Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: sj_sapphire_13
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Huyền Huyễn - Xuất Bản] Tam Sinh Tam Thế Chẩm Thượng Thư (Quyển 1) l Đường Thất Công Tử

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 12-4-2014 10:23:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 4

4.1

Phượng Cửu ngủ li bì không biết trời biết đất, lúc tỉnh lại, nghe bên tai có tiếng gió rít ù ù, tưởng vẫn đang nằm mơ, lại bình thản nhắm mắt ngủ tiếp. Hai mắt vừa khép, bỗng giật mình, lập tức mở ra. Mão Nhật Tinh Quân điều khiển cỗ xe mặt trời, vung ánh ban mai vàng óng xuống khắp trần gian, tiến đến gần, nhìn thấy Đông Hoa, vội vàng xuống xe, cúi lạy.

Những ngọn núi ẩn trong mây chầm chậm trôi qua dưới chân, vài đỉnh xanh thẫm nhô lên lọt vào tầm mắt. Phượng Cửu ngơ ngẩn hồi lâu, dốc sức vận khí run run thử nhấc tay, nhìn lại mình, quả nhiên vẫn còn là chiếc khăn lụa. Dáo dác nhìn quanh, muốn biết vì sao tiếng gió lại nghe rõ đến thế, lát sau mới phát hiện thì ra mình bị buộc vào vỏ bao thanh kiếm Thương Hà, đeo ở thắt lưng Đông Hoa, cùng chàng lướt gió cưỡi mây.

Nàng hoang mang nhớ lại, đêm qua rõ ràng đã trốn ra ngoài, tại sao lại ở đây, chẳng lẽ sau đó lại bị bắt trở về? Nhưng sao không nhớ gì về chuyện đó. Có thể là nàng chưa hề trốn đi, Đông Hoa thay xiêm áo xong lại đặt nàng vào trong ống tay rồi đi ngủ, nàng cũng ngủ, sau đó tất cả đều là chiêm bao? Nàng cố giữ thân cho vững, càng nghĩ càng thấy có lý, rồi lại thấy đó là một giấc chiêm bao đẹp, giấc chiêm bao rơi lệ…

Khi núi Phù Vũ hiện ra trước mặt, tiếng gió rít thê lương, Phượng Cửu mới dần dần hiểu ra, hôm nay Đông Hoa có trận giao chiến với Yến Trì Ngộ, một trong bảy vị quân vương của Ma tộc, thì ra nàng xui xẻo ngẫu nhiên bị đưa đến Nam Hoang này.

Nói đến ân oán giữa Đông Hoa và Yến Trì Ngộ, phải tính từ ba trăm năm trước, theo đồn đại, nguyên cớ là vì một thiếu nữ. Nhưng lời đồn này chỉ lan truyền trong một số ít người, những ai hiểu rõ nội tình đều cảm thấy Đông Hoa rất oan uổng.

Chuyện là, năm xưa Chiếu Dương quân vương của Xích chi, một trong bảy chi của Ma tộc, muốn giao hảo với Thần tộc, bèn đem tiểu muội của mình là công chúa Cơ Hoành gả cho Thần tộc, chọn đi chọn lại, cuối cùng chọn Đông Hoa Đế Quân ở cung Thái Thần. Nhưng Chiếu Dương đâu biết, huynh đệ kết nghĩa của mình là Yến Trì Ngộ, quân vương của Thanh chi đã sớm có tình ý với công chúa Cơ Hoành, trưởng công chúa của Ma tộc được coi là có thể hiểu được tiếng nói của loài hoa. Tuy nhiên, công chúa Cơ Hoành bản tính đa cảm, dễ động lòng trước những công tử phong lưu biết làm thơ sầu muộn, chơi cầm khúc bi ai. Đáng tiếc, Yến Trì Ngộ có tiếng phong lưu nhất Nam Hoang, thực ra lại là người lỗ mãng, công chúa Cơ Hoành không mấy để ý đến chàng, mắt xanh lại hướng vào Đông Hoa, chàng trai ưu tú tư phong phi phàm mà ca ca nàng đã chọn. Thậm chí có vài lần, trước mặt Yến Trì Ngộ còn tán dương Đông Hoa vài câu. Lời tán dương đó, như mồi lửa ném vào cơn ghen đã tích tụ bấy lâu của Yến Trì Ngộ. Chàng Yến tức khí đầy vơi không thể nhẫn nhịn hơn nữa, lại không nỡ trút giận lên đầu mỹ nhân, liền hùng hổ cầm chiến thư đến cổng cung Thái Thần, tìm Đông Hoa đòi quyết đấu. Lúc đó Đông Hoa đã ẩn trong cung nhiều năm không bận tâm thế sự, nhưng thấy đối phương đã đưa chiến thư đến tận cửa, đành chấp nhận. Núi Phù Vũ một trận ác chiến, trời đất tối tăm, có cây tan tác, cuối cùng do Yến Trì Ngộ chơi xấu nhân lúc Đông Hoa không đề phòng, dùng thuật Tỏa hồn ngọc nhốt chàng vào Thập ác liên hoa cảnh, cho nên Phượng Cửu mới có cơ hội ở bên bầu bạn với Đông Hoa ba tháng.

Khi đó Phượng Cửu thực lòng cảm tạ Yến Trì Ngộ, tưởng rằng bởi chàng can thiệp nên liên hôn giữa Đông Hoa với Ma tộc đương nhiên hủy bỏ, vậy là cũng phần nào an tâm. Hơn nữa, xem chừng Đông Hoa cũng không mấy hào hứng với chuyện liên hôn kia, dần dần buông lỏng cảnh giác, những tưởng có thể kê cao gối ngủ yên.

Nào ngờ ba tháng sau, cung Thái Thần chỉ sau một đêm muôn hoa đua nở, đèn treo hoa kết rực rỡ. Trong ánh chiều dương ấm áp, chiếc kiệu lộng lẫy đưa một đại đại quý nhân đi vào cung môn cung Thái Thần. Vị đại đại quý nhân này, chính là nàng Cơ Hoành hồng nhan họa thủy. Trên cầu Bạch Ngọc, giai nhân vén rèm xuống kiệu, ngón tay ngọc ngà yểu điệu vịn thành cầu chạm chim phượng tao nhã, môi hồng răng trắng, mắt sáng đôn hậu, mặt hồ sóng xao, phất phơ khói biếc, mái tóc cuốn cao soi nghiêng đáy nước, chỉ một thoáng dừng chân liền trở thành bức họa tuyệt thế lung linh mộng ảo.

Phượng Cửu tựa vào chân Đông Hoa, ngẩn ra nhìn.

Cả cung Thái Thần, Phượng Cửu là người cuối cùng biết nguyên do cảnh tượng trên cầu Bạch Ngọc, mà lại qua miệng Tri Hạc, hóa ra Đông Hoa đã đồng ý hôn sự này, hình như còn rất thoải mái. Chỉ vài câu nói đơn giản, lọt vào tai nàng, giống như tiếng sét ầm ầm giáng xuống giữa trời quang, trong chớp mắt nàng cảm giác trời đất tối sầm.

Còn về ngày đại hôn, nương tử xinh đẹp trùm khăn đỏ không hiểu sao lại biến thành Tri Hạc, mấy ngày cuối cùng trước khi bỏ đi, đầu óc nàng cứ hỗn loạn u mê, không sao hiểu được, nhưng hồi đó Tri Hạc nói với nàng. Rằng, ở phàm trần thường có những chuyện như thế, một vài nam thanh nữ tú có tình với nhau, nhưng do tuổi trẻ tình cảm thất thường, có khi không thực hiểu lòng nhau, phải đợi đến lúc một trong hai người chuẩn bị kết hôn, cả hai mới tỉnh ngộ, đó chính là ngưỡng mà những người hữu tình phải vượt qua, mới có thể nên duyên, do vậy mới có câu, hôn nhân là hòn đá thử vàng để biết ai chân tình ai không, nàng và Đông Hoa cũng như thế.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 12-4-2014 10:25:15 | Chỉ xem của tác giả
4.2

Hồi đó Phượng Cửu còn chưa từng trải, một lý do lạ lùng như vậy cũng tin. Nàng quá ngây thơ nên dễ tổn thương, chỉ cảm thấy trong lời giải thích của Tri Hạc có chỗ không thỏa đó là tuổi của Đông Hoa liệu có thể coi là trai trẻ hay không, ví với đá thử vàng e không ổn.

Bây giờ nghĩ lại, có thể tất cả đều là bịa đặt của Tri Hạc, nếu không cớ chi sau đó Thiên Quân nổi giận, đẩy nàng ta xuống Hạ giới khổ tu để trừng phạt. Từng trải nhiều, đầu óc không còn ấu trĩ như trước, về sau nàng ngẫm ra, rất ít khả năng Đông Hoa thích Tri Hạc. Nếu chàng loanh quanh, vì thực sự động lòng trước nghĩa muội nông nổi kia, thì chàng cũng không xứng với tấm chân tình của nàng, với lòng ngưỡng mộ dành cho chàng bấy nhiêu năm, ngay từ thủa nàng còn thơ bé.

Rốt cuộc chân tướng thế nào, nàng chỉ suy đoán mơ hồ, lờ mờ cảm thấy sự thể có lẽ là như vậy, nhưng chuyện đó, cũng không biết tìm ai để xác nhận. Chỉ cho rằng, năm đó Đông Hoa đồng ý hôn sự với Cơ Hoành, rất có thể là do khâm phục Cơ Hoành. Thật ra, ngay con mắt nhìn khắt khe của nàng, cũng phải thừa nhận trong những tiên nữ, yêu nữ của tứ hải bát hoang, công chúa Cơ Hoành là một nữ tử hiền lương, cương liệt hiếm có. Chưa kể dung mạo xinh đẹp, đức độ hiền lương, khiêm nhường thông tỏ lễ nghĩa, chỉ riêng sự hào hiệp vô tư giúp Đông Hoa và nàng mấy lần trong Thập ác liên hoa cảnh đã muôn phần đáng khâm phục. Đông Hoa thích nàng ta, có lẽ cũng do tất cả những cái đó, dù năm xưa ở Thập ác liên hoa cảnh, Phượng Cửu cũng từng cứu chàng, nhưng cho dù trong những vở kịch hoang đường nhất mà cô cô Bạch Thiển của nàng còn giữ được cũng không hoang đường đến mức, có kết cục thế này: một cô nương xinh đẹp và một con thú cưng cùng cứu chàng công tử, về sau công tử lại thích con thú cưng, không thích cô nương xinh đẹp kia. Vậy nên, thua Cơ Hoành, nàng không có gì oán thán.

Trên đỉnh Phù Vũ gió gầm rít từng trận, trong chớp mắt mây cuồn cuộn kéo đến dày đặc, mênh mông nhưng tiêu điều, rất giống cảnh chiến trường. Phượng Cửu đang chìm trong hồi ức, lòng hơi ủ dột, nhìn thấy cảnh tượng trước mặt, đột nhiên cao hứng hẳn.

Nàng sinh ra trong thời bình, những trận chiến vĩ đại ghi trong sử sách, nàng chưa một lần chứng kiến, luôn phiền não vì chưa tích lũy được tri thức nào về mặt đó. Hiếm hoi mới có trận chiến giữa Dạ Hoa, phu quân của cô cô Bạch Thiển, với Quỷ Quân Kình Thương hơn hai trăm năm trước, nghe nói là trận đại chiến, nhưng lúc ấy nàng rất xui xẻo đang bị mắc ở trần thế báo ân. Hai trăm năm nay, mỗi dịp sinh nhật, nàng đều thành tâm cầu nguyện, mong Thiên giới, Hạ giới có vài vị đại thần tiên nổi tiếng nào đó bất hòa mà nổi lên tranh đấu, nhưng tai ông trời không dài, chắc là không nghe thấy lời cầu nguyện của nàng, lại để họ tình cảm mỗi năm càng thâm hậu. Nàng vốn đã không còn hy vọng gì được thỏa ước nguyện kia, ai ngờ, hôm nay ngẫu nhiên lại may mắn được tận mắt chứng kiến. Lòng mừng khôn xiết.

Bất luận thế nào, vị Ma vương có thể coi là lừa được Đông Hoa, dù thủ đoạn có hơi bỉ ổi, nhưng cũng phần nào bộc lộ chút tài năng, có thể là một đối thủ tốt. Nghe đồn chàng ta bản tính phóng khoáng, phong lưu, nàng liền hình dung đó là một trang hảo hán tráng kiện, tay vung đôi rìu Tuyên Hoa, giậm chân là đất rung núi chuyển, hô một tiếng là gió vũ mây vần. Trong tưởng tượng của Phượng Cửu, Yến Trì Ngộ kia cũng sức mạnh vô song. Nàng vừa tưởng tượng, vừa chìm trong những tưởng tượng đó, nín thở chờ Đông Hoa vén lớp sương mù dày đặc, khiến nàng được chiêm ngưỡng vị anh hùng hảo hán kia.

Núi Phù Ngũ nằm ở giao giới giữa Đông Hoang thuộc quản quyền của Ma tộc và Nam Hoang lãnh thổ của Bạch Hồ tộc, uy nghi sừng sững chạm vào mây, là ngọn núi nổi tiếng ở Tiên tộc và Ma tộc.

Mây mù dày đặc, trên đỉnh Phù Vũ lại không hề có vị hảo hán tay cầm rìu Tuyên Hoa nào hết, chỉ thấy một chàng trai rất trẻ xiêm áo đen tuyền, dáng mảnh khảnh ngồi trên đỉnh núi đang sốt ruột cắn hạt dưa, vỏ dưa rơi đầy trên đất. Phượng Cửu nhìn quanh, tưởng là Ma vương có thể vì lý do nào đó đến muộn. Nhưng bỗng thấy chàng trai kia vọt lên một đám mây, xông thẳng đến chỗ họ. Thấy chàng trai mảnh khảnh, duyên dáng, môi hồng răng trắng, rất tuấn tú, không biết là thần tiên xứ nào, nàng bất giác liếc nhìn.

Chàng trai tuấn tú cưỡi mây dừng cách bọn họ mười trượng, không biết từ đâu rút ra một thanh trường kiếm, sát khí đằng đằng chỉ vào Đông Hoa, quát lớn: “Bà tổ ngươi, đồ gấu Mặt lạnh, làm mỗ đợi chết mệt suốt nửa ngày, mỗ chúa ghét kẻ lề mề, hay là ngươi sợ mỗ rồi! Mau rút binh khí ra, mỗ cùng ngươi tốc chiến, hôm nay không đánh cho ngươi rụng sạch răng thì mỗ đây không còn là mỗ nữa!”.

Phượng Cửu sửng sốt.

Nàng sửng sốt nhìn chàng trai đẹp mà luôn mồm xưng mỗ kia, liên tiếp nuốt nước bọt, dần hiểu ra chàng ta chính là Yến Trì Ngộ, một trong bảy vị quân vương của Ma tộc. Nhưng có điều không hiểu, nàng nghe đồn khá nhiều về Yến Trì Ngộ, đều nói đó là một Ma quân lỗ mãng, không hiểu phong tình cho nên công chúa Cơ Hoành mới không ưng. Lẽ nào ngay những mãng phu của Ma tộc đều bạch diện thư sinh, da dẻ mịn màng như thế? Nàng bất giác lại hình dung, vậy thì những trang quân tử nghe đồn rất mực phong lưu của Ma tộc trông sẽ thế nào? Khi nàng hình dung ra một đại hảo hán tráng kiện râu ria bờm xờm tay cầm quạt hô gió, hướng về mặt trời lặn, mặt sầu muộn ngâm nga mấy câu thơ bi lụy, đột nhiên bật cười.

Thái độ của Đông Hoa hoàn toàn đúng như nàng dự đoán, sau đoạn mở màn hùng hồn của Yến Trì Ngộ, chàng chỉ nho nhã giơ tay nói: “Xin mời!”. Thái độ cao ngạo đó khiến Yến Trì Ngộ nổi đóa giậm chân, trừng mắt vẻ lưu manh: “Mỗ mời bà tổ ngươi!”. Lời vừa dứt, cuồng phong tức thì nổi lên, thổi bạt ma chướng xoáy tròn đằng sau người hắn, lộ ra mặt nước rộng ngút ngàn, trên mặt sóng đen cuồn cuộn, là một đôi giáp binh tay cầm binh khí xếp mấy hàng lừng lững uy nghiêm.

Phượng Cửu cho tới giờ chưa từng thấy cảnh tượng này, giật mình hoảng sợ. Đông Hoa lại rất bình tĩnh, còn giơ tay vuốt lại chiếc khăn là nàng bị gió thổi dúm lại, khiến nàng có thể bám chắc vào chuôi kiếm của chàng.

Yến Trì Ngộ cười khẩy, mặt diễm sắc như hoa xuân dưới trăng, lạnh lùng hừ một tiếng: “Mỗ dám tìm ngươi đấu một mình, đã chuẩn bị vẹn toàn”. Phượng Cửu lại nghĩ miên man, Cơ Hoành không ưng chàng Yến kia, có lẽ còn ẩn tình khác, có thể nàng ta cho rằng, không nên lấy một phu quân có ngoại hình đẹp hơn mình, nếu sánh vai bên nhau e là mất thể diện. Lại thấy Yến Trì Ngộ chỉ tay vào đội binh giáp dưới chân, cười đắc ý, nụ cười khiến gương mặt chàng ta càng thêm rạng rỡ. Phượng Cửu nhìn chàng, thầm gật đầu, phải rồi, Cơ Hoành không ưng chàng ta, đa phần vì lý do này.

Yến Trì Ngộ sau khi cười đắc ý, lập tức nghiêm mặt, lạnh lùng hét về phía Đông Hoa: “Đã nhìn thấy chưa, pháp trận yểm ma này mỗ vừa nghiên cứu thành công, được luyện từ bảy ngàn sinh linh cõi trần, tốn bao nhiêu tâm huyết của mỗ. Mặc dù đều là ác linh, nhưng nếu ngươi đả thương chúng, là vĩnh viễn cắt đứt đường cải tà quy chính chuyển kiếp luân hồi của chúng. Mỗ muốn xem, hậu bối Thiên tộc các ngươi tự xưng là từ bi, làm thế nào phá trận pháp này của mỗ!”. Trong chớp mắt, khi Yến Trì Ngộ vừa dứt lời, đội giáp binh ngưng tụ bảy ngàn sinh linh cõi trần, từng lớp lao vào họ như vũ bão, tất cả vẫn trong hình hài con người, nhưng ánh mắt u tối dữ tợn tham lam như mắt sói, binh khí trong tay tỏa sát khí tăm tối của tử địa.

Trong cuồn cuộn sóng nước mênh mông, bảy ngàn sinh linh chen chúc, người trước ngã xuống người sau lao đến, cảnh tượng thực khủng khiếp. Phượng Cửu run bần bật nép vào thắt lưng Đông Hoa, từ nhỏ nàng mắc chứng sợ đám đông, nhìn cảnh đó chỉ thấy toàn thân nổi da gà, liền từ bỏ ý định chiêm ngưỡng cái mới, chỉ nghĩ cách làm sao thoát thân.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 12-4-2014 10:26:51 | Chỉ xem của tác giả
4.3

Vẫn chưa nghĩ ra được gì, thanh kiếm Thương Hà tự nhiên rời khỏi bao, nằm chắc trong tay Đông Hoa, nhìn chúng sinh trôi nổi trên đỉnh Phù Vũ. Trong quầng sáng trắng dài trăm dặm khói lửa tức khí bùng lên, nuốt chửng lớp lớp khí đen ngùn ngụt, hiện ra hàng vạn bóng kiếm giống nhau. Phượng Cửu bàng hoàng bị bao vây giữa trùng trùng bóng kiếm loang loáng dày đặc, chỉ thấy trước mắt một màu sáng chói, đầu choáng váng. Phượng Cửu không nhìn rõ đường kiếm bay ra thế nào, chỉ thấy hình như mình cũng đang bay, người chao đảo, đầu càng choáng váng. Bên tai toàn những thấy tiếng rền rĩ thê thảm lẫn trong tiếng gió rít và tiếng mây cuồn cuộn, khi định thần trở lại, đã thấy trở về trong tay Đông Hoa, sắc máu tím đỏ biến sóng nước thành một màu kỳ dị, thỉnh thoảng có đám sương huyết bay lên bờ, giống như độc dược cực mạnh chạm vào cây cỏ hóa thành làn khói xanh. Sau đó, vang lên giọng trầm trầm của Đông Hoa: “Phá rồi!”.

Phượng Cửu đầu óc điên đảo, thầm nghĩ, phá cái gì?

Ồ, là trận pháp thất đức mà Yến Trì Ngộ nói tốn bao công sức tạo ra đã bị Đông Hoa phá.

Nàng vừa ôm thái dương định thần trở lại, mắt vừa thích ứng với ánh sáng bình thường, liền thấy Yến Trì Ngộ cầm cây kiếm nặng trịch, mặt hầm hầm xông đến: “Bảy ngàn ác linh do mỗ luyện, mặc dù phạm Thiên đạo nhất định bị trừng phạt, nhưng cũng phải do Thiên Lôi nhà Trời trừng phạt, các ngươi là thần tiên chẳng phải nên hết lòng phổ độ cho chúng? Hôm nay kiếm của ngươi nhuốm máu chúng, sẽ chỉ gánh thêm tội hiếu sát, ngươi ra tay diệt sạch như vậy, không sợ có ngày bị Trời trừng trị ư?”.

Phượng Cửu tim đập chân run, miệng lẩm nhẩm niệm Phật, cầu mong ông trời phù hộ để lưỡi kiếm của Yến Trì Ngộ chém trúng vào thân kiếm Thương Hà, không chệch một phân một tấc. Nhưng nhìn thế kiếm hung hãn như vậy, nàng lại ở rất gần chỗ hai kiếm sẽ giao nhau, kể cả chàng Yến kia ra tay không chệch một phân một tấc, có thể nàng cũng bị kiếm khí đả thương. Lòng bỗng tủi thân vô hạn, thầm nghĩ Đông Hoa sao có thể thất đức đến vậy, chẳng qua nàng chỉ nói giễu một câu, rằng chàng: “Quá kỳ dị” vậy mà cũng để bụng. Lại còn trả thù bằng cách đưa nàng đến đây, nếu hôm nay thực sự nàng phải bỏ mạng nơi này, xem chàng ăn nói thế nào với thần dân Thanh Khâu, ăn nói thế nào với song thân phụ mẫu, với bá phụ bá mẫu, thúc thúc cô cô của nàng!

Đang hào hứng nghĩ, bỗng nhiên một tia chớp sáng chói ập tới, khiến nàng giật thót, nhìn thấy một tia sáng trắng hiện lên phía chân trời, mây đen dạt ra hai phía, đường kiếm trắng như tuyết chém thẳng vào đó, tiếng binh khí chạm nhau chói tai. Sau vài chiêu qua lại, Yến Trì Ngộ đột nhiên đau đớn rên một tiếng, chân lảo đảo lùi lại sau cả trượng, có tiếng Đông Hoa lạnh lùng vọng ra: “Tội hiếu sát ư?”. Giọng dù lãnh đạm, nhưng khí thế lại trầm: “Bản quân mười vạn năm nay chưa tham chiến, ngày trước bản quân nắm trong tay sinh tử của lục giới thiên địa, tư phong thế nào, ngươi quên rồi ư?”.

Tiếng gió ù ù rít qua, Phượng Cửu lại choáng váng. Đông Hoa ngày trước. Ôi, Đông Hoa ngày trước.

Nhắc đến chuyện này, Phượng Cửu còn nắm chắc hơn nắm gia bảo trong nhà, lịch sử Thanh Khâu, gia phả Bạch gia nàng tinh thông làu làu, chiến tích quá khứ của Đông Hoa nàng có thể thao thao kể liền ba ngày đêm. Có thể nói hồi đi học nàng luôn đứng đầu môn lịch sử cổ đại phần nói về tiên sử, tất cả đều nhờ phúc của Đông Hoa. Hôm nay, nàng cho rằng chẳng còn duyên gì với Đông Hoa, đầu óc quay cuồng, chợt nhớ lại quá khứ, những truyền thuyết về Đông Hoa, từng chương lại vẫn nhớ rành rành.

Tương truyền, khi Bàn Cổ dùng một nhát rìu phân tách thiên địa, phần nhẹ, trong, nâng lên làm Trời; phần nặng, đục hạ xuống làm Đất, thế giới không còn là một khối nữa, tạo hóa có âm dương, hóa sinh ra rất nhiều tiên, yêu, ma quái, tranh giành tứ hải bát hoang tìm chỗ tu thân. Viễn cổ hồng hoang không phì nhiêu, phong phú như bây giờ, trên trời dưới đất cũng không nhiều luật lệ quy chế như vậy, nhưng thời loạn chiến thì khác, thường xuyên xảy ra tranh giành, đánh giết, ngay các vị thần tiên ngày nay rất coi trọng lấy lòng từ bi phổ độ chúng sinh, sát khí cũng rất nặng nề.

Thời đó, Nhân tộc cùng một bộ phận Ma tộc còn chưa bị đày xuống trần gian, nhưng trời đất hóa sinh ra họ thực sự nhỏ bé, bất đắc dĩ phải phụ thuộc vào Thiên tộc và Ma tộc lớn mạnh, sống những ngày ăn nhờ ở đậu buồn tẻ ở tứ hải bát hoang.

Vạn vạn vụt trôi, trời đất chẳng mấy khi được yên ổn, khi Ma tộc làm bá chủ, lúc Thần tộc cai quản càn khôn, thi thoảng lại Quỷ tộc làm chủ, nhưng tộc nào bá chủ thời gian cũng rất ngắn.

Mọi người đều mong xuất hiện một vị anh hùng khiến chư tộc người người khuất phục, cam tâm tình nguyện cúi đầu, chấm dứt thời kỳ loạn thế, để mọi tộc được sinh sống bình yên. Mà tộc nào cũng hy vọng vị anh hùng đó là do tộc mình sinh ra. Đó là thời đại chúng sinh đều chất phác, hầu như không hề có tâm địa, ngây thơ cho rằng sinh càng nhiều, thì càng có khả năng sinh được anh hùng. Vì vậy trong mấy năm ngắn ngủi, sáu tộc là Tiên, Quỷ, Thần, Ma, Nhân, Yêu, tộc nào lượng nhân đinh (những người là con trai trưởng thành trong tộc) cũng tăng vượt bậc.

Nhưng khi nhân khẩu quá đông rắc rối cũng nảy sinh, đất đai không đủ, chiến tranh giành giật đất đai giữa các tộc ngày càng ác liệt. Nhưng ông Trời luôn như vậy, ý Trời luôn không thể lường. Chính lúc các tộc vẫn tiếp tục ngày đêm nỗ lực sinh sản mong sinh được anh hùng, vẫn không mệt mỏi lao vào cuộc chiến tranh giành đất đai… Thì vị anh hùng đã cất tiếng chào đời ở Bích Hải linh thiêng nơi tận cùng của Trời, không cha không mẹ, được Trời đích thân sinh dưỡng.

Nơi sinh là vùng ánh sáng hoa lệ của Đông Hoang, lấy hai chữ trong đó, định ra tôn hiệu là Đông Hoa. Chính là Đông Hoa Đế Quân.

Mặc dù Đông Hoa sinh ra là để trở thành anh hùng của thời đại, nhưng không giống thái tử Dạ Hoa của Thiên tộc hiện nay, là người gánh vác sứ mệnh lớn lao do Trời chỉ định, lúc Đông Hoa ra đời lại vô cùng lặng lẽ, chẳng hề có những điềm báo như cả thiên địa đều tỏa hào quang, bốn mươi chín con chim ngũ sắc bay lượn trên Bích Hải linh thiêng…

Chỉ có một đoạn trong sử sách viết rằng, Đế Quân nhận ánh sáng của trời, uống nước nguồn, hội tụ tinh hoa vạn vật mà thành linh thai. Nhưng trời đã sinh chàng ra sao, là từ trong tảng đá nứt ra hay một lão phu đi rừng chặt cây, đốn củi phát hiện ra chàng ngồi trong thân cây trúc mang về nuôi dưỡng, sử sách chỉ có một đoạn sơ lược như vậy, không có ghi chép nào cụ thể hơn.

Đông Hoa mặc dù từ nhỏ đã phải gánh vác trọng trách nặng nề, nhưng cuộc sống từ khi sinh ra đã không bình thường, đơn côi một mình trên Bích Hải, không có quần cư thần tộc bảo vệ che chở, thường chịu sự ức hiếp của các tiên yêu ma quái xung quanh. Hồng hoang viễn cổ không như bây giờ, muốn học gì đều có thể tầm sư chỉ dạy. Mọi sự Đông Hoa dựa vào quả đấm mà ngộ ra, chiến tích cả đời cũng có được qua từng trận ác chiến mà nên.

Nguồn nước thiêng vạn năm không cạn của Bích Hải không biết đã nhuốm đỏ bao lần, chàng trai áo tím bất ngờ ra đời, giẫm lên chồng chất xương khô, cuối cùng đứng trên đỉnh cao nhất của lục giới, nhất thống lục giới tứ hải, an ủi chúng sinh bát hoang.

Con đường thành danh của chàng, khác với thượng thần Mặc Uyên chỉ qua trận chiến Lạc Tư mấy vạn năm trước, cũng không giống chiến tích lẫy lừng của Dạ Hoa Quân gần đây. Hai vị đó, một vị từ nhỏ đã được Phụ Thần hóa sinh trời đất nuôi dưỡng; một vị được Nguyên Thủy Thiên Tôn Đại La Thiên Thượng Thanh Cảnh cùng với Quan Thế Âm đại từ đại bi của Tây Phương Phạn Cảnh hợp lực điểm hóa, được giáo dưỡng theo tôn quy của dòng dõi danh gia.

Phượng Cửu từ nhỏ đã rất ngưỡng mộ Đông Hoa, trước hết bởi chàng từng cứu mạng nàng, nhưng sâu xa hơn là do lòng sùng bái tôn kính, nàng cảm thấy mọi sự chàng đều dựa vào nỗ lực bản thân, lại có thể có sức mạnh kết thúc thời loạn thế bao trùm càn khôn suốt thủa hồng hoang, quả thực quá thần kỳ.

Có thể ngồi vững trên ngôi vị bá chủ thiên địa trong thời sát phạt hỗn chiến hồng hoang, thật không dễ, chỉ cần mềm lòng, nhẹ tay, bên dưới sẽ lập tức hỗn loạn, chỉ có máu lạnh, cứng rắn mới giữ được bình yên. Cho dù sau này Thiên tộc dần dần lớn mạnh, Đông Hoa dần dần nhường quyền cai quản cho Thiên Quân, lui về cung Thái Thần ở Nhất Thập Tam Thiên ẩn dật, nhưng uy danh máu lạnh năm xưa vẫn lưu truyền khắp lục giới. Bởi vậy lần này Yến Trì Ngộ những tưởng có thể dùng bảy ngàn sinh linh áp chế chàng, hèn chi chàng chỉ lạnh lùng hỏi một câu, có phải đã quên tư phong cai trị lục giới năm xưa của chàng. Đông Hoa, thực sự không phải là một vị tiên bồ đề tâm đại từ đại bi. Xưa nay vẫn vậy.

Thật ra, Đông Hoa rốt cuộc có được tính là tiên không, điều này còn phải bàn.

Phượng Cửu lúc nhỏ đã thầm ái mộ Đông Hoa, để hiểu hơn về chàng, trên lục khắp Thiên giới, dưới tầm tận Hoàng tuyền thu thập mọi sử liệu về chàng. Trong những sử liệu đó phần lớn là đề cao cống hiến của Đông Hoa, tất cả đều là những lời lẽ tốt đẹp, chỉ có một thư tịch cổ cũ nát, mất bìa, ghi lời nhận xét về Đông Hoa của Phụ Thần nói rằng, người này cửu trú tâm đã đạt tới nhất trú cảnh, vậy nên nhất niệm vi ma vừa nhất niệm vi thần.

Thiền học của Phượng Cửu không tốt, nên chép lại những lời này làm ra vẻ tự nhiên đi thỉnh giáo tiểu thúc Bạch Chân. Bạch Chân mặc dù có vẻ không đáng tin cậy, nhưng cũng đã sống tới mười mấy vạn năm, nên sự Thiền học cũng biết một hai, giảng giải cho nàng nghe: “Cái gọi là cửa trú tâm chính là chín cấp tu tập Thiền định, tức: nội trú, đẳng trú, an trú, cận trú, điều thuận, tịch tĩnh, tối cục tịch tĩnh, chuyên chú nhất trú và đẳng trì. Nếu một người nội tâm đã đạt tới cảnh giới chuyên chú nhất trú, nghĩ là tâm đã an trú, trăm loạn bất xâm. Tâm đã tịnh thì là ma hay là thần đều không có gì khác nhau, tùy sở thích của người đó, muốn thành giới gì thì thành giới đó. Nếu cửu trú tâm đạt tới cảnh giới đẳng trú, tức là đã sang một cảnh giới mới. Thế gian chỉ có Phật Tổ ở Tây Thiên Phạn Cảnh tu trì đến cảnh giới này, ngộ được chúng sinh tức Phật Đà, Phật Đà tức chúng sinh”.

Phượng Cửu nhẫn nại nghe xong, kỳ thực váng đầu hoa mắt bởi các loại trú của tiểu thúc, cảm thấy những gì dính dáng đến chữ Thiền, quả nhiên đều vô cùng huyền diệu. Nhưng để hiểu hơn về Đông Hoa, trở về nàng còn âm thầm suy nghĩ rất lâu, cố hiểu ý nghĩa lời đánh giá kia của đấng Phụ Thần, cuối cùng nghĩ ra câu nói kia liệu có phải nghĩa là nói Đông Hoa ngày trước không phải thần cũng chẳng phải ma, sau đó chọn Thần đạo từ bỏ Ma đạo. Nhưng tại sao chàng chọn Thần đạo, nàng nghĩ không ra. Trong tâm trí ấu thời của nàng, Thần tộc và Ma tộc ngoại trừ là tộc loại khác nhau, cơ hồ chẳng có gì khác, hơn nữa Ma tộc còn có nhiều mỹ nhân như vậy.

Trong những người nàng quen biết, ngoại trừ tổ phụ mẫu, chỉ có thượng thần Chiết Nhan ở rừng đào mười dặm gần bằng tuổi Đông Hoa. Nàng thu xếp hành lý, cưỡi một đám mây nhỏ đến rừng đào. Mượn cớ lần này phu tử ở học đường kiểm tra về chúng thần thủa hồng hoang, nàng gặp một vấn đề khó, muốn đến xin chỉ giáo, còn chu đáo mang đến hai cây trâm ngọc do tiểu thúc Bạch Chân chế tắc tặng Chiết Nhan.

Món quà đó vô cùng hợp ý Chiết Nhan, quả nhiên khiến vị thượng thần muôn phần phấn khởi.

Rừng đào tháng tư chìm trong hoàng hôn khói phủ, Chiết Nhan tay vuốt ve cây trâm ngọc, tươi cười hỏi nàng: “Vì sao Đông Hoa chọn Thần tộc ư?”.

Cất giọng nói trơn tru: “Sử sách ghi, năm đó khởi nguyên hồng hoang thiên tai liên miên, duy có Thần tộc quanh năm mưa thuận gió hòa, thần dân sinh sống yên ổn. Sau khi Đông Hoa tìm hiểu nguồn cơn, biết được chính là do Thần tộc đều tu ngũ giới, một: không sát sinh; hai: không trộm cướp; ba: không dâm tà; bốn: không dối trá; năm: không uống rượu”. Chiết Nhan thản nhiên uống một ngụm rượu, “Vì đức hạnh sáng chói, cảm hóa trời xanh, vậy nên đã giảm được bao tai họa của Thần tộc, ban cho chúng ta nhiều công đức, thiện quả, hàng năm mới mưa thuận gió hòa. Đông Hoa nghe xong, muôn phần cảm kích, mới lựa chọn Thần tộc từ bỏ Ma đạo, nguyện cả đời hiện thế dưới pháp tướng của Thần tộc, dùng tâm bồ đề đại từ đại bi đại tu trì thiện giới, phổ độ chúng sinh bát hoang”.

Phượng Cửu ngồi nghe, lòng lúc thăng lúc trầm, cảm thấy được khích lệ cổ vũ vô cùng, lại càng bội phần khâm phục Đông Hoa: Quả nhiên chàng thanh tịnh vô vị, quả nhiên là Đế Quân vô dục vô cầu, quả nhiên là Đông Hoa Đế Quân ngạo mạn, cứng rắn, có cốt cách thần tiên nhất mà sử sách ca tụng.

Đang hào hứng lại thấy Chiết Nhan mủm mỉm nói thêm một câu: “Ngươi cứ viết như thế, phu tử nhất định cho điểm cao”.

Phượng Cửu mang ra một quyển vở nhỏ vốn dành để viết suy nghĩ, bình chú trong khi học, ngẩn ra nói: “Người nói thế, chẳng lẽ còn ẩn tình gì?”.

Ẩn tình đương nhiên là có, hơn nữa so với những gì sử sách ghi chép còn cách xa, không chỉ mười vạn tám nghìn dặm.

Phượng Cửu cảm thấy, nói đến ẩn tình này, Chiết Nhan đặc biệt hào hứng khác hẳn điệu bộ uể oải giảng giải cho nàng vừa rồi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 12-4-2014 10:28:08 | Chỉ xem của tác giả
4.4

Ẩn tình đó, như sau.

Nghe nói Đông Hoa ra đời từ Bích Hải linh thiêng, trải qua bao phen tôi luyện, chiến đấu oanh liệt, nhưng bản thân chàng không đặc biệt hứng thú đối với sự nhất thống thiên hạ. Các tộc ở ngoài Bích Hải vẫn đang không ngừng xảy ra giao chiến, một vài tiểu quái dưới biển lại không chịu yên phận, vô cớ tham gia đại chiến bên ngoài. Chàng trừng trị tất cả bọn chúng, có điều lũ tiểu quái này tuy địa vị thấp kém, nhưng bên trên cũng là có người che chở, ma đầu che chở bọn tiểu quái cảm thấy bị mất mặt, nhưng lộ diện khiêu khích Đông Hoa chỉ càng mất mặt hơn, chàng dứt khoát cho chúng bài học. Cho đến khi tên ma đầu lớn nhất tứ hải bát hoang chịu quy phục trở thành tiểu đệ của chàng.

Chiết Nhan xoay cốc rượu trong ta, vừa tình tứ vừa tinh quái cười cười: “Chớ thấy Đông Hoa quanh năm Mặt lạnh mà coi thường, thực ra người ta rất được nữ giới ái mộ”.

Chiến tích của Đông Hoa được biết đến từ lâu, ngoại hình tuấn tú, tuổi trẻ, lại ưu tú nổi bật là lương nhân trong mộng của biết bao nữ nhi các tộc. Có một tiểu thư nào đó của Ma tộc, nức tiếng đương thời, được coi là mỹ nhân phong lưu bậc nhất tứ hải bát hoang, cũng rất ái mộ chàng. Thời viễn cổ, nữ nhi của Ma tộc hành xử tương đối phóng khoáng, không bị ràng buộc bởi nhiều luật lệ như nữ nhi Thần tộc, nếu vừa ý trang nam tử nào, là có thói quen dệt mộng uyên ương với chàng ngay đêm đó. Tiểu thư kia vừa nhìn thấy Đông Hoa đã tương tư, một đêm gió mát hiu hiu, theo truyền thống của tộc mình, lặng lẽ lọt vào căn nhà tre của Đông Hoa, lặng lẽ lên giường đá của chàng, định cùng lương nhân trong mộng, tận hưởng đêm xuân.

Đông Hoa nửa đêm về nhà, vén rèm, thấy một mỹ nữ nửa kín nửa hở trên giường, hơi ngẩn người. Mỹ nhân cất giọng ỏn ẻn: “Tôn tọa nửa đêm mới trở về, để thiếp khổ sở đợi chờ…”. Đông Hoa cúi xuống nhấc bổng mỹ nhân, khiến nàng thở gấp, nũng nịu trách: “Tôn tọa quả nhiên là người nóng vội…”. Người nóng vội này không hề xúc động, bế mỹ nhân đi thẳng ra cửa, thản nhiên ném thẳng mỹ nhân ra ngoài, khiến nàng kinh ngạc thất sắc, xong xuôi, đóng cửa tắt đèn, không nói nửa câu.

Mỹ nhân vẫn không từ bỏ ý định, sau rất nhiều lần bị ném khỏi cửa mới dần từ bỏ ý định. Tuy nhiên nàng lại mở ra một tiền lệ, rất nhiều thiếu nữ Ma tộc cảm thấy, mặc dù nhất định bị Đông Hoa ném ra ngoài, nhưng nghe nói trước khi ném, chàng đều rất tao nhã bế các nàng từ trên giường ra cửa, sau đó mới ném đi. Họ cảm thấy, được trong vòng tay chàng dù nửa khắc cũng đủ sung sướng. Từ đó về sau càng nhiều thiếu nữ Ma tộc đua nhau lẻn vào giường của chàng, hơn nữa, các nàng có muôn vàn mánh khóe mở kết giới chàng bố trí quanh tẩm cư của mình, cứ vậy, dần dà Đông Hoa cũng lười bố trí kết giới, coi hàng đêm trước khi đi ngủ đem mỹ nữ trong phòng ném ra ngoài là một môn tu hành, cuộc sống yên ổn như vậy được vài năm. Một đêm nọ, trên giường của chàng cuối cùng cũng không còn thiếu nữ nào nữa, nhưng thay vào đó lại là một thiếu niên mặt hoa da phấn, có hàng chân mày xanh như dãy núi phía xa, mắt thu ba sóng sánh, nhìn có vẻ mảnh mai yếu ớt. Lúc chàng ném thiếu niên ra cửa, chàng ta còn đang gào lên: “Trước khi ngươi ném các mỹ nhân, chẳng phải người đều bế họ ra tận cửa, tại sao ngươi lại lôi ta xềnh xệch vậy! Thế bất công! Bất công!”.

Chiết Nhan thong thả tự rót thêm rượu cho mình: “Đến nỗi về sau, khi Phụ Thần đến Bích Hải thỉnh mời Đông Hoa, chàng lập tức bằng lòng đi theo, có lẽ đó chính là nguyên do Đông Hoa chọn Thần đạo bỏ Ma đạo mà hậu thế lưu truyền. Các thiếu nữ Thần tộc dù sao vẫn hiểu lễ tiết hơn các thiếu nữ Ma tộc, nhưng chỉ khi Đông Hoa ẩn dật trong cung Thái Thần mới thực sự được yên tĩnh hoàn toàn”. Nói xong, Chiết Nhan lại giả bộ than thở: “Đường đường một anh hùng, lại buộc phải trốn tránh thế gian, chẳng trách có câu, nữ nhân như hổ, cả Mặc Uyên không thu nhận nữ đệ tử cũng có nguyên do tương tự. Năm đó, lúc Bạch Thiển bái Mặc Uyên làm sư phụ cũng giả dạng nam nhi. May là Bạch Thiển sáng suốt, không giẫm vào vết xe đổ của mấy nữ đệ tử trước đây của Mặc Uyên, nếu không hôm nay ta gặp Mặc Uyên cũng khó ăn khó nói”.

Tiết lộ xong bí mật đó, Chiết Nhan sảng khoái dặn nàng: “Ẩn tình này mặc dù là như thế, nhưng nạp quyển cho phu tử không thể viết như vậy”. Lại nhỏ nhẹ dạy nàng: “Phu tử chỉ cần trả lời đúng đáp án, nhưng đáp án luôn không đúng sự thật”.

Phượng Cửu nghe xong, thực ra lại mừng thầm, cảm thấy Đông Hoa không thích những mỹ nhân kia là rất hợp ý nàng, rồi lại thấy buồn, mình cũng ái mộ chàng, không biết chàng có thích mình không. Nàng cầm quyển vở lo lắng hỏi Chiết Nhan: “Chàng không thích nữ nhi, không thích nam nhi, vậy chàng không thích gì sao?”.

Chiết Nhan bị hỏi khó, trầm tư một lúc, nói: “Cái này, cần tự mình tổng kết, ta đoán, có lẽ Đông Hoa thích những con vật có lông mao trơn mượt”.

Phượng Cửu buồn bã hỏi: “Chàng thích khỉ ư?”. Lại buồn bã lẩm bẩm: “Người có chứng cớ gì?”.

Chiết Nhan ho một tiếng: “Lông mao trơn mượt là khỉ ư? Mô tả như vậy giống con khỉ à? Không phải khỉ đâu. Chẳng qua ta thấy ba con vật Đông Hoa từng cưỡi đều là loại lông mao, đoán có lẽ Đông Hoa thích những con vật lông mao”.

Phượng Cửu lập tức phấn chấn, chíp chíp chíp hiện nguyên hình, móng vuốt chi trước còn đang quặp cuốn vở: “Tiểu bối cũng là thú lông mao, người nói xem, chàng có thích không?” Lời vừa dứt, cảm thấy lỡ miệng, vội giơ móng xoa mũi: “Tiểu bối chỉ buột miệng hỏi vậy thôi, buột miệng hỏi vậy thôi!”.

Chiết Nhan hào hứng nói: “Đông Hoa cũng thích dũng mãnh một chút, mấy con vật kia đều là mãnh hổ, sư tử”.

Phượng Cửu lập tức nhe nanh, nói qua kẽ răng: “Trông tiểu bối thế này có uy dũng không?”.

Nhớ lại hồi đó, nàng vẫn còn rất ngây thơ, nếu tất cả dừng lại ở đó, cũng có thể xem là chuyện tốt, hôm nay nhớ lại toàn những chuyện thú vị thủa thiếu thời. Phật nói, tham, sân, si là tam độc trên đời, mọi phiền khổ, điều ác đều từ đó mà ra, thuyết pháp của Phật Tổ chung quy vẫn có lý.

Núi Phù Vũ trước mắt rung chuyển, cảnh tượng hỗn loạn, cách mấy bước bên ngoài, Yến Trì Ngộ khoác một lớp huyền quang sáng chói, cầm thanh kiếm đen tuyền, một mình vung kiếm tung hoành trong vầng huyền quang đó, có lẽ đã bị trúng thuật huyễn cảnh. Đông Hoa đứng trên đám mây, gió thổi áo chàng bay phấp phới, ngón tay bấm quyết hóa ra một cái lồng khổng lồ. Phượng Cửu biết, đó chính là lồng Thiên Cương. Trước đã từng nghe nói, còn nhìn thấy hình họa trong Cương mục khí cụ, là một khí cụ rất tốt, cho dù trời long đất lở, chỉ cần núp trong lồng Thiên Cương đó là bình an vô sự.

Lồng Thiên Cương lơ lửng bên chân Đông Hoa, Phượng Cửu nín thở nhìn chàng giơ tay, phủi lọn tóc vương trên vai nàng vừa bị gió từ đường kiếm phạt đứt. Phủi tóc ư? Phượng Cửu nhìn xuống, quả nhiên nàng đã trở lại hình hài con người từ lúc nào, gió quá mạnh chiếc váy lụa dài của nàng tung bay phần phật.

Phượng Cửu ngẩn người, vào những lúc quan trọng, đầu óc nàng lại không linh hoạt, kinh ngạc ngoảnh sang hỏi: “Chàng… chàng… chàng… đã biết ta là ai, thì ra còn biết cách ép ta trở lại nguyên hình?”. Vừa nói xong lại thấy tủi thân, lòng trào phẫn nộ: “Vậy sao không sớm nói ra?”.

Tà khí ù ù rít xung quanh, khiến nàng cũng bạo gan hơn, bất bình nói: “Đương nhiên ta vì thể diện nên mới giả làm chiếc khăn, nhưng chàng làm như vậy cũng không xứng bậc anh hùng, nhìn trò ngốc của ta, có phải chàng thấy rất nực cười?”.

Nàng nghĩ lại, cho dù nàng không phải là người chàng thích, nhưng chung quy vẫn là nữ nhi, cũng cần nâng niu, nhưng xem chừng chàng cũng chẳng coi nàng là nữ nhi vì thế nàng vừa tức vừa tủi thân: “Chàng đã biết ta là ai, sao còn trói ta ở nơi nguy hiểm này? Buộc ta trên chuôi kiếm, để xem ta khiếp sợ run rẩy thế nào, chàng vui lắm ư? Lần trước, ta nói chàng câu đó, cũng không phải cố tình”. Nỗi uất hận, phẫn nộ, xông lên mắt, làm mắt nàng đỏ hoe.

Đông Hoa chỉ nhìn nàng không nói gì, lát sau mới chậm rãi: “Xin lỗi!”. Phượng Cửu vốn nóng tính, vừa giận đùng đùng lại dịu ngay, thấy chàng xin lỗi, lòng cũng vợi đi nhiều, nhận ra vừa rồi mình hơi kích động, cảm thấy có chút bẽ bàng. Xoa xoa cái mũi lúng túng ho một tiếng: “Thôi bỏ đi, lần này…”. Đông Hoa bình tĩnh nói thêm một câu: “Đùa quá rồi”. Những lời độ lượng sắp nói từ Phượng Cửu tức thì mắc lại trong cổ, ở lại đó một lúc, hỏa khí từ cổ xộc lên đỉnh đầu, làm mắt nổ đom đóm vàng chóe, lời nói cũng lắp bắp. Trong ánh đom đóm vàng chóe đó, Đông Hoa giơ tay xoa ở đầu nàng, hình như mỉm cười: “Quả nhiên khiếp sợ như vậy, lộ cả tai ra kìa”. Phượng Cửu tưởng mình nghe nhầm, người này quanh năm Mặt lạnh, sao giờ lại mỉm cười nói đùa với nàng? Bỗng chùm hào quang phía sau bùng nổ như quả cầu lửa, dưới chân, sóng nước trồi lên như con rắn khổng lồ, còn chưa kịp hoàn hồn, cả người chợt nhẹ bỗng, đã bị Đông Hoa nhấc bổng đẩy vào trong lồng Thiên Cương, còn dặn với: “Cứ đợi trong đó đừng ra ngoài”. Phượng Cửu vốn muốn thò đầu ra xem rốt cuộc là chuyện gì, tay mới bám vào vách lồng, tìm cách thò đầu ra ngoài, hình như nghe thấy một câu rất nhỏ của Đông Hoa: “Ngoan nào”.

Phía trước cách không xa, Yến Trì Ngộ mặt xám ngắt cầm kiếm lao tới, xem chừng đã thoát khỏi thuật huyễn cảnh, hiểu ra vừa rồi bị Đông Hoa nhìn thấy mình trúng huyễn thuật, tức đến nỗi khuôn mặt vốn trắng trẻo nổi đầy gân xanh.

Yến Trì Ngộ đang đầy bụng nộ khí, nhìn thấy Phượng Cửu trong lồng Thiên Cương, hỏa khí càng bốc ngùn ngụt, nắm chặt kiếm Huyền Thiết theo lời đồn đại nặng đến vài trăm cân nhằm Đông Hoa bổ tới, còn nghiến răng thét to: “Khá khen đồ Mặt lạnh ngươi, khinh mỗ phải không, đánh nhau với mỗ còn mang theo gia quyến”.

Một người là tôn thần Thiên tộc, một người là thiếu quân Ma tộc, chiêu thức biến hóa càng nhanh, khiến đất trời biến sắc, lúc mưa xuân tầm tã, lúc sấm hạ rền vang, lúc tuyết đông ngập trời, bốn mùa lần lượt trôi qua giữa đường kiếm của hai người, ánh kiếm tựa pháo hoa bùng nổ sáng rực nửa ngọn Phù Vũ.

Phượng Cửu áp người vào vách lồng Thiên Cương, chiêm ngưỡng trận giao chiến đặc sắc, quả thực được mở rộng tầm mắt, từ đáy lòng thán phục. Bỗng trước mắt xuất hiện một màn sương mù, trong lớp sương mù mờ mịt, Yến Trì Ngộ vừa rồi còn ở thế hạ phong, không biết từ lúc nào bỗng xoay chuyển tình thế, trường kiếm lóe sáng, tìm được góc độ nguy hiểm, cơ hồ định đâm vào ngực Đông Hoa.

Phượng Cửu mắt trợn trừng, nhìn kiếm Huyền Thiết từ trắng chuyển sang hồng, nàng dụi mắt, đâm trúng thật sao? Kỳ lạ là, người từ từ lùi sau hai bước lại là Yến Trì Ngộ đau đớn rên rỉ. Sương mù tựa con rắn uốn éo, đột nhiên tản ra, đất trời sáng chói, chùm sáng bao quanh Yến Trì Ngộ bị Đông Hoa một chưởng hất ra, cơ thể Yến Trì Ngộ vùn vụt lao về phía nàng. Phượng Cửu né tránh một cách bản năng, đột nhiên cảm thấy sau lưng có một cường lực hút lấy nàng, không kịp dùng thuật định thân, nàng đã bị cuốn vào xoáy lốc. Nghe thấy Đông Hoa thét gọi càng lúc càng dữ, thất thanh khác hẳn giọng thường ngày, hướng vào vòng xoáy: “Tiểu Bạch”.

Phượng Cửu bị cuốn trong vòng xoáy ù ù, sửng sốt, hóa ra Đông Hoa gọi nàng như vậy, nàng cảm thấy gọi như vậy quả có phần đặc biệt. Hồi nhỏ, nàng thực sự vô cùng ngưỡng mộ cái tên của cô cô nàng: Bạch Thiển, hai chữ đơn giản mạnh mẽ, còn nàng tên nhất định phải ba chữ. Nhưng cho dù ba chữ, nàng cũng hy vọng nó phải thật kêu, giống tên một bằng hữu tốt của tiểu thúc nàng: Tô Mạch Diệp, gọi lên cảm thấy bội phần phong lưu. Nhìn vào mình, Bạch Phượng Cửu, gọi tắt hai chữ Phượng Cửu còn có thể coi là trong cái thú vị bình thường có cái tao nhã, trong cái tao nhã có cái thú vị, có vẻ giống tên của con nhà gia thế, nhưng lại thêm cái họ Bạch của gia tộc nàng, ở chỗ Thái Thượng Lão Quân có một vị tiên khá thân thiết với nàng, tên là Bạch Phượng Hoàn. Nàng luôn than thở về tên của mình, nên không ai dám gọi đầy đủ tên nàng trước mặt nàng, khiến tứ hải bát hoang đều nghĩ nàng họ Phượng tên Cửu. Nhưng Đông hoa lại gọi nàng là Tiểu Bạch, nàng thấy rất thích cách gọi này.

Đông Hoa không thể đuổi theo, Yến Trì Ngộ đã bị thương lại bị gió cuốn vào cơn xoáy cùng với Phượng Cửu. Nhìn kỹ phát hiện ra nàng, nắm vai nàng, tức giận hét to: “Mưu vừa rồi của mỗ, tại sao ngươi không mắc? Lẽ nào ngươi không có ảo giác, gã Mặt lạnh bị mỗ chém thổ huyết?”. Vừa hét lên như thế vừa ảo não: “Huyễn thuật của mỗ lẽ nào chưa đạt được cảnh giới đó? Mỗ còn mặt mũi nào sống trên đời? Mỗ hổ thẹn với danh xưng Ma quân này, chi bằng nhờ cơn lốc, cuốn mỗ xuống Âm Tào Địa Phủ, tìm đạo súc sinh đầu thai làm rùa, còn hơn sống hổ thẹn trên đời, mỗ xưa nay là ngươi dũng mãnh!”.

Phượng Cửu lòng run lên, thấy hắn ghé vào mình quá gần vả lại nàng không muốn cùng hắn đến Âm Tào Địa Phủ đầu thai làm huynh muội nhà rùa, bịt tai, nói vội: “Đã trúng tà thuật rồi, ta nhìn thấy hắn thổ huyết”.

Yến Trì Ngộ sững sờ, nộ khí bừng bừng: “Tiểu cô nương này, đã nhìn thấy người trong mộng của mình thổ huyết, lại không lao ra khỏi lồng Thiên Cương chịu họa thay hắn, ngươi lao ra khiến hắn luống cuống, mỗ sẽ thừa cơ ra tay, hắn trở tay không kịp, mỗ đã xem nhiều vở kịch đều diễn kế đó, trong ‘Mỹ nhân kế’ và ‘Tứ hải chinh chiến ba mươi sáu kế, đảm bảo chắc thắng’ cũng viết như vậy. Ngươi nói xem, tại sao ngươi không lao ra đúng lúc, khiến mỗ trúng chưởng của hắn?”.

Phượng Cửu bị Yến Trì Ngộ hét vang tai hoa mắt, đầu óc rối loạn trả lời: “Không lao ra đúng lúc là ta sai, nhưng ngươi…”. Hai người bị gió thổi chao đảo, “… nhưng người cũng sai, tại sao lại tùy tiện tin những trò vớ vẩn trong kịch? Còn nữa…”, lại lảo đảo, “… Mỹ nhân kế trong ‘Tứ hải chinh chiến ba sáu kế’ là do Ti Mệnh Tinh Quân viết ra, ông ta từ nhỏ đến lớn đánh nhau chưa bao giờ thắng, báo cho ngươi biết, đừng có tin!”.

Vừa dứt lời, cả hai đều rơi xuống vực.

Rơi xuống mỏm đá nhô ra trên vách vực thẳm một lúc lâu, Phượng Cửu mới thấy những lời nàng nói với Yến Trì Ngộ lúc trước có chỗ không đúng.

Về lý, nàng với Đông Hoa nên cùng một phe. Lúc đó nàng không xông ra chịu họa thay Đông Hoa vì cảm thấy, chỉ một mình Yến Trì Ngộ mảnh mai cùng với thanh Huyền Thiết kiếm mảnh mai, nếu chém nàng còn có thể chết người, nhưng chém vào Đông Hoa, cùng lắm chỉ làm chàng sượt da, không có vấn đề gì. Tu luyện của hai người lại khác nhau, khả năng chịu đả thương của cơ thể cũng khác, trong chuyện này nàng đã nghĩ như vậy, nhưng thâm tâm, nàng thực lòng quan tâm Đông Hoa. Mặc dù bị chàng trêu chọc, nhưng dù gì chàng cũng rất nghĩa khí nhường lồng Thiên Cương cho nàng, nàng mới được bình an, cho nên nàng cũng không để bụng, không có ý trả thù. Nhưng, suy nghĩ đó của nàng Đông Hoa làm sao hiểu được, hẳn là trách nàng thiếu nghĩa khí. Sau đó đầu óc rối loạn vì những lời la hét của Yến Trì Ngộ, mất hết minh mẫn, lại còn xin lỗi chàng ta, lại còn thực lòng trao đổi với chàng ta một số suy nghĩ về binh pháp. Phượng Cửu cho rằng, Đông Hoa chắc là có gì hiểu lầm. Hèn nào mới trước đó một khắc miệng còn da diết gọi nàng là Tiểu Bạch, một khắc sau nàng rơi xuống vực thì chẳng thấy bóng dáng. Thử nhìn nhận từ góc độ khác, nếu nàng là Đông Hoa, có những hiểu lầm về nàng như vậy, có khi không chỉ để mặc nàng rơi xuống vực, mà trước đó đã chém nàng một nhát cho hả giận. Vừa nghĩ Phượng Cửu vừa thở than, lòng ảo não. Có một chiến hữu như nàng, hẳn là Đông Hoa cảm thấy đen đủi đến tám đời, chắc giận nàng thật rồi.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 13-7-2014 17:44:04 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5

5.1


Cốc Phạn Âm là một sơn cốc nổi tiếng trên núi Phù Vũ, sinh sống trong đó là bộ tộc Tỷ Dực Điểu cực quý hiếm của tứ hải bát hoang.

Truyền thuyết kể rằng, bộ tộc Tỷ Dực Điểu từ khi được hóa sinh đã yếu nhược, các đời sau càng yếu dần, chỉ cần nhiễm chút độc khí của hồng trần là sinh bệnh. Vì vậy, lão tổ tông nhiều năm trước của họ đã mất bao công sức truy tầm, cuối cùng tìm được cốc Phạm Âm bèn dẫn cả bộ tộc vào đây sinh sống.

Để phòng hồng trần bên ngoài làm vẩn đục thanh tu của bộ tộc, cốc Phạm Âm một giáp mới mở cửa một lần, mỗi lần cũng chỉ ngắn ngủi thoáng chốc, hé một khe, để cho chư tiên Cửu Trùng Thiên đi vào cốc thực hiện những công vụ ngoại giao.

Các vị tiên sứ trên thiên giới thay nhau đến cốc Phạm Âm làm việc, khi lần đầu vào cốc, bản tính đầu tiên cần tu luyện chính là làm sao nắm chuẩn thời khắc khai cốc, lọt vào chỉ qua một khe nhỏ hẹp. Vị tiên sứ có bản lĩnh nhất cũng phải luyện đúng ba ngàn năm.

Phượng Cửu cho rằng Yến Trì Ngộ sao lại lao đến đúng lúc Phạm Âm khai cốc, gió bên dưới sao có thể thổi họ vào đúng lúc thông đạo chỉ bằng một khe hở trên vách đá. Khe hở trên vách đá hẹp như vậy sao có thể cùng lúc cả hai người lọt qua? Tất cả chuyện này chung quy là do duyên phận thế nào…

Phượng Cửu nhìn quanh tìm một tảng đá dài sạch sẽ ngồi xuống, thấy Yến Trì Ngộ đang ôm kiếm Huyền Thiết quỳ bên cạnh mỏm đá bò đầy dây leo, xoay lưng lại phía nàng.

Nàng cảm thấy cái lưng đó hình như đang phẫn nộ.

Vừa rồi lúc rơi xuống Phượng Cửu đè lên người Yến Trì Ngộ, vực cao ngàn trượng, bên dưới toàn lát đá trứng ngỗng khiến chàng ta đau co dúm người nhưng gan góc không rên một tiếng. Khi Phượng Cửu từ trên người chàng ta bò dậy, Yến Trì Ngộ lại co rúm lần nữa, mồ hôi lạnh toát trên trán vẫn cố nhịn không rên. Phượng Cửu suy nghĩ rồi nói một câu cảm ơn, cảm thấy chàng Yến mặc dù có khuôn mặt rất thiếu nữ nhưng lại có chí khí của bậc nam tử, hành động này tuy chưa được coi là cứu mạng nàng, nhưng cũng khiến nàng đỡ đau hơn nhiều. Chàng Yến là người tốt. Nghĩ như vậy, ánh mắt nhìn chàng ta tự nhiên thân thiện lên nhiều, cũng không gọi chàng là họ Yến nữa.

Yến Trì Ngộ dáng mảnh khảnh quỳ bên cạnh mỏm đá, mỗi khi gió thổi, nhìn thân hình yếu ớt trong xiêm áo mỏng manh bay phần phật, không khỏi khiến người ta động lòng.

Phượng Cửu dịu giọng gọi: “Tiểu Yến!”

Tiểu Yến ngoái đầu, cặp mày lá liễu nhướn cao, liếc nàng một cái, đôi mắt sâu lại bừng bừng tức giận: “Nếu còn gọi ta la Tiểu Yến lần nữa, ta sẽ cắt lưỡi ngươi uống rượu.”

Phượng Cửu lại thấy, Tiểu Yến càng như vậy mẫu tính trong nàng xưa nay chưa từng bộc lộ lại trỗi dậy cơ hồ được khơi dậy, lòng trở nên rất mực dịu dàng, vẫn nhẹ giọng nói: “Vậy phải gọi thế nào?”

Tiểu Yến nghĩ một lát, lại ngoảnh đi tiếp tục quỳ nhìn xuống dưới, giọng hầm hầm: “Người phàm gọi những hảo hán lưng hổ eo gấu như thế nào ngươi gọi ta như thế.”

Phượng Cửu nhìn tấm lưng gầy yếu không đủ một chét tay đang run run và những ngón tay như búp măng nhô lên mặt nước, nói: “Tiểu Yến tráng sĩ.”

Tiểu Yến tráng sĩ dường như rất hài lòng vì câu gọi tráng sĩ, giận giữ lúc trước đã tiêu tan, giọng ôn hoà hiếm thấy: “Muốn nói gì, nói đi”.

Phượng Cửu phấn chấn ghé lại gần: “Thực ra muội thấy Tiểu Yến tráng sĩ là bậc anh hùng trượng nghĩa, muội có một nghi vấn muốn thỉnh giáo.” Lại ghé gần hơn: “Năm xưa lừa Đông Hoa Đế Quân vào Thập ác liên hoa cảnh có đúng là do tráng sĩ làm? Trước đây muội cũng tin nhưng hôm nay lại thấy, nếu làm vậy đúng là có phần bỉ ổi, không giống cách hành xử của bậc anh hùng trượng nghĩa như tráng sĩ”.

Anh hùng trượng nghĩa Tiểu Yến tráng sĩ im lặng, mặt thoáng ửng hồng, trông như xấu hổ lát sau mới nói: “Phải…phải, mỗ làm đấy, thế thì sao?”.

Phượng Cửu vô cùng ý tứ tỏ vẻ kinh ngạc.

Tiểu Yến tráng sĩ xấu hổ, bực bội: “Gã Mặt lạnh không phải người tốt, ngươi theo hắn cũng chẳng tốt đẹp gì!”

Phượng Cửu lại ý tứ tỏ vẻ kinh ngạc: “Vậy tráng sĩ nói thử xem”.

Theo lời kể của Tiểu Yến tráng sĩ, nhốt Đông Hoa vào Thập ác liên hoa cảnh hoàn toàn là nhầm lẫn, ông nội chàng năm xưa cũng vẫn đường hoàng chính trực như bây giờ, khi giao đấu với ai luôn đường hoàng, quang minh chính đại.

Năm xưa tráng sĩ một lòng ngưỡng mộ công chúa Tô Hoành, nghe nói ca ca của nàng có ý gả nàng cho đám khác, lòng vô cùng lo lắng. Ma tộc của chàng xưa nay luôn trọng võ, chàng cho rằng nếu đánh thắng Đông Hoa, Cơ Hoành sẽ nhìn chàng bằng con mắt khác, khi đã lọt được vào mắt xanh của công chúa, sẽ đến nói chuyện với ca ca nàng, hôn sự có cơ thành công.

Chàng vận hết tài học nửa đời viết bức chiến thư dài ba tấc rộng ba tấc nhờ mẫu thân của Bắc Đẩu Bội Tinh là chỗ quen biết để chuyển cho Đông Hoa, bảy ngày sau nhận được hồi âm, Đông Hoa trả lời hiện vườn chè ở cung Thái Thần của chàng đang vào mùa thu hoạch, rất bận, tạm thời không chấp nhận chiến thư.

Nhận được phúc đáp một mặt Yến Trì Ngộ cảm thấy lí do Đông Hoa đưa ra cũng chính đáng, vào vụ thu hoạch chè đối với những văn nhân nho nhã như Đông Hoa hẳn là đại sự, mặt khác chàng lại không cam lòng để chuyện kia làm lỡ trận quyết đấu của chàng với Đông Hoa, vậy là chàng bí mật lẻn vào cung Thái Thần, vất vả một đêm hái sạch vườn chè đang đợi thu hoạch, nhét vào bao mang đến cho Đông Hoa. Một việc tốt như vậy lẽ ra Đông Hoa nên cảm động, dành ra vài canh giờ giao đấu với chàng. Vậy mà Đông Hoa không hành sử theo lẽ thường, điềm nhiên nhận bao chè, mặt bình thản như không, cảm ơn một câu, lại thong dong nói, hiện vẫn còn mấy loại cây, loại hoa quý đang cần trồng. Chàng tưởng Đông Hoa cố tình thử thách mình, liền hào hiệp nhận luôn, ra đến đồng mới biết, đâu có phải vài cây mà là ba bốn chục cây giống để ở đầu bờ. Chàng lại vất vả hai ngày, lại trồng hết ba, bốn chục giống cây, giống hoa kia, trở về hồi báo công việc đã hoàn tất. Đông Hoa quả thật lắm việc, lại nói còn hai mẫu ao sen cần sục bùn. Chàng sục bùn ao sen lại nghe nói cung Thái Thần hai năm không tu sửa, cần đảo lại mái, đảo mái xong, nửa vườn hạnh trước sân lại đang chín rũ cần hái quả…

Tiểu Yến tráng sĩ bận rộn liên miên, Đông Hoa lại cầm cuốn kinh Phật ngồi sưởi nắng, ung dung câu cá dưới giàn hoa Tử Đằng, các vị Tiên hầu trong cung cũng thư nhàn, ung dung như chàng, cả cung Thái Thần đều thư nhàn. Để có thể giao đấu một trận với Đông Hoa, Tiểu Yến tráng sĩ nhẫn nhịn thu xếp gọn gàng cả cung Thái Thần, cuối cùng với công lao như thế nhắc Đông Hoa về trận đấu, nhắc Đông Hoa giữ lời hứa. Đông Hoa tay cầm cuốn kinh Phật, cũng không ngẩng đầu: “Ta hứa với ngươi bao giờ?”

Tiểu Yến hỏ: “Chính miệng ngài nói, nếu mỗ giúp ngài làm việc nọ, việc kia, ngài sẽ suy nghĩ đến chuyện quyết đấu với mỗ”.

Đông Hoa thong thả ngẩng đầu: “Ồ, ta suy nghĩ rồi, không đấu nữa.”

Tiểu Yến ngây người, cuối cùng cũng hiểu ra, Đông Hoa lừa chàng. Trước khi lọt vào Cửu Trùng Thiên, hai thủ hạ của chàng đã ân cần khuyên can chàng, rằng Đông Hoa mặc dù ở hải nội có tiếng nghiêm chính trọng nghĩa nhưng tính tình kì quái, đế chủ bản tính thật thà, e là sẽ chịu thiệt thòi, lúc đó chàng còn cho rằng hai kẻ đó nói bừa. Bây giờ mới thấy quả tình chàng đã bị lừa từ lâu.

Cơn giận xông lên đầu, chàng ngẫm nghĩ nhất định phải cho Đông Hoa bài học. Vậy là nửa đêm, chàng lẻn vào bảy tầng địa cung lấy ra Tỏa hồn ngọc được Đông Hoa cất giấu ép chàng ta đến núi Phù Vũ giao đấu. Bích Tích tỏa hồn ngọc chính là phong ấn Thập ác liên hoa cảnh quy tụ mọi ám muội của thế giới, bên trong giam cầm toàn những ác yêu không thể giáo hoá, nếu bị thất tán sẽ can hệ đến bình an của cả tứ hải bát hoang.

Vì miếng bảo thạch đó, quả nhiên Đông Hoa đuổi theo chàng đến tận núi Phù Vũ. Trên đỉnh Phù Vũ diễn ra một trận kịch chiến, Đông Hoa chiêu chiêu lợi hại, Yến Trì Ngộ cảm thấy nguy cơ thất bại, cho rằng nếu mấy ngày trước không vất vả làm bao nhiêu công việc nặng nhọc cho Đông Hoa mình đâu đến nỗi tiêu hao thể lực như vậy, lòng giận bừng bừng liền mở phong ấn miếng bảo ngọc kia, nhốt Đông Hoa vào Liên hoa cảnh trong đó…

Lúc này câu chuyện mới thực sự bắt đầu.

Kể xong, Tiểu Yến tráng sĩ than một tiếng rằng sau chuyện đó thanh danh của chàng bị một vết nhơ, chán nản vận ra một câu đầy cay đắng mà những kẻ đọc sách thường nói: “Tất cả, kì thực chỉ là ý trời”.

Phượng Cửu nén nhịn đã lâu, bật cười “khạch” một tiếng, thấy sắc mặt Tiểu Yến tráng sĩ không ổn, vội trở lại bình thường nói: “Quả thực ông ta đã rất có lỗi với huynh, huynh kể tiếp đi, kể tiếp đi”.

Yến Trì Ngộ ôm cây kiếm ảo não một hồi, lại ngẩng đầu, cười khan hai tiếng, hừ hừ nói: “Kì thực tới giờ, thực tình mỗ cũng không hận hắn bao nhiêu, hắn cũng đã bị báo ứng, nghe nói cách báo thù tốt nhất là thương xót tù nhân, mỗ bây giờ, quả tình rất thương xót hắn”.

Phượng Cửu đang chăm chú lắng nghe, chàng Yến dứt lời, nàng cố giữ sắc mặt bình thường, chỉ một thoáng, vô cùng kín đáo khẽ nghiêng người về phía Yến Trì Ngộ.

Cặp mày lã liễu của Tiểu Yến tráng sĩ khẽ nhướn cao: “Tứ hải bát hoang đều truyền tụng Đông Hoa là vị tiên vô dục vô cầu, nhưng mỗ biết hắn thật tình động lòng trước một người, ngươi có muốn biết người ấy là ai không?”

Phượng Cửu nặt không biến sắc đáp ngay: “Cơ Hoành”.

Tiểu Yến nhảy dựng lên: “Sao ngươi biết?”

Phượng Cửu thầm cắn ngón tay nghĩ: “Khốn thật, đúng là Cơ Hoành”. Sắc mặt vẫn thản nhiên: “Huynh nói tiếp đi, những điều muội biết chưa hẳn là những điều huynh biết.”

Những gì Tiểu Yến nói trước đây Phượng Cửu cũng đoán ra vài phần, quả nhiên Đông Hoa động lòng với Cơ Hoành là do nàng ta chăm sóc chàng lúc hai người bị nhốt trong Thập ác liên hoa cảnh. Phần đầu câu chuyện này thực ra nàng biết rõ hơn Yến Trì Ngộ bởi vì khi Cơ Hoành chăm sóc chàng ở Thập ác liên hoa cảnh, nàng ở ngay bên chứng kiến. Có điều hồi đó, nàng là con tiểu hồ ly không nói được.

Ý nàng vốn không phải biến thành hồ ly trong thời khắc quan trọng đó, nhưng bởi nàng đã có khế ước sinh tử với người khác, chuyện này nói ra thì rất dài.

Hồi đó, khi tin Đông Hoa mang kiếm đến giao đấu ở núi Phù Vũ đến tai nàng, nàng đang cầm chổi quét sân trước cung Thái Thần, lập tức quăng chổi, Phượng Cửu vội vã quay về Nam Hoang, muốn biết rốt cuộc là xảy ra chuyện gì. Lao ra khỏi Thiên môn mới sực nhớ không biết đường đi, may có Ti Mệnh đi qua giúp đỡ, cho nàng mượn bảo bối vừa có thể dẫn đường, vừa có thể cưỡi đi rất nhanh. Bảo bối lập tức đưa nàng đến bầu trời nơi xảy ra cuộc đấu.

Lúc nàng đến, trận đấu ở núi Phù Vũ đã kéo đèn thu binh, chỉ còn cảnh hoang tàn dấu vết của trận kịch chiến, trong vùng đất ngàn dặm đen xì bốc khói, ở giữa một đám đá vụn và bùn đất loé lên tia sáng, trong đám bùn hiện lên một ngọn ngọc sơn cao chừng một trượng. Hai đối thủ lẽ ra đang giao chiến ở đây lại không thấy tăm hơi, chỉ thấy một người đàn ông thân phận khó đoán giữa trời nắng chang chang lại khoác một tấm áo choàng da báo đứng giữa đám mây, dưới ánh mặt trời thiêu đốt, trong tay còn cầm một lò sưởi nhỏ, nhìn Phượng Cửu hỏi: “Ngươi đến cứu người ư?”. Phượng Cửu nhìn ông ta cảm thấy rất quen.

Ngọc sơn trong đám bùn lầy chính là Tỏa hồn ngọc sau khi đã biến hoá. Đông Hoa bị nhốt trong đó. Do bên trong giam giữ một vị tiên nên Yến Trì Ngộ không mang đi được đành vứt lại, phấn khởi mở đường quay về. Người khoác áo da bó chính là Nhiếp Sơ Dần, quân vương của Huyền chi thuộc Ma tộc ngang qua, gặp cảnh này dừng lại xem có thể kiếm chác được gì.

Tỏa hồn ngọc vào thì dễ ra lại khó vô chừng. Khi Đông Hoa tạo ra nó đã chủ tâm như vậy, ví dụ như nếu bên trong giam giữ một vị tiên thì không thể nhúc nhích nửa phân. Nhiếp Sơ Dần nhìn xuống, thấy không làm gì được đang định buông tay bỏ đi, đúng lúc gặp Phượng Cửu, Bạch Phượng Cửu, hồ ly đỏ chín đuôi vừa tức tốc đến.

Nhiếp Sơ Dần bình sinh chỉ có một hứng thú, chuyên thu thập những bộ lông đẹp trơn mượt, bóng bẩy, trong nhà ông ta thê thiếp hàng đàn, tất cả nguyên thân đều là những con thú có bộ lông như thế. Bình thường thần tiên gặp nhau, về lý không nên khai nhãn pháp nhìn nguyên thân của người khác, nhưng Nhiếp Sơ Dần bất chấp. Nhãn pháp của ông ta đã nhìn thấu Phượng Cửu, mặc dù vẫn chưa đến độ mãn khai, nhưng đã là một dung nhan tuyệt thế, nhãn pháp của ông ta đã nhìn thấy nguyên thân của nàng, hồ ly đỏ với chín cái đuôi đỏ chói phong lệ phía sau.

Ông ta giơ tay về phía Phượng Cửu: “Ngươi là thần tiên? Là đồng đảng của Đông Hoa? Đến cứu ông ta?”. Thấy nàng gật đầu ông ta bật cười: “Đông Hoa đã bị Yến Trị Ngộ Quân nhốt trong Thập ác liên hoa cảnh dưới kia, muốn vào cứu ông ta dựa vào tu luyện của ngươi thì không thể”. Nói đến đây hơi dừng lại cười: “Ngươi có bằng lòng trao đổi với bản quân, đem bộ lông đỏ và chín cái đuôi của ngươi cho bản quân mượn chơi ba năm, bản quân sẽ cho ngươi mượn một nửa sức mạnh của mình cứu ông ta. Ý ngươi thế nào?”

Tình thế có phần nguy cấp, Phượng Cửu vừa nghe nói Đông Hoa bị nhốt trong Thập ác liên hoa cảnh hồn vía đã bay lên mây. Đợi khi hồn vía bay về, chỉ nghe thấy Nhiếp Sơ Dần nói cho nàng mượn một nửa sức mạnh để cứư Đông Hoa. Trên đời lại có người tốt như vậy, nàng nghĩ, mặc dù lối phục trang của ông ta quả khiến người ngoài phát hoảng.

Đương nhiên nàng bằng lòng, vô cùng cảm kích gật đầu, gật liền mấy cái. Theo luật lệ Ma tộc, gật đầu như vậy nghĩa là khế ước đã thành. Một đường bạch quang vừa loé, giữa lúc không hiểu tại sao bộ lông đỏ và chín cái đuôi của mình đã bị Nhiếp Sơ Dần cướp mất, nàng mới hiểu câu vừa rồi của hắn nàng đã nghe thiếu một nửa quan trọng. Mất chín cái đuôi thực ra cũng chẳng sao, nhiều nhất là phần sau cụt ngủn không đẹp, nhưng mất bộ lông là mất dung mạo, mất tiếng nói, mất khả năng biến hóa. May gã họ Nhiếp kia vẫn còn chút lương tâm, đổi cho nàng bộ lông hồ ly màu đỏ bình thường để nàng khoác tạm lên người. Không còn thời gian cãi lý với hắn, phải đi cứu Đông Hoa đã.

Bất luận lúc nào nhớ lại, Phượng Cửu đều cảm thấy năm xưa khi nàng xuất hiện trong Thập ác liên hoa cảnh đều vô cùng hoành tráng.

Lúc đó, một vầng ngọc quang tỏa trên đầu nàng, dưới chân giẫm lên hai đám mây, nhận được một nửa sức mạnh của Nhiếp Sơ Dần, cảm thấy gió từ cơ thể mạnh hơn mấy trăm lần, bay vào Thập ác liên hoa cảnh, ngửa cổ là nổi lên một trận gió lớn, há miệng là thổi ra chuỗi cầu lửa, hắt hơi là sấm rền chớp giật, cả người toàn hung khí.

Nàng cảm thấy như thế thật dũng mãnh, thật oai hùng. Nhưng lúc đó Đông Hoa không chú ý tới vẻ dũng mãnh, oai hùng của nàng, bao nhiêu năm không hề hỏi đến.

Lúc này thế giới vô biên trong Liên hoa cảnh đã bị Đông Hoa tạo ra kết giới, phía đầu kết giới bên này trùng trùng bóng tà yêu. Đầu kia không biết Đông Hoa sử dụng phép thuật gì, kiếm Thương Hà cắm ở cách chàng hai trượng, hóa ra bảy mươi hai bóng kiếm xếp thành hai hàng, hai hàng bóng kiếm này không biết sao lại hóa thành từng dãy cây sa la, từ những vòng rễ lớn đâm ra từng khóm bồ đề vãng sinh, trong chớp mắt nở hoa, chớp mắt đã tàn hóa thành trận mưa hoa rợp trời. Cánh hoa tán trên không kết thành một tòa sen bạc tám trụ lung linh. Tòa sen xoay chuyển, Phật pháp vĩnh sinh, từ tòa sen của Phật pháp Vĩnh sinh đột nhiên tỏa ra vạn đạo kim quang, xuyên qua kết giới chiếu thẳng vào đám yêu tà đang giãy giụa, đám yêu phía xa chưa nhận được kim quang hóa độ, lập tức quỳ xuống quy y. Tiên thuật thực thi kéo dài như vậy thực ra chỉ trong một niệm, chưa bằng thời gian hạt cát trên tay rơi xuống đất.

Nhiều năm sau, Phượng Cửu mới hiểu pháp thuật vi diệu phức tạp này, đó là đại hành phổ độ, dùng Phật quang gia trì phổ độ chúng sinh, thế gian chỉ có ba người học được. Hồi đó nàng không biết nó hiếm hoi như vậy, chỉ thấy xúc động bởi vẻ tráng lệ của nó, nếu thanh kiếm Đào Chú của nàng cũng biến hóa được như vậy, có thể biến hóa ra bảy mươi hai chiếc chổi, giúp nàng quét thật nhanh tất cả sân vườn thì hay biết mấy.

Ba người học được pháp thuật này, một là Phật Đà Phạm Cảnh Tây Thiên, hai là Mạc Uyên ở Côn Lôn, ba là Đông Hoa trước mặt nàng. Hai vị trước quả là một phiến bồ đề tâm, khi thực thi đều phổ độ thực sự. Còn Đông Hoa thuần tuý do bị ép phải làm. Muốn thoát khỏi Thập ác liên hoa cảnh chỉ có phá hủy thế giới mà Tỏa hồn ngọc vây hãm, nếu không quét hết tà yêu bị nhốt trong đó, khi phá hủy thế giới bên trong thoát ra tất mang theo tà yêu đó ra theo. Nhưng với phong cách vốn dĩ của chàng, một nhát kiếm tiêu diệt hết, thì ngàn vạn tà yêu bị diệt sẽ tạo thành oán niệm vang khắp tứ hải bát hoang, bị kẻ đó dã tâm lợi dụng, rất có thể khiến thiên hạ đảo điên một phen. Vì lẽ đó, Đông Hoa đành tốn nhiều tâm lực, những tà yêu kia có thể hóa độ được thì hóa độ, không thể độ hóa thì diệt không tha. Nếu có oán niệm cũng không quá nhiều, không thể trở thành mối họa. Không ngờ người hóa độ đó là một lực khí sống, tà yêu lại ngàn vạn, Phật quang chiếu hết một lượt, đã tiêu hao tám phần linh lực của Đông Hoa, nhất thời sức lực chưa kịp hồi phục, thì bên ngoài kết giới lại có mấy ác yêu, ma đầu không thể hóa độ xông tới.

Chẳng mấy khi thấy Đông Hoa rơi vào khốn khó, Phượng Cửu lập tức nắm cơ hội, hoan hỉ nhảy lên võ đài lịch sử. Đứng trên đại võ đài lịch sử, nàng hào khí hừng hực. Bởi thứ nhất, hôm nay đã khác ngày xưa, nàng mượn nửa phần sức mạnh của Nhiếp Sơ Dần, đã là một hồng hồ ly uy vũ thực sự. Hai là, Đông Hoa bên dưới đang nhìn, chẳng mấy khi nàng có dịp thể hiện trước mặt chàng, không phong quang đường hoàng e là uổng công bị Nhiếp Sơ Dần lừa một phen.

Nàng vượt gió, dũng mãnh nhảy khỏi kết giới của Đông Hoa, bọn tà yêu vừa rồi Phật quang không thể hóa độ, chưa kịp trở tay, trên đầu đã xuất hiện chuỗi cầu lửa và tia sét, cầu lửa lăn, sét đánh đều rất chuẩn, bách phát bách trúng. Sau một phen kịch chiến, mấy đại ác yêu vốn quen hoành hành vô đạo, lại bị nàng dễ dàng diệt gọn.

Đương nhiên nàng cũng bị thương, đều là vô tình, một là khi phun lửa, do pháp thuật không thành thạo, làm sém một mảng lông bụng, da bị bỏng mấy chỗ. Hai là, khi đánh sét, cũng không thật thành thạo, tia sét đánh cả vào cái chi trước quên không rút lại, chi trước bị thương khá nặng, sém da nát thịt…

Thần kinh nàng hơi thô, lúc đó không thấy đau mấy, diệt xong yêu quái lòng vừa nhẹ nhõm, đột nhiên thấy đau xót tận xương, cơn đau chạy dọc sống lưng lan vào phủ tạng, người vừa run lập tức rơi thẳng từ đám mây xuống, giữa đường đau quá ngất đi, cũng không biết lúc rơi xuống, lại rơi trúng lòng Đông Hoa đang ngẩng đầu nhìn nàng.

Nhiều năm đã qua, nhưng Phượng Cửu vẫn nhớ, lúc đó nàng chưa tỉnh hẳn.

Nàng đang mơ.

Giấc mơ này rất đạo nghĩa giống như Phật Tổ xả một phần thân thể mình để cứu con hổ đói.

Trong giấc mơ, dưới ánh mắt trời thiêu đốt, khói bụi mù trời, Bích Hải linh thiêng đã cạn khô biến thành vạn dặm nương dâu.

Giữa nương dâu lộ ra một chiếc giường đá, Đông Hoa nằm trên đó, cơ hồ mấy ngày không được ăn cơm, đói khát chỉ còn thở thoi thóp.

Nàng nhìn chàng, lòng ngàn vạn xót xa, không biết tại sao lại nói được, chìa chi trước cho chàng: “Hay là chàng gặm tạm móng của thiếp cho đỡ đói, đã nướng rồi, vẫn còn chảy mỡ đây này, chàng xem”. Đông Hoa đón lấy chi trước của nàng, ngẫm nghĩ một hồi quả nhiên nghe lời, cắn một miếng. Nàng thấy hơi đau, nhưng lòng lâng lâng ngọt ngào. Hỏi Đông Hoa: “Thiếp cố ý nướng sao cho trong mềm, ngoài xém, có phải thịt rất thơm rất ngọt?”.

Nàng mở mắt lọt vào tầm nhìn quả nhiên là Đông Hoa, nhưng nắm chi trước đầy thương tích của nàng lại là một mỹ nhân xiêm áo trắng muốt, nàng chưa từng gặp. Mỹ nhân đang dùng dải lụa mỏng, chỉ rộng bằng đầu ngón tay, mười ngón thon dài thoăn thoắt như máu băng chi trước của nàng bị thương trong cuộc chiến uy phong vừa rồi.

Phượng Cửu về sau mới biết mỹ nhân quốc sắc thiên hương này chính là nàng Cơ Hoành nổi tiếng, bởi nghe nói mình chính là hồng nhan gây hoạ khiến Yến Trì Ngộ chạy đến núi Phù Vũ tìm Đông Hoa quyết đấu, nên vội vàng lặn lội đến núi Phù Vũ khuyên can hai người, ngăn chặn một cuộc huyết chiến, nhưng trên đường lại rẽ nhầm lối, không may rơi vào Thập ác liên hoa cảnh này, gặp Đông Hoa đang bị giam cầm.

Nhiều năm sau, khi chuyện cũ đã qua, Phượng Cửu có thể bình tâm, khách quan quan suy ngẫm, mới cảm thấy, Cơ Hoành quả thật có duyên với Đông Hoa hơn mình. Truớc đây nàng không nghĩ đến chuyện này, lúc đó nàng nằm mơ trong lòng Cơ Hoành, đáy mắt in bóng Đông Hoa ngồi cách đó hai, ba bước, lòng đã rộn ràng xúc động, làm gì còn tâm trí suy nghĩ việc của người khác.

