Người bị thương nằm trên những chiếc giường không đồng bộ trong một căn phòng bệnh tạm bợ, do một y tá với một con mắt bằng thủy tinh phồng lồi ra trông coi. Có ba bệnh nhân, nếu bạn có thể gọi họ như vậy – một người đàn ông và hai phụ nữ. Người đàn ông nằm nghiêng, bị căng trương lực cơ bán phần, thì thào và chảy nước dãi. Một trong hai phụ nữ nhìn chằm chằm vô thức lên trần, trong khi người còn lại quằn quại dưới tấm chăn, rên khe khẽ, bị giày vò trong một cơn ác mộng nào đó. Một số trong đám trẻ đứng ngoài cửa nhìn vào, giữ khoảng cách phòng trường hợp thứ những người này mắc phải có thể lây lan.
“Hôm nay họ thế nào?” Người Gấp hỏi y tá.
“Xấu đi,” người y tá nói, hối hả đi từ giường này qua giường khác. “Bây giờ tôi giữ cho họ ngủ liên tục bằng thuốc an thần. Nếu không họ chỉ la lối ầm lên thôi.”
Họ không bị vết thương nào trông thấy được. Không có băng gạc thấm máu, chân tay không bị bó bột, không có những cái chậu đầy ắp thứ chất lỏng đỏ ngầu. Căn phòng trông giống như một cơ sở phụ của một trại tâm thần hơn là của một bệnh viện.
“Họ bị sao vậy?” tôi hỏi. “Họ bị thương trong cuộc tấn công à?”
“Không, được cô Wren mang về đây,” người y tá trả lời. “Bà tìm thấy họ bị bỏ rơi trong bệnh viện, nơi đám xác sống đã biến thành một thứ phòng thí nghiệm y học. Những tạo vật đáng thương bị dùng làm vật thí nghiệm trong những thử nghiệm không thể mô tả bằng lời của chúng. Những gì các cô cậu thấy là kết quả..
“Chúng tôi tìm thấy hồ sơ của họ,” ông hề nói. “Họ bị đám xác sống bắt cóc từ nhiều năm trước. Từ lâu bị coi là đã chết.”
Người y tá lấy một tấm bảng kẹp từ trên tường cạnh giường người đàn ông thì thào. “Người này, Benteret, được cho là thông thạo một trăm ngôn ngữ, nhưng bây giờ ông ấy chỉ nói mỗi một từ - nhắc đi nhắc lại mãi.”
Tôi rón rén lại gần hơn, quan sát môi ông ta. Gọi, gọi. gọi, ông ta đang mấp máy. Gọi, gọi, gọi.
Thật vô nghĩa. Ông ta đã mất trí.
“Người nằm kia,” người y tá vừa nói vừa chỉ tấm bảng kẹp về phía người phụ nữ đang rên rỉ. “Hồ sơ của cô ấy nói cô ấy có thể bay, nhưng tôi chưa bao giờ thấy cô ấy nhúc nhích dù chỉ một phân khỏi cái giường đó. Còn về cô gái còn lại, đáng lẽ cô ấy phải vô hình. Nhưng giờ thì hiện rõ mồn một như ban ngày.”
“Họ có bị tra tấn không?” Emma hỏi.
“Hiển nhiên rồi – họ bị tra tấn tới mất trí!” ông hề nói. “Bị tra tấn cho tới khi họ quên mất cách để trở thành người đặc biệt!”
“Ông có thể tra tấn tôi cả ngày,” Millard nói. “Tôi sẽ chẳng bao giờ quên cách trở thành vô hình cả.”
“Cho họ thấy các vết sẹo đi,” ông hề nói với bà y tá.
Bà y tá đi tới chỗ bệnh nhân nữ nằm bất động và kéo chăn xuống. Có những vết sẹo mảnh màu đỏ chạy dọc trên bụng cô gái, dọc theo bên cổ, dưới cằm cô, mỗi vết sẹo dài bằng khoảng một điếu thuốc lá.
“Khó mà gọi đây là bằng chứng của tra tấn được,” Millard nói.
“Vậy thì cậu gọi nó là gì?” bà y tá phẫn nộ hỏi.
Tảng lờ câu hỏi của bà, Millard nói, “Còn có nhiều sẹo nữa không, hay đây là tất cả những gì cô ấy có?’
“Còn xa mới là vậy,” bà y tá nói, rồi vén tấm chăn lên để lộ đôi chân cô gái, chỉ ra những vết sẹo đằng sau đầu gối cô, ở mé trong đùi, và dưới gan bàn chân cô.
Millard cúi xem xét bàn chân. “Một vị trí thật lạ lùng, bà không thấy thế sao?”
“Cậu đang làm gì thế, Mill?” Emma hỏi.
“Hừm,” Enoch nói. “Để cậu ta đóng vai Sherlock nếu cậu ta muốn. Tớ lại thấy khoái trò này.”
“Tại sao chúng ta không cắt mười chỗ khác nhau trên người cậu ta nhỉ?” ông hề nói. “Sau đó chúng ta sẽ xem cậu ta có nghĩ đó là tra tấn hay không!”
Millard đi ngang qua phòng tới giường người đàn ông thì thào. “Tôi có thể xem xét ông ấy chứ?”
“Tôi chắc là ông ấy không phản đối đâu?” bà y tá nói.
Millard nhấc chăn của người đàn ông để lộ đôi chân ra. Dưới gan một bàn chân trần, người đàn ông này cũng bị một vết sẹo giống hệt cô gái bất động.
Bà y tá ra dấu về phía người phụ nữ đang quằn quại. “Cô ấy cũng có một vết sẹo như thế, nếu đó là thứ cậu tìm kiếm.”
“Đủ rồi đấy,” Người Gấp nói. “Nếu đó không phải là tra tấn thì là cái gì hả?”
“Khám phá,” Millard nói. “Những vết cắt này rất chính xác và mang tính phẫu thuật. Không phải để gây đau đớn – thậm chí có thể còn được thực hiện trong điều kiện gây mê nữa. Lũ xác sống đang tìm kiếm thứ gì đó.”
“Và đó là cái gì?” Emma hỏi, cho dù có vẻ cô sợ cậu trả lời.
“Có một câu nói từ xa xưa về bàn chân một người đặc biệt,” Millard nói. “Có ai trong các cậu còn nhớ không?”
Horace dẫn ra. “Bàn chân một người đặc biệt là cánh cửa dẫn vào linh hồn người đó,” cậu ta nói. “Chỉ là một câu người ta nói với trẻ con để chúng đi giày khi ra ngoài chơi thôi.”
“Có thể là thế, mà cũng có thể là không,” Millard nói.
“Đừng có lố bịch thế! Cậu nghĩ chúng đang tìm kiếm…”
“Linh hồn họ. Và chúng đã tìm được.”
Ông hề phá lên cười to. “Thật là một chuyện vô lý. Chỉ vì họ mất đi năng lực mà cậu nghĩ linh hồn thứ hai của họ đã bị lấy đi sao?”
“Phần nào. Chúng ta biết lũ xác sống đã quan tâm tới linh hồn thứ hai từ nhiều năm nay rồi.”
Thế rồi tôi nhớ lại cuộc trò chuyện giữa Millard và tôi trên tàu hỏa, và tôi nói, “Nhưng chính cậu đã bảo tớ rằng linh hồn đặc biệt là thứ cho phép chúng ta đi vào các Vòng Thời Gian. Vậy nếu những người này không còn linh hồn của họ, làm cách nào họ ở đây được?”
“À, họ không thực sự ở đây, phải không nào?” Millard nói. “Ý tớ là tâm trí họ chắc chắn đang ở nơi khác.”
“Giờ thì cậu đang níu lấy một cọng rơm rồi,” Emma nói. “Tớ nghĩ cậu đã đi đủ xa rồi đấy, Millard.”
“Chịu đựng tớ chỉ thêm một lát nữa thôi,” Millard nói. Lúc này cậu ta đang đi đi lại lại, trở nên phấn khích. “Tớ không cho rằng các cậu đã nghe qua về thời một người bình thường đi hẳn vào trong một Vòng Thời Gian, đúng không nào?”
“Không, vì ai cũng biết điều đó là không thể,” Enoch nói.
