi chiều tà, cũng không thể tìm lại được một chiều hoàng hôn mỹ lệ dịu dàng soi sáng cho ba người bọn họ như thế nữa, có lẽ bà đã chẳng nôn nóng bỏ đi như vậy mà sẽ trân trọng nâng niu từng khoảnh khắc, dẫu rằng chia tay là tất yếu, bà cũng muốn tha thiết hát cho hết khúc ca ấy dưới ánh hoàng hôn.

Chim gỗ hót hết khúc nhạc liền tan thành tro bụi, như thông báo rằng Viêm Đế, người chế tạo ra nó, đã vĩnh viễn khuất bóng trên thế giới này.

“Muội xin lỗi!”

Luy Tổ cố nén nhưng đau thương đã trào ra khóe mắt, hóa thành hai hàng lệ lã chã rơi, khóc cho một niềm ân hận đã ba ngàn năm chưa nguôi ngoai.

Dù xin lỗi cả trăm ngàn lần, cũng có được gì đâu? Trong đời bà sẽ vĩnh viễn chẳng thể tìm lại buổi hoàng hôn mỹ lệ, dịu dàng chiếu sáng cho ba người bọn họ như thế nữa.

Bảy ngày sau, Thần Nông quốc tuyên bố Viêm Đế đời thứ bảy đã qua đời. Tin này lập tức lan truyền khắp thiên hạ, ngũ hồ tứ hải, lục hợp bát hoang, ai nấy đều đau xót. Vương tử Du Võng kế vị, trở thành Viêm Đế đời thứ tám, đồng thời tuyên đọc di chiếu của Viêm Đế đời trước, phong cho Xi Vưu làm Đốc Quốc Đại tướng quân, nắm giữ tất cả binh mã Thần Nông quốc.

Mười ngày sau, hai tộc Cao Tân và Hiên Viên đồng thời tuyên bố đã chọn được một ngày thành hôn, Cao Tân Thiếu Hạo sẽ cưới Hiên Viên Bạt trong một ngày gần đây, hai đại Thần tộc chính thức kết mối liên minh, cả đại hoang đều khấp khởi mong đợi một hôn lễ long trọng chưa từng thấy suốt ngàn năm nay.

Hết chương 11.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-12-2013 16:23:52 | Xem tất
Chương 12


Đa tình chỉ chuốc lấy hao mòn[1].


12.1


[1] Trích trong bài từ theo điệu Ngu mỹ nhân của Nạp Lan Tinh Đức, nhan đề Chiều thu tản bộ.


Thiếu Hạo miên man nghĩ ngợi rồi bất chợt phá lên cười. Y không cần vợ mà cần ngôi báu, người phụ nữ đứng bên ngôi báu cũng chẳng thể là vợ, bởi ngôi báu quá nhỏ hẹp, không chứa nổi hai người sánh vai đứng cạnh nhau.  

Mồng năm tháng Năm là tết Tháng Năm của Cao Tân, cũng là ngày đại cát để thành hôn. Hôn lễ của Cao Tân Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt được cử hành vào hôm đó.

Trăm họ Hiên Viên đều thích tài hoa, trọng anh hùng, Cao Tân Thiếu Hạo là nam nhi xuất chúng nhất trong thiên hạ, là tấm chồng hoàn mỹ mà thiếu nữ nào cũng tha thiết ước mong, thấy vương cơ duy nhất của mình được gả cho Thiếu Hạo, bọn họ hết sức vui mừng. Muôn dân Cao Tân lại ưa huyết thống, trọng dòng dõi, Hiên Viên Bạt là con gái Chính phi Luy Tổ của Hoàng Đế, tuy huyết thống của Hiên Viên Hoàng Đế hơi kém nhưng Luy Tổ xuất thân từ nhà Tây Lăng danh gia vọng tộc, mang huyết thống tôn quý, trong tộc từng có một vị Viêm Hậu nên Hiên Viên Bạt gả cho Đại vương tử của họ cũng xứng đôi.

Tuy phong tục mỗi nơi mỗi khác nhưng chẳng nghi ngờ gì nữa, cả hai bên đều rất vừa lòng với cuộc hôn nhân này. Hôn sự của Cao Tân Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt đã trở thành việc mừng của mọi nhà. Từ sau khi rời khỏi Hiên Viên sơn, đoàn đưa dâu của Hiên Viên đi tới đâu cũng được dân chúng nhiệt tình đón mừng và chúc phúc.

Xương Ý gõ gõ vào xe loan, phấn chấn khoe với Hiên Viên Bạt ngồi trong: “Muội thấy chưa? Đi đến đâu cũng được người ta múa hát chúc mừng!”

Hiên Viên Bạt ngồi ngay ngắn trong xe khẽ đáp: “Vâng, muội nghe thấy cả.”

Xương Ý nói: “Trước mặt là sông Tương, đoàn rước dâu của Thiếu Hạo đang chờ ở bờ bên kia, theo nghi thức ta chỉ có thể đưa muội đến bờ sông mà thôi, hay là nghỉ lại đây một lát?”

“Vâng.”

Xương Ý tựa vào thành xe khẽ nói: “Rõ ràng ta nên vui mới phải, nhưng ta lại vừa vui vừa buồn, chỉ mong vĩnh viễn đừng đi tới sông Tương.”

Hiên Viên Bạt cũng tựa đầu vào thành xe, như thể đang dựa vào Tứ ca: “Huynh đừng lo, Thiếu Hạo là bạn thân của Đại ca, nhất định sẽ đối tốt với muội, vả lại muội gả tới Cao Tân, huynh vẫn có thể tới thăm kia mà.”

Xương Ý cười: “Ừ, ta cũng nghĩ thế đấy. Nhược Thủy, đất phong của ta rất gần Cao Tân mà.”

Hiên Viên Bạt lại hỏi: “Khi nào huynh cưới chị dâu tương lai?”

“Sắp rồi, tới chừng đó coi như cũng có cớ để muội về nhà đoàn tụ với cả gia đình.”

“Tứ ca, sau này huynh nhớ săn sóc cho mẹ nhé.”

“Được, ta sẽ chăm lo thật tốt cho Người, muội khỏi lo.”

Vừa nói tới đó đã nghe lễ quan phụ trách giờ giấc nghi thức giục giã: “Điện hạ, nếu còn chùng chình sẽ lỡ giờ lành đó, đoàn rước dâu của Cao Tân đã đến bờ sông rồi kìa.”

Xương Ý khẽ thở dài rồi lệnh cho cả đoàn tiếp tục lên đường.

Chỉ lát sau đã đến bờ sông Tương.

Đoàn rước dâu và đưa dâu đứng hai bên bờ trông sang nhau, tiếng kèn trống réo rắt vô cùng nào nhiệt, lại thêm dân chúng đôi bờ reo hò mừng rỡ khiến cả đất trời tràn ngập niềm vui.

Hiên Viên Bạt được Xương Ý đỡ xuống xe loan, theo lề lối Cao Tân coi màu trắng là tôn quý nhất, nàng mặc một bộ đồ trắng tinh tha thướt, Thiếu Hạo bên kia cũng áo bào mũ ngọc, phong nhã hào hoa. Cả hai đứng ở đôi bờ nhìn nhau, người tóc xanh phơi phới, thanh lệ vô song, kẻ vạt áo tung bay, phong tư trác nguyệt, khiến dân chúng tới xem lễ đông nghẹt hai bên bờ mở cờ trong bụng, thầm ca tụng tân lang tân nương quả là trời sinh một cặp, như ngọc như ngà.

Tiếng kèn trống réo rắt chợt im bặt, lễ quan tiến lên dâng lời chúc phúc, sau đó là thỉnh chuông, gõ khánh.

Trong tiếng chuông khánh ngân vang văng vẳng, một trăm đồng nam đồng nữ Cao Tân mình vận lễ phục bắt đầu ca khúc rước dâu.

“Tổ kia thước ở sẵn sàng

Chim cưu bay đến đậu quàng vào trong

Bây giờ nàng ấy lấy chồng

Ngựa xe như nước tới cùng đón dâu

Tổ kia thước ở đã lâu

Cưu đâu bay đến tranh nhau ở bừa

Bây giờ nàng lấy con vua

Ngựa xe như nước đi đưa tiễn nàng

Tổ kia thước ở rõ ràng

Chim cưu kéo đến cả đàn ở tranh

Nàng kia cưới đúng giờ lành

Ngựa xe như nước chầu quanh chúc mừng[2].”


[2] Bài thơ Thước sáo trích trong Kinh Thi.


Trong tiếng nhạc nhã tưng bừng của Cao Tân, gắn ngàn cánh Huyền điểu mỹ lệ bay tới bắc thành nhịp cầu nối đôi bờ sông Tương, đây là nghi thức rước dâu long trọng nhất của Cao Tân, hơn vạn năm nay, tuy đã có vô số đám cưới trong vương tộc nhưng chỉ có chính phi của Tuấn Đế mới được dùng nghi thức này.

Dân chúng đôi bờ chưa từng chứng kiến cảnh tượng lạ lùng đẹp đẽ như vậy, không hẹn mà cùng rộ lên tiếng hoan hô kinh ngạc.

Thiếu Hạo được chim thước dẫn đường, đi qua cầu Huyền điểu tiến về Hiên Viên Bạt, gió lay vạt áo, phong độ đường hoàng.

Xương Ý tươi cười lùi lại mấy bước, nói nhỏ với A Hành: “Muội đi đi! Chú rể của muội đang đợi phía trước kìa.” Chứng kiến nghi thức rước dâu long trọng của Cao Tân, cuối cùng y cũng có thể yên tâm tiễn em gái sang sông lấy chồng.

Trong tiếng hát du dương mà long trọng, dưới sự dẫn đường của chim thước, Hiên Viên Bạt bước lên cầu Nhân Duyên do Huyền điểu kết thành.

Ánh dương rực rỡ, gió mát hiu hiu, lau lách trắng xóa đôi bờ sông Tương, trên sông sóng biếc lăn tăn, không một bóng thuyền, chiếc cầu Huyền điểu cong cong tựa cầu vồng bắc ngang sông, rạch ngang cả hư không, nối liền hai bên bờ.

Theo đúng nghi thức, Thiếu Hạo cùng Hiên Viên Bạt thong thả bước lên cầu.

Tất cả mọi người đều hồi hộp đổ dồn mắt vào bọn họ, chờ đợi phút giây họ gặp nhau giữa cầu, tay nắm lấy tay.

Đột nhiên giữa không trung vang lên tiếng thét đầy giận dữ như xuyên mây phá núi vọng tới: “Tây Lăng Hành!”

Khúc hát rước dâu được cả trăm đồng nam đồng nữ Cao Tân đồng thanh ca vang cũng chẳng át nổi tiếng thét bi phẫn từ trời cao vọng xuống kia. Nhưng Hiên Viên Bạt như không nghe thấy, vẫn tiến về phía Thiếu Hạo.

Thiếu Hạo liếc nhìn trời, chân vẫn bước về phía Hiên Viên Bạt như chẳng nghe thấy gì, nhưng ngón tay ngầm kết lại thành linh ấn khiến gió nổi lên lồng lộng, sương khói phủ mờ mặt sông, hơi nước nghi ngút, che khuất tầm nhìn của đám người hai bên bờ.

Khi hai người bước đến giữa cầu, sương khói đã giăng mờ sông Tương, Thiếu Hạo đưa tay về phía Hiên Viên Bạt, nàng cũng đang định đặt tay vào tay y, đột nhiên giữa biển mây cuồn cuộn một nam tử vận hồng bào đỏ rực như máu, chân đạp trên lưng đại bàng đen từ trời bay xuống, cặp mắt đầy giận dữ và bi phẫn, thét gọi nàng: “Tây Lăng Hành, cô quên lời hẹn giữa chúng ta rồi sao?”

Hiên Viên Bạt trấn tĩnh tinh thần, đoạn ngoảnh đầu lại, nào ngờ vừa quay lại nàng đã thấy tròng mắt nhói lên, sắc đỏ rực đó như xói vào mắt nàng, hắn đang mặc trên người tấm áo do chính tay nàng chăn tằm dệt vải may thành.

“Cô quên lời thề của mình rồi sao? Cô đã thề hàng năm sẽ gặp ta dưới cội hoa đào, vậy mà bây giờ lại bằng lòng gả cho y?”

Xi Vưu bay tới bên cạnh họ, phẫn nộ chất vấn.

A Hành chỉ cười nhạt nói: “Ta chẳng hiểu ngươi nói gì cả, xin ngươi đi ngay cho.”

“A Hành, đi với ta đi!”

Xi Vưu đưa tay cho Hiên Viên Bạt, vẻ mặt quật cường kiên nghị nhưng ánh mắt lại thấp thoáng khẩn cầu, “Là cha cô, Đại ca cô ép buộc cô ư?”

Hiên Viên Bạt đăm đăm nhìn Xi Vưu, lòng dạ rối bời, hắn dám công nhiên tới cướp dâu thế này tức là liều mạng thách thức cả thiên hạ, đến lúc đó dù Du Võng muốn bao che cho hắn cũng không thể lấp liếm nổi.

“Từ nhỏ ta đã có hôn ước với Thiếu Hạo, gả cho chàng là đương nhiên, cần gì phải ép buộc?” Nàng vừa nói vừa nhìn về phía Thiếu Hạo. Từ đầu đến cuối Thiếu Hạo vẫn bình tĩnh ung dung, dường như mọi chuyện trước mắt chẳng liên quan gì tới y.

Hiên Viên Bạt đặt tay mình vào tay Thiếu Hạo, Thiếu Hạo tươi cười, nắm lấy tay nàng.

Thấy vậy Xi Vưu lập tức ra tay toan giành lấy Hiên Viên Bạt từ Thiếu Hạo, Thiếu Hạo một tay nắm lấy Hiên Viên Bạt, tay kia giơ ra đỡ lấy đòn như sấm sét của Xi Vưu.

Kẻ đánh người đỡ, tay hai người bắt vào nhau, Xi Vưu bừng bừng lửa giận, Thiếu Hạo lại bình thản như nước.

Thiếu Hạo là đệ nhất cao thủ Thần tộc nổi danh cả ngàn năm nay, thực lực thâm sâu khó dò, chỉ trong một sát na, Xi Vưu đã hiểu mình hoàn toàn không phải là đối thủ của y, nhưng hắn vẫn bất chấp hết thảy, liên tiếp ra đòn, lăm le muốn giành lại A Hành từ tay Thiếu Hạo.

Thiếu Hạo vừa hóa giải chiêu thức của Xi Vưu vừa ôn hòa lễ độ thuyết phục: “Xi Vưu Đại tướng quân, hôm nay là hôn lễ của hai nước Hiên Viên và Cao Tân, mời ngài theo thị nữ lên Quan Lễ đài dự lễ.”

Xi Vưu chẳng nói chẳng rằng, chỉ tấn công như điên như dại, tuy Thiếu Hạo đã giăng kết giới phong tỏa tất cả, dân chúng hai bên bờ hoàn toàn không nghe thấy được mọi chuyện đang diễn ra, nhưng dây dưa quá lâu nhất định sẽ khiến họ sinh nghi.

Chẳng thể lằng nhằng với Xi Vưu mãi, y đành nói nhỏ: “Xin đắc tội!” Dứt lời năm ngón tay y liền biến thành năm con thủy long trắng xóa, ngẩng đầu há miệng lao về phía Xi Vưu. Sóng cuộn ngập trời, bị năm con rồng đồng loạt công kích, Xi Vưu không sao chống đỡ nổi, rớt khỏi lưng đại bàng rơi xuống sông, đại bàng kêu lên một tiếng bi thương rồi vội vã lao xuống cứu chủ.

Một bàn tay Thiếu Hạo trước sau vẫn nắm chặt lấy tay Hiên Viên Bạt, y nhìn nàng như dò hỏi, thấy Hiên Viên Bạt gật đầu, y liền dắt nàng bước tiếp.

Vừa đi được một quãng, bỗng Xi Vưu đột ngột từ dưới nước lao lên, thúc đại bàng chặn trước mặt hai người, hắn đã bị thương, cả người ướt sũng, trông vô cùng nhếch nhác nhưng gương mặt vẫn đầy vẻ kiệt ngạo ngông cuồng, chẳng hề sợ hãi, cũng chẳng buồn để tâm rằng mình không phải đối thủ của Thiếu Hạo, hai bên bờ lại có quân tinh nhuệ của Cao Tân và Hiên Viên, chỉ cần Thiếu Hạo ra lệnh, hắn sẽ bị giết ngay tại chỗ.

Hai bàn tay Xi Vưu chợt đỏ rực lên như máu, chuẩn bị ra tay, lần này Thiếu Hạo cũng không dám khinh địch đành buông Hiên Viên Bạt ra, chậm rãi giơ tay trái lên. Thấy vậy Hiên Viên Bạt hoảng hốt chạy tới chắn trước mặt Thiếu Hạo, cao giọng mắng Xi Vưu: “Quân càn rỡ không hiểu lễ giáo kia, muốn cướp dâu cũng phải xem mình có xứng không chứ, Thiếu Hạo thân phận tôn quý, thần lực cao cường, dung mạo tuấn tú, ngươi có chỗ nào sánh được với chàng? Lẽ nào ta lại bỏ trân châu đi vớt mắt cá ư? Ngươi biết thân biết phận chút đi, đừng làm chuyện không tự lượng sức nữa!”

Xi Vưu sững sờ nhìn A Hành như không tin vào tai mình, niềm căm uất trào dâng, bi thương và phẫn nộ cuộn lên trong lòng khiến lồng ngực hắn phập phồng dữ dội, “Ta không tin đây là lời nói của Tây Lăng Hành mà ta quen.”

“Ngươi tự mình kêu Tây Lăng Hành đấy chứ, ta nói ngươi hay, từ đầu chí cuối chỉ có Hiên Viên Bạt mà thôi.”

Cặp mắt Xi Vưu vụt tối sầm, hắn không giận mà còn cười vang, gật gật đầu, “Té ra ta có mắt như mù, đã đặt tình cảm nhầm chỗ!” Nói rồi hắn vừa cười thê thiết vừa cởi áo ném trả A Hành.

Đại bàng sải cánh đưa hắn bay đi mất, trong nháy mắt cả người cả chim đều khuất sau màn khói mây mờ mịt, chỉ còn manh áo bào đỏ rực phất phơ rơi xuống trước mặt Hiên Viên Bạt.

Tổ kia thước ở sẵn sàng

Chim cưu bay đến đậu quàng vào trong

Bây giờ nàng ấy lấy chồng

Ngựa xe như nước tới cùng đón dâu


Gió nổi lên xua tan hết mây mù, dân chúng đôi bờ lại nhìn rõ cảnh tượng trên sông, thấy Thiếu Hạo đã đứng bên Tây Lăng Hành, họ xôn xao mừng rỡ rồi hòa giọng với đội lễ nhạc Cao Tân ca vang khúc rước dâu:

Tổ kia thước ở đã lâu

Chim cưu bay đến tranh nhau ở bừa

Bây giờ nàng lấy con vua

Ngựa xe như nước đi đưa tiễn nàng

Tổ kia thước ở rõ ràng

Chim cưu kéo đến cả đàn ở tranh

Nàng kia cưới đúng giờ lành

Ngựa xe như nước chầu quanh chúc mừng.


Trong tiếng hát rước dâu rộn rã, trước sự mong đợi hân hoan của dân chúng hai bên bờ, Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt nhìn nhau, chẳng hẹn mà cùng đưa tay ra nắm chặt lấy tay người kia.

Tức thời dân chúng đôi bờ đều đồng loạt hoan hô vang trời dậy đất, tiếng reo hò lan đi khắp nơi, chấn động cả mây xanh.

Nghe tiếng reo mừng vẳng lại, Xi Vưu đang ngồi trên lưng đại bàng vận linh lực trị thương lập tức rối loạn khí tức, máu tươi trào lên tận cổ họng nhưng hắn cương cường nghiến răng nuốt xuống.

Thiếu Hạo nhìn tấm áo đỏ rực dưới chân chần chừ chưa dám bước lên, trái lại Hiên Viên Bạt lờ đi như không thấy, dẫm thẳng lên hồng bào, nhờ Huyền điểu dẫn đường, hai người lại đi tiếp.

Từng bước từng bước băng qua cầu Huyền điểu theo đúng lễ nghi, bước lên mảnh đất thuộc Cao Tân quốc.

Hàng ngàn cánh Huyền điểu chao liệng trên không, muôn vàn đóa hoa rợp trời khoe sắc, vô số dân chúng reo hò nhảy múa.

Bây giờ nàng ấy lấy chồng

Ngựa xe như nước tới cùng đón dâu

Bây giờ nàng lấy con vua

Ngựa xe như nước đi đưa tiễn nàng

Nàng kia cưới đúng giờ lành

Ngựa xe như nước chầu quanh chúc mừng.


Men theo con đường rực rỡ sắc hoa, Thiếu Hạo nắm tay Hiên Viên Bạt tới trước cỗ xe ngọc chạm trổ rồng bay phượng múa, Hiên Viên Bạt vén áo bước lên nhưng bất giác vẫn ngoái đầu ngóng sang bờ bên kia, nơi đó là cố quốc nơi nàng sinh ra và lớn lên, có những người thân yêu ruột thịt của nàng.

Như có cảm ứng tâm linh, Xương Ý cũng lập tức giơ tay, vừa chạy dọc bờ sông, vừa vẫy vẫy tay với nàng.

Hiên Viên Bạt mỉm cười, quay mình bước lên xe ngồi cạnh Thiếu Hạo, nhưng đúng lúc xe ngọc bay lên, nàng không khỏi ngoảnh đầu dõi mắt trông về xa tít cuối trời.

Giờ hắn thế nào rồi!?

Cao Tân Thiếu Hạo dùng nghi lễ long trọng nhất cưới Hiên Viên Bạt về làm vợ, Tuấn Đế cũng vô cùng sủng ái nàng dâu vừa vào cửa, ban cho nàng ở Thừa Hoa điện- cung điện lớn thứ hai trong Ngũ Thần sơn[3], các ân điển khác cũng khó mà kể xiết.


[3] Ngũ Thần sơn: ở Quy khư, nơi ngàn vạn dòng nước cùng đổ về có năm ngọn núi, vì là nơi ở của thần tiên nên được tôn xưng là Ngũ Thần sơn. Theo Sơn Hải kinh ghi chép về nơi ở của Thần hệ Tuấn Đế, Viên Kha tiên sinh cho rằng dòng dõi Tuấn Đế cai quản cả Ngũ Thần sơn. Theo sách Liệt Tử, phần Thang Vấn chép: “Đi về phía Đông Bột Hải chẳng biết bao nhiêu dặm có cùng biển lớn, sâu thẳm không đáy, tên gọi Quy khư. Nơi đó có năm ngọn núi, tên gọi lần lượt là Đại Dư, Vân Kiều, Phương Hồ, Tiệm Châu, Bồng Lai, chu vi toàn bộ ba vạn dặm, cao tới chín ngàn dặm.”


Cả Cao Tân đều chúc phúc cho Đại vương tử, nhưng Thừa Hoa điện nơi ở của vương tử phi lại tĩnh lặng như tờ. Các cung nhân vốn hầu hạ ở đó chưa biết tính tình vị chủ nhân mới ra sao nên luôn dè dặt cẩn thận, chẳng dám nhiều lời, còn đám thị nữ tới đây cùng Hiên Viên Bạt lại do Hoàng Đế đích thân tuyển chọn, ai nấy đều là kẻ thận trọng kín tiếng, không tùy tiện nói năng, bởi vậy toàn cung điện mênh mông nhường ấy, người hầu kẻ hạ hàng đàn nhưng ai ai cũng đi nhẹ nói khẽ như hồn ma bóng quỷ, chẳng gây ra tiếng động nào.

A Hành lặng lẽ ngồi trong phòng thẫn thờ như tượng, cảnh tượng lúc ban ngày cứ trở đi trở lại trong đầu, lúc đó nàng chỉ lo cho an nguy của Xi Vưu, sợ Thiếu Hạo sẽ nổi giận hạ sát thủ nên phải tức tốc đuổi hắn đi, vậy mà giờ đây, hình ảnh Xi Vưu bi phẫn cởi áo ném trả rồi quày quả bỏ đi lại hiện ra rành rành trước mắt nàng.

Liệt Dương đột ngột bay vào cửa sổ, đập phá một trận trong phòng, hất đồ đạc, đánh vỡ cả dạ minh châu khiến căn phòng tối om, đám thị nữ phải vừa nhớn nhác xua chim vừa cuống quýt thu dọn mọi thứ. A Tệ lẳng lặng lẻn đến bên A Hành, dúi cho nàng manh hồng bào đã vấy bẩn kia.

Lúc đám thị nữ đem dạ minh châu tới thắp sáng lại căn phòng vẫn thấy A Hành ngồi ngay ngắn ở đó. Sợ động chạm đến Đại vương tử phi, họ chẳng dám mắng chửi Liệt Dương, luôn miệng nhận tội về mình. Liệt Dương đậu trên ngọn cây thấy vậy đắc ý cười sằng sặc đến rung cả người.

Đã qua canh một, Bán Hạ, thị nữ được gả theo nàng tới đây bước vào khẽ thưa: “Xin vương tử phi đi nghỉ trước đi, xem tình hình chắc đêm nay điện hạ không tới đâu.”

“Cứ đợi đi.”

Hiên Viên Bạt tin chắc đêm nay Thiếu Hạo sẽ tới, bởi nàng biết nhất cử nhất động ở đây sẽ được trình báo ngay tới Tuấn Đế, hơn nữa y cũng biết Hoàng Đế nắm rõ y có đối tốt với vương cơ của Hiên Viên hay không. Y nhất định không thể khiến Hoàng Đế hiểu lầm mình được. Đến canh hai, bên ngoài mới nghe tiếng lao xao: “Điện hạ tới, điện hạ tới rồi.”

Vừa nghe nói đã thấy Thiếu Hạo loạng choạng bước vào, người nồng nặc mùi rượu nhưng vẫn khá tỉnh táo, dưới sự chỉ dẫn của hỷ bà, y gắng gượng cạn ba chung rượu hợp hoan cùng A Hành.

Đám thị nữ cởi áo ngoài cho Thiếu Hạo rồi lục tục lui ra.

Thiếu Hạo chếnh choáng hành lễ với A Hành: “Trên tiệc có nhiều huynh đệ chúc rượu quá, ta khó khăn lắm mới thoát được, để nàng phải đợi lâu rồi.”

A Hành khẽ nói: “Có gì đâu chàng.” Đoạn nàng leo lên giường nhắm mắt nằm in trước. Chỉ lát sau, Thiếu Hạo cũng nằm xuống bên nàng, trong phòng lập tức tối om.

A Hành cứng người lại, nín thở khép chặt vạt áo, tim đập thình thịch như muốn vọt ra ngoài, nhưng Thiếu Hạo vừa đặt mình xuống đã thiếp đi, nàng đợi hồi lâu chẳng thấy y có động tĩnh gì bèn lấy ngón tay khẽ khều khều, chắc chắn y đã ngủ mê mệt mới dám thở phào nhẹ nhõm.

A Hành trở mình quay lưng về phía Thiếu Hạo, lòng ngổn ngang trăm mối, tránh được đêm nay, còn sau này thì sao?

Sáng tinh mơ, nàng chợt nghe Thiếu Hạo khe khẽ gọi: “A Hành, hôm nay chúng ta phải dậy sớm tới bái kiến phụ vương và mẫu hậu theo quy củ.”

A Hành giật nảy mình, ngồi phắt dậy, trông thấy Thiếu Hạo đã y phục chỉnh tề ngồi cạnh đợi nàng tỉnh giấc.

Thấy A Hành đỏ bừng mặt ngượng ngùng, Thiếu Hạo bèn tiện tay cầm một cuốn sách lên vờ chăm chú lật xem. Mấy thị nữ bưng hộp nữ trang vừa lén liếc hai người vừa cười trộm, trong mắt người ngoài, cả hai vẫn là một đôi vợ chồng mới cưới ân ái mặn nồng.

A Hành được các thị nữ hầu hạ trang điểm lộng lẫy rồi cùng Thiếu Hạo tới khấu đầu thỉnh an Tuấn Đế cùng Tuấn Hậu.

Hôm qua là quốc lễ, cả cung điện đông nghịt bề tôi nên A Hành không sao nhìn rõ mặt Tuấn Đế, mãi tới khi thi hành gia lễ hôm nay, nàng mới được tận mắt trông thấy ông, cũng hiểu ra tại sao Vương Mẫu lại khen Tuấn Đế nho nhã phong lưu.

Tuy Tam Đế được xếp ngang hàng với nhau nhưng trên đại hoang chẳng mấy thần tiên may mắn được gặp cả ba vị đế vương, bởi thế A Hành không khỏi thầm so sánh ba người.

Viêm Đế chẳng hề để tâm tới bề ngoài của mình, lúc A Hành gặp Viêm Đế, Viêm Đế đang vận áo ngắn quần thô, chân đi giày cỏ, bàn chân lấm đầy bùn đất hệt như một ông lão gầy gò tiều tụy, mặt đầy nếp nhăn, nếu không biết thân phận của ông, nhất định không thể tin ông già đó lại là Viêm Đế Thần Nông thị được cả thiên hạ quy thuận.

Hoàng Đế cũng chẳng chú trọng dung mạo, chỉ quan tâm tới tôn nghiêm uy thế của bậc đế vương, Theo Hoàng Đế, diện mạo không nên quá già nua, nhìn rất suy nhược, cũng không nên quá trẻ trung, nhìn thiếu chững chạc, thế nên bao giờ trông Hoàng Đế cũng chỉ ngoại tứ tuần, nhất cử nhất động đều trầm tĩnh oai nghiêm khiến người khác phải kính phục, rất phù hợp với hình ảnh Hoàng Đế Hiên Viên thị uy chấn thiên hạ trong tưởng tượng của mọi người.

Khác với hai người kia, Tuấn Đế lại vô cùng chăm chút diện mạo của mình, gương mặt vẫn giữ nguyên nét trẻ trung tuổi hai mươi, cũng chẳng khoác vương bào, chỉ mặc một bộ y phục bình thường, nhìn giản dị nhưng thực chất lại được dệt từ tơ Ngọc tằm quý hiếm. Nét mặt Tuấn Đế giống Thiếu Hạo tới bảy tám phần, có điều Thiếu Hạo gom đủ vẻ hào hùng của núi lẫn tình tứ của sông, còn Tuấn Đế chỉ có nước mà thiếu non, cặp mắt dịu dàng đa tình, toàn thân toát lên khí chất của người đọc sách, thoạt nhìn giống hệt một vị công tử ngao du giữa hồng trần.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-12-2013 16:41:02 | Xem tất
Chương 12


Đa tình chỉ chuốc lấy hao mòn[1].


12.2


Lúc A Hành bước vào, Tuấn Đế đang ngồi đọc sách, vừa xem vừa gật đầu vẻ hài lòng, ngón trỏ còn vô thức vẽ trong không trung như phác lại những điều ghi trong sách. Thấy thị nữ định thông báo, Thiếu Hạo vội ra dấu ngăn lại rồi lặng lẽ đứng đợi cùng A Hành.

Nhìn Tuấn Đế, A Hành không khỏi nhớ tới Xương Ý, Tứ ca của nàng cũng ham mê sách vở y như vậy, so ra y còn thích ca phú thư họa hơn công văn tấu sở nhiều. Nàng bỗng nảy dạ tò mò, liền lén liếc trộm xem Tuấn Đế đang đọc sách gì, vừa trông thấy, nàng đã phải mím môi nén cười.

Tuấn Đế ngước mắt lên, bắt gặp A Hành đang mím môi nín cười, bèn gập sách lại hỏi: “Con cười gì thế?”

Thiếu Hạo thấy vậy giật thót mình, còn Tuấn Hậu chỉ nửa cười nửa không, ngồi yên quan sát.

A Hành vội quỳ xuống tâu: “Quyển sách phụ vương xem là do một người bạn con viết ra, thấy phụ vương thích thú như vậy, con chợt cao hứng thay cho y nên không khỏi thất lễ.”

Tuấn Đế mừng rỡ hỏi: “Con quen người viết ra những bài ca phú này thật ư? Ta từng phái người đi dò hỏi về y nhưng chẳng thu được tin tức gì cả.”

A Hành thưa: “Người nhà y không thích y chú tâm vào việc đó nên y chỉ dám lén lút viết chơi vậy thôi, có điều y chẳng chịu nổi tịch mịch, lại hận rằng khó tìm được tri âm, bèn ngấm ngầm lưu truyền những sách vở đó ra ngoài. Giờ đây có được người tri âm thưởng thức là y mãn nguyện lắm rồi, chẳng cần người ta biết tới thành danh làm gì.”

Tuấn Đế gật đầu vẻ vô cùng thấu hiểu, cũng không gạn hỏi thêm nữa, “Đọc những gì y viết, có thể hiểu được y chẳng màng áo vàng đại ngọc trước cung điện mà chỉ khát cầu một vành trăng trong giữa bóng tùng, thôi, con đứng lên đi.”

Bây giờ A Hành mới chính thức hành lễ với Tuấn Đế và Tuấn Hậu.

Tuấn Hậu lại ban thưởng cho nàng vô số vật phẩm, người hầu đứng bên cao giọng xướng tên các món quà cáp. Xưa nay Hiên Viên vương thất sống rất giản dị nên A Hành từ nhỏ đã chẳng để tâm tới mấy thứ ngọc ngà châu báu đó, càng không biết thật giả tốt xấu ra sao, nhưng nhìn thái độ đám thị nữ xung quanh, nàng cũng hiểu được mình được sủng hạnh vô vàn. Có điều vị Tuấn Hậu này xuất thân từ Thường Hy bộ trong Cao Tân tứ bộ, cũng là mẹ đẻ của Nhị vương tử Yến Long, từ khi gả cho Tuấn Đế đã sinh liền sáu con trai. Em gái Tuấn Hậu cũng nhập cung cùng lúc với chị, đứng đầu tất cả phi tần, sinh được bốn con trai, ba con gái, ba con gái đều gả cho Bạch Hổ bộ, nên Bạch Hổ bộ luôn kề vai sát cánh với bọn Yến Long và Trung Dung. Trong triều, thế lực của hai chị em Thường Hy thị vô cùng hùng mạnh, bởi vậy Tuấn Hậu càng tươi cười hóa nhã, A Hành lại càng không dám lơ là cảnh giác.

Cao Tân là Thần tộc từ thời thượng cổ, lễ giáo rất nghiêm, A Hành ra mắt toàn bộ vương hậu, vương phi, vương tử, vương tử phi, vương cơ xong, lại nhất nhất đem chuyện ở nhà kể ra một lượt, sau cùng mới có thể cáo từ ra về. Rời khỏi đại điện, A Hành mới thấy quai hàm mình đã cứng đơ lại vì cười.

Thiếu Hạo cùng ngự xe mây xuống núi với A Hành, ngồi trong xe, y khẽ nói: “Người bạn mà nàng nói có phải Xương Ý chăng?”

A Hành kinh ngạc đáp: “ Vâng, là Tứ ca. Nhưng chàng giữ kín giùm, đừng nói lại với Đại ca nhé, bằng không huynh ấy lại khiển trách Tứ ca.”

Thiếu Hạo nói: “Thật ra, Thanh Dương…” Thấy A Hành chăm chú nhìn mình, y lại lắc đầu: “Không có gì, ta sẽ giữ kín.”

Thiếu Hạo có việc phải giải quyết nên sau khi đưa nàng về Thừa Hoa điện, y lập tức đi ngay.

A Hành vừa đổi sang thường phục mặc trong nhà đã thấy Bán Hạ tới bẩm: “Nặc Nại tướng quân đến dâng lễ vật lên điện hạ, vì lễ vật quý giá mà điện hạ lại đi vắng nên y nhất định đòi vương tử phi phải xem qua.”

A Hành liền nói: “Dù sao cũng rảnh rỗi, ta sẽ tới xem sao.”

Nghe tiếng chân người, Nặc Nại vội đứng lên, trông thấy A Hành, y liền mỉm cười hành lễ, nụ cười đượm vẻ chua xót.

A Hành sai tất cả thị nữ lui ra ngoài đợi lệnh, dù sao cửa sổ cũng mở toang, nhìn qua là thấy hết cảnh tượng trong phòng nên chẳng coi là trái lẽ được.

Nàng vừa hàn huyên với Nặc Nại vừa âm thầm dùng Trụ Nhan hoa giăng kết giới, đề phòng đám thị nữ nghe lén được lại phiền phức. Đây là phép thuật Đại ca dạy riêng cho nàng trước lúc lên đường sang Cao Tân, sau khi y đã xem xét Trụ Nhan hoa một lượt.

Nàng áy náy xin lỗi Nặc Nại: “Hôm đó trên Ngọc sơn ta nhất thời làm bậy, giả xưng là Tây Lăng Hành, nào ngờ về sau lại kéo theo nhiều chuyện như vậy, thật có lỗi với tướng quân.”

“Ai mà ngờ đường đường Hiên Viên vương cơ lại trêu chọc tại hạ như thế chứ? Không phải ta ngu ngốc, là ta hồ đồ nên bị lừa đó thôi.”

Nặc Nại chẳng thể cung kính dạ vâng với vương tử phi, trái lại còn trả lời với giọng điệu đầy vẻ bực bội tự trào, càng để lộ thái độ thoải mái mà chân thành. Thấy vậy A Hành không khỏi thầm khen ngợi y, chẳng trách Thiếu Hạo và Vân Tang lại xem trọng người này đến thế. “Mấy năm trước ta từng nhờ Thiếu Hạo chuyển cho ngươi một phong thư, sau đó ngươi có đi gặp Vân Tang không?”

“Chẳng giấu gì vương tử phi, hôm đó sau khi đọc xong thư, tại hạ nhất thời vẫn chưa thể nghĩ thông được. Thật ra tại hạ nào phải kẻ hẹp hòi, chỉ là quá xem trọng nên không chấp nhận được dối gian đó thôi. Sau này bình tĩnh lại mới hiểu rằng hết thảy chỉ là cơ duyên xảo hợp mà lầm, rồi lầm lại thêm lầm, nhưng bây giờ tại hạ đã có hôn ước, cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp lại nàng, mà gặp rồi biết nói cái gì đây? Tại hạ đành cương quyết từ hôn trước đã, may nhờ điện hạ giúp cho chu toàn, nhân lúc nhà gái phạm chút lỗi lầm điện hạ bèn bức Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước. Chuyện này kể ra chỉ dăm câu ba điều là xong, nhưng lúc đó phải giằng co hơn ba năm mới ổn thỏa. Sau khi từ hôn, tại hạ mừng rỡ cho rằng cuối cùng cũng có thể quang minh lỗi lạc tới gặp Vân Tang, nào ngờ lúc đến Thần Nông sơn xin Viêm Đế cho gặp Đại vương cơ của Thần Nông, lại…”

Nặc Nại buồn bã, trầm mặc hồi lâu mới kể tiếp: “Đám thị vệ Thần Nông rất hung hãn, tại hạ cứ tưởng gặp được nàng là ổn, nhưng nàng cũng hết sức lạnh nhạt, thậm chí không cho tại hạ lên núi. Dọc đường đi tại hạ còn hào hứng định ướm ý nàng, nếu tại hạ đến hỏi Viên Đế xin cầu hôn, liệu nàng có bằng lòng chăng. Nào ngờ tới khi gặp mặt nàng chỉ lạnh nhạt thờ ơ, đứng dưới núi nói vắn tắt vài câu với tại hạ rồi vội vã từ biệt, khiến bao nhiệt tình trong lòng tại hạ đóng băng hết thảy, đành ủ rũ quay về Cao Tân.”

A Hành dịu giọng hỏi: “Giờ ngươi đã hiểu lý do tại sao khi đó Vân Tang lại như vậy chưa?”

Nặc Nại gật đầu, “Có lẽ khi đó bệnh tình Viêm Đế đã nặng lắm rồi, nhớ lại lúc gặp nhau, tuy Vân Tang làm bộ lạnh lùng nhưng ánh mắt cứ tránh tránh né né, hẳn không muốn tại hạ nhận ra nỗi bi thương trong lòng nàng. Nàng luôn miệng giục tại hạ về vì không muốn tại hạ phát hiện Viêm Đế đang bệnh nặng.”

Ánh mắt Nặc Nại khó giấu nổi thương tâm, “Nàng xem thường tại hạ quá! Đến một chút tin tưởng cũng không!”

A Hành vội giải thích, “Ngươi nhầm rồi, không phải Vân Tang tỷ tỷ không tin ngươi, mà là không muốn ngươi khó xử đó thôi. Viêm Đế bệnh nặng là tin tức hết sức quan trọng, liên quan tới cục thế thiên hạ cũng như an nguy của Cao Tân, nếu để ngươi biết được, thân là tướng lĩnh của Cao Tân, là bạn thân của Thiếu Hạo, ngươi sẽ trung thành với Cao Tân, với Thiếu Hạo, hay sẽ bảo vệ Vân Tang?”

Nặc Nại sửng sốt, nín lặng hồi lâu chẳng biết đáp sao cho phải, A Hành lại nói tiếp: “Vân Tang thà một mình gánh vác tất cả còn hơn để ngươi phải dằn vặt khó xử không biết chọn bên nào. Như vậy ngươi khỏi phải phụ lòng Vân Tang, cũng khỏi phải phản bội Thiếu Hạo.”

Nghe A Hành giảng giải, Nặc Nại liền đứng dậy hành lễ với nàng, “Đa tạ vương phi thức tỉnh tại hạ khỏi cơn mê, tại hạ xin cáo từ.”

“Ngươi định đi đâu?”

Nặc Nại đi thẳng không ngoảnh lại: “Thần Nông sơn.”

A Hành mỉm cười nhìn theo bóng Nặc Nại tất tả bước đi, thầm mừng cho Vân Tang, ít nhất Vân Tang cũng còn một vòng tay vững vàng ấm áp để vùi đầu vào khóc lóc, trút hết mọi đau đớn và uất ức trong lòng. Chợt nghĩ tới mình, nàng không khỏi âu sầu buồn bã.

Tối đến, A Hành vội đi ngủ thật sớm, chẳng đợi Thiếu Hạo trở về, theo tính toán của nàng, với tính tình Thiếu Hạo, hẳn sẽ không đánh thức nàng dậy. Quả nhiên Thiếu Hạo về đến thấy nàng đã ngủ say, cũng rón rén leo lên giường ngủ, chẳng hề làm phiền nàng.

Sớm hôm sau khi nàng trở dậy, Thiếu Hạo đã đi khỏi, trước lúc đi còn cẩn thận dặn nhà bếp làm mấy món điểm tâm kiểu Hiên Viên cho nàng.

Hơn nửa tháng trời, hết lý do này tới nguyên nhân khác, Thiếu Hạo và A Hành vẫn chưa thực sự thành thân.

Mỗi lúc tối đến A Hành đều nơm nớp lo sợ, ngủ không an giấc, chẳng mấy chốc mà gầy rộc đi. Hàng ngày, để tránh né Thiếu Hạo, nàng toàn lấy cớ không hợp thủy thổ để lên giường ngủ thật sớm.

Từ khi bàn bạc chọn ngày thành hôn tới nay đã tròn một tháng chưa được ngủ yên, A Hành mơ màng thế nào lại ngủ thiếp đi. Lúc Thiếu Hạo bước vào phòng, đập vào mắt là cảnh tượng nửa ống tơ nằm lăn lóc trên sàn, mái tóc đen dài của A Hành xõa xuống giường, y chỉ biết lắc đầu cười, nhẹ nhàng quấn lại tóc cho A Hành đoạn giơ tay toan sửa chăn giùm nàng, nào ngờ vừa chạm tới vai, A Hành đã giật mình tỉnh dậy, tiện tay rút dao găm dưới gối đâm y.

Vừa thấy hàn quang lấp loáng, mu bàn tay Thiếu Hạo đã bị rạch một đường, máu chảy ròng ròng, A Hành co rúm trên giường, tay nắm chặt dao, mắt không rời Thiếu Hạo, đôi mắt vừa to vừa sáng nổi bật trên gương mặt võ vàng nhợt nhạt của nàng, càng lộ rõ vẻ tiều tụy.

Thiếu Hạo vừa lấy khăn lau vết thương, vừa nói: “Bỏ dao xuống đi, nếu ta thật sự muốn ép buộc thì con dao đó của nàng chẳng ăn thua gì đâu.”

“Không phải thiếp muốn đả thương chàng, chỉ là, chỉ là…” A Hành không sao nói tiếp được, đành quẳng dao xuống dưới chân Thiếu Hạo.

Cứ tiếp tục thế này cũng chẳng phải là cách, Thiếu Hạo quyết định nói cho rõ ràng, bèn ngồi ghé xuống bên giường, “Hai ta đều biết mục đích thật sự của cuộc hôn nhân này là gì, rất nhiều việc chúng ta không thể tự làm chủ được. Mặc kệ phụ vương chúng ta nghĩ gì, cứ xuất phát từ lợi ích bản thân của hai ta thôi nhé, nàng cần ta giúp đỡ, ta cũng cần nàng hỗ trợ, chúng ta chẳng ai rời được ai cả. Bất kể trước đây nàng nghĩ thế nào, bất kể giữa nàng với người đàn ông khác từng có những gì, bây giờ nàng đã được gả cho ta, ta mong rằng từ nay về sau nàng có thể thật sự trở thành Đại vương tử phi.”

“Là vương tử phi, hay là vợ của chàng?”

Thiếu Hạo ngớ người, “Có gì khác nhau sao?”

A Hành đáp: “Vợ tức là người phụ nữ duy nhất trong đời, như Viêm Đế với Viêm Hậu vậy. Chàng có thể mãi mãi ở bên thiếp, sống chết có nhau, bất kể được mất vinh nhục, sinh lão bệnh tử, thịnh suy chìm nổi cũng không bao giờ rời xa, sẵn lòng tin tưởng, yêu thương trân trọng thiếp suốt đời chăng?”

Thiếu Hạo chẳng ngờ A Hành lại chất vấn mình như vậy, vừa ngạc nhiên vừa kinh hãi, năm lần bảy lượt mở miệng mà chẳng sao hứa hẹn được với nàng. Tuy Cao Tân và Hiên Viên hiện tại là đồng minh, nhưng tương lai thì sao? Giữa y và A Hành còn muôn dân hai nước, còn cả sinh tử tồn vong của hai bên gia tộc, sao có thể không ngờ vực đề phòng đây?

Hồi lâu y mới cất tiếng hỏi: “Vậy vương tử phi thì sao?”

“Vương tử phi sẽ giống như Tuấn Hậu vậy, Tuấn Hậu cùng phụ vương chàng chia ngọt sẻ bùi, lợi dụng lẫn nhau, đồng thời đề phòng lẫn nhau, đôi bên chỉ là đồng minh cùng chung lợi ích, bởi thế dù Tuấn Đế có bao nhiêu phi tần, Tuấn Hậu cũng chẳng đau lòng, còn đích thân chọn ra những mỹ nữ hát hay múa dẻo để làm vui lòng Tuấn Đế. Tuấn Hậu xưa nay không hề coi Tuấn Đế là người chồng sống chết có nhau của mình, cũng chưa từng toàn tâm toàn ý tin tưởng yêu thương Tuấn Đế. Còn chàng, chàng nói cần thiếp hỗ trợ, thật ra là hỗ trợ gì đây? Giúp chàng lên ngôi ư?”

Thiếu Hạo chăm chú nhìn nàng A Hành lạ lẫm trước mặt mình, thật khó tin rằng cách đây không lâu nàng vẫn còn là một cô bé ngây thơ thuần phác dưới khung trời đầy sao, “Thiếu Hạo, nếu chàng chỉ muốn một vị vương tử phi có thể giúp chàng đăng cơ thì chúng ta kết thành liên minh đi, hai ta không làm vợ chồng, mà làm bạn bè.”

Thiếu Hạo trấn tĩnh nói, “Nàng giải thích rõ hơn đi.”

“Nhị vương tử Yến Long hành xử lịch thiệp, tài mạo phong lưu, đã chiêu mộ được không ít nhân tài chí sĩ, cũng rất được lòng quan lại trong triều, còn được rất nhiều huynh đệ khác dốc lòng ủng hộ, lại có mẹ ruột là Tuấn Hậu cai quản hậu cung, tuy mẹ chàng là vợ kết tóc xe tơ của Tuấn Đế nhưng bà đã mất sau khi sinh chàng, chàng chẳng có thế lực gì ở hậu cung cả. Bên trong chàng phải đối mặt với hậu cung trùng trùng mưu toan, bên ngoài lại có đám huynh đệ như hổ đói rình rập, tự đáy lòng chàng cũng biết phụ vương chàng có thể tạm thời tin cậy chàng, nhưng về lâu về dài thì khó nói lắm. Để tự bảo vệ mình, chàng đành rong ruổi khắp nhân gian, gửi gắm tình cảm vào non xanh nước biếc. Mấy chục năm trước, nhân lúc thiên hạ thái bình, chàng định chấn chỉnh quân đội đề phòng sau này có biến nhưng Yến Long sợ chàng thừa cơ nắm lấy quân đội, bèn ra tay cản trở hết lần này sang lần khác. Chàng tưởng mình sẽ được Tuấn Đế ủng hộ, nào ngờ danh tiếng của chàng ở đại hoang quá tốt, khiến phụ vương chàng cũng phải kiêng dè, bởi vậy chàng đành gắng gượng kiềm chế nhẫn nhịn. Có điều bọn Yến Long chẳng chịu buông tha, còn toan kết mối hôn nhân với Nặc Nại nhằm thao túng Hy Hòa bộ đang nghiêng về phía chàng. Tuy chàng ngầm giúp Nặc Nại hủy bỏ hôn ước nhưng Tuấn Đế vì thế từ yêu thích đổi sang bất mãn với y, chàng cũng coi như đại tổn nguyên khí.”

Thiếu Hạo hỏi, “Những chuyện này Thanh Dương nói cho nàng biết ư?”

A Hành đáp: “Ai nói với thiếp không quan trọng, quan trọng là thiếp quả thật có thể giúp chàng. Thiếp có thể làm một Đại vương tử phi hoàn mỹ, mượn lực lượng của Hiên Viên tộc khiến bọn Yến Long không thể tranh đoạt vương vị với chàng nữa, sau này chàng có thể tùy ý điều động tướng sĩ Cao Tân tới trấn giữ các nơi nhằm bảo vệ mảnh đất tươi đẹp này, bảo vệ những con người cần cù lao động trên mảnh đất này.”

Thiếu Hạo càng lúc càng thêm sửng sốt.

Y chẳng lạ gì việc Hiên Viên Bạt nhìn thấu những nguy cơ trùng trùng ẩn sau vầng hào quang rực rỡ của Đại vương tử mà chỉ ngạc nhiên vì nàng biết được chí hướng của y. Trước kia y vốn xem nàng như em gái của Thanh Dương, cho rằng nàng chỉ là một thiếu nữ thuần phác ngây thơ, quật cường sôi nổi, nhưng giờ đây y chợt nhận ra mình đã nhìn lầm.

Thấy Thiếu Hạo chăm chú nhìn mình, A Hành ngỡ y không đồng ý bèn đột ngột thay đổi dung mạo, bắt chước giọng điệu của y, “Ngắm sao trời phải đứng dưới mặt đất, còn ngắm sao trên mặt đất đương nhiên phải bay lên trời! Xin hỏi công tử có bằng lòng cùng ta bảo vệ bức họa đồ tiên cảnh nhân gian này chăng?”

“Nàng là Tây Lăng công tử ư?” Thiếu Hạo kinh ngạc đến nỗi nói chẳng nên lời.

A Hành gật đầu, “Chính phải, tại hạ đã nói chúng ta nhất định còn gặp lại kia mà.”

“Sau khi Viêm Đế qua đời, cả đại hoang đồn rằng Tây Lăng công tử là đệ tử cuối cùng của Viêm Đế, nắm giữ Thần Nông bản thảo kinh, nàng có biết khắp thiên hạ bây giờ có bao nhiêu thần tiên và yêu quái đang lùng sục mình không hả?”

“Thiếp biết chứ, chính thiếp phao tin đó ra mà. Vân Tang đã đau khổ lắm rồi, thiếp chẳng muốn bọn chúng tới quấy rầy tỷ ấy nữa, vả lại đó cũng không phải lời đồn nhảm, Thần Nông bản thảo kinh quả thực đang nằm trong tay thiếp.”

Thiếu Hạo ngạc nhiên buông lời cảm thán, “Sao Viêm Đế lại giao Thần Nông bản thảo kinh cho nàng chứ? Nàng là con gái Hiên Viên Hoàng Đế mà!”

Có điều sự thật rành rành trước mắt, y không tin cũng chẳng được.

“Bây giờ chàng có bằng lòng liên minh với thiếp hay không?”

Thiếu Hạo thận trọng hỏi: “Đã kết liên minh thì đôi bên cùng có lợi, điều kiện của nàng là gì đây?”

“Điều thứ nhất, chúng ta chung giường nhưng không…” A Hành cắn môi đưa mắt nhìn vết thương trên tay Thiếu Hạo.

Thiếu Hạo vốn chẳng phải kẻ háo sắc, y gượng cười đáp ngay: “Đồng ý, còn điều thứ hai?”

“Nếu một mai chàng trở thành Tuấn Đế, đừng phong thiếp làm vương hậu.”

Thiếu Hạo nhìn A Hành, “Đồng ý!”

“Thứ ba, sau khi chàng trở thành Tuấn Đế, xin chàng dùng uy quyền đế vương ban cho thiếp được tự do lựa chọn một lần, để thiếp được tự mình quyết định nên đi hay ở.” Đôi mắt A Hành long lanh lệ, từ khi sinh ra, nàng đã bị định sẵn rằng không thể tự mình lựa chọn, nhưng nàng vẫn muốn được tự do quyết định một lần.

Đây là lần đầu Thiếu Hạo hiểu được chút ít về con người A Hành, dường như có phần cảm động trước nàng, y gật đầu trang trọng hứa, “Ta đồng ý!”

A Hành nghiêm trang chìa tay cho y, “Từ nay về sau, chúng ta kết thành đồng minh đôi bên cùng có lợi, muốn nghi kị, lợi dụng hay đề phòng lẫn nhau gì cũng chẳng sao, miễn là tuân thủ đúng lời hứa!”

Thiếu Hạo lập tức hạ quyết tâm, “Được! Làm đồng minh, không làm vợ chồng!”

Y cùng A Hành đập tay ba lần, kết thành đồng minh.

A Hành như được giải thoát liền ngáp dài một cái, díp cả mắt vì buồn ngủ, “Cuối cùng thiếp cũng có thể yên tâm ngủ rồi.” Nàng nằm phịch xuống ngủ thiếp đi, chẳng bao lâu đã nghe tiếng ngáy khe khẽ.

Ánh trăng vằng vặc bên ngoài len qua rèm lụa tràn vào phòng khiến mặt đất long lanh như phủ một lớp sương ngà ngọc. Thiếu Hạo ngả mình nằm xuống, có lẽ sống trong cung đình Cao Tân, y đã quen lối nói vòng vo bóng gió, lâu lắm mới thẳng thắn đối thoại thế này nên chẳng thấy buồn ngủ nữa. Y cứ miên man nghĩ mãi câu nói khi nãy của A Hành: “Vợ tức là người phụ nữ duy nhất trong đời, dù được mất vinh nhục, sinh lão bệnh tử, thịnh suy chìm nổi cũng không bao giờ rời xa, sống chết có nhau, chàng làm được chăng?” Vậy còn người chồng thì sao? Chồng cũng là người đàn ông duy nhất trong đời của vợ, dù được mất vinh nhục, sinh lão bệnh tử, thịnh suy chìm nổi, người vợ vẫn sẽ tin tưởng y, yêu y, không rời xa y, cùng sống chết với y.

Thiếu Hạo bất chợt miên man nghĩ ngợi rồi bất chợt phá lên cười. Y không cần vợ mà cần ngôi báu, người phụ nữ đứng bên ngôi báu cũng chẳng thể là vợ, bởi ngôi báu quá nhỏ hẹp, không chứa nổi hai người sánh vai đứng cạnh nhau.

Sáng hôm sau, Thiếu Hạo đánh thức A Hành, “Dậy đi, nàng có biết phụ vương của hai ta muốn thấy gì không?”

A Hành thoáng ngẩn ra, dụi mắt rồi gật đầu lia lịa.

Dưới sự hầu hạ của các thị nữ, hai người cùng trở dậy, A Hành tươi cười ngồi xuống trước đài trang chải tóc.

Thiếu Hạo ngồi ngay bên cạnh vừa đọc sách vừa chuyện phiếm với nàng.

Đợi đám thị nữ trang điểm chải chuốt cho A Hành xong, Thiếu Hạo liền ngắt một đóa hải đường trong sân cài lên búi tóc nàng. A Hành thẹn thùng nói nhỏ: “Chàng đi giải quyết công việc đi thôi.”

Thiếu Hạo gật đầu nắm lấy tay nàng, ra đến cửa mới bịn rịn chia tay.

Đám thị nữ Hiên Viên và Cao Tân đều lén nhìn trộm hai người, mím môi cười vụng. A Hành mỉm cười quan sát bọn họ, lòng thầm thở dài.

Bán Hạ bưng trà đặt trước mặt A Hành, ngập ngừng nhìn nàng như có điều muốn nói. A Hành biết Bán Hạ thực tế là thuộc hạ của Đại ca, cũng đoán được cô ta định nói điều gì, bèn vờ như không thấy, cầm sách lên lật xem.

Tối hôm đó Thiếu Hạo về sớm dùng cơm với A Hành, sau bữa ăn lại cùng nhau đi dạo trong vườn. A Hành vui miệng thổ lộ rằng mình yêu hoa, thích một vườn hoa rộng thật rộng, hay nhất là quanh năm bốn mùa đều có hoa tươi. Nào ngờ Thiếu Hạo lập tức gọi tùy tùng tới sai họ tìm ngay bản thiết kế phủ đệ đưa đến phủ Nặc Nại, yêu cầu Nặc Nại thiết kế lại, kiến tạo một vườn hoa thật rộng cho vương tử phi, để nàng mở cửa liền thấy hoa, đóng cửa còn thơm ngát.

Xưa nay Thiếu Hạo vốn giản đơn tùy tiện, đây là lần đầu y xa hoa phô trương như vậy, khó trách đám người trong vương thất xì xầm không ngớt miệng.

Chẳng phụ tấm lòng Thiếu Hạo cùng công sức thiết kế của Nặc Nại, A Hành đã chăm sóc cho cả khu vườn nức tiếng xa gần, thêm vào đó, Tuấn Đế cũng ưa thích kì hoa dị thảo, cho rằng có thể tu dưỡng tính tình nên hết thảy hậu cung phi tần, danh gia vọng tộc đều đua nhau noi theo Tuấn Đế, vừa học phong nhã vừa lấy lòng đế vương. Hay tin Đại vương tử phi giỏi trồng hoa xén cỏ, họ bèn nườm nượp kéo tới học hỏi, thậm chí mấy phu nhân, tiểu thư bên Thường Hy bộ vốn bất hòa với Thiếu Hạo cũng đến gõ cửa xin gặp.

Sau khi ăn tối cùng nhau, Thiếu Hạo thường ngồi dưới đèn phê duyệt công văn các nơi gửi đến còn A Hành nghiêng mình nằm trên giường đọc sách y thuật. Mỗi lúc hoàng hôn, bọn họ lại sánh vai ngồi bên cửa sổ, Thiếu Hạo gảy đàn, A Hành chăm chú lắng nghe. Hễ cao hứng cả hai còn hái phù dung trong vườn ủ thành rượu Phù Dung dâng lên Tuấn Hậu.

Thiếu Hạo thích ủ rượu còn A Hành giỏi bình rượu, nàng có thể chỉ rõ điểm khác nhau giữa các loại rượu mà người khác không tài nào phân biệt được. Bát vương tử Quý Ly cũng vô cùng mê rượu, có lần Quý Ly bày tiệc tại phủ, cố ý để lẫn rượu Thiếu Hạo cất bao năm nay vào giữa đám rượu ngon thu thập khắp nơi trên đại hoang rồi mời Đại vương tử phi bình phẩm nhằm làm khó hai người, nào ngờ A Hành bịt mắt lại vẫn vạch rõ lai lịch từng loại một, đáng kinh ngạc hơn là nàng còn chỉ ra khuyết điểm trong từng loại rượu mà Thiếu Hạo ủ nên, khiến Thiếu Hạo xưa nay vẫn ung dung trấn tĩnh phải ngạc nhiên ra mặt,Quý Ly lại càng phục sát đất, mọi người cũng không ngớt trầm trồ.

Trong mắt mọi người ở Cao Tân, Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt quả là một đôi giai ngẫu trời sinh, ngay Yến Long cũng phải ao ước, “Những thứ khác chẳng nói làm gì, có điều vận số Đại ca may quá, toàn vơ được chuyện hay ho, vốn chỉ là hôn nhân chính trị giữa hai vương tộc, không lạnh nhạt thờ ơ với nhau đã là giỏi lắm rồi, vậy mà y lại tìm được kẻ tâm đầu ý hợp nữa chứ.”

Có lần quần thần nghị sự trong đại điện đến tối muộn, Tuấn Đế vừa lệnh cho mọi người giải tán, Thiếu Hạo đã xăm xăm bước ra cửa, Tuấn Đế gọi y, y cũng chẳng nghe thấy, mãi tới khi bị thị vệ gọi lại y mới giật mình hoảng hốt, Tuấn Đế bèn hỏi: “Con mải nghĩ gì thế?”

Thiếu Hạo khẽ thưa: “Mấy hôm trước A Hành làm món dưa muối như ở quê nàng, hôm nay bắt đầu mở vại dưa. Ban sáng trước khi đi con đã dặn nàng chờ con về rồi cùng ăn, nào ngờ hôm nay nghị sự muộn thế này, e rằng nàng đợi cơm lại đói.”

Tuấn Đế không lấy thế làm điều, trái lại còn bật cười nói với chúng thần: “Các người xem, khi trước thằng bé này chẳng bao giờ sai sót mảy may nào, từ hồi lấy vợ mới bắt đầu có điểm giống người thường.”

Cả triều đình rộ lên cười, mọi người còn truyền tai nhau như câu chuyện vui, từ đó, Thiếu Hạo nổi tiếng khắp nơi trong triều ngoài nội là yêu vợ, cả đại hoang đều biết Thiếu Hạo cùng Hiên Viên Bạt ân ái mặn nồng.

Những chuyện rủ rỉ phòng khuê đó truyền đến Thần Nông đương nhiên Xi Vưu đều nghe không sót một lời, từng câu từng chữ như từng lưỡi kiếm nhọn hoắt rạch vào tim hắn, máu chảy đầm đìa. A Hành vốn chỉ định đóng kịch nhằm qua mặt phụ vương tinh minh của mình, nào ngờ những điều vụn vặt đó lại làm Xi Vưu tổn thương sâu sắc, khoét sâu thêm hiểu lầm giữa hai người.

Hết chương 12.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách