|
Chương 6: Elizzabeth (1)
1994
Yêu là chuyến phiêu lưu không bản đồ hay là bàn, trong đó chỉ duy có sự cẩn trọng sẽ khiến ta lạc lối. – Romain GARY.
0.
Tiếng rì rầm xa xăm của radio hay ti vi. Một màn sương. Một màn sương dày đặc, đen đúa. Một cảm giác khó chịu, nhưng từ nay về sau đã trở nên quen thuộc: hai mi mắt sưng phồng như bị hàng cân chì trì níu. Cơn khó thở này. Và cả cơn mệt mỏi đè nặng đến ức gần như rã rời.
Tôi mở mắt. Tôi đang nằm dài trên sàn nhà bằng gỗ. Những thanh ván ốp sàn vẫn còn nồng mùi xi. Xung quanh tối om. Không khí nóng như thể máy sưởi đã được bật hết công suất trong nhiều giờ. Tôi đứng lên với cảm giác e sợ. Xương khớp kêu răng rắc khiến tôi có cảm giác xương cốt mình sắp gãy. Tôi dụi mắt, nhìn một lượt khắp xung quanh.
Tôi đang ở… trong một căn hộ chìm trng cảnh tranh tối tranh sáng. Một căn hộ áp mái lộn xộn giống với xưởng vẽ. Có những giá vẽ, những bức tranh trừu tượng, những bình xịt cùng những hũ màu vẽ rải khắp sàn, một chiếc pizza ăn dở trên mặt bàn thấp bằng gạch nén.
1.
Trên một tầng giá, chiếc radio báo thức kỹ thuật số chỉ 3 giờ sáng. Tôi lại gần vách kính chạy suốt chiều dài tường. Căn cứ vào độ cao, căn hộ hẳn là nằm ở tầng bốn hoặc tầng năm của tòa nhà. Đường phố bên dưới vẫn sáng rõ. Kiến trúc khu phố chủ yếu là những tòa nhà gạch xây kiểu tiền chiến và những cast-iron building thanh lịch với cầu thang bộ bố trí bên ngoài và cửa vòm trau chuốt. Nheo mắt lại, tôi thấy rõ nhiều gallery nghệ thuật trông thẳng ra phố. Một trong số đó mang biển hiệu dạ quang: số 18 phố Mercer. Vậy là tôi đang ở khu SoHo.
Trong phòng khách của căn xưởng có chiếc ti vi bật kênh CNN đang không ngừng tuôn hàng tràng tin tức. Tôi trông thấy chiếc điều khiển từ xa trên tràng kỷ. Sau khi đã nhìn quanh một lượt để chắc chắn không có ai trong phòng, tôi vớ lấy điều khiển để tăng âm lượng rồi tiến lại gần màn hình có dòng chữ Breaking news trên nền đỏ chạy ngang. Có thể thấy Nelson Mandela, vừa được bầu làm tổng thống Cộng hòa Nam Phi, đang tuyên thệ trước đám đông nghịt người tập trung tại Pretoria.
“Đã đến lúc băng bó các vết thương của chúng ta. Đã đến thời điểm lấp đầy hố sâu ngăn cách giữa chúng ta. Thời điểm xây dựng đang tới gần.”
Ngày tháng hiển thị rõ ràng phía dưới màn hình: ngày 10 tháng Năm năm 1994. Ký ức sau cùng của tôi là hồi tháng Chín năm 1993, vậy là lần này tôi đã nhảy vọt một bước dài ngót tám tháng trong dòng thời gian.
Trong khi tôi tắt vô tuyến, một âm thanh đều đặn khiến tôi ngoái đầu lại. Căng tai ra, tôi nhận ra tiếng nước ì oạp khe khẽ lồng thêm tiếng dòng nước không ngừng tuôn. Tôi tiến vào một hành lang mờ tối hẳn là dẫn từ phòng khách sang phòng tắm. Được đóng đinh vào cánh cửa đầu tiên xuất hiện, một tấm biển chất liệu men cổ ghi rõ ràng: Bath. Tôi đẩy cánh cửa đang mở hé và nhìn thấy bên trong…
2.
… cảnh tượng ghê rợn.
Một thứ ánh sáng ấm nóng và leo lét bao trùm căn phòng. Thứ ánh sáng phát ra từ hai chục ngọn nến đủ cỡ, bố trí rải rác khắp phòng tắm. Trên nền gạch lát ô vuông đen trắng, những giọt máu đỏ thẫm dẫn đường đến tận một bồn tắm kiểu cổ kê trên loạt chân bằng đồng hình móng đại bàng.
Hai chân run run, tôi lại gần bồn tắm đang tràn nước. Thân thể lõa lồ của một phụ nữ trẻ chìm ngập trong thứ nước màu đỏ nhạt. Bất động, mắt nhắm nghiền, đầu ngả vào gờ bồn bằng gang, hai cổ tay cô có vết rạch. Ngập trong nước đến tận hai lỗ mũi, mái tóc xõa che hết khuôn mặt, cô đang đuối nước.
Khốn nạn!
Thu chút sức tàn, tôi lôi cô gái ra khỏi bồn nước, đặt cô nằm dài trên sàn rồi lấy khăn tắm lau khô người cô.
Những ngón tay tôi lần trên động mạch cảnh để bắt mạch cho cô. Tôi cảm thấy nhịp đập hết sức yếu ớt: một thứ mạch tuôn đều cho thấy tình trạng mất máu nghiêm trọng.
Bình tĩnh nào Arthur.
Tim tôi đập dồn trong lồng ngực. Một trái tim cho hai cơ thể. Quỳ gối bên cạnh cô gái, tôi thử đánh giá nhanh tình trạng nhận thức của cô, thực hiện những động tác quen thuộc như vẫn thường làm mỗi ngày ở khoa cấp cứu. Tôi nói với cô, nhưng không nhận được câu trả lời nào khả dĩ hiểu được. Cô gái phản ứng theo cách được nỗi đau định hướng, nhưng tôi có kích động cô cũng vô ích, cô không mở mắt. Theo thang điểm hôn mê Glasgow: 8 hoặc 9, điều đó có nghĩa là đã mất ý thức ở mức độ nghiêm trọng rồi.
Động não đi nào!
Tôi nhìn quanh. Trên nền nhà lăn lóc một chai Jim Bean và một chai Four Roses. Gần thùng rác, tôi nhặt được hai lọ nhựa đựng thuốc. Tôi nheo mắt để đọc nhãn thuốc: Lunesta (thuốc ngủ) và Lorazepam (thuốc an thần).
Khốn kiếp…
Hai lọ thuốc đều rỗng cho thấy liều tiêu thụ phải rất lớn. Cô gái này không giả bộ tự tử. Trộn với lượng lớn rượu bourbon, hậu quả mà dạng chất này gây ra hết sức tàn khốc.
Tôi giơ hai cánh tay cô gái lên cao để hạn chế chảy máu. Cô thở rất chậm, huyết áp thấp, đồng tử dãn, chân tay bầm tím.
Tôi mất vài giây để điểm lại tình hình. Xuất huyết, thuốc ngủ, thuốc an thần, rượu mạnh: một thứ cocktail có sức công phá cực mạnh khiến tình trạng người sử dụng hết sức bấp bênh. Cô sắp chuyển sang giai đoạn suy hô hấp và ngừng tim.
Tôi đứng dậy, lao vào phòng khách để tìm điện thoại. Tôi bấm số 911 gọi xe cứu thương. Tôi tìm thấy hai mảnh khăn lau sạch trong tủ bếp và hai chiếc khăn quàng trong tủ quần áo, tôi dùng chúng để cầm máu bằng cách thắt chặt quanh cổ tay cô gái.
Thực hiện thao tác đó xong, tôi mới gạt đám tóc đang lòa xòa trên mặt cô gái rồi lần đầu tiên nhìn vào đó lâu hơn một chút.
Cô gái đó là Elizabeth Ames.
3.
Các nhân viên cứu thương hối hả quanh thân thể Lisa, tiến hành các bước theo trình tự kinh điển khi tiếp nhận một ca tự tử loại này: đặt đường tĩnh mạch vào nếp gấp ở mỗi khuỷu tay, luồn ống vào khí quản với thông khí phụ trợ, đặt máy sốc điện, điện tâm đồ, tiêm flumazenil.
Tôi có thể dự đoán tất cả những động tác của họ, đoán biết tất cả những quyết định họ đưa ra. Tôi nóng lòng muốn giúp họ, nhưng tôi không có quyền làm vậy; vả lại mấy người đó cũng thạo việc chẳng kém gì tôi. Trong phòng ngủ, tôi tìm thấy một chiếc váy dài, đôi giày cao gót và một chiếc ví chất liệu giả da đựng giấy tờ tùy thân mang tên Elizabeth, một chìa khóa căn hộ, hai tờ 20 đô và một thẻ thanh toán. Tôi cầm chìa khóa và tiền mặt rồi chuyển lại chiếc ví cho một trong những nhân viên cứu thương để bệnh viện có thể biết tên bệnh nhân.
- Chúng ta phải đi mau thôi! người này hét lên. Xuất huyết nặng quá rồi.
Họ khiêng Lisa lên cáng rồi rời khỏi căn hộ. Tôi theo họ xuống dưới phố.
- Các anh đưa cô ấy đi đâu vậy?
- Bệnh viện Bellevue, y tá nam trả lời rồi đóng sập cửa xe cứu thương lại.
Tôi nhìn chiếc xe đi xa dần, đứng cạnh tôi là một bà hàng xóm cùng tầng, bà cụ rời khỏi nhà vì nghe tiếng ồn ào trong hành lang.
- Căn hộ này là của ai hả bà? tôi hỏi vậy, dù đã đoán ra câu trả lời.
- Người thuê là họa sĩ David Fawlkes nhưng cách đây vài ngày anh ta chết vì sốc thuốc rồi. Tội nghiệp con bé…
Lục lọi trong túi, tôi tìm thấy điếu thuốc bạc hà cuối cùng còn sót lại cùng chiếc bật lửa “I LOVE NY”.
- Bà biết rõ Lisa sao? tôi vừa hỏi vừa châm thuốc.
- Chúng tôi gặp nhau thường xuyên mà. Phải nói là con bé lúc nào cũng bị hành hạ ở nhà gã đó. Con bé dễ thương đến thế, lúc nào cũng thưa gửi đàng hoàng… Nếu cậu muốn biết ý kiến của tôi thì gã đó không xứng đáng để người ta vì gã mà muốn quyên sinh đâu.
Bà cụ vừa rời đi vừa tiếp tục nói một mình.
- Khổ thân con bé, giá như muốn giã từ cuộc sống ở tuổi của con bé không phải điều oan trái!
Tôi vẫy chiếc taxi đầu tiên đi ngang phố. Trong khi chiếc xe dừng cạnh chỗ tôi đang đứng, tôi vẫn quan sát bà cụ đang vừa rùng mình vừa siết chặc chiếc áo choàng ngủ lại.
- Mình thì sẵn sàng làm bất cứ điều gì để sống được thêm vài năm nữa…
4.
5 giờ sáng
Ngay khi tôi đẩy cánh cửa vào căn hộ của Lisa thì chú mèo vằn tên Remington đã chào mừng tôi như một vị cứu tinh. Tôi vừa đặt một chân vào hành lang thì chú ta đã cọ mình vào chân tôi rồi phát ra những tiếng meo meo tuyệt vọng.
- Mày khỏe chứ? tôi vừa hỏi vừa gãi gãi lên đỉnh đầu chú ta.
Tôi tìm thấy một gói thức ăn cho mèo trong ngăn tủ bếp. Tôi bèn dốc ra cho Remington một bát to cùng một đĩa nước mát. Tôi thèm cà phê lắm nhưng chiếc hộp kim loại vốn dùng để đựng cà phê đã rỗng, còn chai sữa duy nhất sót lại trong tủ lạnh đã quá hạn.
Trên mặt quầy có một tập báo cũ. Các số báo USA Today ra mấy hôm trước. Dù có việc khác cần làm nhưng tôi không cưỡng lại được nỗi tò mò. Những tuần vừa qua thật lắm sự kiện chết chóc tang thương: ngày 5 tháng Tư, Kurt Cobain tự sát; ngày 1 tháng Năm, Ayrton Senna qua đời do tai nạn. Trên bàn quầy bar là một số tạp chí Newsweek có bìa là bức ảnh đen trắng chụp chàng ca sĩ của nhóm Nirvana, vắt ngang là một dòng tít được đặt dưới dạng câu hỏi:
Suicide: why do people kill themselves?
Tôi đặt tờ tạp chí xuống rồi bắt tay vào tìm kiếm đúng như dự định. Câu trả lời cho câu hỏi: ông Sullivan đang ở đâu? Tôi dạo khắp lượt hai phòng với hy vọng tìm ra chút manh mối. Chuyện gì đã xảy ra tám tháng trước khi Elizabeth giải cứu được ông nội tôi? Cô nàng đã dẫn ông tôi đi đâu? Họ vẫn giữ liên lạc với nhau chứ? Tôi nghi ngờ chuyện ấy lắm. Ông Sullivan làm gì có tiền, làm gì có chỗ ngủ qua đêm, làm gì có giấy tờ tùy thân và theo tôi được biết, ông cũng chẳng có bạn bè mà nhờ vả. Khách quan mà nói, hoàn toàn có khả năng ông đã bị đưa về Blackwell. Thậm chí có lẽ ông đã mất rồi cũng nên. Tôi gạt suy nghĩ này ra khỏi tâm trí, muốn bám giữ lấy hình ảnh sau cùng tôi có được về ông: người đàn ông có ánh mắt ranh mãnh và tâm trí đủ linh hoạt để xây dựng một kế hoạch đào tẩu hiệu quả hòng tìm lại tự do.
Tôi đi từ phòng này sang phòng khác; trong căn hộ này không có chút dấu vết nào của ông nội tôi. Tôi đã toan rời khỏi thì Remington luồn qua hai chân tôi để về phòng ngủ. Trong lúc tìm cách tránh chú mèo, tôi vấp chân vào thảm và ngã sõng soài ra sàn.
Vụng không để đâu cho hết…
Để đứng lên, tôi vịn vào chiếc tủ com mốt và chính vào lúc ấy tôi trông thấy nó: một viên đá màu chạm nổi treo ở đầu sợi dây chuyền bằng bạc, sợi dây chuyền móc lên mấu kim loại của chiếc đèn bàn xếp cũ kỹ. Lần gần đây nhất tôi ghé qua đây thì món đồ trang sức này còn chưa ở đó. Tôi cầm viên đá trên tay, quan sát mà như bị mê hoặc trước những nét chạm trổ nổi tinh tế thể hiện gương mặt một phụ nữ trẻ có đường nét thanh tú, mặt nhìn nghiêng ánh xà cừ nổi bật trên nền xanh lơ của đá mã não. Tôi lật phần mặt dây; một dòng văn khắc trên đó bằng kiểu chữ bóng mờ:
Tặng Yvonne
Hãy nhớ rằng chúng ta có hai cuộc đời
Connor, 12 tháng Giêng 1901
Tim tôi đập liên hồi kỳ trận: Connor và Yvonne là tên của hai cụ tôi. Làm cách nào Elizabeth có thể kiếm được món đồ trang sức này? Câu trả lời hiện ra như một lẽ hiển nhiên:
Bởi vì ông Sullivan đã tặng sợi dây chuyền cho cô gái.
Quá đỗi phấn khích, tôi mở hết các ngăn kéo, cả tủ đứng lẫn tủ tường. Giờ thì tôi đã biết thứ mình đang tìm kiếm: túi xách của Elizabeth. Trong căn hộ áp mái của tay họa sĩ, tôi chỉ thấy chiếc túi nhỏ người ta hay xách theo khi dự tiệc tối. Không phải loại túi xách lớn mà một vài phụ nữ vẫn thường dùng hàng ngày để khệ nệ xách theo nửa căn hộ của mình. Chẳng mấy chốc tôi đã tìm được chiếc túi bigsize chất liệu da sần bên trong đựng một hộp phấn, một túi đồ trang điểm, một chùm chìa khóa, một chiếc lược bàn, một cặp kính, một hộp kẹo cao su, một chiếc bút bi, vài viên aspirin, một cuốn sổ lịch và… một sổ danh bạ điện thoại.
Tôi lướt nhanh cuốn sổ mà tim đập dồn. Chữ cái C không có gì, nhưng đến chữ cái S, cái tên “Sullivan” được viết nắn nót, tiếp theo là một số điện thoại bắt đầu bằng đầu số 212 cho thấy đó là số điện thoại được lắp đặt tại New York.
Tôi lấy bút chép số điện thoại lên cẳng tay rồi lao sang bếp, nhấc ống nghe từ đế máy gắn trên tường rồi bấm dãy số. Tín hiệu quay số, rồi khoảng chục hồi chuông vang lên không ai nhấc máy và thậm chí tôi còn không thể để lại một tin nhắn trên hộp thư thoại.
Khỉ thật!
Trong bầu không khí tĩnh mịch buổi sáng sớm, tôi nhìn đăm đắm những vạch kỹ thuật số màu lục nhạt của lò vi sóng hiển thị 5g34.
Bỗng đâu vang lên tiếng chuông điện thoại khiến tôi giật nảy mình.
- A lô, tôi nhấc máy rồi lên tiếng.
- Chức năng gọi lại tự động này tiện thật.
- Khỉ thật! Ông Sullivan đấy phải không?
- Cậu đã quay trở lại rồi hả anh bạn? Đây đúng là một tin tốt lành kỳ lạ! Ta không hề mong cậu có thể quay lại trước mùa hè năm nay!
- Chết tiệt thật, ông đang ở đâu vậy?
- Cậu muốn ta ở đâu nào? Tất nhiên là ở nhà ta chứ còn ở đâu nữa!
5.
Chiếc taxi thả tôi xuống địa chỉ mà ông nội đã đọc cho: một ngõ phố với mặt đường lát đá nằm sau công viên quảng trường Whashington. Vít chặt trên cánh cổng chính bảo vệ lối vào con ngõ cụt là một tấm biển bằng đồng ghi rõ xưa kia ngõ MaxDougal có những chuồng ngựa và dãy nhà phụ của các biệt thự tư sản nằm ven công viên.
Bình minh đang hé rạng. Một làn sương mù bảng lảng đang lững lờ trôi trên các phiến đá lát đường: những dải hơi nước uốn lượn quanh chân các cột đèn đường cũ kỹ. Tôi đẩy cánh cổng rồi tiến bước đến tận ngôi nhà nhỏ hai tầng với mặt tiền gỉ sét màu đất son. Tôi dùng vòng gõ cửa bằng đồng thau trang trí mặt sư tử đang gầm thét để gõ cửa.
- Chào con trai, ông Sullivan chào đón tôi sau khi thò mặt qua khe cửa mở hé.
Trong lúc ông mở toang cửa ra, tôi quan sát ông từ đầu đến chân. Ngoại hình của ông đã thay đổi thật ngoạn mục. Kiểu tóc của ông gọn gàng và trau chuốt: tóc rẽ sang bên, dài hơn và được tạo dáng cân đối trên đỉnh đầu. Bộ râu của ông ngắn hơn, được cắt tỉa gọn gàng. Dù lúc này hãy còn sớm tinh mơ, ông đã mặc chiếc áo pull cổ lọ và khoác áo vest nhung kẻ nom rất thanh lịch. Tôi sững sờ như bị thôi miên: lão già uể oải ở bệnh viện Blackwell đã nhường chỗ cho một gentleman farmer trông trẻ hơn tuổi thực đến mười tuổi.
- Người cậu bê bết máu kìa! ông lo lắng thốt lên.
- Ông yên tâm đi, không phải máu của cháu đâu.
- Thôi nào, vào nhanh đi kẻo ông cháu ta lạnh cóng mất thôi!
Tôi ngập ngừng theo ông vào tận phòng khách sang trọng và ấm cúng giống như bên trong một quán rượu kiểu Anh với sàn nhà màu mật ong, tràng kỷ Chesterfield khâu chần múi cùng bàn bi-a.
Cuối phòng là chiếc gương lớn nhô cao trên quầy bar gỗ gụ nơi có dãy ly cốc bằng pha lê dày và khoảng chục chai whisky đủ loại xếp ngay hàng thẳng lối. Chiếm trọn cả mảng tường là một giá để sách gáy da và chiếc tủ buýp phê bằng gỗ khảm ngà trên đó để một máy hát chạy điện cùng những đĩa nhạc jazz cổ loại 33 vòng. Tôi nhận ra những nhạc sĩ bản thân mình cũng yêu thích: Thelonious Monk, John Cooltrane, Mile Davis, Frank Morgan…
- Lại gần lò sưởi đi, ông Sullivan vừa mời vừa xoa tay trước lò sưởi, bên trong lò đang tí tách một ngọn lửa sáng đượm. Hôm nay cậu tỉnh lại lúc mấy giờ?
- Ba giờ sáng.
- Lần này là ở đâu vậy?
- Trong một căn hộ áp mái thuộc khu SoHo.
Tôi kể vắn tắt cho ông nghe về ý định tự tử của Lisa và nỗ lực của tôi nhằm cứu mạng cô gái. Ông có vẻ xúc động sâu sắc khi nghe chuyện. Trong vài giây, gương mặt ông lộ vẻ ủ rũ, ánh mắt vơ vẩn mông lung, rồi ông tìm kiếm niềm an ủi bằng cách lôi từ túi áo vest ra một bao Lucky Strike – cả đời Frank chỉ hút loại thuốc đó và ông có chết sớm thì nó tuyệt đối không vô can. Ông mời tôi một điếu rồi tự châm cho mình một điếu.
- Ta dám chắc là con bé sẽ bình an vô sự thôi, ông khẳng định trong lúc ngồi lên chiếc ghế bành bằng da vàng nâu. Cậu muốn tắm qua không?
- Khoan đã, ông Sullivan, chúng ta đang ở đâu thế này?
- Ta đã nói với cậu rồi còn gì: ở nhà ta.
- Cháu khó mà tin được lời ông. Cháu còn chẳng thấy ông có cách nào mà có thể mua hay thuê được một căn hộ: ông là bệnh nhân tâm thần, điều đó có nghĩa là ông không có tiền mặt, không có tài khoản ngân hàng, không có giấy tờ tùy thân…
- Ấy vậy mà hai ta vẫn đang ở nhà của ta, ông vặn lại kèm theo ánh mắt ranh mãnh. Ta đã mua căn hộ này năm 1954. Đây là chốn riêng tư của ta, khu vườn bí mật của ta. Nơi ta vẫn thích đến ngoài giờ làm việc để nghe nhạc, nghỉ ngơi, uống một ly…
- “Hẹn hò các nhân tình sao cho vợ ta không hề hay biết”, tôi nói nốt câu.
Tôi nhác thấy nụ cười của ông qua làn khói thuốc.
- Đúng vậy, cả mục đích đó nữa, ta đồng ý với cậu. Tóm lại , để giữ bí mật về nơi này, ta đã trả tiền mua nhà thông qua một hệ thống đứng tên thay và nhận nợ dài hạn rất phức tạp. Nói trắng ra thì chính ta là người xuất vốn, nhưng bạn hùn vốn của ta thời đó, Ray McMillan mới là chủ nhân chính thức của món bất động sản này.
- Và người đó đã trả lại ngôi nhà này cho ông hồi năm ngoái sau khi ông trốn thoát khỏi bệnh viện.
- Cậu nắm bắt nhanh đấy, cậu nhóc.
Giờ thì tôi đã hiểu rõ hơn. Giữa những năm 1950, khi ông Sullivan bị tuyên bố là qua đời, người ta tiến hành thanh lý món gia tài ông để lại, nhưng căn hộ ở New York này không nằm trong số di sản của ông, nó đã lọt lưới.
- Và cụ thể thì ông làm cách nào để có tiền sinh sống qua ngày?
Dự đoán được câu hỏi của tôi, ông đã rời khỏi ghế bành tự lúc nào. Đứng trước giá sách, như một ảo thuật gia, ông xoay tấm gỗ để lộ ra một két sắt. Ông quay số mở chiếc tủ bằng thép: bên trong có ba thỏi vàng kích cỡ trung bình đang sáng lấp lánh.
- Ta có đưa ra cho cậu bao nhiêu lời khuyên chăng nữa thì lời khuyên này vẫn là quý báu nhất, nhóc ạ: dù có gặp phải chuyện gì, lúc nào cũng phải giữ lại chút đỉnh phòng thân. Ngừa trước những đòn oan nghiệt mà cuộc đời này sẽ không bỏ lỡ dịp giáng xuống cậu.
Mắt tôi như bị hút vào ba thỏi vàng, không sao cưỡng lại được. Rốt cuộc tôi cũng cất lời được:
- Nhưng toàn bộ số vàng này ở đâu ra ạ?
Ánh mắt ông nội tôi lại trở nên lanh lợi.
- Đầu những năm 1950, vì những lý do liên quan đến thuế má, một trong những khách hàng lớn nhất của ta đã hình thành thói quen thanh toán bằng những thỏi vàng được thừa kế từ người mẹ quá cố. Bằng cách đó ta đã thu được bốn thỏi và cất tạm ở đây. Năm ngoái ta đã bán lại một thỏi. Sinh hoạt phí tăng chóng mặt nhỉ?
Tôi không buồn trả lời câu hỏi ông đặt ra.
- Vậy là ông đã sống ở đây suốt tám tháng qua?
- Rõ là thế.
- Và ông làm gì cho hết ngày?
Ông di nát đầu mẩu thuốc trong chiếc gạt tàn bằng thủy tinh đúc khuôn.
- Chờ cậu đấy chứ còn gì.
- Chờ cháu ư, làm sao có thể như thế chứ?
Ông nhìn tôi không chớp mắt rồi cất giọng trầm khàn:
- Ta biết cậu đang thắc mắc rằng bản thân mình đang gặp phải chuyện gì. Và ta biết cậu đang khiếp sợ. Vậy thì đây, ta có một tin xấu dành cho cậu: sự thật còn khủng khiếp và tệ hại hơn nhiều so với tất cả những gì cậu có thể hình dung.
Tôi nhìn ông vẻ thách thức:
- Vậy sự thật ấy là thế nào ạ?
- Đó là một câu chuyện phức tạp và khó mà chấp nhận nổi. Ta sẽ kể cho cậu nghe, dĩ nhiên, nhưng trước tiên, cứ lên gác tắm qua rồi mặc quần áo mới vào cái đã.
-Và cháu sẽ tìm thấy những thứ quần áo kia ở đâu?
- Trên gác. Có hai phòng ngủ. Phòng đầu tiên là của ta. Phòng thứ hai, cứ coi là của cậu đi. Cậu sẽ tìm thấy tất cả những đồ thiết yếu trong tủ treo. Vì không chắc về kích cỡ nên ta đã mua mỗi thứ liền hai cỡ.
Thấy vẻ ngạc nhiên của tôi, ông nói thêm bằng giọng mãn nguyện:
- Ta đã nói với cậu rồi: ta chờ cậu đã hàng tháng nay, nhóc ạ.
|
|