“Gần như không thể,” Millard nói. “Việc này không dễ dàng và chẳng đẹp đẽ gì, nhưng nó đã được thực hiện – một lần. Một thí nghiệm trái phép do chính em trai cô Peregrine thực hiện, tớ tin là vậy, vào những năm trước khi ông ta hóa điên và thành lập ra nhóm ly khai mà sau này sẽ trở thành đám xác sống.”
“Vậy tại sao tớ chưa bao giờ nghe nói về chuyện này nhỉ?” Enoch hỏi.
“Vì nó rất gây tranh cãi và các kết quả ngay lập tức bị che giấu, để không ai có thể tìm cách lặp lại chúng. Dù sao đi nữa, hóa ra người ta có thể đưa một người bình thường vào trong Vòng Thời Gian, nhưng người đó cần phải được đẩy vào, và chỉ một người có sức mạnh của Chủ Vòng Thời Gian mới làm nổi chuyện đó. Nhưng vì những người bình thường không có linh hồn thứ hai, họ không thể thích nghi được với những nghịch lý nội tại của một Vòng Thời Gian, và bộ óc họ trở nên bị rối loạn. Họ trở thành những sinh thể sống thực vật chảy nước dãi ròng ròng, căng trương lực cơ ngay từ khoảnh khắc bước vào. Không khác mấy những con người khốn khổ trước mắt chúng ta.”
Một khoảnh khắc trôi qua trong im lặng trong khi những lời Millard nói được ghi nhận. Thế rồi Emma đưa hai bàn tay che lấy miệng, và khẽ nói, “Ôi, khỉ thật. Cậu ấy có lý.”
“À, thế đấy,” ông hề nói. “Trong trường hợp đó, tình hình còn xấu hơn chúng ta từng nghĩ.”
Tôi cảm thấy không khí đang biến hết ra khỏi căn phòng.
“Tớ không dám chắc mình theo kịp,” Horace nói.
“Cậu ấy nói lũ quái vật đã đánh cắp linh hồn của họ!” Olive hét lên, rồi cô bé khóc nức nở chạy lại chỗ Bronwyn, gục mặt vào áo khoác cô.
“Những người đặc biệt này không bị mất đi năng lực của họ,” Millard nói. “Năng lực của họ bị cướp đi – bị rút ra cùng với linh hồn của họ, rồi sau đó được truyền cho đám hồn rỗng. Điều này cho phép đám hồn rỗng đủ tiến hóa để xâm nhập vào các Vòng Thời Gian, một bước phát triển cho phép thực hiện những cuộc tấn công gần đây của chúng vào thế giới người đặc biệt – và thúc đẩy đám xác sống bắt cóc thêm nhiều người đặc biệt hơn nữa để rút linh hồn của họ ra, để rồi chúng sẽ cải tạo thêm nhiều hồn rỗng nữa, và cứ thế tiếp tục, thành một vòng quay tàn ác.”
“Thế thì chúng không chỉ muốn các Chủ Vòng,” Emma nói. “Mà cả chúng ta nữa – và linh hồn của chúng ta.”
Hugh đứng ở chân giường của người đàn ông luôn thì thào, con ong cuối cùng của cậu giận dữ bay vù vù quanh cậu. “Tất cả những đứa trẻ đặc biệt chúng đã bắt cóc trong những năm qua… chẳng lẽ đây là điều chúng đã làm với họ? Tớ cứ nghĩ họ chỉ đơn giản là trở thành thức ăn cho hồn rỗng. Nhưng chuyện này… chuyện này còn ghê tởm hơn nghìn lần.”
“Ai dám nói là chúng không định rút cả linh hồn của các Chủ Vòng nữa?” Enoch nói.
Những lời này làm chúng tôi lạnh gáy. Ông hề quay sang Horace và nói, “Giờ thì kịch bản trong trường hợp khả quan nhất của cậu là như thế nào rồi, chàng trai?”
“Đừng có giễu tôi,” Horace đáp. “Tôi cắn đấy.”
“Tất cả ra ngoài!” bà y tá ra lệnh. “Có linh hồn hay không, những người này cũng đang bệnh. Đây không phải chỗ để cãi nhau.”
Chúng tôi cau có bước theo hàng ra ngoài hành lang.
“Được rồi, ông đã cho chúng tôi thấy màn trình diễn rùng rợn,” Emma nói với ông hề và Người Gấp, “và chúng tôi cũng kinh hoàng như mong muốn rồi. Giờ hãy nói cho chúng tôi biết các ông muốn gì?”
“Đơn giản thôi,” Người Gấp nói. “Chúng tôi muốn các cô cậu ở lại và chiến đấu cùng chúng tôi.”
“Chúng tôi chỉ định cho các cô cậu thấy làm điều đó cũng phù hợp với lợi ích của các cô cậu đến mức nào,” ông hề nói. Ông ta vỗ lên lưng Millard. “Song người bạn của các cô cậu đây đã làm một việc còn tốt hơn những gì chúng tôi có thể.”
“Ở lại đây và chiến đấu vì cái gì?” Enoch nói. “Các Chủ Vòng thậm chí còn chẳng ở London – ít nhất cô Wren đã nói vậy.”
“Quên London đi! London đi tong rồi!” ông hề nói. “Trận chiến ở đây đã kết thúc. Chúng ta thua. Ngay khi cô Wren cứu được tất cả những người đặc biệt còn lại từ các Vòng Thời Gian bị hủy hoại này, chúng ta sẽ thu xếp hành lý và lên đường – tới những vùng đất khác, những Vòng Thời Gian khác. Chắc chắn ngoài kia vẫn còn nhiều người sống sót, những người đặc biệt giống như chúng ta, với tinh thần chiến đấu vẫn còn cháy rực bên trong.”
“Chúng ta sẽ xây dựng một đội quân,” Người Gấp nói. “Một đội quân thật sự.”
“Về việc tìm xem các Chủ Vòng ở đâu,” ông hề nói, “không có gì khó cả. Chúng ta sẽ bắt một gã xác sống và tra tấn buộc hắn khai ra. Bắt hắn chỉ cho chúng ta trên Bản đồ Các Ngày.”
“Ông có một Bản đồ Các Ngày sao?” Millard hỏi.
“Chúng tôi có hai bản. Cậu biết đấy, tàng thư đặc biệt nằm ở dưới nhà.”
“Quả là tin tốt đấy,” Millard nói, giọng đầy phấn khởi.
“Bắt một gã xác sống là chuyện nói dễ hơn làm,” Emma nói. “Và chúng nói dối, tất nhiên rồi. Dối trá là điều chúng giỏi nhất.”
“Vậy chúng ta sẽ phải bắt hai gã và so sánh những lời dối trá của chúng,” ông hề nói. “Chúng rất hay lảng vảng quanh đây, vì vậy lần tiếp theo chúng ta thấy một gã – a lê hấp! Chúng ta sẽ tóm hắn.”
“Không cần thiết phải đợi,” Enoch nói. “Chẳng phải cô Wren nói có những gã xác sống ngay trong tòa nhà này sao?”
“Hẳn rồi,” ông hề nói, “nhưng chúng bị đóng băng rồi. Chết cứng như đinh đóng cửa vậy.”
“Như thế không có nghĩa là không thể thẩm vấn chúng,” Enoch nói, một nụ cười hết cỡ nở rộng trên khuôn mặt cậu ta.
Ông hề quay sang Người Gấp. “Tôi thực sự bắt đầu thích các cô cậu kỳ lạ này rồi đấy.”
“Vậy các cô cậu ủng hộ chúng tôi chứ?” Người Gấp hỏi. “Các cô cậu ở lại và chiến đấu chứ?”
“Tôi đâu nói thế,” Emma nói. “Hãy cho chúng tôi một phút để bàn bạc.”
“Còn bàn bạc gì nữa?” ông hề nói.
“Tất nhiên rồi, cứ việc bàn bạc bao lâu cũng được,” Người Gấp nói, đoạn kéo ông hề đi theo xuống hành lang. “Lại đây nào, tôi sẽ pha cà phê.”
“Được thôi,” ông hề miễn cưỡng nói.
Chúng tôi xúm lại hội ý, chúng tôi đã làm thế quá nhiều lần kể từ khi những rắc rối của chúng tôi bắt đầu, chỉ có điều lần này thay vì to tiếng la lối với nhau, tuần tự từng người lên tiếng. Tính chất nghiêm trọng của chuyện này đã làm tất cả chúng tôi trở nên nghiêm túc.
“Tớ nghĩ chúng ta cần chiến đấu,” Hugh nói. “Bây giờ, khi đã biết đám xác sống đang làm gì với chúng ta, tớ sẽ không thể sống yên được nếu chúng ta cứ quay về nhà như trước đây, và cố giả bộ như tất cả những chuyện này không hề xảy ra. Chiến đấu là cách danh dự duy nhất.”
“Trong sống sót cũng có danh dự,” Millard nói. “Người đặc biệt chúng ta đã sống sót qua thế kỷ hai mươi nhờ lẩn trốn chứ không phải chiến đấu – vì thế có lẽ tất cả những gì chúng ta cần là một cách ẩn mình tốt hơn.”
Sau đó, Bronwyn quay sang Emma và nói, “Tớ muốn biết cậu nghĩ thế nào?”
“Phải, tớ muốn biết những gì Emma nghĩ,” Olive nói.
“Tớ cũng vậy,” Enoch nói, khiến tôi ngạc nhiên.
Emma hít một hơi dài, rồi nói. Những gì xảy ta thật khủng khiếp cho các Chủ Vòng khác. Những gì xảy ra với họ là một tội ác, và tương lại của người đặc biệt chúng ta có thể phụ thuộc vào việc giải cứu họ. Nhưng khi đã cân nhắc tất cả, tớ không có ràng buộc về lòng trung thành với các Chủ Vòng khác, cũng như những đứa trẻ đặc biệt khác. Lòng trung thành đó chỉ thuộc về người phụ nữ tớ đã nợ mạng sống – cô Peregrine, và chỉ mình cô Peregrine thôi.” Cô ngừng lời và gật đầu – như thể kiểm tra và xác nhận lại sự đúng đắn của chính những lời mình nói – rồi tiếp tục, “Và, có các loài chim làm chứng, khi cô trở lại là mình như cũ, tớ sẽ làm bất cứ điều gì cô cần tớ làm. Nếu cô bảo chiến đấu, tớ sẽ chiến đấu. Nếu cô muốn giấu chúng ta tới một Vòng Thời Gian ở đâu đó, tớ cũng sẽ chấp nhận. Dù thế nào đi nữa, quan điểm của tớ không bao giờ thay đổi: cô Peregrine biết rõ nhất.”
Những người khác cùng ngẫm nghĩ những lời này. Cuối cùng Millard nói, “Nói rất sáng suốt, tiểu thư Bloom.”
“Cô Peregrine biết rõ nhất!” Olive reo lên.
“Cô Peregrine biết rõ nhất!” Hugh hùa theo.
“Tớ không quan tâm cô Peregrine nói gì,” Horace nói. “Tớ sẽ chiến đấu.”
Enoch cố nín cười. “Cậu ấy à?”
“Ai cũng nghĩ tớ là kẻ nhất gan. Đây là cơ hội để tớ chứng minh là họ nhầm.”
“Đừng có vứt tính mạng cậu đi vì vài trò đùa nhắm vào cậu,” Hugh nói. “Ai thèm băn khoăn chuyện người khác nghĩ sao chứ?”
“Không chỉ có vậy,” Horace nói. “Còn nhớ hình ảnh tớ mơ thấy hồi còn ở Cairnhoim chứ? Tớ đã thoáng thấy nơi các Chủ Vòng bị giam giữ. Tớ không thể chỉ cho các cậu thấy trên một tấm bản đồ, nhưng tớ tin chắc điều này – tớ sẽ biết ngay khi tớ trông thấy nơi ấy.” Cậu ta lấy ngón trỏ gõ lên trán.
“Những gì tớ có ở đây có thể sẽ giúp những người đó tránh khỏi nhiều rắc rối. Và cứu cả các Chủ Vòng khác nữa.”
“Nếu một vài người chiến đấu và một số ở lại đằng sau,” Bronwyn nói, “tớ sẽ bảo vệ những ai ở lại. Bảo vệ luôn là bổn phận của tớ.”
Rồi sau đó Hugh quay sang tôi và nói, “Thế còn cậu thì sao, Jacob?” và lập tức tôi cảm thấy miệng khô rang.
“À,” tôi nói, “tớ…”
“Chúng ta hãy đi dạo một chút,” Emma nói, luồn tay vòng lấy tay tôi. “Cậu và tớ cần nói chuyện.”
Chúng tôi chậm rãi bước xuống cầu thang, không nói gì với nhau cho tới khi xuống tới chân cầu thang và bức tường băng uốn cong, tại đó Althea đã cho đông cứng lối ra khỏi đường hầm. Chúng tôi ngồi xuống cạnh nhau và nhìn vào khối băng hồi lâu, vào những hình dáng bị giam trong đó, mờ ảo, méo mó trong ánh sáng đang tối dần, bị treo lơ lửng như những quả trứng cổ đại trong khối hổ phách xanh lơ. Chúng tôi ngồi, và tôi có thể đoán từ sự im lặng tích tụ giữa hai chúng tôi rằng đây sẽ lả một cuộc trò chuyện nặng nề - một cuộc trò chuyện không ai trong chúng tôi muốn mở lời trước.
Cuối cùng, Emma lên tiếng, “Thế nào?”
Tôi nói, “Tớ giống những người khác – tớ muốn biết cậu nghĩ gì.”
Cô bật cười, như người ta vẫn cười khi có chuyện gì đó không những không hài hước mà còn khó cư xử, rồi nói, “Tớ không hoàn toàn chắc vậy.”
Cô nói đúng, nhưng tôi vẫn thúc giục cô nói ra. “Thôi nào.”
Emma đặt một bàn tay lên đầu gối tôi, rồi lại thu về. Cô bồn chồn. Ngực tôi thắt lại.
“Tớ nghĩ đã đến lúc cậu về nhà,” cuối cùng cô lên tiếng.
Tôi chớp mắt. Phải mất một khoảnh khắc để tôi thuyết phục bản thân là cô đã thực sự nói thế. “Tớ không hiểu,” tôi lúng túng.
“Chính cậu đã nói cậu được đưa tới đây vì lý do nào đó,” cô hối hả nói, mắt nhìn chằm chằm xuống lòng mình, “và đó là để giúp cô Peregrine. Bây giờ có vẻ cô sẽ được cứu. Nếu cậu có nợ cô ấy gì đó, thì món nợ đã được trả. Cậu đã giúp chúng tớ nhiều hơn những gì cậu có thể tưởng tượng. Và bây giờ là lúc để cậu trở về nhà.” Những lời cô nói bất chợt ào tới, như thể đó là một niềm đau cô đã mang trong mình từ lâu, và cuối cùng thật nhẹ nhõm khi có thể rũ bỏ được chúng.
“Đây là nhà tớ,” tôi nói.
“Không, không phải,” cô khăng khăng, lúc này quay sang nhìn tôi. “Thế giới người đặc biệt đang chết dần, Jacob. Đó là một giấc mơ đã lụi tàn. Và cho dù bằng cách nào đó, nhờ một phép mầu nào đó, chúng ta có thể cầm vũ khí chống lại những kẻ biến chất kia và chiến thắng, chúng ta cũng sẽ chỉ còn là cái bóng của chính mình trước đây; một đống hỗn độn tan nát. Cậu có một ngôi nhà – một ngôi nhà không bị hủy hại – bố mẹ cậu còn sống, và ít hay nhiều, họ cũng yêu cậu.”
“Tớ đã nói với cậu rồi. Tớ không muốn những thứ đó. Tớ chọn hiện tại này.”
“Cậu đã hứa, và đã giữ lời. Và giờ chuyện đó đã kết thúc, và đã tới lúc cậu trở về nhà.”
“Đừng có nói vậy nữa!” tôi gắt lên. “Tại sao cậu cứ xua đuổi tớ thế?”
“Vì cậu có một ngôi nhà thực sự, một gia đình thực sự, và nếu cậu nghĩ có bất cứ ai trong bọn tớ lại đi chọn thế giới này thay vì những điều đó – bất cứ ai lại không từ bỏ các Vòng Thời Gian, sự trường thọ và năng lực đặc biệt của bọn tớ từ lâu cho dù chỉ để nếm trải qua những gì cậu có – thì cậu quả thực là sống trong mộng rồi. Tớ thấy thực sự phát ốm lên khi nghĩ cậu có thể vứt bỏ tất cả những thứ đó đi – mà vì cái gì kia chứ?”
“Vì cậu, đồ ngốc! Tớ yêu cậu!”
Tôi không tin nổi mình đã nói thế. Cả Emma cũng không – miệng cô há ra. “Không,” cô nói, lắc đầu như thể muốn xóa đi những lời tôi nói. “Không, như thế sẽ chẳng giúp gì cả.”
“Nhưng đúng thế!” tôi nói. “Cậu nghĩ tại sao tớ ở lại thay vì về nhà? Không phải vì ông nội tớ hay vì một cảm nhận ngu ngốc nào đó về trách nhiệm – không hẳn vậy – hay vì tớ ghét bố mẹ hay không thích ngôi nhà của tớ và tất cả những thứ tiện nghi gia đình tớ có. Tớ ở lại vì cậu.”
Cô không nói gì trong giây lát, chỉ gật đầu rồi nhìn đi chỗ khác, đưa hai bàn tay lùa lên mái tóc, để lộ một vệt bột bê tông trắng xóa lúc trước tôi đã không để ý thấy, làm cô đột nhiên có vẻ già đi. “Đó là lỗi của tôi,” cuối cùng cô lên tiếng. “Đáng lẽ tôi không nên hôn cậu. Có lẽ tôi đã làm cậu tin vào một điều không phải thật.”
Những lời nói này làm tôi đau nhói, và tôi vô thức lùi lại, như thể để tự vệ. “Đừng nói thế với tớ nếu cậu không có ý như vậy,” tôi nói. “Có thể tớ không có nhiều kinh nghiệm hẹn hò, nhưng đừng đối xử với tớ như một kẻ thua cuộc ngớ ngẩn hoàn toàn vô dụng trước mặt một cô gái đẹp. Không phải cậu khiến tớ ở lại. Tớ ở lại vì tớ muốn thế - và vì cảm xúc tớ có với cậu cũng thực như bất cứ điều gì khác tớ từng cảm thấy.” Tôi để những lời này lơ lửng giữa hai chúng tôi trong giây lát, cảm thấy sự thật trong đó. “Cậu cũng cảm thấy như vậy,” tôi nói. “Tớ biết thế.”
“Tớ xin lỗi,” cô nói. “Tớ xin lỗi, như thế thật tàn nhẫn, và đáng lẽ tớ không nên nói thế.” Đôi mắt cô ươn ướt, và cô đưa bàn tay lên gạt nước mắt. Emma đã cố thể hiện mình thật cứng rắn, nhưng giờ tấm bình phong bên ngoài đang rơi xuống. “Cậu nói đúng,” cô nói. “Tớ quan tâm đến cậu rất nhiều. Đó là lý do vì sao tớ không thể nhìn cậu vứt bỏ tính mạng đi một cách vô ích.”
“Không đâu!”
“Chết tiệt, Jacob, có đấy!” cô nóng nảy tới mức vô thức làm bùng lên một ngọn lửa trên tay mình – và thật may là bàn tay đó đã rời khỏi đầu gối tôi. Cô vỗ hai bàn tay vào nhau, dập tắt ngọn lửa, rồi đứng dậy. Chỉ tay vào khối băng, Emma nói, “Cậu nhìn thấy chậu cây trên bàn làm việc đằng kia không?”
Tôi có thấy. Và gật đầu.
“Lúc này nó xanh tươi, nhờ được băng bảo quản. Nhưng bên trong nó đã chết. Và ngay khi băng tan, nó sẽ úa nâu rồi mủn nát.” Cô nhìn thẳng vào mắt tôi. “Tớ cũng giống cái cây đó.”
“Không hề,” tôi nói. “Cậu… hoàn hảo.”
Khuôn mặt cô căng ra thành một vẻ kiên nhẫn gắng gượng, như thể đang giải thích điều gì đó với một đứa trẻ đầu đất. Cô lại ngồi xuống, cầm lấy bàn tay tôi, đưa nó lên áp vào gò má mịn màng của mình. “Cái này ư?” cô nói. “Đó là một sự dối trá. Đây không thực là tớ. Nếu cậu có thể nhìn thấy tớ đúng như con người thực của tớ, cậu sẽ không còn yêu tớ nữa.”
“Tớ không quan tâm tới chuyện đó…”
“Tớ là một bà già!” cô nói. “Cậu nghĩ chúng ta giống nhau, nhưng không phải. Con người mà cậu nói cậu yêu này ư? Cô ta thực sự là một mụ phù thủy, một bà lão ẩn nấp trong thân hình một cô gái. Cậu là một thiếu niên – một cậu bé – một chú nhóc nếu so sánh với tớ. Cậu không bao giờ hiểu nổi thế là thế nào đâu, luôn kề cận cái chết vào mọi lúc. Và không nên hiểu. Tớ chưa bao giờ muốn cậu hiểu. Cậu vẫn còn cả cuộc đời để nhìn về phía trước, Jacob. Tớ đã sống hết cuộc đời của mình rồi. Và một ngày kia – có lẽ sẽ sớm thôi – tớ sẽ chết và trở về với cát bụi.”
Cô nói ra tất cả với sự quả quyết lạnh lùng tới mức tôi biết cô tin vào điều đó. Cô đau khổ khi phải nói ra những lời này, tôi đau khổ khi phải nghe chúng, nhưng tôi hiểu vì sao cô lại làm thế. Theo cách của mình, cô đang cố cứu tôi.
Dù sao cũng thật đau đớn – một phần vì tôi biết cô nói đúng. Nếu cô Peregrine bình phục, như vậy tôi coi như đã làm điều tôi định làm: tìm hiểu bí mật của ông nội tôi, trả món nợ của gia đình tôi với cô Peregrine; sống cuộc sống phi thường tôi vẫn hằng mơ – hay ít nhất là một phần của cuộc sống đó. Và vào thời điểm như vậy, ràng buộc duy nhất còn lại của tôi là với bố mẹ tôi. Còn về Emma, tôi chẳng hề bận tậm về chuyện cô lớn hơn tôi, hay khác tôi, nhưng cô đã quyết định là tôi nên bận tâm về điều đó, và có vẻ chẳng thể nào thuyết phục cô khác đi được.
“Có lẽ khi tất cả chuyện này kết thúc,” cô nói, “tớ sẽ gửi thư cho cậu, rồi cậu hồi âm. Và có lẽ một ngày nào đó cậu lại có thể tới gặp tớ.”
Một lá thư. Tôi nghĩ tới cái hộp bụi bặm tôi đã tìm thấy trong phòng cô, những lá thư ông nội viết. Vậy với cô tôi chỉ là vậy thôi sao? Một ông già bên kia đại dương? Một ký ức? Và tôi nhận ra tôi sắp sửa theo chân ông nội mình theo cách tôi chưa bao giờ nghĩ là có thể. Về nhiều khía cạnh, tôi đang sống cuộc sống của ông nội. Và rất có thể một ngày kia sự cảnh giới hồn rỗng của tôi sẽ trở nên quá chểnh mảng, tôi sẽ già đi, đãng trí, và sẽ chết như ông nội. Và Emma sẽ tiếp tục sống mà không có tôi, không có ai trong hai ông cháu tôi, và đến một ngày có thể ai đó sẽ tìm thấy những lá thư của tôi trong ngăn tủ tường của cô, trong một chiếc hộp bên cạnh những lá thư của ông nội tôi, và băn khoăn tự hỏi chúng tôi là thế nào với cô.
“Thế nếu cậu cần tớ thì sao?” tôi nói. “Nếu lũ hồn rỗng quay lại thì sao?”
Nước mắt đầm đìa trên má cô. “Chúng tớ sẽ xoay xở được bằng cách nào đó,” cô nói. “Xem nào, tớ không thể nói thêm gì về chuyện này nữa. Thành thật mà nói, tớ không nghĩ trái tim tớ có thể chịu đựng nổi. Chúng mình có thể lên gác và nói với những người khác về quyết định của cậu không?”
Tôi nghiến chặt quai hàm, đột nhiên bực bội về việc cô thúc ép tôi quá đáng. “Tớ chưa quyết định gì hết,” tôi nói. “Mà là cậu.”
“Jacob, tớ vừa nói với cậu…”
“Phải, cậu nói với tớ. Nhưng tớ chưa quyết định.”
Cô khoanh tay lại. “Thế thì tớ có thể đợi.”
“Không,” tôi nói và đứng dậy. “Tớ cần ở một mình một lát.”
Rồi tôi lên cầu thang mà không có cô đi cùng.