Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 1691|Trả lời: 15
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại - Xuất Bản] Mùa Thu Của Cây Dương | Kazumi Yumoto

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 14-11-2014 18:19:38 | Xem tất |Chế độ đọc

Tên tác phẩm: Mùa thu của cây dương
Mỗi tháng chỉ post được 1-2 chương

Tác giả: Kazumi Yumoto
Dịch giả: Nguyễn Thị Hương Giang
Typer: Nhi
Độ dài: 12 chương
Thể loại: Truyện cho tuổi mới lớn, Tiểu thuyết
Nhà xuất bản : 15/11/2013
Ngày xuất bản: Nhã Nam
Giới thiệu sơ lược:

Mùa hè năm lên sáu tuổi, gia đình mẹ con Chiaki lâm vào cảnh khốn cùng. Mẹ cô bé quá đỗi tiều tụy không thể chăm lo nổi cho Chiaki nhạy cảm và đang khủng hoảng bởi sự đi bất ngờ của bố. Nhưng, từ sau khi dọn đến khu căn hộ cho thuê có tên Cây Dương, Chiaki dần tìm lại hạnh phúc tuổi thơ tưởng chừng đã mất, nhờ có bà cụ chủ nhà - khó tính, nấu ăn dở, ưa sạch sẽ, hay dọa trẻ con… nhưng âm thầm tốt bụng. Thời gian thấm thoắt trôi, hai mươi năm sau Chiaki nhận được tin bà qua đời. Trên hành trình quay về dự đám tang bà, dòng ký ức ngọt ngào của những tháng ngày sống tại Cây Dương lặng lẽ ùa về. Nơi đây, cô đã tìm ra một sự thật, về chính bản thân cô, về mẹ cô, và nhất là về bà cụ, người dù đã mất đi nhưng sẽ mãi luôn còn ở đó. Và một mùa thu nữa lại trải lá vàng lên khu căn hộ Cây Dương.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 15-11-2014 18:30:17 | Xem tất
1.

*Mình type khá vội nên có lỗi chính tả các bạn nhắc giúp mình.Cảm ơn. Enjoy!*

"Sao thế, giọng con nghe như không khỏe. Đã ăn tối chưa? À khoan, đợi đã, có chuyện này hệ trọng lắm. Khi nãy cô Sasaki gọi điện tới... Ừ, đúng rồi, là cô Sasaki đó. Ở trang viên Cây Dương ấy."
Nghe mẹ nói thế qua điện thoại, tôi vừa thoáng nghĩ bao năm rồi mình chẳng có lúc nào thong thả để nhớ đến những ngày sống cùng bà cụ, thì sực hiểu ra ngay:"Ôi, bà cụ mất rồi!"
Bà cụ là chủ khu căn hộ cho thuê nơi mẹ con tôi đã sống trong ba năm. Bố mất năm tôi lên sáu, sau đó ít lâu, mẹ dọn khỏi ngôi nhà chúng tôi đang ở và tới khu căn hộ cho thuê của bà cụ, "Trang viên Cây Dương". Cô Sasaki, người vừa liên lạc với mẹ, cũng sống ở đó.
"Buổi sáng, cô Sasaki gọi bà dậy nhưng không thấy bà trả lời, có vẻ như bà đi trong lúc ngủ."
"Sáng hôm nào cơ?"
"Sáng nay."
Tôi hít một hơi thật khẽ. Nếu là sáng nay thì dù bà có xuất hiện trong mơ để chào từ biệt, tôi cũng chẳng thể biết được vì đang ngủ mê mệt. Tôi bị lệ thuộc thuốc ngủ, phải uống thuốc mới ngủ ngon, thi thoảng, không rõ là cách bao lâu, tôi lại gặp ác mộng khủng khiếp. Trong giấc mơ đêm qua tôi thấy mình là xác con cá to kinh dị bị ném xuống một nền bê tông mênh mông. Trong những cơn ác mộng tôi thường gặp, tình tiết đó rất hay xuất hiện.
"Bà bao nhiêu tuổi rồi mẹ nhỉ?"
"Chín tám. Vậy là bà đã ra đi thanh thản."
  Thế thì hồi chúng tôi sống ở đó, bà cụ cũng phải tám mươi rồi. Thế mà bà vẫn nói với tôi, khi ấy mới bảy tuổi rằng: "Bà sẽ cố gắng sống đến ngày cháu trưởng thành." Ở cái tuổi tám mươi, nói được như vậy đòi hỏi một quyết tâm thật sự, và cụ đã thực hiện lời hức ấy một cách thật xuất sắc.
"À còn nữa, bà có để lại một số thư, cô Sasaki gọi điện vì việc đó."
"Để lại gì kia?"
"Những - lá - thư," mẹ hơi hạ giọng, chậm rãi nhắc lại.
"Cô Sasaki nói vậy?"
"Ừ," mẹ đáp nhưng không nói gì thêm về những lá thư nữa. "Có nên gửi hoa không nhỉ..."
  Mẹ tái hôn và chúng tôi rời trang viên Cây Dương khi tôi lên mười. Từ đó trở đi, cả mẹ và tôi đều không gặp lại bà, nhưng dĩ nhiên chúng tôi vẫn thư từ qua lại với nhau, đôi khi còn gửi cả ảnh. Có điều, "những lá thư" mà cô Sasaki nói đến chắc chắn không phải mớ thư đó. Mà là những lá thư tôi viết hồi bảy tuổi rồi gửi bà cất, chúng được cất trong ngăn kéo tủ quần áo màu đen. Vậy ra bà vẫn giữ chúng trong suốt ngần ấy năm trời...
  "Hoa, mẹ gửi hoa đi."
  "Sao?"
  "Con sẽ tới đó. Nếu đi máy bay thì nhanh thôi"
  "Thế còn bệnh viện, sẽ không sao chứ?"
Từ ngày tôi bỏ bệnh viện nơi mình làm y tá, thấm thoát đã gần tháng trời. Việc này tôi không hề cho mẹ biết.
"Mẹ không phải lo chuyện đó."
"Mẹ có lo lắng gì đâu," mẹ yên lặng trong giây lát. "Dù là chuyện gì thì con cũng tự quyết định mà."
"Vâng."
"Thế nhé, gửi lời hỏi thăm hộ mẹ đến cô Sasaki."
"Vâng, con nhớ rồi."
Tôi cúp máy rồi ngồi ngây ra một lúc. Thôi, thế là đã xa nhau mãi rồi. Cả bà cụ, cả trang viên Cây dương, cả khu vườn có cây dương ấy và tất cả những điều tôi từng cho là "tốt đẹp" dù không thực sự hiểu. Ba năm ngắn ngủi sống ở trang viên Cây Dương, giờ đây tôi chỉ có thể nhớ đến như một câu chuyện trong giấc mơ mà thôi.
  Tôi bỏ vào chiếc túi du lịch quần áo lót để thay, đồ vệ sinh cá nhân và cả túi giấy đựng thuốc rồi kéo roẹt phéc mơ tuya. Đi có một, hai ngày ngày mà mang cả đống thuốc ngủ theo thế này, đúng là ngớ ngẩn, tôi lẩm bẩm. Nhưng thực tâm có lẽ tôi không cho điều đó là ngớ ngẩn chút nào. Chẳng phải lúc nào mày cũng chăm chăm nghĩ tới những viên thuốc ấy hay sao,/i] một giọng nói khác vang lên trong tôi. Tôi lắc đầu. Không biết tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì, nhưng tôi biết, ít ra thì đêm nay, tôi sẽ không mơ thấy mình thành xác cá nữa. Ngày mai, tôi sẽ lên máy bay đến tiễn biệt bà cụ. Cũng chỉ có ngần ấy việc phải làm thôi.
  Tôi trèo lên giường, lặng lẽ nhắm mắt. Tiếng lá cây dương xào xạc bên tai, như rủ rê tôi: "Cùng trò chuyện nào, cùng nói chuyện nào." Âm thanh dễ chịu và khô hanh của mùa thu, tôi nhận ra ngay đó không phải âm thanh từ ngoài kia vọng vào.

Bình luận

Bạn sửa lại tiêu đề theo mẫu nhé, truyện này để là [Hiện Đại - Xuất Bản]  Đăng lúc 20-11-2014 11:26 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Đăng lúc 20-11-2014 23:06:32 | Xem tất
đã được recommend truyện với lời giới thiệu rất hấp dẫn, nhưng lười quá vẫn chưa có dịp đọc. Ủng hộ bạn, đây là thể loại truyện mình thích Chắc sẽ chờ đến lúc hoàn rồi đọc 1 thể

ah bạn đổi màu bài chủ đề đi nhé, màu xanh này nhìn nhức mắt quá @@

Bình luận

lâu lâu k thấy bạn quay lại Kites, tớ xin phép đăng nốt những chương còn lại nhé.  Đăng lúc 5-6-2016 10:22 AM
ok mình sẽ đổi bạn nhé ^^ sẽ cố gắng type nhanh cho bạn nhé ^^ mình cũng thích thể loại này  Đăng lúc 22-11-2014 11:21 AM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Đăng lúc 13-5-2016 22:48:05 | Xem tất
THÔNG BÁO


Xin chào bạn!

Trước tiên, cám ơn sự đóng góp của bạn dành cho box.

Hiện nay, box đang tiến hành sắp xếp lại để gọn gàng hơn.

Trong quá trình sắp xếp, bọn mình thấy bạn đã ngừng thread hơn 2 tháng và không có bất cứ thông báo nào đến độc giả.

Vậy nên 5 ngày sau thông báo này, nếu vẫn không có chương mới, bọn mình sẽ tiến hành các biện pháp xử lý thích hợp.

Mong bạn hiểu và thông cảm!

Thân mến!

Mod
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Đăng lúc 6-6-2016 19:07:45 | Xem tất
2.




Sau vài ngày cuộc sống đảo lộn vì bố ra đi đột ngột do tai nạn giao thông, mẹ lại trở về chăm lo việc nhà như trước. Nhưng ít lâu sau, một hôm mẹ bất ngờ chìm vào giấc ngủ. Mẹ ngủ suốt. Khoảng bao lâu nhỉ? Một tuần, à không đến, đó là do tôi cảm giác lâu vậy thôi chứ thực ra có lẽ chỉ khoảng ba, bốn ngày. Tôi vẫn nhớ khi kỳ nghỉ hè bắt đầu, mẹ còn đang ngủ, và tôi - mới lớp Một tiểu học - phải ăn cá hồi đóng hộp những khi thấy đói. Thật kỳ lạ là tủ bếp nhà tôi lại chỉ toàn cá hồi đóng hộp. Những con cá hồi vẽ trên nhãn hộp có ánh mắt lạnh lùng vô cảm, và hiển nhiên chúng không phải đối tượng để trò chuyện. Từ sau lần đó, tôi không bao giờ dám ăn cá hồi đóng hộp nữa. Cả bây giờ cũng vậy, mỗi lần nhìn thấy những hộp cá hồi chất cao trong cửa hàng thực phẩm, gan bàn chân tôi chợt lạnh ngắt.

Khi tôi đã ăn hết chỗ cá hồi đóng hộp dễ bằng lượng người ta ăn trong cả đời, thì cũng bất ngờ như khi chìm vào giấc ngủ, mẹ đột nhiên tỉnh dậy. Lần này, mẹ dẫn tôi đi theo, hai chúng tôi lên tàu điện. Không định trước sẽ đi đâu. Chỉ là bước lên một chuyến tàu, chẳng cần biết nó sẽ đi đâu, rồi xuống ở một ga bất kỳ. Dưới nắng hè thiêu đốt, hai mẹ con tôi lang thang vẩn vơ khắp những đường phố xa lạ. Chúng tôi ăn mì lạnh ở một cửa hàng vừa tiền, rồi lại lên tàu điện.

Suốt quãng thời gian đó, tôi và mẹ hầu như im lặng, không nói gì với nhau. Tôi hiểu, sâu tận đáy lòng, mẹ không muốn nhắc đến bố. Phần tôi, khi nghe tin bố mất, tôi đã vô cùng đau khổ. Nhìn bố nằm trong quan tài, đầu quấn băng, tôi bật khóc lên thành tiếng. Nhưng giờ tôi cảm thấy tựa như có một lớp màng bao bọc lấy tim mình, tôi không nhớ được mấy những điều về bố khi ông còn khỏe mạnh. Có lẽ bởi nỗi thương tiếc dữ dội mà mẹ vẫn ôm trong lòng dần dần chuyển thành căm giận và thái độ cự tuyệt dành cho thế giới xung quanh đã truyền sang tôi.

Buổi tối, trở về nhà khi toàn thân đã mệt bã, hai mẹ con cùng nhào xuống đống chăn nệm vẫn còn trải nguyên từ sáng và ngủ li bì. Không có ký ức vui nào trong chuỗi ngày lang thang ấy, nhưng chỉ cần được lặp đi lặp lại hành trình này mỗi ngày, ít nhất cũng có điều gì đó còn lại trong lòng mẹ. Một đứa bé sáu tuổi như tôi chỉ nghĩ được đến vậy. Hơn nữa, so với chuyện chỉ có mỗi món cá hồi đóng hộp để ăn, đi lang thang tất nhiên sướng hơn gấp cả trăm.

Nhưng rồi như một điều bất ngờ thú vị, chúng tôi chợt phát hiện ra trang viên Cây Dương trong một chuyến lang thang bằng tàu điện.

Hôm ấy, hai mẹ con tôi lên một chuyến tàu vắng ngắt ra ngoại ô, đó là một hành trình thật dài. Chúng tôi chọn ga tới một cách ngẫu nhiên. Ở đó, khi xuống tàu, từ sân ga có thể nhìn thấy vùng bờ sông bên dưới. Nhăn nhó trong ánh nắng chói chăng hắt lên từ những tấm bê tông, chúng tôi rảo bước về phía đầu sân ga. Cả dòng sông, bãi cỏ đến cây cầu và mặt đất đầy bụi bặm cùng phơi mình dưới cái nắng như đổ lửa. Sông cạn, dòng nước trôi lờ lững, còn bầu trời thì bao la dị thường. Tôi hít vào một hơi thật đầy, bất chợt muốn thốt lên điều gì đó, kiểu như "Làm sao bây giờ?"

"Mẹ con mình ra cửa soát vé nhé?"

Tôi hồi bắt đầu lang thang trên những chuyến tàu điện thế này, chưa bao giờ mẹ hỏi ý tôi. "Lên đây nhé!" hay "Xuống đây nhé!" cũng không. Vì vậy tôi tỏ ra ngạc nhiên.

"Con không muốn à?" mẹ hỏi. Tôi lắc đầu ngay, "Không phải đâu ạ. "

Tôi chợt nghĩ mình cần phải ngoan, không được phép trái lời, liền chăm chăm nhìn thẳng về phía trước và rảo bước bên cạnh mẹ đang hối hả đi.

***

Ra khỏi khu phố mua sắm trước nhà ga sẽ thấy một trạm cứu hỏa. Gần trạm cứu hỏa là một dòng sông bẩn như mương thoát nước. Chúng tôi cứ thế men theo dòng nước, qua một khu dân cư không có gì đặc biệt, không biết sẽ đi tới đâu. Tôi nghĩ lúc đó tầm hai giờ. Lối đi dọc bờ sông không một bóng râm, mặt trời thiêu đốt hết tất thảy bằng cái nóng khủng khiếp chặn đứng cả âm thanh, khiến cho không còn nghe nổi tiếng ve kêu, không thấy một bóng người cũng như bóng chim bay, còn bi đông nước của tôi thì khô rốc. Tôi chẳng hiểu mình đã bị tụt lại phía sau từ lúc nào, chỉ biết cố lê chân và chằm chằm nhìn theo lưng mẹ.

"Ta tới đó nhé!"

Đột nhiên, mẹ đứng lại và gọi, đúng vào lúc trí óc tôi gần như ngừng hoạt động, tuy hai chân còn chưa dừng hẳn, cái trán dô dính bết những sợi tóc đẫm mồ hôi va nhẹ vào bên hông mềm mại của mẹ. Tôi từ từ ngẩng đầu lên, ngơ ngác nhìn theo hướng mẹ chỉ.

"Con nhìn kìa, cái cây đó. To quá nhỉ!"

"Vâng ạ. "

Từ giữa các mái nhà của khu dân cư sừng sững vươn lên một cái cây cao, còn cao hơn cả cột điện. Không thấy có gió thổi, nhưng ở trên vòm lá vẫn lay động, chỉ nhìn thôi cũng đủ khiến người ráo mồ hôi.

"Mẹ con mình tới xem cái cây đó nhé!"

"Vâng, " tôi gật đầu.

"Chiaki, người con đầm đìa mồ hôi kìa. Bi đông nước của con đâu?"

"Con uống hết mất rồi. Nhưng không sao đâu. "

Ý nghĩ phải cố gắng khiến tôi ráng sức bước lên vượt trước mẹ. Cứ thế, hai mẹ con xuôi theo một quãng bờ sông, rồi rẽ ra xa dần cho đến khi dòng nước lùi hẳn lại phía sau lưng thì bước vào một con đường, đủ rộng cho ô tô chạy và thấy ngay khu vườn có cái cây lớn.

Khu vườn còn xa mới được gọi là cỏ rả sạch sẽ và đẹp đẽ tươm tất, dẫu chẳng đến mức bị bỏ bẵng không ai chăm lo và cũng không phải kiểu được trang hoàng cầu kỳ, hiển nhiên nó không phải một nơi bỏ hoang. Dễ nhận ra, khu vườn phát triển được thế này là nhờ người chăm sóc, gieo hạt suốt một thời gian dài, nhưng có vẻ người chủ thấy thế là đủ rồi, không có ý định tỉa tót thêm làm gì. Cây phong tươi tốt lá xanh, khóm trúc đào nở bung những đóa hoa đỏ, vươn cành chạm sang tận mái kho chứa đồ của nhà bên, cây nguyệt quế Nhật lá bóng láng, hoa tú cầu duyên dáng xù lên. Những bông hoa ly màu hồng cam lấp ló đây đó, không ra hàng lối nào, một chiếc lò than màu xanh có nhiều mãn nguyện đang ngồi phệt dưới nền đất. Còn chính giữa khu vườn là cái cây lớn đứng sừng sững, tán lá thi thoảng lại lay động nhè nhẹ theo cơn gió nhẹ trên cao. Ngước mắt nhìn lên, tôi chợt muốn được ngả vào đó mà ngủ một giấc ngon lành.

"Chiaki, Chiaki!"

Mẹ vẫy tay gọi tôi. "Mẹ biết đó là cây gì rồi. "

"Cây gì hả mẹ?"

"Cây dương "Con nhìn kìa, " mẹ chỉ. "Khu căn hộ cho thuê Cây Dương" - đó là tấm biển tên bằng gốm trắng gắn trên trụ cổng là những khối bê tông vuông chồng lên nhau. Cái tên ấy nghe thực kỳ cục đối với tôi. "Khu căn hộ cho thuê Cây Dương, khu căn hộ cho thuê Cây Dương. "

"Không phải nhà ở bình thường. Tầng hai là để cho thuê. "

Mẹ lẩm bẩm như đang nói một mình. Hướng Bắc ngôi nhà trông ra con đường chạy dọc bờ sông và có một cầu thang ngoài. Trên lối đi tầng hai có ba cửa ra vào, hai trong số đó có máy giặt kê đối diện cửa. Một khu căn hộ bằng gỗ và khó có thể gọi là khang trang.