Lúc đó là hai ngàn năm sau ngày Đông Hoa cứu nàng ở núi Cẩm Nghiêu.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 13-7-2014 17:45:22 | Chỉ xem của tác giả
5.2

Hai ngàn năm nay, lần gần gũi nhất của họ là khi Đông Hoa câu cá ở bờ ao trước sân, nàng quét dọn ở bờ ao bên kia. Một lần Đông Hoa chơi cờ bên hoa sen, nàng quét dọn ở bờ ao đối diện, lại một lần Đông Hoa nhàn tản tưới chè trong vườn bằng chiếc bình tưới bằng gốm rất đẹp, nàng quét dọn ở mép vườn phía kia… mặc dù, bao nhiêu năm nàng chưa từng nhìn gần Đông Hoa, nhưng hình bóng chàng in dấu vào tâm khảm đã lâu, còn đậm nét hơn cả “Vãng thế kinh” mà tiên sinh dạy hồi mới đi học, một ngày đọc ba lần.

Chàng không thay đổi nhiều, từ xưa đến giờ vẫn tuấn mỹ uy nghi, nhưng mất một chút tiên lực, dung mạo có phần uể oải như vừa ngủ dậy. Chàng lơ đãng ngồi một bên, tay chống đầu nhìn tay Cơ Hòanh thoăn thoắt qua lại giữa màu lông hồ ly đỏ như lửa của nàng, thần thái an nhiên có phần chăm chú.

Tay Cơ Hoành quả thực khéo léo thuần thục, nhưng Ma tộc phàm là mỹ nhân đều thích để móng tay dài, da thịt Phượng Cửu mềm, không chịu được những móng tay thỉnh thoảng đâm vào, nàng nhăn nhó suýt xoa kêu đau. Đông Hoa mặc dù đánh trận nhiều, kinh qua không biết bao nhiêu chiến sự, khi tiên lực vẫn còn yếu, thỉnh thoảng cũng bị thương nhưng chưa từng động tay vào những việc tỉ mẩn băng bó như vậy, thấy nàng kêu đau chàng bèn lựa mấy dải băng lụa, chấm nước mưa đặt lên tay thử, nói vắn tắt với Cơ Hoành: “Để ta!”. Phượng Cửu không hề biết chàng không có kinh nghiệm băng bó, rơm rớm nước mắt nhìn chàng, còn tủi thân sụt sịt mấy cái.

Khi Liên hoa cảnh vào đêm, những làn sương ấm lập là bay lên, bảng vảng lượn quanh kết giới, giữa màn sương khói, kết giới dường như nhẹ hơn.

Dải lụa trắng thấm hơi sương buộc vào chi trước và chỗ rốn bị thương của nàng. Thần thái Đông Hoa vẫn một vẻ lãnh đạm thờ ơ, ngón tay lại dịu dàng, êm nhẹ hơn Cơ Hoành rất nhiều. Nàng cảm thấy đỡ đau hơn, lát sau đã băng xong. Lúc băng cho nàng, trông chàng rất chăm chú nhẫn nại như vậy, cảm thấy hình ảnh đó đẹp vô cùng.

Đông Hoa buộc xong nút cuối cùng, Cơ Hoành ghé lại nói: “Đế Quân, chàng…băng như vậy, nó làm sao đi được?”.

Phượng Cửu giơ chi trước của mình bị băng như quả bí đao, mắt chớp chớp, lớp băng thấm nước mưa, chưa qua mười ngày nửa tháng là không khô được, cảm thấy chân mình ướt nhớp nháp nhoi nhói lạnh, không đau như lúc trước. Nhưng chỉ có ba chân nếu đứng lâu đương nhiên không vững, vừa cúi người đã may mắn được Đông Hoa nhẹ nhàng kéo vào lòng, nắm lấy cái chân vừa băng của nàng, chìa trước mặt: “Thổi ra một quả cầu lửa xem nào”.

Phượng Cửu không hiểu lắm dụng ý của chàng, nhưng vẫn phun một quả, quả cầu lửa gặp lớp băng ở chân nàng “xèo” một tiếng, tắt phụt. Đông Hoa phun gió thổi mấy đốm lửa chưa tắt hết, nói: “Băng dày một chút mới không bị cháy vào trong”.

Cơ Hoành ngẩn ra, lại nhìn Phượng Cửu, chợt hiểu hàm ý của chàng, cười nói: “Theo thiển ý của nô tỳ, tiểu hồ ly bị thương trong trận đánh vừa rồi, là do không thể tránh, bình thường nó không đến nỗi tự phun cầu lửa làm mình bị thương, e là Đế Quân đã lo xa”. Nói đoạn thấy Phượng Cửu xấu hổ mở to mắt, nàng lại thương xót bổ sung một câu, “Chàng xem nó thông minh thế, không giống một kẻ đần đến mức đó”.

Phượng Cửu nghe Cơ Hoành khen mình thông minh, bỗng lại thêm thiện cảm với nàng ta.

Tay Đông Hoa đặt lên đầu nàng, nhẹ nhàng vuốt chỏm lông mềm mại, nghe vậy liếc nàng một cái: “Ờ, chuyện đó cũng khó nói”.

Phượng Cửu cảm thấy Đông Hoa hiểu lầm nàng quá lớn, xưa nay nàng vẫn biết mình được Đông Hoa thích bởi khuôn mặt hoạt bát thông minh, trong mấy con thú cưng của chàng trước đây, con sau luôn thông minh hơn con trước, đó chính là ví dụ. Suy trước nghĩ sau, nàng cảm thấy kế sách bây giờ là chỉ cần thổi qua một quả cầu lửa, có thể sát thương người ngoài nhưng vô hại với bản thân mới có thể xoá bỏ hiểu lầm của Đông Hoa đối với mình. Vậy là nàng chống người, dốc hết sức mở miệng thổi ra cầu lửa đã nung nấu trong người, nhưng do thổi quá mạnh, cổ họng bị gió quạt, ngứa quá ho một trận, lửa sặc trong cổ họng bị ho bật lại ra, gặp gió cản nên lại rơi trên cái chi trước không bị thuơng của mình, lông bén lửa cháy khét…

Đông Hoa thấy thế vội giơ tay tóm lấy chân nàng. Tiên quang trên bàn tay trùm hàn khí lên quả cầu lửa lập tức làm nó đóng băng. Đông Hoa bế nàng lên, nói với Cơ Hoành, lại như tự nói với mình: “Quả nhiên ngốc thật”. Phượng Cửu ngước mắt nhìn cái chân phải lông bị xém một mảng nhỏ, lại nhìn Đông Hoa lúc này cũng đang chăm chú nhìn nàng, bối rối ngoảnh sang bên, lòng vừa buồn bã vừa đau khổ, vừa sượng sùng mất hết cả thể diện.

Trong kí ức như tờ giấy đã ố vàng của Phượng Cửu, trong Thập ác liên hoa, thế giới nàng đã chung sống với Đông Hoa và cả Cơ Hoành trong bảy ngày, muốn phá hủy nó để ba người thoát ra, Đông Hoa cần tranh thủ thời gian tĩnh dưỡng, khôi phục tiên lực ngày trước. Có một câu nói rất đúng, nơi để trái tim ta chính là quê hương ta. Phượng Cửu ở bên Đông Hoa vô cùng thanh thản yên tâm, Thập ác liên hoa cảnh dù hoang vu cũng trở nên đáng yêu, chỉ tiếc một chi bị thương, không đi nhanh được, mới cố gắng kiềm chế hứng khởi trong lòng, không lăn tròn một vòng tự chúc mừng.

Đông Hoa ngày ngày ngồi tĩnh dưỡng, Cơ Hoành lại chạy khắp nơi tìm đồ ăn, tìm khắp mới phát hiện nơi này chỉ có khoai tây. Thực ra với tu luyện của công chúa, một năm vài tháng không ăn cũng chẳng sao, Đông Hoa càng khỏi nói, nhưng Phượng Cửu vừa trải qua cuộc đấu lớn, tiên lực hao tổn không ít, ngày đầu tiên không ăn đã đói hóp bụng, đứng không vững, Cơ Hoành mới vất vả đi tìm thức ăn, đưa đến cho nàng. Phượng Cửu cảm thấy Cơ Hoành đối với mình như vậy cũng là người tốt. Ba bốn ngày đầu, nàng còn có thể tự thổi ra cầu lửa nướng khoai, nhưng đâu có biết Nhiếp Sơ Dần đã tính toán kỹ, pháp lực ban cho nàng tồn tại ba ngày, sau ba ngày là tự tiêu tán. Cơ Hoành lại luyện thủy hệ thuật pháp, cũng không thể biến ra lửa để nướng khoai cho nàng. Phượng Cửu rầu rĩ, nàng hơi kén ăn, khoai tây chưa nướng, không thể ăn được.

Lúc này, Đông Hoa ngồi thiền bên cạnh đang tu hồi tiên lực tầng thứ nhất, xung quanh nổi lên những cuộn khói trắng cực lớn, tựa như gió Niết Bàn, quang cảnh thực kỳ vỹ. Do Bích Hải nơi chàng hóa sinh mặc dù là phúc đại tiên hương, nhưng lại thu nạp âm khí của bát hoang, xưa nay cần Thiên hỏa để điều hoà. Mỗi lần tu hồi một tầng tiên lực, phải qua Thiên hỏa tôi luyện mới có thể sử dụng cho mình, chính là một pháp môn mà chàng đang tu luỵện. Cơ Hoành nhìn cảnh đó rất đỗi kinh ngạc, Phượng Cửu còn chưa từng trải bằng Cơ Hoành càng kinh ngạc, hết kinh ngạc rồi mắt sáng lên, cố nén đau, chống chi trước xuống đất, dùng móng vuốt chân phải quắp khoai tây cố sức ném vào đám Thiên hỏa chỗ Đông Hoa, thấy ném thành công, phấn khởi vận hết sức ném bảy, tám cú nữa. Sau khi ném hết hai mắt sáng long lanh, lặng lẽ ngồi một bên chờ đợi, quả nhiên lát sau Thiên hỏa tắt dần, bên cạnh Đông Hoa đang ngồi thiền luyện, lăn lóc mấy củ khoai tây đã chín vàng, tỏa mùi thơm phức, trong lòng chàng còn có hai củ nữa.

Cơ Hoành cúi mắt nhìn Phượng Cửu cúi đầu nhặt khoai tây, Phượng Cửu không nhận ra ánh mắt đó, tập tễnh cái chân bị thương chạy đến bên đám khoai tây chín, đầu tiên thận trọng khều hai củ khoai trong lòng Đông Hoa, sau đó dồn những củ lăn lóc ở chỗ khác thành đống nhỏ.

Còn chưa gom hết, đã bị Đông Hoa tóm gáy nhấc lên, Cơ Hoành hoảng sợ nhắm mắt. Trong lòng Phượng Cửu vẫn ôm hai củ khoai tây, hơi nóng nhưng bị Đông Hoa nhấc lên cao như vậy, nếu buông ra khoai rơi xuống, dập mất thì tiếc quá.

Đông Hoa nhướn mày nhìn Phượng Cửu, lấy đi củ khoai tây nãy giờ nàng vẫn khư khư ôm trong lòng: “Một lần mà ăn nhiều vậy sao?”.

Phượng Cửu trợn mắt gật đầu, nàng đang thời dưỡng thương cần ăn rất nhiều. Oái, nhưng thấy Đông Hoa hơi nhướn mi. Không hiểu định làm gì, ngay sau đó chàng bỏ nàng xuống, thản nhiên bửa củ khoai tây làm hai, một to một nhỏ, đưa phần nhỏ cho nàng: “Hôm nay chỉ được ăn bằng này thôi”.

Nàng không biết nói sao, giậm chân giận dỗi, một mẩu bé tý thế này sao no được, lại thấy Đông Hoa ung dung nói: “Hoặc là tựa tảng đá kia đứng phạt nửa canh giờ, ta sẽ đưa nửa còn lại cho”.

Phượng Cửu tủi thân, ôm nửa củ khoai được chia đi đến cạnh hòn đá chịu phạt đứng một khắc, Cơ Hoành lén đến thăm, ngồi xổm trước mặt nàng: “Có biết vừa rồi mi ném mấy củ khoai tây vào lửa, có hai củ ném trúng ngực Đế Quân, ta sợ thay cho mi toát cả mồ hôi”. Phượng Cửu ngoảnh mặt mặc kệ nàng ta, cảm thấy vừa rồi nàng ta không nói giúp mình một câu, như vậy chẳng nghĩa khí chút nào. Cơ Hoành xoay mặt nàng lại, nói tiếp: “Đế Quân chỉ đùa mi thôi, mi đoán xem vừa rồi ta nhìn thấy gì? Thực ra dùng Thiên hỏa nướng khoai tây không tốt, nướng khoai tây phải dùng lửa nhỏ nướng lâu mới ngon, nếu không ngoài cháy trong sống, ăn vào sẽ bị đi ngoài. Đế quân đang ở bên đó nướng cho ngươi mấy củ còn lại, đợi mi chịu phạt xong là được ăn”.

Buổi chiều hôm đó, Phượng Cửu ăn một bữa khoai tây nướng ngon nhất hơn ba vạn năm nay.

Với kinh nghiệm của nàng, ký ức để trong đầu rất dễ rối loạn, đặc biệt là đối với những vị tiên sống quá lâu như họ. Nhưng nếu ký ức để ở đầu lưỡi, có thể tạo thành một dạng bản năng, ví như đứa trẻ được mẹ cho ăn miếng cơm đầu tiên, bao nhiêu năm sau vẫn có thể nhớ mùi vị miếng cơm đó và ví dụ như bữa khoai tây Đông Hoa nướng cho nàng ăn chiều hôm đó.

Thực ra lúc đó Phượng Cửu ngắm khuôn mặt đẹp như tranh của Cơ Hoành, nghe nàng ta nói chuyện với Đông Hoa, có lúc cũng hơi ngưỡng mộ, nhưng mỗi khi Liên hoa cảnh vào đêm, nàng lại thấy mình may mắn bởi nàng chỉ là một tiểu hồ ly. Ví dụ như lúc này, Cơ Hoành phải ngủ bên cạnh hòn đá tảng phía xa để tránh dị nghị, nhưng nàng thì có thể ngủ bên Đông Hoa, hơn nữa Đông Hoa quả nhiên thích những con vật lông mềm bóng mượt, ban đêm hàn khí bốc lên, nàng thấy lạnh, lại được chàng ôm vào lòng ủ ấm.

Mấy đêm đầu nàng ngoan ngoãn dựa vào chàng, còn có chút ngại ngùng, không dám khinh suất manh động. Mấy ngày sau, nàng đã không biết ngại là gì, thỉnh thoảng còn lấy vuốt cào nhẹ tay Đông Hoa, lại giả bộ ngủ li bì nép vào ngực chàng, chàng di dịch một tấc, nàng lại nhích một tấc, nếu Đông Hoa định đến ngủ chỗ khác, nàng lại giả bộ sụt sịt khóc trong mơ. Đây là chiêu hồi nhỏ lúc mẫu thân cai sữa, nàng đã sử dụng, bây giờ lại mặt dày đem sử dụng với Đông Hoa, vậy mà vẫn hiệu quả như thường.

Đêm cuối cùng trong Thập ác liên hoa, trời có mưa nhỏ, Đông Hoa dùng tiên thuật hóa ra một cái lồng chụp trong suốt. Phượng Cửu dán người vào lồng chụp nhìn màn mưa đêm cảm thấy rất hiếu kì, hạt mưa từ xa xăm lên tận đỉnh trời vô tận rơi xuống, lại có màu xanh biêng biếc như ngọc phỉ thuý, bầu trời u ám lại có những tia sáng nhấp nháy, càng nổi bật những tia nước long lanh, giống như thuở hồng hoang, trong cảnh hỗn loạn có một ngọn đèn trời bay lên chiếu sáng mặt đất. Nàng háo hức, lòng dạt dào cảm xúc ngắm nghía một lát, nghĩ tới ngày mai, ngày mai phải ra khỏi chỗ này, ngộ nhỡ Đông Hoa không chịu đưa nàng lên thiên giới, có khi sẽ mãi mãi chia lìa. Cho dù nàng có định bí mật lẻn vào cung Thái Thần lần nữa, cũng phải ba năm sau. Nàng buồn bã lắc đầu, nghe tiếng mưa tí tách, càng thấy cô đơn ủ rũ định quay đầu đi ngủ, vừa ngẩng đầu, thấy Đông Hoa đã ngủ say, mái tóc dài trắng tựa tuyết trên đỉnh núi, lại tựa ánh trăng ngàn, ngày thường trên mặt chàng lúc biểu cảm, thỉnh thoảng trong vẻ ung dung có nét dịu dàng, khi nhắm mắt ngủ khuôn mặt như được tạc từ băng.

Mắt Phượng Cửu sáng lên, chút buồn bã vừa rồi đã quên ở chín tầng mây, vội bò đến trước mặt Đông Hoa, lặng lẽ lại hơi căng thẳng nhìn chàng một lát, thấy Đông Hoa quả là đã ngủ, vậy là nhắm mắt ghé đến định hôn. Nàng đã định hôn Đông Hoa một cái nhân lúc chàng đang ngủ, có điều mấy đêm vừa rồi, trước lúc đi ngủ Đông Hoa luôn nhắm mắt ngồi thiền hơn một canh giờ rưỡi, nàng không chờ được đã ngủ mất. Đêm nay có lẽ ông trời đoái thương nàng thành tâm thành ý, cho cơ hội này, ông trời quả nhiên có để mắt đến nàng, Phượng Cửu mừng rơn.

Nhưng lúc này nàng là tiểu hồ ly, muốn áp môi vào môi Đông Hoa, thực ra hơi khó. Nàng rụt rè lè lưỡi, thử hồi lâu, liếm nhanh một cái vào khoé miệng Đông Hoa, liếm xong một cái mới gục xuống giả bộ ngủ, mắt lại liếc qua kẽ móng nhìn ra. Không thấy Đông Hoa thức giấc. Nàng đợi một lát, chần chừ ít lâu, liếm vào cằm và hai má chàng, thấy chàng vẫn không có phản ứng, nàng mãn nguyện hài lòng, gan cũng to hơn, dứt khoát chống hai chi trước lên vai chàng lại liếm mấy cái vào mắt, mũi chàng. Nhưng vẫn có chút xấu hổ không dám liếm môi chàng.

Nàng cho rằng môi chàng rất đẹp, màu hơi nhạt nhìn rất lạnh lùng, không biết có nên liếm thử không. Không, nàng thiêng liêng hóa cử chỉ này là hôn, không biết khi hôn môi chàng có lạnh không. Đắn đo giây lát, “Đây là nụ hôn đầu của mình”. Nàng thiêng liêng và trang trọng thầm nghĩ, thần sắc cũng trang trọng hẳn, dùng đầu lưỡi thăm dò rồi chấm lên môi chàng. Trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, Đế Quân đang ngủ say bỗng bừng tỉnh. Phượng Cửu tròn mắt, nhưng nàng đã tính đến tình huống đó, đã thầm chuẩn bị đối sách, nàng sẽ tỏ vẻ bình thường không chút ngạc nhiên, nhưng lòng có phần ai oán nghĩ, đây nhất định là nụ hôn đầu ngắn nhất tứ hải bát hoang.

Dưới ánh sao rực rỡ, trong màn mưa màu phỉ thuý bao quanh lồng chụp trong suốt làm bắn lên những bông hoa nước long lanh, ngân lên nhạc điệu tính tang giống như ai đó đang chơi ngọc cầm. Đông Hoa bị liếm, mặt đầy nước miếng, nhưng vẫn không động đậy, chỉ mở mắt nhìn nàng.

Phượng Cửu nhìn một lát, đoan trang thu lưỡi về, giơ vuốt ân cần lau khô nước miếng trên mặt chàng, bộ dạng thản nhiên như không có chuyện gì. Cảm thấy lúc này nàng là con tiểu hồ ly đáng yêu, Đông Hoa không đến nỗi nghĩ sai lệch, giả bộ là con thú cưng thân mật với chủ, vậy là ổn, đó chính là đối sách nàng chuẩn bị từ trước. Nàng ngây thơ nhìn Đông Hoa một lát, dự đoán quả không sai, mọi việc đều ổn, có thể hôn môi Đông Hoa cho dù không lâu, nhưng như thế cũng là rất hời, mãn nguyện, ngáp một cái, uể oải nằm xuống, trước khi vào giấc ngủ còn vô thức giơ móng âu yếm vờn Đông Hoa. Bên ngoài lồng chụp mưa nhỏ dần, nàng mơ màng đi vào giấc ngủ, lúc trở mình sang trái, lúc sang phải, trong đôi mắt khép hờ của Đông Hoa, thân hình nàng lúc duỗi hình chữ “nhất”, lúc co hình chữ ‘nhân”.

Hôm sau khi Phượng Cửu tỉnh dậy, trời đã sáng, nước mưa màu phỉ thúy tích một vũng to trên đỉnh lồng, mấy tia nắng chiếu lên, lấp lánh như ngọc thạch, lộng lẫy vô cùng. Đông Hoa ở một góc xa xa đang ngồi thiền dưỡng khí trên tảng đá lớn chàng vẫn ngồi, Cơ Hoành không biết tìm đâu được bó rạ, cầm miếng gỗ vuông và hòn đá nhọn, đang nghĩ cách lấy lửa nướng khoai cho Phượng Cửu. Phượng Cửu thong thả đi đến bên Cơ Hoành, hiếu kì xem nàng ta chuẩn bị đá đánh lửa trên gỗ thế nào, bụng không hiểu sao hơi trướng, nấc một cái. Cơ Hoành vẫn chưa đánh ra lửa, nàng dã liên tục nấc đến bảy tám cái. Cơ Hoành giơ một tay xoa cái bụng căng căng óc ách của nàng. Đông Hoa có lẽ đã Thiền luyện xong, nhìn Cơ Hoành vốn chỉ quen luyện thủy thuật cầm hòn đá và mẩu gỗ không biết làm thế nào lấy lửa bèn chậm bước đi đến.

Lúc này Cơ Hoành đang lật ngửa Phượng Cửu, quan sát kĩ cái bụng căng căng của nàng, thấy Đông Hoa đi đến lo lắng gọi: “Đế Quân, chàng lại đây xem thế nào, tiểu hồ ly hình như bị bệnh”. Phượng Cửu bị lật đi lật lại bốn ngửa tám sấp trên mặt đất, cơ hồ vẫn chưa tỉnh ngủ, lim dim hai mắt mơ màng nhìn đôi ủng mây của Đông Hoa trước mắt, lúc này chàng cũng cúi xuống sờ cái bụng căng trướng của nàng, Phượng Cửu đỏ mặt, chuyện sờ bụng này giữa nam và nữ còn phóng đãng hơn nhiều so với liếm mặt, nhất định phải vô cùng thân mật mới làm như vậy, tứ chi nàng căng thẳng hơi run.

Cơ Hoành nín thở, cúi xuống hỏi: “Tiểu hồ ly bị làm sao? Liệu có phải Liên hoa cảnh vốn đã có tà khí, nó lại vừa bị thương, hay là có tà khí xâm nhập cơ thể…”.

Đông hoa đang nắm chi trước Phượng Cửu bắt mạch, nói: “Không sao”. Phượng Cửu mặc dù nửa trái tim để ở chỗ bàn tay chàng đang nắm chân mình, nửa kia vẫn quan tâm bệnh tình của bản thân, nghe nói vậy lập tức vững dạ. Nhưng ngay lúc đó lại thấy cái giọng thanh thanh lành lạnh chậm rãi bổ sung: “Là hỷ mạch”. Nói đoạn chàng nhìn thẳng vào đôi mắt hồ ly đang miễn cưỡng mở to của nàng, tuyên bố: “Có tin mừng”.

Mẩu gỗ trong tay Cơ Hoành rơi xuống, rơi trúng chi sau của Phượng Cửu, làm nàng tức thì hết ngái ngủ, thất kinh vạn bội, mãi lúc sau mới nhận ra chân bị mẩu gỗ rơi vào, rầu rĩ, mếu máo rên một tiếng, khóe mắt đau khổ lăn ra hai giọt lệ hoa.

Mặt Đông Hoa vẫn thản nhiên như không, vừa giơ tay ra xoa xoa cái chân mới bị đau của Phượng Cửu vừa ung dung nhìn nàng, lại bồi thêm một câu: “Linh hồ tộc trưởng không nói với ngươi, hình luật của các ngươi vô cùng nghiêm khốc, nguyên nhân là không thể tùy tiện gần gũi người khác, bởi vì một khi gần gũi rất dễ…”.

Lời chưa dứt đã bị Cơ Hoành đứng ở một bên lắp bắp cắt ngang: “Nô…nô tỳ vẫn chưa từng nghe có…có chuyện đó”.

Đông Hoa nheo mắt: “Nàng cũng thuộc tộc linh hồ?”

Cơ Hoành lắc đầu.

Đông Hoa thủng thẳng nói: “Không phải là người trong tộc, những chuyện như vậy đương nhiên sẽ không nói với nàng, đương nhiên nàng không nghe thấy”.

Phượng Cửu lúc này đã hoàn toàn sững sờ. Nàng không thuộc tộc linh hồ, nhưng lúc này rõ ràng khoác da linh hồ, cũng thừa kế một số đặc tính của dòng tộc. Mặc dù luôn ghĩ nàng với Đông Hoa có chút tiến triển, nhưng không ngờ lại vô tình tiến triển đến mức này, nhất thời vẫn chưa thể nào chấp nhận.

Có điều, đã là cốt nhục của mình, vẫn nên sinh ra chứ? Nhưng đứa trẻ rốt cuộc sinh ra thế nào? Nghe nói khi mang thai có rất nhiều điều phải chú ý giữ gìn, chuyện này nên thỉnh giáo ai? Lại nữa, nếu đứa trẻ sinh ra, nên theo họ ai, Đông Hoa không có họ, luận về lai lịch gốc gác gia tộc, vẫn nên theo họ Bạch của mình thì hơn, nhưng mà, đặt một cái tên chữ chính thức có ý nghĩa vẫn là đại sự, nhưng chuyện này cũng không đến lượt mình lo, tuy vậy, có thể đặt trước cho nó một cái tên thân mật, gọi là Bạch Cổn Cổn được không nhỉ?

Trong một thoáng, đầu óc nàng lóe qua bao ý nghĩ, loạng choạng bò dậy, loạng choạng đi mấy bước, muốn tìm một nơi yên tĩnh để suy nghĩ chuyện tương lai, cái bóng lưng tập tễnh cô đơn và buồn bã đó đi xa, không hề nhìn thấy nụ cười ranh mãnh vừa lóe đã tan trong đôi mắt mơ màng của Đông Hoa.

Hồi đó nàng rất ngây thơ, không biết rằng, mặt tỉnh khô đùa giỡn người khác như thật, luôn là sở thích và hứng thú đặc biệt của Đông Hoa. Ví dụ tính cách quá lạnh lùng của Dạ Hoa và Mục Uyên, nếu bị người khác mạo phạm, họ đa phần không chấp. Hay là kiểu công tử bột như Liên Tống, thực ra rất dễ khiến bị người khác trêu đùa, nhưng nếu bị ai trêu chàng sẽ trả đũa gấp bội. Còn Đông Hoa, tính cách hơi đặc biệt, vạn vạn năm nay không có ai mạo phạm chàng mà có thể an toàn rút lui.

Nói ra cũng thật xấu hổ, nàng bị Đông Hoa lừa chẵn một tháng, mới hiểu không phải vì mình hôn chàng một cái là mạch thường biến thành hỷ mạch, là có hài nhi mọc ra trong bụng. Chuyện này sau khi Đông Hoa đưa nàng trở về Cửu Trùng Thiên, vô tình gặp lại Ti Mệnh, nàng dùng móng vừa vẽ vừa ra hiệu thỉnh giáo ông ta khi có thai cần chú ý những gì, sai khi hiểu rõ ngọn nguồn, ông ta mới cho nàng biết chân tướng sự thật. Phượng Cửu còn nhớ, lúc đó Ti Mệnh cười ngặt nghẽo, chỉ tay lên trời thề: “Điện hạ bị Đông Hoa lừa rồi, nếu điện hạ chỉ hôn ông ta một cái là lập tức trong bụng có tiểu Đông Hoa, thì tiểu tiên có thể chẳng cần ai hôn trong bụng cũng có thể tự mọc ra một tiểu Ti Mệnh”. Nàng cảm thấy Ti Mệnh đã nói đến thế, thì chắc là thật. Có điều sau khi hiểu ra chân tướng sự việc, nàng lại hèn nhát cảm thấy hơi tiêng tiếc, hơi buồn buồn.

Còn những chuyện Yến Trì Ngộ nói, duyên phận nảy sinh sau này giữa Đông Hoa và Cơ Hoành, nàng lại không nghe thấy. Trong kí ức của nàng, khi Đông Hoa bằng một nhát kiếm chém Thập ác liên hoa tan thành ngàn vạn mảnh, khiến Tỏa hồn ngọc cũng bị đập nát vụn, chàng cùng Cơ Hoành chẳng qua khách khí ngồi với nhau một lát trên đỉnh Phù Vũ, sau đó chia tay ai đi đường nấy.

Lúc đó Phượng Cửu rất lo Đông Hoa có thể cho nàng là con hồ ly lai lịch bất minh, chàng xưa nay thích yên tĩnh, có thể không muốn đưa nàng về cung Thái Thần, Cơ Hoành thích nàng như vậy, có lẽ chàng sẽ đem nàng tặng cho nàng ta.

Cái thân hình mũm mĩm lông xù mượt như tơ của nàng sinh ra là để các tiểu thư ôm, bế. Nàng lại hoạt bát kiệm lời, càng khiến người ta yêu. Khi chia tay, Cơ Hoành quả nhiên đúng như nàng đoán, ngỏ ý muốn mang nàng về nuôi. Đông Hoa đang thay băng chi trước cho nàng, tỏ ý không tán thành. Phượng Cửu rất hồi hộp trước thái độ đó của chàng, mặc dù bề ngoài tỏ ra không mấy bận tâm đối với câu trả lời của nàng, nhưng lòng rộn vui. Khi ngẩng đầu nhìn thấy đôi mắt đẹp đầy mong đợi trên gương mặt đẹp như tranh vẽ của Cơ Hoành đã ngấn nước, lại có chút áy náy, vậy là đôi mắt vốn có ánh nước do xúc động vừa rồi, lại làm ra vẻ quyến luyến rầu rĩ nhìn Cơ Hoành, muốn an ủi nàng ta ít nhiều.

Cơ Hoành quả nhiên là người tinh tế, biểu hiện vi diệu đó của Phượng Cửu lập tức được phát giác, nàng lau mắt, cố nài Đông Hoa: “Tiểu hồ ly cũng muốn theo nô tỳ, chàng nhìn xem, mắt nó rưng rưng đáng thương chưa, đây là ý nguyện của tiểu hồ ly…”.

Phượng Cửu nghe ra hàm ý câu đó có nghĩa không ổn, vừa cảnh giác thu lại ánh nước trong mắt, thì đã bị Đông Hoa nhấc lên. Nàng chớp chớp mắt, thấy cặp lông mày chàng hơi nhướn, ngay sau đó nhận ra mình bị Đông Hoa nhét thẳng vào ống tay áo rộng của chàng: “Nó chưa trưởng thành có hiểu gì đâu, tà khí của Ma tộc rất nặng, không hợp với nó”. Giọng chàng hơi lạnh, cũng hơi xa cách.

Nàng vùng vẫy thò đầu ra khỏi ống tay áo, đúng lúc từ xa có hai đám mây trắng lơ lửng bay đến, không để Cơ Hoành nói gì thêm, Đông Hoa đã đem nàng vút lên đám mây, nhẹ tênh cưỡi gió bay đi. Phượng Cửu cảm thấy Đông Hoa nói oan cho nàng, dòng tộc hồ ly đỏ chín đuôi của nàng, do đa phần hiển hiện trên thế gian dưới hình hài con người, khi trở về hình hài hồ ly quả thực có hơi chậm chạp, nhưng nàng đã ba vạn tuổi, đã hoàn toàn trưởng thành.

Nàng nắm ống tay áo Đông Hoa, mắt đưa tiễn Cơ Hoành, nghe thấy tiếng Cơ Hoành khóc gọi phía sau: “Đế Quân, chàng là bậc tôn tiên đế cao vọng trọng nhất tứ hải bát hoang, lại đi tranh giành một tiểu hồ ly với nô tỳ, không sợ tổn thương khí độ ư? Chàng đưa tiểu hồ ly cho nô tỳ nuôi, chỉ một tháng thôi, không nửa tháng, không mười ngày, chỉ mười ngày thôi không được sao…”.

Nàng cảm thấy mình mới tý tuổi đã hồng nhan họa thủy đên mức độ đó, không hề thua kém phong độ của cô cô Bạch Thiển và thúc thúc Bạch Chân, đúng là nghiệp chướng. Đông Hoa nhất định cũng nghe thấy lời Cơ Hoành, nhưng chàng vẫn ung dung cưỡi gió lướt mây, rõ ràng không động lòng.

Nhưng Phượng Cửu lại động lòng, cảm thấy Cơ Hoành có tình với mình, nàng đã chịu ơn nàng ta, sau này nhất định báo đáp thật nhiều, nhưng qua đây cũng thấy Cơ Hoành không hiểu Đông Hoa, xưa nay những thứ tầm thường như phong độ, khí độ chàng không mấy bận tâm.

Những kí ức không mấy hoàn chỉnh cua nàng về Cơ Hoành, cơ hồ chỉ dừng ở đây. Còn một số khác chỉ là những mảnh vụn xung quanh chuyện Cơ Hoành vào cung Thái Thần với danh phận phu nhân của Đông Hoa.

Hồi đó khi được tin Đông Hoa sẽ cưới Cơ Hoành, cuộc sống của Phượng Cửu chìm trong tăm tối, suốt ngày sầu muộn, trí nhớ lõm bõm, chỉ cảm thấy từ khi nàng vào cung Thái Thần đến nay, cung điện vốn cô tịch đó lần đầu tiên náo nhiệt như thế, hỷ khí tưng bừng như thế. Đông Hoa mặc dù vẫn đưa nàng đi đánh cờ, đọc sách như trước, nhưng lòng nặng trĩu, không còn cảm giác mãn nguyện yên vui bên chàng.

Cơ Hoành luôn tìm được cơ hội gần gũi nàng, còn đích thân làm những món ngon lấy lòng nàng, xem chừng từ khi chia tay ở liên hoa cảnh, công chúa không quên con hồ ly đã từng yêu thích, nhưng nhìn thấy bóng Cơ hoành là nàng cố tình né tránh, đi vòng sang phía khác. Có lần thấy Cơ Hoành đứng trên chiếc cầu đá trong hoa viên tay cầm chiếc đĩa đựng mấy củ khoai tây nướng tươi cười vẫy nàng lại, Phượng Cửu liền co cẳng chạy về phía cửa vòm, lủi sau bức tường, lặng lẽ ngó đầu nhìn ra, thấy công chúa đứng sững tay bưng đĩa khoai, nụ cười trong bóng chiều tàn sao mà ảm đạm. Lòng không khỏi xót xa, nàng núp rất lâu sau cửa vòm, thấy Cơ Hoành vẫn đứng đó rất lâu rồi mới bê đĩa khoai lặng lẽ quay đi, ráng trời đỏ rực, nhòe dần trong mắt nàng.

Về sau Phượng Cửu nghĩ, trên thế giới này, giữa con người với con người có bao nhiêu duyên phận khác nhau, những duyên phận chằng chéo ngàn tơ vạn sợi đó cấu thành thế giới đại ngàn, cái gọi là tu luyện của thần tiên, nên là đưa những tư tưởng thần tiên truyền vào ngoài bản ngã, quan tâm nhiều hơn đến những gì ngoài bản ngã, quan tâm nhiều đến số phận chúng sinh, như thế mới là thấu hiểu hồng trần, không hổ tôn danh và thân phận thần tiên mà ông trời ban cho. Ví dụ, Ti Mệnh và Chiết Nhan đều là hai vị tiên đáng để nàng học tập. Nhưng trước nay nàng hầu như chỉ quan tâm đến bản thân mình và Đông Hoa, trong mắt chỉ nhìn thấy một khoảnh trời nhỏ, bao nhiêu chuyện trong thế giới xung quanh đều nhìn không chân xác, nhìn nhận người khác cũng có bao điều ấu trĩ. Đông Hoa đương nhiên có thể có duyên với Cơ Hoành, thậm chí có duyên với Tri Hạc, lúc đó nàng là người thân cận nhất bên cạnh chàng vậy mà lại không hề nhận ra, nghĩ kĩ cảm thấy có phần hổ thẹn. Thân là thần tiên nhưng không cao minh hơn người trần bao nhiêu, đâu còn xứng là thần tiên. Ở Thanh Khâu nàng đã tự phản tỉnh bao ngày, trong quá trình suy nghĩ phản tỉnh đó, cũng nghĩ lại xem có phải Đông Hoa thực lòng tương tư Cơ Hoành, rốt cuộc lúc nào nảy sinh tương tư đó, nhưng quả thực không nghĩ ra, dần dần nàng cũng quên đi.

Không ngờ hôm nay, lúc này trong cốc Phạn Âm lại có thể cùng với Yến Trì Ngộ, người đã tạo ra duyên gặp gỡ cho ba người: nàng, Đông Hoa và Cơ Hoành, đàm luận về những khúc mắc năm xưa, chữ “duyên” ở đời quả nhiên muôn phần huyền diệu.

Đầu tháng sáu, trong cái nắng như thiêu của cốc Phạn Âm, Tiểu Yến tráng sĩ vừa lau mồ hôi trán, ánh mắt mơ màng dõi theo những đám mây lơ lửng phía xa, cùng Phượng Cửu ngồi bên cạnh, đàm luận về mối tình mấy vạn năm duy nhất của Đông Hoa. Trong mắt tráng sĩ đó là mối tình xúi quẩy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 14-7-2014 18:56:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6

6.1

Đoạn đầu của mối tình này, Phượng Cửu biết hồi đó nàng và Cơ Hoành vẫn chưa có liên quan gì.

Ngày hôm đó của ba trăm năm trước, khi tiên quang chói lọi phá vỡ đỉnh Phù Vũ, Đông Hoa oai phong bước ra khỏi Thập ác liên hoa cảnh, việc đầu tiên không phải là đi hỏi tội Yến Trì Ngộ, mà là đưa nàng về cung Thái Thần. Thập Tam Thiên mênh mông, dưới chân thành, mấy chục tiên bác từ cung Thái Thần nhất loạt quỳ rạp đến tận cửa Nhất Thập Tam Thiên để chịu tội không bảo vệ chu đáo Tỏa hồn ngọc. Đông Hoa sải bước trên mênh mang mây xanh và tiếng niệm Phật đi thẳng vào cung môn, các vị tiên bác tự cảm thấy mắc trọng tội, đầu cúi sát đất, không dám ngẩng lên. Rất nhiều vị từng là những dũng tướng hiển hách trong chiến sử hồng hoang, mà nàng đã nhìn thấy chân dung trong sách khi còn đi học.

Đông Hoa đặc biệt giao nàng cho Trọng Lâm trưởng quân tận tâm nhất cung Thái Thần chăm sóc, nhưng Phượng Cửu không muốn người khác chăm sóc mình, cảm thấy Đông Hoa thay băng, rửa vết thương rất khéo, bộ vuốt bé nhỏ một mực bám chặt vạt áo Đông Hoa không đi. Đông Hoa giơ cánh tay trước mặt nàng ý bảo nàng với lên, nhưng chân nàng ngắn, chới với mãi không sao chạm đến cánh tay chàng, mặt ỉu xìu thất vọng.

Hai nữ hầu tiên có vẻ bạo gan đứng bên cười khúc khích, Phượng Cửu cảm thấy bị xúc phạm, quắc mắt lườm họ. Đôi mắt lãnh đạm của Đông Hoa lúc này cũng hiếm hoi lộ ra nụ cười, nhấc nàng đặt lên chiếc quạt mềm, xoa đầu nàng. Phượng Cửu cho là cử chỉ đó có nghĩa chàng thấy nàng đáng yêu, mắt vội liếc ngực áo chàng định chui vào đó lần nữa, nhưng Đông Hoa đã vẽ một vòng tròn, tạo kết giới xung quanh nàng, còn dặn mấy nô bộc đứng bên: “Tiểu hồ ly rất hiếu động, trông nom cẩn thận, đừng để nó chạy lung tung, tránh vết thương ở chân càng nặng.”

Phượng Cửu vẫn muốn theo chàng, sử dụng tuyệt chiêu lợi hại giả vờ hu hu khóc, còn giơ chân giả bộ lau nước mắt. Có lẽ điệu bộ không thật giống, lúc lén liếc Đông Hoa liền bị bắt gặp, đành mặt dày lau mắt tiếp tục khóc, Đông Hoa đứng tựa vào cửa sổ nhìn nàng: “Ta rất thích chọc kẻ khác khóc, khóc to nữa lên”. Tiếng khóc của nàng liền dừng trong cổ. Thấy nàng không khóc nữa, chàng mới đi đến, giơ tay xoa đầu nàng: “Phải ngoan, nghe lời Trọng Lâm, mấy ngày nữa công việc xong xuôi ta lại đến đón ngươi về”. Nàng ngửa mặt nhìn chàng rất lâu, đành khuất phục miễn cưỡng gật đầu.

Phượng Cửu còn nhớ, lúc Đông Hoa cúi nhìn nàng trông rất dịu dàng. Thực ra bây giờ nghĩ lại, cũng chẳng khác gì bộ dạng của cô cô Bạch Thiển lúc xem kịch hoặc Ti Mệnh lúc xem cuốn sổ mệnh số người trần, rõ ràng là bộ dạng chủ nhân nhìn… vật cưng của mình.

Phượng Cửu thở dài. Tất cả những chuyện cũ vẫn rõ ràng như mới, nhớ lại sau lần đó đúng ba mươi ngày Đông Hoa cũng chưa quay lại đón nàng, cuối cùng do đợi chờ quá sốt ruột nàng mới lừa Trọng Lâm bỏ kết giới, lén đi tìm Đông Hoa, giữa đường lại gặp Ti Mệnh ở cổng Nam Thiên. Trước đó nàng không cảm thấy, trong ba mươi ngày đó có thể xảy ra chuyện gì lớn, lúc này mấy trăm năm sau, nghe Yến Trì Ngộ mặt mũi hớn hở nói một thôi, mới hiểu trong ba mươi ngày đó xảy ra mấy chuyện, chuyện nào cũng kinh thiên động địa.

Đây là nửa sau câu chuyện giữa ba người: nàng, Đông Hoa và Cơ Hoành mà nàng chưa biết.

Trong mấy ngày Đông Hoa mất tích, rõ ràng là đi tìm Tiểu Yến tráng sĩ khiêu chiến, rõ ràng khiêu chiến thành công, về đoạn này Tiểu Yến tráng sĩ chỉ nói mập mờ, có lựa chọn và rất vắn tắt, cuối cùng chàng Yến giơ tay xoa mũi nói: “Kỳ thực theo lý thì sau khi đánh nhau với mỗ, ông ta nên từ đâu đến thì cút về nơi đó, mỗ không hiểu, tại sao ông ra còn quanh quẩn ở núi Bạch Thủy.”

Phượng Cửu đội nửa cái lá to hái ở cạnh vách núi, che ánh nắng gay gắt trên đầu trả lời Tiểu Yến: “Có lẽ đánh nhau xong chàng ta cảm thấy vẫn còn thời gian rỗi, liền nhân tiện đi núi Bạch Thủy tìm cây long não và cây thanh…”.

Câu nói này đâm vào trái tim mẫn cảm, không chịu thua của Tiểu Yến tráng sĩ, ánh mắt phẫn nộ và ưu phiền của chàng đã lùi chữ “liên” cuối cùng sắp ra khỏi miệng Phượng Cửu: “Mỗ đây thân thể tráng kiện như vậy, trong mắt ngươi lại là đối thủ yếu ớt như vậy sao? Vừa đánh nhau xong với mỗ, ông ta lại vẫn có thể thư nhàn du sơn ngoạn thủy, ngắm hoa, ngắm cây ư?”.

Phượng Cửu im lặng nhìn Tiểu Yến giây lát, mặt thản nhiên chỉnh lại lá cây trên đầu: “Đương nhiên không phải, ý tiểu bối nói…”. Nàng dừng lại: “Có lẽ chàng ta đi núi Bạch Thủy tìm thảo dược trị thương cho mình”.

Tiểu Yến tráng sĩ tương đối thích cách lý giải này, gật đầu, ngữ trọng tâm trường nói: “Ngươi nói đúng, để tìm thảo dược trị thương cho mình, Mặt lạnh đã đi khắp núi Bạch Thủy”. Chàng ta lại tiếp tục câu chuyện: “Nếu không sao lại nói ông trời không có mắt, đúng lúc đó Cơ Hoành cũng chạy đến núi Bạch Thủy…”.

Đúng như Phượng Cửu nói, chuyến đi núi Bạch Thủy của Đông Hoa quả thực để tìm kiếm hai thành phẩm điều chế một loại hương huyền bí. Trong đầm Bạch có mọc loài sen xanh và cây long não kí sinh trên cây sen xanh có tuổi cả vạn năm là một kì quan của núi Bạch Thủy. Do hai loại cây có mùi hương đó sống dựa vào nhau, khiến trong sen có mộc hương, trong mộc hương có hương sen, vạn năm nay đã thu hút bao nhiêu đại sư chế hương lặn lội đến tìm.

Sở dĩ phải “lặn lội tìm đến” là do bản thân núi Bạch Thủy địa thế vô cùng hiểm trở, lại thêm trong đầm có một con muỗi dữ sinh sống, những đại sư chế hương đến đây, không cẩn thận bỏ mạng trong đầm, đều trở thành bữa tiệc thịnh soạn cho con muỗi dữ nọ. Phượng Cửu từ nhỏ đã rất muốn thần phục con muỗi kia đem về nuôi chơi, những gì nghe được về con muỗi trứ danh này là khi Đông Hoa trở về cung Thái Thần, ung dung lôi trong tay áo ra một bọc nhụy sen khô và mấy đoạn vỏ long não, nàng hiểu ngay con muỗi trứ danh ở núi Bạch Thủy mà nàng rất ưng ý, e là đã xúi quẩy rồi.

Còn chuyện Cơ Hoành đi núi Bạch Thủy lại liên quan đến một bí mật của Ma tộc.

Ma tộc có bảy chi, Húc Dương ca ca của Cơ Hoành là quân vương của Xích chi. Nghe đâu lúc Cơ Hoành còn rất nhỏ Húc Dương đã cử riêng một thị vệ bảo vệ nàng. Thị vệ này mặc dù xuất thân bình thường, nhưng từ nhỏ có khuôn mặt thông minh hoạt bát, rất được các bậc trưởng bối trong dòng tộc yêu thích, được cả Vương thái hậu cô quả trong thâm cung rất mực sủng ái. Đến nỗi Húc Dương cảm thấy để tiểu đồng khôi ngô như vậy theo hầu Cơ Hoành không thỏa đáng lắm, nhưng khi định chọn một người kém sắc hơn, thì người đầu tiên phản đối kịch liệt lại là mẫu thân của họ. Vương thái hậu đầu tiên là khóc lóc rồi làm ầm ĩ cuối cùng dọa tự vẫn. Cơ Hoành tuy còn nhỏ chưa hiểu chuyện cũng đứng bên lau nước mắt dỗ dành, làm cho tiểu thị vệ tên Mân Tô đó với bộ mặt ngây thơ giật ống tay áo chàng cầu xin: “Quân thượng làm thái hậu khóc rồi, mau dỗ đi”. Húc Dương điên đầu, đành chịu thua…

Về sau tiểu thị vệ Mân Tô lớn dần, càng trở nên một trang nam nhi tuấn tú, Húc Dương càng nhìn tiểu thị vệ càng thấy không ổn. Mân Tô dùng bữa với họ nhưng không hề động đến rau cần và cà chua là loại rau có nhiều chất dinh dưỡng, Húc Dương cau mày, cảm thấy không ổn. Mân Tô mặc áo chùng màu lam nhạt, mảnh mai như một cây hành, Cơ Hoành rất thích ngồi xích lại gần to nhỏ với tiểu thị vệ đó, Húc Dương cau mày cảm thấy không ổn. Mân Tô nửa đêm luyện kiếm ở hoa viên, luyện kiếm thì không hề chi, nhưng lại không biết đường chuẩn bị cái khăn để lau mồ hôi, nhỡ cảm lạnh không chăm sóc được Cơ Hoành thì sao, Húc Dương cau mày cảm thấy không ổn. Con ngựa của Mân Tô gần đây bị ốm, đi lại không tiện, nếu Cơ Hoành có việc sai tiểu tử đó đi chặng đường dài đến nơi nào đó, làm sao đi nhanh được, Húc Dương cau mày, cảm thấy không ổn. Vậy là Húc Dương hạ một đạo chỉ, đại ý có bốn điểm: Thứ nhất, mỗi người mỗi bữa ăn nhất thiết phải ăn rau cần và cà chua. Thứ hai, trong cung không được may áo, may tất cả bằng lụa màu lam. Thứ ba, xuất môn luyện kiếm nhất định phải mang theo khăn bông lau mồ hôi. Thứ tư, trong cung phải có một kho quản ngựa, ngựa của ai bị ốm có thể đến mượn dùng. Quả nhiên, kho quản ngựa vừa dựng xong, mới đưa vào mấy con ngựa, Mân Tô đã hớn hở đến mượn một con dắt đi, hơn nữa, tiểu tử đó dạo này do kiên trì ăn rau cần và cà chua, cơ thể vốn mảnh mai đã trở nên rắn chắc hơn nhiều, Húc Dương một mặt cảm thấy yên tâm, một mặt tự nhủ tất cả đều vì Cơ Hoành. Chàng cảm thấy vì tiểu muội chàng quả thực đã vất vả, nhọc lòng bao nhiêu.

Là một trong bảy vị quân vương của Ma tộc, bổn phận của chàng vốn đã nặng nề, mỗi ngày lại phải phân tâm để ý đến tiểu muội và tiểu thị vệ điển trai kia. Hôm nay tiểu thị vệ đó nói mấy câu với Cơ Hoành? Có phải nhiều hơn hôm qua hai câu? Khoảng cách gần nhất mà Mân Tô ở bên Cơ Hoành là mấy tấc? Có phải gần hơn một tấc so với hôm qua? Từng chi tiết đều khiến chàng bận tâm, lo lắng. Hơn nữa chỉ cần có mặt Mân Tô, ánh mắt chàng luôn không làm chủ được, luôn liếc mấy cái xem tiểu tử điển trai có biểu hiện nào không đúng thân phận đối với Cơ Hoành. Nhưng cho đến khi cùng các vị trưởng bối trong tộc nghị bàn xong hôn sự của Cơ Hoành, quyết định phải gả nàng vào cung Thái Thần của Đông Hoa Đế Quân, Húc Dương vẫn không phát giác được dấu hiệu tư tình nào của hai người đó, lòng chàng không hiểu sao lại có chút thất vọng, nhưng đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm chàng cảm thấy Mân Tô rất ổn, cảm thấy cái vẻ hoạt bát của tiểu tử đó khi cúi mi nhìn xuống có vài phần khiến người ta yêu mến, dần dần thái độ, nói năng của chàng với Mân Tô cũng trở nên hòa nhã hơn trước vài phần.

Nhưng không biết vì sao, từ sau đó, chàng thấy Mân Tô thường lặng lẽ ngồi một mình ngơ ngẩn trong hoa viên, chàng sải bước đến trước mặt, mấy lần cũng không nhận ra, nếu có sực tỉnh phát hiện ra chàng, thì chàng chưa kịp lên tiếng đã chạy biến như con thỏ. Có lần chàng quả thực rất hiếu kì, khi rón rén đến gần tóm gáy áo Mân Tô, ai ngờ tiểu tử đó lại dùng đến cả chiêu ve sầu thoát xá, ngang nhiên tuột khỏi tay chàng, để lại chiếc áo rộng trống không trong tay chàng, bay bay trong gió. Chàng cầm chiếc áo, đứng nguyên chỗ đó rất lâu, cảm thấy hơi kì, mấy ngày sau đều không thấy Mân Tô, hoặc là từ xa phát hiện một góc vạt áo hơi giống, dụi mắt nhìn, lại đã biến mất tăm, chàng nghi ngờ mắt mình gần đây hơi kém.

Húc Dương từ nhỏ đã rất chú ý dưỡng sinh, luôn có thói quen đi dạo trong vườn hoa viên sau bữa trưa, hôm nay chàng đi đến bờ ao, từ xa đã nhìn thấy bóng Mân Tô mấy ngày nay không hiểu lủi đi đâu, đang cắm cúi làm gì bên ao sen, chàng nhón chân bước tới gần, quả nhiên là cậu ta, mặc chiếc áo chùng có những đường hồ màu thanh thiên giống như quả mướp, đang cầm bút bò trên những tảng đá tô tô vẽ vẽ gì đó, bộ dạng vừa chăm chú vừa thành kính. Húc Dương biết Mân Tô từ nhỏ không thích bút nghiên, lớn bằng ngần ấy chỉ biết vài chữ, làm sao có thể viết được gì, chàng quả thật vô cùng hiếu kì, trầm ngâm hồi lâu, rón rén đến sau lưng đứng xem.

Bờ ao, gió mang hơi sen thoáng lạnh, chàng ngó nhìn, có đến nửa trang giấy thô là chữ hoặc hình vẽ xiêu vẹo, xâu chuỗi lại thành mấy câu cũng rất văn vẻ ngụ tình, hình như là “Đêm về cảnh đẹp như thơ, nhớ chàng trằn trọc canh chầy”. Húc Dương tuy tuổi không nhỏ nhưng cũng không rành chuyện phong tình, cũng có thể nhận ra đây là bức thư tình, phần mở đầu không thấy đề tên, cũng khó đoán rốt cuộc tiểu tử đó định viết cho ai.

Húc Dương giơ tay, rút nhanh tờ giấy trên bàn đá, Mân Tô đang cắn bút trầm tư, ngẩng đầu nhìn thấy chàng, mặt bỗng đỏ lựng, vô thức giơ tay định giật lại, nhưng không kịp.

Gió nhẹ thổi qua, một góc bức thư hơi cuốn lên, Húc Dương vừa đọc vừa đoán từng chữ, rồi nhìn lướt một lượt, trầm ngâm đọc hai câu: “Sàng tiền nguyệt quang bạch, triển chuyển bất đắc miên[1]”. Dừng lại hỏi: “Viết cho ai?”.

[1] Nghĩa là: Trước giường ánh trăng bạc, trằn trọc không ngủ được. Lấy ý câu thơ: “Trước giường ánh trăng sáng vằng vặc ngỡ sương sa trên mặt đất” trong bài Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch.

Mân Tô bình thường hoạt bát như một con khỉ con, lúc này mặt lại cúi gằm, tai đỏ tới tận vành, đứng im nhưng không trả lời.

Húc Dương hiểu ra: “Viết cho Cơ Hoành?”.

Mân Tô kinh ngạc ngẩng nhìn chàng một cái thật nhanh, lại lập tức cúi xuống.

Gã tiểu thị vệ này dám thích tiểu muội của chàng, vậy mà trước nay không để lộ dấu vết. Chàng nghĩ, là do trước đây rất bình yên còn bây giờ thấy Cơ Hoành sắp được gả đi cho một nam tử hoàn hảo nhất tứ hải bát hoang, cho nên mới khiến tiểu tử đó lộ ra nỗi niềm giấu kín trong lòng đã lâu? Nhìn bộ dạng này, nhất định đã không thể nào kìm nén được tình cảm với Cơ Hoành nên mới viết thư thổ lộ, đương nhiên, Cơ Hoành là tiểu công chúa đáng yêu, rất xứng với bức thư tình này…Húc Dương suy nghĩ rất lung nhưng không để lộ ra mặt, đứng ngây ra mãi, rồi “hừ” một tiếng, bỏ đi…

Hai ngày sau, tin Yến Trì Ngộ giao đấu với Đông Hoa ở núi Phù Vũ đã lan khắp vùng Nam Hoang yên tĩnh bao năm, truyền đến tai Cơ Hoành. Cơ Hoành lòng muôn phần áy náy, trong đêm mưa tối mịt mùng, một mình lẻn đi núi Phù Vũ để can gián. Ngay đêm Cơ Hoành trốn đi, mấy thị vệ lọt vào phòng Mân Tô, trói chàng ta đang nằm ngơ ngẩn đưa ra khỏi cung.

Lúc này, bên cạnh thủy kính, Húc Dương một mình bày một ván cờ, vừa suy nghĩ nước đi, vừa bồn chồn quan sát động tĩnh trong thủy kính. Chàng nhìn thấy Mân Tô lúc đầu không ngoan ngoãn chịu để cho thị vệ trói, mà nhanh như cắt rút thanh kiếm ở đầu giường chặn toán thị vệ, định đấu một trận sống mái, đến khi thị vệ trưởng nghiêm mặt tuyên bố: “Quân thượng hạ lệnh đưa ngươi đến núi Bạch Thủy tự phản tỉnh lỗi lầm”, thanh bảo kiếm trong tay Mân Tô mới “xoảng” một tiếng rơi xuống nền, các thị vệ mới nhân cơ hội xông đến nhanh chóng trói lại. Khi Mân Tô đã bỏ tay chịu trói, Húc Dương nghe thấy tiểu tử đó buồn rầu hỏi thị vệ trưởng: “Tiểu bối biết mình có tội…nhưng có đúng ý quân thượng là phải đến núi Bạch Thủy?”. Thị vệ trưởng thở dài: “Quân thượng có chỉ đúng là núi Bạch Thủy”. Nghe lời xác nhận đó, Mân Tô im lặng cúi đầu, từ chỗ của mình Húc Dương cũng không nhìn ra vẻ mặt Mân Tô lúc đó. Chỉ khi áp giải Mân Tô ra khỏi tẩm cung của Cơ Hoành, mới thấy tiểu tử đó đột nhiên ngẩng đầu nhìn về phía điện Xích Hồng nơi chàng thường ngày nghị sự, mặt trắng bệch không sắc máu, nhưng ánh mắt lại rất bình thản.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 14-7-2014 18:58:40 | Chỉ xem của tác giả
6.2

Tạm thời giam lỏng Mân Tô, mà lại giam ở núi Bạch Thủy, đưa ra quyết định này cũng khiến Húc Dương hao tổn một ít tâm lực. Bởi lẽ, trong tứ hải bát hoang, vùng thổ địa rộng lớn nhất chính là Nam Hoang do Ma tộc thống lĩnh, thứ đến là Tây Hoang do Quý tộc thống lĩnh. Còn các nước như Thanh Khâu do Hồ tộc chín đuôi và các vùng sở thuộc ngũ hoang như đông nam, đông bắc, tây nam, tây bắc đứng đầu là Đông Hoang tổng thổ địa cũng chỉ bằng Nam Hoang. Lãnh giới của Thiên tộc nhiều hơn một chút, ba sáu thiên trên trời và tứ hải đông tây nam bắc dưới đất cùng với Bắc Hoang đại địa đều dưới quyền cai quản của họ, có điều nhân khẩu của Thiên tộc cũng quả thực nhiều hơn, lại thêm hàng năm những bậc tiên tu ở phàm thế ngoài tứ hải bát hoang, sau khi tu tiên đắc đạo cũng nhập vào Thiên tộc nên bổn phận của Thiên tộc cũng nặng nề hơn. Tuy vậy, mặc dù Ma tộc thừa hưởng đức của tổ tông chiếm cứ vùng đại lục rộng nhất tứ hải bát hoang, tiện bề thống lĩnh, nhưng trong đại lục này cũng không ít rừng thiêng nước độc, núi Bạch Thủy chính là nơi đáng sợ nhất. Trong ấn tượng của người dân xung quanh, đó là ngon núi đã đến là không thể thoát ra. Thế dốc đứng cả bốn mặt, vô cùng hiểm trở, bên trong quanh năm đầy chướng khí, thảo mộc sinh trưởng ở đây đa phần đều có độc, dã thú do sinh sống trong môi trường khắc nghiệt cũng trở nên hung dữ. Người nào lọt vào đây coi như lọt vào tử địa. Khi nghe tin Húc Dương đưa mình đến núi Bạch Thủy, sắc mặt Mân Tô xám ngoét như vậy cũng không phải không có căn nguyên.

Thực ra khi quyết định đưa Mân Tô đến núi Bạch Thủy, Húc Dương không có ý đó, chàng chỉ định: Một là để tách Cơ Hoành và Mân Tô, chàng cảm thấy nếu tiểu tử kia dám bạo gan thổ lộ, Cơ Hoành đứa bé ngây thơ lương thiện chưa biết chừng đồng ý cũng nên, như vậy sẽ trở thành chuyện đàm tiếu đáng xấu hổ của bộ tộc. Hai là đưa Mân Tô đến núi Bạch Thủy cho dù Cơ Hoành từ núi Phù Vũ trở về biết, với mối thâm giao từ thưở nhỏ động lòng muốn cứu cũng không thể đi được, nhất định chỉ có đến tìm chàng khóc lóc ầm ĩ, như vậy cũng không sao. Chàng chỉ có một đối sách là trì hoãn, trì hoãn cho đến khi suôn sẻ gả Cơ Hoành cho Đông Hoa rồi sẽ thả Mân Tô, cách này là thượng sách. Vả lại, Mân Tô từ nhỏ bẩm sinh đã có đặc tính kì lạ, bách độc không thể xâm nhập được vào cơ thể, còn mặc dù núi Bạch Thủy nhiều mãnh thú, nhưng là thị vệ của công chúa, ngay mấy con mãnh thú cũng không trị nổi thì cũng không xứng là thị vệ của công chúa. Với suy tính như thế, Húc Dương thanh thản ra chỉ lệnh, đưa Mân Tô đến núi Bạch Thủy.

Ánh mắt Mân Tô lại nhìn về phía này lần cuối, đến mức dưới cái nhìn đó quân cờ trong tay chàng tuột ra, lăn theo mép bàn rơi xuống đất, chàng nhận ra nét bối rối trong đôi mắt bình thản đó. Húc Dương cầm quân cờ lên thầm nghĩ, tiểu tử kia từ nhỏ chưa từng nếm mùi lãnh cung, đưa đến núi Bạch Thủy rèn luyện cũng không phải không hay. Nhưng ngộ nhỡ Mân Tô không trở về được nữa thì sao, điều này chàng chưa hề nghĩ tới.

Cái đêm Cơ Hoành từ núi Phù Vũ trở về, Nam Hoang có một trận mưa như trút nước, chuyện Mân Tô bị phạt đưa đến núi Bạch Thủy chắc chắn Cơ Hoành sẽ biết ngay. Húc Dương ngồi trong điện Xích Hồng vừa uống trà vừa có ý chờ tiểu muội đến hỏi tội, nhưng đã uống cả mạt trà vào miệng vẫn chưa thấy bóng dáng Cơ Hoành. Đến sáng hôm sau, thị nữ của Cơ Hoành tay nâng váy loạng choạng chạy đến cửa tẩm điện của chàng, Húc Dương mới biết, tiểu muội của mình đã biến mất. Đương nhiên chàng cũng biết Cơ Hoành đến núi Bạch Thủy cứu Mân Tô. Mọi suy tính của chàng tuy vẹn toàn, nhưng lại bỏ qua nghĩa khí của tiểu muội mình.

Mà con đường hiểm trở khúc khuỷu lên núi chính là nhân duyên thực sự khiến Cơ Hoành gặp Đông Hoa Đế Quân ở đầm Bạch.

Mấy ngày hôm đó mưa liên miên không ngớt, cứ như dòng Thiên Hà bị khuấy đảo, nước dềnh lên dội thẳng xuống Nam Hoang, không khí ẩm ướt nặng nề. May là hoa sen hồng trồng khắp nơi ở cung Đan Lãnh được uống no nước trời, nở ra những đóa sen đỏ như đèn lồng, mơn mởn diễm sắc nhìn rất vui mắt. Từng tốp thị vệ được cử đi, kinh động đến cả thâm cung của Thái hậu, nhưng vẫn không mang được tin tức gì về Cơ Hoành. Vương thái hậu mặc dù có tuổi nhưng tiếng khóc vẫn không kém ngày xưa, mỗi bữa cơm đều đúng giờ đến trước mặt Húc Dương khóc một trận, khóc đến nỗi lòng chàng đau từng trận. Cả vương cung hỗn loạn xung quanh chuyện công chúa Cơ Hoành biến mất, đến quá Ngọ hôm đó, khi Húc Dương truyền lệnh đưa con sư tử trắng một cánh ra để chàng cưỡi, đích thân đến núi Bạch Thủy một chuyến, thì bất chợt Đông Hoa Đế Quân thân vận áo chùng tím ôm Cơ Hoành đang hôn mê xuất hiện ở cửa cung Đan Lãnh.

Rất nhiều người ở Ma tộc thật ra cả đời cũng chưa từng nghĩ họ có thể được chiêm ngưỡng tiên nhan của bá chủ thiên địa huyền thoại, cho nên, cảnh tượng đó đến giờ họ vẫn nhớ rất sâu. Cả tầng không xám xịt vần vũ mây mù, mưa ngớt dần, chỉ còn lác đác hạt nhỏ, mười dặm trước cung môn sen hồng trải thành thảm đỏ, hào quàng màu sen sáng rỡ cả vùng, một trang nam nhi tóc trắng tuấn mĩ uy nghi cưỡi gió đáp xuống. Sen hồng ma tính nặng, không chịu nổi tiên quang đó, cánh hoa từ từ khép lại, lộ ra con đường cỏ xanh rộng để gót tiên chàng bước lên, tiến thẳng tới cung môn. Còn Cơ Hoành mắt nhắm nghiền, mái tóc dài xổ tung như dòng thác đen, mặt tái nhợt nằm trong lòng Đông Hoa. Trông nàng vô cùng yếu ớt, hai tay vòng ôm cổ chàng, thân người hình như được quấn bằng áo choàng của chàng, lộ ra đôi gót chân trần nhỏ xinh trắng nõn, cổ chân mảnh dẻ còn đeo mấy viên huyết châu đỏ thắm yêu dị.

Trong hai đêm một ngày ở núi Bạch Thủy đó rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, trên đời ngoài Đông Hoa, Cơ Hoành cùng lắm là có thể cả con muỗi dữ xúi quẩy ở đầm Bạch, có lẽ không một ai khác biết. Những gì được biết chỉ là Đông Hoa lại ở thêm một ngày nữa trong cung Đan Lãnh, đợi Cơ Hoành hôn mê tỉnh dậy, cũng là để tiện người của Ma tộc ngưỡng mộ đến ngắm tiên nhan hiếm có của chàng. Cơ Hoành sau khi tỉnh, giống như chim non lạc mẹ, rất thân thiết với Đông Hoa, nhưng tuyệt nhiên không nhắc nửa lời đến Mân Tô. Húc Dương thấy vậy cả mừng, chàng thấy đưa Mân Tô lên núi Bạch Thủy vẫn là diệu kế, bởi vì tuy khiến Cơ Hoành rơi vào nguy hiểm một phen nhưng, nhưng lại làm cho tiểu muội bướng bỉnh đó nảy sinh tình cảm với Đông Hoa, nước cờ này chàng đi vẫn rất tuyệt. Ngày thứ ba, khi Đông Hoa chuẩn bị rời cung Đan Lãnh, Húc Dương mời chàng đến tiểu điện dùng trà, nghị sự, một tuần trà vừa dứt, Húc Dương với thành ý hôn sự nên làm liền tay, nhân lúc này, đề nghị ba ngày sau là ngày tốt gả Cơ Hoành vào cung Thái Thần vĩnh viễn kết giao hai tộc là hay nhất. Đông Hoa bằng lòng.

Yến Trì Ngộ kể đến đây, thở dài hai hơi, lại lầm bầm mấy câu, Phượng Cửu vẫn nghe rõ, đại ý chàng ta phàn nàn rằng, lúc đó chàng bị thương không nặng lắm, nếu biết Cơ Hoành trốn đi núi Bạch Thủy chàng ta nhất định sẽ đuổi theo chặn lại, như vậy sẽ không có chuyện Cơ Hoành gặp Đông Hoa, chàng ta và Cơ Hoành đã không kết lương duyên, rằng ông trời nhất thời mù mắt thế nào.

Chiếc lá Phượng Cửu đội trên đầu đã gần héo quắt bởi nắng, nàng thu mình dưới chiếc lá hỏi Yến Trì Ngộ: “Sao huynh biêt Đông Hoa nhất định thích Cơ Hoành? Biết đâu chàng có chỗ khó nói?”.

Tiểu Yến nắm chặt bàn tay, các khớp ngón tay lạo xạo, nghiến răng, phẫn nộ rít lên: “Ông ta dám!”. Càng phẫn nộ nói tiếp: “Cơ Hoành băng thanh ngọc khiết, tuệ chất lan tâm, chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa hờn như vậy, nam nhi thích nàng, một đại mỹ nhân như vậy lại còn có gì khó nói”. Chàng Yến rít lên, lộ ra hàm răng trắng đều tăm tắp: “Ông ta không xứng là nam nhi!”.

Yến Trì Ngộ là người lỗ mãng, lại có thể nói liền một hơi năm thành ngữ nho nhã như vậy khiến Phượng Cửu bội phần ngạc nhiên, nhưng nghĩ đến vị trí độc tôn của Cơ Hoành trong lòng chàng ta, nàng định mở miệng phản bác nhưng lại thôi, lặng kẽ chỉnh đi chỉnh lại cái lá gần héo trên đầu.

Thấy thái độ ngập ngừng của Phượng Cửu, Yến Trì Ngộ thở dài, trầm ngâm nói tiếp: “Thực ra mỗ hiểu ngươi đang nghĩ gì, nữ nhi các người một khi đã ưng đàn ông, cảm thấy chỉ có bản thân mình mới phù hợp nhất với người đó, những kẻ khác đều không xứng”. Giọng Tiểu Yến rất thành thật: “Mỗ cảm thấy Mặt lạnh không thich Cơ Hoành, mỗ có thể hiểu, bởi năm xưa mỗ cũng từng cảm thấy Cơ Hoành không thích Mặt lạnh”. Chàng Yến lại thở dài ảo não: “Nhưng hai người đó ở riêng với nhau một ngày hai đêm, thử nghĩ xem. Ôi dào, thực tình mỗ không muốn nghĩ, nhưng bao nhiêu đôi vốn ghét nhau, do cùng lạc vào rừng, hoặc cùng dạt lên đảo hoang, lâu dần trở nên có tình với nhau”. Chàng Yến vẫn ảo não lại thở dài: “Lùi một bước nghĩ lại, nếu Mặt lạnh thực sự không có ý với Cơ Hoành, cớ sao còn cưới nàng, nếu hắn không ưng, Thiên tộc các ngươi ai dám ép?”. Nói xong những lời làm Phượng Cửu buồn bã cúi đầu, lại ngẫm thấy những lời đó cũng làm bản thân tổn thương không nhẹ, Tiểu Yến im lặng chịu đựng nỗi đau ngấm ngầm.

Phượng Cửu cảm thấy Tiểu Yến thực sự nói rất có lý, lặng lẽ chỉnh cái lá trên đầu, ngồi yên một lát, nghĩ đến một chuyện lại nghiêng đầu hỏi Yến Trì Ngộ: “Nhưng muội biết”. Nàng ho một tiếng: “Nghe đâu, lần đó họ cùng bị nhốt trong cái gì gọi là Liên hoa cảnh, khi chia tay Cơ Hoành còn muốn Đông Hoa cho nàng ta con tiểu linh hồ mà cả hai cùng tìm thấy, chẳng phải Đông Hoa không đồng ý, nếu chàng đúng là rất thích Cơ Hoành đã không hẹp hòi như vậy, chuyện này có vẻ như…”.

Yến Trì Ngộ ngắt lời nàng: “Ngươi thì biết gì, đó là mưu kế!”. Lại giải thích rõ: “Ví dụ ngươi thích Mặt lạnh, nhất định tìm cách gặp ông ta,vậy mỗ hỏi ngươi, cách tự nhiên nhất là gì?”. Không đợi nàng trả lời, Tiểu Yến đã nói chắc như đinh đóng cột: “Là mượn sách! Ngươi mượn ông ta cuốn sách một lần, trả sách lại gặp lần nữa, có mượn có trả, cứ thế dần dần thành quen, một khi đã quen còn chuyện gì khó? Đông Hoa không cho Cơ Hoành con linh hồ đó, cũng là dụng ý như vậy. Ngươi nghĩ lại xem, Cơ Hoành đã thích con tiểu linh hồ như thế, sau này nhất định thường xuyên đến cung Thái Thần của ông ta thăm nó, vậy chẳng phải cho ông ta rất nhiều cơ hội?”. Nói đoạn Tiểu Yến cau mày, phiền muộn một hồi, lại thở dài não ruột: “Con người Mặt lạnh thật thâm hiểm!”.

Phượng Cửu ngẫm nghĩ, một lần nữa bàng hoàng nhận ra Yến Trì Ngộ nói đúng. Nhớ lại, hồi đó mặc dù không cảm thấy, thực ra sau khi Cơ Hoành vào cung Thái Thần, Đông Hoa đối xử với mình quả thực rất khác. Hồi đó nàng không biết hai người họ còn có những ngày cùng chung hoạn nạn ở núi Bạch Thủy, những gì biết về họ vẫn dừng lại ở đoạn Đông Hoa từ chối Cơ Hoành ở núi Phù Vũ và nàng không tìm ra ở giữa hai người có gì khác thường khi sống chung hàng ngày. Bây giờ nghĩ lại, thì ra là nàng đã không nghĩ đến những ẩn tình sâu xa.

Ba trăm năm trước, Cơ Hoành trong cung Thái Thần là một vị công chúa rất ham hiểu biết. Phượng Cửu còn nhỏ, khi nàng dựa vào chân Đông Hoa nhìn chàng câu cá ở bên bờ ao Phấn Đà Lợi, thường xuyên thấy Cơ Hoành tay cầm cuốn sách cổ đã ố vàng chạy đến thỉnh giáo Đông Hoa, chỗ này nên giải thích thế nào, có điển cố gì, Đông Hoa đều vui lòng chỉ bảo, theo con mắt nhìn nhận của nàng lúc đó, hai người không có gì vượt qua khuôn khổ, nhưng cái sự ham hiểu biết của Cơ Hoành thực sự khích lệ nàng, những cuốn Kinh Phật chàng chú giải xong, chưa kịp sai người đến Tây Thiên hoàn trả phật Tổ, chàng đều đưa cho Cơ Hoành đọc. Quả thật về mặt này chàng rất ưu ái Cơ Hoành .

Một ngày hạ nhàn rỗi của tháng bảy, Liên Tống Quân ở cung Vô Cực cầm một cuốn giấy nhỏ ung dung đến tìm Đông Hoa Đế Quân, sau một hồi vòng vo, mới nói ra sắp đến sinh nhật của Thành Ngọc Nguyên Quân, nghe nói gần đây nàng thích sưu tầm đoản đao, nên Liên Tống vẽ một kiểu đao mới, muốn nhờ Đông Hoa đúc cho một thanh đoản đao thật độc đáo làm quà mừng sinh nhật Thành Ngọc.

Sự độc đáo ở chỗ khi cần đánh giáp lá cà thì là đoản đao, nhưng khi giao đấu ở khoảng cách xa hơn nó sẽ là thanh trường kiếm, còn khi thực lực quá chênh lệch với đối phương, nó có thể tàng giấu ám khí, phóng những mũi kim độc vào đối phương, khi đi săn lại có thể gập lại thành một cây cung sắt, ngoài ra, trong bếp nó có thể trở thành một con dao thái rau. Liên Tống Quân phong độ ngời ngời phe phẩy cái quạt, lòng thầm toan tính như sau: nếu đúc thành công thanh đoản đao này, nghĩa là khi Thành Ngọc mang đoản đao đó là tương đương với mang theo năm loại khí giới là: đoản đao, trường kiếm, ám khí, cung và dao thái, hơn nữa, do công dụng đặc biệt như vậy, nó sẽ được nàng thường xuyên mang theo người. Mặt khác Liên Tống còn tính đến một chi tiết tinh tế, khí cụ độc đáo này tuyệt đối không thể sử dụng pháp thuật để chế tạo, nhất định phải được làm bằng phương pháp thủ công, mới thể hiện sự mới mẻ và thành ý vô song của Liên tam điện hạ với Thành Ngọc Nguyên Quân. Nhưng vấn đề nan giải là Liên tam điện hạ chàng mặc dù thường làm ra thần khí hàng yêu nhưng xưa nay thiên về dùng pháp lực chế ra. Bây giờ cần làm một đoản đao tinh vi như vậy, có chút khó khăn, nghĩ đi nghĩ lại, cảm thấy muốn làm thủ công một khí cụ lợi hại độc đáo như thế chỉ có nhờ cậy Đông Hoa.

Phượng Cửu từ trong lòng Đông Hoa nhảy phắt lên án thư có bản vẽ trải rộng, nhảy nhót một vòng xung quanh, phát hiện bản vẽ quá tinh vi, nhưng có mấy chỗ hơi thô, khi lắp ghép có thể để lại dấu vết, như vậy tiếng thơm về tài năng trác việt của Đông Hoa e cũng bị ảnh hưởng. Liên Tống điện hạ, mặc dù ở tứ hải bát hoang xưa nay nổi tiếng phong lưu có tài quyến rũ nữ nhi, nhưng cũng khó phát hiện ra chi tiết tinh tế như vậy. Phượng Cửu xúc động, tim đập thình thình, hôm nay đúng là ông trời mở mắt, cho nàng cơ hội thể hiện tài năng. Nàng cho rằng mình sửa lại bản vẽ này, Đông Hoa nhất định nhận ra tài năng của nàng không thua kém gì Cơ Hoành, nghĩ tới đó lòng rạo rực sung sướng, vừa lặng lẽ dùng móng chặn lên chi tiết chưa thỏa đáng trên bản vẽ, chỉ sợ Liên Tống lại nhận chính chàng ta phát hiện ra.

Nhưng nàng đã lo xa, Liên Tống lúc này đang thuyết phục Đông Hoa giúp mình: “Hiền huynh xưa nay cũng hứng thú làm đồ gốm, mấy ngày trước đệ tìm thấy một nơi sản xuất đồ gốm trên đất của Huyền Yến ở Bắc Hoang, là nơi có loại đất làm gốm nhất đẳng, nhưng bị lão tiểu tử Huyền Yến canh giữ quá chặt, huynh giúp đệ làm thanh đoản đao này, đệ sẽ vẽ sơ đồ nơi có loại đất quý kia cho huynh, huynh nói một câu với Huyền Yến, ông ta không dám từ chối”.

Đông Hoa chậm rãi rót trà: “Hay là ta đem nguyên liệu cho ngươi để ngươi tự chế?”.

Liên Tống thở dài: “Hiền huynh không phải không biết đệ có chút hiềm với Huyền Yến. Chả là năm xưa đệ đến phủ đệ của lão tiểu tử đó dự bữa tiệc nhỏ, tiểu phu nhân của lão không may lại để ý đến đệ, ngày nào cũng viết thơ tình cho đệ, Huyền Yến vẫn để bụng chuyện đó”.

Đông Hoa thong thả đặt ấm trà xuống: “Con người ta xưa nay không nợ tình người khác nhiều, cũng không thích dùng uy ép ai”. Một tay vuốt ve bộ lông mượt của Phượng Cửu, nói tiếp: “Sau hôm nay, ngươi đem hết đồ gốm sứ trong phủ đổi hết thành kim ngân ngọc khí, lại tung tin mình bị dị ứng với đất gốm đồ gốm, đồ gốm càng thượng hạng ngươi càng dị ứng nặng. Sinh nhật ngươi năm nay, Huyền Yến nhất định sẽ cống tiến đất gốm tốt nhất của ông ta cho ngươi. Ngươi hãy chuyển cho ta”. Liên Tống nhìn chàng hồi lâu.

Đông Hoa ung dung uống ngụm trà, ngước nhìn chàng ta: “Có vấn đề sao?”.

Liên tam điện hạ cười gượng lắc đầu: “Không, không có vấn đề gì.”

Khi Liên Tống lòng phân vân, gập chiếc quạt trong tay ra về thì đã giáp Ngọ, Đông Hoa lại đi lấy cốc rót nửa cốc trà vào miệng Phượng Cửu, nàng ngoan ngoãn cúi đầu hớp hai ngụm, cảm thấy đúng là trà ngon, Đông Hoa luôn cho nàng ăn đồ ngon, uống đồ ngon, nếu nàng đúng là thú cưng thì chàng là một chủ nhân tốt hiếm có, Đông Hoa thấy nàng vẫn bất động quỳ cạnh bản vẽ, hỏi: “Ta đi chọn nguyên liệu làm đoản đao, ngươi đi không?”. Thấy nàng dứt khoát lắc đầu, còn giả vờ ngoẹo đầu ngủ, chàng xoa nhẹ đầu nàng rồi một mình đi ra.

Đông Hoa chân trước vừa bước ra khỏi cửa, Phượng Cửu chân sau đã lập tức hành động, nàng đã dần dần biết cách sử dụng hoàn thành một số động tác khó, ví dụ miệng và chi phối hợp cuộn bản vẽ lại, miệng ngậm nó quẳng lên lưng, lén chạy một mạch khỏi cung Thái Thần tránh mấy tiểu tiên đồng đang đá cầu cạnh khóm hoa, chạy thẳng đến phủ của Ti Mệnh Tinh Quân.

Nàng và Ti Mệnh xứng đáng là chỗ thâm giao từ nhỏ, chỉ bằng mấy đường móng vạch đơn giant Ti Mệnh đã hiểu nàng muốn làm gì, lấy cuộn giấy trên lưng nàng xuống, dựa vào nét vẽ chỉ dẫn của nàng, dùng bút sửa lại chỗ chưa ổn trên bản vẽ theo đúng ý nàng. Sửa xong đang định cuộn lại thì Thành Ngọc Nguyên Quân ghé chơi phủ Ti Mệnh, hứng thú ngó nhìn, đột nhiên than thở: “Kẻ nào điên rồ vẽ ra thứ đồ chơi quái dị này!”. Phượng Cửu từ bi nheo mắt nhìn xa, cảm thấy vô cùng thông cảm với Liên tam điện hạ.

Khi Phượng Cửu thở hổn hển mang được bản vẽ quay lại thư phòng, Đông Hoa vẫn chưa về, nàng ôm chân án thư thoăn thoắt trèo lên, giũ người hất bản vẽ xuống, miệng và chi phối hợp mở ra, rồi giữ cho phẳng, đang thầm nghĩ, làm thế nào dùng móng nói với Đông Hoa, bản vẽ này có chỗ không ổn, nàng đã nhờ bằng hữu sửa lại theo ý nàng, không biết có hợp ý Đông Hoa, thì có hai tiếng gõ cửa, ngừng một lát, lại “cạch” một tiếng tự mở ra. Nửa cái đầu xinh đẹp của Cơ Hoành thò vào, thấy nàng ngồi trên án thư hình như công chúa rất thích, vội vàng chạy đến bên án, Phượng Cửu mắt sắc nhìn thấy trong tay Cơ Hoành cầm một cuốn kinh Phật đã ngả vàng, Một thiếu nữ Ma tộc thích đọc kinh Phật như vậy nàng mới gặp lần đầu.

Cơ Hoành tìm trước tìm sau một lượt, trở về xoa xoa đầu nàng, nheo mắt hỏi: “Đế Quân không có nhà ư?”

Nàng ngoảnh đầu sang bên không cho nàng ta xoa, tung người nhảy vào chiếc ghế gỗ hoa lê bên cạnh án thư, tâm trạng Cơ Hoành hôm nay hình như rất tốt, lại không chấp thái độ thiếu thân thiện đó của nàng, vừa ngân nga một điệu hát vui vui vừa rút một cây bút trong ống bút trên án, nhìn Phượng Cửu đang thảo luận với nàng: “Hôm nay có một đoạn kinh đặc biệt khó hiểu, Đế Quân lại thường xuyên hành tung bất định, mi xem ta để lại mảnh giấy cho chàng được không?”. Phượng Cửu ngoẹo đầu sang một bên, không nhìn công chúa.

Cơ Hoành vừa cầm bút, chấm mực, đầu ngọn bút lông dê còn chưa chạm vào mảnh giấy nhỏ nàng vừa tìm thấy trên án, cánh cửa đã mở ra. Lúc này người đứng ở ngưỡng cửa, ngược chiều ánh sáng chính là chủ nhân của thư phòng, Đông Hoa Đế Quân tay xoay xoay một mảnh thép thiên nhiên đen huyền óng ánh, sau khi đẩy cửa đi thẳng đến bên án thư như không nhìn thấy ai, lúc đó mới hơi liếc Cơ Hoành đang cầm bút và bức vẽ trên án.

Lát sau, chàng cầm bức vẽ lên ngắm ngía, trái tim Phượng Cửu như nhảy vọt lên tới cổ họng, quả nhiên nghe thấy giọng Đông Hoa trầm ngâm nói với Cơ Hoành: “Hai chỗ này là nàng thêm vào? Sửa rất hay”. Trong giọng nói quả nhiên có một vẻ khâm phục hiếm hoi mới thấy chàng bộc lộ: “Ta tưởng nàng chỉ biết đọc sách, không ngờ còn biết cả thứ này” . Một nhân tài về binh khí đã hiếm, mà lại kim khí cho nên chàng lại hào phóng khen thêm hai câu: “Có thể hiểu được bản vẽ này của Liên Tống đã là khó lại còn tìm ra hai chỗ khiếm khuyết để sửa, ca ca nàng nói nàng hiểu nhiều biết rộng quả không sai”. Cơ Hoành vẫn cầm bút mặt băn khoăn nhưng vẫn lộ vẻ phấn khởi, vô tình ghé sát Đông Hoa ngó xem bức vẽ.

Phượng Cửu sưng sờ nhìn nàng ta áp lại gần mà Đông Hoa không có ý né tránh, chàng còn thản nhiên đưa bức vẽ cho Cơ Hoành: “Nàng đã hiểu cái này lại có hứng thú, ngày mai ta bắt đầu mở lò luyện đao, nàng cùng ta làm nhé”.

Cơ Hoành xưa nay ham hiểu biết, cần mẫn đọc sách, mặc dù không hiểu mấy câu hỏi trước của Đông Hoa nhưng câu sau thì hiểu vui vẻ nhận lời: “Có thể cùng làm việc với Đế Quân, học những điều mới mẻ là phúc phận của nô tỳ” . Rồi lại tỏ ra hơi lo lắng: “Nhưng nô tỳ vụng tay, sợ làm vướng chân Đế Quân”. Đông Hoa nhìn bức vẽ lần nữa, rồi vừa đưa cho công chúa, giọng chàng vẫn vẻ khâm phục khó giấu: “Nàng chỉ nói vậy, nàng đâu có ngốc”.

Phượng Cửu bi phẫn nhìn mọi chuyện xảy ra, không kìm được, lao đến cắn một cái vào tay Cơ Hoành, Cơ Hoành kinh hoàng kêu “ối” một tiếng, Đông Hoa giơ tay tóm Phượng Cửu đang giận giữ nhe răng, chàng cau mày hạ giọng hỏi: “Sao lại tùy tiện cắn người? Lại là ân nhân của ngươi?” Nàng muốn nói không phải lỗi của nàng, tại Cơ Hoành nói dối, chính nàng sửa bản vẽ chứ không phải Cơ Hoành. Nhưng không nói ra được, nàng bị Đông Hoa nâng lên ngang mặt, cử chỉ này của chàng rõ ràng là cưng chiều một con thú, họ xưa nay chưa từng thực sự bình đẳng. Phượng Cửu bỗng thấy buồn vô hạn, cố vùng vẫy thoát khỏi tay chàng, loạng choạng va hết chỗ nọ chỗ kia trong phòng mới ra tới cửa, chân vừa phóng qua cửa, nước mắt đã rơi lã chã. Một chút bất cẩn chân sau mắc vào bậu cửa, ngã lăn ra đất đau tái mặt, nấc lên một tiếng, khi ngoái đầu, đôi mắt nhòe ướt lại chỉ nhìn thấy Đông Hoa cúi đầu xem vết thương trên tay Cơ Hoành, đến một cái liếc mắt cũng không dành cho tiểu hồ ly bị bắt nạt này. Thực ra nàng không cắn sâu, cho dù ấm ức cũng không làm được chuyện xấu, có lẽ Cơ Hoành quá nhạy cảm, đặc biệt sợ đau, nếu sớm biết nàng đã cắn nhẹ hơn chút nữa, Phượng Cửu cố kìm nước mắt bỏ chạy, sau khi cơn tức tối qua đi lòng lại thấm buồn, nỗi buồn của một tiều hồ ly không được coi là nỗi buồn sao?

Phượng Cửu bị quân vương Huyền chi Nhiếp Sơ Dần của Ma tộc lấy đi hình hài vốn có, khốn đốn trong tấm da hồ ly tầm thường, không dễ thoát thân, hơn nữa trong khốn cảnh đó còn gánh vác trọng trách nhân sinh theo đuổi tình yêu với Đông Hoa, quả thực càng khó khăn. Nàng cũng hiểu đã rơi vào khốn cảnh như vậy việc gì cũng phải nhẫn nhịn. Câu tục ngữ “Xót con thì không lừa được chó sói” chính là vậy. Hành xử lần này với Cơ Hoành quả thực quá đáng, khiến nàng ta bộc lộ tính điệu đà tiểu thư vốn không mấy khi bộc lộ.

Nàng cảm thấy thái độ của Đông Hoa rõ ràng là đứng về phía Cơ Hoành, nàng với Cơ Hoành có xích mích, Đông Hoa lựa chọn giúp Cơ Hoành chứ không phải nàng, lại còn không phân biệt phải trái mắng nàng trước. Phượng Cửu càng tủi thân, phiền muộn, so vai rụt cổ thu mình trong khóm hoa.

Vốn định lủi ra xa một chút, nhưng lại hy vọng Đông Hoa thông minh như vậy, lát nữa biết đâu sẽ nghĩ lại ban ngày đã trách oan cho nàng, chạy đi tìm nàng xin lỗi? Ngồi xa quá nhỡ chàng không tìm được thì sao? Vậy thì vẫn nên ngồi gần một chút, nàng ủ rũ đi một vòng khắp cung Thái Thần, rầu rĩ lựa chọn khóm hoa câu tô ma trước cửa tẩm điện của Đông Hoa. Để nằm dễ chịu một chút, nàng lại lặng lẽ đi đến suối Tiểu Hoa gần đó nhặt ít cỏ cát tường vò rối, lặng lẽ làm một cái ổ cho mình trong khóm hoa. Bởi rất đau lòng lại mất sức, nằm co trong ổ ngáp mấy cái, hai mi mắt cố gắng gượng một hồi rồi từ từ khép lại.

Khi Phượng Cửu thức dậy đúng lúc có làn gió thổi qua, hoa câu tô ma trên đầu rung rào rào, mới mơ màng thò đầu ra, chỉ thấy ánh sao rực đầy trời, sáng đến nỗi hạt bụi trong đám mây bay bên cạnh cũng nhìn rõ, bồ đề vãng sinh phía xa phát ra những đốm sáng xanh yếu ớt trong màn đêm yên tĩnh, giống như những con đom đóm đột nhiên lớn gấp bội lặng lẽ đậu trên tường cung. Nàng ba chân bốn cẳng định chạy ra nhìn xem Đông Hoa đã về chưa, ngẩng đầu, quả nhiên thấy tẩm cung chỉ cách mấy bước, đã thắp đuốc. Nhưng Đông Hoa rốt cuộc có đi tìm nàng không lại khiến Phượng Cửu rất băn khoăn. Nàng nhảy lên bậc thềm trước đèn, kiễng chân ôm bậu cửa cao, qua cánh cửa mở hé nhìn vào trong điện, muốn tìm ra một chút manh mối, chỉ một cái nhìn, toàn thân đã như bị đóng đinh trên bậu cửa.

Vừa rồi ngửa nhìn trời, sao Nam Đẩu đã di chuyển vào Nhị Thập Tứ Thiên, theo chút ít kiến thức của nàng về sao, hiểu ra lúc này đã qua giờ Hợi. Giờ này mà Đông Hoa cơ hồ lại không hề buồn ngủ mà đang cầm bút vẽ gì, hình như là vẽ bình phong, nhưng tại sao Cơ Hoành lại ở trong tẩm điện của chàng? Phượng Cửu sững sờ dán người vào bậc cửa, mãi vẫn không hiểu ra thế nào.

Trên xà ngang treo bằng pha lê treo mấy chiếc đèn hình cành cây soi khắp tẩm điện sáng như ban ngày, chàng trai áo chùng tím đứng trước bức bình phong trắng tinh vẫn chưa vẽ được gì và thiếu nữ áo trắng phục trước án thư đang cầm bút cắm cúi vẽ. Nhìn xa đúng là bức họa tuyệt mỹ, mà bức họa này phải là kiệt tác của phụ thân nàng, một họa sư tài hoa nhất tứ hải bát hoang.

Gió lùa qua cửa sổ, làm ngọn đuốc trên cao chập chờn chực tắt, thực ra nên đổi những ngọn đuốc đó thành dạ minh châu, ánh sáng trong, tự nhiên lại bình ổn hơn nhiều nhưng Đông Hoa mấy năm nay hình như thích phong vị mập mờ sáng tối.

Trong khung cảnh tích mịch đó, Cơ Hoành đột nhiên gác bút, hơi nghiêng đầu nói với Đông Hoa: “Đây chính là chỗ gập trường kiếm thành cái hộp sắt, bên trong cần để những chiếc kim lê hoa tạo thành một ống đựng kim khí bí mật, bản vẽ của tam điện hạ cố nhiên là hoàn hảo, nhưng nét này nô tì suy nghĩ rất lâu cũng không hiểu điện hạ muốn thể hiện ý gì, Đế Quân…”, đang nói thấy Đông Hoa tay cầm bút lướt trên bức lụa trắng, chăm chú như quên bẵng xung quanh, những bông hoa phật linh hiện ra dưới ngọn bút, bên rìa bức lụa, trông mềm mại sinh động tựa như chao mình trong gió, công chúa dừng một lát, nhẹ nhàng sửa lại cách xưng hô: “…sư phụ…” giọng mặc dù nhẹ hơn tiếng muỗi nhưng vẫn lọt vào tai Đông Hoa. Chàng dừng bút ngoái nhìn nàng, không phản đối cách xưng hô đó chỉ buông hai chữ: “Nói đi!” .

Phượng Cửu xưa nay vốn tinh mắt, dù ánh đuốc lập lòe lại cách một đại điện vẫn nhìn thấy gợn hồng trên má Cơ Hoành lúc cúi đầu. Ánh mắt Cơ Hoành cúi xuống trên nền điến sáng choang: “Ý nô tỳ là sư phụ có thể dừng bút chỉ dẫn nô tỳ một chút…”.

Cuối cùng Phượng Cửu đã hiểu nàng ta đang vẽ gì, chế tạo thần khí xưa nay Đông Hoa vốn không phải động tay, các công việc tầm tầm, không nặng không nhẹ như mạ, đúc xưa nay đều do các tiên bác đảm nhiệm, lúc này có lẽ Cơ Hoành đọc bản vẽ của tam điên hạ, sau đó vẽ lại cho rõ ràng, đơn giản để các tiên bác dễ hiểu dễ thực hiện.

Hiểu ra nguyên do cảnh tượng kia, Phượng Cửu coi như không còn khúc mắc nữa, thấy Cơ Hoành vụng tay như vậy, nàng lại mừng, nỗi mừng chưa kịp lan ra, lại buồn. Mừng là vì chỗ Cơ Hoành thấy khó đối với nàng lại cực đơn giản, nghĩa là nàng sáng trí hơn nàng ta. Buồn bởi vì đây là điểm duy nhất nàng hơn Cơ Hoành nhưng công lao này cuối cùng lại bị nàng ta cướp mất. Nàng âm thầm nuôi hy vọng ngay một chuyện đơn giản như vậy Cơ Hoành cũng làm không tốt, theo tính cách Đông Hoa không biết có châm biếm vài câu. Lại khấp khởi chờ xem đoạn sau thế nào.

Nhưng trái với mong đợi, Đông Hoa lại chẳng nói gì, chỉ giơ tay đón cây bút Cơ Hoành đưa, cúi đầu vẽ hai nét trên bản vẽ, xong xuôi nhẹ nhàng giải thích: “Đây là chốt kim loại, ấn vào miếng thép là có thể thu kiếm về, Liên Tống vẽ quá đơn giản.” Nói vắn tắt hai câu lại ngẩng nhìn Cơ Hoành: “Hiểu chưa?” Có vẻ rất sẵn lòng nhẫn nại giải thích thêm.

Phượng Cửu vô thức há miệng thấy cổ họng càng nghẹn càng đau. Nàng còn nhớ khi mình thỉnh thoảng ngốc nghếch, hoặc là Trọng Lâm làm gì không vừa ý Đông Hoa, chàng luôn giễu cợt làm tổn thương lòng tự trọng của họ, như một thói quen. Nhưng chàng không làm tổn thương lòng tự trọng của Đông Hoành, chàng rất dịu dàng với nàng ta.

Dưới ánh đuốc bập bùng khi Cơ Hoành đỏ mặt gật đầu, Đông Hoa lại cầm cây bút lúc trước gác trên nghiên mực, nhìn nàng một cái nói: “Hai chỗ kia Liên Tống cũng vẽ đơn giản chẳng phải nàng đã sửa rất tốt sao? Chỗ này thực ra đâu khó bằng.”

Cơ Hoành ngớ người, sắc hồng trên mặt phai đi ít nhiều, lát sau nói: “… Hai chỗ đó…” lại dừng “…là do may mắn thôi.” Nụ cười gượng vụt tắt: “Nhưng trước giờ nô tỳ chỉ đọc sách một mình, chỉ biết những điều vụn vặt, sao bằng hôm nay theo sư phụ học thêm được rất nhiều.” Sắc hồng lại dậy trên má, át đi màu trắng xanh xao, trong yên lặng, ánh mắt Cơ Hoành dừng lại trên bức bình phong Đông Hoa đang vẽ, mắt chợt sáng lên, khẽ nói: “Cũng muộn rồi, nhưng… nô tỳ muốn đêm nay vẽ cho xong. Để kịp thời gian thi công của sư phụ, nếu đêm nay nô tỳ vẽ xong, sư phụ có thể tặng nô tỳ bức bình phong này coi như thưởng cho nô tỳ?”

Đông Hoa cơ hồ hơi ngạc nhiên, nhưng lại thoải mái nhận lời bằng một từ giản gọn: “Được.” Đúng lúc ngòi bút lông điểm vào tấm lụa trắng căng phẳng, chỉ vài nét phác đơn giản cảnh sơn thủy với những đỉnh núi lẩn trong sương thấp thoáng hiện ra. Cơ Hoành bỏ cây bút trong tay, cũng ghé đến thưởng thức bút pháp của chàng, lát sau không cưỡng được cơn buồn ngủ, che miệng ngáp mấy cái. Đông Hoa tay cầm bút vẫn lướt như múa trên tấm lụa, giục nàng: “Về nghỉ đi, ngày mai làm tiếp.”

Cơ Hoành lấy tay che miệng nói: “Nhưng như vậy sẽ ảnh hưởng đến thời gian thi công của sư phụ?”. Mắt liếc bức bình phong, lại bẽn lẽn: “Nô tỳ vốn định hoàn thành công việc sẽ được thưởng bức họa này đem về…”

Đông Hoa bỏ bút lông sói vào bình rửa, thay cỡ bút lông dê nhỏ hơn chấm mực: “Một ngày có là gì, còn bức bình phong này ta sẽ cho Trọng Lâm mang đến cho nàng”.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 14-7-2014 18:59:59 | Chỉ xem của tác giả
6.3

Thực ra đến bây giờ, Phượng Cửu vẫn chưa làm rõ được lúc đó nàng đã rời tẩm điện của Đông Hoa như thế nào. Một số người sau khi tinh thần bị chấn động mạnh sẽ lựa chọn lãng quên ký ức gần với sự kiện đó, nàng đoán mình cũng thuộc số này. Chỉ còn nhớ là sau đó hình như nàng lại trở về cái ổ cỏ của mình, nằm ngắm sao một lúc, trong cái đầu trống rỗng vẫn vấn vương cái ý nghĩ xem chừng Đông Hoa không có ý đi tìm nàng nhưng rồi lại nghĩ, thì ra, nếu yêu cầu Đông Hoa cũng có thể đáp ứng, nhưng sao chưa thấy chàng làm thế với nàng?

Phượng Cửu từng nhiều lần thầm ao ước, tưởng tượng, nếu có một ngày nàng có thể qua lại với Đông Hoa dưới hình hài con người chứ không phải hồ ly, thậm chí nếu Đông Hoa thích nàng, họ sẽ sống chung thế nào, trước đó nàng luôn không thể tưởng tượng ra, nhưng qua đêm nay nhìn thấy cảnh chàng ở bên Cơ Hoành, nàng cảm thấy nếu thực sự có ngày đó, nàng và Đông Hoa ở bên nhau có lẽ cũng chỉ như thế. Rồi lại nghĩ Cơ Hoành vào cung Thái Thần vốn là để làm phu nhân của Đông Hoa, kề cận bên chàng, chỉ tại nàng xưa nay mãi không chịu nhìn thẳng vào sự thực đó mà thôi.

Nàng và Đông Hoa tựu chung có ngày đó không, lần đầu tiên Phượng Cửu cảm thấy chuyện đó trở nên quá xa vời. Nàng mơ hồ cảm thấy mình đến Cửu Trùng Thiên xa lạ, hy sinh nhiều như vậy tuyệt đối không phải vì kết cục đó, khi mới đến đây, nàng tràn trề hi vọng thế nào. Nhưng bây giờ, biết làm sao, bước tiếp theo sẽ thế nào nàng hầu như không có ý niệm gì hết, chỉ cảm thấy mệt mỏi bải hoải trong gió đêm thấm lạnh. Ngẩng đầu nhìn ánh sao lóng lánh như tuyết, bốn trăm năm nay, lần đầu tiên Phượng Cửu thấy nhớ Thanh Khâu xa cách vạn trùng, nhớ những người thân bị nàng bỏ lại quê hương.

Đêm nay cảnh huyền hoặc thơ mộng là thế, sao lòng nàng tan nát nhường này?

Đêm đó Đông Hoa không những không đi tìm nàng, mấy ngày sau cũng không. Phượng Cửu âm thầm nghĩ, ngày thường chàng làm gì cũng đưa nàng đi cùng, có phải chỉ do cảm thấy quá trống trải, cần có vật gì ở bên, vật đó là gì cũng không quan trọng. Hôm nay, chàng lại có một đệ tử thông minh lanh lợi xinh đẹp như Cơ Hoành ở bên, không chỉ có thể giúp chàng việc vặt mà còn có thể nói chuyện giải khuây, chàng đã không cần tiểu hồ ly này nữa.

Càng nghĩ càng thấy sự tình có lẽ đúng như thế, nỗi chua chát lại đầy vơi trong lòng.

Mấy ngày nay Cơ Hoành và Đông Hoa quả thực quấn quýt như hình với bóng, mặc dù khi họ ở bên nhau, Phượng Cửu luôn nấp trong khóm hoa hoặc bụi cỏ phía xa quan sát, do có đôi tai thính vẫn có thể loáng thoáng bắt được vài lời của họ. Nàng phát hiện, nhiều câu nói của Cơ Hoành làm Đông Hoa hứng thú. Ví dụ, nói tới chuyện nung gốm sứ, Phượng Cửu cảm thấy nếu nàng có thể nói được, khi Đông Hoa vừa nung thành công một bình rượu bằng sứ trắng bóng tinh xảo cầm trên tay ngắm nghía, nàng cũng chỉ có thể nói đại loại như, chiếc bình xem ra có thể bán được khá tiền. Nhưng Cơ Hoành thì khác. Cơ Hoành vuốt ve bình rượu dáng thon tinh xảo, mỉm một nụ cười đôn hậu nói với chàng: “Nếu sư phụ dùng đan thạch mài thành bột nhào với đất nặn hình, có thể chiếc bình sau khi nung sẽ có màu ráng hồng rất đẹp”. Cơ Hoành nói vậy, mặc dù Đông Hoa chưa kịp trả lời, nhưng Phượng Cửu quan sát sắc mặt chàng nhận ra, chàng vô cùng hứng thú.

Nàng ém mình trong đầm cỏ nhìn một hồi, càng nhìn càng thấy chướng mắt, vẫy cái đuôi dài định lảng đi chỗ khác chơi. Không ngờ ém người lâu, chân hơi tê, khi tập tễnh đứng lên liền bị Cơ Hoành tinh mắt liếc thấy, vội vàng chạy đến, giơ tay như muốn ôm nàng.

Phượng Cửu lòng thầm cảm phục, Cơ Hoành thực sự không để bụng chuyện mấy hôm trước, nhìn đôi tay ngọc chìa ra, chỉ cách mình một đoạn bằng chiếc lá phỉ, cuối cùng Cơ Hoành cũng nhớ ra vết răng hôm trước vẫn còn trên tay, đôi tay đó thoáng đắn đo dừng lại, Phượng Cửu im lặng nhìn nàng ta một lát, lại nhìn Đông Hoa cũng theo Cơ Hoành vừa đến, nhưng hận cái chân vẫn còn tê không chạy được, đành cụp đôi mắt hồ ly tròn xoe xuống, tủi thân ngoảnh đầu sang bên. Bộ dạng này nhìn rất nhu mì tội nghiệp, không ngờ khiến Cơ Hoành động lòng, đôi tay ngọc vốn dừng trên không lại tiến tới kéo nàng vào lòng, rồi dịu dàng vuốt mảng lông trên đầu còn chưa phát triển đầy đủ của nàng, thấy nàng không phản đối, lại càng vui vẻ vuốt tiếp.

Phượng Cửu không phải không muốn cự lại, chỉ vì tứ chi đang tê, vừa tê vừa mỏi không có sức phản kháng. Lại thêm lòng sầu muộn, nhớ lại lúc ở núi Phù Vũ khi Cơ Hoành xin nuôi nàng, Đông Hoa đã từ chối thẳng thừng, bây giờ nàng bị Cơ Hoành thương hại như vậy, chàng lại như không thấy, đứng nhìn cảnh đó, cơ hồ lại thấy thú vị, quả nhiên chàng đã có ý khác với Cơ Hoành.

Cơ Hoành hài lòng vuốt ve nàng một hồi mới buông tay, nâng nàng lên cao hỏi: “Rõ ràng trong Thập ác liên hoa cảnh mi thích ta như vậy, lúc chia tay còn lưu luyến thế. Ồ, có lẽ mi cũng lưu luyến sư phụ, nhưng bây giờ ta và sư phụ có thể cùng chăm sóc mi, tiểu hồ ly mi lẽ ra nên vui chứ?”. Thấy nàng mãi không có phản ứng, mạnh dạn ôm nàng lên quay về phía lò gốm chỗ hai người làm việc.

Phượng Cửu cảm thấy máu trong người dần dần lưu thông, muốn vùng vẫy thoát ra, không ngờ Cơ Hoành đọc bản vẽ thì yếu, nhưng tay ôm rất chặt, đi đến chiếc ghế đá mới hơi nới lỏng, giơ tay véo nắm đất nặn thành chiếc bát, vui vẻ nói với nàng: “Đây là bát ta với sư phụ làm riêng cho mi, vốn định vẽ một số họa tiết đánh dấu, vừa rồi đột nhiên nghĩ ra ấn móng của mi vào đánh dấu chẳng phải cũng rất thú vị sao”.

Nói xong nắm lấy móng phải chi trước của nàng, ấn một dấu nhỏ vào cái bát.

Lòng tự trọng của Phượng Cửu thất tán sau mấy ngày lang thang bên ngoài đột nhiên quay về, tiếng Cơ Hoành vốn trong như giọng oanh vàng, nhưng không biết sao hôm nay nghe như chích vào tai, nhất là câu: ‘Ta và sư phụ có thể cùng chăm sóc mi. Ta và sư phụ làm riêng cho mi cái bát”. Tựu chung tại sao nàng núp trong hình hài này phục bên cạnh Đông Hoa, mà đến giờ sau bao nhiêu nỗ lực bền bỉ, những gì đạt được chẳng qua chỉ là địa vị của con thú cưng, nàng thấy mình thật vô dụng. Nàng vốn là tiểu nữ thần tiên được sủng ái nhất Thanh Khâu, mặc dù vương thất Thanh Khâu của nàng trong con mắt Cửu Trùng Thiên có quan niệm đẳng cấp khắt khe, xem ra quá tùy tiện thiếu lễ nghi, nhưng đồ dùng bữa của nàng không phải là cái bát sứ thường, không phải ngủ trên ổ rơm, lòng tự trọng của nàng đột nhiên phình lên, lại thêm Cơ Hoành cơ hồ quên hẳn chuyện bị nàng cắn hôm trước, vẫn vui vẻ cầm chiếc móng ngọc của nàng hồn nhiên ấn vào cái bát bằng đất sét, nỗi ấm ức trào lên, Phượng Cửu trở tay cào Cơ Hoành một cái.

Cái vuốt vốn cong và sắc, nàng lại bất chấp nặng nhẹ, do Cơ Hoành vẫn nửa quỳ ôm nàng trong lòng, cả bộ vuốt sắc cào mạnh vào má nàng ta, để lại năm vệt dài rớm máu, hai vệt sâu nhất lập tức rỉ ra hai giọt máu.

Lần này Cơ Hoành lại không hét kêu đau, chỉ đờ đẫn bất động, sắc mặt quá bàng hoàng, cái bát vừa nặn trong tay rơi xuống bẹp dúm. Máu trên mặt ứa càng nhiều, nhìn thấy hai vệt máu đã tụ thành dòng nhỏ, chạy dọc theo má, nhỏ xuống nhuốm đỏ cổ áo nàng ta.

Phượng Cửu trố mắt bối rối.

Nàng lờ mờ cảm thấy, lần này do kích động nhất thời, nàng đã gây họa lớn.

Trước mắt bỗng nổ đom đóm, Phượng Cửu thấy Đông Hoa dùng chiếc mùi soa trắng muốt, một tay bịt miệng vết thương, lau máu cho Cơ Hoành, tay kia túm gáy mình lôi khỏi lòng Cơ Hoành. Cuối cùng Cơ Hoành như sực tỉnh, tay run run kéo ống tay áo Đông Hoa lau nước mắt: “Thiếp…thiếp chỉ muốn thân thiện với nó, rõ ràng trước đây nó…nó thích thiếp”. Đông Hoa cau mày đưa mùi soa cho nàng ta, Phượng Cửu bàng hoàng phục trên đất nhìn động tác đó của chàng, đầu vẫn còn nghĩ, con người này có lúc thực tinh tế, nhiều nước mắt như thế chảy qua vết thương trên mặt Cơ Hoành nhất định là chàng rất đau lòng, thương xót nên đưa khăn để nàng ta lau nước mắt.

Đằng có tiếng chân bước gấp, Phượng Cửu cũng chẳng ngoái lại xem người đến là ai, chỉ thấy Đông Hoa quay đầu lạnh nhạt nói: “Dạo này nó quá tai quái, đem nhốt lại”. Đến khi Trọng Lâm đứng cạnh nàng cung kính cúi đầu, vâng một tiếng, nàng mới hiểu hai chữ “tai quái” Đông Hoa vừa thốt ra là nói ai.

Phượng Cửu đờ đẫn mãi, đến khi bừng tỉnh thì cả Đông Hoa lẫn Cơ Hoành đã không còn ở đó, chỉ có lò gốm bên cạnh đang lập lòe đỏ lửa, ngoài kia cách ngọn lửa lập lòe một trượng là Trọng Lâm trưởng quản cung Thái Thần đứng ngây như gỗ, khi thấy trong đôi mắt mộng du của nàng đã có thần, mới thở dài, cúi người vẫy nàng lại: “Đế quân ra lệnh nhốt ngươi, cũng không biết nhốt ở đâu, nhốt đến bao giờ, vừa rồi các ngươi gây ra chuyện gì nước mắt vắn dài ta cũng không tiện hỏi nhiều”. Ông ta lại thở dài: “Tạm thời đến phòng ta ngồi một lát”.

Ngày trước nàng làm sai chuyện gì, chỉ cần phụ thân cầm roi là nàng đã chạy biến. Nếu không muốn bị nhốt nàng cũng có thể nhẹ nhàng trốn thoát, nhưng lúc này nàng không chạy trốn, thẫn thờ theo sau Trọng Lâm đi trên con đường nhỏ hai bên đầy hoa, lòng trống trải, muốn cào cấu vào đâu đó, lại không biết cào cấu vào đâu, một con bướm lượn lờ chao một vòng trước mắt, nàng thảng thốt giơ chân trước xua nó đi. Trọng Lâm ngoái đầu nhìn, lại thở dài.

Ngồi trong phòng của Trọng Lâm không biết bao lâu, lòng mỗi lúc một càng sầu héo. Trọng Lâm cho biết tình trạng vết thương của Cơ Hoành, thì ra công chúa Cơ Hoành từ nhỏ đã sợ máu, da thịt lại non, cho dù chỉ một vết thương nhỏ cũng chảy rất nhiều máu, có điều dù với người cơ thể săn chắc mà bị cào như vậy, cũng vẫn bị thương nặng, huống hồ công chúa Cơ Hoành, cho nên phải chiết mấy viên tiên đơn linh dược của Đông Hoa mới coi như tạm ổn, làm mọi người lao tâm lo lắng một phen.

Nhưng Trọng Lâm không nói, Đông Hoa định nhốt nàng bao lâu, cũng không nói vì sao, sau đó chàng không hề đến thăm nàng, có phải sai người nhốt xong liền quên ngay, hoặc là chàng đã lại có một con thú cưng mũm mĩm khác nên quên hẳn nàng. Con người Đông Hoa, hình như rất nhiều thứ có thể gây hứng thú nhất thời đối với mắt xanh của chàng. Câu cá, chế hương, nung gốm, thực ra có lúc nàng lờ mờ cảm thấy, chàng hầu như không để tâm vào mấy thứ lặt vặt đó. Cho nên nàng cũng không thể biết Đông Hoa liệu có để một tấc lòng hoặc nửa tấc lòng vào con thú cưng là nàng không.

Mấy ngày sau, Phượng Cửu thấy lông trên người vón lại từng mảng, mụn nổi từng đám, Trọng Lâm hình như cũng không đành lòng thấy nàng ngứa ngáy, đứng ngồi không yên, tự ý thả nàng ra, nhưng dặn dò nhớ lưu ý tránh Đế Quân, nếu để Đế Quân nhìn thấy là sẽ khiến ông ta mất chức trưởng quản cung Thái Thần này, Phượng Cửu gật đầu coi như nhận lời, ngật ngưỡng đi ra ngoài trời sưởi nắng, rũ bộ lông vừa rụng vừa nhạt màu hậu quả những ngày bị nhốt trong nhà.

Những nơi Đông Hoa thường đến đương nhiên không thể lai vãng, đầu óc trống rỗng, Phượng Cửu bước thấp bước cao, không biết lạc chân đến chỗ nào, tai bỗng láng máng nghe thấy mấy vị tiểu tiên đồng chơi trò oẳn tù tì, một tiểu tiên đồng nói với tiểu tiên đồng khác: “Nói trước nhá, lần này ai thua, người đó phải đi cho con súc sinh lông lá đó ăn, ai chơi ăn gian kẻ đó là con ba ba!” Tiểu đồng gật đầu: “Được! Ai chơi ăn gian kẻ đó là con ba ba.” Lại nói nhỏ vẻ hiếu kỳ: “Nhưng con sư tử trắng một cách hung dữ như thế, vị quân vương Xích chi Ma tộc lại mang đến tặng công chúa Cơ Hoành để cưỡi, các tiểu đồng nói xem công chúa Cơ Hoành hiền hậu như vậy liệu có cưỡi được con vật lông lá hung dữ đó không?” Một tiểu đồng thật thà: “Cũng khó nói, nhưng khi con súc sinh đó được đưa vào cung, Đế Quân ngài lại rất thích”.

Phượng Cửu đã nghe Chiết Nhan nói, Đông Hoa thích những con vật có lông mượt, hơn nữa phải có tướng mạo uy mãnh. Đầu nàng trống rỗng lý giải lời của các tiểu tiên như sau: Đông Hoa đã tìm được thấy thú cưng vừa ý hơn, bây giờ ngay đến là thú cưng của chàng, nàng cũng không còn tư cách.

Bốn trăm năm nay, tất cả những gì có thể, nàng đều đã cố hết sức, nếu đến giờ kết quả vẫn vô vọng, có phải trong sổ se duyên của Ông Tơ đã viết rõ rành, nàng và Đông Hoa hoàn toàn vô duyên?

Phượng Cửu tâm thần ngơ ngẩn men theo dòng suối xanh xanh đi về phía trước, không lâu sau nhìn thấy một hàng rào gỗ chắn lối đi, nàng ngơ ngác một hồi, phía dưới hàng rào có một khe hở đủ chui qua, Phượng Cửu nghiêng người lách qua, theo dòng suối đi tiếp, mới được hai ba bước chân đã khựng lại.

Nàng thu mình nấp sau cây hạnh tử già to cao bên đường trầm tư hồi lâu, thò cái đầu lông lờm xờm ra, căng mắt nhìn, xa xa phía trước một con sư tử trắng, chỉ có một cánh không biết xuất hiện từ lúc nào.

Còn người đứng trước con sư tử độc đáo đó chính là Đông Hoa đã mấy ngày nàng không gặp.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 14-7-2014 19:01:12 | Chỉ xem của tác giả
6.4

Trong rừng có mấy đám mây bảy sắc lơ lửng, dấu hiệu linh khí hội tụ. Nàng nép sau gốc cây nhìn trộm Đông Hoa dáng cao thẳng đẹp như ngọc tạc đứng bên khóm hoa, nàng tuy tủi thân, cũng rất nhớ chàng. Nhưng không dám chạy ra, nàng đã làm Cơ Hoành bị thương, khiến chàng phẫn nộ, đến giờ vẫn chưa nguôi. Mặc dù cho rằng mình đáng thương hơn, nhưng bây giờ nàng đang theo đuổi Đông Hoa, do vậy dù tủi thân thế nào cũng chịu nhún, nàng đã xác định rõ như thế.

Cạnh chân Đông Hoa có một chiếc thùng gỗ mở nắp, trong thùng thò ra mấy đóa tuyết linh chi trắng đục, Phượng Cửu hiểu, con sư tử trắng kia là loài mãnh thú quý hiếm chỉ ăn linh chi, nhưng Đông Hoa lại đem linh chi thượng thặng nhất cho nó ăn, loại linh chi đó, ngay nàng cũng chưa được nếm. Lúc này thấy chàng cúi xuống cầm lên một miếng, con sư tử trắng đứng cách vài bước đã nhảy vù tới như cơn lốc, ăn ngấu nghiến trên tay chàng, chớp mắt cái đã ngốn xong, thỏa mãn ợ một cái. Phượng Cửu thấy chướng mắt, vừa ngoẹo đầu vừa lén dứ nắm đấm. Đông Hoa cho nó ăn xong, tay vuốt ve bộ lông trắng như tuyết bóng mượt của nó, giống như đã làm với nàng những lúc nàng làm nũng.

Phượng Cửu cảm thấy mấy ngày nay tâm thần mình càng lúc càng bất ổn, lần này khi nàng vừa sực tỉnh sau một hồi ngơ ngẩn, ngước nhìn, cả Đông Hoa và sư tử trắng đều biến mất. Nàng giơ tay dụi mắt phía trước chỉ có đám mây bảy sắc. Nàng còn hoài nghi có phải mình nằm mơ, khi ngẩng đầu lại va phải thân cây hạnh tử, đang mơ màng nghĩ, nếu vừa rồi là mơ tại sao mình lại nép sau thân cây thì chợt nghe thấy một giọng ồm ồm khủng khỉnh: “Này, mi chính là con linh thú trước đây Đế Quân sủng ái nhất đấy à?”

Phượng Cửu cảm thấy hai chư “trước đây” như trích vào tai nhưng nàng đang buồn chán, không có sức bận tâm cái đó. Mắt vừa lóe, ngoái về phía tiếng nói, một tia chớp vụt trong đầu, tức thì tỉnh táo hẳn, kẻ đứng đằng sau hỏi nàng câu đó chính là con sư tử trắng một cánh vừa rồi khi còn cách khá xa, thân hình đồ sộ của nó đã che cả một khoảng nắng trên đầu, đẩy nàng vào bóng râm của bụi rậm ở phía chếch cây hạnh tử.

Con sư tử trắng cúi nhìn nàng đầy hứng thú, vẫn giọng khủng khỉnh: “Ta nghe các cung nô thì thầm, là trước đây Đế Quân sủng ái mi thế nào, còn tưởng mi à con hồ ly quý hiếm đến đâu…” Nó cười khẩy một tiếng: “…thì ra, cũng chỉ thế này.”

Lòng tự tôn của Phượng Cửu lại bị động chạm, cúi đầu nhìn tứ chi của mình, lông quả nhiên xơ xác rối bù, lại nhìn tứ chi của sư tử trắng, mỗi chiếc lông đều sạch bóng mượt mà, mềm mại phất phơ trong gió, nàng bối rối rụt chân lại đột nhiên thấy mình rơi vào cảnh tranh sủng với một con thú cưng thực sự, lòng bỗng cay đắng não nề, quay đầu định bỏ đi.

Con sư tử trắng nhảy vù như cơn lốc đứng chắn đường, còn giơ chân đẩy nàng: “Đi vội thế làm gì”. Phượng Cửu bị đẩy suýt ngã, bò dậy, trừng mắt nhìn thân hình đồ sộ ngang ngược đứng chắn lối đi, nhưng nàng quên mất lúc này nàng là hồ ly, vẻ phẫn nộ đó khi trong hình hài con người chắc chắn sức uy hiếp rất lớn, nhưng một con tiểu hồ ly trừng mắt, hiệu quả đương nhiên là hạn chế.

Sư tử trắng lừ đừ mắt lim dim, lại đẩy nàng lần nữa: “Thế nào, không phục hả?”. Thấy nàng vùng vẫy bò dậy, nó liền đè một chân lên ngực nàng, ép xuống đất làm nàng không thể cựa quậy, từ trên cao khinh khỉnh nhìn xuống: “Ta còn nghe nói, mi ỷ thế được Đế Quân sủng ái, sinh hư, không biết điều, dám làm chủ nhân Cơ Hoành của ta bị thương?”. Lại giơ chi khác trùm lên hai chi trước đang chới với của nàng, vừa ấn một nhát, hai chi trước của nàng lập tức ứa ra hai giọt máu, nhìn bộ dạng thảm hại của nàng, nó hả hê nói: “Tiểu chủ nhân của ta lương thiện khoan dung, bị loại hạ phẩm như mi làm tổn thương cũng không để bụng, nhưng ta lại không có lòng khoan dung như vậy, hôm nay gặp ta coi như mi xúi quẩy”.

Những lời nói sau của nó, Phượng Cửu nghe không rõ, chỉ cảm thấy sau cơn đau buốt ở chi trước, mặt lại nóng bừng, liền ngay đó có vật gì sắc nhọn đâm vào má, móc một cái, cơn đau như xé tức thì lan khắp mặt, nàng đau đớn kêu thét, cảm thấy mình như con cá cố há mồm, nhưng đương nhiên không thể phát ra tiếng.

Con sư tử trắng thong thả nhấc vuốt lên, trên đó dính đầy máu, từng giọt rơi xuống mí mắt Phượng Cửu, nàng hổn hển mở to mắt, cảm thấy tầm nhìn loang máu đỏ, mây cuối trời, hoa phật linh trắng phía xa, đều nhuốm màu đỏ thẫm. Con sư tử đẹp đẽ lúc này khoác bộ lông đã chuyển màu đỏ trước mặt nàng dường như hơi ngạc nhiên, mặt lộ nụ cười quái đản: “Quả nhiên như bọn họ đồn, mi không biết nói”.

Phượng Cửu thực ra từng nghe nói sự dũng mãnh của loài sư tử trắng chỉ có một cánh, bao nhiêu tiểu thần tiên, lão thần tiên của Cửu Trùng Thiên có bao đều muốn bắt chúng về thuần phục để cưỡi, mấy năm nay con trai út của Thiên Quân săn được một con tặng cho cháu mình là Dạ Hoa Quân không mấy hứng thú với chuyện cưỡi thú lạ, đem con linh thú hiếm đó nhốt trong vườn săn của Lão Thiên Quân thỉnh thoảng dắt đi chơi. Phượng Cửu biết rõ sức mình, mặc dù nguyên thần là hồ ly nhưng, nhưng pháp thuật có được đều tu luyện dưới hình hài con người, ví dụ nhiều pháp thuật lợi hại cần dùng ngón tay làm kết ấn mới có hiệu quả, hiện nay hình hài nàng thế này, thực lực quá chênh lệch, không tiện đối đầu với nó.

Sư tử trắng dùng vuốt vỗ vỗ nửa mặt phải đầy vết thương của nàng, Phượng Cửu không thể kêu rên để giảm bớt cơn đau thấu xương, không biết lần đó Cơ Hoành có đau thế này không, có lẽ không, bởi nàng không cố ý, hơn nữa vuốt của nàng kém xa, sao có thể sắc và tàn nhẫn như con sư tử này.

Con sư tử hình như lại rất hứng thú, giống như mèo vờn con chuột nằm dưới móng đã sợ chết khiếp, lại vỗ vào nửa mặt phải đã nát bét bê bết máu của nàng: “Có phải mi vẫn hoang tưởng Đế Quân sẽ chạy đến cứu mi? Mi làm bộ đáng thương như vậy, cho nên ngày trước mới khiến Đế Quân động lòng phải không? Nhưng mà, mi có thấy đã có một con vật hiếm có như ta đây, Đế Quân liệu có còn thích mi không? Từ hồi ta đến đây, Đế Quân ngày nào cũng cùng công chúa đến thăm ta, nhưng chưa bao giờ nhắc nửa câu đên đồ tạp mao là mi, ta nghe các cung nô nói, Đế Quân đã nhốt mi lâu rồi…”. Nó cười ha hả: “À, mà theo ta biết, Đế Quân không ra lệnh thả mi, sao mi lại ra ngoài được?”.

Phượng Cửu biết, loại linh thú hung mãnh này thực ra rất thích con vật khác khuất phục, càng giãy giụa chúng càng được thể dày vò, với bản tính hung dữ và sự hưng phấn quái đản, con sư tử này có thể giày vò nàng đến chết cũng nên. Tục ngữ nói, có cái chết nhẹ tựa lông hồng, có cái chết nặng tựa Thái Sơn, tử tôn họ Bạch nếu hôm nay chết ở nơi này, bằng cách này, thì bài vị cũng không có tư cách được thờ cúng ở Thanh Khâu.

Phượng Cửu nằm bẹp trên bãi cỏ, thoi thóp thở, đột nhiên không hiểu, mình đường đường là một nữ thần, tại sao lại chạy đến Cửu Trùng Thiên xa xôi, rồi lạc bước ra nông nỗi này. Cơ Hoành tủi thân còn có Đông Hoa bảo vệ, lại còn một con sư tử trắng trung thành báo thù cho chủ. Nhưng nỗi tủi của nàng, người thân ở mãi tận Thanh Khâu thậm chí không biết.

Con sư tử vỗ đầu nàng một lúc, thấy không có phản ứng, quả nhiên dần dần cảm thấy vô vị, hừ một tiếng, dùng vuốt quặc lấy đi món đồ chơi đeo trên cổ nàng, ung dung bỏ đi. Món đồ chơi đó là một mảnh bạch ngọc, hôm Đông Hoa đưa nàng về Cửu Trùng Thiên đã đeo vào cổ nàng rất hợp vơi màu lông của Phượng Cửu, trước đây nàng rất thích, cũng rất coi trọng, không cho ai chạm vào. Lúc này miếng bạch ngọc không những bị con sư tử trắng chạm vào mà còn bị nó cướp mất, nàng lại không thể làm gì, chỉ âm thầm đau khổ. Trong Thập ác liên hoa cảnh hơn ba tháng trước, thực ra nàng cũng bị thương, nhưng hồi đó có Đông Hoa ở bên, nàng không thấy đau bao nhiêu, lúc này lại thấy cơn đau ầm ĩ giằng xé, cũng không nói được là da thịt đau hay trái tim đau, hoặc là cả hai. Nàng nhìn những đám mây trôi trên trời, mắt dần dần cay nóng, mấy giọt nước mắt dần dần chảy ra từ khóe mắt, nàng nén đau, khẽ nhấc chân thận trọng tránh chạm vào vết thương. Tình yêu, theo đuổi tình yêu sao khó thế?

Phượng Cửu nằm trên bãi cỏ hoang rất lâu, cơn đau như xé từ vết thương làm nàng kiệt sức không thể nhúc nhích, chỉ mong có ai qua đường thương tình đem nàng về bôi cho ít thuốc giảm đau, nhưng mặt trời dần dần lệch về tây, sắp tối rồi, chưa kịp đợi được người tốt bụng nào đó, thì nhớ ra chỗ này hoang vắng, làm gì có ai nhàn rỗi đến đây.

Tháng chín mùa thu, trời mát mẻ, càng những nơi linh khí thịnh, về đêm càng lạnh, nhìn xung quanh linh khí dày đặc, lát nữa đêm xuống có nhiều sương mù, sẽ càng lạnh. Phượng Cửu cố chống chân đứng lên, người xiêu vẹo, loạng choạng chưa được mấy bước lại chực ngã, cố mãi mới đi được ba trượng, lại kiệt sức, đành phục xuống lết từng tý về phía trước, mặc dù vẫn chạm vào vết thương ở chi trước đau buốt, nhưng không phải chịu sức nặng của toàn thân, nên vẫn di chuyển nhanh hơn chút ít.

Nhìn màn đêm mỗi lúc một đen, trời mỗi lúc một lạnh, cơ thể Phượng Cửu lúc nóng lúc lạnh, đầu óc vốn tỉnh táo cũng nặng dần, mặc dù tứ chi đã tê, cảm giác đỡ đau hơn khiến nàng có thể bò nhanh một chút, nhưng vẫn khó ra khỏi khu rừng này trước khi trời tối để may ra tìm được cái nhà xin trú tạm, rất có thể đêm nay ngã gục, chết ở đây, nàng vô cùng lo lắng. Nhưng càng lo càng không phân biệt được phương hướng, đầu choáng váng, u u nặng trĩu không biết bò đến đâu, bỗng “ùm” một tiếng rơi xuống nước, uống liền mấy ngụm nước, trong miệng bỗng sặc mùi máu tanh, mắt tối sầm, ngất đi.

Theo lời kể của Ti Mệnh, hôm đó ông ta dùng xong bữa tối, kì cọ răng xong, pha ấm trà, loại trà xuất xứ từ một ngọn núi tiên nào đó dưới Hạ giới do một sư muội biết điều nào đó của ông cúng tiến, mang cái ghế gấp, định nhân cảnh đêm thanh, trăng sáng ra bờ ao sen trong phủ để câu cá. Mới vừa quăng xuống đã có cá cắn câu, khẽ kéo cần, thấy rất nặng cả mừng, thầm nghĩ phen này vớ được con cá lớn cả trăm năm mới gặp, vội vàng kéo lên, không ngờ trên móc câu lại là một con tiểu hồ ly chỉ còn thoi thóp, tiểu hồ ly này đương nhiên là Phượng Cửu.

Phượng Cửu ở lại chẵn ba ngày trong phủ của Ti Mệnh, phiền Ti Mệnh phải đến chỗ các đồng liêu tiên bác đang luyện đan luyện dược, nợ không ít ân tình mới xin được các loại thánh dược, đem về trị thương cho nàng. Có loại bôi, có loại sắc uống, Ti Mệnh vẫn còn nhớ từ nhỏ Phượng Cửu đã sợ đắng nên bao giờ sắc xong cũng cho thêm mật để nàng dễ uống. Nhờ phúc của những viên thánh dược, những vết thương đầy mình của Phượng Cửu bình phục rất nhanh, bốn năm ngày sau đã có thể xuống giường. Ti Mệnh cầm cuốn sổ ghi mệnh số của người trần, nhắc lại câu đã hỏi nàng không biết bao nhiêu lần: “Tiểu tiên thành tâm thành ý thỉnh giáo điện hạ, thân mệnh là nữ thần tu luyện không ít, điện hạ đã làm gì để bản thân rơi vào thảm cảnh thế này?”.

Nhưng mấy ngày nay tâm trạng nàng rất xấu, nên cũng lờ đi không trả lời.

Thỉnh thoảng Phượng Cửu lại nằm trong chăn mây ngơ ngẩn, ngoài cửa sổ mây lãng đãng, tiếng tiên hạc lảnh lót, nhưng lòng ngổn ngang, thầm nghĩ mối tình suốt hơn hai ngàn năm của mình có phải đã đến lúc từ bỏ?

Nàng quả tình đã sức cùng lực kiệt. Hơn bốn trăm năm trước, khi Ti Mệnh còn là sai dịch đi tuyển cung nô cho các cung thất trên Thiên giới, nàng đã nhờ ông ta đưa mình vào cung Thái Thần với danh nghĩa cung nô, chính là muốn có thể tiếp cận với Đông Hoa. Sợ song thân của họ biết được nữ tử của họ không quản ngại hạ mình đến Cửu Trùng Thiên làm nô tỳ, nàng đã thỉnh cầu thượng thần Chiết Nhan tìm cách tạm thời thu hồi ấn hiệu Phượng tộc trên trán, tóm lại, mọi sự đã chuẩn bị chu toàn, lúc xuất hành Chiết Nhan còn động viên: “Phượng Cửu điện hạ xinh đẹp khéo léo, lại có tài nấu ăn, Đông Hoa dù là nổi tiếng lãnh đạm, có thể cưỡng lại nhan sắc và sự ân cần dịu dàng của điện hạ, nhưng nhất đinh không thể cưỡng nổi tài nấu ăn của điện hạ, cứ yên tâm mà đi, đã có ta và tiểu thúc Bạch Chân làm hậu thuẫn rồi”. Nàng phơi phới niềm tin, hùng khí tràn trề cưỡi mây đi, nhưng từng ngày từng tháng từng năm của bốn trăm năm trôi qua, mặc dù cùng sống trong một cung điện, Đông Hoa vẫn không hề chú ý đến nàng, có nghĩa tất thảy mọi sự đều phải tính đến chữ duyên. Nếu hai người thực sự có duyên, thì sẽ như cuốn cổ thư của cô cô Bạch Thiển viết, những lệnh nam lệnh nữ cho dù cách nhau vạn trùng, một người ở trên trời một người ở dưới mười tám tầng âm phủ, cũng có thể xảy ra chuyện trời đột nhiên nứt toác, đúng chỗ lệnh nam khiến chàng rơi xuống trước mặt lệnh nữ, tuyệt đối không khó khăn như nàng và Đông Hoa.

Về sau nàng biến thành hồ ly, coi như kề cận bên Đông Hoa. Nhiếp Sơ Dần thu mất bộ lông của nàng, muốn đòi lại trước thời hạn quả thực hơi khó, nhưng không phải không thể, nhờ tiểu thúc Bạch Chân hoặc nhờ Chiết Nhan là có thế lấy được. Nhưng Đông Hoa hình như rất thích con tiểu hồ ly là nàng, chàng luôn thờ ơ với những nữ thần nữ tiên, nàng đều từng chứng kiến, nàng biết mình chẳng có gì đặc biệt hơn những nữ thần, nữ tiên kia, nếu thu hồi bộ lông, trở lại hình người, có lẽ sẽ bị Đông Hoa đẩy đi, không được kề cận bên chàng, hơn bốn trăm năm trôi qua vô ích chẳng phải đã chứng minh điều đó. Đương nhiên nàng không thể mãi mãi là thú cưng của chàng, nàng phải nói với chàng nàng chính là Phượng Cửu tiểu nữ thần của Thanh Khâu, có điều phải đợi thêm ít nữa, khi họ thân mật hơn, thân mật hơn nữa đã, nhưng ai ngờ ngày đó vẫn chưa đến, lại giữa đường xuất hiện một Cơ Hoành trong cung Thái Thần. Có lẽ lại là một ví dụ nữa chứng tỏ sự vô duyên của nàng và Đông Hoa.

Nghĩ đến đây, đúng lúc Ti Mệnh đến thay thuốc cho nàng như thường lệ.

Từ khi nàng rơi vào khốn cảnh này, mỗi lần Ti Mệnh xuất hiện, luôn có một vẻ lầm lì kì quặc, như thương cảm như bực bội, như trách móc, hôm nay lại thay đổi thái độ giống như trúng đại tà gì, phá lệ chăm sóc nàng, khuôn mặt thanh tuấn còn nghiêm hơn cả phụ thân nàng, đôi mắt phượng vừa lãnh đạm vừa giễu cợt.

Phượng Cửu không kìm được liếc ông ta hai cái, bỗng rùng mình co người lùi vào chăn.

Ti Mệnh cho thuốc vào cái cối nhỏ bằng vàng, lấy chày nghiền nát, rồi xúc một thìa, cho thêm ít đường đảo đều, đưa đến tận miệng nàng.

Phượng Cửu băn khoăn nhìn ông ta.

Ti Mệnh lặng lẽ nhìn lại nàng: “Loại thuốc này không thể hòa nước uống, phải nuốt khan, một canh giờ sau mới được uống nước”. Lại lấy mấy quả quýt trong cái đĩa bên cạnh giường, bóc vỏ đưa cho nàng: “Nếu vẫn đắng thì ăn mấy múi quýt cũng không sao”.

Phượng Cửu giơ móng đón múi quýt, cúi đầu liếm từng chút thuốc bột, nghe thấy Ti Mệnh thở dài, lúc này giọng cũng nhẹ nhàng: “Tiểu tiên nhàn rỗi đã đến Thập Tam Thiên thăm dò chuyện của điện hạ, nghe nói điện hạ gây ra thương tích cho công chúa của Nam Hoang nên bị Đông Hoa nhốt? Vết thương tích của điện hạ, không phải do công chúa kia báo thù chứ?”.

Phượng Cửu liếm thuốc chợt dừng khẽ lắc đầu.

Ti Mệnh lại nói: “Hai ngày nữa là đại hôn lễ của Đông Hoa, nghe nói thành hôn với vị công chúa điện hạ làm bị thương, điện hạ dự định thế nào?”.

Phượng Cửu sững sờ nhìn múi quýt quắp trong móng, nàng biết họ sẽ kết hôn, nhưng không ngờ nhanh vậy, ngẩng đầu thẫn thờ nhìn Ti Mệnh, có vài điều muốn hỏi, chưa kịp hiện trong mắt, Ti Mệnh hình như đã hiểu: “Không có ai đi tìm điện hạ, dường như họ không biết điện hạ đã mất tích”.

Phượng Cửu cúi đầu tiếp tục dùng vuốt bóc sạch từng sợi gân trên múi quýt.

Ti Mệnh đột nhiên giơ tay sờ trán nàng, động tác này của ông ta thực ra có phần không phải phép, nhưng bàn tay chạm vào bờ trán lạnh giá của nàng lại rất ấm, mắt dân dấn nước, nàng bàng hoàng nhìn ông ta.

Trong thảng thốt, cảm thấy bàn tay ông dịu dàng xoa trán nàng như an ủi, sau đó ông hỏi: “Có phải điện hạ muốn quay về Thanh Khâu?”.

Nàng gật đầu.

Ông lại hỏi: “Mối tình theo đuổi suốt hơn hai nghìn năm, điện hạ thực sự từ bỏ?”.

Nàng lại gật đầu.

Ông vẫn hỏi: “Vậy có muốn gặp ông ta lần cuối?”.

Nàng vẫn gật đầu.

Phượng Cửu cảm thấy câu hỏi của Ti Mệnh đều tựa như nàng đang hỏi chính mình, giống như trong nàng có hai con người, một kiên cường, một yếu đuối, người kiên cường đang ép người yếu đuối đưa ra quyết định cuối cùng cho mối duyên đó, trong mối duyên này, nàng kiên trì đến ngày hôm nay thực ra không dễ dàng, trước đây nàng có thể kiên trì lâu như vậy là bởi vì bên cạnh Đông Hoa không có người khác, nàng thích chàng, một mối chung tình thật đẹp. Nhưng giờ chàng sắp kết hôn, trở thành phu quân của người khác, nếu nàng vẫn để cho tình cảm đơn phương kia níu kéo, chỉ tổ cho mối tình đẹp biến thành sự đeo bám làm người ta chán ghét, nữ nhi Thanh Khâu không ai chịu được sự hạ mình như thế. Mặc dù nàng vẫn đang ở độ tuổi thiếu niên, có thể ngông cuồng, nhưng sự đã đến nước này không thể lún sâu, cuộc đời sau này có khi càng bất hạnh, vẫn còn chặng đường đời dài như thế phía sau, sao có thể cam chịu bất hạnh.

Nàng cẩn thận tách quả quýt đưa cho Ti Mệnh một nửa, trong đôi mắt hai tròng đen trắng rõ ràng đã không còn ngấn nước, Ti Mệnh đón nửa quả quýt, lát sau, khẽ nói: “Được, để ngày mai điện hạ khá hơn chút nữa, tiểu tiên sẽ đưa điện hạ đi gặp người đó”.

Trong kí ức của Phượng Cửu, lần gặp Đông Hoa đó là trong một ngày trời râm gió nhẹ. Nói là gặp thực ra có vẻ không xứng với ý nghĩa của từ đó, chỉ là Ti Mệnh ôm nang trong lòng, dùng phép ẩn hình lọt vào cung Thái Thần để nàng từ xa nhìn Đông Hoa lần cuối.

Đó là một khu vườn nhỏ Đông Hoa thường lui tới, trong ao, lá sen vươn cao tươi tốt, xanh mỡ màng, điểm suốt những bông sen dị sắc, trên cao ngôi đình bát giác bằng gỗ đàn màu trắng dành riêng cho nàng hóng mát, nhưng lúc này người ngồi trong đình lại là công chúa Cơ Hoành và con sư tử trắng một cánh của nàng ta.

Trong đình, trên mặt bàn pha lê có một tờ giấy nổi vân vàng trải rộng, Cơ Hoành đang cúi xuống viết gì trên đó, con sư tử trắng phục dưới chân cách đó hai bước, Phượng Cửu rùng mình vừa nhìn thấy con sư tử đó, toàn thân nàng đã đau buốt như một phản xạ.

Cơ Hoành viết xong, vẫy con sư tử đến gần, con sư tử hung dữ đó lại tỏ ra rất nghe lời, lặng lẽ đợi chủ nhân viết xong trải lên lưng nó cho khô mực, lại dụi đầu vào tay Cơ Hoành, có lẽ bị nhột Cơ Hoành cười khanh khách nói với Đông Hoa ngồi bên ao sen ngoài đình, đang xoay con đoản đao trong tay: “Xem chừng Tố Tế đói rồi, tuyết linh chi ở chỗ sư phụ mặc dù chưa đến bữa, hay cứ cho nó ăn tạm một cái vậy”.

Thì ra con sư tử này tên là Tố Tế. Cạnh chân Đông Hoa quả nhiên có chiếc thùng gỗ, vẫn đựng đầy linh chi bóng mỡ.

Tố Tế là con thú cưng ngoan, nghe Cơ Hoành nói vậy không chồm như cơn lốc đến trước mặt Đông Hoa lần trước, mà oằn lưng để giữ yên tờ giấy khỏi rơi, ung dung duyên dáng bước từng bước từng bước xuống bậc thềm hình lục giác, sau đó vừa thong thả ăn linh chi trong tay Đông Hoa vừa ngước đôi mắt to cảm kích nhìn chàng, khiến Cơ Hoành hài lòng khen ngợi.

Phượng Cửu ngồi trong lòng Ti Mệnh, hé mắt nhìn cảnh tượng đó, gạt bỏ những tạp niệm hẹp hòi, khách quan nhận thấy cảnh tượng trước mắt quả là bức họa tuyệt mĩ hài hòa hiếm thấy, nam chủ nhân tuấn mỹ, nữ chủ nhân diễm kiều và một con linh thú được cả hai sủng ái, chính nàng cũng không khỏi trầm trồ ngưỡng mộ.

Mây khóm phật tang trong vườn đang mùa hoa nở, đài hoa tựa chiếc chuông nhỏ treo trĩu đầu cành, gió vừa thổi là lung lay như sắp rơi. Phượng Cửu khẽ tựa trong lòng Ti Mệnh, ông hỏi nhỏ: “Muốn đi rồi hả?”.

Cả hai đang định rời đi, bỗng một tia hàn quang lóe lên kèm tiếng gió rít nhanh như ánh chớp lướt bên người, cắm phập vào cành phật tang gần đó. Phượng Cửu nín thở, ngây nhìn bức tranh phía xa, trong màn mưa tơi tả những phiến hoa phật linh bay như tuyết, bóng áo chùng tím thanh tú mà uy nghi thư thái tiến đến, tư phong đó, trước đây khi luôn ở bên chàng, nàng cũng chưa từng ngắm nhìn chăm chú như vậy.

Nàng vẫn nín thở nhìn chàng bước đến bên cây phật tang, giơ tay phủi những cánh hoa còn dính trên thân kiếm, mắt trầm ngâm giơ thanh kiếm lên soi trước ánh nắng nhạt. Nàng nghĩ thanh trường kiếm kia chính là đoản đao trong tay chàng lúc trước, thể chính là thanh đoản đao Liên Tống nhờ chàng làm tặng sinh nhật Thành Ngọc Nguyên Quân. Lúc này hình như Đông Hoa đang thử trọng lượng và tốc độ kiếm. Hình như kiếm quá nặng tốc độ chậm, lực gió khi phóng ra chỉ có thể làm bay hoa phật linh, chứ không thể phạt dứt cánh hoa. Chàng chăm chú ngắm nghía,vẻ tư lự mà nàng đã quá đỗi quen thuộc, Phượng Cửu luôn cảm thấy thần thái này của chàng mới là đẹp nhất.

Chàng giơ tay rút thanh kiếm trên cành, lại một trận mưa hoa, những cánh hoa phật linh mỏng manh theo tay chàng tơi tả bay, nàng giơ móng, mấy phiến hoa tàn rơi trên vuốt nhọn, Phượng Cửu thẫn thờ nhìn những cánh hoa không nguyên vẹn, lát sau ngẩng đầu, cuối tầm măt chỉ còn cái bóng tím phía xa mờ dần trong màn mưa hoa phật linh trắng xóa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách