|
Chương 5: Sullivan (1)
1993
Nên biết rằng tôi có thể tin vào mọi chuyện, miễn sao chúng hoàn toàn không thể tin nổi.
- Oscar WILDE
0.
Một màn mưa như trút nước nóng giãy chụp lên tôi.
Với cường độ giống như người ta đang đóng đinh vào sọ tôi. Không khí tràn ngập một thứ hơi nóng xích đạo mê mụ quay cuồng quanh tôi khiến hai mí mắt tôi nhíu lại. Mũi tôi bị bít chặt, tôi ngạt thở. Tôi đang đứng, nhưng gần như miễn cưỡng, trong một trạng thái giống như bị thôi miên. Đôi chân tôi run lẩy bẩy và chẳng bao lâu nữa sẽ khuỵu xuống. Bỗng một tiếng thét kinh khiếp xé rách màng nhĩ tôi.
Tôi giật mình mở choàng mắt. Tôi đang ở… trong một cabin tắm dưới một luồng nước mạnh!
1.
Đứng bên cạnh tôi, một cô gái khỏa thân, xà phòng và dầu gội phủ kín từ đầu đến chân, đang hét đến sái quai hàm. Nét mặt biến dạng của cô ta đông cứng lại do kinh ngạc và khiếp hãi. Tôi đặt tay lên vai cô ta, một cử chỉ hòng làm đối phương yên lòng, nhưng trước khi tôi kịp mở miệng giải thích bất cứ điều gì, cô ta đã tống vào mũi tôi một cú đấm trời giáng. Tôi lảo đảo đưa tay lên che mặt. Trong khi tôi cố lấy lại hơi, cú đấm thứ hai trúng ngay giữa ngực khiến tôi vấp ngã đập vào gờ cabin tắm ốp sành. Tôi cố túm lấy rèm cabin tắm nhưng mặt sàn trơn trượt khiến tôi ngã đập đầu vào bồn rửa.
Hoảng loạn, người phụ nữ trẻ ra khỏi cabin, vớ đại một chiếc khăn rồi lao ra khỏi phòng tắm.
Lả đi trên sàn, tôi nghe loáng thoáng thấy cô ta đang khua động hàng xóm. Lời lẽ vẳng đến tôi méo mó, mơ hồ, tuy thế tôi vẫn nghe thấy “hiếp dâm”… “trong phòng tắm nhà tôi”… “gọi cảnh sát”…
Vẫn gập người, choáng váng, bất động, tôi cố lau nước đang chảy ngoằn ngoèo trên hai mí mắt. Mũi có máu, tôi hụt hơi như thể vừa chạy ma ra tông.
Não tôi ra lệnh cho cơ thể đứng dậy, nhưng tứ chi tôi tê liệt. Thế nhưng tôi vẫn biết mình đang gặp nguy lớn. Tôi đã rút ra bài học từ vụ thánh đường Saint-Patrick. Bằng mọi giá tôi phải tránh bị ngồi tù. Tôi gom hết sức lực, cuối cùng cũng khó nhọc đứng dậy được, nhìn quanh phòng tắm rồi lại gần một khung cửa kính. Tôi nhấc cánh cửa sập lên: nó trông ra một lối đi riêng nằm kẹt giữa hai tòa nhà. Nhoài người ra, tôi nhìn thấy đằng xa một đại lộ bốn làn rộng rãi, thẳng nhưng hơi dốc.
Những chiếc taxi màu vàng tươi, cả dây mặt tiền bằng gạch nâu và gang, những bể chứa đặt trên nóc nhà: không còn nghi ngờ gì nữa, tôi lại đang có mặt tại New York.
Nhưng ở đâu?
Và nhất là… vào thời điểm nào?
Trong khi những giọng nói đã trở nên gấp gáp hơn trong căn hộ, tôi thò chân qua khung cửa sổ rồi bám lấy cầu thang thoát hiểm bằng kim loại. Tôi lao kiểu được chăng hay chớ qua mấy bậc thang xuống tới phố, chọn đại một hướng rồi huy động các cơ bắp để chuồn đi nhanh hết mức. Ánh mắt tôi đeo dính vào hai tấm biển xanh lục và trắng đang chồng lên nhau nơi góc phố: tôi đang ở ngã tư đại lộ Amsterdam giao phố 109. Vậy là ở mạn Tây Bắc Manhattan, trong khu phố sinh viên Morningside Heights. Tôi nghe thấy tiếng còi hụ của xe cảnh sát đang tiến lại gần. Hoảng hốt, tôi rẽ trái gấp để rời đại lộ, lánh sang một đường nhánh chật hẹp hai bên là các bụi cây lúp xúp.
Kẹt giữa hai tòa nhà, tôi đi men sát tường để ẩn náu và lấy lại sức. Tôi xì mũi thì thấy máu dây ra tay áo. Bộ đồ tôi đang mặc ướt sũng. Rõ ràng tôi vẫn đang mặc nguyên bộ quần áo từ khi chia tay Jeffrey Wexler. Tôi máy móc đưa mắt nhìn xuống cổ tay. Tôi vẫn đeo chiếc đồng hồ của ông nội, chiếc Tank vô cùng sang trọng chỉ hơn 9 giờ sáng một chút.
Nhưng là ngày nào?
Tôi cố gắng tập trung suy nghĩ. Ký ức sau cùng của tôi: buồng thang máy dẫn lên căn hộ riêng, hai túi đồ ăn rơi xuống sàn, cơn co giật dữ dội giống hệt lần đầu tiên tôi gặp phải trong căn hầm của ngọn hải đăng.
Tôi hắt hơi. Không khí êm dịu, bầu trời xanh, nắng đã ấm áp. Thế mà răng tôi vẫn va lập cập.
Mình phải thay quần áo.
Tôi ngước mắt nhìn lên: trên các cửa sổ có treo quần áo. Dĩ nhiên không phải là những thứ quần áo đúng như tôi mong ước, nhưng giờ thực sự không phải là lúc để tôi làm cao. Tôi nhảy lên một thùng chứa rác rồi leo trên mặt tiền nhà cho đến khi với được những thứ quần áo kia. Tôi giật bừa những thứ mình quờ được rồi mặt vào: quần vải, áo phông kẻ sọc, áo khoác jean. Chẳng thứ nào vừa vặn với tôi - ống quần xoắn lại trên mắt cá chân, áo khoác jean quá chật -, nhưng ít ra thì tôi cũng được khô ráo. Tôi lấy lại đống tiền chẵn tiền lẻ trong túi rồi quăng mớ quần áo ướt vào thùng rác.
Tôi quay ra đại lộ rồi lẩn vào đám đông. Một lần nữa tôi lại thấy chóng mặt, rồi dạ dày quặn lên khiến đầu tôi đau nhói. Nếu muốn suy nghĩ được nên hồ, tôi cần phải ăn thứ gì đó. Tôi đã nhìn thấy một tiệm diner ở đầu kia phố.
Nhưng trước khi bước vào nhà hàng, tôi nhét hai đồng 25 cent vào máy bán hàng tự động. Tôi nhìn ngày tháng ghi trên măng sét báo rồi đột nhiên kinh sợ vì điều vừa phát hiện.
Đang là thứ Ba ngày 14 tháng Chín 1993…
2.
- Trứng, bánh mì và cà phê của anh đây.
Cô gái phục vụ bàn đặt tách cà phê cùng đĩa đồ ăn lên mặt bàn foóc mi ca rồi ban cho tội nụ cười duyên trước khi trở lại đứng sau quầy. Vừa ngốn ngấu bữa sáng, tôi vừa chăm chú đọc trang nhất tờ The New York Times.
Yitzhak Rabin và Yasser Arafat ký kết thỏa thuận hòa bình.
Tổng thống Clinton tán tưởng “một sự đánh cược can đảm”.
Bài báo được minh họa bằng một bức ảnh vừa bất ngờ vừa gây ấn tượng mạnh: Bill Clinton tươi cười đứng trước Nhà Trắng, hai cánh tay dang rộng, cụng tay chúc mừng với bên phải là Thủ tướng Israel và bên trái là thủ lĩnh của Tổ chức giải phóng Palestine.
Cử chỉ mang tính biểu trưng này cùng những tuyên bố của các bên tham gia hé mở hy vọng về một nền hòa bình sắp tới giữa hai dân tộc thù nghịch. Nhưng tôi đang ở thực tại hay trong chiều không gian thứ tư thế này?
Tôi tổng kết tình hình. Lần này, mười bốn tháng đã trôi qua kể từ những ký ức mới nhất của tôi. Một cú nhảy mới trong dòng thời gian, đột ngột và không tài nào lý giải nổi. Một dấu ngoặc đơn quá sức dài.
Mẹ kiếp, nhưng mình đang gặp phải chuyện gì thế này?
Tôi cảm thấy hai tay mình run lên. Tôi sợ. Tôi khiếp đảm như thằng nhóc tin chắc rằng có con quái vật nấp dưới gầm giường mình. Tôi biết mình đang gặp phải chuyện gì đó nghiêm trọng khiến cuộc sống đảo lộn hoàn toàn.
Tôi hít thở sâu để trấn tĩnh lại, giống như đôi khi vẫn khuyên các bệnh nhân của mình. Tôi phải đối mặt, không được để mình bị hạ gục. Nhưng tôi đang chống lại ai đây? Biết phải nhờ ai giúp đây?
Không phải chờ lâu câu trả lời đã xuất hiện: nhất định không nên nhờ bố tôi bởi ông vốn chỉ biết nói dối như cuội. Một nhân vật khác hiện lên trong tâm trí tôi: người duy nhất có lẽ cũng từng chịu đựng những gì đang xảy ra với tôi và vẫn còn sống: Sullivan Costello, ông nội tôi.
Cô gái phục vụ dạo một vòng quanh các bàn để đảm bảo không tách cà phê nào cạn. Tôi tranh thủ khi cô gái đi qua để nhờ cô ta kiếm cho một tấm bản đồ thành phố rồi hứa sẽ boa một khoản hậu hĩnh.
Tôi vừa nhấp vài ngụm cà phê còn nóng vừa nghĩ đến những gì bố nói với tôi: Ông nội cho chưa hết. Sullivan hiện đang ở New York. Ông bị nhốt trong một bệnh viện tâm thần nằm trên đảo Roosevelt.
Trên tấm bản đồ cô phục vụ bàn vừa mang tới, tôi nhìn thấy thẻo đất nhỏ nằm giữa sông Đông: đảo Roosevelt là một hòn đảo như không có thực kẹt giữa Manhattan và khu Queens. Ba cây số chiều dài với khoảng hai trăm mét chiều rộng nơi tôi chưa từng đặt chân tới. Tôi còn nhớ đã từng đọc một cuốn truyện trinh thám cũ có nhắc tới sự hiện diện của một nhà thương điên trên đảo, nhưng nó hẳn đã đóng cửa từ lâu rồi. Hoặc có lẽ là không. Vì trong kỳ nội trú y khoa, tôi biết láng máng là có vài ba trung tâm khám chữa bệnh vẫn còn hoạt động trên đảo, trong đó có một bệnh viện tâm thần tai tiếng: bệnh viện Blackwell, mà mọi người đặt cho biệt danh là Lầu năm góc vì hình dạng tòa nhà trụ sở có năm mặt tiền. Hẳn là ông Sullivan đang bị nhốt ở đó.
Viễn cảnh gặp lại ông nội không chỉ đem lại cho tôi một mục đích mà còn tiếp thêm chút can đảm nữa. Tôi phải tới đó ngay. Nhưng người ta có cho tôi vào bên trong không? Có, thoạt tiên, nếu tôi có thể chứng minh mình là một trong những hậu duệ trực hệ của ông.
Bỗng nhiên, một nỗi nghi hoặc thoáng qua trong tâm trí tôi.
Ví của tôi!
Ban nãy khi dốc các túi ra, đúng là tôi đã lấy lại tiền mặt, nhưng quên khuấy mất chiếc ví đựng giấy tờ tùy thân.
Hoảng hốt, tôi thanh toán hóa đơn rồi quay đầu chạy về đường nhánh. Thùng rác vẫn ở nguyên đó. Tôi tìm thấy đủ cả áo vest lẫn quần rồi lục lọi kỹ càng.
Không có gì…
Khỉ thật!
Nếu có chút logic nào đó trong tình huống hoàn toàn phi lý mà tôi đang gặp phải thì ví tôi hẳn phải ở trong bộ quần áo này. Tôi không muốn tin là nó đã bị móc mất: trong trường hợp đó thì tên kẻ cắp phải ưu tiên tiền mặt mà tui để trong các túi chứ.
Hẳn là mình đã đánh mất…
Tôi tiến vài bước để ra tới đại lộ Amsterdam. Trí óc tôi tiếp tục hoạt động hết công suất.
Hẳn là ban nãy mình đã làm rơi trong phòng tắm…
Những bước chân dẫn tôi về phía tòa nhà nơi một giờ trước tôi vừa tìm cách rời khỏi. Nơi này tĩnh lặng gần như hoang vắng. Không chút dấu vết của cảnh sát hay bất kỳ sự náo động nào. Tôi đi vòng quanh tòa nhà, quyết tâm ép buộc vận may của bản thân. Cầu thang thoát hiểm đã được rút lên, nhưng tôi vẫn với tới bằng cách trèo lên một vạt tường thấp. Tôi leo thang thoát hiểm lên tận cửa sổ tầng bốn. Những mảnh thủy tinh vỡ đã được quét gọn và giờ chỉ có một mảnh bìa các tông vuông vắn dán băng dính chẳng chịu bịt ô cửa sổ vỡ kính. Tôi dễ dàng gỡ được mảnh bìa ra, nâng khung cửa lên rồi chui vào phòng tắm.
Không một tiếng động. Không ban bệ tiếp đón. Cô gái đã vội vàng quơ chổi lau nhà vài nhát để những vệt màu nước biến mất. Tôi rón rén bước trên nền nhà lát gạch vuông. Thoạt nhìn thì không thấy tăm hơi ví của tôi đâu. Thất vọng, tôi ngồi xổm xuống, nhìn vào gầm chiếc tủ com mốt lung lay, rồi gầm chiếc rủ đứng bằng gỗ trắng trên các ngăn giá chất đầy thuốc, mỹ phẩm, máy sấy tóc, túi đồ vệ sinh cá nhân.
Và ở đó, trong đám bụi, tôi nhận ra chiếc ví da rạn của mình, hẳn nó đã rơi khỏi túi khi tôi ngã sõng soài gần bồn rửa.
Tôi thò tay với lấy chiếc ví, kiểm tra xem giấy tờ tùy thân còn bên trong không rồi lần đầu tiên kể từ bấy lâu nay, tôi buông một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Khôn ngoan ra thì tôi nên rời khỏi căn hộ ngay, nhưng ngất ngây với chiến thắng nho nhỏ này và bắt đầu tự tin vì thấy trong nhà vẫn im ắng, tôi bèn mạo hiểm bước ra khỏi phòng tắm.
3.
Căn hộ không một bóng người.
Đó là một căn hộ nhỏ lộn xộn, nhưng bài trí cẩn thận. Trên quầy bar của khu bếp tin hin có gói ngũ cốc đã bóc cùng chai sữa chua uống mà nữ chủ nhân căn hộ đã quên không cất vào đúng chỗ trước khi vội vã rời khỏi nhà.
Tôi nhai vài hạt lúa mì rang rồi cất gói ngũ cốc lên giá, cất chai sữa vào trong tủ lạnh. Có điều gì đó giữ chân tôi lại nơi đây: khát khao muốn hiểu tại sao tôi lại tỉnh lại trong chính căn hộ này.
Tôi lục lọi phòng khách. Hai giá nhỏ chất đầy sách. Xếp thành nhiều chồng gần đầu video là hàng chục đĩa VHS: các tập phim Seinfeld và Twin Peaks, những chồng phim thể hiện quan điểm nghệ thuật của đạo diễn: Parix, Texas của Wim Wenders, Tình dục, những lời dối trá và video của Steven Soderbergh, Mean Streets của Martin Scorsese, Một ngày đặc biệt của Ettore Scola, Thang máy lên đoạn đầu đài của Louis Malle, cũng có cả Căn tiệm nhỏ kinh hoàng và phần lớn các phim có Meryl Streep thủ vai: Lựa chọn của Sophie, Người tình của viên trung úy Pháp, Out of Afica…
Trên tường là tranh chép các tác phẩm trứ danh của Andy Warhol, Keith Haring và Jean-Michel Basquiat.
Trên chiếc bàn chấp có một bao thuốc bạc hà và chiếc bật lửa “I LOVE NY”. Tôi ngồi xuống tràng kỷ khiến lò xo kêu kẽo kẹt rồi châm một điếu thuốc. Vừa nhả bụm khói đầu tiên, tôi vừa hồi tưởng lại gương mặt cô gái ban nãy gào thét dưới vòi sen. Nỗi kinh hoàng đọc được trên gương mặt đó khiến tôi không còn nghi ngờ gì nữa: cô ta sợ vì quá đỗi bất ngờ. Rõ ràng là chúng tôi không quen biết nhau. Tôi hẳn đã bất thần xuất hiện trong phòng tắm nhà cô ta như một dạng bác sĩ Who đồi bại.
Tiếng meo meo khiến tôi ngoái lại nhìn. Một con mèo vằn với đôi mắt tròn xoe và bộ lông màu hung sẫm vừa nhảy lên tay ghế. Tôi nheo mắt nhìn kỹ tấm mề đay khác tên đeo quanh cổ chú mèo. “Remington”.
- Chào chú mày.
Ngay khi tôi thử vuốt ve, chú ta liền nhảy phốc sang bên cạnh rồi biến mất cũng nhanh như lúc xuất hiện.
Tôi đứng dậy để khám phá căn phòng cuối cùng của căn hộ. Một căn phòng sàn gỗ mộc, chồng chất những thứ đồ chắp vá: một chiếc giường sắt rèn cũ kỹ, một bản viết hiện đại màu đen sơn bóng, một chùm đèn pha lê có từ thế kỷ trước. Trên mặt bàn đầu giường là đống tạp chí Playbill về những vở nhạc kịch mới ra mắt (chiếc mặt nạ và bông hồng của vở Bóng ma nhà hát, đôi mắt mèo của Cats, đội ngũ chỉnh tề của Chorus Line…), nhiều cuốn tiểu thuyết với các trang quăn góc (Một lời cầu nguyện cho Owen, Beloves, Rafael, những ngày cuối cùng).
Trên tường có dán bằng băng dính những bức ảnh chụp cô gái tôi không quen biết trong nhiều kiểu trang phục khác nhau từ váy dạ hội đến những bộ đồ lót hết sức tiết kiệm vải. Bao nhiêu tấm ảnh màu hoặc đen trắng là chừng ấy kiểu tóc khác nhau: buông xõa, búi xoắn, đuôi ngựa, bob xoăn, xù dài thả trên vai trần. Có vẻ như tuy không phải là người mẫu chuyên nghiệp nhưng cô gái đã tự tạo cho mình một tập hồ sơ dự tuyển dạng ảnh để gửi tới các hãng.
Đính phía trên bàn làm việc là một bản photo thời khóa biểu với phần tiêu đề của Juilliard School, ngôi trường nghệ thuật biểu diễn nổi tiếng. Bên cạnh đó có một phiếu ghi danh mang tên Elizabeth Ames. Cô gái hai mươi tuổi và đang học năm nhất khoa kịch nghệ.
Tôi mở các ngăn kéo để xem lướt qua tất cả những tài liệu mình nhìn thấy không chút ngại ngần: bản nháp những lá thư tình gửi đến gã nào đó tên David, những tấm ảnh polaroid chụp Elizabeth khỏa thân hoàn toàn – những bức ảnh chụp theo phong cách tự sướng, có lẽ là để gửi cho gã David kia, nhưng rốt cuộc cô gái đã quyết định không gửi -, một thời gian biểu khác liên quan đến công việc phục vụ bàn tại Frantic, một quán bar thuộc khu East Side. Tôi cũng nhìn thấy những bản sao kê tài khoản ngân hàn được đính trên tấm bảng gỗ bần, chúng cho thấy chủ tài khoản đang rơi vào tình cảnh giật gấu và vai, cùng nhiều lá thư đòi tiền thuê nhà còn thiếu được chủ căn hộ gửi tới.
Tôi nấn ná thêm vài phút trong phòng ngủ, mắt dán vào những mặt tường dán ảnh. Ánh mắt tôi dừng lại ở một bức ảnh: bức ảnh chụp Elizabeth một ngày tuyết rơi, ngồi ghé lên thành băng ghế gỗ bên cạnh một cột đèn đường trong Công viên Trung tâm. Cô đội mũ len, mặc chiếc áo măng tô quá rộng so với khổ người và mang đôi bốt da lộn. Đó là bức ảnh kém sexy nhất, nhưng cũng là bức duy nhất người trong ảnh mỉm cười.
Trước khi rời khỏi căn hộ, tôi gỡ bức ảnh này ra rồi cất vào túi.
4.
Hai giờ sau
- Tôi để anh ở lại với ông ấy nhé, gã y tá bảo. Thoạt tiên, chẳng có lý do gì để ông ấy tỏ ra hung hăng, nhưng thôi, anh là bác sĩ: anh biết rõ hơn tôi là không có quy luật nào với dạng bệnh lý này mà…
Tôi đang ở tầng tám của bệnh viện Blackwell – Lầu năm góc trứ danh -, trước cửa phòng bệnh của ông nội. Sau khi rời căn hộ của Elizabeth Ames, tôi ngồi taxi tới tận ngã tư đại lộ 2 giao cắt đại lộ 60. Tại đó, với giá vé tàu điện ngầm một chiều, buồng cáp treo đưa tôi lên trên sông Đông rồi thả tôi xuống Tramway Plaza nằm giữa đảo Roosevelt. Tôi đi bộ tiếp tới tòa nhà Lầu năm góc nằm ở cực Nam của đảo. Bệnh viện này vẫn luôn mang tiếng xấu. Được xây dựng từ giữa thế kỷ 19, thoạt đầu bệnh viện đón tiếp những bệnh nhân mắc đậu mùa mà thành phố muốn cách ly. Tiếp đó, nó được chuyển thành nhà thương điên và tập trung tất cả những nhược điểm của dạng cơ sở y tế này: quá tải, đối xử tàn tệ với bệnh nhân, những thí nghiệm tâm thần học gần như không hợp pháp. Ngay từ những năm 1960, sách báo đã tố cáo những hành vi này và nhiều thành phần nhân sự của bệnh viện đã bị đưa ra tòa. Theo thời gian, mọi chuyện đã được cải thiện nhưng nơi này chưa bao giờ thực sự gỡ bỏ được hình ảnh thảm hại kia. Từ khi tôi bắt đầu học Y, không có năm nào người ta không thông báo bệnh viện sắp đóng cửa, nhưng cần phải công nhận một điều hiển nhiên: Lầu năm góc vẫn luôn tồn tại, và tôi hy vọng sẽ tìm thấy lối thoát cho mình chính giữa chốn này.
- Tôi phải cảnh báo anh, gã y tá nhắc. Nút gọi cấp cứu của phòng này không hoạt động.
Khó khăn lắm tôi mới nhìn được vào mắt gã. Giống như Nhị Diện, một nhân vật truyện tranh, gương mặt gã bị cháy sém phân nửa.
- Vậy nên nếu xảy ra bất cứ vấn đề gì, anh đừng ngần ngại hét to, gã nói tiếp. Vì chúng tôi đang thiếu người trầm trọng nên không chắc chúng tôi đã nghe thấy anh đâu, nhưng đó là cách công hiệu nhất để dọa nạt lão già lẩm cẩm này.
- Anh đang nói đến ông nội tôi đấy!
- Nếu ta không thể đùa được nữa thì xin kiếu, gã nhún vai lầm bầm.
Nhị Diện mở cửa phòng, mời tôi vào trong rồi không quên gài chốt bên ngoài. Đó là một căn phòng nhỏ xíu, thứ xà lim khắc khổ với đồ đạc vỏn vẹn có chiếc giường sắt cũ kỹ, ghế nhựa lung lay và bàn được gắn thẳng xuống nền nhà. Một người đàn ông đang nằm dài trên đệm, nửa thân trên được dựng lên, tựa vào gối. Một cụ già bí hiểm với bộ râu bạc và mái tóc trắng cứng như rễ tre buông xuống tận vai. Bất động, cặp mắt lờ đờ, trông ông như đang ở đâu đó, như một pho tượng, mê mải với cơn mộng mị xa xăm. Ông cụ Gandalf dưới tác dụng của thuốc tâm thần.
- Chào ông Sullivan, tôi nói đoạn tiến về phía ông, hơi có chút rụt rè. Cháu là Arthur Costello. Ông cháu mình chưa từng gặp nhau nhưng cháu chính là con bố Frank đây. Vậy nên ông là ông nội cháu.
Vào đề không đến nỗi tệ…
Ông Sullivan vẫn ngồi im phăng phắc như tượng đá, hình như còn không nhận ra sự hiện diện của tôi.
- Mới đây thôi, cháu còn chưa biết là ông vẫn còn sống, tôi giải thích trong lúc ngồi xuống gần giường. Cháu không biết ông vẫn còn sống và đang chữa trị tại bệnh viện này. Nếu biết chuyện thì cháu đã tới thăm ông sớm hơn.
Tôi nhẩm tính tuổi của ông nội bằng cách chắp nối những thông tin do bố tôi cung cấp. Nếu tôi không nhầm thì ông Sullivan vừa qua tuổi bảy mươi. Đằng sau những dấu vết thời gian và bộ râu che lấp một phần khuôn mặt, ta có thể đoán ra những đường nét cân đối, một vầng trán cao , mũi to nhưng hài hòa, cái cằm quyết đóa. Tôi dễ dàng hình dung ra ông ba chục năm về trước, như tôi đã nhìn thấy trên những bức ảnh gia đình: hình mẫu chủ doanh nghiệp năng động mặc những bộ đồ may đo, áo sơ mi cổ hồ bột có khuy măng sét và đội mũ Fedora. Tôi vẫn nhớ như in một bức ảnh chụp ông: miệng phì phèo điếu xì gà, chân gác lên bàn làm việc trong văn phòng hãng đặt tại đại lộ Madison. Một thời kỳ khác, một con người khác…
Tôi dịch ghế lại gần giường rồi cố gắng thu hút ánh mắt ông.
- Hôm nay cháu có mặt tại đây để nhờ ông giúp đỡ.
Ông không chớp mắt.
- Cháu được thừa kế ngọn hải đăng của ông, 24 Winds Lighthouse, và…
Tôi bỏ lửng câu nói để chờ đợi, để hy vọng thấy một phản ứng nhưng tuyệt nhiên không có gì hết.
Tôi thở dài. Không còn nghi ngờ gì nữa, tôi đã sai lầm khi tới đây. Thoạt tiên là bởi hai chúng tôi hoàn toàn xa lạ với nhau. Và nhất là bởi ông nội vẫn một mực câm lặng và không có dấu hiệu nào cho thấy một ngày nào đó ông sẽ lên tiếng.
Tôi đứng dậy rồi tiến về phía cửa sổ, nhìn qua hàng chấn song những đám mây mềm xốp như bông đang trôi về phía Astoria. Mặc dù đang là mùa thu nhưng căn phòng vẫn lạnh căm. Tôi nghe rất rõ tiếng nước chảy trong lò sưởi gang đúc, nhưng lò chẳng tỏa ra chút hơi ấm nào hết.
Tôi quay lại ngồi xuống ghế rồi thực hiện một nỗ lực sau cuối.
- Bố Frank đã kể cho cháu nghe là bốn năm sau khi mất tích, ông đã liên lạc với bố để yêu cầu bố xây bít cánh cửa kim loại dưới căn hầm.
Ông lão vẫn bất động, hai bàn tay đan vào nhau để trên bụng giống như một tác phẩm điêu khắc người quá cố. Tôi nói tiếp:
- Cháu đã xuống hầm. Cháu phá bức tường gạch và…
Nhanh như một con báo, ông Sullivan giơ tay chộp lấy họng tôi.
Tôi để mình bị đánh úp như một gã tay mơ. Tôi đã mất cảnh giác khi thấy trạng thái uể oải của ông và giờ thì nắm tay thép của ông đang khép lại trên thanh quản tôi. Hơi thở bị chặn đứng, tôi nhìn ông không rời mắt. Lời nhắc về cánh cửa đã gây ra phản ứng giống như một cú sốc điện. Lời tiết lộ khiến mắt ông tìm lại được ánh chóp bạc đáng sợ.
- Tại sao cậu lại làm thế hở tên nhóc ngu ngốc kia? ông thì thầm vào tai tôi.
Tôi tìm cách thoát ra nhưng ông càng túm chặt hơn. Ông lấy đâu ra sức mạnh nhường ấy? Tôi cảm thấy các ngón tay ông đang bấm sâu, ép chặt lấy thực quản tôi. Ông lão khùng điên này sắp làm tôi ngạt thở!
- Cậu đã mở cánh cửa kim loại ra hả? Cậu đã bước vào căn phòng đó hả?
Tôi gật đầu xác nhận. Câu trả lời của tôi khiến ông tuyệt vọng. Ông thình lình buông tay và tôi bật ho rũ rượi.
- Ông điên quá đấy! tôi vừa hét lên vừa đứng dậy.
- Có lẽ thế, ông đồng tình, nhưng còn cậu, cậu đang gặp rắc rối lớn rồi chàng trai ạ.
Một khoảng lặng dài. Hai chúng tôi ngờ vực nhau suốt hơn một phút. Ông Sullivan đã đổi thái độ. Vẻ nghiêm trang và tập trung, trông ông như vừa thức dậy sau cơn ác mộng tồi tệ. Như một lữ khách trở về sau hành trình rất dài. Ánh mắt sắc lẹm và dữ dằn, ông nhìn tôi chăm chú từ đầu đến chân.
- Cậu vừa nói cậu tên gì hả?
- Arthur. Arthur Sullivan Costello.
Nghe đến tên đệm của tôi, một nụ cười thoáng qua khiến gương mặt ông bừng sáng và làm hiện lên trên đó hai lúm đồng tiền.
- Và tại sao cậu dám lấy cắp đồng hồ đeo tay của ta hả Arthur Sullivan Costello? ông hỏi đoạn chỉ vào chiếc Tank đang đeo trên cổ tay tôi.
- Ông muốn cháu trả lại cho ông không?
Ông đặt tay lên vai tôi.
- Không đâu, anh bạn trẻ. Tin ta đi, cậu sẽ cần đến nó hơn là ta.
Ông đứng dậy, bẻ cho các khớp kêu răng rắc như thể ông cảm thấy chật chội trong thân xác mình.
- Vậy là cậu đã mở cánh cửa ra và lúc này, cậu đang tự hỏi mình gặp phải chuyện gì…
- Vâng, cháu có nhiều điều muốn hỏi ông. Ông phải…
Ông giơ tay lên ngắt lời tôi.
- Chúng ta đang ở năm nào rồi?
- Ông đùa cháu đấy ạ?
- Phải rồi, ta lừa cậu đấy. Hôm nay là ngày 14 tháng Chín năm 1993.
Tôi thấy ông ngẫm nghĩ trước khi hỏi thêm:
- Cậu làm nghề gì vậy?
- Cháu là bác sĩ, sao ông hỏi vậy?
- Chẳng sao cả. Cậu làm việc trong bệnh viện hả?
Trong khi tôi gật đầu xác nhận, trí não ông có vẻ bắt đầu hoạt động với vẻ lạ kỳ và mắt ông bừng lên một tia sáng mới rất khó diễn giải.
- Cậu có thuốc lá ở đấy không?
- Cháu không nghĩ chúng ta có thể hút thuốc ở đây, tôi nói rồi chỉ vào thiết bị báo cháy.
- Cậu còn chưa hiểu hả? Trong phòng giam này chẳng có cái gì hoạt động hết.
Tôi thở dài, lục tìm trong túi rồi chìa ra cho ông chiếc bật lửa cùng bao thuốc bạc hà ban nãy vừa lấy ở nhà Elizabeth Ames.
- Cái quái gì thế này? ông nhăn mặt. Cậu coi ta là một mụ đàn bà hay sao thế? Cậu không có thuốc Lucky Stricke hả?
Không đợi tôi trả lời, ông tuôn ra một tràng rủa xả nhưng rốt cuộc cũng châm điếu thuốc rồi rít một hơi dài.
- Cậu mở cánh cửa ra khi nào vậy? ông hỏi, nét mặt bỗng nhiên trở lại nghiêm nghị.
- Hồi tháng Sáu năm 1991.
- Vậy ra đây là chuyến du hành thứ hai của cậu… Cậu thức dậy lần gần nhất là khi nào?
- Chín giờ sáng nay. Chính xác ra thì ông gọi cái gì là du hành vậy?
- Cậu sẽ nhận được câu trả lời cho tất cả những câu hỏi mình đặt ra, anh bạn nhỏ. Nhưng trước hết cậu phải giúp ta một việc.
- Việc gì ạ?
- Giúp ta thoát khỏi cái ổ chuột này. Ngay hôm nay.
Tôi lắc đầu.
- Ông đùa sao? Không thể làm vậy và cũng không nên làm vậy, ông Sullivan ạ, tôi nói bằng giọng trấn an kiểu bác sĩ như trước kia đã quen miệng nói rất nhiều lần. Trong tình trạng của ông hiện giờ, sẽ là không hợp lẽ nếu…
Ông bật cười giễu cợt rồi chĩa ngón trỏ vào ngực tôi.
- Nhưng cậu có làm điều ấy cho ta đâu, cậu nhóc. Cậu sẽ làm điều ấy cho bản thân mình. Vậy nên hãy nghe cho rõ đây, vì chúng ta không có nhiều thời gian đâu.
Ông ghé sát tai tôi rồi tuôn ra một loạt chỉ dẫn. Mỗi lần tôi toan mở miệng, ông đều cao giọng để khiến tôi từ bỏ ý định. Ông vừa nói xong thì chuông báo cháy vang lên.
Vài giây sau, Nhị Diện đã lao vào phòng.
Gã điên tiết khi nhìn thấy mẩu thuốc và bao thuốc để trên bàn.
- Đủ rồi đấy, anh bạn, mời anh ra khỏi đây ngay cho!
|
|