"Chiaki này, mẹ con mình mà sống ở đây thì sao nhỉ?"

Đó là câu hỏi thứ hai trong ngày, đường đột đến nỗi dù mẹ rất mong đợi câu trả lời, lưỡi tôi cứ đơ ra, chẳng nói được gì. Nhìn về phía mẹ đang nhìn, tôi thấy trên cánh cổng sắt hé mở có một tấm biển bằng bìa các tông buông xuống.

"Còn phòng trống, vì thế…"

"Phòng trống ạ?"

"Ý nó là mẹ con ta có thể chuyển đến đây được đấy. "

Chuyển nhà tới đây, có vẻ là một ý khá hay. Tôi đã lờ mờ nhận ra rằng trước sau gì chúng tôi cũng sẽ phải rời khỏi ngôi nhà đang sống, và tôi cũng đã kịp thấy thích khu vườn này rồi.

"Vâng, nếu mẹ muốn thế. "

"Thế Chiaki thì sao?"

"Con nghĩ là được ạ. "

Mẹ nhìn tôi một lát, rồi không do dự nữa, mẹ bước thẳng vào trong.

***
Căn phòng được bố trí kiểu căn hộ cho thuê thông thường. Từ hướng Bắc, bước vào cửa sẽ gặp ngay khu phụ, rồi một phòng nhỏ rộng khoảng bốn chiếu rưỡi ngăn bằng vá gỗ, kế đó trông về hướng Nam là một phòng trải sáu tấm chiếu bạc phếch vì nắng. Chỉ mang theo những hành lý phù hợp nhất, hai mẹ con tôi chuyển đến căn hộ đó. Mẹ vứt bỏ không thương tiếc những thứ không mấy cần thiết. Sau khi đã quyết định được chỗ ở mới, mẹ mau chóng dọn khỏi nhà cũ, tất cả mọi việc được tiến hành chóng vánh đến mức khó có thể hình dung nổi nếu đã quen với tính điềm đạm thường ngày của mẹ.

Chỉ có ba căn hộ cho thuê và đều nằm trên tầng hai. Từ hướng Tây, phía có cánh cổng, phòng đầu tiên của một phụ nữ độc thân tên là Sasaki, cô làm việc cho một công ty may mặc; chính giữa là phòng của bác tài xế taxi Nishioka, hẳn nhiên là bác sống một mình; còn chúng tôi trở thành chủ nhân của căn phòng nằm trong góc, sẽ thấy ngay khi leo lên hết cầu thang.

Bà cụ chủ nhà sống một mình dưới tầng một. Nghe nói sau khi người chồng, vốn là giảng viên văn học Trung Quốc tại trường đại học, qua đời, bà sửa sang lại ngôi nhà và biến nó thành khu căn hộ cho thuê từ đó. Còn chuyện này thì mãi về sau tôi mới biết, người ta bảo rằng cái tên dài dòng "Khu căn hộ cho thuê Cây Dương" là do nhân viên văn phòng bất động sản, nơi giúp tìm kiếm những người khách trọ đầu tiên, đặt cho; nghe nói ban đầu bà cụ muốn đặt tên khu nhà là "Trang viên Cây Dương" nhưng rồi bị thuyết phục bởi lý do "Khu căn hộ cho thuê" - mà sau này được chọn - nghe hiện đại hơn nhiều. Khi chúng tôi chuyển tới, chủ nhà, hàng xóm, thậm chí là cả nhân viên bưu điện, tất cả mọi người đều gọi nơi này là trang viên Cây Dương như một lẽ dĩ nhiên vậy.

Bà cụ là một người khó tính, chẳng dễ gần chút nào. Thực lòng mà nói, dù sợ nhưng tôi vẫn có chút cảm giác thích thú đối với bà cụ, như kiểu ta tò mò muốn nhìn những thứ đáng sợ vậy, nhưng quả thực giữa "đáng sợ" và "muốn nhìn" có một sự mất cân bằng ghê gớm. Nói gì thì nói, bà cụ cũng thật đáng sợ.

Cái trán dô chi chít nếp nhăn hằn sâu của bà rộng và lồi hẳn ra. Răng hàm trên chẳng còn chiếc nào, răng hàm dưới chỉ còn ba cái, có lẽ vì thế mà cằm bà nhô ra, phần giữa khuôn mặt lại lõm vào thành hình vòng cung. Khuôn mặt gãy hõm cả vào kiểu ấy phải nói là giống hệt thủy thủ Popeye (1). Ở đáy lòng chảo giữa cằm và trán, hai con mắt đung đưa sắc lẻm tiết lộ lai lịch của bà: bà chính là Popeye một ngày nọ uống phải thứ thuốc đáng ngờ nào đó và biến thành người xấu.

(1). Một nhân vật hoạt hình nổi tiếng, chàng thủy thủ yếu đuối Popeye thường bị nhân vật Bluto bắt nạt. Anh trở nên khỏe mạnh phi thường nhờ ăn rau chân vịt và đánh bại Bluto trước sự ngưỡng mộ của cô bạn gái Olive.

Cả đồ vật trong nhà bà cụ cũng quá đáng sợ đối với một đứa trẻ. Có lẽ bà khó chịu với ánh nắng lọt vào phòng nên chỉ mở duy nhất một tấm cửa chớp. Hôm đầu tiên đi hai mẹ con tôi lần bước tới theo lời mời gọi của cây dương kia đến đây, từ hành lang tôi đã lén nhìn vào căn phòng âm u, thấy những bước tường bị chôn vùi hoàn toàn sau đống sách và một con rồng đá trang trí trừng trừng nhìn mình. Một lá bùa màu đỏ sống động như trong mơ - nó viết gì nhỉ, là thần chú chăng, cái dãy chữ Hán rắc rối đó - dán hành lang chỗ sát trần nhà.

Tuy nhiên, lý do chính khiến tôi hãi bà cụ lại là ở một điều thực tế hơn nhiều. Ngay từ ban đầu, bà đã nói không muốn nhận cho trẻ con vào khu nhà này. Mẹ phải nài nỉ mãi, rốt cuộc tôi cũng được phép ở lại, nhưng vẫn cứ sợ nơm nớp lỡ làm gì không vừa ý bà cụ thì sẽ bị đuổi phắt khỏi đây. Tuy chỉ là một căn hộ cho thuê, nhưng với tôi khi ấy đó là nơi chốn ổn định mà khó khăn lắm tôi mới có được sau chuỗi ngày dài chỉ biết đến cá hồi đóng hộp và tàu điện.

Ngày ngày, mẹ ra ngoài tìm việc. Tôi một mình ngắm cây dương qua cửa sổ và lặng lẽ đi qua những ngày cuối cùng của mùa hè năm đó. Cả thế giới của tôi chỉ loanh quanh với tán lá dương rung rinh không dứt, lũ chim bay tới đậu trên cây và những bóng lá chen lá biến đổi theo bước đi của ông mặt trời. Cả khi ăn hai nắm cơm mẹ chuẩn bị sẵn cho tôi để ăn trưa, tôi cũng hướng về cái cây ấy. Chiều xuống, bà cụ để hương trừ muỗi dưới chân, phủ khăn mặt lên đầu và bắt đầu nhổ cỏ, tôi cũng hơi ló người qua cửa sổ, không phải để nhìn bà mà là để thấy cái cây. Tôi cứ hướng đến cái cây vì muốn chuyện trò với nó, hay do chán nản, buồn bã nhỉ? Tôi chẳng còn nhớ chút nào về những cảm xúc ấy nữa. Tính ra thì sau này, chưa có mùa hè nào của tôi tĩnh lặng như mùa hè năm đó. Ngay cả bây giờ, hình ảnh mùa hè trong tôi vẫn là những bóng râm thẫm dần bởi sự chói chang của ánh nắng và khoảng tĩnh lặng gói ghém bên trong bóng râm ấy.

***

Thế rồi những ngày yên ả đó cũng kết thúc khi tháng Chín về. Tôi bắt đầu đi học.

Tôi được chuyển từ trường tiểu học nữ sinh tư thục đang học sang một trường tiểu học công lập gần trang viên Cây Dương. Dĩ nhiên cũng là vì vấn đề khoảng cách, nhưng tôi nghĩ, với một người vừa được nhận vào làm ở nơi tổ chức lễ cưới sau những ngày dài chạy đôn chạy đáo tìm việc như mẹ thì học phí hàng tháng của trường tư thục hẳn là một gánh nặng. Lương thẩm phán của bố ngày trước cũng thuộc loại khá nhưng cũng không đủ để có cái gì đó gọi là tài sản để lại. Tôi vẫn là học sinh lớp Một, bố mất khi tôi còn đang dở dang học kỳ thứ nhất, sau đó thậm chí tôi còn không đến trường, vì vậy cũng chẳng có cảm giác lưu luyến gì với trường cũ cả nên tôi thấy hơi ngạc nhiên lúc nghe mẹ nói "xin lỗi" như thế mẹ đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng như vậy.

Thế nhưng đến khi đi học thực sự, trường học lại trở thành một vấn đề nhức nhối đối với tôi. Từ bọn bạn cùng lớp cứ hò hét xông vào nhau tới các giáo viên gào thét trong bộ quần áo thể thao, tất cả đều rất khác so với trường cũ chỉ toàn con gái, làm sao tôi có thể kết bạn được trong một ngôi trường nhộn nhạo như thế này, song đó không phải là điều duy nhất khiến tôi khổ sở.

Từ sau khi trở lại trường học, biết bao suy nghĩ lại ùa đến bủa vây tôi. Bố đã đi đâu nhỉ? Bỗng nhiên một ngày bố đi đâu mất? Thế là thế nào. Sao đột nhiên lại không còn bố nữa? Liệu có phải bố sẩy chân rơi xuống lỗ cống đang mở nắp rồi biến mất giống như nhân vật siêu hậu đậu trong truyện tranh hay không?…

Đương nhiên, tôi cũng có mặt trong lễ tang, cũng sợ hãi khi thấy trên khuôn mặt bố trong quan tài có gì đó rất khác so với khi còn sống. Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi hiểu cái chết của bố. Bố của tôi, phải chăng ông đã đi đâu mất rồi?

Trong suốt mùa hè, kể cả khi có cả hai mẹ con lẫn khi chỉ có một mình, tôi chẳng mảy may suy nghĩ về điều đó. Có lẽ vì tôi không chủ tâm suy nghĩ, và cũng chưa đến lúc có thể suy nghĩ về chuyện như thế. Nhưng khi ra ngoài, tôi luôn bị xâm chiếm bởi cảm giác thế giới này nhan nhản những lỗ cống há miệng ở khắp mọi nơi, một thế giới mà dẫu chỉ sơ ý một chút thôi cũng không thể được. Cả mẹ, cả tôi, một lúc nào đó cũng sẽ rơi xuống cái hố đen ngòm ấy, không cách nào trở về, giống như bố. Bạn bè, thầy cô ở trường đều rất tươi vui, hào hứng và đầy sức sống, tôi không nghĩ có ai trong số họ biết về những hố đen đang ám ảnh tôi, và tôi thấy cô đơn vô cùng.

Tôi không tiết lộ với bất cứ ai về nỗi sợ của mình. Dĩ nhiên, kể cả mẹ. Ngay cả một đứa trẻ như tôi cũng nhận ra rằng mẹ vẫn không muốn nói chuyện về bố, vẫn nhất định không chấp nhận sự thật bố đã mất rồi. Chẳng bao lâu sau, tôi bắt đầu thấy khó chịu và tức giận cái thái độ cự tuyệt bướng bỉnh ấy, thậm chí tôi còn trách móc mẹ nữa. Nhưng hồi ấy, tôi cũng chỉ nghĩ được rằng không được nhắc đến bố, dù sao thì mẹ trước mắt tôi đã đủ khổ sở rồi, vả lại chắc mẹ cũng gặp nhiều khó khăn ở chỗ làm mới. Rời trường nữ thục, mẹ kết hôn ngay với bố, hơn mẹ những 12 tuổi, và suốt một thời gian dài cho tới khi sinh tôi, mẹ chỉ ở nhà nên gần như chẳng có chút kinh nghiệm làm việc nào. Mẹ, người luôn điềm tĩnh trước mọi chuyện, giờ luôn phải thức khuya ghi chép với đôi mắt mệt mỏi kiệt cùng, thế nên dù thế nào tôi cũng không thể làm mẹ lo lắng.

"Trường học vui không con? Con có bạn rồi chứ?"

"Vâng. Tuyệt mẹ à!"

Nếu mẹ hỏi, tôi sẽ trả lời như vậy. Rồi sáng sáng, tôi sẽ lại nghiến răng bước ra khỏi nhà, hướng về cái thế giới đầy rẫy những lỗ cống không đáy đang há hốc cái miệng đen ngòm mà có lẽ do các vị thần đã quên không đậy nắp. Tôi làm bài tập rất cẩn thận và chẳng bao giờ lỡ quên cái gì. Vậy mà giờ nhớ lại, tôi chỉ thấy khoảng thời gian đó ngập tràn căng thẳng sợ hãi rằng mình sẽ sơ sẩy điều gì. Tôi đã nghĩ, luôn cẩn trọng và không phạm lỗi là cách duy nhất để không bị lôi tuột xuống những hố đen mà chẳng biết khi nào và ở đâu sẽ xuất hiện.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Đăng lúc 6-6-2016 19:21:20 | Xem tất

Ngày qua ngày, căng thẳng cứ lớn dần lên. Tôi kiểm tra đồ trong cặp sách tới ba lần trước khi đi ngủ, và sáng dậy, nếu không xem lại thêm lần nữa tôi sẽ chẳng thể yên tâm ra khỏi nhà. Trong lúc kiểm đồ, tôi chợt nảy ra ý nghĩ, không chừng thời khóa biểu thay đổi rồi cũng nên. Thế là tôi nhét tất cả sách vở vào cặp, những thứ thừa ra tôi bỏ vào túi xách bằng vải bạt rồi mang cả đi. Ngày ngày, tôi đi đi về về trên cùng một con đường, lưng còng xuống vì mang đồ quá nặng, trông tôi chẳng khác nào một bà già khư khư giữ của.

Người ta vẫn bảo rằng, nỗi lo lắng giống như một mầm cây, ngắt đi rồi sẽ mọc lại, bởi thế ngay khi nỗi sợ quên đồ dần tan biết, tôi lại bị tấn công bởi một nỗi lo sợ mới. Vì mẹ luôn là người ra khỏi nhà trước nên tôi thường phải tự khóa cửa rồi đến trường. Nhưng trên đường đi, nỗi sợ bất chợt lại ập đến, tôi không biết mình đã khóa cửa cần thận hay chưa...

Hạt mầm lo sợ mới này lớn nhanh như thổi, giống như cây đậu trong "Chuyện chàng Jack và cây đỗ tương". Thế là dù đang vác theo một đống đồ nặng, tôi vẫn tất tưởi về nhà kiểm tra lại khóa cửa. Chưa đầy một tuần sau, hằng ngày tôi không thể đến trường mà chưa thực hiện trình tự ấy đủ ba lần, mỗi lần quay về nhà là từ ba điểm khác nhau trên đường đi. Dĩ nhiên, lần nào cửa nhà cũng luôn được khóa chắc chắn. Cả việc nhà đột nhiên bị cháy rụi cũng không hề xảy ra. Nhưng nếu không kiểm tra lại cho chắc chắn, tôi sẽ không ngừng bị nỗi lo "sắp có điều gì xấu xảy ra" hành hạ.

Khi chắc chắn cửa nẻo đã được khóa kỹ càng, nỗi lo tiếp theo là đi học muộn. Đường tới trường mất khoảng mười phút đi bộ, nhưng do mang đồ nặng, lại hết lần này đến lần khác quay về nên tôi thường phải ra khỏi nhà một tiếng trước khi giờ học bắt đầu. Nghĩa là phải dậy thật sớm. Nghĩa là nếu ngủ quên thì sẽ rắc rối to...

Đến trường suôn sẻ, tôi lại lo về mẹ. Liệu mẹ có gặp tai nạn giao thông giống như bố không? Liệu mẹ có vất vả quá mà mắc bệnh không? Hay, liệu ngay lúc này đây mẹ có đang cần tôi giúp đỡ?...

Song nói gì thì nói, kinh khủng nhất vẫn là vào ban đêm. Cứ hễ tôi chui vào chăn và nhắm mắt là cái nắp cống trong đầu lại chuyển động, rồi cái hố đen ngòm bắt đầu cất tiếng: "Trong khi mi ngủ say sưa, những thứ quan trọng của mi sẽ thuộc về ta..."

Tôi luôn giả vờ ngủ và chờ mẹ nằm xuống. Cho đến khi nghe rõ tiếng mẹ thở khe khẽ, tôi mới dần thiếp đi. Vừa nhắm mắt vừa cầu mong sao mình đừng dậy muộn.

***

Điều lạ là tôi hoàn toàn không nhớ gì về lễ Bỉ ngạn(2)năm đó. Không thể có chuyện chúng tôi không làm gì trong tuần thu phân đầu tiên sau khi bố mất, liệu có phải tôi đã chìm đắm trong thế giới riêng đến độ rủ bỏ cả những điều như thế khỏi ký ức mình?

(2.) Bỉ ngạn (Higan) là lễ hội kéo dài bảy ngày vào khoảng các ngày xuân phân và thu phân. Vào dịp lễ này, tín đồ Phật giáo đến viếng mộ người thân ở trong phạn vi các nhà chùa.

Vào một sáng đầu tháng Mười, tôi bị sốt cao.

"Nếu đến chiều mà nhiệt độ vẫn không hạ thì con đi viện nhé"

"Thế việc của mẹ thì sao?"

"An tâm, chỉ nghỉ có một ngày thôi mà..."

Lâu rồi tôi mới thấy thoải mái như vậy. Nhờ cơn sốt, cảm giác có lỗi vì đã khiếm mẹ phải nghỉ làm cũng trở nên nhẹ nhàng hơn. Tôi thiêm thiếp ngủ, việc phải làm chỉ là kẹp cặp nhiệt độ dưới nách mỗi khi mẹ bảo và ăn táo thái nhỏ từ cái thìa lành lạnh mà mẹ bón cho tôi. Tôi mơ màng ngủ, rồi khi chập chờn mở mắt, tôi thấy mẹ vẫn ngồi đó, trước bàn, đọc tài liệu cần thiết cho công việc. Đó là một cuốn sách về các nghi thức cưới hỏi rườm rà của người Nhật. Thấy tôi mở mắt, mẹ liền thay khăn mặt đắp trên trán cho tôi. Rồi mẹ khoác lên vai tôi chiếc áo len không cổ khi tôi định đứng dậy đi vào nhà vệ sinh, và cho tới khi tôi trở ra, mẹ cứ nhìn mãi cánh cửa nhà vệ sinh mà đợi.

Tôi những muốn cảm ơn trời vì bị sốt. Thậm chí tôi còn nghĩ, nếu được yên lòng, thoải mái và ấm cúng thế này thì có ốm nữa cũng chẳng sao.

"Mẹ ơ!"

"Gì thế con?"

"Không ạ. Con chỉ gọi thôi."

Tôi nghĩ mình thiếp đi được một lúc. Thế rồi bất chợt, có tiếng gì đó lộn xộn chợt xen vào giấc ngủ yên lành ấy. Là tiếng một con vật nào đó rên rỉ chăng...
Tôi tỉnh dậy và nhận ra ngay, đó là tiếng máy giặt nhà tôi, kê ở phía Bắc lối đi, bên cạnh cửa ra vào sảnh trước.

Mẹ đang ngủ, trán áp lên quyển sách mở trên bàn. Mẹ bật máy giặt từ khi nào nhỉ, mình chẳng hay biết gì, vừa nghĩ tôi vừa ngồi dậy. Tôi nhìn đồng hồ, đã gần 12 giờ trưa. Nhờ có giấc ngủ ngon lành khi nãy mà giờ tôi đã thấy người nhẹ nhàng hơn. Để không làm mẹ thức giấc, tôi rón rén đứng lên là nhón chân bước về phía cửa.

Tôi mở cửa ra và bất thình lình, đứng trước cái máy giặt là một gã lạ hoắc, còn khá trẻ. Cũng như tôi, anh ta giật thót hốt hoảng, đoạn lao như bay xuống cầu thang. Tôi bước chân trần ra ngoài hành lang, tim đập thình thịch rồi hét lớn.

Mẹ từ trong nhà chạy bổ ra. Gần như cùng lúc, cách cửa phòng bên bật mở, bác Nishioka xuất hiện trong bộ quần áo thể thao. Mùi hơi thở khi ngủ và một giọng trầm trầm đang kể chuyện cười khe khẽ vẳng ra từ phòng bác.

Bác Nishioka vốn là người nhút nhát, chẳng thể nói lấy một câu bông đùa. Những hễ bác ở trong phòng, lúc nào tôi cũng nghe thấy từ bên kia tường vẳng sang giọng một người đàn ông lên bổng xuống trầm kể những câu chuyện hài, có lẽ là bác ấy bật băng cát-xét. Không chừng bác ấy để băng chạy suốt cả khi ngủ cũng nên.

Hôm đó, chắc bác Nishioka vừa chạy taxi ca đêm về, mắt nhắm mắt mở trông thật khiếp. Mí mắt bác sưng mọng, mái tóc bình thường vốn đã rối bù giờ y như cái tổ quạ, những sợi tóc lúc trước được vén sang một bên nay rũ xuống trông chẳng khác gì mớ tảo biển, để lộ cái trán hói to tướng. Người bác Nishioka vốn đã ốm o, bộ dạng lúc này lại hệt như một võ sĩ thất trận chạy thoát thân trong bộ quần áo thể thao, sợi vải thì xổ ra hết cả. Kinh ngạc trước bộ dạng ấy, tôi lại hét lên lần nữa.

"Chiaki, có chuyện gì vậy? Con không sao chứ?"

Mẹ lay người tôi, nhưng tôi chẳng làm được gì khác ngoài chỉ tay về phía cầu thang. Đúng lúc ấy, trên con đường dọc bờ sông tôi thấy một bóng người đang chạy, có lẽ là gã khi nãy. Dù không biết đầu đuôi cũng chẳng hiểu sự tình gì, bác Nishioka vẫn "Kìa!" lên một tiếng rồi lao xuống cầu thang.Tôi và mẹ sững người, nhìn chằm chằm một lúc vào chiếc quần lót nam và mấy thứ đồ lạ hoắc đang tiếp tục quay tròn trong máy giặt.

"Mẹ ơi!"

"Gì hả con?"

"Người đó, đang giặt đồ ạ?"

"Có lẽ thế."

"Chú ấy không có máy giặt ạ?"

"Chắc vậy."

"Mẹ con mình làm gì với đống đồ này hả mẹ?"

"Hừm..."

Máy giặt ngừng rồi mà mẹ vẫn chưa nghĩ xong. Tôi run run nhấn nút xả nước. Một tiếng động lớn vang lên, nước giặt màu tro đục ngầu chảy ra theo đường ống xả, mẹ mang từ trong bếp ra một túi ni lông to, vừa nhăn mặt vừa nhặt lấy mấy thứ đồ còn dính đầy xà phòng từ trong máy ra bỏ vào túi. Đúng lúc ấy, bác Nishioka hổn hển trở về.

"Cái thằng đúng là đồ mặt dày. Chẳng lẽ nó tiếc mấy xu cho máy giặt tự động à?"

Mắt vẫn dán chặt vào cái túi ni lông căng phồng, đôi lông mày bác vốn bình thường đã hay ngọ nguậy giờ nhướng lên giật giật.

"Thật đáng xấu hổ, thật đáng xấu hổ!" Bác Nishioka không ngừng càm ràm bằng cái giọng the thé chẳng đàn ông chút nào, mỗi lần kêu ca bác lại kèm theo một tiếng thở dài. Khi tôi nép nửa người sau lưng mẹ và nói "Chào bác!" thì bác khẽ cúi đầu như chào một người lớn ngang hàng. "Bác xin lỗi Chiaki nhé. Bác để gã kia chạy mất rồi..."

Rồi bác lấy tay vuốt mớ tóc, vén lên che vầng trán, như thể lúc đó mới nhận ra tóc mình đang rũ xuống mặt.

Mẹ bảo tôi vào trong phòng nằm nghỉ. Nhưng cửa vẫn mở nên tôi có thể nghe thấy tiếng mẹ và bác Nishioka trò chuyện.

"Có khi... có khi đây không phải là lần đầu nó làm thế đâu."

Nghe bác Nishioka nói vậy, tim tôi đập thình thịch.

"Việc đó..." mẹ lên tiếng vẻ lo lắng.

"Có thể lắm, vì tầng dưới chỉ có mình bà cụ, nhà trọ thì ban ngày chẳng có ai..."

"Tôi thường làm ca đêm nên ngày nào cũng ở nhà nhưng ngủ say như chết, hôm nay tình cờ đúng lúc tôi vừa tỉnh dậy đi vệ sinh..." Bác Nishioka phần trần, khi thì tuôn một mạch, lúc thì lắp bắp.

Hai người định sáng hôm sau sẽ vứt mấy thứ đồ giặt đựng trong túi ni lông ra bãi rác, cho tới khi đó mẹ vẫn để túi quần áo ở cổng ngoài. Vì mẹ bảo, có thể người kia sẽ quay lại lấy đồ, và mẹ không muốn bị anh ta thù ghét vô cớ.

Bác Nishioka và mẹ xách cái túi ni lông xuống cầu thang. Nằm trong chăn, khi nghe tiếng bước chân của hai người, tôi nghĩ đến những lý do rất trẻ con, rằng xảy ra việc thế này là do tôi không ngoan. Vì tôi nghỉ học khiến mẹ cũng phải nghỉ làm, đã thế tôi còn nghĩ là có ốm nữa thì càng hay, nên tôi phải bị trừng phạt. Nếu tôi đi học, mẹ cũng đi làm thì chắc chắn việc ai đó lén lút sử dụng máy giặt nhà tôi sẽ không bị phát giác. Nếu như chẳng phải mọi việc vẫn êm xuôi hay sao.

Tôi nhắm chặt mắt. Vừa lúc đó, cái nắp cống mở ra kéo theo một tiếng cạch, rồi một vọng âm khó chịu từ dưới sâu vẳng tới: "Sai một li, đi một dặm. Nhớ đấy, không được phép quên."

Đúng rồi, từ ngày mai, tuyệt đối, không được nghỉ học nữa. Không được mất cảnh giác với những lỗ đen ấy dù chỉ là một khắc. Tôi tự nhủ như vậy rồi nhắm chặt mắt lại một lần nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Đăng lúc 7-6-2016 17:30:52 | Xem tất
3.





Nhưng tôi càng cố gắng bao nhiêu, cơ thể tôi càng không nghe lời bấy nhiêu. Nhiệt độ chẳng cao hẳn, cứ lên lên xuống xuống, mẹ vì tôi mà phải nghỉ làm cả tuần liền. Trong khoảng thời gian ấy, tôi mơ thấy mình bị lỗ cống biết đi đuổi theo, cứ mỗi lần tỉnh giấc tôi lại chúi cái đầu ong ong nặng trịch cơn buồn ngủ vào tủ quần áo để thay đồ đến trường. Tôi thay đồ, bất kể lúc đó là nửa đêm. Cặp sách và túi sách tay vẫn như mọi khi, chắc chắn có tất cả sách giáo khoa và vở tập. Bút chì đã gọt. Tẩy, có. Quần áo thể thao, có. Túi đựng bữa trưa, có. Kèn harmonica, có. Bút chì màu, có...

Cuối cùng, bác sĩ đưa ra một thông báo đáng sợ: "Chị nên cho cháu nhập viện một thời gian." Nhập viện, vừa nghe hai tiếng ấy tôi đã lắc đầu nguầy nguậy. Hơn nữa, tôi chẳng thích bị đưa vào một nơi lạ hoắc chút nào.

"Chiaki, nhập viện rồi con sẽ khỏe lại và đi học được."

Mẹ thuyết phục tôi, vẻ mặt vô cùng khổ tâm.

"Mẹ nói dối."

"Mẹ không dối con đâu."

"Không cần nhập viện cũng được mà. Từ mai con sẽ đến trường."

Thà con đi học còn hơn nhập việc, tôi khăng khăng bướng bỉnh. Nếu không chịu đến bệnh viện thì ở nhà sẽ tốt hơn, nhưng nếu nghỉ thêm nữa mẹ sẽ mất công việc mà khó khăn lắm mới kiếm được. Đúng lúc ấy, bà cụ chủ nhà lên tiếng.

"Tôi là chủ nhà, sự thể ra nông nỗi này tôi cũng phải có trách nhiệm. Tôi sẽ để mắt tới Chiaki khi cô đi làm."

Bà cụ cho rằng tình trạng căng thẳng của tôi có liên quan đến vụ người lạ dùng lén máy giặt, bà cụ thấy mình phải chịu phần nào trách nhiệm. Cổng ngoài của trang viên Cây Dương lúc nào cũng mở, bà nói đáng ra không được để như vậy.

"Sáng nào mẹ đi vắng, Chiaki xuống chỗ bà nhé. Bà sẽ trải chăn sẵn cho Chiaki."

Tôi không khỏi bàng hoàng trước những lời mẹ nói. Mẹ bảo tôi sẽ ngủ trong căn phòng chỉ mở mỗi một cánh cửa chớp, toàn sách cũ và dán đầy những lá bùa bí ẩn ấy ư? Với lại lúc đầu bà cụ chẳng bảo "cấm trẻ con" đấy thôi, vậy có nghĩa bà cụ không thích bọn con nít. Vậy có khác nào tôi bị tống vào hang ổ của ma nữ độc ác?

"Bà không lên nhà mình được hả mẹ?"

"Dạo này đầu gối bà yếu rồi, lên xuống cầu thang khó lắm. Nếu có bà bên cạnh con mẹ cũng đỡ lo..."

Mẹ khẽ cười rồi chọc nhẹ ngón trỏ vào má tôi.

"Chỉ buổi trưa thôi."

"Con ở nhà một mình được mà mẹ..."

"Mẹ xong việc rồi ta cùng về nhà. Thôi nào, đừng cứng đầu thế."

Tôi buộc lòng phải nghe theo. Vả lại nếu không tới đó, thế nào bà cụ cũng tự ái cho mà xem...

Thế là từ hôm sau, tôi "đi làm" cùng mẹ.

Bà trải chăn cho tôi tại một phòng kiểu như phòng ở, thông theo hướng Bắc-Nam với phòng bếp bằng gỗ và nằm ở góc trong cùng từ sảnh vào. "Kiểu như phòng ở", gọi như vậy nghe cũng hơi lạ. Nhưng, trong căn phòng đó, bà cụ thường xem tivi, uống trà, đọc báo hay ngồi bên bàn sưởi, thành ra nó cũng chẳng khác gì phòng ở cả. Song, như những gì tôi nhìn thấy khi lần đầu ngó vào từ ngoài hành lang thông với sảnh ngoài: nào là giá sách cố định trên tường chặt cứng sách cũ cao ngất đến trần nhà, rồi con rồng trang trí làm từ đá màu lục, cả những bức phướn với các con chữ hình thù kỳ dị trông như mớ tóc rụng của những linh hồn... thì căn phòng này quá bất thường để có thể gọi là phòng ở. Ngay cạnh cửa quét rác(3) là một cái tủ đen thui với các tay cầm màu vàng kim, chăn nệm được trải khít ngay cạnh cái tủ nặng nề ấy. Khi nằm xuống nệm và quay về phía đối diện cái tủ, tôi nhìn thấy ảnh một ông cụ đặt trên bàn thờ, bức ảnh cũ kỹ đã bị thời gian làm hư hại nhiều. Với chòm râu bạc phơ mọc dài che kín tới tận ngực và trên đầu không một cọng tóc, khuôn mặt ông hơi có vẻ nhút nhát nhưng điều đó không khiến ông trở nên bớt đáng sợ đối với tôi. Thật may là bà cụ đã mở hết các cánh cửa chớp ra, không biết là vì tôi hay chỉ đơn giản là do tiết trời thay đổi.

(3.) Một loại cửa kéo nhỏ thường thấy trong căn phòng kiểu truyền thống của Nhật, được làm chạm sàn để có thể quét rác từ trong phòng ra ngoài.

Mỗi sáng tôi dùng lược chải mái tóc hỉ nhi và mặc bộ đồ ngủ có họa tiết dâu tây đẹp mắt, bên ngoài choàng một áo khoác không cổ đan bằng len xanh sợi to rồi tới chỗ bà cụ. "Cháu chào bà," nói rồi tôi chui vào tấm chăn bông nặng trịch mà bà cụ đã trải cho từ trước. Hai, ba hôm đầu tôi ngủ không yên. Còn bà cụ, chẳng biết vì nghĩ tôi đang ngủ hay vì không quan tâm mà ngoài những câu như "Đến giờ uống thuốc rồi," hay "Cặp nhiệt độ đi!" thì không nói gì với tôi nữa. Thế nên tôi chỉ nằm chong mắt lắng nghe tiếng tích tắc tích tắc phát ra từ chiếc đồng hồ treo tường.
Nhưng ngủ mãi cũng không được.

Buổi trưa, tôi ăn hai nắm cơm mẹ làm cho. Còn thực đơn của bà cụ bao giờ cũng vậy: ruốc tảo ăn với cơm nguội, kèm theo đó là món tủ - canh tương nấu củ cải. Bà cụ nấu cả phần tôi, nhưng vì ở nhà mẹ chưa nấu canh tương củ cải bao giờ, hơn nữa củ cải ninh đến nát bét cộng thêm nước canh mặn đắng làm tôi quả thật khó nuốn. Tôi nghĩ thầm, chỉ có bà cụ mới nấu được món như thế này.

Không chừa lại một giọt nước, bà cụ lúc nào cũng húp sạch canh tương, không hề để ý là tôi đang ngắc ngứ. Rồi bà cần thận dùng đũa gắp những lá cải còn sót lại trong bát canh đã uống và đưa lên miệng. Với cái miệng chỉ còn mỗi ba chiếc răng hàm dưới, bà cụ chén đủ mọi thứ, từ dưa muối cho đến bánh khô souka. Chẳng hiểu thế nào mà tôi lại cứ muốn nhìn bà cụ ăn, tới khi gần như bị hớp hồn bởi cái miệng bà cụ đang há to hết như cái hang, bà cụ sẽ trừng mắt lên nhìn tôi và nói:

"Này, cháu không ăn đi à?"

Tôi bèn vội vàng và lấy và để những gì còn trong bát. Nếu bà cụ nói với mẹ là tôi lười ăn thì còn lâu tôi mới thoát khỏi cảnh khổ này.

Kinh khủng hơn, bà cụ còn bắt tôi uống thuốc sắc. Đó là thứ thuốc mà bà cụ uống mỗi ngày nhằm giúp lưu thông khí huyết, vị thuốc rất kỳ dị, chẳng biết là ngọt, đắng hay chua nữa. Lần đầu uống thứ thuốc ấy, tôi hiểu ra ngay mùi kỳ lạ trong nhà bà là từ đâu mà có.

"Nếu cháu muốn khỏe mạnh thì phải chịu khó uống đi. Dần dần rồi sẽ quen."

Mắt ngân ngấn nước, tôi cố kìm không khóc, mắt chăm chăm nhìn vào họa tiết hoa mơ vẽ trên chén trà đựng thuốc và nuốt từng ngụm. Lúc ấy tôi tự hỏi, không biết liệu khi về già như bà cụ, mình có quen được với cái vị kinh khủng này không?

Theo đúng nghĩa đen, tôi lặng lẽ tiêu hóa nhiều ngày thuốc sắc, canh tương củ cải và cả cái chăn bông nặng trịch. Tôi không biết nên nói gì, và lại nếu nói mà chẳng ra đâu vào đâu thì thà im lặng còn hơn, tôi đã nghĩ theo hướng tiêu cực như thế. Còn bà thì thế nào nhỉ? Chắc hẳn bà cụ nghĩ, bọn trẻ con đúng là vô tích sự.

Tôi vẫn nhớ như in cái ngày đầu tiên tôi và bà cụ thực sự trò chuyện với nhau.

"Bà tới bác sĩ khám mắt nhé. Sẽ về ngay thôi."

Đó là lần đầu tiên bà cụ đi vắng kể từ khi tôi đều đặn xuống tầng một. Mặc dù những lúc chỉ có hai bà cháu tôi chẳng thấy thoải mái chút nào, nhưng nghĩ đến việc sẽ bị bỏ lại một mình, trong một khắc tôi bỗng muốn nói: "Bà như thế là không giữ lời hứa!" Song cái cách bà cụ điềm nhiên thông báo về việc đến bác sĩ khiến tôi chẳng thể làm gì khác hơn là im lặng gật đầu. Thế đấy, đến bà cụ cũng có việc để làm, có lẽ cả quả đất này chỉ mình tôi hết ngủ rồi lại dậy, cùng lắm là đọc sách cho qua ngày... Thấy buồn buồn trong lòng, tôi lặng lẽ nghe tiếng bà cụ đi về phòng, thay đồ và kiểm tra lại van đường ống gas.

Bà cụ đi vào trong cơn mưa phùn. Một lát sau, mưa đổ sầm sập và xung quanh dần trở nên tối sầm. Bà cụ bảo sẽ về ngay, nhưng "ngay" là bao giờ? Càng để ý thời gian, trong đầu tôi bắt đầu lởn vởn toàn tiếng tích tắc của đồng hồ treo tường. Khi mắt chòng chọc liếc sang cái đồng hồ, thì từ chỗ cái máng vỡ, tiếng nước mưa chảy tong tỏng xuống nền đất cứ đập vào tai khiến tôi thấy khó chịu vô cùng. Thấy như người nóng dần lên, tôi trở mình nhiều bận. Vừa trở mình tôi vừa lim dim phân vân, không biết nên nhắm chặt mắt lại để khỏi thấy những gáy sách ngả vàng vì nắng, tấm ảnh ông cụ trên bàn thờ, những bức phướn vàng vọt và cái nanh nhe ra của con rồng trang trí... hay nên căng mắt cẩn trọng dõi theo chúng.

Thế rồi, có lẽ tôi đã ngủ thiếp đi. Đến khi mở mắt ra, trong thoáng chốc, tôi choáng ngợp bởi ánh sáng, sáng đến mức tôi ngỡ như khắp nơi đang tỏa ra sách vàng. Đồng hồ đã chỉ quá trưa. Vậy là bà cụ đi vắng được chừng hai tiếng rồi. Thế mà bà cụ bảo sẽ về ngay cơ đấy. Mà mình đâu có đợi bà về, tôi nghĩ.

Thời tiết thay đổi đến bất ngờ, không thể tin nổi chỉ vừa mới đây thôi trời hãy còn sầm sì. Tôi chui ra khỏi đống chăn đệm, mở cửa kéo trông ra vườn.

Đó là lần đầu tiên trong đời tôi hiểu thế nào là tươi mới. Tôi hít căng lồng ngực làn khí thu se lạnh sau cơn mưa. Rồi tôi phát hiện ra nguyên do vì sao khắp xung quanh như thể sáng bừng và rực rỡ ánh kim, chính là vì cây dương giữa vườn.

Trong thoáng chốc, tôi quên cả lạnh, mắt dán vào cây dương to lớn đang vươn mình giữa bầu trời quang đãng. Cây dương khoác áo vàng, đón ánh sáng trong suốt từ trên cao đổ xuống. Chẳng biết cây thay màu lá như vậy từ bao giờ. Ngày nào trong hè tôi cũng say sưa nhìn ngắm cái cây, vậy mà... Rốt cuộc tôi đã làm gì vậy...

Đúng lúc ấy, từ ngôi nhà ở góc đường, ngôi nhà thứ ba tính từ trang viên Cây Dương, có tiếng chó sủa inh ỏi. Đó là một con chó lai chuyên sủa hóng, tôi đoán chắc phải có ai đó đi ngang qua. Quả nhiên, nhìn về phía hàng rào tôi thấy một chiếc ô màu xanh lá từ từ tiến lại. Ai đó đang gương ô và thong thả bước đi dù trời đã tạnh mưa. Đó là bà cụ chủ nhà.

Có lẽ là bởi cái lưng còng mà cả người bà cụ hết lắc sang trái rồi lại sang phải sau mỗi bước đi. Chiếc túi vải nhỏ bà cụ đeo vào tay cầm ô cũng đu đưa như quả lắc, thấp thoáng hiện ra phía bên kia hàng rào.

Chợt có tiếng kêu lảnh lót vang lên từ tán cây dương, rồi một chú chim nhỏ hơn bồ câu chút xíu vội vàng cất cánh, bà cụ liền đứng lại. Gác cán ô lên tấm lưng còng và khẽ thò cái cổ ra như một con rùa, bà cụ ngước mắt nhìn lên.

"Rõ là giống thủy thủ Popeye mà!" tôi nghĩ.

Nhưng không như mọi khi, vẻ mặt bà cụ khi ấy chẳng giống người xấu chút nào.

Thấy tôi đang đứng ngoài hiên, bà cụ tỏ ra hơi bất ngờ. Không khí bên ngoài giúp tôi thấy thoải mái, cộng thêm việc có thể khiến bà - một người luôn lầm lì và chẳng nói được lời nào ngọt ngào với trẻ con - phải bất ngờ, tôi cảm thấy thực sự dễ chịu.

"Bà ơi, tạnh mưa rồi đấy."

Tôi cố nói thật to dù đang bị khản tiếng. Bà cụ chỉ cười nhe hàm răng móm. Mỗi khi cười kiểu đó, miệng bà cụ biến thành một nếp nhăn lớn chôn sâu dưới mũi. Nhưng bà cụ vẫn không cụp ô lại. Tôi xỏ chân vào đôi guốc còn ẩm nước mưa của bà cụ rồi đi qua vườn, hướng về phía cổng. Từ sau vụ máy giặt, cánh cổng luôn kêu cọt kẹt mỗi khi đóng mở lúc nào cũng được đóng kín. Tôi mở cổng cho bà cụ rồi nói thêm lần nữa:

"Bà ơi, tạnh mưa rồi đấy."

"Tạnh rồi."

Tôi còn đang chưa biết nói gì, bỗng bà cụ nhìn thẳng vào mắt tôi và nói:

"Bà đang hong khô cái ô."

"Dạ?"

"Ô đi mưa về phải hong khô chứ. Cháu không biết à?"

"Cháu biết," tôi chẳng biết nói gì trước thái độ của bà cụ, dường như với bà, việc vừa đi đường vừa hong ô cho khô chẳng có gì lạ lùng.

"Vào nhà nhanh lên. Người ngợm thế này..."

Vừa nói, bà cụ vừa đi về phía mái hiên. Bà đặt cái ô vẫn còn hơi ướt lên chỗ hòn đá kê chân, "hây a" một tiếng rồi bước vào nhà qua cửa kéo. Bà cụ không quên cầm theo đôi guốc vừa đi và đem ra đặt ở cửa trước. Bị bỏ lại đằng sau, tôi hắt hơi một cái.

Đó là tất cả những gì tôi nhớ về lần trò chuyện thực sự đầu tiên giữa tôi với bà cụ. Ít lâu sau, có lần trời nắng tôi cũng thấy bà giương ô. Tôi bảo: "Cái ô vẫn khô mà bà." Lần này, nghe xong bà thủng thẳng nói: "Thì dùng để che nắng."

***

"Bà ơi, bà thích canh củ cải nấu tương ạ?"

"Ồ, thích chứ."

"Tại sao ạ?"

"Đừng bao giờ thắc mắc tại sao thích, tại sao ghét."

Lúc nào cũng thế, bà hiếm khi bắt chuyện trước, chỉ khi tôi hỏi bà mới trả lời. Và bà trả lời theo kiểu khá cụt lủn.

"Bà bao nhiêu tuổi rồi ạ?"

"Ừm."

Bà cụ tỏ thái độ như muốn lảng sang chuyện khác.

Nhưng cũng có đôi lần bà cụ nói nhiều hơn. Như hôm tôi nhìn thấy chỗ hói sau đầu bà. Da mặt bà cụ hơi sạm, các nếp nhăn hằn sâu, mái tóc thì bạc trắng như cước và xù bông lên, tóc bà cắt ngắn tầm ngang với tóc tôi và được chải ra phía sau gọn ghẽ. Những khi suy nghĩ, bà cụ thường đặt lòng bàn tay lên gần đỉnh đầu. Đám tóc bạc nơi bà hay đặt tay hơi tẽ ra và tôi thấy thấp thoáng một mảng da bóng láng, bóng tới mức không thể hình dung nổi đó lại là phần tiếp nối với khuôn mặt nhăn nheo của bà.

"Bà ơi, phụ nữ cũng có người bị hói ạ?"

Tốt nhất là nên hỏi bóng gió thôi, tôi nghĩ. Làm vậy có lẽ bà sẽ không nhận ra tôi đang nói về bà, song bà hiểu ra ngay: "À, cái này," rồi bà đưa tay lên tóc. Tôi tưởng như cả người mình co rúm lại. Nhưng trông bà cụ không có vẻ khó chịu.

"Hồi trẻ, bà khắt khe lắm, bất kể việc gì, nếu chưa thật đâu vào đó thì bà còn thấy bứt rứt khó chịu. Như khi búi tóc ấy, bà thít tóc chặt quá đến căng da dầu. Nên bây giờ mới bị thế này."

"Búi tóc là gì hả bà?"

"Búi tóc là búi tóc thôi. Một kiểu đầu của người ngày xưa."

"Trông nó có giống kiểu tóc của samurai trên tivi không bà?"

"Kiểu đó hơi cổ một chút nhưng cũng từa tựa vậy đấy."

"Bà từng mặc kimono rồi chứ ạ?"

"Đương nhiên. Ngày xưa ai chả mặc."

"...nếu buộc tóc chặt quá thì sẽ bị hói ạ?"

"Ừ. Cháu cũng cẩn thận đấy."

"Vâng. Cháu sẽ cẩn thận."

Khi ta mở lòng chuyện trò cùng thế giới bên ngoài, hẳn sẽ có biết bao điều từ thế giới ấy chảy vào ta, tôi nghĩ.

Tôi say sưa ngắm cây dương trút lá mỗi ngày. Lần nọ trông thấy một quả đỏ hiện ra giữa tàng cây mỏng, tôi hào hứng vô cùng.

"Đó là mướp qua lâu," bà cụ bảo. "Dây mướp vươn ra quấn quanh thân cây rồi đấy. Chẳng bao lâu nữa chim sẽ bay đến mổ."

Cũng vào khoảng thời gian này, mấy con mèo hoang thường lui tới khu vườn của bà cụ. Khi thì chúng chui vào những bụi cây thấp như rêu đại kích, cây đuôi diều... lúc lại trèo lên thành của cái lò than màu xanh đang nằm chỏng chơ trên nền đất, chắc hẳn chúng thấy khu vườn này là một nơi cư trú tuyệt vời. Sáng sáng, tôi cầm hai nắm cơm trưa mẹ làm cùng chút sữa đựng trong cốc rồi xuống chỗ bà. Nào là: chúng nó ỉa, bẩn lắm; nào là: cứ thế này lũ chim không dám tới mất; dù càu nhàu như vậy nhưng bà cụ vẫn đưa cho tôi một cái đĩa mẻ. Tôi đổ sữa vào đĩa rồi đặt ra chỗ phơi đồ cạnh mái hiên.

Một hôm, tôi lại sốt, lại được bà cụ trải chăn đệm cho. Đang ngủ, chợt tôi nghe tiếng bà từ bên ngoài vọng vào.

"Không được. Không được."

Tôi đứng dậy, mở cửa kéo ra. Trời sáng trong, nắng rải khắp nơi nhưng không khí thì lạnh buốt. Chắc đã sang tháng Mười một rồi.

Bà cụ đứng trong khu vườn đã bắt đầu ngập lá rụng, nheo mắt nhìn lên. Quanh bà là bốn, năm con mèo. Chúng nằm bẹp dí sát đất, mặt cúi gằm, miệng ngoác ra kêu liên hồi như phản đối. Bà cụ lại ngước nhìn lên và cố nói lớn, nhưng người già yếu sức, giọng nói vừa the thé thốt lên đã lại hụt hơi.

"Không được đâu cô Sasaki. Tôi đã nói với cô mãi rồi, cô cho lũ mèo ăn gì cũng được. Nhưng làm ơn thôi cái kiểu quẳng đồ ăn từ trên xuống như thế đi. Sao cô không xuống tận nơi và cho chúng ăn tại một nơi cố định hẳn hoi."

Ở hàng hiên, tôi ngả người nhìn lên. Từ cửa sổ căn phòng phía Tây thò ra khuôn mặt trắng bệch còn ngái ngủ của cô Sasaki.

Cô Sasaki làm việc ở một công ty chuyên may trang phục cho nhà hát và các buổi trình diễn tại những tụ điểm vui chơi giải trí. Cô luôn mặc quần bò ống côn, còn vừa đi vừa hút thuốc. Tôi chưa thấy cô trang điểm bao giờ. Cô Sasaki chắc cũng ngang tầm tuổi mẹ nhưng chẳng hiểu sao tôi có cảm giác cô chẳng khác gì sinh viên.

Tôi đang cho lũ mèo uống sữa thì cô Sasaki bắt chuyện.

"Cháu là Hoshino à?"

Tôi im lặng gật đầu.

"Cháu mấy tuổi?"

Tôi bèn giơ sáu ngón tay lên. Liệu mình có bị mắng vì thái độ trẻ con thế này không nhỉ, tôi băn khoăn. Nhưng hình như cô Sasaki chẳng mấy bận tâm, cô ngồi xổm xuống trước mặt tôi rồi bất ngờ hỏi.

"Cô hỏi nhỏ cháu cái này nhé. Tóc cháu, có phải là bắt chước cô không đấy?"

Cô Sasaki cũng để kiểu tóc giống như tôi. Trong đầu tôi chắc mẩm rằng cô ấy rất khó chịu khi thấy một đứa trẻ có kiểu tóc giống mình, người tôi cứng đờ lại như tảng đá, đến mức lắc đầu cũng không nổi.

"Cháu sao thế, cô chỉ muốn nói là hai ta có kiểu đầu giống nhau thôi mà. Cháu đúng là không biết đùa."

Cô Sasaki nói, đoạn nhả khói thuốc, đứng dậy rồi thoăn thoắt leo lên cầu thang.

Bà cụ vẫn nhìn lên, bèn lớn tiếng quát. Chắc bà bực lắm.

"Cô Sasaki, được chứ, cô hiểu chưa? Khi cho mèo ăn, hãy nghiêm chỉnh..."

"Cháu xin lỗi."

Cô Sasaki rụt đầu vào rồi nhẹ nhàng đóng cửa.

Từ chỗ mái hiên, nếu chú ý sẽ để ý thấy những mẩu thịt cá rải rác trên nền đất. Con mèo to nhất có bộ lông vằn như hổ rón rén lại gần và chén sạch. Những con còn lại ngước lên nhìn thèm thuồng, như thể chúng đang chờ đợi bữa tiệc khác từ trên trời rơi xuống.

"Ôi trời ơi, khỉ thật. Trông có thảm hại không."

Bà cụ vừa tháo guốc vừa gầm lên.

"Trở lại chăn ngay! Lại sốt rồi đấy!"

Thấy bà có vẻ bực bội, tôi vội vàng chui vào trong chăn ngay lập tức. Ở trong chăn ấm sực, tự nhiên tôi rùng mình.

"Cái cô Sasaki đó, cứ thấy chán đời là lại bày trò dở hơi."

Bà cụ lẩm bẩm một mình khi đã yên vị trước bàn sưởi.

"Tức là khi nào thấy chán thì cô ấy lại ném thức ăn xuống cho lũ mèo?"

Tôi thò mỗi mắt ra khỏi chăn và hỏi.

"Chịu."

"Thì bà vừa nói thế còn gì."

"Ừ, có lẽ."

Suy nghĩ một lát, tôi bèn nói, "Không đúng."

Bà cụ nhìn tôi, "Không đúng thế nào?"

"Cháu nghĩ cô ấy làm thế vì thấy vui thôi."

"Người lớn đàng hoàng có ai làm thế không? Chẳng ra thể thống gì cả."

Cách bà cụ nói "chẳng ra thể thống gì cả" nghe thật ngộ làm tôi bật cười khúc khích. Bà cụ bèn lườm tôi, mắt sáng quắc.
"Cháu mà định bắt chước thì liệu hồn!"

Hiển nhiên là cô Sasaki vẫn tiếp tục trò ném thức ăn cho lũ mèo, mỗi lần như vậy mặt bà cụ lại trở nên càu cạu. Có thể với bà, cô Sasaki khi đó thật kỳ cục, nhưng tôi lại thấy như vậy rất thú vị.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Đăng lúc 7-6-2016 21:35:34 | Xem tất
4.



Vốn là người thích ăn ngọt, trên đường từ chỗ bác sĩ về, bà cụ thường mua đồ cho bữa ăn vặt buổi chiều. Luôn luôn là bốn cái bánh nếp đậu xanh Đại Phúc mua ở cửa hàng Nishigawa.

Bà cụ lấy ra hai trong số bốn cái bánh Đại Phúc đó rồi đặt vào mỗi đĩa một cái, một đĩa cho tôi, đĩa còn lại bà mang tới đặt trên bàn thờ. Đoạn bà đánh chiêng kêu "cheng" một tiếng, chắp tay làm lễ, sau đó hạ ngay cái đĩa vừa cúng xuống và bắt đầu ăn.

"Vẫn còn phần để cúng cơ mà bà..." Một hôm, tôi liếc mắt nhìn sang hai cái bánh Đại Phúc còn đựng trong hộp nhựa và nói.

"Vì thầy của bà không thích đồ ngọt nên cho thầy nhìn thôi là được rồi."

Nói xong, bà cụ lại trệu trạo nhai. Bà gọi ông cụ râu dài bạc trắng trong bức ảnh trên bàn thờ là "thầy của bà".

Nhưng khi đó, tôi đã gần như khoẻ lại và cũng quan sát được khá nhiều về bà nên tôi biết, nói "không thích đồ ngọt" như thế thực ra chỉ là nói dôí. Chẳng qua bà cụ thích sạch sẽ mà thôi. Bà cụ chán ngấy việc giặt giũ, dẫu là chạy máy giặt hay phơi đồ bà đều coi là phiền toái, bà còn ghét cả nấu nướng nữa, thế nên mỗi khi đứng bếp, cái lưng của bà vốn đã còng lại càng co rúm lại đến cả trăm lần vì khó chịu. Duy chỉ có dọn dẹp là bà làm luôn tay. Dù biết rằng năm phút sau có thể sẽ cần tới nhưng bà cụ vẫn không ngừng dọn dẹp: dẫu có là con dao, cái bấm móng tay, con dấu hay đồ vừa phơi khô. Những lúc không dọn dẹp, trong ánh mắt bà có gì đó cứ bồn chồn, day dứt không yên.

Vì thế mà tôi biết, đối với bà cụ, việc để mặc cho bánh nếp trên bàn thờ khô dần và bám bụi là điều không thể chấp nhận được. Đến cả cơm cúng hàng sáng bà cũng đổ lại nồi cơm điện ngay sau khi đánh một tiếng chiêng.

Trên căn hộ của mẹ con tôi cũng có một cái bàn thờ gia đình mới toanh. Nhưng chẳng hiểu sao tôi cứ thấy lạ lẫm, từ chính cái bàn thờ cho đến bức ảnh của bố đặt trên đó. Mẹ cũng giống tôi. Thi thoảng cũng có khi mẹ ngồi lơ đãng trước bàn thờ, nhưng dường như mẹ chỉ để thân xác mình nơi đó mà thôi. Hoa quả dùng để cúng lễ mãi một thời gian dài mới bị bỏ đi.

"Bà ơi, tại sao lại phải cúng hả bà?"

Bà cụ nhón tay lấy từ trong hộp ra cái bánh Đại Phúc thứ hai đưa cho tôi.

"Cháu cũng ăn thêm một cái đi."

"Cháu không ăn nữa," tôi lắc đầu. "Bà, tại sao ạ?"

"À thì..."

"Đằng nào hoa quả cũng hỏng cơ mà. Có cúng đi nữa cũng vậy."

Bà cụ khẽ cúi đầu.

"Mẹ cháu chẳng bao giờ nhắc đến bố cả. Nhưng mẹ vẫn đặt đồ cúng lên bàn thờ."

Tôi dùng vốn từ ngữ ít ỏi, cố diễn đạt với bà về những điều mình đang suy nghĩ. Rằng, quả chuối nằm lăn lóc trên bàn và quả chuối được cúng trên bàn thờ, cả hai rồi cũng sẽ thâm sì như nhau, điều đó chỉ cả chứng tỏ là hai mẹ con tôi đã xa cách bố vĩnh viễn rồi. Nếu thực sự bố đang theo dõi tôi, đúng như những người lớn tới dự lễ tang đã nói, thì tại sao bố lại làm ngơ trước đồ cúng của chúng tôi?

"Chẳng có điều kỳ diệu nào xảy ra cả bà ạ. Kiểu như hoa quả đột nhiên biến mất chẳng hạn, hoặc chẳng bao giờ bị thối..."

Bỗng nhiên, thấy như mình vừa chợt ngộ ra được điều gì đó, tôi liền im lặng. Thì ra kể từ ngày đó, từ cái ngày bố tôi mất đi, cả mẹ, cả tôi đều bị bỏ rơi, chẳng hề được đoái hoài gì đến, giống như đống hoa quả thối dần thối mòn trong tuyệt vọng...

"Bố cháu luôn dõi theo cháu đấy."

Nghe bà cụ nói vậy, tôi bướng bỉnh đáp lại.

"Bà nói dối. Bà có biết gì về bố cháu đâu."

"Bà không biết, nhưng bà hiểu."

"Cho dù là bà chưa từng chết ư?"

"Dù là bà chưa từng chết, nhưng bà gần đất xa trời hơn cháu nhiều đấy."

"Thế sao... mãi mà bà chưa chết?"

Lời nói đó quả thực nặng nề nhưng bà vẫn tỏ ra thản nhiên.

"Tất cả đều là số mệnh rồi cháu ạ."

"Bà không phải là siêu nhân, một lúc nào đó bà cũng sẽ chết."

"Lúc nào là lúc nào?"

"Đấy, vấn đề nằm ở đó."

Bà cụ chỉnh tư thế trên ghế tựa rồi nở nụ cười "nhăn răng" như thường lệ.

"Bà không sợ một ngày nào đó mình sẽ chết. Có điều, bà còn có nhiệm vụ phải làm."

"Nhiệm vụ ạ?"

"Đúng vậy."

Đột nhiên, cơn bức bối khi nãy của tôi liền tan biến.

"Nhiệm vụ gì thế ạ?"

"Cháu giữ được bí mật chứ?"

"Được ạ."

"Vậy nói cho cháu nghe cũng được, nhưng..."

Bà cụ nhấm nhấm đầu ngón tay, ra là bà đang nhặt những vụn bánh Đại Phúc rơi trên váy.

"... phải rút quần áo và trước đã, muộn rồi."

Bà nhấp ngụm uống trà, cái cổ gân guốc phát ra tiếng xẵng giọng.

***

"Nhiệm vụ của bà là đưa thư." Nghe bà cụ nói vậy, trong đầu tôi chợt lóe lên hình ảnh bà cụ ngồi trên chiếc xe máy màu đỏ mà người đưa thư chuyên dùng.
"Bà làm nghề đưa thư ạ?"

Bà cụ sụm lưng cười, phù phù phù.

"Ở thế giới bên kia cơ."

"Dạ?"

"Bà nhận đưa thư sang thế giới bên kia. Khi nào sang đó, bà sẽ đem theo thư từ của thế giới này."

"Dạo này trời chẳng mưa gì cả..." vừa nói bà vừa hỉ mũi vào tờ giấy thấm. Tôi kéo cái giỏ đựng giấy vụn lại để gần tay bà. Tôi ghét bị sai đi vứt những mẩu giấy thấm dính nước mũi đã khô óng lên.

"Khi cháu nghĩ rằng, mình còn có thể liên lạ với ai đó ở thế giới bên kia, mọi chuyện sẽ khác đi nhiều lắm. Chỉ cần những lá thư của cháu được chuyển đến đúng nơi."

"Sẽ khác ạ?"

"Bởi vì những lá thư ấy thực sự sẽ tới nơi."

Tôi vẫn chưa hiểu rõ những điều bà cụ nói. Trong đầu tôi lúc này hiện lên hình ảnh bà cụ với cái trán dô buộc mảnh vải trắng hình tam giác dành cho người chết, vừa há cái miệng móm mém ra cười ha hả vừa lái chiếc xe máy màu đỏ chạy lòng vòng.

"Khi bà của bà mất..."

Bà cụ vo tròn tờ giấy thấm, thả vào giỏ đựng giấy vụn rồi bắt đầu kể chuyện.

"... bà đã nhờ bà của bà đang nằm trong quan tài một việc. Bà nói: 'Bà mang thư này đến cho anh họ Kousuke giúp cháu nhé!'"

"Bà để thư vào trong quan tài ạ?"

"Đúng vậy."

"Bà của bà hẳn phải già lắm nhỉ?"

"Ôi, già chứ. Nhưng có lẽ là trẻ hơn bà bây giờ."

"Hồi ấy bà là trẻ con ạ?"

"Trẻ con. Hồi ấy bà chín tuổi."

Tôi cố gắng tưởng tượng ra hình ảnh bà đeo cặp sách đi học trên vai nhưng đầu óc lúc đó cứ ong ong.

"Kousuke hơn bà khá nhiều tuổi nhưng vẫn hay chơi cùng bà, anh ấy hiền lắm."

"Người đó chết rồi ạ? Bị bệnh hả bà?"

Bà gật đầu.

"Năm đó là cái năm tang tóc. Đầu tiên là bác của bà ngã xuống sông, sau đó anh Kousuke cảm nặng rồi qua đời, cuối cùng tới lượt bà của bà..."

"Bà đã viết gì trong bức thư đó?"

"Bà viết: hãy về gặp em một lần."

Tôi thấy khó thở. Tôi nhớ tới cuốn truyện tranh đáng sợ đã đọc ở phòng chờ của nha sĩ. Đó là cuốn truyện tranh dành cho thiếu nhi được chuyển thể từ một câu chuyện nổi tiếng. Câu chuyện kể về hai vợ chồng nhà nọ mất con trai trong chiến tranh bỗng nhận được một bàn tay khỉ có thể biến ba điều ước trở thành hiện thực. Một đêm mưa bão, đứa con trai đã chết đội mồ đứng dậy tiến về phía nhà cha mẹ mình. Hai mắt anh ta lúc này chỉ là hai cái lỗ trống hoác, còn ẩn hiện sau lớp quần áo rách bươm là da thịt đang thối rữa...

"Thế anh họ của bà có đội mồ sống lại không?"

Tôi hỏi, giọng hơi lạc đi.

"Đừng có cầm đèn chạy trước ô tô như thế," bà nói, mắt chăm chăm nhìn vào cái bánh Đại Phúc còn lại.

"Thật là cháu không ăn nữa chứ?"

"Bà ăn đi ạ."

"Thế cháu rót cho bà một cốc trà nhé?"

Bà cụ uống cốc trà do tôi lóng ngóng rót và ăn hết veo cái bánh Đại Phúc thứ ba. Thế rồi bà ho một tiếng thật lớn, ho xong, bà hỉ mũi, đưa tay vuốt lại tóc rồi nói: "Rót cho bà thêm cốc trà nữa." Tôi bắt đầu thấy hơi bực mình, như thể bà cố tình nấn ná một lúc rồi mới chịu qua trở lại câu chuyện: "Giờ mới đến đoạn gay cấn này."

"Từ sau khi anh họ Kousuke mất, bà sinh ra thói quen đi lại vật vờ trong đêm khi đang ngủ."

"Vừa đi vừa ngủ ấy ạ?"

"Ừ."

"Bà nói dối."

"Bà nói dối cháu làm gì. Khi trời sáng, cả chân bà lẫn chăn đệm đều lấm lem bùn đất. Chẳng hiểu sao lại thành ra như thế. Mẹ bà dùng dây lưng buộc chân của bà và chân của mẹ lại với nhau, nhưng vì thương bà nên mẹ bà không nỡ thít chặt quá, thế nên bà tháo ra được dễ dàng rồi lại đi vật vờ khắp nơi. Lạ một điều là dù vừa đi vừa ngủ như thế nhưng chưa lần nào bà bị ngã từ trên cao xuống hay kẹt dưới hố phân."

Bà tự gật gù với chính mình. "Đó là chứng mộng du. Hồi đó nó còn chưa có cái tên mỹ miều ấy."

"Thế là bà bị bệnh à?"

"Đúng thế." Trong câu trả lời ấy, có gì đó như là tự hào.

"Anh họ bà chết, bà đau lòng quá nên bị bệnh ạ?"

"Đau lòng chứ. Mà thực ra, buồn thì buồn thật đấy nhưng bà thấy hơi sợ. Là bởi người lúc nào cũng chơi đùa, ăn cơm cùng mình giờ đột nhiên không còn nữa."

Bà nhắm mắt lại. Tôi bất giác gật đầu trước những lời bà vừa nói, như thể nhìn thấy điều đó, bà hỏi:

"Cháu hiểu chứ?"

"Vâng."

Nhưng ngay sau đó, bà chìm vào một thế giới hoàn toàn khác với tôi.

"Đó là mối tình đầu của bà đấy."

Mắt bà hấp háy như mèo gặp nắng, từ lỗ mũi, những tiếng "phừ, phừ, phừ, phừ..." phát ra liên hồi, nghe chẳng rõ là bà đang khịt mũi hay cười không ra tiếng. Tôi không mấy quan tâm đến chuyện mối tình đầu của bà nên hỏi sang chuyện khác:

"Làm thế nào mà bà khỏi bệnh được ạ?"

Bà sực tỉnh, vỗ vỗ vào đầu gối: "Chuyện đó à? Là sau khi bà của bà mang lá thư của bà sang thế giới bên kia, căn bệnh đó tự nhiên hết hẳn."

"Gì cơ ạ?"

"Chắc chắn anh Kousuke đọc thư xong bèn giúp bà khỏi bệnh. Vì trong thư bà có viết về căn bệnh đó mà."

"Có đúng thế không?"

"Đúng thế mà. Hơn nữa, không chỉ vậy, bà còn được gặp anh ấy hẳn hoi."

Nghe đến phần gay cấn nhất của câu chuyện, tôi ngoài hẳn người về phía trước. Chắc chắn bà cụ đã gặp hồn ma trước mộ, tôi nghĩ. Và vì trải nghiệm kinh hoàng đó mà khuôn mặt bà mới trở thành như bây giờ...

Bà cụ chầm chậm chỉ tay, cánh tay bà khẽ rung lên nhè nhẹ. Tôi sợ hãi nhìn theo, rồi mắt tôi chạm phải tấm hình đen trắng của ông cụ. Với đôi mắt nhỏ có vẻ rụt rè, ông cụ râu bạc trông vẫn vậy.

"Lần đầu tiên gặp thầy của bà..."

"Vâng." Tôi nín thở.

"... bà đã sững sờ. Người đâu mà giống Kousuke đến thế. Kousuke đã run rủi để bà và thầy gặp nhau."

"Họ giống nhau lắm hả bà?"

"Ừ."

"Đến mức nào ạ?"

"Đến mức nào nhỉ, giống như bản sao vậy. Khuôn mặt này, vóc người này, cả hình dáng những móng tay nữa, tất cả đều giống hệt. Còn ở cổ thì..."

Bà cụ ngửa cằm lên rồi bất ngờ nắm lấy chỗ da cổ toàn những nếp nhăn. Từ hình dáng, màu sắc, độ lớn... phần da ấy trông giống hệt cái đầu tam giác của con mực khô.

"... chỗ này này, có cái bớt màu đen. Cả hai người đều có."

"Dạ."

Hóa ra không phải hồn ma ư? Điều này khiến tôi thất vọng đôi chút, nhưng tôi vẫn nhìn ảnh ông thêm lần nữa.

"Anh họ bà cũng bị hói ạ?"

"Cháu đang nói gì thế, con bé này. Khi thầy bà còn trẻ, tóc ông ấy tốt lắm."

"A..."

"Thế rồi tóc ông ấy ngày càng rụng dần và chẳng bao lâu sau..."

Bà cụ "ừm" một tiếng rồi ngồi xuống trước bàn thờ, đánh chiêng kêu cheng một tiếng rồi chắp tay làm lễ. Trông cứ như bà cụ đang cầu nguyện cho những sợi tóc rụng của chồng mình vậy, tôi cũng chắp tay theo bà.

"Dù sao thì..." bà cụ quay về phía tôi.

"... thật tốt vì bà của bà đã mang thư đến cho Kousuke hộ bà."

"Thế khi ông nhà mất, ông cũng mang thư của bà đến cho anh họ bà chứ?"

"Không."

"Tại sao ạ?"

"Làm vậy thế nào thầy của bà cũng ghen. Hơn nữa..."

Bà cụ thận trọng đứng lên, quay rở lại thả mình xuống ghế tựa.

"... khi thầy mất, bà đã nghĩ rồi. Bà không cần là người gửi thư nữa. Từ giờ tới phiên bà đưa thư cho người khác. Nhiệm vụ mà khi nãy bà nói là như vậy đấy."

Ra là thế, tôi ấn tượng quá. Không phải tôi đã hiểu được tất cả, nhưng những lời bà nói rất có sức thuyết phục.

"Ở cái tuổi của bà, một ngày nào đó mà có được sang thế giới bên kia thì cũng chẳng có gì là lạ cả. Còn giờ là lúc hưởng lệ phí."

"Lệ phí? Bà thu tiền ư?"

Hai cánh mũi bà cụ nở ra như muốn nói: ô kìa, cháu phàn nàn cái gì nào? "Thế chẳng lẽ gửi thư không phải dán tem à? Làm gì có tem miễn phí chứ."

"Cháu biết thế nhưng mà..."

Thấy tôi ngơ ngác không hiểu gì, bà cụ liền chỉ vào cái tủ màu đen có tay cầm màu vàng.

"Ở ngăn kéo trên cùng ấy. Trong đó, có rất nhiều."

"Rất nhiều?"

"Đầy ắp," bà cụ gật đầu dứt khoát.

Tôi tập trung vào cái ngăn kéo trên cùng. Tủ tiết kiệm của lão bà bà! Đầy ắp tiền cơ đấy! Quả là choáng váng. Cái ngăn kéo to đùng ấy phải nhét được hẳn mười cái áo len ấy chứ.

"Mẹ cháu cũng gửi tiền mừng tuổi của cháu vào ngân hàng đấy bà ạ."

"Con bé ngốc. Thứ bà để vào ngăn kéo đó là những lá thư người ta gửi. Bà bắt đầu nhận chúng từ sau khi thầy bà mất. Suốt hai mươi năm trời, bà có nhiều khách hàng lắm."

"Cháu mở ra xem thử được không ạ?"

"Cũng được thôi, nhưng nếu xem thư, cháu sẽ phải mang chúng tới thế giới bên kia đấy."

Tôi dựng tóc gáy, sợ hãi rời mắt khỏi cái tủ.

"Bà mang thư hộ những ai thế ạ?"

Bà cụ bất ngớ vươn cổ về phía trước, đôi mắt đen đã hơi mờ đục nhưng rất linh hoạt nhìn thẳng vào tôi với vẻ trấn an.

"Nghe kỹ bà nói này. Cái ngăn kéo đó, bà sẽ chưa chết chừng nào nó còn chưa chật cứng và không thể nhét thêm bất cứ lá thư nào nữa. Nghĩa là khi nào nó đầy chặt, bà sẽ chết. Vì vậy, bà không thể tùy tiện giữ thư của bất cứ ai. Ví dụ như..." bà hạ giọng, "... nhân viên bưu điện vừa tới khi nãy."
"Cháu không trông thấy bác ấy."

"Thực ra thì bác ấy không đến để đưa thư. Bác ấy đến gửi thư cho bà giữ hộ. Vì vợ bác ấy chết chìm trong bồn tắm."

"Và?"

"Bà không thể nói thêm được. Tên của người nhờ gửi thư phải được giữ bí mật."

Không chỉ miệng mà cả mắt bà cũng khép chặt, thậm chí lưng cũng gập lại tròn hơn mọi khi, trông bà cứ như một thứ đồ trang trí cổ lỗ trên chiếc ghế tựa. Đột nhiên, tôi hỏi bà.

"Gửi thư, hết bao nhiêu tiền hả bà?"

Tôi vờ như không thấy cánh mũi bà phập phồng. Song bà vẫn tỏ ra lạnh tanh.

"Chưa biết được. Còn tùy trường hợp chứ. Nếu là những người đã chết lâu rồi thì đắt đấy."

"Tại sao ạ?"

"Để tìm được người đó ở thế giới bên kia, chẳng phải là rất mất thời gian hay sao?"

Sao bà lại biết những việc như vậy dù chưa chết lần nào nhỉ?

"Nhưng mà, nếu không là người mới chết gần đây thì bà sẽ lấy rẻ thôi. Bởi vì ngày trước, bà của bà cũng chuyển thư miễn phí cho bà."

"Thế bà chuyển thư miễn phí cho cháu đi. Cháu sẽ viết."

"Bà không hiểu, tại sao bà phải chuyển thư miễn phí cho cháu nhỉ?"

"Bởi vì nếu bà không chuyển miễn phí, cháu sẽ nói hết, với tất cả mọi người."

Bà cụ nhìn vào mặt tôi như muốn "hừm" lên một tiếng.

Thực lòng, tôi thấy hoang mang trước điều chính mình vừa nói. Tôi quyết định người nhận thư sẽ là bố, nhưng cho tới tận khi đó tôi vẫn chưa một lần nghĩ rằng mình sẽ viết thư cho bố và cũng không biết nên viết gì. Thực ra, tôi chỉ muốn đòi bà chuyển miễn phí đi cho tôi. Như thể đột nhiên tính háo thắng của tôi bùng phát hơn là thực lòng muốn nhờ vả.

"Thế cháu cho mọi người biết nhé?"

"Tùy cháu thôi."

"Cháu sẽ nói."

"Những điều cháu nói, liệu sẽ có ai tin nhỉ?"

Bà cụ khịt khịt mũi. Rồi sau đó thản nhiên nhấp một ngụm trà. Giữa hai mắt bà cụ gần như không thấy sống mũi đâu, đã thế chỏm mũi lại hếch lên và bạnh sang hai bên. Nhìn chằm chằm vào cái mũi của bà cụ, tự nhiên tôi thấy tức điên lên được.

"Bà là đồ nói dối." Tôi tuyên bố.

"Ơ hay. Bà đang nói dối cháu sao?"

"Đúng thế. Những kẻ nói dối xuống địa ngục sẽ bị cắt lưỡi."

"Hmm..." Bà liếc xéo tôi một cái.

"Thôi được rồi, bà có nói dối hay không, chỉ cần xem bên trong ngăn kéo kia là biết ngay thôi, phải không nào?"

Tôi chợt lặng thinh không nói gì.

"Sao?"

"Bởi vì... chẳng phải bà bảo đấy là bí mật còn gì."

"Thì đúng vậy."

"Nếu là bí mật thì không được mở ra chứ?"

Bà cụ không nói gì, chỉ đứng dậy, vươn cánh tay khẽ đẩy làm tay cầm của cái tủ lêu lách cách: "Xem nào, cái này nặng thật đấy." Lưng bà còng, đấy là còn chưa kể bà thấp nhỏ hơn hẳn so với người thường, vì thế để mở được ngăn kéo trên cùng của cái tủ to đùng kia là một việc khá vất vả.

Lúc đó, tôi nhận ra một điều. Chắc chắn rồi bí mật của bà cụ vẫn sẽ được giữ kín. Bởi vì nếu nhìn vào bên trong ngăn kéo, tôi sẽ phải chuyển những lá thư ấy đi. Không chừng đã có vài người bị lừa nhìn vào trong ngăn kéo đó và phải chết thay cho bà cụ. Phải chăng vì thế mà bà cụ sống lâu?

"Không."

Hết chịu nổi, tôi gục đầu xuống, hai tay ôm lấy mặt.

Tôi chúi mặt vào tấm đệm ngồi, xoạch - tiếng mở ngăn kéo tủ đập vào tai. Tiếng lục lọi, khua đồ lộc cộc, tiếng thở hơi gấp của bà cụ, rồi một mùi hương dễ chịu xông lên, hơi giống mùi lúc mẹ mặc áo kimono, tôi thấy như bà cụ đang tiến lại gần, bên tai tôi nghe thấy tiếng giấy sột soạt, sột soạt.
"Cháu xem không? Thư bà vừa mới nhận đấy, mới toanh nhé!"

Từ đôi mắt nhắm chặt, nước mắt tôi chảy ra. Bà cụ cười khùng khục.

"Nhìn này, mở mắt ra xem một chút đi chứ!"

Tôi vùi mặt thật sâu xuống tấm đệm ngồi đến mức ho sặc sụa. Một lát sau đã nghe tiếng bà bước ra xa, rồi có tiếng ngăn kéo tủ đóng lại.

"Ôi nhìn kìa, ló cái đầu rồng của cháu ra đi. Có gan gọi người khác là đồ nói dối cơ mà, ít ra cũng phải dũng cảm hơn chứ."

Tôi ủ dột ngồi im lặng, mi mắt đỏ lên. Đúng lúc ấy, bà cụ bất ngờ nói.

"Bà chuyển miễn phí cho, thư của cháu ấy. Mang đến đây!"

"Không cần đâu." Tôi lắc đầu, hằm hằm tức giận. "Cháu không viết những thứ như thế."

"Bà hiểu mà."

"Gì cơ ạ?"

"Bà hiểu mà. Nên bà mới nói vậy."

Bà cụ cười khoái trá. Nụ cười điển hình của kiểu cười mà miệng chỉ là một nếp nhăn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Đăng lúc 7-6-2016 21:44:45 | Xem tất
5.



Tôi bắt đầu đi học lại từ thứ Hai tuần kế tiếp. Lần này, không phải là nỗi lo về việc quên đồ, trộm cắp, cháy nhà nữa, trong tôi xuất hiện một nỗi lo mới: cái cảm giác bất an kia - những lo lắng không yên về việc quên đồ, trộm cắp, cháy nhà... - liệu có quay trở lại? Điều này khiến tôi chẳng mấy hào hứng với việc tới trường, thế nhưng hình như tôi bắt đầu thấy nhớ, dù chỉ là một chút, những va chạm với thế giới bên ngoài.

"Hồi trước ấy, tớ còn tưởng Hoshino không thể nói chuyện cơ."

Một hôm, tôi ngỡ ngàng khi nghe bạn gái ngồi kế bên nói vậy. Chẳng lẽ ngày trước mình hâm đến thế sao, tôi ngỡ ngàng, nhưng cũng phần nào thấy thanh thản vì cô bạn ấy đã nói thẳng với tôi như vậy. Và như thế, trường học dần thay đổi, từ một vùng hỗn độn đầy những lỗ cống dần trở thành một thế giới trong đó ngôn từ thực sự được chia sẻ.

Hằng ngày, sau khi tan học, tôi chạy như bay về trang viên Cây Dương, mang theo lá thư đã viết từ đêm hôm trước tới chỗ bà cụ. Khi tôi đưa cho bà phong thư có ghi "Từ: Chiaki - Tới Bố", bà cụ bèn đứng lên, hừm một tiếng ra chiều khó nhọc rồi nói là chấp nhận, đoạn bỏ thư vào ngăn kéo tủ. Cho rằng chỉ nhắm mắt thôi thì chưa đủ, tôi còn dùng cả hai tay bịt thật chặt mí mắt. Nếu không làm vậy, tôi sẽ chẳng thể nào ngăn bản thân khỏi nhìn vào ngăn kéo. Vì hai con ngươi dưới lớp da mỏng trên mí mắt bị tay tôi ấn quá mạnh, nên giữa bóng tối tôi thấy hiện ra những quần sáng hư ảo màu đỏ và xanh. Cho tới khi đã mở mắt được một lúc, tôi vẫn còn thấy như cả vũ trụ đang trôi nổi bồng bềnh và lượn vòng xung quanh.

Tôi tự hỏi mình đã viết thư trong tâm trạng như thế nào? Ban đầu, tôi viết không phải vì bị thôi thúc bởi một ước muốn rõ ràng là "mong được nói chuyện với bố". Có một điều chắc chắn, là tôi cảm thấy từ tận sâu trong tim, có điều gì đó mách bảo mình nên viết thư, nên làm như thế. Với tôi, việc bố đã mất và việc tôi viết những bức thư gửi bố chẳng có gì liên quan đến nhau. Điều khiến tôi khoái chí hơn cả, đó là khi bà cụ ngỡ ngàng thốt lên: "Ô, cháu mà cũng viết được chữ cơ à?" hay "Cháu đang cố làm cho bà chết sớm đây."

Lá thư đầu tiên của tôi như thế này.

Bố có khỏe không ạ? Con khỏe. Tạm biệt bố.

Ba lá thư đầu, tôi lặp đi lặp lại cùng một nội dung. Đến lá thứ tư, tôi đã viết khác đi, không phải vì nghĩ rằng "viết thế này thì tệ quá" mà bởi vì, tôi thực sự có điều để nói.

Bố có khỏe không ạ? Hôm nay con lên bảy rồi. Mẹ mua cho con một cái bánh ngọt. Hai mẹ con cắt bánh và mang xuống mời bà cụ chủ nhà. Bà gọi bánh ngọt là "kẹo Tây" bố ạ. Mang cả sang cho bác Nishioka và cô Sasaki ở phòng bên cạnh nữa. Bánh rất ngon. Mẹ tặng con quyển "Những cuộc phiêu lưu của cô gà mái Emma". Tạm biệt bố.

Viết tới đó thì mẹ bảo tôi đi ngủ, thế là tôi dán nguyên lá thư ấy lại và từ hôm sau trở đi, tôi chuyển sang viết về những gì đang xảy ra xung quanh mình theo đúng kiểu của một đứa trẻ bảy tuổi. Chúng giống nhật ký hơn là những trang thư. Ngày qua ngày, tôi lại càng viết hăng say. Có thể kể với ai đó về một ngày của mình mà không hề phải bận tâm xem "liệu có làm người đó lo lắng không" hay "liệu có bị mắng không" - cảm giác ấy tuyệt vời đến bất ngờ.
Vào một buổi chiều tháng Mười một, cây dương trút lá trong chớp mắt, còn giàn mướp qua lâu đã có tới năm quả chín đỏ. Ngày ngày, tôi vẫn đến chỗ bà cụ sau khi tan học và cùng bà quét lá rụng. Cái chổi tre cao hơn hẳn thân người tôi, thành thử trông tôi cứ như đang bị nó lắc lư loạn xạ. Nhưng tôi là đứa khá siêng làm. Vì bà bảo: "Lá rụng nhiều thế này, phiền hàng xóm lắm!" Thế là tôi không chỉ quét trong vườn mà còn ra ngoài đường, tới cái nhà có con chó hay sủa hóng, tôi quét sạch cả con đường trong tiếng chó sủa inh tai. Tôi biết, chỉ cần sang ngày mai thôi, tất cả sẽ lại đâu vào đấy, nhưng tôi thực sự say sưa với sự lặp lại này. Tôi cầm chổi rất chặt, khiến da ở chỗ ngón trỏ và ngón cái bị loét ra. Lần nào như vậy, bà cụ đều bôi thật đẫm thuốc vào tay tôi và nói:

"Cháu đúng là oặt oẹo quá đi."

Những lúc ấy, bà cụ hết nhìn chỗ đau lại nhìn cái mặt nhăn nhó của tôi, vừa nhìn vừa cười hô hô ra chiều sung sướng lắm.

Rất lâu về trước, khi người chồng quá cố của bà cụ - ông già râu bạc trên bàn thờ - trồng cây dương non trong khu vườn, khắp vùng này ruộng rẫy còn thưa thớt, đồng cỏ mọc rậm rì. Nghe nói ngoài ngôi nhà giống như một túp lều tạm thì gần như chẳng có rào giậu gì che chắn xung quanh nhà hai vợ chồng bà, trong vùng chỉ có thêm vài hộ nông gia nữa. Khung cảnh ấy cũng từa tựa như vùng đất nơi ông bà đã sinh ra và lớn lên. Thời gian đầu, bà cụ thất vọng lắm: "Khó khăn lắm mới dứt áo ra đi được, vậy mà lại sống ở một nơi như thế này sao?"

"Nhưng thầy của bà rất thích nơi này. Ông ấy hơi buồn khi xung quanh các ngôi nhà bắt đầu mọc lên chen chúc. Mà có khi cứ như ngày xưa lại hay. Ở một nơi toàn đồng cỏ rậm rạp thì chẳng cần phải quét lá rụng làm gì, nhỉ?" Bà cụ nói, cánh mũi nở phập phồng.

Lá rụng được quét vun lại thành đống rồi đốt, cháy rất nỏ. Nếu chỉ lá cây không thôi thì rất khó bắt lửa, bà cụ bèn lấy can dầu trong nhà kho ra và rót vào một cái cốc uống cà phê sứt quai. Sau đó, bà cụ nhúng đầu mấy tờ báo được cuộn tròn vào cốc dầu rồi dùng diêm châm lửa. Bà cụ nâng ống giấy báo đang cháy lên như nâng một bó đuốc, lưng bà cụ còng hơn hẳn mọi khi, khiến trông bà hơi đáng sợ. Chỗ dầu còn lại trong cốc bà cụ rải đều lên khắp đống lá rồi dùng ống giấy báo châm lửa, trong thoáng chốc, cả thân người bà cụ bất động.

Ban đầu, ngọn lửa cháy chậm chạp. Như một con vật hèn nhát chỉ dám ló mắt khỏi hang mà dò xét xung quanh. Nhưng chỉ thoáng sau, trạng thái lập lòe ấy vụt tan biến, ngọn lửa đã trở nên ổn định liền cháy bùng lên, như thể nó đang hô hấp mạnh mẽ. Trước sự bùng cháy bất chợt ấy, tôi không khỏi bàng hoàng, còn bà cụ bắt đầu đi lòng vòng quanh đám lửa, dường như câu thần chú làm bà bất động khi nãy đã được hóa giải.

Tôi ngồi xổm xuống, nín thở nhìn cảnh lá khô và giấy vụn dần biến dạng giữa ngọn lửa như trong cơn hấp hối. Chúng gợi tôi nhớ tới hài cốt của bố mà tôi đã thấy ở khu hỏa táng, nhưng chẳng hiểu sao ngọn lửa của đống lá không khiến tôi thấy bất an. Bởi vậy mà cứ mỗi lần đốt lá khô, từ trong tôi, những ký ức về hài cốt của bố lại bị khơi dậy. Điều đó lặp đi lặp lại hết lần này đến lần khác, cho đến khi hình ảnh tro xương của bố đã dần tách rời hẳn khỏi các ký ức thông thường và trở nên thân thuộc với trái tim tôi như một ý nghĩ thuần túy.

Nếu là vào ngày nghỉ và cô Sasaki có ở nhà, thế nào cô cũng ngửi thấy mùi đốt lá.

"Cháu đi mua khoai nhé!"

Nói xong, cô liền leo ngay lên xe đạp và phóng đi.

***
Chúng tôi nướng khoai theo cách của bà cụ: đầu tiên, bọc khoai bằng một lớp giấy báo ướt, sau đó gói tiếp một lượt giấy bạc rồi từ từ nướng lên, khoai sẽ rất ngon. Buổi chiều đông nhá nhem, ngồi bên đống lửa đốt từ lá khô, mặt mũi thì nóng bừng nhưng cơ thể lại lạnh đờ và tê cứng, giữa lúc ấy mà được ăn khoai nướng nóng hổi thì chẳng có bữa tiệc nào trên đời này sánh bằng.

Ngoài đường, cứ hễ có ai đó tình cờ đi ngang qua, cô Sasaki cũng đều gọi với theo dẫu có là người không quen biết.

"Mời tới đây ăn khoai ạ."

Đám lửa càng lúc càng cháy lớn và chẳng thể ngờ được, đôi khi người được gọi cũng đáp lại lời mời bất ngờ của cô Sasaki. Từ ông cụ dẫn chó đi dạo đến cô gái bán bảo hiểm hay cậu bé đang dắt chiếc xe đạp hỏng với khuôn mặt lem luốc đất lẫn nước mắt. Mọi người không nói gì nhiều với nhau. Thực ra, cũng có thể là vì miệng ai cũng đầy khoai nóng nên không nói được. Nhưng ký ức đó - về những người không quen biết nhau, chưa một lần gặp mặt lại ngồi quây quần quanh đống lửa trong vườn nhà bà cụ và cùng ăn khoai nướng - để lại trong tôi một dư vị khó phai, một bức tranh rất đỗi yên bình.

***

Chuyện xảy ra vào một ngày nọ. Hôm đó, tôi đang chờ bà cụ trong vườn. Liệu có phải bà đi gặp bác sĩ để khám mắt không nhỉ? Tôi đi học về đã được một lúc lâu rồi. Sau đợt gió Bắc đêm qua, cây dương gần như trơ trụi. Vừa quét vun lá rụng tôi vừa nghĩ: "Nếu chẳng còn cái lá nào thì làm sao mà đốt lửa được nữa." Tôi cứ tưởng, giống như khi nhặt sỏi bên bờ sông, hàng ngày ta có quét lá rụng bao nhiêu đi nữa cũng chẳng bao giờ hết, vậy mà việc ấy tới một lúc nào đó cũng sẽ ngừng lại, lần đầu tiên tôi nhận ra điều đó. Nắm chặt cây chổi tre, chẳng hiểu sao tôi thấy lo lắng quá.

Tôi vun lá cây lại thành một đống lớn. Dĩ nhiên tôi hiểu trẻ con không được nhóm lửa một mình nên chỉ ngồi xổm ở đó, yên lặng đợi bà cụ về. Gió đã lặng nhưng hôm nay là một ngày lạnh giá và xám xịt. Đôi chân đang gập lại từ từ mất cảm giác, tôi thấy người lạnh dần và lả đi.

"Này, này..."

Có tiếng gì như tiếng gọi tôi từ phía xa, tôi mở mắt. Không biết tôi cứ ngồi xổm như thế mà ngủ quên mất từ lúc nào. Trên đầu gối để tràn có vết răng cửa hằn xuống, chân tôi tê dại, rân rân như kiến bò. Trời đã sẩm tối.

"Cháu ngủ đấy à?"

Giật mình ngẩng đầu lên, trước mắt tôi hiện ra một cái đầu thỏ khổng lồ. Con thỏ mặc quần bò, giơ tay vẫy vẫy tôi khi ấy đang ngỡ ngàng trong tư thế ngồi xổm.

"Cô Sasaki ạ?"

"Ôi, cháu nhận ra ngay được à."

Cái đầu thỏ được nhấc lên, và rồi cô Sasaki xuất hiện. Tóc cô bông xù lên trong giây lát khi cái đầu thỏ được nhấc ra, tôi đã nghĩ: "Cô Sasaki thật đẹp!"

"Cái này là của công ty cô làm đấy. Người ta nói không cần nữa cho nên..."

Cô Sasaki dúi cái đầu thỏ khổng lồ về phía tôi.


"... cô định cho cháu."

Hai chân tê dại, tôi loạng choạng đứng lên và đội thử cái đầu thỏ vào.

"Chẳng nhìn thấy gì cả cô ạ. Mùi khó chịu quá!"

Quanh tôi mọi thứ hoàn toàn tối đen.

"Chắc không được rồi. Vị trí hai mắt được làm để phù hợp với đầu của người lớn mà."

Cô Sasaki nhấc cái đầu thỏ ra giúp tôi rồi bảo: "Lần sau cô mang về cho cháu cái khác dành cho trẻ con nhé." Dù không có mong muốn hóa thân thành một chú thỏ nhưng tôi vẫn nói cảm ơn cô.

"Bà già đâu rồi?" Thỉnh thoảng, cô Sasaki vẫn gọi bà cụ như thế.

"Bà không có nhà ạ."

"Đi đâu thế không biết?"

"Cháu đoán chắc bà đi gặp bác sĩ mắt."

"Ừm, mắt bà kém à?"

"Chắc là đến để bác sĩ lấy lông quặm cho ạ."

Vì bà già rồi nên lông mi mọc quặp vào trong mắt, nếu không định kỳ nhổ đi, chúng sẽ làm xước nhãn cầu. Tôi giải thích cho cô Sasaki theo những gì tôi nghe được từ bà cụ.

"Đấy là vì lớp da ở mi mắt bị chùng đấy, chắc chắn là thế." Cô Sasaki đặt ngón tay vào thái dương rồi xếch hai mắt lên trông như con cáo, cả hai chúng tôi cùng không nói gì thêm.

Bóng tối đen thẫm, đặc trưng của những ngày ngắn nhất trong năm, bắt đầu buông xuống như mực chảy tràn.

"Muộn thế này rồi..."

Cô Sasaki lẩm bẩm một mình. "Đã mua khoai rồi, thế mà lại..."

Tự nhiên tôi cảm thấy không yên tâm. Từ trước tới giờ, bà cụ chưa lần nào về quá muộn sau khi đi khám bác sĩ, cũng chưa lần nào đi vắng đến tận giờ này. Nhỡ mà... muộn thế này rồi mà bà vẫn chưa về, không chừng...

"Cô Sasaki, cô có kể là lũ mèo, trước khi chết chúng sẽ bỏ đi đâu đó phải không ạ?"

"Ừ."

"Nếu không đi tìm bà thì..."

"Cháu nói gì cơ?"

"Bà bảo bà sẽ chết, khi nào cái ngăn kéo ấy đầy."

"Ngăn kéo? Chuyện gì thế?"

Sao tôi lại vô tâm thế nhỉ? Ngày ngày, tôi vẫn mang thư đến đưa cho bà cụ mà không hề nghĩ rằng cái ngày ngăn kéo đầy ắp sẽ đến nhanh như vậy.

"Cháu làm sao đấy, nói rõ ra xem nào."

Hình như người ở trên tầng cũng nghe thấy tiếng cô Sasaki, cửa sổ chính giữa ba căn hộ lạch cạch mở. Có tiếng cười vọng ra, có lẽ là từ chương trình hài đang chiếu trên truyền hình, lúc này tôi đã thấy tỉnh táo hơn đôi chút.

"Có chuyện gì thế?"

Bác Nishioka với cái áo khoác ngắn xộc xệch do mặc vội nhô người ra khỏi cửa sổ.

"Con bé này, nó đang lo là bà già không về."

"Vì việc của bà già mà tôi cũng đang nóng ruột như lửa đốt đấy," cô Sasaki nói càng khiến tôi sốt ruột.

"Chắc là bà chết rồi."

Ánh sáng từ căn phòng chỉ hắt ra được đến lưng nên tôi không nhìn thấy mặt bác Nishioka, nhưng dường như khi nghe tôi nói vậy, bác tỏ ra khá bàng hoàng. Có tiếng bước chân đi xuống cầu thang, lát sau bác Nishioka xuất hiện, tay vén lớp tóc dài phía bên trái sang để che bên tóc thưa hơn, bác đi ra vườn.

"Chiaki, sao cháu lại nghĩ là bà cụ chết rồi?"

Bác hỏi tôi, vẫn với lối nói nhanh líu cả lại như mọi khi. Dẫu không muốn kể về những lá thư, trong lòng tôi không khỏi cảm thấy mặc cảm tội lỗi vì đãnhờ bà cụ giữ hộ nhiều thư như vậy. Tôi chỉ nói được rằng: "Vì mãi bà vẫn chưa về." Chính trong khoảnh khắc ấy,ý nghĩ "Mình thành kẻ nói dối rồi!" chợt xuất hiện và bất ngờ, nước mắt tôi rơi lã chã.

Hiệu quả của nước mắt thật đáng kể, bác Nishioka bối rối dỗ tôi khi ấy đang nước mắt ngắn nước mắt dài, rồi bác giậm chân loạn cả lên. Cô Sasaki thở dài, chụp lên đầu tôi cái đầu con thỏ.

"Dù sao thì, dù sao thì ta cũng phải đi tìm bà cụ chứ. Những... những... những việc như thế này, người ta vẫn bảo là bọn trẻ con thường đoán đúng."

Bên trong cái đầu thỏ vừa tối vừa bốc mùi khó chịu, tôi rùng mình sợ hãi khi nghe câu nói run run của bác Nishioka. Thậtư? Trẻ con thường đoán đúng ư?
"Không thì, nhỡ đâu bà cụ quên mất đường về nhà, việc đó cũng..."

"Bác đùa à?" cô Sasaki hình như định nói tiếp gì đó, "Bà già ấy... thì..."

"Sao mà biết được. Chẳng ai nói trước được gì. Cũng có thể tự nhiên bà cụ đâm ra lẩn thẩn."

"Hừm."

"Dù sao thì, cũng nên đi tìm..."

"Tìm, nhưng tìm ở đâu cơ chứ?"

Sau một hồi vật lộn cố gỡ cái đầu thỏ, tôi ngồi phệt ra đất.

"Ta đến chỗ bác sĩ mắt đi."

Tôi nói với cô Sasaki, người cuối cùng đã giải thoát cho tôi khỏi thứ của nợ ấy.

"Vậy, tôi sẽ đi về phía nhà ga..."

Vẫn mặc áo khoác ngắn, bác Nishioka dợm bước đi.

Đã hết giờ khám bệnh của bác sĩ, chúng tôi nhấn chuông thế nào cũng không thấy ai ra. Vừa đi trên con đường tối thẫm, tôi vừa để ý nhìn xung quanh, hay là bà cụ bị ngã ở đâu rồi nhỉ.

"Không sao đâu. Chắc là bà cụ đã về nhà rồi."

Cô Sasaki miệng hút thuốc, lững thững bước. Chợt tôi hít hà hít hà.

"Mùi gì thơm thế cô nhỉ?"

Cô Sasaki cũng dừng lại một lát ngửi ngửi: "Chắc quanh đây có ai đang nấu cà ri."

Phải rồi, bầu không khí trong lành của một đêm đầu đông, món cà ri từ nhà ai đó và làn khói thuốc lá. Mình biết sự kết hợp này, tôi nghĩ. Mình từng trải nghiệm cảm giác này rồi. Lần đó hai bố con tôi đi dạo trên con đường đêm, cũng có mùi cà ri, và bố cũng đang hút thuốc. Chợt nhớ tới vầng trăng đã thấy dạo đó, một vầng trăng vằng vặc tròn đầy, tôi nhìn lên bầu trời:

"Trăng!" tôi reo lên.

"Ừ, trăng rằm đấy!" cô Sasaki trả lời, chậm rãi nhả ra một làn khói trắng.

"Cô nghĩ là bà sẽ về thật chứ?"

Khi tôi hỏi lại lần nữa, cô Sasaki không nói gì, chỉ cầm lấy tay tôi và nắm thật chặt.

Lúc chúng tôi về đến trang viên Cây Dương, mẹ đang sốt ruột đứng đợi ở cổng. Thấy tôi và cô Sasaki đi cùng nhau, mẹ có vẻ hơi ngạc nhiên.
"Mẹơi, bà đâu? Bà vẫn chưa về à?"

"Chưa. Có chuyện gì à?"

Tôi đang ủ rũ nên cô Sasaki bèn thay tôi kể đầu đuôi câu chuyện cho mẹ nghe.

"Tôi cũng chẳng ra sao cả. Ai lại đi bảo về con bé rằng, lũ mèo trước khi chết sẽ bỏ đi tìm nơi chết, vì vậy mà con bé mới lo lắng..."

Mẹ âu lo nhìn tôi, nhưng rồi ngay sau đó mẹ nói.

"Không đâu, cũng hơn bảy giờ rồi, con bé lo cũng đúng thôi."

Mẹ vỗ nhẹ vào lưng tôi khi ấy đang ủ rũ.

"Những lần trước, như cái lần đi du lịch suối nước nóng cùng hội người cao tuổi ấy, bà cụ còn báo với tôi một tiếng rồi mới đi cơ mà."

Cô Sasaki cũng bắt đầu thấy rốt ruột, có lẽ vì nghe mẹ nói là cũng đã hơn bảy giờ rồi. Cô liếc sang nhìn ra phía con đường chạy dọc bờ song.
"Họ hàng của bà thì sao?" mẹ hỏi.

Cô Sasaki nghiêng đầu như muốn nói, tôi không biết. "Hình như hai vợ chồng họ không có con cái gì thì phải. Có lần tôi nghe thấy bảo bà cụ là vợ hai."
Ba người chúng tôi thở ra toàn khói trắng, cứ thế đứng ngây ra ở cổng, đang lo lắng không biết đã có chuyện gì xảy ra, đúng lúc ấy, bác Nishioka trở về.
"Không được, không được rồi."

Bác Nishioka khoát tay rất rộng, như thể vừa đảm nhận một nhiệm vụ trọng đại vô cùng.

"Tôi đứng đợi ở cửa soát vế một lúc, nhưng nghĩ làm vậy chẳng ích gì nên mới hỏi nhân viên nhà ga xem có thấy bà cụ, xong tôi đi lòng vòng quanh khu mua sắm rồi ghé vào đồn cảnh sát..."

Đến lúc này, bác Nishioka mới nhận ra mẹ tôi: "A, chào cô!" bác nói bằng giọng trầm nhất có thể rồi cúi đầu.

"Ở đồn cảnh sát, đã có chuyện gì xảy ra sao?"

Bị cô Sasaki hỏi dồn, hàng mi của bác Nishioka cứ giật giật liên hồi. Bác càng nói nhanh hơn mọi khi.

"Không, không, tôi chỉ tới hỏi thôi."

"Rồi sau đó?"

"Sau đó hả, chắc chắn là chưa thể yêu cầu mở cuộc điều tra tìm người được rồi... Nhưng tôi không nghe thấy cảnh sát nói gì về việc một bà cụ như thế..."
Đúng lúc ấy, từ con đường chạy dọc bờ sông, một bóng đen chầm chậm tiến lại.

"Bà ạ?"

Dưới ánh trăng mờ tỏ, bong bà thấp thoáng hiện ra.

"Ô kìa, mọi người tập trung cả ở đây à..."

Tiếng bà vang đến chỗ chúng tôi. Hơi bối rối, tôi đứng như trời trồng.

Bà cụ bận đồ tang kiểu truyền thống. Thường bà cụ không mặc kimino nên hiếm khi trông thấy bà cụ trong bộ dạng này, nhưng chi tiết khiến tôi chú ý nhất lại chính là khuôn mặt bà cụ. Hồi trước, khi lần đầu tiên gặp bà, tôi đã ngờ rằng khuôn mặt bà trông giống hệt nhân vật Popeye độc ác là vì bà đã uống phải một loại thuốc quái gở nào đó, và lúc này đây, tôi hoàn toàn tin đó là sự thật.


Cái mặt gãy của bà cụ trông như dài hơn. Nếu nhìn kỹ sẽ thấy, trên khuôn mặt chảy dài đó, hai má ở nửa dưới mặt phồng lên, các nếp nhăn cũng căng ra, có thể thấy rõ là bà cụ trông trẻ hơn. (Thôi đúng rồi, ra là bà uống thuốc cải lão hoàn đồng...) Nhưng cảm giác về sự hoạt bát thường ngày, gần như là cái vẻ gian gian, không còn nữa. Đến cả giọng nói của bà cụ cũng khang khác, nghe cứ khàn khàn làm sao ấy.

"Ôi, tôi mệt quá. Đi thăm viếng tang ma làm gì. A, chờ chút, cái này..."

Bà cụ mở túi xách màu đen và lấy ra một chiếc chìa khóa rồi chĩa về phía tôi. Tôi run run lại gần, cầm lấy chiếc chìa khóa. Mắt tôi cứ dán vào mặt bà cụ.

"Cháu thẫn thờ nhìn cái gì đấy? Mở cửa cho bà đi chứ!"

Bà vừa dứt lời, tôi liền hét lên.

"Bà... bà mọc răng!"

Bà cụ im lặng, có vẻ không được thoải mái cho lắm. Rồi bà cụ chậm rãi nói:

"Đấy là thứ để đeo vào miệng, dùng để diện khi ra ngoài."

Nói đoạn bà cụ ngậm chặt miệng lại, lỗ mũi nở rộng ra hết cỡ.

Mình nhìn rõ hai cái hàm răng trắng đều ấy, bị cuốn vào suy nghĩ đó, tôi quên cả chớp mắt, đúng lúc ấy, một tiếng huýt lạ vang lên.

Cô Sasaki đưa hai tay lên che mắt, nhìn như vẻ đau khổ. Mẹ đứng đối diện cũng cúi xuống, hai vai run lên. Tôi tự hỏi không biết có phải hai người họ đang khóc không. Nhưng kỳ thực cả hai đang cười. Có điều gì đáng buồn cười thế nhỉ, tôi không hiểu gì nên quay sang nhìn bác Nishioka, đôi mắt bé tẹo của bác hấp háy liên hồi còn lông mày thì nhướng lên. Bà cụ vào nhà rồi đóng cửa đánh rầm một cái.

Sau bữa cơm chiều, mấy người lớn dắt tôi xuống thăm và xin lỗi bà cụ. Nhưng tôi chẳng hiểu gì cả, tại sao bà cụ lại khó chịu đến vậy. Điều duy nhất tôi biết chỉ là: "Ồ, hóa ra đó là răng giả." Dù sao tôi cũng thở phào nhẹ nhõm vì bà cụ đã về nhà bình yên vô sự. Nhưng rõ ràng là không có răng giả trông mặt bà dễ coi hơn, tôi nghĩ. Và rồi tôi hậm hực, cảm thấy trong việc này hình như mọi người không công bằng với mình, sau đấy vì mệt quá nên tối đó, thật hiếm hoi, tôi ngủ mà không mơ mộng gì.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Đăng lúc 7-6-2016 21:49:51 | Xem tất
6.



Bố có khỏe không ạ?

Hôm nay, con đi đến chỗ bác sĩ mắt để tìm bà cụ chủ nhà. Trên đường về, con bỗng thấy nhớ bố. Ngày trước, cái lần con và bạn Yuta và mẹ của bạn Yuta đi bách thú, bố đã tới nhà ga để đón con. Bố nắm tay con rồi vừa hút thuốc vừa kể chuyện chú thỏ trên mặt trăng cho con nghe. Có một người bị đói, thế là tất cả các con thú trong rừng đi tìm đồ ăn mang về. Nhưng chú thỏ yếu ớt nên không mang được gì về cả. Nó bèn lao vào ngọn lửa để biến mình thành đồ ăn. Bố bảo: "Chú thỏ sau khi chết được lên cung trăng đấy."

Nghe bố kể chuyện chú thỏ xong, lúc nằm trong chăn con cứ nghĩ mãi. Và con đã khóc một ít. Con không thích câu chuyện buồn đó lắm. Tối hôm qua, con nghĩ, có lẽ bố đang ở trên mặt trăng cùng chú thỏ kia, thế là nước mắt con lại tuôn ra. Ở trên mặt trăng chỉ có bố và chú thỏ, thế thì buồn quá.

Bố ơi, nếu ngăn kéo của bà đầy chặt, bà sẽ chết đấy. Vì thế, từ giờ con sẽ không viết thư hàng ngày nữa. Thay vào đó, khi viết, con sẽ viết bằng chữ nhỏ. Con sẽ gọt bút chì thật sắc, và sẽ viết được nhiều.

Thế nhé bố, con chào bố!

Hôm bà cụ đi dự lễ tang, ý nghĩ "bà cụ sắp chết rồi" khiến tôi sợ điếng người, nhưng tôi vẫn viết thư cho bố. Buồn cười là thậm chí tôi còn viết hăng hơn. Ban đầu đó chỉ đơn giản là một trò chơi, chẳng biết từ lúc nào những lá thư ấy đã trở thành một phần không thể thiếu, giống như một thói quen vậy. Rồi một ngày nào đó có thể bà cụ sẽ chết, khi nghĩ như vậy tôi lại thấy việc viết thư dường như càng trở nên cấp bách hơn. Thế là dần dần, trong thư, tôi bắt đầu kể cho bố thêm nhiều chuyện.

Cũng có thể tôi đã vượt qua chuyện bố mất rồi nên không còn cảm thấy cay đắng khi nhớ về bố nữa. Nhưng nói đúng hơn, dường như tôi đang cố tìm câu trả lời cho những điều mình không thể tự tìm hiểu. Ngay cả bây giờ, khi đã trưởng thành, gặp bất kể việc gì không ổn, thì dù có là nhỏ nhặt, như cài lệch cúc áo chẳng hạn, nếu không làm lại từ đầu, tôi sẽ bị ám ảnh bởi cảm giác bất an, từa tựa như vết thương lâu lâu lại há miệng một lần vậy. Về sau, mẹ cố gắng kiếm tìm những điều mới mẻ trong cuộc sống, mẹ tái hôn, thế rồi tôi dần xa rời mẹ, nguyên nhân có lẽ vì bản tính của tôi.

Trong một lá thư gửi bố, tôi đã viết như thế này.

Bố có khỏe không? Móng chân của con rất giống móng chân của bố đấy. Con biết thế là vì ngày trước bố từng nói với con như vậy. Lúc đó con cũng nhìn móng chân của bố và thấy: "Đúng là giống thật!"

Hôm nay, lúc tắm xong, mẹ cắt móng chân cho con, con nhìn móng chân mình và có cảm giác thật lạ bố ạ. Móng chân con còn đây, vậy mà móng chân bố không còn nữa. Móng chân bố không còn nữa, vậy mà trước đây móng chân hai bố con mình lại có hình dáng giống hệt nhau. Trước đây có bố, có mẹ và con. Bây giờ không có bố nữa, chỉ còn mẹ và con thôi, tại sao lại thế? Nhưng nếu cứ nghĩ mãi nghĩ mãi thì đầu con sẽ quay như chong chóng mất.

Lúc cắt móng chân cho con, trán mẹ nhíu lại và mẹ tỏ ra chăm chú. Con đã nghĩ: "Chẳng biết hồi bố cắt móng chân cho mình, mặt bố trông như thế nào?" Nhưng con hoàn toàn không biết. Vì khi đó, bố chỉ toàn cúi xuống. Con thích bố cắt móng chân cho con hơn. Vì bố cắt rất chậm nên con không thấy bị nhột. Thế bố ạ, con chào bố!

Tháng Mười hai đã đi được một nửa chặng đường và kỳ nghỉ đông đang đến. Ngày cuối của học kỳ, tôi chạy từ trường về nhà dưới ánh nắng trong vắt của mùa đông.

Khi chạy lên cầu thang, tôi thấy một cậu con trai lạ hoắc đang đứng trước máy giặt của bác Nishioka. Cậu ta chắc là hơn tuổi tôi, trông cứ như một cây nấm kim châm đeo kính vậy. Lúc tôi bắt gặp, cậu ta đang nhét một đống đồ giặt cao như núi vào máy.

Lập tức, ký ức về "sự kiện cái máy giặt" lần trước ùa về. Chắc chắn là dùng trộm rồi, tôi nghĩ, đoạn rụt rè mở khóa cửa và nhìn chằm chằm.

"Chào!"

Cậu ta lên tiếng. Đó là một giọng nói khàn nhưng rất sáng.

Không đáp lại, tôi cuống cuồng mở cửa rồi vào phòng. Cầm nắm cơm do mẹ làm sẵn, tôi nhòm qua khe cửa. Cậu con trai kia đang rẩy bột giặt vào máy rất thành thạo. Tôi đi ra ngoài, tránh nhìn vào cậu ta, tôi khóa cửa lại rồi chạy ngay xuống cầu thang.

"Bàơi, có thằng nào lạ lắm!"

Khi đeo kính, những con chữ bé tí tẹo trên báo chẳng thể gây khó dễ được cho bà cụ, và bà cụ coi việc đọc kỹ không sót tí gì một tờ báo là thú vui hàng ngày. Hôm đó, bà cụ đang ngồi thu chân trong bàn sưởi, tay mở rộng tờ báo, nghe tôi nói bà nhíu mày, trán hiện lên những nếp nhăn lớn:

"Thằng nào lạ?"

Bên trên chiếc kính vừa trượt xuống, hai mắt bà cụ nhìn tôi chằm chằm.

"Một đứa đeo kính. Nó dùng máy giặt nhà bác Nishioka bà ạ."

"À," bà thốt lên, rồi vừa gập tờ báo lại vừa nói:

"Con bác Nishioka đấy."

"Bác Nishioka có con hở bà?"

"Có chứ."

"Nhưng mà... thường thì nó ở với mẹ."

Bà cụ nhỏm dậy, quỳ gối và xếp lại xấp báo cho ngay ngắn, gây ra những tiếng cộp cộp bên trên bàn sưởi. Chẳng thể hỏi han gì thêm trong bầu không khí này, tôi đành im lặng.

Ăn trưa xong, tôi ra sân phơi đồ, đang cho lũ mèo ăn nốt một ít cá thu khô còn lại từ tối qua, chợt nghe có tiếng bước chân đi xuống cầu thang. Tiếng bước chân tiếp tục đi qua khu vườn rồi vòng tới cửa trước nhà bà cụ, lại là cái cậu ban nãy.

"Bà có nhà không?"

Tôi gật đầu, thế là cậu ta đi về phía khu vườn. Từ chỗ cửa quét rác, cậu ta nói với bà cụ như người lớn:

"Cháu mời bà dùng món này ạ."

Rồi chìa ra cái hộp bên trên có in dòng chữ "Thạch quả sơn trà Nhật Bản."

"Bà cảm ơn."

Bà cụ khẽ cúi đầu theo đúng kiểu của người già, rất trang trọng.

"À, con bé kia là Chiaki, hàng xóm của cháu đấy. Nó học lớp Một."

Bà cụ quay về phía tôi, giới thiệu qua loa tên cậu ta là Osamu và đang học lớp bốn. Lớp Bốn mà bé tí tẹo.

"Anh ở đây vào kỳ nghỉ hè, mình là bạn nhé."

Thay cho lời đồng ý, tôi nhìn về phía Osamu, miệng Osamu bụm lại cứ như đang nhịn cười để khỏi lộ mấy cái răng cửa to tướng.

Osamu nói sẽ đi mua đồ để nấu cà ri, thế là tôi quyết định đi cùng. Chúng tôi đi bộ trên con đường mòn chạy dọc bờ sông, vừa đi vừa đá những viên đá cuội nhỏ. Vóc người nhỏ thó, dáng đi còng lưng và cái đầu khẽ gật gà gật gù của Osamu rất giống bác Nishioka.

"Anh làm cà ri ngon phết đấy nhé."

"Gì cơ, anh tự làm được á?"

"Được chứ. Cả bò hầm xốt kem này, trứng rán này..."

Siêu quá, tôi trầm trồ nhưng rồi lại nghĩ, chắc học sinh lớp Bốn ai cũng thế.

"Mẹ anh dạy anh cách nấu ạ?"

"Ừ, nhưng chủ yếu là anh học từ sách với ti vi. Mẹ anh dạy học ở một trường tư thục nên bận lắm."

"Mẹ em ấy, mẹ em làm ở chỗ tổ chức đám cưới. Ngày nào cũng nhìn cô dâu nhé, nhiều lắm!"

"Thật á?"

"Anh thích cô dâu không?"

Osamu suy nghĩ một lát rồi đáp: "Không thích lắm."

"Tại sao?"

"Có gì đó ghê ghê ấy. Vì người họ cứ cứng đờ ra."

Lúc ở siêu thị trong khu mua sắm, Osamu mua đồ với vẻ rất thành thạo, rồi chúng tôi cũng đi bộ về trên con đường dọc bờ sông. Cảm giác ngượng ngùng trước người lạ mặt mọi khi chợt tan biến, tôi huyên thuyên với Osamu đủ thứ chuyện trên đời, nào là chuyện bà cụ, nào là chuyện cô Sasaki quẳng đồ ăn cho lũ mèo hoang... Osamu vừa nghe vừa cười khúc khích, những lúc tôi ngập ngừng không biết nói gì, anh ấy lại hỏi chêm vào những câu gợi chuyện.
"Khi nào xong cà ri em đến ăn nhé!"

Osamu mời tôi lúc ở lối đi của khu căn hộ cho thuê. Tôi muốn nói: "Vâng, em sẽ đến! nhưng lại thôi. Không xin phép mẹ trước mà đã đồng ý là hư, tôi nghĩ.

"Thế tối nay đi nhà thờ nhé!"

"Nhà thờ á"

"Thánh lễ Misa đêm Giáng sinh mà."

Không phải tôi không biết đó là đêm Giáng Sinh. Nhưng khi thấy những người bận đồ ông già Noel đi phát tờ rơi quảng cáo đại hạ giá, tôi đâm ra bối rối. Vì trong lòng tôi, ông già Noel chính là bố.

Bố mất có nghĩa là từ năm nay trở đi sẽ không ăn mừng Giáng sinh nữa, tôi cứ đinh ninh như vậy, nhưng hôm đó mẹ mua về cho tôi một cái bánh kem có dâu tây ở trên. Tôi cắt hai miếng đặt lên đĩa rồi sang gõ cửa căn hộ bên cạnh. Trong phòng, bác Nishioka và anh Osamu ngồi đối diện nhau trước cái bàn gấp be bé đang cùng ăn cà ri.

Bác Nishioka nói cảmơn lúc nhận bánh rồi hỏi tôi:

"Chiaki đã hỏi mẹ chưa? Cháu có được đến nhà thờ không?"

"Mẹ cháu cũng đi cùng được không bác?"

"Dĩ nhiên là được rồi, đi chứ đi chứ."

Osamu nhìn tôi, tay vẫn cầm thìa cà ri và mỉm cười. Cà ri ngon thật là ngon, tôi nghĩ.

"Thế Chiaki về ngủ một chút đi. Sẽ phải thức đến khuya đấy cháu ạ."

Bác Nishioka bảo vậy nhưng tôi nằm thế nào cũng không ngủ được vì trong lòng cứ háo hức mãi về chuyện ra ngoài lúc nửa đêm.

"Mẹơi, vừa nãy nhé, bác Nishioka với anh Osamu ăn cà ri đấy."

"Thế à."

"Trông như cắm trại ấy mẹ ạ."

"Cắm trại á?"

"Vâng, hai người họ im lặng ngồi ăn, mà chỉ ăn mỗi cà ri thôi."

"Chiaki!"

"Dạ?"

"Không được nhìn chằm chằm lúc người khác đang ăn!"

"Vâng, con biết rồi. Mẹơi, thật đấy, trông giống như cắm trại ấy."

"Ừ ừ."

Lúc đó, tôi muốn nói rằng tôi rất thích cảnh anh Osamu và bác Nishioka ngồi ăn nhưng ngoài việc so sánh "giống như cắm trại" ấy tôi chẳng tìm được cách nói nào hay hơn. Tôi mới chỉ được thấy cảnh cắm trại đôi lần trên phim truyền hình mà thôi. Giữa bóng đêm, ngọn lửa liu riu cháy, vài người lặng lẽ ngồi dùng một món ăn nhẹ còn âm ấm, tiếng chim đêm, bầu trời đầy sao sáng... Chợt tôi nhớ ra, khi đó tôi chẳng hề nghe thấy giọng kể chuyện cười từ cát xét của bác Nishioka.

Khuya hôm đó, chúng tôi rời trang viên Cây Dương. Bầu trời đêm quang đãng, những ngôi sao trên cao tỏa sáng lung linh trông như mắt của những loài sinh vật sống. Mẹ mặc cho tôi áo len dày, áo khoác và quàng khăn quanh cổ, đội cả mũ len nữa, trông tôi chẳng khác nào một con thú bông căng phồng sắp bục cả ra.

"Bác Nishioka theo đạo à?"

Nghe mẹ hỏi vậy,bác Nishioka bối rối trả lời. "À không, tôi thì không."

"Thằng bé nhà tôi đã nhận phép rửa tội. Mẹ nó theo đạo."

Nói đoạn bác đặt lòng bàn tay của mình lên đầu Osamu.

"Cả tôi hồi ấy cũng bị đòi phải theo đạo. Trước khi kết hôn ấy. Nhưng chính ra tôi không theo lại hóa hay."

"Sao thế ạ?"

Bác Nishioka hẳn là rất ngạc nhiên khi mẹ thật thà hỏi: "Sao thế ạ?"

"Bởi vì, thì đấy, chẳng phải thế sao? Đạo Thiên Chúa không cho ly... ly hôn mà."

"À..."

"Miệng thì bắt người khác phải trở thành con chiên ngoan đạo, nhưng bản thân thì chẳng mấy chốc đã từ bỏ..."

Bác Nishioka như đang tự nói một mình, bác cười không ra tiếng rồi lại nói nhanh líu như mọi khi: "Thôi, đó là chuyện xưa lắm rồi."

Nhà thờ ở trên đỉnh đồi đối diện khu mua sắm, muốn đến được đó phải đi qua con đường men theo bờ sông tới chỗ trạm cứu hỏa và đoạn đi lên khá dốc. Đứng từ trên đó nhìn lại sẽ thấy rất rõ những quầng sáng đèn nê ông quanh nhà ga hắt xuống dòng sông rộng lớn và đen đặc. Một con tàu điện nhỏ ních đầy người băng qua cây cầu bắc ngang dòng sông. Tôi kéo tay mẹ đang mơ hồ nhìn theo bóng con tàu.

Đó là một khu dân cư sang trọng hơn so với khu chúng tôi đang sống, những tòa nhà sau cánh cổng uy nghiêm đứng im lìm dưới bầu trời đêm. Cây sồi già vươn dài những cánh tay trùm khắp cả khu vườn nhà thờ, nơi nơi như chìm trong bóng tối, những khi cánh cổng gỗ dày mở ra, âm nhạc và ánh sáng ùa tối, cả mẹ và tôi đều há miệng ngỡ ngàng.

Không khí bên trong nhà thờ ấm áp, mọi người đang đứng hát đồng thanh. Anh Osamu nhúng tay vào một thứ trông như cái chậu bằng đá trắng, làm dấu chữ thập trước ngực rồi nhìn tôi hiệu bảo làm theo. Đầu ngón tay tôi chạm vào nước lạnh toát. Osamu cầm tay và chỉ cho tôi cách làm dấu chữ thập.

Căn phòng đầy ắp âm thanh: những khúc hát, tiếng đàn organ, và những lời nói có tiết tấu thanhthản lạ kỳ mà đức cha xướng lên. Với trần nhà cao, nhà thờ chẳng khác gì một chiếc hộp bánh bị lèn chặt tiếng vang. Trong chốc lát, rồi như mụ mị cả người, cứ lặp đi lặp lại các động tác giống mọi người, hết đứng lên lại quỳ gối và ngồi xuống, rồi chẳng biếng từ lúc nào hai mắt đóng dính vào dấu chữ thập ngay trước mặt.

"Ai kia hả anh?"

Tôi thầm hỏi Osamu.

"Đó là Chúa Jesus."

Hơi thở của Osamu có mùi kem đánh răng.

"Sao ông ấy không mặc gì?"

Osamu chỉ khẽ nghiêng đầu.

"Ông ấy chết rồi hả anh?"

"Ừ, cũng gần như vậy."

"Sao lại chết?"

"Để cứu loài người."

Đúng lúc ấy, tiếng đàn organ vang lên và mọi người lại bắt đầu hát. Với vẻ mặt rất mực trang nghiêm, Osamu hát bằng giọng cao nhưng hơi khàn giống như khi nói chuyện. Bác Nishioka nhìn chăm chú vào quyển thánh ca có bia da màu đen, miệng khẽ mấp máy. Tôi ngước lên nhìn mẹ, mắt mẹ ươn ướt như người say.

Tôi thấy thương cái người được gọi là Chúa Jesus, thân hình ông ấy gầy gò và khuôn mặt trông đau khổ làm sao. Bị mọi người nhìn vào trong bộ dạng không mặc gì như thế thì làm sao mà thoải mái cho được. Thế rồi bỗng nhiên, tôi lại nhớ tới câu chuyện về chú thỏ mà bố đã kể. Chú thỏ ấy tình nguyện chết để cứu một vị thần đóng giả làm một người đói khát, còn anh Osamu bảo cái người tên là Chúa Jesus kia đã chết để cứu cả loài người. Phải chăng bất kỳ ai đó chết đi cũng là vì người khác, vì điều gì đó...? Vậy bố tôi chết vì điều gì? Vì một người đói khát ư? Vì loài người ư? Vì mẹ? Hay vì tôi?

Vừa lúc ấy, câu chuyện của đức cha bắt đầu và đột nhiên tôi thấy buồn ngủ. Khi mẹ lạy người đánh thức tôi dậy, trong nhà thờ đã gần như không còn ai. Người phụ nữ chơi organ khi nãy đang thu dọn bản nhạc. Nhà thờ chỉ ít phút trước thôi chẳng khác nào hộp bánh lung linh ánh sáng và dồn chặt âm thanh giờ đây chỉ còn như một một trường bình thường ở bất kỳ đâu.

Không khí bên ngoài lạnh buốt như chọc vào mắt tôi.Ở chỗ cánh cổng còn đang mở, tôi ngoái đầu nhìn lại Chúa Jesus trên cây thập giá một lần nữa.

"Cháu để ta lại đây mà về ư?"

Người đó nói.

"Lần sau cháu lại tới nhé!"

Tôi khẽ lẩm bẩm rồi bước ra ngoài.

***

Có nhiều hôm, bác Nishioka phải đi làm từ sẩm tối nên từ chiều anh Osamu đã đi chợ để nấu cơm sớm. Tôi vẫn thường tha thẩn quanh Osamu, có lúc xách hộ anh vài thứ khi đi chợ, lúc thì giúp anh rửa rau...Tại căn bếp nhỏ trong căn hộ, Osamu bận tạp dề, tay phải cầm muôi, tay trái nhấc lọ xì dầu trong tủ bếp ra, dáng vẻ anh khi đó y hệt vợ của bác Nishioka. Và cũng giống như đống chăn mền lúc vừa ngủ dậy, trông chẳng khác gì một con cá sấu. Dù nhìn thế nào thì hình ảnh anh Osamu luôn tay luôn chân trong căn bếp ấy cũng y hệt "bác gái bên nhà hàng xóm"vậy. Được ở cùng với "bác gái" trong căn bếp đó, tôi thấy thật vui là yên ổn.

Điều này dường như có liên quan tới chuyện tôi không cảm nhận được sự bình yên nơi bóng dáng của mẹ mỗi khi mẹ làm bếp. Tôi biết nếu nói điều này thật bất công với mẹ, người ngày ngày vẫn làm cơm cho tôi ăn, nhưng có lẽ tôi thấy ngạt thở. Trong tôi đầy ấp nỗi lo: liệu mẹ có làm việc quá sức, liệu mẹ có quá vất vả, liệu một lúc nào đó mẹ có giống như bố, sẽ bỏ tôi lại hay không? Tôi học cách sử dụng máy giặt và gấp quần áo, tôi nhận nhiệm vụ đi mua sữa mỗi ngày, tôi cố gắng để trở thành học sinh lớp Một mẫu mực, nhưng dù cố gắng thế nào, mỗi lần nhìn thấy lưng mẹ đứng quay mặt về phía bồn rửa bát, tôi lại sợ hãi nghĩ rằng rồi đây tôi sẽ bị bỏ lại một mình. Hồi tưởng về mẹ khi ấy, tôi có cảm giác mẹ như bị bọc kín trong một nỗi bất an, có lẽ nói vậy là hợp lí hơn cả.

Nhưng Osamu thì khác, anh ấy luôn vui vẻ và không đứng bếp theo cái kiểu ủ dột như mẹ tôi. Một hôm, trên đường đi mua đồ về, tôi nói với Osamu: "Giá mà anh ở đây mãi nhỉ."

"Ừ, hay là thế nhỉ."

Không hề lường trước rằng mình sẽ nhận được một câu trả lời đáng mừng thế và giản đơn đến thế, tôi lấy làm hân hoan.

"Thật nhé, thật nhé!"

"Ừ, dù gì anh cũng nấu ăn ngon hơn bố..."

"Đúng rồi, đúng rồi."

"Đăng nào, sau khi sinh em bé, mẹ anh cũng sẽ vất vả lắm."

"Em bé, mẹ anh sinh em bé ạ?"

"Ừ. Dự kiến là ngày mùng ba Tết đấy."

"Ồ."

"Vì mẹ anh hơi yếu nên giờ vẫn đang nằm viện."

Chắc vì thế mà anh ấy đến đây, tôi hiểu ra.

"Đến Tết, anh có thể đi thăm mẹ."

"Xa lắm!"

"Nhưng để mẹ anh ở một mình như thế, tủi thân lắm."

"Còn có bố nữa."

"Dạ?"

"Bố mới của anh. Không phải bố ở đây đâu."

Tôi thất vọng thốt lên một tiếng "ồ". Trong giây lát, tôi im lặng bước đi, từ từ sắp xếp lại mọi thứ trong đầu.

"Bố mới của anh có ác không?"

"Không đâu," Osamu khẽ lắc đầu. Câu trả lời của Osamu khiến tôi khá yên tâm như thể nó là chuyện của mình; tôi hỏi vậy là do bị ảnh hưởng bởi những bà mẹ kế độc ác trong truyện tranh và truyện cổ tích. Tuy nhiên tôi vẫn thấy có điều gì đó không chắc chắn.

"Anh thích khu nhà đó."

Đột nhiên Osamu nói, đôi mắt hẹp dài cố mở thật to sau cặp kính.

"Bà cụ chủ nhà rất giống bà của anh. Hồi còn nhỏ, anh đã từng đến chỗ bà anh. Nhưng rất lâu rồi anh không gặp bà nữa."

"Tại sao thế ạ?"

Tôi bỗng thấy thật khó có thể tin rằng bà của anh Osamu lại có khuôn mặt đáng sợ như bà cụ chủ nhà này.

"Vì bà anh cũng hay gọi anh là "Osamu". Kiểu như "Osamu, đào hãy còn lạnh đấy" chẳng hạn. Bà anh rất hiền."

Osamu nhìn trân trân vào khoảng đất cách mũi chân chừng ba mét về phía trước, sau đó dùng ngón trỏ gõ cộc cộc vào mấy cái răng cửa to cộ.
"Anh Osamu này. Những người mà anh biết, đã có ai chết chưa?"

"Không có. Sao thế?"

"Không ạ. Không có gì."

Tự nhiên tôi muốn kể cho Osamu nghe về những lá thư tôi viết cho bố, về cái ngăn kéo tủ của bà cụ. Nhưng quanh anh ấy chưa có ai chết cả nên tôi nghĩ cứ giữ bí mật với bà thì hơn. Vừa thấy thất vọng lại vừa nhẹ nhõm, tôi đá chân lên cao, chiếc giày thể thao đã bắt đầu trở nên hơi chật.

***

Bố khỏe không ạ? Hôm nay, anh Osamu bảo: "Anh sẽ hái cho em quả qua lâu." Anh Osamu cố gắng trèo lên cây dương. Nhưng dưới thấp không có cành nào cả nên mãi mà anh ấy không trèo được. Đúng lúc ấy bà cụ hỏi: "Hai đứa đang làm gì thế?" Anh Osamu trả lời: "Cháu muốn hái quả qua lâu nhưng không trèo lên cây được." Bà cụ vào nhà kho lấy cái kéo làm vườn ra cho bọn con. Nó rất nặng và có tay cầm dài ơi là dài. Bà bảo: "Khi thầy bà còn sống, ông ấy đã mua cây kéo này ở cửa hàng cây cảnh." Anh Osamu trèo lên cái thùng muối dưa lật úp. Anh ấy hô một tiếng rồi đưa cây kéo lên. Cánh tay anh Osamu rung rung. Cuối cùng, quả qua lâu bị cắt rơi xuống, và con tóm kịp lấy nó. Anh Osamu nói lớn: "Nice catch!"(4)Con rất vui. Nhưng sau đó, vì cái kéo quá nặng nên anh Osamu bị ngã nhào.

(4.) Tiếng Anh: cú bắt đẹp!

Quả qua lâu rất nhẵn bố ạ. Con tưởng nó mềm giống như cà chua nhưng hóa ra không phải. Con hỏi: "Ăn được không hả bà?" thì bà cụ nói: "Bà không biết, sao cháu không thử đi?" Con định ăn thì anh Osamu bảo: "Chiaki, đừng có ăn!" nên con không ăn nữa. Bà lại bảo: "Nó định ăn thật đấy, cái con bé này," con bực lắm bố ạ.

Con rủ: "Quả qua lâu này thật đẹp, mình mang tới nhà thờ tặng cái người ở trên cây thập giá đi anh đi," Anh Osamu đồng ý: "Ừ, hay đấy." Lúc đó không có ai, nhà thờ hơi đáng sợ bố ạ. Anh Osamu bảo: "Con người sau khi chết sẽ tới xứ sở của các vị thần, Chiaki cũng tới đó. Anh cũng thế." Anh ấy còn bảo, các vị thần là những người chăn cừu, còn con người là những con cừu. Con đã tưởng tượng bố biến thành cừu. Nhưng con chẳng tin chút nào. Con không thích bố cứ tha thẩn trên mặt trăng với thỏ, kể cả cừu cũng thế. Con nghĩ, nếu bố mà biến thành cừu thì làm sao con biết được con cừu nào là bố.

Ông Jesus chỉ có một mình, ông ấy không mặc gì và trông ông ấy có vẻ buồn chán bố ạ. Con đặt quả qua lâu dưới cây thập giá. Rồi con chạy ra ngoài. Ra ngoài xong, con nghĩ, ông Jesus và bố hơi giống nhau. Con thấy ông ấy có khi còn giống bố hơn cả bức ảnh trên bàn thờ nhà mình nữa. Nhưng nghĩ lại thì điều đó thật kì cục làm sao.

Anh Osamu bảo: "Lần sau, chúng mình mang hoa tới nhé!" Con thích ý nghĩ lại được tới đó. Nhưng con thích những quả qua lâu hơn là hoa. Con nghĩ, nếu là bố, chắc bố cũng thích những quả qua lâu hơn. Thế bố nhé, con chào bố!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách