Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: sabina
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại - Xuất Bản] Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Tra | Ngải Mễ

[Lấy địa chỉ]
31#
Đăng lúc 18-6-2013 07:44:33 | Chỉ xem của tác giả

Chương 15



SAU NGÀY VỀ THÀNH PHỐ, Thu bắt đầu đến lớp học. Nhưng thời gian ấy phần lớn học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa, học công nhân, học nông dân, học y thuật, học đủ thứ, chỉ duy nhất không học kiến thức trong sách vở, cho nên về được ít lâu, lớp của Thu chuyển sang học y.

Phần lớn học sinh của lớp Thu do giáo viên chủ nhiệm đưa xuống thị trấn Quan Lâm thuộc huyện D, ở đấy có một phân viện của quân y viện, học sinh ở nhờ nhà bà con nông dân, học y trong quân y viện. Vì nhà nghèo, Thu không có tiền trả tiền đi đường và tiền ăn, Thu cùng mấy học sinh gia đình thuộc diện cực kỳ khó khăn được ở lại thành phố K, đến mấy bệnh viện trong thành phố để học. Nhưng nhà trường cảm thấy Thu và mấy học sinh ở lại thành phố không đạt mức độ gian khổ như về nông thôn, sẽ không có lợi cho sự trưởng thành, vậy là giao cho thấy Trịnh, hiệu trưởng trường tiểu học trực thuộc, đưa mấy cô cậu này học đông y.

Nhà thầy Trịnh ở thôn Phó Gia Xung, một thôn miền núi nhỏ gần Nghiêm Gia Hà, cha của thầy Trịnh là “thầy thuốc chân đất” của đội sản xuất, thầy Trịnh cũng học được vài môn như giác, châm cứu, thừa sức dạy lại bọn Thu.

Thu và mấy đứa bạn rất bận, cuối tuần chỉ học một ngày Chủ nhật. Hễ đến thứ Bảy, Thu phải vào bệnh viện để học, đi làm như y tá bệnh viện; Chủ nhật học giác, học châm cứu của thầy Trịnh, thỉnh thoảng lại ra ngoại thành tìm thảo dược, chữa bệnh cho bà con trung nông lớp dưới, bận rộn suốt ngày.

Những lúc về nông thôn tìm thảo dược, đi trên những lối mòn trong làng, nhất là vào lúc chiều tối, khói bếp lan tỏa, Thu lại nhớ những ngày ở Tây Thôn Bình, nhớ cảnh lần đầu gặp Ba, lòng lại trào lên nỗi buồn vô cớ, cảm giác như sắp khóc. Những ngày ấy, tối nào, Thu cũng trốn vào chăn, mở cái túi bí mật bên trong áo bông, lấy lá thư ra đọc. Phần lớn thời gian Thu chỉ nhìn những dòng chữ của Ba viết, vì nội dung bức thư Thu đã thuộc lòng. Ngay từ đầu Thu rất thích nhìn nét chữ của anh, chữ anh rất đặc biệt, chữ ký của anh thật đáng yêu, chữ “Tân” chỉ có hai nét, phía trên một chấm ngang, những nét ở dưới viết liền một nét. Thu lặng lẽ mô phỏng chữ anh, chep đi chép lại đoạn lịch sử Tây Thôn Bình anh viết giúp, có thể đạt đến độ thật giả khó phân biệt.

Hồi ấy có bài hát Đọc sách của Mao Chủ tịch, bài hát có đoạn:

Sách của Mao Chủ tịch, tôi rất ham đọc, trăm bài í… a…, ngàn bài í… a…, thật công phu, đạo lí sâu sắc, tôi lĩnh hội sâu sắc lòng tôi í… a… bừng nóng, huầy dô, giống như í… a… ruộng khô hạn được mưa, mạ non long lanh giọt sương mai… Tư tưởng của Mao Chủ tịch vũ trang chúng ta… hăng say làm cách mạng í… a… a…

Hồi ấy hát không có nhạc đệm, chỉ hát, miệng đệm la đô la la đô la nào nào tạo nên cảm giác như có nhạc đệm.

Thu hát bài này giống như “nhà sư tụng kinh, có miệng không có lòng”. Nhưng bây giờ đọc thư Ba, Thu mới thực sự hiểu cảm giác trong bài hát miêu tả, tất nhiên Thu biết như vậy coi như so sánh anh với lãnh tụ là rất phản động, nhưng thư của anh Thu càng đọc càng thấy thích đọc. Thu dần dần cảm nhận ý nghĩa sâu sắc trong thư thật ấm lòng.

Ví dụ anh mong Thu tin rằng “trời sinh ra tài năng ắt phải có chỗ dùng”, hình như Thu rất có tài, hơn nữa có tài là việc tốt. Thu đã từng nghe nói “có tài” nên rất căng thẳng, là bởi “có tài” rất có thể nói Thu đi con đường “bạch chuyên”, “chuyên” mà không “hồng”. Mọi người đều biết, vệ tinh lên bầu trời cờ đỏ sẽ rơi xuống đất, cho nên người chỉ “chuyên” mà không “hồng” sẽ bị đả đảo.

Những điều ấy nói ra từ miệng Ba, Thu nghe rất đúng, có thể có tài không phải là chuyện xấu. Sẽ có ngày lại thi tuyển đại học, Thu sẽ thi để trở thành một sinh viên, vậy thì hay biết chừng nào!

Trong thư, Thu thích nhất câu “cho đến khi Thu bằng lòng nói với anh, sẽ nói với anh”, lúc ấy đọc không có ý nghĩa gì, bây giờ đọc lại cảm thấy hình như anh đang chờ Thu, vì anh mong Thu trả lời và anh vẫn đang chờ.

Nghĩ đến đây, Thu rất muốn về Tây Thôn Bình để xem cây sơn trà, biết đâu có thể gặp anh tại nhà bà Trương, biết đâu anh sẽ đưa Thu đi xem hoa sơn trà. Thu sẽ bảo với anh nguyên nhân Thu cáu giận, anh sẽ giải thích với Thu rằng anh không có vợ chưa cưới, mà chị Mẫn đã nhầm. Nhưng vào cái thời một công nhân học việc lương tháng chỉ mười tám đồng, mất năm, sáu đồng tiền đi đường để xem hoa sơn trà, với một người nghèo như Thu, quả là chuyện ngược đời. Với lại, Thu cũng không có thời gian. Hơn nữa, anh đã từng nói, anh sẽ đồng ý lấy con gái cấp trên của bố. Thậm chí, anh đã từng nắm tay người con gái kia.

Một ngày Chủ nhật cuối tháng Năm, trời rất đẹp, Thu dậy muộn, định giặt khăn trải giường của cả nhà vì buổi chiều còn phải học châm cứu với thầy Trịnh, Thu vừa mở cửa thì phát hiện một thằng nhỏ từ cửa nhà Thu chạy vụt đi. Thu không muốn đuổi theo, vì trong nhà không có gì có thể ăn cắp hoặc phá phách, nhiều lắm cũng chỉ lấy vài đôi giày cũ để trong ngăn bàn học cũ ở cửa. Nếu những đôi giày ấy không rách nát thì Thu cũng không để ở cửa.

Thu nhìn cái bàn, bỗng giật mình, trên bàn có một cái lọ hoa cắm một bó hoa, hoa đỏ, có cả lá xanh. Cái lọ đổ nghiêng, nước chảy ra đất, có một cành hoa bị ai đó lấy ra, vứt xuống đất, có thể thằng nhỏ kia vừa làm. Chắc hẳn nó thấy lọ hoa định đánh cắp một cành, gặp lúc Thu ra cho nên vứt hoa bỏ chạy.

Thu ngớ ra trong giây lát, ý thức được có thể đây là hoa sơn trà. Thu đã thấy hoa đào, hoa mai, hoa anh sơn hồng, nhưng chưa thấy hoa này bao giờ, màu hoa giống như màu len của Ba, chỉ có thể đấy là hoa sơn trà, điều ấy chứng tỏ Ba dến, đem hoa sơn trà cho Thu.

Có thể những ngày này Ba chờ Thu về Tây Thôn Bình xem hoa sơn trà, nhưng Thu không đi, anh hái mấy cành mang đến nhà Thu. Nhưng tại sao anh biết nhà Thu ở đây? Thu nhớ lại, lần đầu tiên gặp anh, anh nói: “Muốn báo với Thu nhưng không biết cách nào”. Xem ra, trước đây anh là lính trinh sát.

Tim Thu đập dồn dập, không biết là cảm động hay vì chuyện khác. Thu đổ đầy nước vào lọ hoa, cắm ngay ngắn những cành hoa, đem vào đặt trên cái bàn nhỏ bên giường, ngắm nhìn xem hoa có đẹp không, lòng những cảm thấy dịu ngọt: anh ấy còn nhờ đến mình, nhớ đến việc mình muốn thấy hoa sơn trà, anh phải vượt một chặn đường rất xa để mang hoa đến cho mình.

Sau một lúc cảm thấy dịu ngọt, Thu nghĩ đến một việc hệ trọng: Liệu anh có để kèm một lá thư bên bình hoa? Lẽ ra anh phải để một cái gì chứng tỏ rằng mình đã đến? Anh không thể cứ lặng lẽ để hoa lại rồi bỏ đi. Nếu anh để thư lại, vậy thì thư đâu rồi?

Cửa nhà Thu giống như đường Giải phóng của thành phố, là nơi có trường học ồn ào nhất. Cả trường chỉ còn lại hai cái vòi nước ở cạnh nhà Thu, trước nhà là cửa sau nhà ăn tập thể của trường, đến nhà ăn lấy nước lấy cơm đều đi qua lối cửa sau này, người ra vòi nước giặt rũ, rửa rau, xách nước đều có thể trông thấy cái bàn để ở cửa nhà Thu.

Chợt Thu rùng mình, không biết vừa rồi đã xảy ra chuyện kia. Bên cạnh nhà Thu là giáo viên chủ nhiệm lớp từ hồi Thu còn học trung học cơ sở, tên là Nghiêm Sường, tốt nghiệp đại học sư phạm L, nghe nói là con người tích cực hoạt động tạo phản, rất biết “chấn chỉnh” mọi người ở đại học L thời kỳ đầu Cách mạng văn hóa. Về sau, phái tạo phản bị thất thế, thầy bị phân công về trường trung học số Tám cách xa trung tâm thành phố K. Nhưng đầu óc tạo phản của thầy giáo này vẫn không nguội, rất tích cực tham gia chấn chỉnh>

Thầy Nghiêm Sường dạy toán, luôn khen ngợi khả năng học toán của Thu, nhưng thầy rất thích để ý chuyện lặt vặt, nhất là chuyện quan hệ trai gái. Thầy thường xuyên gọi mấy học sinh trong lớp ra, bắt làm báo cáo, gửi lên nhà trường, làm cho mấy cô cậu học sinh kia điêu đứng. Cái cậu học sinh viết lá thư tình có câu “Mao phi nữ tử thiên bát nhật” cũng chính thầy giáo này bắt được và báo cáo lên nhà trường để kỷ luật cậu ta.

Cái tình để ý những chuyện lặt vặt của thầy Sường suýt nữa làm hại Thu. Thu có đứa bạn từ hồi học tiểu học, tên là Trương Khắc Thụ, người đen đúa gầy gò. Bố mẹ Thụ đều là công nhân của xưởng đóng tàu, mẹ còn là một quan chức nhỏ. Hồi ấy xưởng đóng tàu xây được trường tiểu học cho con em công nhân, liền đưa con em về học tại trường của xưởng. Vậy là từ năm đầu trung học cơ sở Thụ không còn học cùng trường với Thu nữa. Không biết bắt đầu từ bao giờ cái cậu Thụ này viết thư cho Thu, chữ cậu ta rất đẹp, câu cú cũng rất mạch lạc, nhưng Thu rất ghét cậu ta, cũng không biết vì sao. Thu cảnh cáo cậu ta mấy lần, cậu ta vẫn không nghe, tiếp tục viết thư tình cho Thu.

Một hôm, Thụ bỏ thư vào chiếc giày cũ trước cửa nhà Thu, vì cậu ta phải đến trường của xưởng cho nên qua đây rất sớm, lúc ấy người nhà Thu chưa ai dậy. Thầy Sường bên cạnh dậy rất sớm, trông thấy lá thư liền cầm về, bóc ra xem ngay.

Mở đầu bức thư nói tình hình thế giới và trong nước rất tốt đẹp, sau đấy lại nói tình hình trong thành phố ta cũng rất tốt đẹp, lại nói tình hình trường ta lớp ta rất tốt đẹp, cậu ta viết liền ba trang giấy. Nhưng đấy là cách viết thư thời bấy giờ, không ai có thể chê trách. Cuối thư viết một câu tỏ ra kính nể tài hoa của Thu, có phần luyến tiếc trí thông minh, tỏ ra anh hùng gặp anh hùng. Tất nhiên cuối thư không quên hỏi Thu có muốn làm bạn chơi với nhau không?

Ngay cả con người như thầy Sường cũng nhận ra Thu không có trách nhiệm trong việc này, cho nên thầy đưa lá thư ấy cho mẹ Thu, bảo với bà nói chuyện với Thu, phải giáo dục Thu chăm học, không được phân tán tư tưởng. Thầy còn tự biểu dương mình, nói may mà thầy trông thấy, nếu là người khác thì không biết chuyện lan truyền đến tận đâu.

Về sau Thu được đọc lá thư ấy, ơn trời ơn đất, cậu ta vẫn chưa bịa chuyện hai người yêu nhau, nếu không sóng gió cũng đã nổi lên rồi. Nhưng mẹ Thu sợ gần chết, lại đưa câu “một lần sẩy chân ôm hận suốt đời” ra nhắc nhở Thu.

Thu ghét cay ghét đắng con người như Thụ, nhưng không đáng sợ lắm, vì không nói được Thu là con người thế nào. Thu không hổ thẹn với lòng mình, chưa bao giờ nói chuyện với những con người như vậy, càng không thể nói làm được việc gì.

Nhưng với Ba, Thu không thể biết. Thu càng ngày càng sợ, nhất định anh có viết thư. Một con người văn chương tài giỏi, chỉ một khoảnh khắc về lấy cái túi mà đã viết được một lá thư, liệu lần này anh không viết? Có thể anh để cả hoa và thư trên mặt bàn, ai đó đi qua thấy, rất độc ác lấy thư để hoa lại.

Thu ruột nóng như lửa đốt, chạy đi tìm thằng nhỏ kia, nhưng nó bảo không thấy thư, nó chỉ muốn lấy cành hoa chơi, ngoài ra không biết gì. Hỏi nó có biết ai để hoa ở đấy, nó cũng nói không biết; hỏi lúc đến có thấy ai không, nó bảo không thấy.

Chút tâm trạng dịu ngọt vừa rồi của Thu tan thành mây khói, bắt đầu điên cuồng nghĩ đến một chuyện: Nếu Ba viết thư, anh sẽ viết những gì? Nếu chỉ nói anh theo đuổi Thu thì cũng không đáng sợ, bị người khác theo đuổi không phải là tội lỗi. Nhưng Thu khẳng định Ba sẽ không viết như thế, anh sẽ viết những chuyện của hai người, ví dụ: Thu có còn nhớ hôm ấy chúng ta trên núi, Thu để anh nắm tay, anh ôm Thu vào lòng…

Một lá thư như vậy vào tay những người như thầy Sường thì Thu coi như hết đời, chắc chắn sẽ bị đem ra phê phán tác phong không đúng đắn, như vậy không chỉ Thu bị chôn vùi cuộc đời, ngay cả mẹ và em gái cũng bị liên lụy. Nếu Ba viết những lời lẽ phản động như lần trước lại càng tệ hại hơn.

Suy nghĩ như vậy Thu không dám giữ hoa lại, tưởng như có bó hoa mọi người sẽ lần mò tìm ra Thu. Thu vội bẻ vụn cành hoa, vứt vào nhà vệ sinh, ngay cả cái bình thủy tinh cũng vứt vào thùng rác thật xa. Tối hôm ấy Thu rất căng thẳng, không sao ngủ nổi, mấy ngày tiếp theo còn nằm mơ thấy thầy Sường gọi Thu, tay thầy cầm lá thư, bảo Thu thành khẩn khai báo phải chăng trong thời gian biên soạn tài liệu giáo khoa ở Tây Thôn Bình có vấn đề về tác phong? Thu giải thích, thanh minh, nhưng không ai tin. Cuối cùng họ gọi Ba đến, để hai người đối chất.

-Thu thừa nhận đi, lúc ấy Thu bảo rất thích được anh cầm tay cơ mà? – Ba nói.

Thu không ngờ Ba thú nhận một cách nhanh chóng như vậy, hơn nữa lại đẩy trách nhiệm cho Thu. Thu muốn chửi mắng anh, nhưng không làm sao nói thành lời. Sau đấy, Ba viết tường tr, nhà trường xử lí nhẹ tay đối với anh, nhưng Thu bị lôi lên sân khấu để mọi người phê phán. Không biết thế nào, Thu lại bị dẫn đi bêu khắp phố phường, ngực đeo một xâu giày rách, tay trái cầm phèng, tay phải cầm dùi, vừa đi vừa gõ phèng phèng, miệng hô to: “Tôi là giày rách1, mọi người hãy phê dấu tôi!” “Tôi là mụ đàn bà xấu xa, tôi thông dâm với người khác!”

Thu giật mình tỉnh giấc, người đẫm mồ hôi, một lúc lâu sau mới biết đấy là ác mộng. Nhưng cảnh trong ác mộng đã từng xảy ra, đấy là cảnh tượng Thu được thấy từ hồi con học tiểu học. Nghe nói, người con gái ấy trước kia là gái làm tiền, sau giải phóng đã được cải tạo, đã lấy chồng, nuôi một đứa con nuôi, thằng nhỏ ấy học cùng lớp với Thu. Mấy ngày sau khi bị dẫn đi bêu riếu, chị kia nhảy xuống một đập nước tự tử, trong bụng chứa đầy nước, nổi lên mặt nước đập bẩn thỉu, mấy ngày sau vẫn không có người vớt xác chị lên, vì sợ bẩn tay. Thu không hiểu tại sao người ta gọi một phụ nữ là “giày rách”, cũng không hiểu thế nào là “thông dâm”, nhưng từ đấy về sau, Thu không dám đi giày rách, thà đi chân đất, mỗi lần nghe thấy tiếng “thông” lại cảm thấy buồn nôn, nghe thấy tiếng “dâm” càng khỏi phải nói.

Thu sợ hãi không biết đến bao giờ mới hết, thấy ánh mắt của những thầy giáo, cô giáo ở trong trường rất không bình thường, hình như họ vừa chuyền tay nhau đọc thư của Ba. Thu muốn giải thích, nhưng không biết phải làm thế nào, đầu óc lòng dạ trống trải. Thu cũng không biết cuối cùng ai là người lấy là thư ấy đi, nhưng Thu cảm thấy những người kia đang bàn với nhau phải tìm được nhiều chứng cứ, bàn với nhau thi hành kỷ luật Thu thế nào.

Một tuần lễ qua đi, Thu thấy thần kinh mình sắp sụp đổ. Thu quyết định viết thư cho Ba, bảo với anh câu chuyện vô cùng nguy hiểm này. Thu cố thay đổi nét chữ, cũng không dám ghi tên mình, vì Thu sợ nhà trường đang theo dõi, bức thư này sẽ trở thành chứng cứ. Thu khẩn thiết mong anh quên Thu, đừng tặng hoa nữa, nếu không tương lai của cả hai người sẽ chôn vùi trong tay anh.

Nhưng viết như thế Thu thấy không ổn, nếu người khác bắt được thư họ sẽ suy đoán giữa Thu và Ba đã có chuyện gì rồi, nếu không tại sao lại nói đến quên nhau, tại sao lại nói đến chôn vùi tương lai?

Vậy là Thu viết lại, rất bực tức nói: tôi không quen biết anh, tại sao anh cứ bám lấy tôi, xin anh hãy biết tự trọng.

Nhưng viết như thế Thu cũng thấy không được. Thu lạnh lùng, độc ác, nếu làm anh phải xấu hổ dẫn đến phẫn nộ, anh sẽ vạch trần ra bằng hết, thậm chí thêm thắt bịa đặt, gửi cho trường Thu, như vậy càng tệ hại hơn. Một bên là con ông tư lệnh quân khu, một bên là con gái địa chủ, nhà trường sẽ tin ai, điều này khỏi phải nói.

Thu viết viết, sửa sửa, mất trọn một ngày mới viết được một lá thư ngắn. Thu cố viết thật lạnh lùng, lễ độ, xa lạ, để vừa không đắc tội với anh, vừa có thể có tác dụng đe dọa, cuối cùng Thu quyết định viết mười sáu chữ:

Biển khổ vô biên, ngoảnh đầu là bờ, không trách lỗi xưa, lần sau xin đừng!

___________________________________

[1] Ý nói “Tôi là một con đĩ”. – ND



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
Đăng lúc 18-6-2013 07:46:45 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16



TUY THU KHÔNG CÓ ĐỊA CHỈ CHÍNH XÁC của Ba, chỉ ghi thêm mấy chữ “đội thăm dò” sau thôn Tây Thôn Bình, nhưng đoán chắc Ba sẽ nhận được, vì không thấy anh gửi thêm gì nữa.

Thu phấn khởi, kỳ nghỉ hè sắp tới Thu lại có thể đi làm suốt vụ hè, không nghỉ ngày nào, rất lạc quan ước đoán sẽ được tám, chín chục đồng.

Tiền chưa đến tay nhưng Thu đã dự toán. Đầu tiên trả cho Ba ba chục đồng, sau đấy cho mẹ mua túi đựng nước nóng. Mỗi lần mẹ ốm đều đau bên hông, cần một túi đựng nước nóng để chườm. Bây giờ mẹ phải dùng cái chai để thay túi nước nóng, nhưng cái chai có lúc bị chảy nước, hơn nữa diện tích nóng cũng hẹp.

Kế hoạch của Thu là, khi có tiền sẽ mua nửa cái thủ lợn về ăn, vì một cân tem thịt có thể mua được hai cân thủ, tai lợn, lưỡi lợn đều ngon, thịt thủ nấu, còn các thứ khác có thể để hầm canh. Nghĩ đến thịt thủ xào mầm tỏi, Thu đã cảm thấy thèm, muốn đi mua về làm ngay. Nhà Thu thường mấy tháng không thấy miếng thịt, ở Tây Thôn Bình Thu được anh thịt Ba mang đến đều tự hỏi lòng mình có ngượng hay không, vì không thể đem về cho

Mùa hè năm nay đi làm, Thu nhất định phải mua vải để may cho em gái cái áo mặc Tết. Thu mặc đồ cũ của anh trai bị mọi người cười, cho nên Thu không muốn để em phải nếm trải cái cảm giác, bị cười chê ấy. Thu còn muốn mua cho em đôi ủng lửng, kể ra cũng hơi xa xỉ. Nhưng nó muốn một đôi như vậy từ lâu rồi, qua ánh mắt lúc nó nhìn đôi ủng của người khác Thu biết tâm tư nó.

Anh trai của Thu còn nợ tiền lương thực của đội sản xuất, Thu hi vọng tiền làm công trong kỳ nghỉ hè sẽ giúp anh trai thanh toán một phần. Đám thanh niên trí thức về nông thôn không có cái ăn, có lúc đi bắt trộm gà, trộm chó, ra đồng lấy trộm rau của bà con nông dân. Nhiều nơi, thanh niên trí thức hây thù gây oán với dân địa phương, hai bên thường xuyên đánh nhau. Có lúc, nông dân nhiều thôn liên hiệp lại đánh thanh niên trí thức, thanh niên trí thức của mấy đội sản xuất liên kết lại đánh nông dân, hai bên đánh nhau chảy máu, mọi người trong tình thế nguy hiểm.

Cách đây ít lâu, anh trai Thu bị nông dân đánh, trên mặt trên người đầy thương tích. Anh của Thu nói, thật may mắn, vì lần ấy đám bạn bè bị thương còn nặng hơn, có mấy cậu bị đánh nằm liệt giường, được bạn bè khiêng về, chỉ có anh Thu và mấy người nữa trong tiểu đội chạy nhanh, nên chỉ bị trầy da, xước thịt tí chút.

Lần ấy, những thanh niên bị đánh và người nhà gặp nhau ở thành phố K để bàn biện pháp đối phó. Những thanh niên bị đánh cho rằng nông dân sai, họ không ăn cắp, nông dân nhận nhầm, không hỏi han gì mà cứ vậy bao vây, dùng đòn gánh, cuốc cào xông vào đánh túi bụi. Còn nông dân rất căm đáng thanh niên trí thức, bảo họ về nông thôn đã cướp mất công điểm vốn ít ỏi của bà con, làm chó gà táo tác, cho nên, hễ có cơ hội là nông dân đánh thanh niên. Đám thanh niên chỉ biết tố giác với đại đội sản xuất và công xã, nhưng đại đội và công xã không phân xử. Kết quả của cuộc thảo luận là báo cáo sự việc với cấp ủy. Những thanh niên bị đánh và người nhà tìm nhiều cách, cấp ủy địa phương mới đồng ý cử người tiếp họ, nghe báo cáo lại sự việc.

Tối hôm ấy Thu cũng đến, vì mẹ ốm, anh lại bị thương. Mọi người kéo đến cơ quan cấp ủy khu [1] ư, thấy trước cổng cơ quan có lính gác với đầy đủ súng đạn, một vài người sợ, cùng những người bị trương không nặng lắm rút lui. Thu và những người kiên cường vào trong sân cơ quan cấp ủy, cấp úy cử người ra tiếp, mời mọi người vào phòng họp chờ, ông bí thư bận họp.

Chờ suốt mấy tiếng đồng hồ nhưng chẳng thấy ông bí thư đâu. Không rõ ai đã thăm dò biết ông bí thư đang ăn nhậu với ai đó, đang say xỉn, không biết có tiếp được dân hay không.

Nghe tin ấy, Thu vô cớ nghĩ đến bố của Ba, hình như cũng là quan to, lòng Thu bỗng trào lên nổi hận, thì ra quan to ở tít trên cao, xem thường người dân như ngọn cỏ. Trong phòng họp có những thanh niên bị đánh nằm bất động, có những người mặt mũi thâm tím, gãy tay gãy chân, thêm vào đó là bố mẹ ruột nóng như lửa, vậy mà ông bí thư vẫn yên tâm đi nhậu.

Thu biết quân khu K chỉ có một quân khu, bố của Ba là tư lệnh quan khu, quản lí một địa bàn lớn hơn. Thu tưởng tượng Ba ở trong một khuôn viên có lính gác, vợ chưa cưới của anh cũng ở trong đó, bố anh có thể là người nói chuyện với giọng điệu quan cách, hễ mở miệng ra như là người báo cáo: “Vấn đề này, việc này…”.

Thu nhớ có lần chị Mẫn nói, chúng ta không thể đến được với những người làm quan. Thu hiểu câu nói ấy, nhưng tận mắt trông thấy sự việc trong khuôn viên cơ quan cấp ủy khu mới thật hiểu. Rõ ràng Ba đối với Thu như một người ở trên trời, một người dưới đất, hai người của hai thế giới. Lúc này Thu đang ngồi chờ ông bí thư, có cảm giác như đang chờ bố của Ba, lòng đầy phẫn nộ và bất bình. Vì người không làm quan nghĩ rằng làm quan ai cũng như ai, chắc chắn bố của Ba đối xử với dân thường cũng như thế này. Lại chờ một lúc nữa, có mấy vị phụ huynh sợ hãi, bảo đây là cài thòng lọng, họ để mọi người ngồi và đi gọi lính đến bắt, không cần tội danh gì, chỉ cần nói “xâm phạm cơ quan chính quyền cách mạng” cũng đủ để vào tù.

Những người có mặt đều sợ hãi, mẹ Thu nói:

- Chúng ta về thôi, người khác có thể làm nổi, người nhà ta không làm nổi. Đã bị đánh rồi còn bị đánh thêm, như vậy chỉ chuốc thêm cái khổ vào người, liệu có thể trông chờ ông bí thư cho bắt những người nông dân kia không? Tại sao nói thanh niên về nông thôn để tiếp thu sự giáo dục của nông dân, nông dân lại dùng đòn gánh để giáo dục, không còn cách nào khác hay sao?

Thu rất bực vì mẹ nhát gan, Thu kiên trì đợi đến cùng, nói nếu mẹ sợ, cứ để con chờ. Mẹ không còn cách nào, đành cùng chờ với Thu. Cuối cùng có một cán bộ xuất hiện, không phải ông bí thư khu ủy, không biết là cán bộ gì, chỉ nói thay mặt ông bí thư. Thanh niên và người nhà nói rõ tình hình, người kia ghi lại, rồi bảo mọi người về.

Sau đấy không còn nghe thấy tin tức gì nữa. Mẹ Thu tự an ủi:

- Thôi, thế thôi, ít ra là không bắt cánh thanh niên bị thương, không bị xử phạt.

Rồi bà nuốt nước mắt, đưa cậu con trai về lại nông thôn. Có thể người của đội sản xuất nơi anh trai Thu làm việc, nghe nói bị tố giác, nên họ cũng sợ, chăm sóc anh, để anh trông coi sân phơi thóc, việc nhẹ hơn ra đồng, nhưng mỗi ngày chỉ được một nửa công điểm, xem ra cuối năm phải kiếm thêm để trả tiền khẩu phần ăn.

Nghĩ đến những khoản chi cần thiết ấy, cho nên ngày đầu tiên của kỳ nghỉ hè, Thu bảo mẹ đi tìm mẹ của “cô em vợ” đang làm chủ tịch khu dân cư để xin việc. Hai mẹ con mới sớm ra đã đến nhà “cô em vợ” ngồi chờ. “Cô em vợ” tên là Lý Thân Minh, mọi người gọi mẹ cậu ta là bà chủ tịch. Thu ngượng vì phải gặp “cô em vợ”, vì hai người tuy học cùng một lớp, ngày thường vẫn gặp nhau nhưng ít chuyện trò, bây giờ phải gõ cửa cậy cục, nhờ mẹ cậu ta giúp đỡ.

Mẹ Thu đã từng dạy con trai bà chủ tịch, cho nên bà Chủ tịch rất khách khí với mẹ, bảo mẹ cứ về đi, bà ta hứa sẽ tìm việc cho Thu. Năm nào Thu cũng được mẹ dẫn đến gặp bà Lí, cho nên Thu đều bảo mẹ về để Thu đợi.

Lúc ấy, các nhà náy, xí nghiệp cần người làm việc vặt đều cho người phụ trách lao động đến gặp bà Lí, người của nhà máy, xí nghiệp đều được gọi chung là bên A.

Chín giờ hàng ngày bên A đến tuyển người, những người tìm việc nếu sau chín giờ mà không được tuyển coi như mất dứt ngày hôm đó. Nhìn chung, nếu tìm được việc làm có thể làm mấy ngày, công việc kết thúc, người tìm việc lại đến nhà bà Lí tìm việc mới.

Hôm ấy cùng chờ với Thu còn có một bà già, không biết bà bao nhiêu tuổi, răng đã rụng hết. Thu biết bà này, hai người trước đây cũng đã đi làm với nhau, mọi người gọi bà là bà Đồng. Vì bà lớn tuổi vẫn phải đi làm, Thu gọi bà là bà. Nghe nói con trai bà bị đấu, bị đánh đến chết, nàng dâu bỏ đi, để lại một đứa cháu vừa đến tuổi đi học. Thu không dám nghĩ đến hoàn cảnh của bà, nếu nay mai bà chết, thằng cháu kia sẽ sống thế nào?

Ngồi chờ hồi lâu mới thấy bên A đến tuyển người, họ cần lao động khỏe, vì phải chuyển cát từ thuyền xuống và gánh lên bờ. Thu hào hứng đò, nhưng bên A không chấp nhận, bảo không cần lao động nữ, nữ không gánh nổi cát. Bà Lí bảo Thu không vội, chờ có công việc nhẹ sẽ đến lượt.

Lại ngồi chờ. Một bên A khác đến, lần này cần người đầm đất, Thu lại hăng hái xung phong, nhưng bên A không nhận, bảo cô quá trẻ, da mặt mỏng, đầm đất phải là người vừa làm vừa hát thật to. Thu bảo không sợ, cô có thể hát. Bên A bảo cô hát thử. Thu cảm thấy người kia có phần giả dối, bên cạnh lại có Thân Minh, cô không thể hát nổi.

Bên A nói:

- Tôi nói rồi, không hát được, việc này chỉ có thể cho phụ nữ trung niên, mồm mép các bà ấy gì cũng có thể hát.

Bà Đồng nói:

- Để tôi hát, tôi dám hát. – Bà hắng giọng. – Ni cô hòa thượng trở mình, huầy huầy a…, ngày ngày đêm đêm nhờ người thương, cũng í a… í a…

Thu nghe, không biết hát cái trò gì mà toàn chuyện trai gái, tuy không hiểu, nhưng cũng nghe ra: về đêm gái nhơ trai, trai nhớ gái. Thu nghĩ mình không làm được chuyện ấy, đành xem bà Đồng hát, thế rồi bà vui vẻ đi với bên A.

Hôm ấy Thu chờ đến mười giờ mà vẫn không tìm được việc, cô đành lưu luyến ra về. Một ngày không có việc làm tựa như ngồi trên lửa, tựa như có người lấy từ trong túi Thu ra một đồng hai hào, đành phải chờ ngày mai đến nhờ bà Lí.

Chờ đến ngày thứ ba Thu mới tìm được việc, vẫn là việc gánh cát. Bên A nói nhiều người hôm trước tuyển đều không gánh nổi, bỏ việc, cho nên ông ta phải đến đây tuyển thêm. Thu khẩn thiết yêu cầu. Bên A mới tạm cho Thu thử việc, nếu làm không nổi thì phải thôi ngay, không trả tiền công nửa ngày. Thu vội đồng ý.

Tìm được việc Thu vui lắm, giống như một chân đã bước đến chủ nghĩa cộng sản. Thu theo bên A đến nơi làm việc, lúc ấy vừa đúng giờ nghỉ giải lao, tất cả đều là nam, không có một phụ nữ nào. Những người kia thấy Thu đến gánh cát đều ngạc nhiên. Có một người nói với giọng không thân thiện:

- Đằng ấy gánh ít, chúng tớ chịu thiệt, coi như giúp đằng ấy, đi tìm việc khác mà làm, làm nhiều được nhiều, làm ít được í>

Một người khác có phần tốt bụng, nói:

- Cánh tớ hai người làm thành một nhóm, một người xuống thuyền, một người gánh lên dốc, chứ một người vừa phải xuống thuyền vừa phải gánh lên dốc vất vả lắm. Liệu ai làm thành một cặp với cậu? Cùng nhóm với cậu chẳng hóa ra phải gánh thêm cho cậu à?

Thu lạnh lùng nói:

- Anh đừng lo, tôi vơi tôi làm thành một nhóm, tôi không gánh ít hơn các anh đâu.

Bên A nói:

- Cô cứ làm đi rồi hãy nói, không được thì đừng cố rồi lại xảy ra tai nạn lao động.

Có một người quen Thu nói: “Mẹ cô là cô giáo, cô còn tham chút tiền này làm gì?”

Có người thấy bên A đi rồi liền nói đùa:

- Ngày hè nóng bức, một mình cô là gái ở đây không tiện. Chốc nữa làm nóng lên, chúng tớ cởi hết áo quần, đến lúc ấy cô em đừng xấu hổ nhé.

Thu mặc bọn họ, nghĩ bụng: chúng mày cởi mà chả sợ xấu hổ, tao nhìn sợ gì? Thu chỉ cắm cúi sửa lại quang sọt, đòn gánh. Lúc làm việc, Thu cùng với một con trai xuống sông. Thuyền nối với bờ bằng một tấm ván làm cầu, tấm ván chỉ rộng chừng ba chục phân, đi lên đấy tấm ván oằn xuống. Phía dưới là sông, nước sông đang to, đục ngầu, đỏ vàng lẫn lộn, trông thật dễ sợ, những người non gan đi tay không cũng không dám qua cầu ván này đừng nói gì gánh cát nặng.

Lâu không gánh, nay gánh cảm thấy đâu vai. Cũng may, cái đòn gánh Thu gánh quen từ nhiều năm nay, vẫn còn rất tốt, không quá dài, hơn nữa rất mềm, gánh lên vai cứ nhún nha nhún nhảy. Những người biết gánh đều biết, nếu một đòn gánh không nhún nhảy, cứng đơ đơ, lúc gánh rất mệt; nếu cái đòn gánh gánh lên nhún nhảy hài hòa với bước đi, khiến gánh nặng trên vai nhe đi rất nhiều.

Gánh cát phải đến năm chục ký, Thu gánh cát đi trên cái cầu ván hẹp oằn xuống, chỉ sợ chân bước hụt sẽ rơi xuống sông. Thu biết bơi, nhưng bên mép nước đầy những đá, ơi xuống chắc chắn không bị chết đuối thì cũng va vào đá mà chết. Thu không dám nhìn xuống chân, mắt nhìn thẳng, nín thở, coi như qua cầu an toàn.

Xuống khỏi thuyền lại phải leo dốc, có một đoạn bằng phẳng gần mép nước, nhưng càng đi càng dốc, đi tay không leo dốc còn phải thở phì phò, gánh nặng trên vai thì không biết như thế nào. Bây giờ Thu mới hiểu tại sao bọn con trai kia chia thành nhóm hai người, là vì vừa qua cầu ván, hai chân đã bủn rủn, nếu có người tiếp sức leo dốc, người gánh từ thuyền xuống có thể nhẹ nhàng đi về thuyền, tạm thời nghỉ ngơi. Nhưng nếu là một người phải đi một đoạn đường xa mới tới đích.

Thu không có bạn, đành gánh một mình. Gánh được hai chuyến, toàn thân ướt đẫm mồ hôi, nắng đã lên, lại không có nước uống, cảm thấy người như say nắng, sắp ngất. Nhưng nghĩ hôm nay gánh sẽ được một đồng hai hào, nhất là nhớ lại hai hôm nay không tìm được việc, Thu phải cắn răng để làm.

Ngày hôm ấy không biết đã qua đi thế nào, đến lúc hết giờ, Thu mệt nhoài. Nhưng về đến nhà Thu vẫn làm ra vẻ thanh thản, nếu không mẹ sẽ lo lắng. Hôm ấy Thu rất mệt, ăn cơm, tắm xong là đi ngủ ngay.

Hôm sau, mới rạng sáng Thu đã dậy, lúc ấy mới cảm thấy cái đau đớn của ngày hôm qua không là gì, lúc này toàn thân rã rời, hai vai phồng rộp, đau đến độ không mặc được áo. Vì phải trở vai luôn luôn nên phía sau cổ cũng bị trầy xước, hai bắp đùi nặng trĩu, mặt với cánh tay sém nắng, khi rửa mặt nước lên mặt đau rát.

Mẹ thấy Thu dậy liền đến khuyên con đừng đi làm nữa, mẹ nói:

- Con làm vất vả quá, đem qua ngủ cứ rên hừ hừ, hôm nay đừng đi nữa.

- Con ngủ lúc nào cũng rên. – Thu nói

Mẹ cầm cái đòn gánh, nói như khẩn cầu:

- Con ơi, đừng đi nữa, con gái của mẹ, con gái gánh nặng không tốt đâu, sẽ sinh ra nhiều chứng bệnh, mẹ biết thói quen của con, con không ốm thì làm sao ngủ lại rên, chắc chắn hôm qua con mệt lắm.

Thu an ủi mẹ:

- Mẹ yên tâm, conoán cả rồi, con sẽ không đi làm những việc quá nặng nhọc đâu.

Gánh cát hai ngày, cánh thanh niên cùng làm có cái nhìn khác về Thu, tuy Thu là gái nhưng gánh không kém bọn họ. Có một câu tên lá Vương Trường Sinh chủ động đến nhận làm một nhóm với Thu, cậu ta bảo, leo dốc mệt, tôi sẽ gánh lên dốc, Thu gánh từ thuyền xuống.

Sinh cố gắng đi thật nhanh, đi quãng đường dài thêm, như vậy Thu có thể đi quãng đường ngắn hơn. Có lúc Thu vừa xuống thuyền thì Sinh đã đến đón, khiến Thu phát ngượng, những người khác cũng cười cho hai người.

Gánh liền mấy hôm Thu cảm thấy đỡ đau mỏi, cũng không thở dốc như mấy hôm trước. Điều Thu lo lắng ấy là việc làm chỉ được mấy hôm, lại phải đến chờ việc, không biết lúc nào mới có việc làm. Bây giờ hạnh phúc nhất đối với Thu có cát để gánh, có việc để làm, suốt mùa hè làm không hết việc.

Trước khi hết đợt gánh cát vài hôm, Thu vừa gánh cát từ thuyền lên, Sinh đến đón, nói:

- Để tôi gánh cho, có người chờ cô trên kia, cô lên đấy nhanh lên.

_______________________________

[1]Khu (địa khu) là cấp hành chính dưới tỉnh, trên huyện, gồm một huyện trong một tỉnh. – ND



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
Đăng lúc 18-6-2013 07:50:03 | Chỉ xem của tác giả

Chương 17




THU RẤT SỐT RUỘT, không biết ai đến tận công trường tìm mình, Thu hỏi Sinh:

- Anh có biết ai tìm em không?

- Một người giống như em gái của cô, còn người kia tôi không biết.

Nghe nói em gái, tay chân Thu mềm nhũn, chắc là mẹ xảy ra chuyện gì rồi, không thể đang tr nắng em phải ra tận đây. Đúng lúc, Thu gánh gánh cát lên, nhưng nghe nói vậy, Thu không gánh nổi, đành để Sinh gánh lên. Thu xin lỗi:

- Làm phiền anh, em chạy lên xem ai.

Thu vội vã chạy lên, trông thấy em gái đang đứng dưới bóng cây, bên cạnh còn có một người con gái khác, Thu nhìn, thì ra Phương, Thu cảm thấy nhẹ cả người.

- Phương đấy à? Mình cứ ngỡ…

Phương đang phe phẩy cái khăn tay, nói:

- Nóng quá, nắng nóng thế này mà chị Thu vẫn đi làm?

Thu đến dưới bóng cây:

- Phương vừa đến à? Hôm nay có phải về ngay không? – Thấy Phương gật đầu liền nói: – Vậy Thu xin phép nghỉ hôm nay.

Thật ra cũng khó, nếu xin phép nghỉ Sinh sẽ hải gánh một mình, như vậy chẳng hóa ra làm hại anh? Nếu không nghỉ, chỉ đứng đây nói chuyện người ta sẽ có ý kiến. Đang không biết phải xử lí thế nào thì Thu thấy Sinh gánh cát lên, cô chạy đến thương lượng.

Sinh rất mau mồm mau miệng:

- Cô cứ nghĩ đi, tôi gánh một mình cũng được.

Vậy là Thu xin nghỉ, cùng về với em gái và phương. Về đến nhà, nghe nói Phương chưa ăn cơm, Thu liền thổi cơm mời Phương, cũng chẳng có gì ăn, Thu lấy dưa muối, rau cải khô lần trước bà Trương cho, đem ngâm nước nóng, xào lên, làm ít nộm, nấu cháo đỗ xanh, ăn cũng ngon miệng. Ăn xong, Phương kêu muộn, phải lên phố đón xe, Thu định giữ Phương ở lại chơi ít hôm, nhưng Phương không chịu. Thu thấy cũng đã muộn, không giữ, liền đưa Phương ra bến xe.

Hai người ra bến đò, qua con sông nhỏ trước nhà. Thu xin lỗi Phương:

- Lần nào đằng ấy lên cũng vội vội vàng vàng, không ở chơi lâu được.

- Chỉ nên trách Phương, Phương đi chuyến xe tám giờ, chín giờ lên đến đây, kết quả quên đường. Dọc đường phải hỏi thăm, cứ loanh quanh mãi, người ta chỉ ngược đường, đi lạc không biết bao nhiêu chỗ. Phương nhớ đường kém lắm.

Thu liền chỉ dẫn cho Phương biết đường từ bến xe về đến trường trung học số Tám, mời Phương lần sau lên chơi.

Hai người ra bến, lên đò sang bên kia, Phương lấy ra một cái hộp nhỏ đưa cho Thu:

- Phương xem chị Thu như chị, nếu chị xem Phương như em gái thì nhận cái này, nếu không Phương giận đấy.

Thu mở cái hộp giấy nhỏ ra, bên trong là một trăm đồng. Thu giật mình:

- Phương… tại sao Phương cho mình tiền?

- Để chị Thu không phải đi làm thuê.

- Phương làm gì có tiền?

- Tiền của chị Phần, chị ấy bán đồng hồ của anh Hải cho. – Phương nói.

Thu biết, Hải chính là “cái mặt” của Phần, nhưng Thu không hiểu tại sao Phần lại bán cái đồng hồ, lấy tiền cho Thu vay. Phần yêu cái đồng hồ ấy như yêu bản thân, tại sao lại bán nó đi? Thu định ấn số tiền kia vào tay Phương:

- Phương giúp tớ cảm ơn chị Phần, nhưng Thu không thể nhận. Thu có thể đi làm, có thể kiếm tiền, không thích nợ ai.

Phương kiên quyết không cầm lại tiền:

- Vừa rồi Phương coi chị Thu như chị gái, tại sao lại xem Phương như người ngoài vậy?

Hai người cứ đẩy đi đẩy lại, con đó chòng chành, người lái đó phải kêu lên:

- Hai cô định làm đắm đò đấy à?

Thu và Phương sợ hãi, ngồi yên. Thu cầm tiền, định lên bờ sẽ tìm cách bỏ vào túi Phương.

Phương rất thật lòng:

- Chị Thu thấy đấy, trời nắng thế này mà chị làm ở ngoài trời, làm cái việc gánh cát Phương cũng không làm nổi. Chị làm sao làm nổi? Đừng nói gì đến kéo xe, làm xây dựng, đấy không phải là những việc để cho phụ nữ làm.

Thu thấy lạ, chưa bao giờ nói với Phương rằng mình đi lao động, tại sao Phương biết những chuyện kéo xe, làm ở công trường xây dựng như vậy? Thu hỏi Phương:

- Tiền này có thật của chị Phần không? Phương không nói thật, Thu nhất định không nhận.

- Phương nói thật, chị Thu có nhận không?

- Phương cứ bảo thật tiền này ở đâu ra, Thu sẽ nhận. – Thu dỗ ngọt.

Phương do dự giây lát, nói:

- Chị Thu không giữ lời, đừng hòng Phương nói thật, nói thật chị lại không nhận.

Nghe nói vậy, Thu càng không tin số tiền này là của Phần. Thu suy nghĩ một lúc, nói:

- Phương bảo với tớ tiền này ở đâu ra, Phương nói coi mình như chị, vậy mà mình nói Phương cũng không tin.

Phương do dự một lúc, cuối cùng cũng nói ra:

- Tiền này của anh Ba bảo Phương mang đến cho chị, nhưng anh ấy không cho Phương nói, anh ấy bảo không biết vì sao anh ấy có lỗi với chị, nếu chị biết đây là tiền của anh ấy, chắc chắn chị sẽ không nhận.

Thấy Thu cầm tiền, Phương cho rằng Thu đã nhận, rất vui, tự thổi phồng:

- Phương nói rồi, chuyện này Phương sẽ làm được, anh Ba không tin, sợ Phương không thuyết phục nổi chị. – Phương tìm trong túi mấy đồng tiền lẻ ra đếm, rất đắc ý. – Tiền đi đường của Phương cũng là anh Ba chi, anh ấy bảo xuống xe đường xa phải đi tiếp xe buýt nội đô đến trạm cuối cùng, đến bờ sông, đi đò qua sông, cứ dọc theo bờ sông là đến nhà chị. Phương không đi xe buýt, sợ nhầm xe, cho nên mới đi lạc đường, nhưng Phương tiết kiệm được tiền xe buýt.

Thu nghĩ rằng Ba đã nhận được thư của mình, chắc chắn sẽ “lần sau xin đừng”, không ngờ anh không thôi, hay là anh không nhận được thư? Thu không dám nói với Phương về lá thư, chỉ hỏi:

- Anh Ba… vẫn tốt đấy chứ?

- Anh ấy là con người đàng hoàng, có gì không tốt? Nhưng anh ấy bảo, hễ đến kỳ nghỉ hè anh ấy lại lo, đoán chừng chị Thu đi làm, sợ chị đứng trên giàn giáo ngã xuống, lại sợ kéo xe ngã xuống sông, anh ấy mấy lần giục Phương đem tiền đến cho chị, sợ đưa muộn chị sẽ đi làm. Không phải Phương không muốn đưa sớm, nhưng vì trường Phương nghỉ hè muộn hơn trường của chị, nên vừa được nghỉ hè là Phương đi ngay, nếu không anh ấy giục.

Cổ họng Thu như nghẹn lại, lặng đi một lúc, rồi cố tỏ ra không có chuyện gì:

- Tại sao anh ấy cứ nói những chuyện gở ấy? Bao nhiêu người đi làm, có ai ngã chết hay rơi xuống sông chết đuối đâu?

Thuyền ghé bờ, hai cô gái bước lên, Thu nói:

- Thu với Phương ngồi xe buýt để Phương làm quen, lần sau lên khỏi đi lạc.

Lần đầu tiên Phương đi xe buýt, rất lạ, dọc đường chỉ nhìn ra ngoài, không còn tâm trạng nào nói chuyện với Thu. Nhưng chỉ một lúc sau đã phải xuống xe. Phương và Thu chen xuống, liên tục hỏi:

- Sao gần thế? Vừa mới ngồi, đi bộ thấy xa quá, tại sao ngồi xe chỉ một lúc là đến?

Hai người đến bến xe đường dài, mua vé chuyến xe ba giờ chiều, Thu lo lắng hỏi:

- Chốc nữa Phương đi đường núi về, có sợ không?

- Phương không đi đường núi, đi đường dưới, đường ấy đông người qua lại.

Thu thấy yên tâm. Vẫn chưa đến giờ xe chạy, hai cìm một chỗ ngồi nói chuyện. Thu chú ý nhưng không có cơ hội náo để nhét tiến vào túi Phương, đành phải nhận. Thu nắm tay Phương, để tiền vào tay Phương, rồi nắm chặt tay hơn, nói:

- Phương cảm ơn anh Ba giúp Thu, Thu không nhận tiền của anh ấy đâu. Phiền Phương nói giúp, bảo anh Ba từ nay về sau đừng gửi nữa.

Phương bị Thu nắm chặt tay, không có cách nào để tiền lại vào tay Thu, đành chờ cơ hội:

- Tại sao chị Thu không chịu nhận? Anh ấy muốn giúp, chị chứ đề anh ấy giúp, lẽ nào chị phải để anh ấy ngày ngày lo lắng mới thấy thoải mái?

- Thu không muốn để anh ấy lo lắng, thật ra anh ấy cũng không cần phải lo cho Thu. – Thu suy nghĩ rồi nói thêm: – Anh ấy có… vợ chưa cưới, nên lo cho chị ấy thì hơn.

Thu hi vọng nghe được Phương nói anh ấy đâu có vợ chưa cưới, nhưng lại nghe thấy Phương nói:

- Chuyện này đâu có liên quan gì đến vợ chưa cưới của anh ấy?

- Anh ấy đã có… vợ chưa cưới rồi à?- Thu rụt rè hỏi.

- Nghe nói hai gia đình thỏa thuận, chuyện từ mấy năm trước rồi.

Thu rất buồn, tuy biết chuyện không phải ngày một ngày hai, nhưng trong lòng Thu mong đấy không phải là sự thật. Thu ngẩn ngơ hỏi:

- Làm sao Phương biết anh ấy đã… có vợ chưa cưới?

- Anh ấy nói, còn cho chị Mẫn xem ảnh hai người chụp chung.

- Nghe chị Mẫn nói, tấm ảnh ép dưới tấm kính trên bàn, nhưng tại sao Thu không thấy? Chắc chắn anh ấy cất đi rồi.

- Đừng đổ oan cho anh ấy, là Phương lấy đi. Vì Phương nghe nói, nếu cắt hai người ra một cách nguyện vẹn thì có thể chia rẽ họ, Phương lấy kéo tách đôi hai người ấy ra rồi.

Thu thấy chuyện hết rất mê tín, nhưng lại làm lòng người say mê, nếu thật như thế thì tuyệt biết chừng nào. Thu rất hào hứng hỏi:

- Vậy Phương… có tách được hai người ra mà không làm tổn hại một sợi tóc nào không?

- Cũng tương đối, nhưng vai hai người hơi sát vào nhau, vai anh ấy bị khuất sau vai chị kia, cho nên… cho nên sau khi cắt ra, vai của anh Ba bị thiếu một chút. Chị Thu đừng nói với anh ấy nhé, chuyện không có lợi. – Xem ra Phương cũng không tin những chuyện đó, nhưng vẫn cười hì hì. – Nếu một hôm nào đó vai anh Ba bị đau, ấy là tại Phương.

- Cho đáng đời, tại sao anh ấy lại như thế? Ở nhà đã có vợ chưa cưới mà còn cho tiền người khác…

Phương ngạc nhiên:

- Ở nhà có vợ chưa cưới lại không cho người khác tiền được à? Anh ấy tốt bụng, giúp đỡ người khác, đâu có ý gì. Chị Thu đừng hiểu nhầm, cho rằng anh ấy có ý gì với chị, anh ấy không phải là con người như thế. Anh ấy rất thương người, không muốn thấy ai cực khổ. Cái Tú trong thôn cũng được anh ấy giúp như thế đấy.

- Ai cơ?

- Tức là… cái Tú, bố nó rất nát rượu, mọi người gọi ông ta là ông “Tào ba bữa”, chị Thu quên rồi à? Một hôm, anh Ba ăn cơm ở nhà Phương, ông “Tào ba bữa” đến tìm, hỏi xin tiền.

Thu nhớ ra người ấy. Lúc ấy Thu nghĩ, ai đó vay tiền Ba, nên không để ý. Thu nỏi:

- Anh Ba giúp Tú con gái ông ấy à? Giúp gì?

- Cha cái Tú nát rượu, mẹ nó chết từ lâu, có thể bị cha nó đánh chết. Cha nó uống nhiều rượu rồi đánh vợ, uống ít cũng đánh, không uống càng đánh dữ hơn. Cha nó mỗi ngày ba bữa rượu, mỗi ngày đánh mẹ nó ba lần, nếu không làm sao dân làng gọi lão là ông Tào ba bữa? Me cái Tú chết mấy năm nay rồi, cha nó vẫn không chịu đi làm đồng, đội sản xuất phân cho ông ta chăn bò, ông ta mải uống, để bò đi ăn lúa và hoa màu, bị đội sản xuất trừ công điểm. Ông ta có đồng nào đều uống rượu bằng hết. Cái Tú mới mười bốn, mười lăm tuổi, ông ta định gả bán nó để đổi lấy tiền uống rượu.

- Cái Tú không có ai lấy, vì có người cha như vậy, trong thôn không ai dám lấy. Về sau, cha nó gán cho anh Hai con nhà Mạnh, anh này có chứng động kinh, mỗi lần lên cơn thật dễ sợ, sùi bọt mép, gặp đâu cũng nằm, bất tỉnh nhân sự, sớm muộn gì rồi cũng chết. Cái Tú không chịu lấy, bị cha nó đánh chết đi sống lại, bảo nuôi toi cơm bao nhiêu năm, người ta bảo con gái là hũ rượu của cha, vậy mà tao sinh ra mày là cái hũ cứt, hũ đái, không phải hũ rượu.

- Vậy anh Ba đồng ý lấy Tú để cứu nó à? – Thu phỏng đoán.

- Đâu có chuyện! Anh ấy cho cha nó tiền uống rượu, bảo ông ấy đừng đẩy con đên chỗ chết. Cha cái Tú chỉ cần có rượu uống, còn con gái lấy ai cũng không cần biết, về sau cái Tú không bị ép lấy cái anh động kinh kia. Nhưng anh Ba không thoát khỏi sữ quấy nhiễu, cha cái Tú hễ hết tiền uống rượu lại đến tìm, lão nói, điều này chỉ nên trách anh, nếu anh không nhúng vào thì tôi đã gả nó cho người ta lấy tiền uống rượu rồi. Anh Ba sợ lão đánh cái Tú, lần nào lão đến tìm cũng cho tiền. Lão ta được đằng chân lân đằng đầu, định bắt anh lấy cái Tú, lão bảo anh giết người thì giết cho chết hẳn, giúp người thì giúp cho đến noi đến chốn, anh lấy con gái tôi đi, như vậy tôi không lo không có rượu. Thật ra cái Tú cũng có ý ấy, ai mả không muốn lấy chồng ăn gạo nhà nước, cha lại là quan to? Hơn nữa, anh Ba đẹp trai, tốt tính. Cái Tú cứ đến lán đội thăm dò tìm anh, giặt đồ giúp anh ấy, nhưng anh không chịu, chị Phần cũng không để thế, chị giành lấy mang về giặt.

- Chị của Phương… cũng thích anh Ba lắm nhỉ?

- Ừ, chị Phần tớ nhờ chị Mẫn nói chuyện với anh Ba, nhưng anh ấy không đồng ý, bảo ở nhà đã có vợ chưa cưới. Chị Phần khóc lóc, thề suốt đời không lấy ai, nhưng sau đấy chị ấy gặp anh Hải, không còn giữ lời thề nữa, suốt ngày đòi cưới.

- Phương ấy cắt cái ảnh là định giúp chị Phần à?

Phương cười ngượng rồi nói:

- Chuyện của chị Phần từ lâu rồi. Cái ảnh ấy Phương cắt cách đây ít lâu.

Tim Thu đập dồn dập, nghĩ bụng có thể Phương đã nhìn thấu lòng mình rồi nên cắt giúp mình. Thu hỏi:

- Vậy… Phương giúp ai cắt ảnh>

- Cắt giúp người khác không có tác dụng, phải tự cắt cho mình. – Phương thẳng thắn. – Phương cắt ảnh của hai người không có tác dụng, chỉ cắt rời hai người, không thể ghép được anh ấy. Anh Ba xem thường bọn mình, nghe nói anh ấy với vợ chưa cưới quen nhau từ ngày nhỏ, bố của hai bên đều là quan to, chúng ta có là gì? Cho nên anh ấy cho chị Thu tiền chỉ là giúp đỡ, không phải để ý đến đâu. Phương khuyên chị cứ lấy tiền, vì chị không lấy người khác cũng lấy mất, việc gì để lão “ba bữa” lấy uống rượu.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
Đăng lúc 18-6-2013 19:57:31 | Chỉ xem của tác giả

Chương 18




THU RẤT BUỒN, Phương càng nói chuyện của Ba, Thu càng buồn. Trước đây Thu nghĩ Ba giúp là vì anh thích mình, tuy Thu vì tính tự trọng không nhận nhưng trong lòng rất cảm động. Bây giờ nghe chuyện của Tú, lòng Thu hoàn toàn băng giá.

Thu nghĩ, chắc chắn Ba đã ôm Tú rồi, anh chỉ mới quen biết Thu một thời ngắn đã ôm, vậy anh quen biết Tú một thời gian khá dài, liệu có thể ôm Tú không? Xem ra Ba như chàng công tử quyền quý trong sách, Thu hiểu ý nghĩa của những từ này, chẳng phải là đem mấy đồng tiền xấu xa ra chinh phục đám con gái hay sao?

Nghĩ đến đây, Thu cảm thấy mình đã bị Ba bôi bẩn lên người, nhất là đôi môi. Bị anh ôm cách mấy lớp áo quần, đã tắm giặt bao nhiêu lần, liệu đã sạch chưa? Nhưng lưỡi anh đưa vào tận chân răng vào môi, nghĩ mà buồn nôn. Thu phì phì nhổ nước bọt, mặt mày tái xanh, ngồi kia không nói được lời nào.

Phương định nhét tiền vào tay Thu, nói:

- Chị Thu cầm lấy, đồng ý với Phương đi, không thể không giữ lời hứa.

Thu như bị bỏng, tránh xa ra, tiền rơi xuống đất. Thu không nhặt, chỉ đứng từ xa nói:

- Thu đồng ý nhận tiền của Phương, nhưng không đồng ý nhận tiền bẩn của anh ấy, Phương đem tiền về trả cho anh ấy, đừng để vì số tiền này mà ngày mai Thu phải mất công về tận Tha>

Thu nói những lời này nét mặt và khẩu khí đều rất khó coi. Phương sợ hãi nhìn Thu, rụt rè nói:

- Số tiền này… bẩn thế ư?

Thu không dám nói ra chuyện Ba ôm mình, chỉ nói:

- Phương không hiểu thì thôi, đừng hỏi.

Phương ngồi xuống nhặt tiền, vừa lúng búng:

- Làm thế nào bây giờ? Phương dùng hết tiền đi đường của anh ấy, bây giờ việc không thành, chị Thu bảo Phương phải nói thế nào với anh ấy? Chị là người tốt, nhận tiền của anh ấy coi như sự giúp đỡ.

Thu không muốn để Phương phải khó xử, liền an ủi:

- Không sao, Phương về bảo với anh ấy Thu làm việc dán hộp giấy, tiền công cao, công việc không nặng nhọc, không cần đến tiền của anh ấy, cũng không cần anh ấy phải lo lắng. Phương nói như vậy anh ấy không trách đâu.

Phương suy nghĩ rồi đồng ý:

- Phương có thể giúp chị Thu nói dối, nhưng chị phải bảo Phương cách nói. Phương không biết nói dối, hễ nói dối là sợ, bị người ta hỏi này hỏi nọ vậy là lòi đuôi nói dối. Lần

Này anh Ba dặn đi dặn lại mãi, kết quả bị chị dỗ ngon dỗ ngọt, Phương sẽ nói ra mất thôi.

Thu bảo Phương cách nói dối, nói ra cả địa chỉ xưởng may, xưởng hướng về phía nào, bảo đã gặp Thu ở đấy, kỳ nghỉ hè năm nay Thu làm ở xưởng dán hộp giấy, không cần phải đi đâu.

Phương dặn:

- Vậy chị Thu đừng làm công việc nguy hiểm kia nữa, nếu xảy ra tai nạn, anh Ba sẽ biết Phương nói dối.

Tiễn Phương đi rồi, Thu không nỡ bỏ tiền ra đi xe buýt, cứ vậy đi bộ về, dọc đường luôn nghĩ đến ú. Thu chưa gặp Tú, nhưng trước mắt hiện lên thật rõ ràng một cô gái ăn mặt rách rưới nhưng rất thanh tú, xinh đẹp, rồi hình ảnh Ba, sau nữa là hình ảnh anh ôm Tú. Tú hàm ơn Ba, chắc chắn Ba muốn làm gì thì làm, có thể anh đã đưa lưỡi vào tận miệng Tú, Tú cũng không có phản ứng.

Về đến nhà, Thu thấy đầu đau nhức, không ăn uống gì, đi nằm luôn. Mẹ sợ Thu bị cảm nắng. Mẹ hỏi, Thu bực mình, mẹ không dám hỏi thêm.

Ngủ một lúc, Trường Sinh đến, nói bne6 A tối nay yêu cầu làm thêm giờ, vì thuyền chờ hôm nào là xưởng phải trả thêm tiền hôm ấy. Hôm nay làm thêm giờ từ sáu giờ đến chín giờ, ba tiếng đồng hồ sẽ dược tính nửa ngày công.

Vừa nghe nói, Thu bất chấp đau đầu, bất chấp tức giận, nói gì đi nữa thì Ba vẫn thuộc thượng tầng kiến trúc, vẫn nắm kinh tế. Thu cảm ơn Sinh, ăn vội vài bát cơm, quẩy gánh đi ngay. Ra đến bờ sông thấy người làm đã đông đủ, có người còn gọi thêm người nhà cùng làm. Làm ba tiếng đồng hồ được những nửa ngày công, liệu ai không muốn làm?

Tối hôm ấy không phải làm ba tiếng, mọi người gánh cho hết cát trên thuyền mới nghỉ. Bên A bảo mọi người vất vả, tối nay sẽ tính trọn một ngày tiền công. Coi như việc đã xong, ngày mai khỏi phải đi làm, sau này có việc gì gọi mọi đến làm.

Vui vì kiếm được tiền nhưng lại bị nỗi khổ thất nghiệp xóa sạch, Thu ngao ngán: Ngày mai lại đến cầu xin mẹ “cô em vợ”, chưa biết có việc làm hay không, Thu đang lê đôi chân nặng nề về nhà, bên A đuổi theo, hỏi cô có muốn sơn đồ hay không, anh ta còn một ít đồ phải sơn, nếu đồng ý, từ mai đến đội sửa chữa của xưởng để làm việc.

Thu không dám tin vào lỗ tai mình. Bên A hỏi lại, Thu mới nói:

- Anh nói thật không đấy? Em cứ nghĩ anh nói đùa.

Bên A nói:

- Tôi có đùa đâu? Tôi bảo cô đi sơn đồ, thấy cô làm chăm chỉ, tin ở cô. Hơn nữa, sơn đồ cô phải tỉ mỉ, con gái làm việc này rất thích hợp. – Bên A nói.

Thu mừng lắm, như thế gọi là “vận may đến không cửa nào ngăn nổi”. Hôm sau Thu đến đội duy tu làm thợ sơn, tuy nghe nói sơn có độc tính, được thêm một hào phụ cấp độc hại, Thu bất chấp độc hại.

Kỳ nghỉ hè ấy Thu gặp may, về sau mỗi lần khoác lác Thu bảo được đến xưởng bao bì dán hộp giấy hai tuần lễ, ngay cả Thu cũng không biết ra sao, đồn rằng ai nói dối sẽ bị sét đánh, Thu không bị sét đánh mà thật sự được đến xưởng bao bì dán hộp giấy, có thể lần ấy Thu nói dối gặp may.

Việc làm ở xưởng này không phải do bà Lí giới thiệu, xưởng bao bì ở bên kia sông, không thuộc khu vực bà Lí quản lí. Việc này là do thầy Vương của trường số Tám giới thiệu, con thầy là quan nhỏ ở xưởng này, kỳ nghỉ hè năm nào cũng giới thiệu người đến đây làm việc.

Thầy Vương khen Thu khéo tay, thường mua sợi nilông nhờ Thu đan vỏ bọc li trà, mua len nhờ Thu đan áo đan quần. Khăn trải bàn tròn, bàn trà, bàn vuông trong phòng khách của nhà thầy đều do Thu móc giúp, móc toàn bằng chỉ thường nhưng hoa văn do Thu thiết kế không giống của ai, khăn bàn Thu móc giống như đồ mỹ nghệ, ai trông thấy cũng khen hết lời, cứ nghĩ thầy Vương phải mua.

Mỗi lần có cơ hội việc làm, người đầu tiên thầy Vương thông báo là Thu. Lần này xưởng không dán hộp mà là thao tác giống như công nhân chính thức, được phát mũ trắng, trong xưởng máy có dây curoa, sợ công nhân nữ tóc dài bị cuốn vào máy. Công nhân chính thức còn được phát một cái tạp dề màu trắng mặc lên giống như công nhân máy dệt. Nhưng thợ phụ không có, cho nên nhìn là biết ngay ai là công nhân chính thức, ai là công nhân phụ việc. Thu muốn tìm một cái tạp dề trắng để có cảm giác mình là một công nhân thực thụ. Công việc cũng đơn giản, túc là cầm hai tấm bìa phẳng và một tấm bìa lượn sóng cho vào máy, máy sẽ quét hồ lên tấm bìa, mấy tấm bìa chạy qua máy được ép vào với nhau thành bìa lượn sóng, có thề dùng làm thùng giấy, hộp giấy. Kỹ thuật duy nhất là lúc cho bìa vào máy phải ngay ngắn, nếu không lớp bìa lượn sóng sẽ bị lệch, trở thành phế phẩm. Thu làm việc gì cũng cẩn thận, cố gắng làm thật tốt cho nên nhanh chóng thạo việc. Công nhân làm cùng rất thích Thu, vì Thu nhanh tay, chăm chỉ, không lười, công nhân để Thu làm, họ lĩnh ra ngoài, đến cửa hàng bách hóa gần đấy đi chơi. Ngày nào cũng vậy, máy của họ đều làm xong công việc trước tiên, chờ nhân viên nghiệm thu đến kiểm tra, họ chỉ còn ngồi trong phân xưởng chờ hết giờ.

Xưởng còn chia lê cho công nhân, công nhân chính thức được ba cân, thợ phụ được hai cân. Lê của thợ phụ quả bé, nhưng Thu rất phấn khởi, đấy là lê được chia, không mất tiền, bình thường làm gì có chuyện được chia lê.

Thu được chia lê, rất vui, những người khác đều ăn tại chỗ, Thu không nỡ, vẫn làm việc, một vài người lấy làm lạ, hỏi Thu lại sao không ăn. Hết giờ làm, Thu biến nhanh như làm xiếc, mang lê về cho em gái. Em gái Thu rất phấn khởi, vội cầm ba trái lê ra máy nước rửa sạch, đưa mỗi người một trái, Thu không ăn, bảo đã ăn ở xưởng nhiều rồi, không muốn ăn nữa.

Thu thấy em gái vừa ăn vừa đọc sách, nó cắn từng miếng nhỏ, nửa tiếng đồng hồ mới ăn hết trái lê, Thu xót xa tự nhủ: bao giờ có nhiều tiền sẽ mua hẳn một làn lê để em gái muốn ăn lúc nào thì ăn, ăn cho chán thì thôi.

Tiếc là, việc ở xưởng bao bì chỉ làm trong hai tuần, lúc người phụ trách thông báo ngày mai không phải đi làm nữa, Thu mới biết mình chỉ là một công nhân phụ động, chợt nhớ đến một câu trong sách Ba cho mượn: “Trong mơ không biết mình là khách, ham chơi một chiều”.

Sau đấy Thu lại đến chờ việc ở nhà bà Lí, lại lo không có việc làm, lại là công việc nặng nhọc, vào lúc ruột nóng như lửa và cơ thể mệt mỏi, chàng công tử con nhà giàu và tất cả cứ xa dần.

Sau ngày khai giảng, Thu rất bận, không bận vì việc học mà bận với những thứ linh tinh. Trong học kỳ ấy, Thu là đội viên đội bóng chuyện của trường, còn phải tập luyện bóng bàn, chuẩn bị thi đấu.

Nhà trường quy định, mỗi học sinh chỉ được tham gia một môn thể thao để tránh phân tán sức lực, không chơi tốt môn nào. Nhưng với Thu có chút đặc biệt, thầy Uông huấn luyện viên bóng bàn thương lượng với thầy Vạn huấn luyện viên đội bóng chuyền để Thu tham gia cả hai môn.

Thầy Uông rất coi trọng Thu, cả trường không có một nữ sinh nào chơi bóng bàn giỏi như Thu, ngoài ra còn một nguyên nhân nữa là, vấn đề lịch sử.

Lúc còn học trung học cơ sở, Thu là đội viên đội bóng bàn. Năm đó, trong cuộc thi bóng bàn học sinh toàn thành, Thu được xếp thư tư. Vào bán kết, Thu gặp một tuyển thủ khác cùng trường tên là Lưu Thập Xảo. Lúc Xảo viết tên mình thường tách rời hai phần của chữ Xảo trông như số 23, một thầy giáo dạy thể dục lúc điểm danh gọi Xảo là 6+23[1], vậy là thành cái biệt hiệu của Xảo.

Ở trường, những lúc tập luyện, Thu vẫn tập với 6+23, Thu cầm vợt dọc tấn công, 6+23 cầm vợ phòng thủ. Huấn luyện viên biết 6+23 đỡ bóng rất tốt, nhưng tấn công không manh, không có những tuyệt chiêu làm đối phương phải bó tay, không như Thu, lúc tiu bóng có thể tiu chết người, phát bóng cũng chết người. Cho nên, huấn luyện viện định cho 6+23 chiến thuật đẩy xa đối phương, làm đối phương yếu dần, không mong hạ được đối thủ, chờ cho đối phương mất kiên nhẫn, phạm sai lầm chết người.

Thu và 6+23 cùng đội, tất nhiên biết chỗ mạnh chỗ yếu của nhau, đồng thời cũng biết huấn luyện viên định chiến thuật nào cho mỗi bên, cho nên biết cách đối phó. Bình thường tập luyện với nhau Thu đều thắng.

Lúc ấy thi đấu theo thể thức loại trực tiếp, hễ thua là bị loại. Vào vòng hai, Thu gặp một tay vợt của trường huấn luyện thể dục thể thao, nghiệp dư gặp chính thức. Thầy Uông không hi vọng ở Thu, bảo Thu đánh thật thoải mái, không để trắng tay, ý bảo không để thua ba séc là vinh dự lắm rồi. Thậm chí thấy Uông cũng không ngồi xem, vì xem cũng chẳng làm được gì, chỉ làm chết thêm tế bào.

Không ngờ, vì Thu không hi vọng nên đánh rất thoải mái, liên tục vụt phải vụt trái, ngay cả trọng tài ghi điểm cũng không muốn xem. Có thể Thu đánh không sức ép tâm lí làm đối phương phải chùn tay, cũng có thể cách đánh của Thu không chính quy, đối thủ không quen, cuối cùng Thu thắng đối thủ là học sinh trường huấn luyện thể dục thể thao.

Lần ấy thầy Uông phấn khởi vô cùng, những người chơi cùng phải nể sợ, đối thủ tiếp theo thua rất tự nhiên, Thu tiếp tục thắng. Bảng của 6+23 cũng rất thuận lợi, hai cây vợt cùng trường gặp nhau trong trận bán kết.

Bắt thăm lấy bàn giao bóng xong, quyết định ai đứng bên nào, thầy Uông đến bên Thu nói nhỏ:

- Để bên kia được, nghe rõ chưa?

Thu không biết tại sao lại để 6+23 được, nhưng cảm thấy có thể là chiến thuật của huấn luận viên nhằm giành toàn thắng về cho trường. Hồi ấy ai cũng biết Trung Quốc có truyền thống về bóng bàn, đầu tiên phải giành ngôi vị số một, có lúc nhường đối phương là người của mình thắng, ví dụ Từ Dần Sinh nhường cho Trang Tác Đống thắng. Thu nén đau khổ nhường 6+23 thắng. Có thể huấn luyện viên vẫn chưa yên tâm, đánh xong séc thứ nhất lại nhắc nhở, Thu cũng không nghĩ nhiều, đánh rất đại khái, nhường cho 6+23 thắng.

Sau đấy Thu mới hỏi thầy Uông hôm nay chơi chiến thuật gì, tại sao lại nhường 6+23 thắng. Thầy Uông giải thích:

- Người đã vào bán kết sẽ được trường thể dục thể thao triệu tập đi học, xuất thân gia đình của em không tốt, đến lúc ấy bị loại thì thật khó xử.

Thu tức đến chảy nước mắt, nghĩ bụng, cứ coi như trường thể dục thể thao loại, mình vẫn có thể giành quán quân hoặc á quân toàn thành, cớ gì lại bắt mình phải thua, như vậy còn ê hơn bị trường thể dục thể thao loại.

Về sau mẹ Thu biết chuyện cũng rất không vui, bà tìm thầy Uông nói chuyện, bà đưa câu nói của lãnh tụ tối cao “xuất thân không tự mình, đường đi có thể tự chọn” để nói thầy làm như vậy không đúng.

Thầy Uông cứ thanh minh đấy là ý tốt, sợ Thu đến lúc bị trường thể dục thể thao loại sẽ buồn; thầy Uông nói thầy cũng rất hối hận, bởi nếu không bảo Thu nhường thì rất có thể chức quán quân toàn thành đã về trường số Tám, 6+23 chỉ được á quân.

Thu bảo với mẹ chuyện đã qua rồi, nói cũng không để làm gì. Về sau Thu ra khỏi đội tuyển bóng bàn, chỉ chơi bóng chuyền.

Nhưng thầy Uống muốn bù đắp tổn thất cho Thu, hơn nữa cũng không tìm ai hơn được Thu, cho nên thầy bàn với đội tuyển bóng chuyền để Thu chơi bóng bàn, tham gia giải cuối năm của toàn thành phố. Đúng lúc đội tuyển bóng chuyền cũng phải tham gia giải cuối năm, vì vậy Thu rất bận, ngoài giờ lên lớp còn phải tập với đội tuyển.

Chiều thứ Năm, Thu đang tập, thầy Uông vào phòng tập, nói với Thu:

- Tôi thấy phía sau nhà ăn tập thể có một người đeo ba lô, bảo tìm “cô Tĩnh”, có thể tìm mẹ em. Tôi dẫn anh ấy về nhà em, nhưng mẹ em không có nhà, nhà cũng không có ai, chiều nay có giờ giáo viên đến thăm nhà học sinh, có thể mẹ em bận. thầy bảo anh ấy chờ ở nhà ăn, em về xem ai.

Thu vội chạy về nhà ăn gần đấy, thấy Lâm như pho tượng đá ngồi ở cửa nhà ăn, người ra vào hết sức hiếu kỳ nhìn anh. Thu vội chạy tới chào hỏi.

Lâm thấy Thu liền đứng dậy, chỉ vào cái túi to bên mình, nói:

- Đây là hồ đào đem cho mẹ cô. – Lại chỉ vào cái làn để gần đấy. – Đây là củi đem cho cô. Tôi về nhé.

__________________________________

[1] Trong tiếng Trung Quốc, âm “sáu” và “lưu” (họ Lưu) đọc gần giống nhau. – ND



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
Đăng lúc 18-6-2013 19:59:35 | Chỉ xem của tác giả

Chương 19





THẤY LÂM BỎ ĐI NGAY, Thu rất bối rối, muốn giữ anh lại, nhưng không dám kéo tay anh, chỉ gọi:

- Này, này, anh đừng đi vội, ít nhất phải giúp em mang những thứ này về nhà đã chứ.

Lâm như người vừa được đánh thức, quay lại:

- Cô xách không nổi à? Để tôi giúp. – Nói xong, anh đeo cái túi lên vai, tay xách làn củi, theo Thu về nhà.

Thu định chọc lò, thổi cơm, hỏi Lâm:

- Anh ăn cơm chưa?

- Ăn rồi. – Lâm trả lời rất kiêu. – Ăn nhà hàng rồi.

Thu lấy làm lạ, thì ra Lâm biết nhà hàng ăn, thật không ngờ. Thu lấy nước mời Lâm, rồi đi tìm đồ đựng hồ đào, để Lâm mang túi về. Thu hỏi:

- Anh sang nhà chị Mẫn lấy hồ đào đấy à? Gia đình chị ấy vẫn khỏe cả đấy chứ?

- Gia đình nhà chị ấy à? – Lâm nhìn Thu rất khó hiểu, khiến Thu cảm thấy Lâm sang nhà chị Mẫn hái hồ đào rồi về thẳng, không chào hỏi ai trong gia đình chị Mẫn.

Thu còn nhớ bà Trương nói, từ nhỏ Lâm bị tật hễ nói dối là mắt chớp liên tục, cho nên lần nào anh nói dối bà Trương đều biết. Thu nhìn vào mắt Lâm, thấy anh chớp chớp mắt, không biết có phải anh đang nói dối không. Thu thấy trong cái túi lớn còn có một cái túi nhỏ đựng đường phèn, liền hỏi:

- Cái này… đường phèn anh mua đấy à?

- Anh Cả mua.

Vậy là anh Cả cũng vào cuộc. Thu rất xúc động không biết nói gì hơn, chỉ hỏi:

- Đường phèn phải có giấy chứng nhận của bác sĩ mới được mua, anh Cả lấy đâu ra giấy của bác sĩ?

Thu vừa nói vừa lấy hai chục đồng tiền lao động trong mấy tháng hè nhét vào cái túi rồi cuộn lại, dùng một sợi dây buộc chặt, nghĩ bụng dọc đường Lâm không phát hiện trong đó có tiền. Nhưng Thu sợ về đến nhà mà Lâm vẫn không phát hiện ra, bà Trương hoặc chị Mẫn giặt túi, hai chục đồng ấy sẽ nát. Thu chuẩn bị lát nữa đưa Lâm ra bến xe, chờ cho xe chạy sẽ nói với Lâm trong cái túi có>

- Anh Cả quen một bác sĩ, bác sĩ này cho giấy. – Lâm nói.

Thu cảm thấy Lâm trả lời rất gẫy gọn, không giống với Lâm, hơn nữa mắt Lâm nháy liên hồi. Thu suy nghĩ rồi nói:

- Hôm nay một mình anh Lâm đến hay sao? Anh cũng nhớ được đường à?

- Đường ở dưới mũi.

- Vé xe từ phố huyện đến đây đã tăng mười phần trăm, giá vé đắt lắm phải không? – Thu truy hỏi.

Lâm ngớ ra, bấm đốt ngón tay tính toán, mặt đỏ bừng, hỏi:

- Tăng… có đến mười hai đồng tám hào không? Chó má, như vậy khác nào lột da người ta?

Bây giờ thì Thu có thể khẳng định Lâm không đi một mình, cậu ta không thể biết giá vé xe, mười phần trăm lại nghĩ là mười đồng. Thu đoán, Lâm đi với Ba, nhưng Ba trốn đâu đấy. Thu cũng chưa vội vạch trần lời nói dối của Lâm, chỉ giữ anh ngồi lâu một chút, nghĩ bụng, nếu Ba chờ lâu anh sẽ cho rằng Lâm đi lạc đường, chắc chắn Ba sẽ đi tìm.

Nhưng Lâm nhất quyết không ngồi lại, đòi về, bảo sợ trễ xe. Thu đành đưa anh ra bến xe. Vừa ra khải cổng trường, Lâm không cho Thu đi tiễn, thái độ rất kiên quyết, cậu ta định dùng tay đẩy Thu quay>

Thu đành không đi tiễn, chỉ dặn vài cậu rồi quay về trường. Nhưng Thu vẫn chưa về ngay, cô còn đứng ở phía sau cửa sổ phòng thường trực nhà trường lén nhìn Lâm. Thu thấy Lâm đứng bên bờ sông ngóng nhìn rồi đi xuống sông, một lúc sau cậu ta đi với một người nữa. Thu nhận ra người kia là Ba, Ba mặc bộ đồ quân phục đã bạc màu, rất nhanh nhẹn. Hai người đứng nói chuyện bên mép nước, Lâm thỉnh thoảng lại chỉ về phía trường học, hai người vừa nói chuyện vừa cười, hình như Lâm đang kể về chuyện mạo hiểm của mình.

Ba nhìn về phía trường học làm Thu phải né tránh, nghĩ rằng anh đã trông thấy. Nhưng anh không trông thấy, chỉ đứng nhìn rồi đi với Lâm về phía bến đò.

Thu đi theo, từ xa trông thấy hai người. Ba như một đứa trẻ không đi đường lớn, anh đi trên con chồ ngăn nước xây bằng xi măng. Con chồ chỉ rộng chừng vài ba chục phân, Ba đi, mất thăng bằng, khiến Thu giật mình suýt kêu lên, sợ anh ngã xuống sông. Nhưng anh giơ hai tay, người nghiêng ngả nhưng rồi lấy lại thăng bằng, tiếp tục đi trên con chồ bằng xi măng, giống như người đi trên dây, đi rất nhanh.

Thu rất muốn gọi, nhưng Ba tránh không gặp Thu, Thu cũng phải làm như vậy. Xem ra, đúng như anh nói với Phương, anh là người dễ mềm lòng, không muốn thấy ai chịu cực khổ, cho nên anh giúp Tú, giúp Thu, bây giờ lại giúp Lâm. Vé xe hôm nay nhất định do anh mua, anh biết Lâm không biết đường, nên đi với Lâm lên tận đây.

Thu nghĩ, nhất định Ba nhường mình cho Lâm, hoặc trước kia Ba không có ý định với mình, nhưng Thu không muốn tin vào điều ấy, chả phải lúc ấy anh chỉ “tranh luận” là gì? Tóm lại, không biết thế nào anh lại biến thành “đạo diễn kiêm hướng dẫn” của Lâm. Trong sách vẫn thường viết công tử con nhà giàu phải chiếm được con mồi rồi mới chịu thôi, lẽ nào Ba đã chiếm được mình rồi? Thu rất bực những cuốn sách viết không rõ ràng, chỉ nói “thú tính bùng phát, chiếm được nàng” nhưng không nói chiếm thế nào.

Nhưng Thu lơ mơ cảm thấy sau khi chiếm hữu, người con gái mang thai, Hỉ Nhi trong phim Bạch Mao nữ chả thế là gì? Kịch mẫu Bạch Mao nữ tước bỏ chi tiết đó, nhưng Thu đã đọc sách và biết có đoạn ấy. Chuyện Ba ôm Thu cách đấy đã nửa năm, “bạn thân” của Thu cũng đã đến mấy lần, không thể có mang được đâu nhỉ? Như vậy coi như chưa “chiếm” được.

Thu nghĩ đến số tiền bỏ trong túi của Lâm, sợ cậu ta ngớ ngẩn làm mất, hoặc để mẹ giặt, vậy là Thu đi theo hai người đến tận bến đò. Khi hai người ngồi lên con đò và đã rời bờ, Thu mới đứng trên bờ gọi thật to:

- Anh Lâm, em để hai chục đồng trong cái túi của anh, đừng để mẹ giặt túi làm ướt nhé!

Thu gọi to hai lần, đoán chừng Lâm đã nghe thấy, vì thấy anh đang cởi dây buộc cái túi. Thu thấy Ba quay sang nói chuyện với người chèo đò, bỗng anh đứng dậy, cầm cái túi trong tay Lâm, đến trước mũi thuyền, khiến con thuyền chòng chàng.

Sợ Ba trả lại tiền, Thu quay người bỏ chạy. Lúc này Thu mới nghĩ, anh đang ở trên thuyền, liệu có thể làm được gì mình? Thu đi chậm lại, vừa quay người thì thấy Ba đang đuổi theo. Cái quần quân phục của anh ướt đến tận đùi, dính vào người. Thu kinh ngạc, sững sờ, đã cuối tháng Mười, anh có lạnh không?

Anh chạy thêm mấy bước, nhét hai chục đồng vào tay Thu, nói:

- Thu cầm lấy, đường phèn là của người ta cho, không mất tiền. Thu cầm tiền mua một bộ đồ thể thao, sắp thi đấu rồi.

Thu đứng ngây ra, không biết tại sao anh biết mình sắp thi đấu? Anh vội vàng nói:

- Lâm đang trên thuyền, chắc cậu ấy đang hoảng lên, cậu ấy không biết đường. Anh đi nhé, sợ muộn không kịp xe. – Nói xong, anh chạy nhanh về phía bến đò.

Thu muốn gọi anh lại, nhưng không thể cất thành lời, giống như mỗi lần Thu mơ thấy anh, muốn nói, nhưng không thể lên tiếng, chỉ còn biết nhìn anh, nhìn anh xa dần.

Hôm ấy về trường, Thu không còn tâm trạng nào để chơi bóng, chỉ nghĩ đến cái quần ướt anh mặc trên người phải mấy mấy tiếng đồng hồ sau mới thay, liệu anh có bị cảm lạnh không? Tại sao anh khờ dại nhảy xuống như vậy? Anh không chờ cho đò ghé bến rồi ngồi đò quay sang bên này được sao?

Rất nhiều ngày sau Thu mới quên được cảnh anh mặc quần ướt đuổi theo mình, Thu cảm thấy không nên gọi anh là công tử con nhà giàu, nên gọi anh là công tử quần ướt. Thu suy nghĩ mãi mà không hiểu được tại sao anh biết mình sắp thi đấu?

Năm ngoái, lúc thi đấu bóng chuyền, đội của Thu không mặc đồ thể thao, vì trường số Tám ở phía nam con sông, coi như ngoại thành, có nhiều học sinh là con em những người nông dân trồng rau, trồng dưa, kinh tế eo hẹp. Trước ngày thi đấu, huấn luyện viên thường động viên mỗi em nên sắm đồ thể thao, nhưng các tuyển thủ rất nghèo, không có tiền, đội tuyển phải mặc thường phục để thi đấu. Lúc ra sân, vừa hô “hữu nghị hàng đầu, thi đấu thứ hai” xong, trọng tài hô hai đội quay lưng lại để ghi số áo và vị trí cầu thủ. Sáu tuyển thủ của trường số Tám ngớ ra, vì áo không có số. Trọng tài gọi người phụ trách bộ môn thể dục thể thao của phòng giáo dục đến, nói:

- Những cô gái này không mặc đồ thi đấu, áo không có số, thi đấu bằng>

Người của sở giáo dục gọi thầy Vạn huấn luyện viên ra một chỗ, nặng lời:

- Anh là huấn luyện viên, lẽ nào không biết tầm quan trọng của vị trí các cầu thủ bóng chuyền? Vị trí của sáu cầu thủ được luân chuyển, hàng sau không được chạy lên hàng trước để đập bóng. Có đội chỉ có một chủ công, nếu cầu thủ như đội của anh không có số áo, chủ công đứng hàng sau chạy lên đập bóng, trọng tài làm thế nào để biết? Trọng tài không nhận biết thì làm thế nào để bắt lỗi?

Hiệp một chưa bắt đầu thì trọng tài đã tuyên bố đội của trường số Tám thua. Thầy Vạn tha thiết cầu xin, trình bày học sinh đều là con nhà nghèo nàn lạc hậu, người phụ trách của ngành giáo dục mới đồng ý cho đánh tiếp, nhưng yêu cầu phải dùng phấn để ghi số lên áo, nếu không sẽ không cho thi đấu.

Khi ra sân chơi mấy hiệp tiếp theo, người xem và đội bạn ra sức chế nhạo, bảo đấy là đội quân ô hợp, nhà quê, đội của trường số Tám mất tinh thần, chỉ được xếp thứ ba từ dưới lên.

Nhưng thầy Vạn quyết không chịu, nói nếu không vì chuyện trang phục sẽ không thể thua như thế, đội nữ của trường số Tám có thể đứng trong sáu đội đầu bảng. Cho nên thầy bắt các tuyển thủ phải mua đồ thể dục thể thao, yêu cầu mọi người nộp tiền và số đo để thầy đi mua cho thống nhất, tránh tình trạnh từng tuyển thủ đi mua, áo quần không giống nhau, lại bị người ta cho là đội quân ô hợp. Lần này thì thầy Vạn rất kiên quyết:

- Các em không mua áo quần thì thôi, không đánh nữa.

Các tuyển thủ nghe nói như vậy rất hoang mang, đều bỏ tiền ra mua đồ thi đấu. Nhưng Thu thật tình không có khoản nào thừa, hơn nữa đội bóng bàn cũng yêu cầu mua đồ vận động viên, Thu định thuyết phục huấn luyện viên của cả hai đội để họ mua cùng một loại trang phục, như vậy Thu mới có thể mua nổi.

Nhưng yêu cầu của đội bóng bàn lại khác. Thi đấu bóng chuyền ở ngoài trời, cuộc thi tiếp theo vào lúc trời đã lạnh, huấn luyện viên bảo mua đồ dài để giữ ấm, hơn nữa tay áo dài, lúc đỡ bóng cũng đỡ đau tay hơn. Bóng bàn thi đấu trong nhà, cho nên huấn luyện viên bảo mua đồ cộc tay, bảo mặc áo tay dài vướng, làm sao đánh được bóng? Không những phải mua áo ngắn tay còn cần mua quần cộc của vận động viên.

Thầy Vạn giục mọi người, Thu đã gom được kha khá tiền, thầy đi mua áo, in số. Bình thường, những trận giao hữu với trường bạn các tuyển thủ mặc đồ thể thao trông rất khí thế. Thu chưa mua đồ thể thao, thầy Vạn cũng biết hoàn cảnh nhà Thu, động viên Thu:

- Không sao, không sao, lúc ra sân mượn tạm áo của cầu thủ dự bị.

Đáng tiếc, cầu thủ dự bị không được ra sân trong bụng đã bực bội, ấm ức, lại phải cho mượn áo, càng không chịu. Thu cũng không muốn mượn áo của người khác, tìm mọi cách để từ chối, bảo ngồi xem cũng được. Nhưng Thu là cây chuyền hai, là xương sống của đội, không thể không ra sân. Cho nên huấn luyện viên buộc cầu thủ dự bị cho Thu mượn áo, khiến cô kia không vui, Thu cũng không vui, có lúc đến ngày thi đấu Thu cố tình xin nghỉ.

Thu không biết tại sao Ba lại biết chuyện đó, hay là anh quen huấn luyện viên? Hoặc anh thường xuyên xem Thu thi đấu ở đâu đó? Nhưng Thu chưa bao giờ thấy anh đến những nơi thi đấu, hay là anh xuất thân từ một trinh sát, có thể kín đáo quan sát mà Thu không biết?

Thu quyết định lấy một ít trong số hai chục đồng kia để mua đồ thể thao, vì Ba nhảy xuống sông, chịu rét để đưa tiền cho Thu mua trang phục thi đấu. Thu mua theo ý anh, nếu anh ở đâu đó thấy Thu mặc đồ thể thao, chắc chắn anh rất vui.

Thật may mắn, trang phục của hai đội chỉ khác nhau ở tay dài tay ngắn, còn màu sắc và kiểu cách hoàn toàn giống nhau, có thể thời đó trang phục cũng chỉ vài kiểu như vậy. Thu mua một cái áo thể thao dài tay và một cái quần cộc, lúc chơi bóng chuyền sẽ mặc áo dài tay, lúc chơi bóng bàn sẽ cắt ngắn tay áo, lúc nào chơi bóng chuyền lại nối ống tay áo vào, dù sao thì Thu giỏi vá may, nối ống tay áo vào cũng khó phân biệt, nếu không có ai lôi áo của Thu thì cũng không thể biết.

Số in trên áo có thể tự chọn, chỉ cần không trùng số của nhau là được. Thu nhìn, chưa có ai in số “3”, Thu lập tức in số “3” vào áo. In số phải mất vài hào, Thu không nỡ mất tiền, cô dùng vải trắng cắt thành hình số ba khâu vào áo, cắt cả chữ “trường số Tám” khâu trước ngực áo, trông không khác gì áo của các tuyển thủ khác.

Sang tháng Mười hai bắt đầu cuộc thi, Thu mong Ba bất ngờ xuất hiện trên sân bóng, anh có thể thấy Thu mặc đồ vận động viên. Thu không thấy Ba, cũng rất may Ba không đến xem, vì lần ấy đội trường số Tám không lọt vào sáu đội đầu bảng. Mọi người bảo thua là vì cả đội nghèo, bình thường phải dùng bóng cao su để tập, nhưng vào thi đấu bóng phải đúng tiêu chuẩn, là bóng da, nặng hơn, mọi người đánh không quen, phát bóng không qua lưới, huấn luyện viên yêu cầu nhà trường mua bóng tiêu chuẩn cho đội.

Thầy Vạn nói:

- Tôi bảo đảm yêu cầu nhà trường mua bóng tiêu chuẩn, nhưng các em cũng phải tập thật tốt, nếu không có bóng rồi lại như không.

Vậy là cả đội bóng tăng cường luyện tập. Thu rất thích chơi bóng, nhưng lại sợ mỗi lần chơi bóng về rất đói, phải ăn nhiều. Học sinh trung học phổ thông mỗi tháng chỉ được mười lăm ký rưỡi gạo, em gái Thu cũng ăn khỏe, anh traiở nông thôi về cũng ăn, gạo trong nhà mỗi ngày một ít đi.

Mới đấy mà đã sang năm 1975. Mỗi buổi sang mùa xuân rét muộn, Thu đang cùng đội bóng luyện tập trên sân, sân bóng gần cổng sau trường học, gần đấy là bức tường rào của trường, tường cao ngang đầu người, bóng thường bị đánh ra ngoài. Bên ngoài tường là ruộng rau, bóng rơi ra ngoài đó phải đi nhặt về. Vì đội bóng hiện tại được dùng bóng đúng tiêu chuẩn, nếu bị nước trong vườn thấm vào, chỉ khâu bóng rất dễ bị đứt, không cẩn thận người qua đường sẽ lấy mất bóng.

Nhưng từ cổng trường đến sân bóng còn một khoảng cách, nếu từ cổng trường ra phải đi xa và chậm, đội bóng sợ mất bóng, cho nên mỗi lần bóng bị ra ngoài, trong đội sẽ có người vượt tường đi nhặt bóng. Nhưng không phải ai cũng vượt tường được, chỉ có Thu và một vài bạn nữ nữa có thể vượt tường mà không cần người nâng, ra nhặt bóng rồi lại vượt tường vào. Cho nên, mỗi lần bóng ra ngoài đều có người gọi tên những người có thể vượt tường đi nhặt.

Sáng hôm ấy Thu đang tập, không biết ai đã đánh bóng ra ngoài tường, đúng lúc Thu đứng gần tường nghe có người gọi:

- Thu, Thu ơi, bóng ra ngoài rồi!

Thu chạy ngay đến chân tường, kiễng chân, hai tay tóm chặt bờ tường, bước một chân lên, ngồi vắt vẻo trên bờ tường, bước một chân nữa, nhảy qua, đã thấy một Lôi Phong 1 sống nhặt bóng, cầm trên tay, chuẩn bị ném vào trong.

Người kia ngước lên, thấy Thu, liền kêu to:

- Cẩn thận, đừng nhảy!

_______________________________________

[1] Tên các nhà sư phạm nổi tiếng



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
Đăng lúc 18-6-2013 20:01:21 | Chỉ xem của tác giả

Chương 20





THU CŨNG NHÌN RÕ NGƯỜI KIA, chính là Ba. Anh mặc cái áo khoác quân phục không phải là màu cỏ úa mà là màu vàng, màu quân phục mà Thu thích nhất, trước đây chỉ thấy người của đoàn ca múa mặc. Mái tóc đen nhánh của Ba phủ lên cái cổ lông màu nâu của áo ngoài, cổ áo trong trắng sạch. Không biết đói vì đánh bóng hay là vẻ đẹp trai của Ba làm đầu óc Thu choáng váng, mắt hoa lên, suýt nữa thì ngã từ trên tường xuống.

Tay anh cầm trái bóng ướt sương, đôi giày da anh đi cũng dính đầy bùn đất, anh đi tới, đưa trái bóng cho Thu, nói:

- Nhảy xuống phải cẩn thận.

Thu nhận trái bóng, ném vào trong, còn mình vẫn ngồi trên bờ tường, hỏi:

- Anh…tại sao lại đến đây?

Anh ngước nhìn Thu, cười khiêm tốn:

- Anh đi qua

Những người trên sân bóng sốt ruột gọi:

- Thu, ngồi hóng mát đấy à? Đang chờ đằng ấy phát bóng đây.

Thu vội vã nói với anh:

- Em vào nhé!

Rồi Thu nhảy xuống, chạy về vị trí của mình. Nhưng Thu càng đánh càng thiếu tập trung, cứ nghĩ sáng sớm thế này anh đi qua đây làm gì? Chợt Thu nhớ lại, ngày này năm ngoái Thu về Tây Thôn Bình, cũng tức là lần đầu tiên Thu gặp anh. Lẽ nào anh nhớ đến cái ngày ấy để hôm nay đến gặp Thu? Thu cứ muốn chứng thực ý nghĩ đang quấn quanh trong đầu.

Thu chỉ muốn có ai đó đánh bóng ra ngoài tường để Thu vượt tường xem anh đã đi chưa, hoặc hỏi anh đi đâu. Nhưng lúc này mọi người như hẹn nhau, không ai đánh bóng ra ngoài. Thu đành phải chờ, xem ra buổi tập cũng sắp kết thúc. Không thể chờ hơn, nhân cơ hội được phát bóng, Thu phát ra ngoài tường, khiến toàn đội ngạc nhiên.

Bất kể mọi người nghĩ thế nào, Thu chạy nhanh đến bên chân tường, vọt lên bờ tường, không nói năng gì, cứ thể nhảy ra ngoài. Thu nhặt bóng, nhưng không vượt tường vào, mà đi dọc bờ tường về cổng trường, muốn xem Ba có ẩn nấp bên đố tường hay không.

Nhưng đố tường rất nhỏ, Ba không thể nấp vào đấy được. Thu tìm suốt dọc đường, tìm đến cổng trường, nhưng không thấy Ba, Thu tin Ba chỉ đi qua đây.

Hôm ấy, tâm trí Thu cứ để đâu đâu. Trong giờ tập bóng buổi chiều Thu lại đánh bóng ra ngoài mấy lần, lại vượt tường ra nhặt bóng, nhưng vẫn không thấy Ba đâu.

Hết giờ học, Thu về ăn cơm, đến khu vệ sinh xem mấy đống lá khô đã cháy hết chưa. Hôm nay đến lượt tổ của Thu quét dọn khu vệ sinh, mặt đất lá rụng quá nhiều, nói cung, gặp trường hợp đó, mọi người phải quét lá thành đống để đốt, đốt xong xúc tro đổ vào thùng rác, không cần phải khiêng từng sọt lá cây đi đổ. Những người trong tổ ngại chở đống lá cháy hết, bảo Thu ăn cơm xong ra đấy quét lại một lần nữa. Thu thấy lửa đã tắt liền dồn tro vào cái gàu xúc rác, chuẩn bị đem đi đổ. Thu vừa đứng thẳng dậy thì thấy Ba đang chơi bóng rổ trên sân. Anh đã cởi áo quân phục, chỉ mặc cái áo trắng và áo len cộc tay, chơi bóng rất nhiệt tình với mấy học sinh. Thu ngạc nhiên, gầu rác trên tay suýt đổ ra đất. Anh vẫn chưa đi? Hay là xong việc rồi quay về? Thu đứng ngẩn ngơ nhìn anh chơi bóng, tư thế anh thật đẹp. Những lúc anh nhảy lên ném bóng, mái tóc đen tung lên, bóng rơi vào rổ, mái tóc anh lại rơi về vị trí cũ.

Thu sợ anh trông thấy, vội cầm gàu rác đi về phía thùng rác. Thu đổ rác, cầm cái gàu về lớp, khóa cửa lớp, cũng không về nhà, mà ngồi trên xà lệch của sân tập, nhìn anh đánh bóng ở kia. Có bốn người đang chơi bóng trên nửa sân.

Ba cởi cả áo len cộc tay chỉ mặc một cái áo trắng tay áo xắn cao, trông rất hoạt bát, hăng hái, thoải mái. Thu tính điểm cho anh, xem ai ném vào rổ nhiều, cuối cùng Thu phát hiện Ba ném vào nhiều nhất. Chân anh đi giày, lòng ngưỡng mộ của Thu đối với anh giống như nước sông từng đợt từng đợt cuộn lên, Thu rất muốn anh suốt ngày trên sân bóng rổ chơi bóng cho Thu xem.

Trời tối dần, người chơi bóng đã về, chỉ còn người thu bóng, vừa đi về phía văn phòng tổ thể dục thể thao, vừa nhồi bóng, chừng như để chuyển bóng cho đồng đội. Thu hồi hộp nhìn theo Ba, không biết anh đi về đâu, Thu rất muốn gọi anh, nói với anh vài câu, nhưng lại không dám. Thu nghĩ, có thể anh đi công tác ở gần đâu đây, hết giờ không có việc gì làm, giống như công nhân các nhà máy ở gần trường học, đến trường tìm người cùng chơi bóng.

Thu thấy anh đi về phía nhà mình, Thu biết anh đến vòi nước để rửa tay. Thu theo sau, đi cách xa anh. Quả nhiên mấy người chơi bóng đều ra vòi nước rửa tay, chờ cho mọi người rửa xong, anh mới để áo và các thứ lên cành cây đào, đến bên vòi nước rửa tay. Suýt nữa thì Thu kêu lên cành đào đã ra nhựa, cẩn thận nhựa dính vào áo.

Thấy anh rửa tay rồi moi từ túi áo ra một cái khăn, rửa mặt, thậm chí vén áo lên lau người, Thu cứ run lên, lạnh thay cho anh.

Rửa xong, anh mặc áo len, đến gần nhà ăn, Thu biết, đứng chỗ ấy có thể trông thấy nhà Thu. Anh đứng một lúc rồi khoác cái áo ngoài lên người, tay xách túi, đi về phía sau nhà Thu.

Phía sau nhà Thu không xa là nhà vệ sinh. Nói thật, chưa bao giờ Thu nghĩ đến việc anh đi vệ sinh, lúc mới đầu Thu cũng không dám nghĩ đến chuyện ăn của anh, cho rằng anh giống như người trong tranh không ăn uống giữa nhân gian. Về sau khá hơn, Thu thấy anh ăn uống là chuyện bình thường, nhưng cũng chỉ tiến bộ đến mức ấy, cảm thấy anh chỉ nên vào mà không ra. Bây giờ thấy anh đi nhà vệ sinh, nghĩ anh cũng phải đi vệ sinh, Thu rất không tự nhiên, không dám đi theo anh, vội chạy nhanh về nhà.

Về đến nhà, lại không chịu đựng nổi, Thu đến bên cửa sổ, muốn xem anh từ nhà vệ sinh ra chưa. Nhà của Thu cao hơn con đường phía sau cửa sổ chừng một đầu người. Thu đứng bên cửa sổ lặng lẽ nhìn ra ngoài, không trông thấy anh từ nhà vệ sinh ra. Nhưng nhìn xuống dưới, chợt thấy Ba đứng đằng xa, ngoảnh mặt về phía cửa sổ nhà Thu, Thu giật mình, ngồi thụp xuống, đầu đập vào cái kê trước cửa sổ.

Mẹ hỏi:

- Sao thế con?

Thu vội xua tay bảo mẹ đứng nói, rồi bước lom khom về phòng mình mới đứng dậy. Thu biết, cái nhìn của anh có mạnh đến đâu thì cũng không thể nhìn xuyên tường, Thu cũng không biết mình sợ cái gì.

Một lúc lâu sau Thu mới lặng lẽ đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài, anh không còn ở đấy nữa. Thu không biết vừa rồi anh có trông thấy mình hay không, nếu trông thấy, anh biết Thu đang lén nhìn anh. Thu nhìn con đường ngoài cửa sổ, nhìn hồi lâu cũng không thấy anh đâu, Thu nghĩ có thể anh đã đi. Trời đã tối, anh đi đâu?

Thu quay về phòng mình, vừa đan áo vừa nghĩ vẩn vơ. Một lúc sau, có người gõ cửa, Thu nghĩ là Ba, lòng những hồi hộp không biết phải nói dối mẹ thế nào đây. Thu ra mở cửa, nhưng là thằng Thành, con trai ông Chung, bí thư của trường, tay nó xách bình nước nóng, hình như nó đi lấy nước. Thằng Thành nói:

- Chị em gọi chị.

Chị thằng Thành tên là Chung Bình, Thu vẫn thường qua lại chơi với Bình, nhưng không phải là bạn thân. Thu không biết Bình gọi có chuyện gì, liền hỏi:

- Chị em tìm chị có chuyện gì?

- Em không biết, chị bảo gọi chị, chị đi nhanh lên.

Thu theo thằng Thành, vừa ra đến mấy nước định rẽ về phía bên phải, đến nhà thằng Thành, nhưng nó chỉ sang bên trái:

- Ở kia có người tìm chị.

Thu lập tức nhận ra Ba, nhất định anh thấy thằng Thành đi lấy nước, liền nhờ nó gọi Thu ra. Thu nói với thằng Thành:

- Cám ơn em, em đi lấy nước đi, đừng nói với ai nhé.

- Vâng.

Thu đến trước mặt Ba, hỏi:

-Anh…anh…tìm em?

Anh nói khẽ:

-Muốn nói với em vài chuyện, có tiện không? Không tiện thì thôi.

Thu đang định nói thì thấy có người từ phía nhà vệ sinh tới, Thu sợ người khác trông thấy mình đứng nói chuyện với con trai sẽ gây nên sóng gió ồn ào, liền đi về phía sau trường học. Thu đi được một quãng, bỗng cúi xuống, giả vờ buộc dây giày, nhìn lại phía sau, thấy Ba đang đi theo. Thu đứng dậy, lại đi về phía trước, anh vẫn theo sau.

Thu ra khỏi cổng trương, anh cũng theo ra. Hai người đi dọc bức tường vây quanh nhà trường đến nơi sáng nay Thu nhặt bóng, anh theo kịp, định nói gì đó, Thu cắt ngang:

- Chỗ này nhiều người biết em lắm, chúng ta đi xa một chút rồi sẽ nói chuyện. – Nói xong, Thu lại đi tiếp.

Anh vẫn theo sau một quãng khá xa. Thu vẫn đi dọc theo bức tường của nhà trường, từ phía sau trường vòng về phía cổng chính, đến bờ sông. Anh định đi lên để nói chuyện, lại bị Thu cắt ngang. Thu đi thẳng. Đi thẳng, đến bến đò mới sực nhớ mình không đem theo tiền. Thu đứng chờ, anh ngoan ngoãn đi lên, mua hai vé đò ngang, đưa cho Thu một vé. Hai người một trước một sau xuống đò.

Đò sang đến bờ bên kia, Thu lên bờ, đứng lại chờ anh. Anh bước nhanh đuổi theo, cười nói:

- Giống như trong phim Đuổi bắt.

- Bên kia sông có nhiều người quen, sang bên này không ai nhận ra em. – Thu giải thích.

Anh cười hiểu ý, tiếp tục đi theo Thu về phía trước, hỏi:

- Chúng ta đi đâu? Đừng đi xa quá, cẩn thận mẹ tìm em.

- Em biết ở kia có một cái đình, trong đình có ghế ngồi. Anh bảo có chuyện muốn nói cơ mà? Chúng ta đến đấy nói chuyện. – Thu nói.

Hai người đến chỗ ngôi đình, trong đình không có ai, có thể vì trời rét, không ai đến đây hóng gió. Đình chỉ là mấy cây cột chống đỡ mái ngói, chung quanh trống trải. Thu tìm một chỗ ngồi bên cây cột, mong cây cột chắn được ít nhiều gió. Ba ngồi trên chiếc ghế phái bên kia cột, anh hỏi:

- Em ăn cơm chưa? Anh chưa ăn gì.

Thu vội khuyên anh:

- Anh đi ăn chút gì đã, em ngồi chờ ở đây.

Anh không đi. Thu sợ anh đói, lại khuyên anh. Anh nói:

- Chúng ta cùng đi ăn. Em bảo ở đây không ai biết, vậy đi ăn với anh. Em không đi, anh cũng không đi.

Thu đành đi với anh. Họ tìm một hàng ăn vắng vẻ, một quán mì, không mua cơm, chỉ ăn mì. Ba hỏi Thu muốn ăn gì, Thu từ chối bảo không muốn ăn gì, nếu anh còn hỏi em sẽ bỏ đi. Ba không dám hỏi, bảo Thu ngồi chờ, để anh đi xếp hàng.

Thu không nhớ đã bao lâu mình không đi ăn hàng ăn. Hồi còn nhỏ, Thu theo bố mẹ đi nhà hàng, phần lớn ăn sáng, ăn bánh bao, quẩy, sữa đậu nành, bánh rán, nhưng ăn những thứ đó vậy mà trong Cách mạng văn hóa cũng bị đem ra đấu tố, bảo gia đình Thu sống xa hoa theo lối tư sản!

Ngay những ngày đầu Cách mạng văn hóa bố đã bị lôi ra đấu, bị cắt giảm nửa lương, về sau bị đưa về nông thôn, cho nên phải đến bảy, tám năm nay Thu không được đi nhà hàng ăn. Bình thường, buổi sáng ở nhà ăn cơm rang hoặc mua bánh bao chay ở nhà ăn tập thể của trương, về sau vì thiếu lương thực nên chỉ mua bánh bao bột phế liệu về ăn. Bánh bao này làm bằng thứ bột phế liệu của xưởng làm bột mì, bột đen như cháy, rất thô, rất khó ăn, nhưng vì không còn tem lương thực, phần lớn bữa sáng của nhà Thu phải ăn thứ bánh bao ch>

Ba mua nhiều thứ, phải mấy lần bưng đến bàn. Anh đưa cho Thu đôi đũa, nói:

- Dù sao thì em cũng phải ăn chút gì đó, nếu em không ăn anh cũng không ăn.

Anh mời mấy lần, Thu vẫn không đụng đũa, anh cũng không đụng đũa, Thu đành ăn chút ít. Ba mua những thứ ngày nhỏ Thu vẫn thích ăn, tưởng như anh đã chui vào bụng Thu để trông thấy những thứ này. Anh mua bánh rán gạo nếp, bên ngoài rán vàng, trong có nhân, có thêm hành, rất thơm ngon. Anh mua mấy cái bánh bao nhân thịt, bột trắng, nóng hổi, trông thấy đã muốn ăn. Anh còn mua hai tô mì nước có hành, có dầu thơm, ngửi đã thấy thèm. Mỗi thứ Thu ăn một tị, ngượng không dám ăn nhiều.

Không hiểu tại sao, mỗi lần Thu ăn những thứ Ba mua, trong lòng cảm thấy không yên, tưởng như mình là con người ích kỷ tư lợi, đi ăn uống lén người nhà. Thu nghĩ, nếu mình có nhiều tiền sẽ đưa gia đình đi ăn tiệm, tiêu xài thoải mái, muốn ăn gì thì ăn, thật tuyệt vời.

Nhưng Thu không có tiền, hiện tại gia đình không chỉ thiếu tiền mà còn thiếu cả gạo. Để được đầy bụng, mẹ phải nhờ người xin cho một ít tem mua tấm, thứ tấm nhỏ như hạt cát của các nhà máy xay loại ra, trước đây vẫn bán cho nông dân làm thức ăn cho lợn, bây giờ không biết tại sao lại đem bán cho người ăn, một cân tem mua được bốn cân tấm, những gia đình thiếu ăn phải mua tấm về ăn thêm.

Cơm tấm rất khó ăn, hễ nhai cơm cứ trệu trạo, tệ nhất là tấm không sạch, rất nhiều sạn và trấu, mỗi lần vo gạo phải nửa tiếng hoặc một tiếng đồng hồ, phải ngâm gạo trong chậu rửa mặt, dùng cái bắt mỗi lần xúc một ít gạo, hòa vào nước, gạn hết vỏ trấu nổi lên trên, lại cho gạo vào một cái chậu khác, đãi rất nhiều lần, mỗi lần đãi một ít, đãi cho đến khi trong bát chỉ còn sạn.

Thu phải đãi gạo, vì mẹ bận, em còn nhỏ, đãi không sạch, ăn vào sạn và vỏ trấu sẽ lọt vào ruột thừa, gây nên viên ruột thừa; hơn nữa mùa đông giá rét, ngâm tay vào nước lạnh nửa tiếng đồng hồ, tay em gái không chịu nổi. Thu rất nhớ những ngày ở Tây Thôn Bình, ăn không phải nộp tem gạo, cho dù có ăn thức ăn hay không có thức ăn, cơm vẫn rất ngon.

Ăn được một lúc, Ba bỗng ngập ngừng, rất thận trọng nói:

- Chuyện anh định nói với em đừng giận, được không? – Thấy Thu gật đầu, anh lấy từ trong túi áo ra một ít tem lương thực. – Anh có ít tem lương thực dùng không hết, nếu em không ngại thì… đem về.

- Em không cần, anh gửi về cho gia đình. – Thu từ chối.

- Đây là tem lương thực của tỉnh L, nhà anh ở tỉnh A, gửi về cũng không dùng được. Em cầm lấy, nếu không dùng thì cho ai cũng được.

- Tại sao anh thừa nhiều tem lương thực như thế?

- Bọn anh mua gạo của bà con trong thôn Tây Thôn Bình, không cần tem phiếu.

Nghe nói vậy, Thu nhận, nói:

- Em… cảm ơn anh.

Thu thấy anh cảm kích, tưởng như Thu cho anh tem lương thực vậy.

Ăn xong, Thu và Ba vào đình ngồi chơi. Thu nghĩ, được cầm bàn tay ấm áp của anh, được hưởng làn môi mềm mại của anh, hôm nay được anh cho tem lương thực, được anh mời ăn, như vậy mình đã được quá nhiều rồi sao?

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
Đăng lúc 18-6-2013 20:02:41 | Chỉ xem của tác giả

Chương 21





HAI NGƯỜI LẠI VỀ ngồi trong đình, có thể vừa ăn xong nên không cảm thấy lạnh. Ba hỏi:

- Em có còn nhớ ngày này năm ngoái không?

Chợt lòng Thu xao động, đúng là anh đến vì chuyện này. Thu chỉ lạnh nhạt nói:

- Anh bảo có chuyện gì nói cơ mà? Có chuyện gì thì nói đi, lát nữa không có đò sang sông đâu.

Hình như anh đã biết:

- Mười giờ mới hết đò ngang, bây giờ mới tám giờ. – Anh nhìn Thu rồi nói nhỏ. – Có phải em nghe ai đó nói… anh đã có bạn gái?

Thu cải chính:

- Vợ chưa>

Từ ngữ ấy rất chính quy, nhưng nói vào lúc này không giống với tiếng địa phương của từ “vợ chưa cưới”. Nếu dùng từ “đối tượng” hay “bạn gái” để thay thế lại chưa đủ mức độ, không thể hiện được tính nghiêm trọng của vấn đề.

- Cũng được, vợ chưa cưới, nhưng đây là chuyện trước đây, anh đã… thôi từ lâu rồi. – Anh cười.

- Nói rồi, anh bảo với chị Mẫn anh đã có vợ chưa cưới, anh còn cho chị ấy xem ảnh.

- Anh nói như vậy vì chị ấy định ghép anh với cô Phần. Gia đình họ đối tốt với anh, làm sao anh có thể… từ chối thẳng? – Anh thanh minh. – Anh chia tay với cô ấy từ hai năm trước, cô ấy đã đi lấy chồng. Nếu em không tin, anh đưa thư của cô ấy cho em xem.

- Em đọc thư của chị ấy làm gì? Anh không bịa được một lá thư à? – Miệng Thu nói, nhưng lại đưa tay ra cầm thư của anh.

Anh đưa lá thư cho Thu, Thu ra chỗ có ánh đèn đọc. Đèn đường rất tối, nhưng Thu vẫn có thể đọc được lá thư chia tay, trách Ba cố tình né tránh, cứ lang thang khắp nơi, để cô ấy chờ đợi quá lâu, trái tim đã chết, không còn chờ đợi nổi nữa, vân vân. Thư viết rất hay, hay hơn nhiều những lá thư tuyệt giao mà Thu đã được đọc, không dẫn thơ phú hoặc lời dạy của Mao Chủ tịch để làm điểm tựa, xem ra đây là một người con gái có văn hóa, văn hóa trước cả Cách mạng văn hóa.

Thấy dưới thư ký Tania, Thu hỏi:

- Tania là tên một nữ anh hùng Liên Xô đấy chứ?

- Hồi ấy nhiều người thích đặt tên cho mình như thế. – Anh giải thích. – Cô ấy lớn hơn anh mấy tuổi, sinh ở Liên Xô.

Nghe nói Tania sinh ở Liên Xô, Thu rất khâm phục, lại liên tưởng đến cô gái không biết yêu ai, phải đi hỏi cây sơn tra. Thu tỏ ra tự ti, hỏi:

- Chị ấy… có đẹp không? Cái Phương, chị Mẫn bảo rất đẹp.

Anh cười:

- Đẹp hay không còn là chuyện trong mắt ai. Trong mắt anh… không bằng em…

Thu cảm thấy nổi da gà, câu nói ấy mà anh cũng nói ra được ư? Ngay lập tức hình ảnh của anh bị hủy hoại, lại từ công tử quần ướt sang công tử con nhà giàu. Thử nghĩ xem một người đứng đắn lại khen người trước mặt mình đẹp? Hơn nữa, anh chẳng phải là con người tự do chủ yếu hay sao? Trước mặt không nói, nói sau lưng, trong cuộc họp không nói, Mao Chủ tịch đã từng phê bình những người có khuynh hướng tự do chủ nghĩa rồi đấy thôi?

Thu biết mình không đẹp, cho nên biết anh đang nói dối, chắc chắn đang phỉnh nịnh Thu. Vấn đề ở chỗ, anh phỉnh nịnh ngọt như thế với mục đích gì? Có thể quanh đi quẩn lại rồi trở về vấn đề “chiếm”. Thu nhìn quanh, trong vòng mấy trăm mét không có ai, vừa rồi còn thích thú với sự yên tĩnh, bây giờ sợ mình tự sa vào bẫy. Thu quyết tâm cảnh giác, đã được anh cho rồi nhưng quyết không nhẹ tay, được ăn của anh nhưng quyết không nhẹ lời.

- Anh cho em xem thư của chị ấy, chứng tỏ anh không giữ bí mật cho người khác, liệu có ai dám viết thư cho anh nữa?

Anh cười đau khổ:

- Anh không con cách nào khác, nói chung, anh giữ bí mật cho mọi người, nhưng… không cho em xem, em sẽ không tin, anh còn có cách nào hơn?

Không hiểu tại sao, anh nói như vậy khiến Thu rất thanh thản, hình như anh đang ca ngợi uy lực của Thu. Thu tấn công thêm:

không nói bố mẹ làm thay, cũng chưa có chuyện hôn nhân, chỉ là hai bên gia đình thúc đẩy. Có thể Thu không tin, trong con cái cán bộ không ít cuộc hôn nhân là do ý của bố mẹ, cho dù không phải một câu nói của bố mẹ là xong thì cũng từ nhỏ bố mẹ đã nhắm nhe với người quen biết thường x lại nào đó, cho nên đều có ít nhiều yếu tố cha mẹ.

- Anh có thích bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy không?

- Tất nhiên là không thích.

- Tại sao anh lại đồng ý?

Anh im lặng một lúc, rồi nói:

- Tình hình lúc đó tương đối đặc biệt, liên quan đến tương lai chính trị của bố anh, thậm chí đến cả sinh mệnh. Chuyện này chỉ vài ba câu không thể nói rõ, nhưng em hãy tin, chuyện đã qua rồi, anh với cô ấy chỉ là… có thể nói… có liên quan đến chính trị. Cho nên anh ở miết đội thăm dò, rất ít khi về nhà.

Thu lắc đầu:

- Anh đúng là lòng lang dạ sói, anh dễ dàng đến với người ta rồi cũng dễ dàng bỏ, nếu lấy nhau rồi, làm thế nào anh có thể… dùng dằng được?

- Anh cũng muốn chia tay sớm nhưng cô ấy không chịu, hai bên gia đình cũng không muốn. – Anh cúi đầu, khẽ nói: – Dù sao thì đã có chuyện ấy, em nghĩ thế nào mặc lòng, nhưng em nên tin anh, anh… thật lòng với em, với em không thể nói mà không giữ lời…

Thu cảm thấy lời anh nói không giống với lời lẽ của những nhân vật trong tiểu thuyết anh cho Thu mượn, ngược lại giống như cách nói chuyện của Lâm. Thu có phần thất vọng, tại sao lại không như trong sách? Tuy sách kia là có độc, rất đáng phê phán, nhưng đọc lại cảm thấy rất hay. Thu nghĩ mình đã bị trúng độc của sách, lại thấy tình yêu là phải như vậy.

- Đấy có phải là chuyện anh định nói với em hôm nay? Thôi được, anh nói rồi, em về nhé? – Thu hỏi.

Anh ngước nhìn Thu, tưởng như thái độ lạnh lùng của Thu làm anh sững sờ, hồi lâu mới nói:

- Em… em vẫn còn chưa tin anh?

- Em tin anh điều gì? Em biết anh là con người nói lời không giữ lời, con người không đáng tin cậy.

Anh thở dài;

- Bây giờ mới hiểu tại sao sách vẫn viết “muốn lấy trái tim ra cho nàng xem”, trước đây cảm thấy viết như thế thật là dung tục, bây giờ mới biết đấy là cảm giác chân thật, không biết phải làm thế nào để Thu tin, ngoài việc lấy trái tim ra.

- Có lấy tim ra cũng chẳng ai tin. Mao Chủ tịch nói, đừng nên chỉ một đòn đánh chết người, đúng, em không đánh chết, nhưng hình như Mao Chủ tịch cũng đã nói: “Từ quá khứ của một người có thể thấy người đó hiện tại, từ hiện tại của một người có thể thấy tương lai của người đó”.

Anh như bị những lời nói làm cứng họng, Thu nhìn anh, tỏ ra đắc ý.

Anh nhìn Thu, không i nên lời, hồi lâu mới khẽ nói:

- Tĩnh Thu, Tĩnh Thu, có thể em chưa yêu bao giờ, cho nên em không tin ở đời này có tình yêu vĩnh viễn. Cho đến lúc Thu yêu ai đó, Thu sẽ hiểu thế giới có một người thà chết sẽ không bao giờ nói lời mà không giữ lời.

Thu rung động vì hai tiếng gọi Tĩnh Thu, Tĩnh Thu, toàn thân run lên, Thu không biết tại sao anh gọi Tĩnh Thu mà không gọi Thu, hoặc gọi khác đi, Thu cũng không biết tại sao anh gọi liền hai tiếng, nhưng ngữ điệu và biểu hiện của anh khiến trái tim Thu rung động, cảm thấy anh như bị tuyên án tử hình oan, đang chờ trời xanh ra tay cứu độ. Không phải là người nói lời không giữ lời. Thu không nói nên lời, chỉ thấy run hơn, sợ hơn, hít thở thật sâu nhưng vẫn không hết run.

Anh cởi cái áo quân phục rồi quàng lên người Thu, nói:

- Em lạnh à? Vậy chúng ta về, ngồi đây Thu lạnh.

Thu không muốn về, run rẩy ẩn mình trong tấm áo của anh. Hồi lâu sau, giọng Thu run run:

- Anh …cũng lạnh, phải không? Anh … mặc áo… của anh vào.

- Anh không lạnh.

Anh mặc áo sơ mi và áo len cộc tay, ngồi cách xa Thu đến một mét nhìn Thu khoác cái áo bông nhưng vẫn run rẩy.

Thu vẫn run rẩy, khẽ nói:

- Nếu anh lạnh…cũng…trốn vào trong cái áo này.

Anh chần chừ, hình như đoán xem có phải Thu thử thách mình, nhìn Thu chằm chằm một lúc rồi mới nhích đến gần, nhấc cái áo lên, quàng một nửa người mình, hai người khoác cái áo quân phục như quàng chung tấm áo mưa, coi như không khoác gì.

- Thu vẫn lạnh à?

- Vâng…vâng…cũng…không phải lạnh, hay là vào…em… em mặc…không tác dụng!

Anh thử nắm tay Thu, Thu không phản đối, anh nắm chặt hơn, tiếp tục nắm, tưởng như bóp nát cái run rẩy của Thu. Nắm một lúc, vẫn thấy Thu run rẩy, anh nói:

- Anh có cách này…anh chỉ thử thôi, Thu không thích thì bảo anh. – Nói xong, anh đứng dậy, mặc cái áo bông quân phục lên người, đứng trước mặt Thu, mở rộng hai tà áo, quấn chặt Thu vào trong.

Thu ngồi, đầu chỉ cao ngang bụng anh. Thu nghĩ, lúc này anh như người có mang bụng rất to. Thu bật cười, người không còn run nữa. Anh cúi đầu xuống nhìn Thu qua khe hở của tấm áo bông:

- Có phải cười anh như người mang thai?

Thu bị anh đoán đúng, lại dùng hai tiếng “mang thai” nho nhã, Thu càng cười nhiều hơn. Anh nâng Thu đứng dậy, hai tay mở rộng tà áo, quàng Thu vào trong, nói:

- Như thế này thì không như mang thai nữa. – Nhưng anh lại run rẩy, nói: – Thu…Thu đã… truyền cái run sang cho anh rồi.

Thu nép sát mình vào ngực anh, lại ngửi thấy cái mùi làm Thu ngây ngất. Không biết tại sao Thu mong anh ôm mình chặt hơn, hình như trong cơ thể Thu có một lớp khí khiến người Thu căng phồng, cần anh ôm chặt thì lớp khí kia mới xẹp xuống, nếu không như vậy rất khó chịu. Thu ngượng, không dám nói với anh về điều ấy, cũng không dám ôm ngang người anh, chỉ để hai tay ra sau lưng, giống như đứng nghiêm, nhích về phía ngực anh thêm một chút.

- Còn…còn lạnh không? – Anh hỏi.

Vậy là anh ôm chặt, Thu cảm thấy dễ chịu, liền nhắm mắt, nép vào ngực anh, rất muốn cứ thế ngủ, ngủ không bao giờ dậy.

Anh run rẩy một lúc rồi nói khẽ:

- Tĩnh Thu, Tĩnh Thu…anh cho rằng…không còn được như thế này, cho rằng lần ấy em làm anh sợ. Hai tay anh bây giờ không để không, em bóp chặt anh đi, để anh xem mình có phải nằm mơ hay không…

Thu ngước lên, hỏi:

- Bóp vào đâu?

Anh cười:

- Tùy ý, nhưng lúc này khoan hãy bóp, chắc chắn không phải mơ, vì lúc anh mơ Thu không nói với anh như thế này.

- Trong giấc mơ của anh em nói gì? – Thu hiếu kỳ hỏi anh.

- Trong mơ, em toàn trốn anh, bảo anh đừng đến, bảo anh bỏ tay ra, Thu không thích anh đụng vào người Thu. Thu có mơ thấy anh bao giờ không?

Thu suy nghĩ rồi nói:

- Có…

Thu kể cho anh giấc mơ anh trách cứ Thu.

Hình như anh bị chạm tự ái:

- Tại sao em lại mơ thấy như thế? Chắc chắn anh không như thế với em… Anh biết em rất lo, rất sợ, nhưng anh không bao giờ gây phiền hà cho em, anh chỉ muốn bảo vệ em, chăm sóc em, để em hạnh phúc, chỉ muốn làm những việc em muốn. Nhưng em làm anh khó hiểu, cho nên em bảo với anh em thích làm gì, anh sẽ chiều theo ý em. Nếu không, anh lại làm những việc em không thích mà anh không biết. Chỉ cần em nói, anh sẵn sang làm, việc gì anh cũng có thể làm theo ý em.

Thu rất thích nghe anh nói như vậy, nhưng Thu lại tự cảnh cáo: mi có thể tin được những lời nói ấy không? Anh ấy lừa dối mi đấy, những lời ấy ai mà chả nói được? Thu làm khó anh:

- Em muốn trước khi tốt nghiệp, anh không đến tìm em, anh làm được không?

- Làm được.

Nhắc đến tốt nghiệp, Thu không khỏi suy nghĩ đến tương lai sau khi tốt nghiệp, lo lắng nói:

- Em học xong trung học phổ thông sẽ về nông thôn, em xuống nông thôi rồi sẽ không được về lại thành phố nữa.

- Anh tin em sẽ được về… – Anh giải thích. – Anh không nói nếu em không được về thì anh không yêu em, anh chỉ tin rằng em sẽ được gọi về, nếu không được về cùng không sao, anh có thể đến chỗ em.

Thật ra đấy không phải là vấn đề của Thu, vì theo Thu, hai người yêu nhau không cần phải gần nhau. Quan trọng là hai người yêu xa cách không có gì khác biệt, có thể càng xa càng chứng minh được tình yêu chân thành của hai người.

- Em không muốn anh phải về chỗ em, mà muốn anh chờ em.

- Được, anh chờ em.

Thu lấn thêm một bước:

- Trước hai mươi lăm tuổi em sẽ không nói đến yêu đương, anh chờ được không?

- Chờ được, chỉ cần em cho anh chờ, chỉ cần anh chờ không làm em không vui, anh chờ em cả đời cũng được…

Thu bật cười:

- Anh chờ suốt đời? Chờ cho đến lúc chui quan tài, tại sao anh lại chờ như thế?

- Vì để em tin anh chờ em suốt đời, để em tin thế giới này có tình yêu vĩnh viễn. – Anh lại nói khẽ.

- Em, thật ra em có thể suốt đời yêu một người, chẳng qua em không tin người khác có thể yêu em như thế, em cho rằng mình sai, thật ra em… em rất thông minh, em xinh đẹp, hiền lành, đáng yêu… rất … Anh khẳng định không phải anh là người yêu Thu đầu tiên, mà cũng không phải là người cuối cùng, nhưng tin rằng anh là người yêu Thu nhất.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
Đăng lúc 18-6-2013 20:04:53 | Chỉ xem của tác giả

Chương 22




THU NHƯ NGƯỜI CHƯA HỀ UỐNG RƯỢU nay học uống rượu, uống hớp đầu tiên không quen, sặc sụa chảy nước mắt, cảm thấy rượu vừa cay vừa nóng, nóng cháy họng, không biết tại sao những kẻ nghiện rượu lại uống ngon lành đến vậuống mấy hớp liền quen với vị cay, rồi quen dần, có thể uống tiếp sẽ nghiện.

Những lời Ba vừa nói làm cho Thu nổi da gà nhưng lúc này trở nên dịu dàng và dễ nghe. Thu ngước lên, nhìn anh si mê, nghe anh nói về cảm giác lần đầu gặp Thu, lúc ấy anh như người mất hồn, anh nói đến chuyện ngồi trên giàn giáo gần trường học để xem Thu tập bóng, chuyện anh đi bộ mấy chục cây số đến nhà chị Mẫn để lấy hồ đào, chuyện anh thuê thằng nhỏ năm hào để nó gọi Thu ra. Thu như nghiện nghe chuyện của anh, càng nghe càng muốn nghe. Anh nói xong một đoạn, Thu lại hỏi:

- Còn nữa không? Anh nói tiếp đi.

Anh cười, giống như lần ấy anh kể chuyện trên núi, nói:

- Anh kể một chuyện nữa. – Anh kể được một lúc, bỗng anh hỏi: – Còn em? Em cũng phải kể cho anh một chuyện chứ?

Thu tránh, không kể. Không biết tại sao Thu vẫn cảm thấy không thể để anh biết mình thích anh, tưởng như nói với anh Thu sẽ “sẩy chân”. Nếu anh thích Thu là vì Thu cũng thích anh, vậy thì không lấy gì làm li kỳ. Chỉ có trong trường hợp không biết Thu có thích anh hay không, anh vẫn thích Thu, thích như vậy mới thật là thích.

Thu chần chừ giây lát, nói:

- Em không có nhiều thời gian rảnh rỗi như anh. Em phải đi học, lại phải tập bóng.

Anh cúi xuống, chăm chú nhìn Thu. Thu bối rối, nghĩ bụng chắc chắn anh đã biết mình nói dối. Thu ngoảnh mặt tránh cái nhìn của anh. Thu nghe a>

- Nhớ một người, yêu một người, không phải là chuyện xấu. Không cần vì yêu một người mà cảm thấy xấu hổ, mỗi người hoặc sớm hoặc muộn đều phải yêu một người, tất cả đều bị bệnh tương tư…

Giọng nói của anh có một sức mạnh khiến người khác phải tin phục, Thu cảm thấy sắp phải thú nhận với anh một điều gì đó. Chợt Thu nhớ đến một chi tiết trong truyện Tây du ký, Tôn Ngộ Không đánh nhau với yêu quái, yêu quái có một cái bình, nếu hắn gọi tên ai đó mà người ấy trả lời, người ấy sẽ bị cái bình kia hút vào trong, hóa thành nước. Không hiểu tại sao Thu cảm thấy tay anh đang cầm cái bình ấy, nếu Thu nói mình thích anh, mình sẽ bị hút vào trong cái bình kia không thể nào ra nổi. Thu nói cứng:

- Em không cảm thấy… đấy là chuyện xấu, nhưng em còn nhỏ, đang đi học, em chưa nghĩ đến chuyện ấy…

- Có lúc không phải tự mình suy nghĩ, mà trong lòng không thể không nghĩ. Anh không muốn quấy rối việc học hành của em, anh cũng không muốn đêm nào cũng mất ngủ, nhưng không sao kiềm chế nổi… – Anh nhìn Thu, đau xót quyết tâm. – Em cứ yên tâm học, chờ em tốt nghiệp anh sẽ đến tìm, được không?

Chợt Thu cảm thấy ngày tốt nghiệp sao mà xa vời, còn mấy tháng nữa, anh nói vậy phải chăng mấy tháng nữa anh mới lại được gặp Thu? Thu muốn thanh minh không phải ý đó, muốn nói với anh, chỉ cần không ai phát hiện anh vẫn có thể đến thăm em. Nhưng Thu thấy hình như anh đã nắm bắt được tâm tư Thu, nếu cố tình nói vậy để Thu phải cố sốt ruột, để Thu tự bộc lộ bản thân.

Thu vờ như không để ý, nói:

- Chuyện sau ngày tốt nghiệp để s tốt nghiệp sẽ nói, lúc này nói còn quá sớm, ai biết được đến lúc ấy chúng ta sẽ thế nào.

- Cho dù sau này thế nào đi nữa, dù sao thì em tốt nghiệp rồi anh sẽ đến với em. Nhưng mà, trước khi tốt nghiệp, nếu em cần anh giúp đỡ gì cứ nói với anh, được không?

Thấy anh rất quyết tâm, hơn nữa rất nhanh chóng, lòng Thu như mất mát, xem ra anh có gặp Thu hay không đều rất có thể, không giống như vừa rồi anh nói ngày đêm nhớ Thu. Thu bực mình:

- Em có việc gì để nhớ anh? Em chỉ cần anh đừng đến tìm em.

Anh rất bối rối, cười, không nói gì. Một lúc sau anh mới nói:

- Em, những lúc em giày vò anh như thế, phải chăng lòng em rất vui? Nếu đúng như thế thì anh không có gì để nói, chỉ cần em vui là được. Nhưng nếu như… bản thân em cũng buồn, vậy thì tại sao em cứ phải giày vò anh?

Chợt Thu giật mình, anh đúng là lính trinh sát, Thu nghĩ gì anh cũng trinh sát được, không hiểu cái lọ kia của anh lợi hại biết chừng nào, không biết có hút vào tất cả những gì anh đã trinh sát được hay không? Không kiềm chế nổi, Thu lại run lên, rất kiên trì:

- Anh đang nói vớ vẩn gì thế!

Anh ôm chặt Thu, khẽ nói:

- Đừng giận anh không nói gì, chỉ nói lung tung thế thôi! Em không thích anh… thì không thích, chỉ cần anh thích em. – Nói xong, anh áp mặt mình lên mái tóc Thu, nhẹ nhàng cọ xát.

Anh cọ xát khiến Thu cảm thấy đầu nóng lên, hơi ấm từ đầu lan xuống mặt, xuống cổ, khiến mặt Thu nóng bừng, Thu không còn biết mình thế nào, liền chuyển cáu giận sang anh:

- Anh làm gì thế? Cứ chà xát trên đầu em, là rối tóc em, chốc nữa làm sao em về nổi?

Anh cười, nói theo cách của Thu:

- Anh giúp chải lại tóc cho em.

- Anh làm tóc em thế nào? Đừng làm tóc em như cái tổ quạ. – Thu cáu.

Thu lùi ra một chút, xõa bím tóc, năm ngón tay đưa lên chải tóc.

Anh nghiêng nhìn mái tóc Thu, nói:

- Em xõa tóc… đẹp lắm.

Thu bĩu môi:

- Anh nói sợ chết đi được!

- Anh chỉ nói thật, trước kia chưa ai khen em đẹp à? Chắc chắn đã có nhiều người khen rồi.

- Anh nói nhảm vừa chứ, em không nghe đâu, anh còn nói nữa em bỏ đi đấy.

Anh nói ngay:

- Thôi được, không nói nữa. Nhưng xinh đẹp không phải là chuyện gì xấu xa, người khác khen em cũng không có tác dụng gì, em đừng ngượng, càng không nên cáu với người ta. – Thấy Thu sắp tết lại tóc, anh nói: – Cứ để xõa, cho anh ngắm…

Ánh mắt khẩn cầu của anh khiến Thu xúc động, ngừng tay một cách không tự giác để anh nhìn. Anh nhìn, bỗng thở gấp gấp:

- Anh… có thể… hôn lên khuôn mặt em được không, bảo đảm không chạm vào chỗ nào khác?

Thu cảm thấy anh rất đau khổ, tưởng như không khí xung quanh không đủ cho anh hít thở. Chợt Thu sợ, sợ nếu mình không đồng ý anh có thể chết. Thu rụt rè đưa một bên má, nói:

- Anh bảo đảm nhé…

Anh không đáp lời, chỉ ôm chặt Thu, ghé môi vào khuôn mặt Thu, như hôn, nhưng không dám vượt khỏi vùng mặt. Râu của anh chạm vào mặt Thu, hơi thở nóng ấm, khiến Thu vừa kích động, vừa sợ hãi. Làn môi anh đến gần làn môi Thu, Thu cho rằng anh sẽ như lần trước, chợt hoảng loạn, không biết mình có nên nghiến răng như lần trước, nhưng làn môi anh lại dịch chuyển, một lần sợ hãi không

Anh hôn lên khuôn mặt Thu, Thu thoáng chút lo lắng, sợ nửa khuôn mặt bị râu anh làm đỏ lên, đến lúc mặt một bên đỏ một bên trắng về nhà thế nào được? Thu rất nhẹ nhàng thoát ra, vừa tết tóc vừa trách anh:

- Anh… không chán à?

- Vì sẽ một thời gian dài không được gặp em.

- Vậy anh hôn nhiều một chút, để dành dùng dần. – Thu cười.

- Nếu để được thì tốt rồi… – Hình như tâm thần anh bất định, tay chân bối rối, ngực phập phồng lên xuống, mắt nhìn Thu.

Thu hiếu kỳ hỏi lại:

- Anh sao thế? Em tết tóc bị lệch à?

- Ừ, không. Đẹp lắm, muộn rồi, anh đưa em về, biết đâu mẹ lại đi tìm.

- Thu sực nhớ, vừa rồi đi không nói gì với mẹ, Thu bối rối, hỏi:

- Mấy giờ rồi?

- Gần chín giờ rưỡi.

Thu cuống lên:

- Nhanh lên anh, hết đò ngang em không về được.

Hai người vội vã ra bến đò, Thu lo lắng hỏi:

- Chốc nữa anh về đâu ngủ?

- Tìm chỗ nào đấy, nhà trọ, nhà khách nào cũng được.

Thu nghĩ ngay đến nhà khách, nhà trọ khu ngoại thành bên kia sông, khuyên anh:

- Thế thì anh đừng đưa em về nữa, kẻo rồi chốc nữa không có đó sang sông, anh phải về bên này, bên kia không có nhà trọ.

- Không sao.

- Chốc nữa anh đừng đi gần em, sợ bên kia sông có nhiều người trông thấy.

- Anh biết, anh sẽ đi xa, thấy em vào cổng trường rồi anh sẽ về…

Anh lấy từ trong túi đeo ra một cuốn sách, đưa cô

- Cẩn thận, trong đó có lá thư, anh sợ không có cơ hội nói chuyện, nên viết thư.

Thu cầm cuốn sách, lấy lá thư cho vào túi áo.

Về đến nhà, đứa em gái trách chị:

- Chị, chị đi đâu đấy? Mẹ tìm chị khắp nơi, mẹ từ nhà chị Hồng về, bị ngã xuống cống…

Thu thấy chân mẹ bị xây xước, bôi thuốc đỏ, Thu rất sợ.

Mẹ khẽ hỏi:

- Con đi đâu về mà muộn thế?

- Con… sang nhà cái Bình.

Em gái nói:

- Mẹ bảo em sang nhà chị Bình, chị Bình bảo chị không đến đấy.

Thu hơi

- Tìm làm gì? Bạn con ở Tây Thôn Bình đến, con đi với bạn, làm gì mà phải rối lên thế, người khác lại tưởng con…

Mẹ nói:

- Mẹ có rối lên đâu, lúc thằng Thành đến gọi con, mẹ nghe thấy. Thấy con muộn rồi mà chưa về, mẹ bảo em nó sang tìm. Đến nhà cái Hồng mẹ cũng bảo mượn đồ… mẹ đâu có khờ dại mà nói với người ta con gái đi chơi muộn không về. – Mẹ thở dài. – Nhưng con cũng quá bạo gan, đi mà không nói gì với mẹ, cũng không nói đi đến mấy giờ. Bây giờ ngoài đường loạn lắm, con gái đi một mình nếu gặp kẻ xấu thì coi như hết đời, con ạ!

Thu cúi đầu lặng lẽ, biết mình đã sai, may mà chân mẹ chỉ bị trầy xước nhẹ, nếu xảy ra chuyện lớn thì Thu ân hận suốt đời.

- Bạn ở Tây Thôn Bình của con… là … trai hay gái? – Mẹ hỏi.

- Gái, mẹ ạ.

- Hai đứa là gái, đi đâu về muộn thế?

- Chúng con ra bờ sông đứng chơi.

- Em với mẹ cũng ra bờ sông, có thấy chị ở đấy đâu?

Thu không dám nói gì.

Mẹ lại thở dài:

- Mẹ biết con là đứa con gái thông minh, hiểu biết, tại sao con làm cái việc dại dột như vậy? Có nhiều người đàn ông thích để ý đến những người con gái như con, chỉ vài câu ngon ngọt, vài cái áo hoa hoét, vậy là lừa được vào tay. Nếu con bị những kẻ ấy lừa, coi như đời con thế là hỏng. Con đang đi học, nếu chơi với bọn xấu, nhà trường sẽ đuổi học, vậy đời con…

Mẹ thấy con gái cúi đầu im lặng, liền hỏi:

- Cái anh Lâm ấy à?

- Không phải.

- Vậy là ai?

-Một người ở đội thăm dò, con với anh ấy không có chuyện gì, anh ấy lên công tác, có ít tem lương thực dùng không hết, bảo con đem về dùng. – Thu nói, rồi lấy tem lương thực ra, định lấy công chuộc tội.

Mẹ nhìn tem lương thực, càng bực mình:

- Đấy là thói quen của đàn ông, dùng chút ơn huệ để lôi kéo con, cho con những lời ngon ngọt, lấy của người ta…

- Anh ấy không phải là người như thế… chỉ muốn giúp đỡ con.

- Không phải là người như thế? Anh ấy biết rõ con là một học sinh, tại sao lại gọi con đi chơi, chơi cho đến tận nửa đêm mới về? Nếu anh ấy thật lòng giúp đỡ sẽ không đàng hoàng đến chơi nhà ta được à? Làm những chuyện lén lút mà gọi là người tốt hay sao? – Mẹ thở dài buồn bã. – Suốt ngày mẹ cứ sợ con mắc lừa, sợ con sẩy chân ôm hận suốt đời, nói với con bao nhiêu lần rồi mà vẫn không nghe ra?

Mẹ nói với em gái:

- Con ra ngoài, để mẹ nói chuyện với chị con.

Đứa em gái ra ngoài, mẹ hỏi Thu:

- Anh ấy… đã làm gì con chưa?

- Làm gì ạ?

Mẹ ngập ngừng:

- Anh ấy… ôm con chưa? Hôn con chưa? Anh ấy…

Thu vô cùng bối rối, thế là xong, ôm, hôn chắc chắn đều là chuyện xấu, nếu không việc gì mẹ phải lo lắng đến thế? Tim Thu đập thình thịch, cố tình nói dối:

- Không ạ!

Mẹ như trút được gánh nặng, dặn dò:

- Không thì được. Từ nay về sau đừng đến với anh ấy nữa, chắc chắn đấy không phải là một người tốt, xa như vậy mà còn đến dụ dỗ một đứa con gái học sinh. Nếu anh ta còn đến, con bảo với mẹ, mẹ viết thư báo cáo với đội thăm dò.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
Đăng lúc 18-6-2013 20:06:06 | Chỉ xem của tác giả

Chương 23





ĐÊM HÔM ẤY, Thu mãi không ngủ được, không biết Ba có qua được đò không? Nếu hết đò, anh sẽ không qua nổi bên kia sông.

Nơi Thu ở gọi là đảo Giang Tâm, bốn mặt chung quanh là nước, một dòng sông lớn từ thượng lưu đổ về đến phía tây đảo Giang Tâm thì chia làm hai nhánh: nhánh chảy qua phía nam đảo, người ở đây gọi là sông Lớn; nhánh kia nhỏ hơn chảy qua phía bắc đảo, gọi là sông Nhỏ, tức là con sông trước trường học. Hai nhánh sông này hợp lưu ở đầu đông đảo Giang Tâm thành một con sông lớn chảy về đông. Hễ đến mùa hè, nước sông bốn phía đảo đều lên, có thể lên cao nhưng chưa bao giờ ngập đảo Giang Tâm. Nghe các cụ già nói, đảo Giang Tâm được lưng một con rùa đội lên, cho nên không bao giờ ngập.

Bên kia sông Lớn là bờ nam, nhưng không phải là bờ nam được thơ ca ngợi, mà là những làng quê nghèo. Bên kia bờ sông Nhỏ là thành phố K, đảo Giang Tâm thuộc thành phố này, coi như vùng ngoại thành của thành phố K, cách sông qua đò, không tiện lắm. Trên đảo có mấy nhà máy, có một đội trồng rau của hợp tác xã nông nghiệp, có trường trung học, tiểu học, có vài nhà hàng ăn, có chợ, nhưng không có nhà trọ, khách sạn.

Thu lo muộn quá Ba không qua sông nổi, chỉ còn biết ở lại trên đảo Giang Tâm, suốt đêm ở ngoài phố. Trời lạnh, không biết anh có chết rét không? Coi như anh qua được sông, có tìm được chỗ trọ hay không, nghe nói vào nhà tr phải trình chứng minh thư, không biết anh có giấy tờ gì không?

Trong đầu Thu là hình ảnh Ba quàng chặt cái áo bông to, cổ rụt lại, đi lang thang ngoài phố. Sau rồi hình ảnh anh ngồi co ro qua đêm trong đình, người đông lại như cây kem sáng hôm sau bị người quét đường phát hiện. Nếu không sợ mẹ vì quá lo lắng mà đổ bệnh, Thu sẽ chạy đi xem Ba đã qua sông chưa, cuối cùng đã tìm được nhà trọ hay chưa. Thu nghĩ, đêm nay anh chết rét cũng là chết vì Thu, nhất định Thu sẽ đi theo anh. Nghĩ đến chết, Thu không sợ, như vậy hai người sẽ được vĩnh viễn bên nhau, Thu không còn sợ anh nói mà không làm, cũng không lo anh yêu người khác, anh sẽ vĩnh viễn yêu thu.

Nếu thật như vậy, Thu sẽ đề nghị chôn hai người dưới gốc sơn trà. Nhưng hình như không thể chôn dưới gốc cây ấy, vì hai người không phải là những anh hùng chống Nhật, không chết vì lợi ích của nhân dân, chỉ là một trai một gái yêu nhau, một người chết rét, một người tự tử. Theo cách nói của Mao Chủ tịch, cái chết của họ nhẹ như lông hồng mà không phải nặng như Thái Sơn, làm sao có đủ tư cách chôn dưới gốc cây ấy? Nhưng anh hùng chống Nhật chôn ở đây chắc chắn cũng sẽ có ý kiến. Vẫn đề ở chỗ Thu còn mẹ và em gái, nếu Thu chết thì mẹ và em thế nào? Vậy phải nuôi cho em lớn lên đã, để mẹ có chỗ nương tựa rồi mình hãy chết. Nhưng Thu khẳng định phải đi theo anh, bởi anh chết vì mình.

Thu nằm ở phòng ngoài cứ trằn trọc mãi, nghe mẹ nằm ở phòng trong cũng trằn trọc. Thu biết mẹ đang lo lắng vì chuyện hôm nay. Thu tin rằng, mẹ sẽ không tố cáo với đội thăm dò việc anh đến gọi Thu đi chơi, mẹ không đến nỗi khờ dại và thâm độc như vậy, vì đó là chuyện hai người mà mình chẳng lợi lộc gì. Như vậy chỉ làm khổ Ba, mà cũng làm Thu dính vào chuyện. Nhưng Thu có thể tưởng tượng, từ nay về sau mẹ càng lo lắng cho Thu, chỉ mấy phút không thấy, mẹ có thể cho rằng Thu đã đến với một người đàn ông xấu xa nào đó.

Thu muốn nói với mẹ, mẹ không phải lo cho con, nửa năm sắp tới anh ấy sẽ không đến, anh ấy đã nói, chờ con tốt nghiệp rồi mới đến. Chưa biết chừng ngày đó anh ấy đã quên con rồi. Rất nhiều con gái thích anh ấy, miệng anh ấy ngọt ngào lắm, con bị anh ấy dỗ dành, nếu anh ấy dỗ dành người con gái khác, vậy chẳng hóa ra dễ như trở bàn tay sao?

Thu hồi tưởng nhiều lần chuyện diễn ra tối nay, hơn nữa chỉ xoay quanh hai trung tâm là anh ôm và hôn lên má. Không biết vì tư tưởng Thu không lành mạnh hay vì mẹ vừa nghe nói hai sự việc ấy đã sợ? Hai sự việc làm mẹ sợ hãi chắc chắn là tội lớn mà Thu phạm vào cả hai, biết làm thế nào bây giờ? Anh ôm, anh hôn, cuối cùng có hại gì? Thu không hiểu. Lần trước anh cũng ôm, cũng hôn, hình như không sao cả. Nhưng nếu không hại gì, vậy thì tại sao mẹ lại sợ? Mẹ là người từng trải, chả nhé không biết điều gì sợ, điều gì không đáng sợ?

Hình như tối nay Ba có phần kích động, như vậy có phải cái tính dã thú bột phát? Tính dã thú là gì nhỉ? Dã thú khác người ở chỗ ăn thịt người, anh không ăn thịt Thu, chỉ dịu dàng hôn, không có gì giống với dã thú.

Cho đến hôm sau Thu mới có cơ hội lấy thư của anh ra xem. Đấy là tuần lễ Thu phải khóa lớp học, Thu chờ cho mọi người về hết, rồi ngồi vào một góc, bóc thư ra xem. Thư của Ba viết rất hay, có thể nói rất dịu dàng, nồng nhiệt, tình cảm. Anh viết những lúc anh nhớ Thu, rất cảm động, rất dễ chịu. Nhưng anh cũng viết về Thu, nhưng những gì anh viết về Thu không hợp với Thu lắm.

Thu rất thích thư của anh nếu chỉ viết anh yêu Thu thế nào, nhớ ra sao, không viết Thu như kẻ đồng mưu. Nhưng anh viết “chúng ta” thế nào thế nào, viết như thể đã đụng vào sự kỵ húy của Thu. Thu cũng đã nhận được những lá thư tỏ tình, phần lớn là của bạn học. Cho dù người viết thư chữ nghĩa cao thấp, điều Thu phản cảm nhất là người viết thư tự cho mình giàu tình cảm, đoán chắc Thu cũng đã để ý đến anh ta!

Còn nhớ một cậu học sinh, coi như người giỏi văn, nhưng cậu ta cũng thật lì lợm, lần nào viết thư cũng đều làm như Thu đã trao gửi trái tim c rồi. Thu không thèm để ý, cậu ta bảo đấy là sự thể hiện tình cảm, vì thái độ của Thu đối với cậu ta không giống với người khác. Nếu Thu nói với cậu ta, lại càng tệ hại hơn, cậu ta lập tức thổi phồng lời lẽ trong thư, coi như là bằng chứng Thu thích cậu ta. Có thể nhổ nước bọt vào cậu ta, cậu ta cũng coi đấy là bằng chứng thích cậu ta: tại sao chỉ có nàng mới nhổ nước bọt vào tôi mà không nhổ nước bọt vào ai? Điều ấy chẳng đã chứng minh quan hệ của nàng với tôi khác với mọi người đó sao?

Trong tình huống thông thường, Thu rất tôn trọng, rất cảm kích người viết thư cho Thu, nói chung không làm người ấy phải ngượng. Nhưng đối với cậu học sinh lì lợm này Thu rất bực mình. Cậu ta không chỉ viết thư mà còn khoe với người khác cậu ta là bạn chơi bời với Thu, Khiến mọi người trêu chọc, ngay cả mẹ cũng tưởng thật, nói:

- Nếu con chưa đáp ứng gì với cậu ta, làm sao cậu ta dám nói như thế, dám viết như thế?

Về sau, Thu không còn chịu đựng nổi, cầm tất cả những lá thư ấy đến tố cáo với gia đình cậu ta, từ đấy cậu ta mới chịu thôi.

Thu không biết Ba là con người thông minh đến mức độ nào, tại sao không nhận ra Thu không muốn anh viết vào thư những tình cảm của Thu? Thu muốn anh viết Thu là con người lạnh lùng, còn anh thì khổ sở yêu Thu, cuối cùng – chú ý, đến cuối cùng, cho dù Thu không biết cuối cùng sẽ là lúc nào – Thu mới bày tỏ tình yêu với anh. Thu cảm thấy tình yêu là phải như thế, tức là phải theo đuổi ngay từ đầu, theo đuổi đến tận cùng, người con gái mới thật thanh thản.

Thu định xé lá thư của Ba ném vào nhà vệ sinh, nhưng lại nghĩ, có thể đây là lá thư cuối cùng của Ba, Thu không xé nữa. Nhân lúc mẹ đi thăm gia đình học sinh, Thu định khâu lá thư ấy vào trong áo bông.

Thu có thể nhận ra mẹ quản lí mình chặt hơn, ngay cả khi Thu Ngụy Hồng mẹ cũng hỏi đi hỏi lại, hình như sợ con gái như lần trước, bảo sang nhà Chung Bình lại đi với một anh ở đội thăm dò.

Thu cảm thấy không công bằng, anh trai có bạn gái rất sớm, mẹ chẳng những không đề phòng mà còn nhiệt tình giúp đỡ bạn gái của anh. Mỗi lần bạn gái của anh đến chơi mẹ tìm cách mua ít thịt làm thức ăn mời cơm, lại còn giặt khăn trải giường, giặt chăn sạch sẽ, kết quả mệt đến độ đi tiểu ra máu.

Mẹ thường nói:

- Nhà ta cần tiền không có tiền, cần quyền không có quyền, thành phần không tốt, ngoài một chút nhiệt tình ra, còn biết lấy gì?

Thu biết mẹ rất cảm kích bạn gái của anh trai, có thể nói cảm kích đến rơi nước mắt, vì anh tìm được một người bạn gái như thế thật không dễ dàng.

Anh trai Thu tên là Tĩnh Tân, hơn Thu ba tuổi, bạn gái của anh tên là Vương Á Dân, học cùng lớp với Tân hồi trung học cơ sở, cũng là cô gái xinh đẹp nhất cùng trang lứa, cặp mắt to, sống mũi cao, tóc vừa đen vừa dày, hơi quăn, giống như búp bê, hồi nhỏ chụp ảnh hiệu ảnh thường treo ảnh Dân để làm mẫu.

Gia đình Á Dân cũng rất khá, mẹ là y tá, bố là giám đốc xưởng đóng tàu. Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, bố cô kiếm cho cái giấy chứng nhận “viêm khớp chân”, Á Dân không phải về nông thôn, được vào làm công nhân trong xưởng may mặc của thành phố K. Có thể Á dân cảm phục tiếng đàn violon của anh trai Thu, từ lâu đã rất quý anh. Nhưng lúc mới bắt đầu cũng giấu gia đình, cho nên gia đình không ai biết.

Một hôm, Á Dân mắt đỏ ngầu, đến tìm mẹ Thu, rất căng thẳng>

- Thưa cô, anh Tân có nhà không ạ? – Nhưng không dám nói gì.

Mẹ biết Tân ở đâu, nhưng anh dặn nếu có ai tới hỏi, bảo anh đi vắng. Vậy là mẹ nói:

- Tân đến nhà bạn, cháu tìm Tân có việc gì?

Á Dân nói:

- Cháu biết anh ấy có nhà, không muốn gặp cháu… vì, cháu nói với anh ấy, bố mẹ cháu không đồng ý chuyện của cháu với anh ấy, sợ anh ấy không về lại được thành phố. Anh ấy nói với cháu: “Chúng ta thôi nhau đi, để em không phải khó xử, bố mẹ em cũng vì em, anh cũng không biết mình có được về lại thành phố hay không, đừng làm lỡ việc của em”. Từ đấy về sau anh ấy cứ tránh mặt cháu. Nhưng đấy là ý của bố mẹ cháu, không phải ý cháu, chưa bao giờ cháu phàn nàn chuyện anh ấy phải về nông thôn…

Vành mắt mẹ cũng đỏ lên, nói:

- Tân cũng vì cháu thôi.

Á Dân khóc lóc ngay trước mặt mẹ Thu, nói:

- Gia đình cháu đối với cháu như thế, anh ấy đối với cháu cũng như thế, cháu sống còn có ý nghĩa gì nữa?

Mẹ sợ, vội bảo Thu đi gọi anh về, Á Dân nói:

- Để chị đi với em.

Đang kỳ nghỉ đông, mẹ hỏi mượn căn phòng của một thầy giáo về quê ăn Tết, để Tân về nghỉ Tết tạm ở đấy mấy hôm. Tân trốn trong phòng không muốn gặp Á Dân.

Thu gọi cửa phòng anh trai, thấy anh trai và Á Dân bốn mắt nhìn nhau, hình như nước mắt lưng tròng, Thu vội bỏ đi, biết anh trai không tránh mặt Á Dân. Thu nhận ra, anh trai rất thích Á Dân, lâu nay cố tình tránh mặt, anh gầy hẳn đi.

Tối hôm ấy, Á Dân cùng anh trai ăn cơm ở nhà. Á Dân nói:

- Bất kể bố mẹ cháu nói thế nào, cháu nhất định sẽ đến với annh Tân, nếu bố mẹ vẫn mắng cháu, cháu sẽ dọn đến ở đây với cô, ngủ cùng giường với em Thu.

Trong dịp Tết, hầu như ngày nào Á Dân cũng đến tìm Tân, hai người chơi trong phòng với nhau đến tận mười một giờ đêm mới về, không biết bố mẹ Dân dặn dò Dân thế nào.

Một buổi tối, đã gần mười một giờ, có mấy thầy giáo trực ban bảo vệ nhà trường đến gọi mẹ Thu, bảo có chuyện. Thu và mẹ cùng mấy thầy giáo kia lên văn phòng nhà trường, thấy Tân bị giam trong một phòng nhỏ, Á Dân bị giam ở một phòng khác.

Mấy thầy giáo trực ban đuổi Thu ra ngoài, bảo để họ nói chuyện riêng với mẹ. Thu sốt ruột chờ ở ngoài, một lúc sau, một thầy giáo trực ban dẫn Á Dân ra, nói cô có thể về, nhưng Á Dân không chịu về, cô

- Tại sao các thầy không thả anh ấy ra? Chúng tôi không làm gì sai, các thầy không thả anh ấy ra thì tôi cũng nhất quyết không về.

Thầy giáo trực ban nói:

- Cô còn lên tiếng nữa à? Cô có còn biết ở đời này có hai tiếng “xấu hổ” không? Chúng tôi có thể đưa cô đến bệnh viện để kiểm tra, xem cô có còn già mồm nữa không?

Á Dân không kém:

- Đi thì đi, ai không đi không phải là người, nếu kiểm tra chứng nhận tôi không làm gì thì các người hãy cẩn thận cái đầu chó của các người. Anh em tôi không tha cho các người, bố tôi cũng không tha cho các người. Các người đúng là những người thích để ý đến những chuyện vặt vãnh, bắt nạt người khác một cách quá đáng!

Chưa bao giờ Thu thấy Á Dân gay gắt như vậy, bình thường cô nói năng nhỏ nhẹ.

Hình như người trực ban bị trấn áp, nói với mẹ vừa bước ra:

- Cô giáo Trương, cô đưa cô ta về nhà, chúng tôi trông chờ vào uy tín của cô, hôm nay không làm gì nổi cô ta, chúng tôi sẽ giao cô ta cho đội dân phòng.

Mẹ sợ to chuyện nói với Thu:

- Con đưa chị Dân về, mẹ ở đây lo chuyện của anh con. Thu đưa Á Dân về, Á Dân bức xúc:

- Anh Tân vẫn ở đây, chị về làm gì? Chị sợ bọn nó giao anh Tân cho đội dân phòng, đội dân phòng sẽ đánh anh ấy, chị sẵn sàng đi với bọn họ đến bệnh viện, chị cần bọn họ thả anh Tân.

Thu cùng Á Dân chờ ở ngoài, cô sốt ruột hỏi:

- Cuối cùng là chuyện gì?

- Cái bọn trực ban ấy thích để ý những chuyện lặt vặt.

Tối nay rất lạnh, chị chỉ ngồi với anh Tân ở giường, lấy chăn ủ chân, bọn họ gõ cửa, chị ra mở cửa ngay, thế là bọn họ đưa anh Tân và chị lên văn phòng còn dọa giao anh Tân và chị cho đội dân phòng.

Thu không biết chuyện nghiêm trọng đến mức nào, vội hỏi:

- Bây giờ làm thế nào?

- Sẽ chẳng làm gì được chị và anh Tân, chị và anh Tân không làm việc gì, sẵn sàng kiểm tra y tế. Nhưng rất may chị với anh Tân không tắt đèn, ngay cả áo bông cũng không cởi, nếu không… bọn họ đưa chị và anh Tân cho đội dân phòng thì phức tạp… bọn họ không biết thế nào là phải trái, cứ đánh rồi nói chuyện sau.

- Họ bảo đưa chị đến bệnh viện kiểm tra là ý làm sao?

Á Dân do dự giây lát rồi nói:

- Nhờ bác sĩ kiểm tra chị… có còn… con gái không, nhưng chị không sợ, chị với anh Tân chẳng làm gì.

Thu chưa hiểu, Á Dân thừa nhận ngồi với anh Tân trên giường, như vậy chẳng phải ở “cùng phòng” lại “lên giường” là gì? Tại sao bảo không làm gì? Phải chăng vì chưa cởi áo bông và chưa tắt đèn?

Cuối cùng thì anh cũng được thả, nói bọn họ thấy Á Dân đòi đi kiểm tra y tế, biết hai người không làm gì nên tha anh lại còn xin lỗi, sợ nhà Á Dân sẽ tính nợ với bọn họ. Sau đấy tối nào Á Dân cũng đến chơi, nhóm trực ban không đến gõ cửa nữa.

Mẹ càng thích A Dân, nói không ngờ con gái ông Vương đã cứu được anh trai con, cô ấy hung như một con hổ cái.

Thu vui cho anh có một bạn gái như thế, nhưng Thu không khỏi suy nghĩ: nếu mình với Ba trong căn phòng nhỏ ấy, chắc là mẹ sẽ giao Ba cho đội dân phòng mất!

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
Đăng lúc 18-6-2013 20:07:45 | Chỉ xem của tác giả

Chương 24




VÌ KHÔNG BIẾT tối hôm ấy Ba có tìm được nhà trọ hay không, Thu lo không biết anh sống chết thế nào, sợ một ngày nào đó Phương báo tin anh đã chết, mời Thu đến dự lễ truy điệu.Ngày nào Thu cũng tìm cơ hội lên văn phòng của mẹ lục tìm đống báo, xem có tin ai chết rét ở thành phố này không. Nhưng Thu cảm thấy báo sẽ không đăng tin này, vì Ba tự chết rét chứ không phải cứu người mà chết, như vậy báo đăng làm gì? Thu muốn về Tây Thôn Bình xem anh có còn hay không. Nhưng Thu không dám xin tiền đi đường của mẹ, hơn nữa không kiếm đâu ra lí do để đi trọn một ngày, đành ngồi nhà nóng ruột suông.

Thu nhớ ra mình có quen bác sĩ Thành làm việc tại một bệnh viện lớn của thành phố, liền chạy đi tìm anh. Thu hỏi, gần đây bệnh viện có chữa trị cho ai bị chết rét, bác sĩ Thành bảo không. Thu lại hỏi, thời tiết như thế này, ở ngoài trời liệu có chết rét được không? Bác sĩ Thành nói nếu mặc phong phanh thì rất có thể chết rét. Thu nghĩ, anh mặc áo bông quân phục, sẽ không thể chết được.

Bác sĩ Thành an ủi Thu, bây giờ nói chung không có người chết rét, nếu ở ngoài trời quá lạnh họ cũng có thể vào phòng chờ bến xe, bến tàu thủy, có thể công an coi đây là những kẻ vô gia cư sẽ bị thẩm vấn, cùng không chết rét ở ngoài trời được. Nghe nói vậy Thu yên tâm.

Thu quen vị bác sĩ này là vì nhạc mẫu của anh vốn là đồng nghiệp cũ của mẹ, đều dạy hc ở trường tiểu học trực thuộc trường trung học số Tám, hơn nữa hai người đều gọi là Trương, nhiều gia đình trên đảo Giang Tâm trong nhà đều có học sinh của cô giáo Trương.

Nhạc mẫu của bác sĩ Thành đã về hưu, nhưng ở gần trường học. Vợ của bác sĩ Thành tên là Giang, dạy ở đại học K, kéo accordéon rất giỏi, hai vợ chồng ở nhà một người kéo đàn một người hát, khách qua đường ai cũng phải dừng chân lắng nghe.

Thu cũng biết kéo accordéon, nhưng là tự học, không ai dạy. Thu là cây accordéon đầu tiên của trường, vì trường của mẹ có đàn phong cầm, Thu thường xuyên lên phòng nhạc để tập. Về sau, vì học sinh phải đi tuyên truyền tư tưởng Mao Trạch Đông, phải đàn hát, nhảy múa ở các nơi, cần có người đm đàn, nhưng lại không thể khiêng cả đàn phong cầm đi theo, vậy là Thu học accordéon.

Nhà trường có cái đàn accordéon cũ, nhưng không thầy nào biết chơi, Thu bảo mẹ mượn cây đàn ấy về cho Thu học. Phong cầm và accordéon đều là nhạc cụ có phím, nhiều chỗ giống nhau. Thu chơi thử, xem ra có thể đệm cho các bạn hát, chẳng qua tay trái vẫn chưa thạo lắm.

Hồi ấy người biết chơi đàn rất ít, nữ biết kéo đàn lại càng hiếm. Thu cõng đàn theo đội tuyên truyền của trường đến các nơi trên đảo Giang Tâm để tuyên truyền tư tưởng Mao Trạch Đông. Hầu hết người trên đảo biết Thu, có thể không biết tên, nhưng biết “cái cô gái kéo đàn ở trường số Tám”.

Về sau mỗi khi đi qua cửa nhà cô giáo Giang, thường xuyên nghe cô kéo đàn, Thu phục lắm, nên bảo mẹ đưa đến nhà cô Giang để xin học. Thu học đàn ở nhà cô Giang, rất nhanh chóng thân thiết với những người trong gia đình.

Cô giáo Giang rất xinh đẹp, sống mũi cao, mắt sâu, ai cũng bảo cô là người nước ngoài, rất nổi tiếng trên đảo Giang Tâm, cô đi đến đâu cũng có người nhìn theo. Bọn trẻ nghịch ngợm thường theo sau cô giáo hô thật to “bà đầm”. Cô rất tốt tính, chỉ quay lại vẫy tay, cười với lũ trẻ.

Thân thế của bác sĩ Thành là đầu câu chuyện của những người sống trên đảo Giang Tâm, có rất nhiều cách nói khác nhau. Có người bảo anh là đặc vụ Mỹ – Tưởng, có người bảo anh là gián điệp Liên Xô; có người bảo bố anh là một vị tướng trong quân đội Mỹ, lấy vợ Trung Quốc sinh ra anh, trước ngày giải phóng vị tướng kia chạy về Mỹ, bỏ lại vợ con ở Trung Quốc, lại có người nói mẹ anh là cán bộ của Đảng, hồi học tập ở Liên Xô yêu một người Liên Xô, sinh ra anh, vì sợ bị ảnh hưởng đến tương lai tiền đồ, liền đem anh cho người khác nuôi.

Bác sĩ Thành giải thích vẻ giống “người nước ngoài là bởi vì gia đình có huyết thống Kazak, nhưng không ai thấy cha hoặc mẹ người Kazak của anh, cho nên mọi người cứ tin anh là gián điệp, đặc vụ hoặc là con lai. Chuyện cứ nói đi nói lại, nói có đầu có đuôi, cách nói nào cũng có người tin.

Thu tương đối thích vị trí “cán bộ đảng”, vì trong lòng Thu người Mỹ không đẹp bằng người Liên Xô, người Mỹ mũi quá nhọn, mũi diều hâu, mũi diều hâu tượng trưng cho tính giảo hoạt. Mũi người Liên Xô không quá nhọn, cho nên đẹp trai, dũng cảm và thành thật. Thật ra Thu chưa thấy người Mỹ bao giờ, mà phim cũng hình như chưa được xem, đều là trông thấy hình vẽ trên báo chữ to và tranh cổ động. Nhưng Thu đã thấy tranh minh họa người Liên Xô, con trai Liên Xô hay mặc áo chui, cổ xẻ có ba cái cúc, thắt dây lưng da, phong độ ngời ngời.

Không biết tại sao Thu thấy bác sĩ Thành giống Ba, tuy mũi không cao, mắt không sâu như vậy, đi ngoài đường cũng không có nhiều người theo nhìn bằng cặp mắt li kỳ, nhưng Thu thấy rất giống. Thu không biết mình vì thích cái vẻ bề ngoài của bác sĩ Thành nên vừa gặp Ba đã có cảm tình ngay, hay là vì thích Ba nên cảm thấy bác sĩ Thành đẹp trai, tuấn tú, dù sao thì Thu vẫn coi hai người ấy là một.

Sau khi hỏi bác sĩ Thành, nghĩ bụng anh không chết rét, nhưng cho đến tận khi tận mắt đọc được thư của anh Thu mới thật sự yên tâm.

Hôm ấy, mẹ mang về cho Thu một phong thư, nói thư của người ở Tây Thôn Bình. Thu nghe nói suýt ngất, nghĩ bụng có thể Ba đã chết rét, cho nên thư gửi về trường tiểu học trực thuộc trường trung học số Tám. Lần đầu tiên gặp nhau Thu nói với anh đừng gửi thư về đấy, vì hồi ấy học sinh chẳng có thư từ gì, nếu có, chắc chắn đấy là bí mật của ai đó. Phòng thường trực thấy thư của nhà Thu, bất kể người nhận thư là ai cũng đều đưa cả cho mẹ.

Mẹ không bóc thư, để Thu tự bóc. Có thể đấy là lá thư đầu tiên Thu nhận qua bưu điện, Thu thấy ngoài bì thư ghi người gửi là Trương Trường Phương, nét chữ cũng giống chữ Phương, Thu liền bóc thư ngay trước mặt mẹ. Thư viết rất đơn giản, chỉ nói chuyện học tập gần đây, mọi người trong nhà đều khỏe, mời Thu về chơi, sau đấy thăm hỏi gia đình, vân vân.

Thu nhận ra nét bút của Ba, bất giác cười, thầm mắng anh biết giả vờ, ngay cả mẹ cũng không nhận ra.

Biết anh không có chuyện gì, liền lấy lá thư khâu trong áo bông ra đốt, khỏi để nổi cộm trong áo, nhỡ mẹ biết. Nhưng Thu vẫn giữ lá thư đầu tiên của anh, vì trong thư đó không nói “chúng ta” thế nào, thế nào…

Ngày tốt nghiệp càng đến gần, tâm trạng Thu càng mâu thuẫn. Thu mong ngày tháng qua nhanh để có thể sớm được gặp Ba. Nhưng Thu lại sợ tốt nghiệp, vì tốt nghiệp Thu phải về nông thôn. Về nông thôn thì hộ khẩu cũng phải chuyển về nông thôn, Thu không còn ở thành phố, cũng không được đi lao động vụ việc nữa. Đến lúc ấy Thu và anh trai đều nợ tiền lương thực của đội sản xuất, lẽ nào để đứa em gái mới mười hai, mười ba tuổi đi lao động kiếm tiền?

Hồi ấy, thanh niên của thành phố K không phải xuống một vùng nông thôn nào đấy, mà theo đơn vị của người nhà để về một tập thể lao động nào đó. Địa điểm của thanh niên trí thức thuộc ngành văn hóa – giáo dục ở một vùng núi huyện Y, ở đây mọi người xây dựng một lâm trường, một nơi vô cùng gian khổ, không mong gì có thu nhập, thanh niên tri thức đến đây chỉ để tôi luyện trái tim hồng, đều do cha mẹ chi tiền lương thực. Nói thật, bố mẹ không quan tâm con cái mình ở lâm trường có kiếm được gì hay không, chỉ cầu cho con cái được bình yên, sau đấy được gọi về lại thành phố là tốt rồi.

Cứ đến độ tháng Bảy ngành văn hóa – giáo dục lại tiễn đưa thanh niên về nông thôn, nhưng từ nửa năm trước đó đã tiến hành giáo dục thanh niên lên rừng, về đồng ruộng. Ngày nào cũng nghe nói “một trái tim hồng, hai sự chuẩn bị”, nhưng Thu không biết hai sự chuẩn bị nào, hình như chỉ một, đó là về nông thôn. Sở giáo dục tổ chức mấy kỳ đại hội, mời những thanh niên đã về nông thôn nói chuyện với thanh niên về nông thôn, nói họ đã làm thế nào để hòa nhập với tầng lớp trung nông lớp dưới. Có nhiều tấm gương điển hình đã lấy vợ, lấy chồng ở nông thôn nơi phải “cắm rễ để làm cách mạng”.

Thu nghe họ nói đến những thành tích vinh quang, không biết họ có thật yêu những cô vợ, anh chồng nông dân kia không, nhưng có một điểm Thu biết, một khi lấy người nhà quê thì đừng mong có ngày về lại thành phố.

Ngụy Linh hơn Thu mấy tuổi, lúc ấy đã về nông thôn. Mỗi lần Ngụy Linh về nghỉ đều nói với Thu về những cái khổ ở nông thôn, làm việc cực nhọc ghê gớm, thà chết quách đi còn hơn, sinh hoạt thật vô vị, chỉ mong đến kỳ nghỉ được về thành phố xả hơi. Ngụy Linh còn hát cho Thu nghe những bài hát của thanh niên trí thức: “Mới làm nửa ngày, thắt lưng quần tụt xuống, cơm gạo trắng nhà ai thơm ơi là thơm, về đến nhà mình một màu đen tối, ối a, đại ca của ta ơi…”.

Thu bằng tuổi Ngụy Hồng, em gái Ngụy Linh, hai người hẹn nhau về nông thôn sẽ ở cùng một nhà, cả hai còn chuẩn bị những đồ dùng về nông thôn. Kinh tế gia đình Ngụy Hồng khá hơn, bố mẹ đều là giáo viên của trường số Tám, hai người là công chức nuôi ba đứa con không vấn đề gì. Cho nên Hồng cùng Thu chuẩn bị đồ dùng, những thứ thành đôi thành cặp không nhiều, phần lớn đồ dùng Hồng mua, nhưng Thu mua không nổi. Cái mà hai người giống nhau là chăn gối. Hai người mua vải, viết lên mấy chữ: “Đất trời rộng mở, mặc sức vẫy vùng” rồi tự thêu, mang về nông thôn dùng. Đang nhiệt tình chuẩn bị về nông thôn, bỗng một hôm Phương lên thành phố thăm Thu. Đến lúc Thu tiễn Phương ra bến xe, hai người mới có dịp nói chuyện riêng. Phương lấy ra một phong thư đưa cho Thu, bảo thư của Ba nhờ Phương chuyển. Thu chờ cho xe của Phương chạy mới ngồi ở bến xe bóc thư ra xem. Có thể để tôn trọng người chuyển thư, phong bì không dán, nhưng Ba nói về nỗi nhớ của mình tự nhiên như không có người bên cạnh, khiến Thu mặt đỏ bừng, chẳng nhẽ anh không sợ Phương mở ra xem?

Trong thư, Ba nói, hiện tại trên gửi về một văn bản, công chức sau khi về hưu có thể chọn một người con để thay chức vụ của mình, gọi là “thế chỗ”. Nghe nói văn bản này không công khai, chỉ cho bộ phận hữu quan mới nắm được vấn đề. Ba bảo Thu nói với mẹ đến trường hoặc phòng giáo dục để hi, xem Thu có thể “thế chỗ” của mẹ được không, như vậy Thu khỏi phải về nông thôn. Ba nói, Thu rất thích hợp với công việc dạy học, nếu có thể thế chỗ của mẹ nhất định trở thành một cô giáo giỏi.

Thu đọc đi đọc lại nhưng không tin có chuyện ấy, nhưng Thu hi vọng anh trai của Thu có thể thế chỗ của mẹ để được về lại thành phố, vì anh thật đáng thương. Anh vừa tốt nghiệp trung học cơ sở thì cũng là lúc bố mẹ bị đấu, nên không được học tiếp lên trung học phổ thông, phải về nông thôn ngay, về nông thôn bao nhiêu năm nay, ở đội sản xuất anh trai Thu cắm rễ có mấy đợt về lại thành phố, nhưng anh thì vẫn chưa được về.

Anh trai Thu từ sau ngày về nông thôn, có lúc Á Dân đến nhà Thu lấy thư, vì anh trai không dám gửi thư về nhà Dân mà phải gửi về nhà mình. Mỗi lần đến, Dần thường kể những chuyện cô với Tân, chuyện hai người học cùng lớp trước đây, chuyện Tân nhờ người đến gọi Dân thế nào, chuyện trong lớp còn có một cô đẹp hơn Dân thích Tân, nhưng Tân chủ thích một mình Dân. Nhiều nhất là chuyện phải làm thế nào để Tân được gọi về thành phố, chỉ cần anh được về, bố mẹ Dân sẽ không cản trở. Ngày nào Thu cũng mong anh trai về, sợ anh cứ ở mãi nông thôn sẽ phá vỡ tình yêu giữa anh và Dân.

Nghe tin có thể thế chỗ, Thu vui lắm, vội nói với mẹ. Thu không dám nói nghe được tin này từ Ba, chỉ bảo do một bạn học nói lại.

Mẹ nghe nói tin của bạn học, bà không tin lắm, nhưng đi hỏi không phải là chuyện gì xấu, cũng không trông chờ ở thông tin này. Mẹ hỏi ông Chung, Bí thư của trương, ông bí thư bảo chưa nghe tin ấy, nhưng lúc nào lên sở giáo dục họp ông sẽ hỏi. Con gái ông Chung là Chung Bình đã tốt nghiệp trung học phổ thông, nhưng cứ ở lì thành phố không chịu về nông thôn, khiến quần chúng có ý kiến, bây giờ ông nghe nói có chuyện thế chỗ cũng rất hứng thú, liền đi hỏi ngay.

Hình như để cảm ơn mẹ Thu đã bảo cho ông thông tin này, từ sở giáo dục về, ông đến ngay nhà mẹ Thu thông báo đúng là có văn bản đó, nhưng chấp hành cụ thể thế nào là do từng đơn vị tự quánriệt, ví dụ các đơn vị văn hóa – giáo dục thì nên làm thế nào, không thể nói bố mẹ dạy học thì con cái đều có thể dạy học thay được.

Ông bí thư nói:

- Chị Trương, cảm ơn chị bảo cho tôi biết tin đó, tôi chưa đến tuổi về hưu, nhưng nhà tôi cũng sắp đến tuổi, lại không được khỏe, có thể xin về vì lý do sức khỏe, để cái Bình thế chỗ. Tôi xem chị cũng nên về với lí do sức khỏe để cháu Thu thế chỗ. Con gái về nông thôn, thật sự người lớn không thể yên tâm nổi.

Mẹ Thu không ngờ ông bí thư hàng ngày mẹ vẫn phải ngước nhìn cũng lo chuyện con gái phải về nông thôn, đáng thương cho tấm lòng người làm cha, làm mẹ. Nghe khẩu khí của ông bí thư, nếu mẹ xin về hưu vì lý do sức khỏe, trường học sẽ đồng ý để Thu thế chỗ. Mẹ Thu cảm kích bội phần, hết lời cảm ơn ông.

Mẹ báo tin mừng cho Thu, mẹ nói điều lo lắng mấy năm nay bây giờ coi như có thể giải tỏa một nửa. Mẹ sẽ xin nghỉ để con thế chỗ, con khỏi phải về nông thôn. Chờ con được vào làm, coi như không còn lo lắng gì.

Thu nói:

- Nên để anh Tân thế chỗ, anh ấy về nông thôn lâu rồi, chịu khổ cực nhiều rồi, hơn nữa nhà chị Dần cũng vì anh Tân về nông thôn mà phản đối chuyện của hai người. Nếu để anh về lại thành phố coi như mọi việc đều tốt đẹp.

Thu báo tin ấy cho Á Dân, A Dân vui lắm, nói thế thì tuyệt vời, chị với anh Tân cuối cùng cũng đến được với nhau, gia đình chị cũng không ngăn cản nữa. Á Dân vội vàng gửi thư cho Tân, báo cho anh biết tin đó.

Nhưng Tân không đồng ý, anh bảo đã về nông thôn lâu rồi, dứt khoát không về lại thành phố. Về nông thôn bao nhiêu năm, nay về thế chỗ, thật sự không hợp lí, tốt nhất dành cơ hội ấy cho Thu, như vậy Thu không phải về nông thôn. Mẹ Thu kiên quyết không để Thu về nông thôn, mẹ thường xuyên nằm mơ gặp toàn ác mộng, mơ thấy Thu gặp chuyện chẳng lành, mẹ xuống nông thôn thăm, thấy Thu nằm trên đống rơm, đầu tóc rối bù, đôi mắt ngây dại.

- Con làm sao thế? Thu, con bảo mẹ, đã xảy ra chuyện gì? Mẹ hỏi.

Thu không nói, chỉ khóc nức nở, mẹ không hiểu chuyện gì.

Mẹ kể lại giấc mơ ấy cho Thu, tuy Thu không biết trong mơ mình có chuyện gì, nhưng đoán chuyện như của tất cả những nữ thanh niên tri thức, bị người khác “giày vò”.

Mẹ nói:

- Mẹ không thể để con về nông thôn, con còn trẻ, không biết con gái ở nông thôn gặp nguy hiểm thế nào đâu. Tự cổ hồng nhan đã bạc mệnh, con ở trường đã có biết bao nhiêu người để ý, gây phiền hà cho con, con về nông thôn liệu còn giữ nổi không?


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách