Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 2910|Trả lời: 19
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại - Xuất Bản] Bên Kia Đường Có Đứa Dở Hơi | Wendelin Van Draanen

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả






Thể loại: Tiểu Thuyết

Tên tác phẩm: Bên Kia Đường Có Đứa Dở Hơi

Tác giả: Wendelin Van Draanen

Dịch giả: Ngô Thu Hà

Độ dài: 14 chương, 292 trang

Nguồn: Tự type

Sách đã xuất bản

Ngày xuất bản: 01/2013

Nhà xuất bản: NXB Phụ Nữ

Công ty phát hành: Phụ nữ

Tiến độ: 1 - 2 ngày/chương




Giới thiệu:

Bên kia đường có đứa dở hơi là một cuốn tiểu thuyết hài lãng mạn dành cho lứa tuổi mới lớn, đã dành được nhiều giải thưởng văn học về các tác phẩm dành cho tuổi Teen, được hãng Waner Bros chuyển thể thành phim với tựa đề “Flipped” vào năm 2010 và được độc giả nhiều nước trên thế giới tán thưởng.

Câu chuyện được xen kẽ thuật lại qua lời kể chân thật, ngây thơ đến hài hước của hai nhân vật chính Juli Baker và Bryce Loski. Lần đầu tiên gặp nhau, khi còn là những nhóc tì học lớp Hai, Juli Baker đã bị “trúng bùa”, tim “nhảy cà tưng” ngay lập tức bởi cậu bạn hàng xóm mới chuyển đến, nhà ở bên kia đường, có đôi mắt xanh tuyệt đẹp và mái tóc “thơm mùi dưa hấu”; còn Bryce lại thấy như bị “sao quả tạ” chiếu khi bắt đầu gặp “con bé đó”, điều duy nhất cậu ao ước là làm sao con bé đó biến đi, để mình được yên. Mối quan hệ đặc biệt của hai cô cậu học trò này cứ tiến triển như vậy cho đến năm lớp Tám, thì tất cả lộn ngược: Juli bắt đầu nhận ra Bryce chẳng hề tuyệt vời như cô vẫn nghĩ, cậu ta không đáng là người giữ nụ hôn đầu đời vô cùng lãng mạn của mình nữa; còn Bryce, lại bắt đầu thấy Juli thật dễ thương, thật thông minh, thậm chí bạn ấy còn “phát sáng” nữa… Chưa cần bàn nhiều đến những diễn biến hấp dẫn sau đó, chỉ biết rằng, đến cuối truyện, không độc giả nào có thể cưỡng lại một nụ cười hài lòng trên môi trước cái kết của “mối tình bọ xít” trong sáng và tuyệt vời đến thế.

Với Bên kia đường có đứa dở hơi, độc giả không chỉ như tìm lại được chính mình ở tuổi học trò ngây thơ trong sáng, có dịp ôn lại những kỉ niệm thời bé bỏng, mà còn ngỡ ngàng trước những quan niệm sống đầy tính nhân văn sâu sắc. Không chỉ được cười thật sảng khoái với những câu thoại hồn nhiên trong trẻo, những tình tiết dở khóc dở cười như vụ Bryce “trinh thám gà”, chứng kiến con trăn ăn tươi nuốt sống, bữa trưa đấu giá cùng các Chàng trai Rổ, ban nhạc Tè rồi Biến…, độc giả còn có những giờ phút lắng đọng cùng Juli trên ngọn cây tiêu huyền, nhìn ngắm mọi vật qua một lăng kính khác, và quan trọng hơn, một cách toàn diện và “đúng sáng” - phải nhìn nhận người khác từ những bề sâu bên trong họ, không chỉ dừng lại ở đôi mắt, nước da, ở tiền bạc, gia thế, mà phải là những tình cảm chân thành, những giá trị đặc biệt, và cái đẹp tâm hồn không thể trộn lẫn.

Chỉ hơn 200 trang sách nhưng Bên kia đường có đứa dở hơi thực sự là thứ gia vị ngọt ngào với những bài học tinh thần, tinh khôi với những tình cảm đầu đời, hài hước với những câu chữ giàu tính trí tuệ, những điều cần thiết để cuộc sống trở nên đáng sống và đáng trân trọng hơn với những người trẻ.






MỤC LỤC


♬ Im thin thít, lặn mất tăm ♬
♥ Nhảy cà tưng ♥♬ Cục ta cục tác!(2) ♬
♬ Anh bạn, hãy coi chừng ♬
♥ Trên ngọn cây tiêu huyền ♥
♬ Cục ta cục tác!(1) ♬
♬ Cục ta cục tác!(2) ♬
♥ Những cô nàng xinh xẻo ♥
♬ Bám cho chắc vào, anh bạn! ♬
♥ Vũ trụ nhỏ ♥
♬ Lù lù và nồng nặc ♬
♥ Đi tìm mảnh ghép ♥
♬ Rùng cả mình ♬
♥ Bữa tối làm lành ♥
♬ Bị bỏ bùa bấn ♬
♥ Những chàng trai rổ ♥
★ Lời người dịch ★



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2014 20:42:58 | Chỉ xem của tác giả
Im thin thít, lặn mất tăm




Điều duy nhất mà tôi ao ước? Là Juli Baker để cho tôi yên! Ước chi con bé đó tránh xa ra, cho tôi có chỗ để thở.

Mọi chuyện bắt đầu từ mùa hè năm lớp hai, khi chiếc xe tải chuyển đồ của nhà tôi dừng bánh tại khu phố con bé đó sống. Và giờ thì cả hai đứa đã sắp hết lớp tám. Có nghĩa là con bé đó đã biến hơn một nửa thập kỷ đời tôi thành một mớ những cuộc trốn chạy cần hoạch định chiến lược bài bản. Có nghĩa là con bé đó đã nhấn chìm hơn một nửa thập kỷ đời tôi trong một cảm giác khó chịu không bút nào tả xiết.

Con bé đó không đơn giản chỉ băm bổ lao vào cuộc đời tôi. Nó băm bổ, nó đào xới và rồi nó đứng đó, chắn ngang đời tôi. Nhà tôi có mời nó lên xe và trèo lên các thùng đồ không? Không!

Nhưng đấy đúng là những gì con bé đó đã làm, áp đảo và ra vẻ đúng kiểu Juli Baker.

Bố đã cố ngăn nó lại.

"Này!", bố nói khi con bé nhảy lên xe. "Cháu làm cái gì thế? Cháu làm dây bùn ra khắp nơi rồi kia kìa!". Công nhận. Giày của con bé đúng kiểu bùn đóng thành bánh ấy.

Nhưng nó không nhảy xuống. Đã thế, nó còn ngồi bệt xuống sàn xe và bắt đầu thò chân đẩy đẩy một cái thùng. "Để cháu giúp chú nhé!" Con bé liếc về phía tôi. "Đi mà chú, để cháu giúp một tay đi!"

Tôi không thích cái nhìn ám chỉ đó của con bé. Và mặc dù bố vẫn thường tra tấn tôi bằng điệu nhìn ấy cả tuần, nhưng tôi vẫn có thế nhận ra – bố cũng chẳng thích gì con bé lắm chuyện ấy. "Này! Đừng có làm thế”, bố cảnh báo nó. "Trong thùng đó có mấy thứ đồ quý giá lắm đấy".

"Thế ạ? Vâng, thế thùng này thì sao ạ?". Con bé lăng xăng sang cái thùng có dán nhãn LENOX và lại nhìn về phía tôi "Cậu với tớ đẩy cái thùng này đi!"

"Thôi, thôi, thôi!", bố nói rồi kéo tay con bé ra. "Sao cháu không về nhà đi? Giờ này có khi mẹ cháu đang lo vì không biết con mình đang ở đâu đấy".

Thời khắc ấy chính là lần đầu tiên tôi nhận ra rằng con bé này không thể hiểu được ý của người khác. Dù người ta đã ý tứ ra dấu hiệu kiểu gì đi chăng nữa. Nó có biết đường chạy ngay về nhà giống như những đứa trẻ con khác khi biết là mình đang bị đuổi khéo không? Không. Nó nói tỉnh bơ: "À, mẹ cháu biết cháu ở đâu mà. Mẹ cháu bảo không sao hết". Rồi nó chỉ sang bên kia đường và nói: "Nhà cháu ở ngay đằng kia thôi".

Bố nhìn theo hướng con bé đang chỉ và lẩm bẩm than: "Ôi trời ôi...” Rồi bố quay lại nhìn tôi và nháy mắt: "Bryce, hình như giờ con phải vào nhà giúp mẹ hay sao ấy nhỉ?"

Tôi biết ngay đây là một màn kịch để đuổi khéo con bé. Nhưng trước đó tôi không nghĩ tới cách này, vì đã bao giờ tôi với bố diễn kịch bản này đâu. Đúng thế còn gì, ai lại cả hai bố con cùng đồng tâm hợp lực diễn kịch đuổi khéo khách?! Có khác nào phản lại quy tắc mà cha mẹ vẫn dạy con cái rằng, không nên đuổi khéo ai đó đi dù cho họ có phiền nhiễu hay bẩn thỉu thế nào đi chăng nữa.

Thế nhưng giờ thì bố đang diễn rồi, và chẳng cần bố phải nháy mắt đến lần thứ hai, tôi toét miệng cười: "Vâng ạ!", và ngay tắp lự nhảy phắt khỏi thùng xe, lao về phía ngôi nhà mới.

Tôi nghe thấy tiếng con bé chạy theo sau nhưng tôi không dám tin vào tai mình. Có thể nó đang đuổi theo tôi thôi; có khi nó chạy theo hướng khác. Nhưng trước khi tôi có đủ can đảm để quay lại kiếm chứng thì con bé đó xẹt qua, tóm lấy cánh tay tôi và lôi tôi đi.

Thế này thì quá lắm. Tôi dừng lại và đang định nói nó cút đi thì điều kỳ quặc ấy đã xảy ra. Tôi muốn vung tay thật cao để có thể thoát khỏi con bé, nhưng không hiểu làm sao mà khi tay tôi vòng xuống lại vướng đúng vào tay nó. Thật không thế tin được mà. Vậy là tôi đứng đó, nắm tay cái con khỉ đầy bùn ấy!

Tôi cố hẩy tay nó ra nhưng nó cứ bám riết lấy và lôi tôi đi: "Đi nào!"

Mẹ từ trong nhà bước ra và ngay lập tức nở một nụ cười mật ngọt nhất trên đời. "Ồ, chào cháu", mẹ niềm nở với Juli.

"Cháu chào cô!"

Tôi vẫn đang cố vẫy vùng giành lấy tự do nhưng con bé đó cứ giữ ghì lấy tôi. Mẹ cười rõ rạng rỡ, nhìn tay hay đứa và gương mặt đỏ phừng phừng của tôi.

"Thế cháu tên gì hả cô bé?".

"Julianna Baker ạ. Nhà cháu ở ngay đằng kia", con bé vừa trả lời vừa chỉ trở bằng cái tay rảnh rang.

"À… cháu và thằng bé nhà cô đã làm quen với nhau rồi nhỉ", mẹ nói, vẫn cười tươi ơi là tươi. "Vâng!"

Cuối cùng thì tôi cũng vùng ra được và làm cái việc ra dáng đàn ông nhất mà một thằng nhóc bảy tuổi có thể làm - nấp sau lưng mẹ.

Mẹ choàng tay qua vai tôi và nói: "Bryce, con yêu, sao con không dẫn Julianna thăm quan nhà mình nhỉ?"

Tôi ra hiệu đủ cách để cầu cứu, cảnh báo, nhưng mẹ chẳng hề nhận ra gì cả. Rồi mẹ gỡ tôi ra và nói: "Đi đi con".

Có lẽ Juli đã có thể càn quét ngay nhà tôi nếu như mẹ không nhìn thấy giày của nó và kêu nó bỏ ra. Và sau khi cởi giày xong thì mẹ kêu nó phải cởi luôn cả tất nữa. Juli chẳng thấy xấu hổ gì cả. Không một chút nào luôn ấy. Nó cởi tất tỉnh queo và vứt lại thành một đống cứng quèo ở hiên nhà tôi.

Thực ra thì tôi đã không hề dẫn nó đi tham quan. Thay vào đó, tôi lỉnh vào phòng tắm và tự khoá mình trong đó. Và sau khoảng mười phút gào vọng ra, rằng không, tôi sẽ không thể ra ngoài nhanh được đâu, thì tôi thấy phía bên ngoài im ắng. Thêm mười phút nữa trôi qua, tôi lấy hết can đảm hé mắt ra ngoài cửa.

Không có Juli.

Tôi lẻn ra ngoài, nhìn quanh, và ồ dê! Con bé đi rồi.

Một màn "đuổi khéo" không được khéo cho lắm, nhưng mà này, lúc đó tôi mới bảy tuổi.

Có điều những rắc rối của tôi còn lâu mới kết thúc. Ngày nào con bé cũng đến, lặp đi lặp lại. "Bryce đi chơi được không ạ?". Tôi nấp sau ghế nhưng vẫn nghe thấy rõ tiếng nó véo von hỏi. "Cậu ấy đi được chưa ạ?". Có một lần con bé đó thậm chí còn chạy tắt qua sân, nhìn qua cửa sổ phòng tôi. Tôi đã kịp thời nhận ra nó và chui xuống nấp dưới gầm giường. Nhưng đó, rõ là mọi người có thể thấy một điều ở Juli. Con bé đó không hiểu thế nào là không gian cá nhân. Không hề tôn trọng sự riêng tư. Cả thế giới này là sân chơi của nó, và ai đứng ở phía dưới cũng phải cẩn thận - Juli lúc nào cũng như đang từ cầu trượt lao xuống.

Thật may cho tôi là bố luôn sẵn lòng cản đường nó. Và bố không ngại làm đi làm lại việc đó. Bố nói vói con bé là tôi bận, hay đang ngủ hay đơn giản là đi đâu mất rồi. Bố quả đúng là vị cứu tinh.

Chị gái tôi thì khác. Cứ hở ra là sẽ tìm cách phá tôi. Lynetta là thế. Chị ấy hơn tôi bốn tuổi và nói thật, nhìn gương chị ấy là tôi đã ngộ ra được thế nào là một lối sống không thể mê được. Khắp người chị ấy toát ra cái khí chất GÂY GỔ. Chỉ cần nhìn chị ấy thôi - không cần nheo mắt, lè lưỡi hay làm bất cứ điều gì - chỉ cần nhìn thôi là bạn có thể cãi vã ngay được.

Ngày xưa tôi thường chơi trò hạ-bệ-kéo-lê với chị ấy, nhưng giờ thì không đáng nữa. Lũ con gái chằng bao giờ chơi đẹp cả. Bọn nó chỉ giỏi rứt tóc và cấu véo đối phương; xong rồi lại bỏ chạy, vờ thở không ra hơi rồi tóm lấy mẹ mỗi khi bạn thử tự vệ và đấm phản công. Và thế là bạn bị cấm túc. Như thế để làm gì cơ chứ? Không, chiến hữu thân mến, bí kíp là, đừng có bao giờ đóp mồi. Cứ để nó ngoe nguẩy. Bơi lượn lờ quanh nó. Chế giễu nó. Một lát là nó sẽ phát chán và sẽ phải chuyển mục tiêu lừa đảo sang kẻ khác.

Ít nhất thì đấy là sách lược đế đối phó với Lynetta. Và phần khuyến mãi khi có một bà chị như-cái-nhọt-ở-mông ấy làm tôi phát hiện ra rằng, sách đối phó trên hiệu quả với tất cả mọi người. Thầy cô, bọn ngớ ngẩn ở trường, kể cả bố mẹ. Nghiêm túc luôn. Làm gì có con cãi thắng bố mẹ chứ? Thế thì sao ta cứ phải nhảy dựng lên làm gì? Tốt hơn là cứ im thin thít mà lặn xuống mất tăm để tránh đi còn hơn là bị sóng thuỷ triều dội vào.

Buồn cười ở chỗ Lynetta vẫn không hề biết cách chiến đấu vói bố mẹ. Chị ấy cứ thế lao thẳng vào cuộc chiến và quá bận rộn chìm ngập trong mớ tranh cãi nên không tài nào mà hít thật sâu và lặn một hơi đến vùng nước lặng.

Nhưng chị ấy thì lại cho rằng tôi mới là thằng ngu.

Dù sao thì đúng như bản chất, lúc đầu Lynetta cố gắng gán ghép tôi với Juli. Chị ấy thậm chí còn tiếp tay cho con bé né được bố một lần và dẫn nó đi diễu binh khắp nhà để săn lùng tôi. Tôi đã phải nằm dẹp lép như con tép trên ngăn cao nhất trong tủ quần áo, và may cho tôi là cả hai đều không nhìn lên. Vài phút sau, tôi nghe thấy tiếng bố quát Juli không được trèo lên mấy món đồ cổ, và một lần nữa, con bé lại bị khoá giò.

Hình như tôi đã không mon men ra ngoài lần nào trong cả tuần đầu tiên. Tôi giúp dỡ đồ, xem ti-vi và đại loại là chạy loăng quăng khi bố mẹ xếp đặt đi xếp đặt lại đống đồ đạc, cãi nhau xem có nên xếp cả mấy cái ghế đệm Empire* và mấy cái bàn Rococo** của Pháp vào cùng một phòng hay không.

*Empire: phong cách nội thất Đế chế phát triển trong suốt thời kì trị vì của Hoàng đế Napoleon (Pháp, 1804-1814), lấy cảm hứng từ Hy Lạp, La Mã và các hoa văn Ai Cập. Phong cách này cũng phát triển song song ở Anh (các chú thích đều là của người dịch).

**Rococo (cách viết khác: rococo): trường phái nghệ thuật kiến trúc, nội thất phát triển rực rỡ vào thế kỳ XVM tại Pháp. Từ "rococo" xuất phát từ "rocaille" trong tiếng Pháp, thường dùng để chỉ những viên đá và vỏ sò. Vì thế mà hình vỏ sỏ trở thành một mô-típ rất phố biến trong phong cách Rococo.


Nên tin tôi đi, tôi thèm ra ngoài chơi chết đi được ấy. Nhưng cứ lần nào nhòm qua cửa sổ kiểm tra là tôi lại thấy Juli đang ra vẻ ở ngoài sân nhà nó. Nó mà không tâng bóng bằng đầu thì cũng đá bổng hay rê lên rê xuống dọc lối ô-tô lên xuống. Còn nếu không bận rộn khoe mẽ thì nó sẽ ngồi im, hay chân kẹp bóng và nhìn chằm chằm về phía nhà tôi.

Mẹ không tài nào hiểu nổi vì sao việc "cô bé đáng yêu đó" nắm tay tôi lại kinh khủng đến thế. Mẹ còn nghĩ là tôi nên kết bạn với con bé nữa chứ. "Mẹ tưởng là con thích bóng đá cơ đấy, cưng à. Sao không ra ngoài đá bóng đi?"

Vì tôi không muốn bị đá mòng mòng. Và mặc dù lúc đó không thể nói thế, nhưng chắc chắn ngay từ lúc mới bảy tuổi rưỡi, tôi đã có thế cảm thận rất rõ ràng, con bé Juli Baker cực kì nguy hiểm.

Đã thế nó còn là một mối nguy hiểm không thể tránh khỏi. Cái giây phút bước vào lóp học của cô Yelson chính là lúc tôi bị án tự hình rơi trúng đầu.

"Bryce!". Juli gào lên. "Cậu học ở đây à?". Thế rồi con bé len từ cuối lớp lên để xử lý tôi.

Cô Yelson đã cố giải thích vụ tấn công đó là "một cái ôm chào đón" nhưng giời ơi, làm gì có ôm chứ. Đấy đúng là chiêu hạ-gục-nhanh-tiêu-diệt-gọn chính diện thì có. Và mặc dù tôi đã cố hẩy nó ra nhưng tất cả đã quá muộn. Tôi bị đeo gông cả đời. Ai cũng chọc ghẹo, "Bạn gái cậu đâu rồi, Bryce?". "Mầy lấy vợ rồi đó hả Bryce?". Và đến khi con bé đuổi tôi vòng quanh trong giờ giải lao và cố đè tôi ra để hôn, cả trường bắt đầu hát hò nhặng xị, "Bryce và Juli ngồi trên cành cây, Hờ-Ôn-Hổn Nhờ-Au-Nhau.. "

Năm đầu tiên của tôi ở thị trấn đúng là một thảm hoạ.

Năm lớp ba cũng chẳng khá gì hơn. Con bé vẫn lùng sục tôi mỗi khi tôi không ở trước mắt nó. Lớp bốn cũng thế. Nhưng đến lớp năm thì tôi bắt đầu hành động.

Lúc đầu thì kế hoạch diễn biến chậm rì – kiểu những ý tưởng dạng Chậc-thế-thì-chẳng-hay-ho-gì mà bạn vẫn hay nghĩ ra rồi quên luôn ấy. Nhưng càng nghĩ tôi càng tự hỏi có cách nào hay ho hơn để bảo vệ mình khỏi Juli không? Có cách nào hay ho hơn để tuyên bố với nó là "Juli, tớ không thích cậu đâu" không?

Và thế là tôi triển khai.

Tôi cặp với Shelly Stalls.

Đế có thể hiểu được sự kỳ diệu của kế hoạch này, bạn phải biết là Juli cực kỳ ghét Shelly Stalls. Từ xưa rồi kìa, dù tôi chả hiểu tại sao. Shelly xinh, dễ gần và tóc rất dày. Thế thì có gì để không thích chứ? Nhưng mà Juli ghét nó, và tôi sè dùng mẩu thông tin quý báu này để giải quyết vấn đề của mình.

Kế hoạch của tôi là Shelly sẽ ngồi cùng bàn ăn trưa với tôi và hai đứa có thể cùng nhau đi lòng vòng một tí. Nêu theo cách đó, bất cứ khi nào Juli lòn vởn thì tôi chỉ việc đứng gần Shelly hơn chút xíu và để mọi việc cứ tự nhiên diễn ra thôi. Có điều, Shelly lại nghiêm trọng hoá mọi chuyện. Con bé đi khắp nơi rêu rao với mọi người - kế cả với Juli - rằng chúng tôi thích nhau.

Ngay lập tức Juli và Shelly lao vào đánh nhau, và trong lúc Shelly hồi phục sau vụ miêu chiến ấy thì thằng mà tôi-cứ-tưởng-là-bạn-tốt, Garrett - quân sư quạt mo của cái kế hoạch này - đã đi nói hết với con bé về ý định của tôi. Thằng này lúc nào cũng chối đây đẩy nhưng tôi biết thừa, cái trò danh dự của nó cực dễ bị tha hoá bởi mấy đứa con gái mít ướt.

Buổi chiều hôm đó, cô hiệu trưởng đã thử thẩm vấn tôi nhưng tôi chẳng hé răng nửa lời. Tôi chỉ nói đi nói lại vói cô rằng, tôi xin lỗi, và rằng tôi thực sự chả hiểu chuyện gì đã xảy ra. Cuối cùng thì cô cũng thả cho tôi đi.

Shelly khóc ròng, nhằng nhẵng theo tôi quanh trường, sụt sùi và làm cho tôi thấy tôi đúng là thằng khốn. Vụ này thậm chí còn mệt hơn cả vụ bị Juli ám.
Nhưng mọi chuyện chấm dứt sau một tuần, khi Shelly chính thức đá tôi và bắt đầu cặp với Kyle Larsen. Rồi Juli lại bắt đầu với màn mắt long-la-lóng-lánh rết-rền-rệt ấy, và tôi thì lại quay lại vạch xuất phát.

Lớp sáu thì có thay đổi nhưng có tốt hơn hay không thì cũng khó mà nói được. Chẳng nhớ hồi đó Juli có đuổi theo tôi hay không, nhưng tôi nhớ chắc chắn là con bé đó hít tôi.

Đúng vậy đấy, bạn không đọc nhầm đâu, tôi nói là "hít" đấy.

Và bạn có thể đổ tại thầy Mertins. Thầy dính chặt Juli vào tôi cứ như là keo Con Voi ấy. Chắc thầy Mertins phải có bằng tiến sĩ chuyên ngành xếp chỗ hay đại loại thế không chừng, vì thầy phân tích, nghiên cứu tỉ mỉ và nghiêm túc khi đặt tên cho những cái ghế mà chúng tôi phải ngồi. Và dĩ nhiên là thầy đã quyết xếp Juli ngồi ngay cạnh tôi.

Juli Baker là dạng đáng ghét vì nó luôn cố tỏ ra cho bạn thấy là nó thông minh. Lúc nào nó cũng là đứa giơ tay đầu tiên; lúc nào cũng trả lời dài dòng như cả một bài luận văn; lúc nào cũng nộp bài sớm và lúc nào bài vở của nó cũng được đem ra làm vũ khí chống lại cả lớp. Thầy cô lúc nào cũng phải giơ bài tập của nó lên và nói: "Cả lớp, đây mới đúng là những gì thầy cô mong muốn. Bài thế này mới xứng đáng được điểm A cộng". Gộp tất tần tật những gì nó làm vào điếm số vốn hoàn hảo, thì tôi thề là không có môn nào mà con bé lại không dồn đến 120 phần trăm sức lực của nó vào cả.

Nhưng sau khi thầy Mertins nhét Juli ngồi cạnh tôi, việc nó học giỏi đủ môn xa gần ấy lại trở nên thật nhất cử lưỡng tiện. Thấy không, không dưng mà những câu trả lời hoàn hảo của Juli, được viết thật mạch lạc, lại cách mình có mỗi một bước chân, chỉ cần phóng mắt sang. Bạn không thể tin được là tôi đã dòm được bao nhiêu câu trả lời từ con bé đâu. Tôi bắt đầu được điểm A và B ở tất cả các môn! Sướng thế chứ!

Nhưng rồi thầy Mertins lại chuyển chỗ. Thầy có ý tưởng mới gì mà đế "thúc đẩy kinh độ và vĩ độ", và sau khi thầy khuấy đảo cả lớp thì tôi ngồi ngay trước Juli Baker.

Bây giờ là lúc bắt đầu vụ hít ngửi. Con bé thần kinh ấy bắt đầu nhoài người về phía trước và hít tóc tôi. Đúng là nó gí mũi vào da đầu tôi và hít-hít-hít.

Cuối cùng tôi xin thầy Mertins cho chuyển chỗ nhưng thầy không chịu. Lấy lý do là thầy không muôn phá hỏng sự cân bằng mong manh của các nguồn năng lượng giáo dục.

Sao cũng được. Tôi bị chết dí với cái trò hít ngửi của con bé. Và vì giờ tôi không thể nhòm được câu trả lời được viết nắn nót của nó nên điểm chác của tôi bắt đầu ngụp lặn. Đặc biệt là môn Đánh vần.

Thế rồi một lần, trong giờ kiểm tra, khi đang hít dở tóc tôi thì Juli nhận ra tôi vừa đánh vần sai một từ. Rất nhiều từ. Tự dưng vụ hít ngửi dừng lại và vụ thì thầm bắt đầu. Lúc đầu tôi không tin nổi. Juli Baker nhắc bài á? Nhưng chuẩn luôn, con bé đang đánh vần cho tôi, ngay đúng tai luôn.

Juli lúc nào cũng thậm thụt với vụ hít ngửi, điều đó khiến tôi phát điên lên vì chẳng ai biết là nó làm như thế cả, nhưng nó cũng thậm thụt nhắc bài cho tôi, cái này thì tôi thấy ổn. Điều tệ hại là tôi bắt đầu quen với việc con bé đánh vần giúp bên tai. Thì việc gì phải học nếu như bạn không cần, đúng không?

Nhưng sau một thời gian, việc chép bài khiến tôi thấy mắc nợ con bé. Làm sao có thể bắt ai đó tránh ra hoặc đừng có hít ngửi bạn khi bạn mắc nợ người ta chứ? Bạn biết đấy, thế là sai.

Cả năm lớp sáu tôi bập bềnh giữa cảm giác không thoải mái và không vui, nhưng tôi cứ nghĩ rằng năm sau, rồi năm sau nữa, mọi thứ sẽ khác. Chúng tôi sẽ lên cấp hai - ở trường to hơn - lại khác lớp. Đó sẽ là một thế giới mà có rất nhiều người nên tôi không phải lo sẽ lại chạm mặt Juli Baker nữa. Rồi mọi rắc rối cuối cùng cũng sẽ chấm dứt.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
Đăng lúc 2-10-2014 21:09:30 | Chỉ xem của tác giả
mình k ngờ thì ra Flipped là phim chuyển thể
thiệt sự là nó rất đáng yêu
k biết phim có cắt bớt chi tiết nào trong truyện hay k
ủng hộ bạn

Bình luận

Cảm ơn bạn nhoé :*  Đăng lúc 2-10-2014 09:53 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2014 12:17:48 | Chỉ xem của tác giả
Nhảy cà tưng





Ngày đầu tiên gặp Bryce Loski, trái tim tớ lập tức nhảy cà tưng. Nói thật ấy, chỉ cần nhìn cậu ấy đúng một lần thôi là tớ bị trúng bùa choáng luôn. Chính là đôi mắt của cậu ấy. Có điều gì đó trong đôi mắt Bryce. Đôi mắt xanh biếc được ôm trọn bởi hàng mi đen dày trông lấp lánh khủng khiếp. Đến ngạt cả thở.

Từ đó đến giờ đã hơn sáu năm rồi, và đã từ lâu tớ học được cách che giấu cảm xúc của mình, nhưng mà á, những ngày đầu tiên ấy... Những tháng năm đầu tiên ấy! Tớ nghĩ là mình đã thèm được ở bên cạnh cậu ấy đến chết đi được!

Chuyện đó bắt đầu hai ngày trước khi tớ vào lớp hai. Nhưng mà tớ đã bắt đầu hy vọng, phấp phỏm từ hàng tuần trước kia - từ lúc mẹ nói là một gia đình có cậu con trai tầm tuổi tớ sắp chuyển đến sống ở ngôi nhà phía bên kia đường.

Trại bóng đá hè thì kết thúc rồi, và tớ thì thấy chán kinh đi được vì chẳng có ai, hoàn toàn không có ai luôn, ở khu phố để tớ chơi cùng cả. À, cũng có trẻ con nhưng mà toàn lớn hơn tớ. Mà như thế thì chỉ sướng mấy ông anh trai của tớ thôi chứ tớ thì toàn phải ở nhà một mình.

Mẹ cũng ở nhà nhưng mà mẹ còn bận nhiều việc khác chứ đi đá bóng vòng vòng làm gì. Chính thế nên mẹ nói là tớ muốn tự chơi sao cũng được. Lúc ấy tớ chẳng nghĩ ra được trò gì hay ho hơn là đá bóng, nhất là so với những việc kiểu như giặt giũ, rửa bát hay là hút bụi, nhưng mẹ thì không cho là thế. Và mối nguy hiểm vu vơ khi ở nhà với mẹ là sẽ bị mẹ sai vặt, nào thì rửa nào thì lau nào thì hút bụi. Lúc đó mẹ sẽ không chịu để cho tớ rê bóng quanh nhà mà bắt chạy từ việc này sang việc kia.

Để chắc ăn, tớ đã đợi ở ngoài sân hàng tuần liền vì nhỡ đâu hàng xóm mới sẽ đến sớm. Đúng là hàng tuần thật đấy. Tớ tự giải khuây bằng cách đá bóng với Champ, con chó nhà tớ. Chủ yếu là nó chỉ đứng cản bóng thôi vì chắc phải siêu cẩu thì mới biết đá và ghi bàn, nhưng thi thoảng nó cũng rê được bóng bằng mũi. Chắc là mùi bóng da hấp dẫn với loài chó lắm vì Champ luôn cố nhai quả bóng nên toàn để mất bóng vào chân tớ.

Khi xe chuyến đồ của nhà Loski đến, mọi người trong nhà tớ ai cũng mừng. "Bé Julianna" cuối cùng cũng đã có bạn để chơi cùng mà.

Mẹ, vẫn luôn rất thấu tình đạt lý, đã bắt tớ đợi hẳn một giờ đồng hồ trước khi chạy sang gặp cậu ấy. "Julianna, con phải để nhà người ta nghỉ ngơi đã chứ", mẹ nói. "Người ta sẽ cần có thời gian để thích nghi". Mẹ thậm chí còn không cho tớ đứng ngóng ở ngoài sân nữa. "Cưng à, mẹ thừa hiểu con mà. Thế nào quả bóng của con cũng bay sang sân nhà người ta và thế là con sẽ phải chạy sang lấy nó về, đúng không?"

Chính vì thế mà tớ ngóng từ cửa sổ, và cứ mỗi phút trôi qua tớ lại hỏi: "Bây giờ được chưa mẹ?", và mẹ lại nói: "Để người ta nghỉ ngơi thêm một tí nữa đi con".

Thế rồi điện thoại reo. Và khi biết chắc là mẹ không để ý, tớ bèn giật giật tay áo mẹ và hỏi: "Bây giờ mẹ nhé?"

Mẹ gật đầu, thì thào: "Ừ, nhưng mà từ từ thôi đấy nhé! Tẹo nữa mẹ sẽ sang luôn”

Tớ háo hức đến nỗi chạy vèo qua đường, nhưng tớ đã cố hết sức tỏ ra văn minh khi tới gần cái xe chuyển đồ. Tớ đã chỉ đứng ngoài nhìn vào, chắc phải ghi vào sách kỷ lục về độ lâu ấy chứ. Mà việc đó thì khó khủng khiếp vì cậu ấy ở ngay đấy. Chỉ với tay ra là chạm được ấy! Cậu bạn chắc-chắn-sẽ-là-bạn-thân-mới của tớ, Bryce Loski.

Bryce không làm gì mấy. Cậu ấy chỉ đứng tần ngần, nhìn bố bê mấy thùng đồ lên bậc cửa. Tớ nhớ là khi ấy thấy thương chú Loski ghê gớm. Trông chú ấy mệt bã cả ra vì phải một mình bê vác tất cả các thùng đồ. Tớ cũng nhớ là cả chú ấy và Bryce đều mặc áo phông có cổ màu ngọc lam. Tớ thấy điều này dễ thương kinh khủng. Đáng yêu kinh khủng.

Khi không thể nhịn thêm được nữa, tớ lền cất tiếng "Chào cậu!" với vào trong xe. Rõ là Bryce giật nảy cả mình, và nhanh như điện xẹt, cậu ấy bắt đầu đẩy đẩy một cái thùng, làm ra vẻ như đang làm việc từ nãy đến giờ.

Chỉ cần nhìn là tớ biết ngay Bryce cảm thấy có lỗi vì lý ra phải bưng bê thùng đồ nhưng cậu ấy đã chán việc đó đến tận cổ rồi. Chắc là ngày nào cậu ấy cũng phải bưng bê đồ đạc rồi! Nhất định ấy chứ! Rõ là cậu ấy cần được nghỉ ngơi. Cậu ấy cần ít nước hoa quả! Hay cái gì đó.

Nhưng cũng chỉ cần nhìn là biết chú Loski còn lâu mới cho cậu ấy nghỉ. Và cậu ấy sẽ phải tiếp tục bê thùng cho đến khi nào mệt lử, mà lúc đó thì có khi Bryce chết mất. Chết trước khi có cơ hội được vào nhà mới!

Thảm cảnh ấy đã thôi thúc tớ vào trong xe. Tớ phải giúp! Tớ phải cứu cậu ấy!

Khi tớ tới bên để giúp Bryce đẩy một cái thùng, cậu bạn tội nghiệp trông kiệt sức đến độ tránh luôn sang một bên và để tớ tự xử lý. Chú Loski không muốn tớ giúp nhưng ít ra thì tớ đã cứu được Bryce. Tớ đứng trong xe được tổng cộng ba phút thì chú ấy bắt Bryce đi giúp mẹ dỡ đồ ở trong nhà.

Tớ chạy theo Bryce đến tận lối đi vào nhà, và đấy chính là lúc mọi việc thay đổi. Nhé, tớ bắt kịp cậu ấy, nắm lấy cánh tay cậu ấy và cố níu lại để chúng tớ có thể chơi được một tí trước khi cậu ấy lại bị nhốt trong nhà, thì điều tiếp theo mà tớ biết là Bryce nắm tay tớ, và nhìn thẳng vào mắt tớ.

Tim tớ ngừng đập. Chính thế. Ngừng đập. Và đấy là lần đầu tiên trong đời tớ có cảm giác đó. Bạn biết đấy, giống như cả thế giới này chỉ đang quay quanh mỗi bạn, mọi thứ dưới chân bạn, mọi thứ bên trong bạn, và chính bạn, tất cả đều bồng bềnh. Bồng bềnh giữa không trung. Và thứ duy nhất níu bạn lại, giúp bạn không bị trôi đi, chính là đôi mắt của người ấy. Đôi mắt ấy được gắn kết với đôi mắt bạn bởi một lực hút vô hình nào đó, và đôi mắt ấy lập tức chớp được bạn mặc cho cả thế giới đang chao đảo và tan biến.

Suýt chút nữa thì tớ có được nụ hôn đầu vào ngày hôm đó nữa cơ. Chắc chắn luôn. Nhưng mà mẹ Bryce lại đi ra và cậu ấy thấy ngượng quá đến nỗi hai má đỏ lựng lên, và việc tiếp theo là cậu ấy chui tọt vào trong nhà tắm.

Tớ đang đợi cậu ấy ra ngoài thì chị gái cậu ấy, Lynetta, nhìn thấy tớ đứng ở hành lang. Chị ấy trông lớn và có vẻ rất là bà chị. Và vì chị ấy muốn biết chuyện gì đang xảy ra nên tớ đã kể lại chút ít. Lẽ ra tớ không nên làm thế vì chị Lynetta đã lập tức vặn vặn tay nắm cửa nhà tắm và bắt đầu chọc ghẹo Bryce rất thô lỗ. "Này cu em!", chị ấy réo qua cửa "Có em gái xinh tươi đang đứng đợi mày đây này! Sao thế? Sợ con bé có chấy à?"

Ôi trời ơi, ngượng quá đi mất! Tớ giật tay Lynetta, kêu chị ấy đừng có nói nữa nhưng mà chị ấy không nghe. Thế là cuối cùng tớ đành phải về.

Lúc ra ngoài tớ thấy mẹ đang nói chuyện với cô Loski. Mẹ tặng cô ấy chiếc bánh chanh Bundt* cực ngon mà lẽ ra sẽ là món tráng miệng của nhà tớ tối đó. Lớp đường bột trắng mịn và chiếc bánh hãy còn ấm, toả hương chanh ngọt ngào.

*Bánh Bundt: một loại bánh ngọt dùng để uống trà, có nguồn gốc từ Đức, Áo và Hungary và loại bánh này trở bên rất phổ biến vào những năm 1950.

Chỉ nhìn thôi mà tớ muốn rớt cả nước miếng! Nhưng giờ thì chiếc bánh đang ở trong tay cô Loski, và tớ biết là chẳng có tí cơ hội nào xin lại được. Tớ chỉ có thể cố gắng nuốt lấy mùi vị ấy từng chút một trong lúc đứng hóng mẹ và cô Loski nói chuyện về mấy cửa hàng rau quả và dự báo thời tiết.

Sau đó, mẹ và tớ đi về nhà. Nhưng như thế thì lạ quá đi. Tớ chưa chơi được với Bryce tí nào cả. Tất cả những gì tớ biết chỉ là đôi mắt cậu ấy là cả một màu xanh choáng ngợp, rằng cậu ấy có một bà chị gái không thể tin tưởng được, và rằng cậu ấy suýt chút nữa đã hôn tớ.

Đêm đó tớ cứ nằm hình dung mãi về nụ hôn ấy cho đến lúc thiếp đi. Rốt cuộc thì nụ hôn ấy sẽ như thế nào nhỉ? Ít nhất thì tớ biết nó sẽ không giống như nụ hôn mà tớ nhận được từ mẹ hay bố trước khi đi ngủ. Có thể cùng loài nhưng chắc chắn về cơ bản sẽ thuộc chi khác. Giống như chó sói và chó đua ấy - chỉ có mỗi khoa học mới có thể xếp chúng vào cùng một cây sinh học mà thôi.

Mỗi khi nhớ lại năm lớp hai, tớ thích nghĩ là chính vì chút tò mò khoa học nên tớ mới muốn săn đuổi nụ hôn ấy đến thế, nhưng thực ra thì, có lẽ phần nhiều là vì đôi mắt xanh choáng ngợp ấy. Suốt cả năm lớp hai và lớp ba dường như tớ không thể ngăn nổi mình không đi theo cậu ấy, ngồi cạnh cậu ấy, và đơn giản là muốn ở gần cậu ấy.

Lên lớp bốn tớ đã học được cách kiềm chế bản thân. Bóng dáng cậu ấy - suy nghĩ về cậu ấy - vẫn khiến con tim tớ rộn ràng, nhưng đôi chân tớ không còn đuổi theo cậu ấy nữa. Tớ chỉ quan sát, nghĩ ngợi và mơ mộng.

Rồi đến năm lóp năm thì Shally Stalls chõ mũi vào. Shelly Stalls là một đứa ngớ ngẩn. Một đứa ngớ ngẩn, thọc mạch, lúc nào cũng the thé và chuyên đâm sau lưng người khác. Một đứa chuyên nói với người này một kiểu nhưng lại đi hót với người kia kiểu khác. Bây giờ khi bọn tớ lên trung học cơ sở thì nó đích thị là con công chúa làm trò nhưng ngay từ hồi học cấp một nó đã biết diễn kịch rồi. Nhất là khi tới giờ thể dục. Chưa một lần nào tớ thấy nó chạy tập hay uốn dẻo. Nó lúc nào cũng diễn trò "mỏng manh dễ vỡ", than thở rằng nhất định sẽ bị bong gân, trật khớp nếu như nó chạy, nhảy hay ép người.

Thế mà lại có hiệu quả. Năm nào cũng thế. Nó sẽ nộp mấy cái tờ đơn xin xỏ và để cho chắc thì sẽ giả đò ngất xỉu trong mấy ngày đầu năm học cho thầy cô xem, sau đó thì nó sẽ được miễn hết những trò cần tới cơ bắp. Thậm chí Shelly còn không thèm tự cất ghế của nó vào cuối buổi học. Vùng cơ duy nhất mà nó tập thể dục thường xuyên chính là cái mồm, mà mấy cái cơ đó thì nó tập không ngừng nghỉ. Nếu mà có Thế vận hội Nói thì đảm bảo Shelly Stalls sẽ càn quét hết các giải. À, chí ít thì nó sẽ giành được huy chương vàng và bạc - mỗi huy chương cho một bên mép.

Điều khiến tớ khó chịu không phải là chuyện nó được miễn môn thể dục - dù sao thì cũng có ai thèm cái con bé đó chơi cùng đội đâu cơ chứ? Điều khiến tớ khó chịu là bất cứ ai chịu nhìn thì cũng đều biết ngay, chẳng phải hen suyễn hay cổ chân yếu hay cái trò "mong manh dễ vỡ" khiến nó không chơi được thể thao. Mà chính là tóc nó. Nó có cả núi tóc, không xoắn kiểu này thì lại vặn kiểu khác, không kẹp thì lại xâu hạt, không tết thì lại uốn xù. Cái đuôi ngựa của nó cứ gọi là vểnh lên còn hơn cả bòm ngựa gỗ đu quay. Còn ngày nào mà để xoã tóc thì nó sẽ dún dấy và e lệ núp trong cái mớ tóc ấy như thể tóc của nó là cái chăn vậy. Thế nên lúc đó bạn sẽ chẳng nhìn được gì trên mặt nó ngoài cái mũi thò ra. Thử chùm chăn lên đầu rồi chơi bóng ném bốn người* xem? Tớ thách!

*Nguyên bản tiếng Anh là "four-square", môn thể thao với bóng khá phổ biến, gồm bốn người chơi đứng thành bốn góc, không cần nhiều dụng cụ và thời gian chơi mỗi lượt khá ngắn. Môn thể thao này được hình thành năm 1964 và sau đó được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới.

Giải pháp của tớ với Shelly Stalls là lờ nó đi và nhìn chung là khá hiệu quả cho đến giữa năm lớp năm, khi tớ thấy nó nắm tay Bryce.

Bryce của tớ.

Người vẫn còn ngượng ngùng vì nắm tay tớ hai ngày trước khi vào lớp hai. Người vẫn còn nhút nhát đến nỗi không thể nói gì hơn với tớ ngoài câu chào đơn thuần.

Người vẫn nắm giữ nụ hôn đầu của tớ.

Làm sao mà cái con bé Shelly kia dám luồn tay nó vào tay cậu ấy chứ? Cái con công chúa đỏng đảnh ấy không có quyền gì bám vào Bryce như thế.

Bryce ngoái lại nhìn liên tục mỗi khi đi với con bé đó, và rõ là cậu ấy nhìn tớ. Ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu tớ là cậu ấy đang muốn xin lỗi tớ. Và rồi ý nghĩ tiếp theo loé lên - cậu ấy cần tớ giúp. Đương nhiên rồi, chắc chắn là thế rồi. Shelly Stalls mỏng manh thế kia thì làm sao mà hẩy ra được? Nó xoắn xuýt như thế thì làm sao mà tách ra được? Nó mà có bị xây xước gì rồi lại nước mắt ngắn nước mắt dài thì thật là, cậu ấy sẽ ngượng chết mất! Không được, đấy đâu phải là việc mà một cậu con trai có thể làm một cách nhẹ nhàng được. Việc đấy phải để con gái ra tay.

Tớ còn chẳng thèm xem xét xem xung quanh có ai giúp được không. Chỉ trong vòng hai giây, tớ đã lôi được Shelly ra khỏi cậu ấy. Bryce chạy đi ngay khi được tự do, nhưng Shelly thì không, không-không-không! Nó lao vào tớ, cào xé và cấu véo bất cứ cái gì nó chạm tay vào được, gào lên rằng Bryce là của nó và sẽ không đời nào nó để cậu ấy đi.

Mỏng manh thế đấy.

Tớ đã hy vọng là lúc đó thầy cô sẽ có mặt ở đấy để xem xem bộ mặt thật của Shelly Stalls là như thế nào, nhưng lúc mọi người đến được hiện trường thì cũng muộn rồi. Lúc đấy tớ đã khoá đầu được cái con Bông Xù ấy và bẻ quặt được tay nó ra đằng sau. Còn nó thì dù có cố quàng quạc cái mồm hay cào xé thế nào thì cũng không bắt được tớ thả nó ra cho đến khi thầy cô tới.

Cuối cùng, Shelly được cho về sớm với cái đầu tung xù tổ quạ còn tớ thì phải tường thuật mọi thứ với cô hiệu trưởng. Cô Shultz là một người thẳng băng không màu mè gì, chắc trong lòng cũng khoái kiểu đá móc trúng mục tiêu như tớ. Mặc dù cô nói là tớ nên để người ta tự giải quyết vần đề của họ, nhưng chắc chắn cô hiểu chuyện về Shelly Stalls và tóc tai của nó. Cô còn nói rằng cô rất mừng vì tớ đã tự kiềm chế được và không làm việc gì quá trớn hơn việc khoá chân tay con bé.

Hôm sau Shelly đến trường với cái đầu toàn là bím tóc tết. Và đương nhiên là nó lôi kéo được mọi người bàn ra tán vào về tớ nhưng tớ thây kệ. Cây ngay không sợ chết đứng. Bryce chẳng thèm đến gần nó cho đến hết năm học.

Điều này không có nghĩa là sau đó Bryce chịu nắm tay tớ, nhưng cậu ấy bắt đầu tỏ ra thân thiết hơn với tớ. Nhất là vào năm lớp sáu, sau khi thầy Mertins xếp hai đứa tớ ngồi cạnh nhau ở hàng thứ ba.

Ngồi cạnh Bryce rất là thích ấy. Cậu ấy thật đáng yêu. Cậu ấy nói "Chào cậu, Juli" với tớ vào mỗi sáng, và thỉnh thoảng tớ bắt gặp cậu ấy đang nhìn tớ. Những lúc bị bắt quả tang như thế cậu ấy toàn đỏ mặt, quay đi, vờ tập trung vào việc của mình. Tớ thì cười không thể khép miệng lại được. Cậu ấy thật nhát quá đi. Và dễ thương hết mức ấy!

Bọn tớ cũng nói chuyện với nhau nhiều hơn. Nhất là sau khi thầy Mertins chuyển chỗ tớ ra ngồi sau cậu ấy. Thầy Mertins có một hình phạt cho môn Đánh vần, nếu học sinh nào sai nhiều hơn bảy trên tống số hai mươi lăm từ thì sẽ phải ăn trưa trong lớp với thầy ấy và chép đi chép lại các từ.

Áp lực về hình phạt khiến Bryce lo ra mặt. Và mặc dù trái với lương tâm nhưng tớ đã nhoài người lên trên và thì thầm đáp án cho cậu ấy với hy vọng là biết đâu tớ có thể ăn trưa cùng cậu ấy. Tóc cậu ấy có mùi dưa hấu, và dái tai cậu ấy có lông tơ. Những sợi lông tơ màu vàng mềm mại. Và tớ đã băn khoăn về điều đó. Làm sao mà một cậu con trai có mái tóc đen dường ấy lại có lông tơ màu vàng nhỉ? Mà đám lông tơ đó để làm gì nhỉ? Tớ đã soi gương, tự kiểm tra dái tai mình nhưng chẳng tìm thấy mấy, mà tớ cũng chẳng thấy ai có hết.

Tớ đã nghĩ tới việc hỏi thử thầy Mertins về lông tơ ở dái tai khi lớp đang học về tiết khoa học, nhưng rồi tớ đã không hỏi. Thay vào đó, tớ đã dành cả một năm trời thì thầm đánh vần, ngửi mùi dưa hấu, và mơ mộng không biết đến bao giờ mới có nụ hôn của mình.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2014 18:05:50 | Chỉ xem của tác giả
Anh bạn, hãy coi chừng!





Lớp bảy đến với những thay đổi, ờ thì đúng thế, nhưng mà thay đổi lớn nhất lại không phải ở trường – mà là ở nhà kìa.

Ông ngoại đến sống ở nhà tôi.

Lúc đầu thì cũng hơi kỳ kỳ vì nhà tôi chẳng ai biết gì về ông cả. Đương nhiên là trừ mẹ ra. Và mặc dù cả một năm rưỡi, mẹ cố gắng thuyết phục mọi người rằng ông ngoại hay lắm, nhưng từ những gì mà tôi thấy thì ông chỉ giỏi mỗi việc nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ thôi. Mà chẳng có gì để mà nhìn ấy chứ. Mỗi cái sân trước nhà Baker. Thế nhưng ông cứ thế từ sáng đến tối, ngồi trên cái ghế to đùng trông khá thoải mái mà người ta đưa đến cùng với ông, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ.

Ô-kê, thì ông cũng chỉ có đọc tiểu thuyết của Tom Clancy* và báo chí. Ông cũng chơi giải ô chữ và theo dõi chứng khoán. Nhưng tất cả chỉ là ngụy trang thôi. Khi nào không có ai để ý thì ông sẽ lại nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ cho đến lúc nào ngủ thì thôi. Việc đó thì cũng chẳng có gì sai trái cả. Chỉ là … chán chết đi được.

*Tom Clancy (1947): tác giả người Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm rất chi tiết và giàu tính chuyên môn về khoa học quân sự và tình báo lấy bối cảnh trong và sau chiến tranh Lạnh. Nhiều trò chơi điện tử đã lấy tên ông nhằm quảng bá thương mại. Tên tuổi của ông còn gắn với các kịch bản phim và sách viễn tưởng về đề tài quân sự.

Mẹ nói ông cứ nhìn như thế là vì ông nhớ bà, nhưng ông chẳng bao giờ nói gì với tôi về chuyện đó cả. Mà thực ra thì ông chưa bao giờ nói với tôi về bất cứ chuyện gì cho đến vài tháng trước, khi ông đọc được tin về Juli ở trên báo.

Nếu mà bạn nghĩ Juli Baker lên trang nhất tờ Thời báo Mayfield vì nó là một Einstein lớp tám thì không phải đâu. Con bé lên trang nhất là vì nó nhất quyết không chịu trèo xuống khỏi một cái cây tiêu huyền.

Vấn đề ở đây không phải là tôi không phân biệt được đâu là cái cây tiêu huyền, đâu là cái cây phong hay cây cáng ló, mà là Juli kìa.

Con bé biết đấy là cây tiêu huyền mà nó nhất định phải truyền bá cho bằng được cái kiến thức ấy cho bất cứ sinh vật nào mà nó gặp.

Còn cái cây đó, cái cây tiêu huyền đó, mọc trên ngọn đồi trong khu đất trống ở phố Collier, và nó cực to. Cực to và cực xấu. Thân nó xoắn lại, đầy mấu và cong gập. Tôi thì lúc nào cũng mong cái cây đó bị gió thổi bay đi luôn cho rồi.

Năm ngoái, vào một ngày nọ, tôi thấy phát ngán lên được vì con bé đó cứ lải nhải lải nhải về cái cây ngu ngốc ấy. Thế là tôi đi ra và nói với nó rằng, đấy chẳng phải là cây tiêu huyền đẹp đẽ gì cả mà thực ra, đấy là cái cây xấu xí nhất trần đời. Bạn có biết con bé đó nói gì không? Nó nói mắt tôi có vấn đề.

Mắt có vấn đề cơ đấy! Một đứa con gái sống trong một căn nhà bị coi như cái gai của cả khu phố mà lại đòi nói thế với tôi cơ đấy!

Trông nhà nó xem, cây bụi thì rậm rì quanh cửa sổ, cỏ dại thì đâm tua tủa khắp nơi, còn cái sân nuôi gà vịt quanh kho thì khác gì trại thương điên?

Ý tôi là chó, mèo, gà, có cả rắn nữa ấy chứ – chạy loạn xạ cả. Thề với Chúa, hai ông anh của Juli nuôi cả một con trăn Nam Mỹ ở trong phòng.

Hồi tôi khoảng mười tuổi, hai ông ấy lôi tôi vào phòng và bắt xem con trăn đó ăn chuột cống.

Một con chuột còn sống nguyên, mắt tròn mở thao láo. Hai ông ấy cầm cái đuôi con chuột nhấc lên và con trăn ngoạp một cái, nuốt trọn luôn con chuột. Cái con trăn ấy làm tôi gặp ác mộng nguyên cả tháng trời.

Dù sao thì, bình thường tôi cũng chẳng quan tâm đến sân vườn nhà người khác làm gì, nhưng cái “con cá bầy nhầy” của nhà Baker khiến bố khó chịu lắm lắm và bố quay sang chém “cái thớt” ở nhà. Bố nói nghĩa vụ của hàng xóm láng giềng là phải cho nhà họ thấy một cái sân vườn đúng chuẩn trông như thế nào. Thế là trong khi Mike và Matt bận rộn vỗ béo cho con trăn của hai ông ấy thì tôi phải cắt cỏ, tỉa cành, rồi quét lối đi và cả rãnh nước nữa. Mà như thế là rất quá đáng ấy.

Mà bạn nghĩ điều đó sẽ khiến bố của Juli – một ông chú to, khỏe, trông chắc nịch như tường gạch – chăm chút cho cái vườn nhà mình chắc? Đời nào? Mẹ nói, chú ấy dành hết cả thời gian rảnh để vẽ vời. Tôi thấy tranh phong cảnh mà chú ấy vẽ chẳng có gì đặc biệt cả, nhưng nhìn mấy cái tem giá trên tranh của chú ấy thì đồ chừng chú ấy không nghĩ thế. Năm nào nhà tôi cũng thấy nhà Baker ở Hội chợ Hạt Mayfield, và bố mẹ lần nào cũng nói: “ Đời sẽ đẹp hơn nhiều nếu mà anh ta chịu sửa sang cái sân nhà mình”.

Mẹ cũng nói chuyện với mẹ của Juli. Tôi nghĩ là mẹ thấy thương cô Baker - mẹ nói cô ấy lấy phải một ông lúc nào cũng mơ mộng hão huyền, và vì thế nên một trong hai người bọn họ sẽ không thể hạnh phúc.

Sao cũng được. Chắc gu thẩm mỹ của Juli đã bị bố nó làm hỏng hoàn toàn rồi chứ cũng chẳng phải là lỗi của nó. Nhưng Juli lúc nào cũng nghĩ cái cây tiêu huyền đó là món quà mà Chúa trời ban tặng cho thế giới này.

Hồi còn học lớp ba và lớp bốn, con bé vẫn thường cùng hai ông anh trai vắt vẻo như khỉ trên cành cái cây tiêu huyền ấy, hoặc bóc từng mảng vỏ cây to tướng ra để chơi cầu trượt trên phần thân cây cong gập xuống. Nhìn chung là lúc nào mẹ con tôi lái ô-tô qua cũng đều thấy có vẻ như anh em nhà đó đang rúc rích ở chỗ cái cây đấy. Lúc nào xe dừng đợi đèn xanh là lại thấy Juli đang đu từ cành này sang cành kia, mà lúc nào trông nó cũng như sắp rơi xuống đất và chắc chắn là nếu thế thì xương cốt cứ gọi là nát dừ. Mẹ thể nào cũng lắc đầu và nói: “Đừng có bao giờ làm cái trò leo trèo như thế, nghe chưa Bryce? Mẹ không muốn con làm thế đâu đấy! Cả con nữa, nghe chưa Lynetta? Nguy hiểm quá đi mất.”

Chị tôi thể nào cũng đảo mắt và lầm bầm: “Cứ như là có người sẽ làm thật ấy”, còn tôi thì thụp đầu xuống dưới gầm xe và cầu cho đèn chuyển xanh thật là nhanh, trước khi Juli gào rống tên tôi lên cho cả phố cùng nghe.

Tôi có trèo lên cái cây đó một lần hồi học lớp năm. Đấy là sau hôm Juli lấy hộ tôi con diều bị vướng vào tán cây xấu như quái vật bị đột biến gen đó. Con bé đã trèo lên cao tít mù để lấy con diều xuống, và khi trèo xuống, nó lại tỏ ra thản nhiên như không. Nó không giữ con diều làm con tin và cũng chẳng quang quác cái mồm như tôi vẫn sợ. Con bé chỉ đưa trả con diều và chạy luôn.

Tôi thấy hú hồn, nhưng mà tôi cũng thấy mình tầm thường sao sao ấy. Lúc thấy con diều bị mắc kẹt ở trên cây, tôi coi như mất luôn rồi ấy chứ. Thế nhưng mà Juli thì không. Con bé trèo đánh vèo một cái và lấy con diều xuống như không ấy. Chậc, thế có ngượng không cơ chứ?

Thế là tôi làm công tác tư tưởng cho bản thân và ngày hôm sau tôi quyết chí phải leo vượt con bé ít nhất là hai cành. Tôi leo quá được phần thân cong gập, rồi thêm vài mấu cây nữa, sau đấy thì – để xem thành quả leo trèo của mình tới đâu - tôi nhìn xuống.

Sai lầm! Cảm tưởng như tôi đang đứng ở trên đỉnh tòa nhà Empire State* mà không có dây bảo hiểm. Tôi đã thử nhìn với lên trên chỗ cái diều từng mắc kẹt nhưng mà vô vọng. Tôi đúng là quá ngu ba cái chuyện trèo leo này thật.

*Tòa nhà Empire State (Thành phố New York, Mỹ) được hoàn thành vào năm 1931, và là tòa nhà cao nhất thế giới (381m) cho đến năm 1972, khi Trung tâm Thương mại thế giới (WTC) hoàn thành. Nhưng sau khi WTC bị đánh sập năm 2001, tòa nhà Empire State lại giữ vị trí quán quân ở New York, và á quân tại Mỹ. Công trình có hình dáng một chiếc bút chì này là biểu tượng của sức mạnh tài chính và là trái tim của thành phố New York.

Rồi tôi cũng vào trung học cơ sở nhưng giấc mộng một thế giới không có Juli cũng theo đó mà tan tành. Tôi phải đi xe buýt đến trường và cái-đứa-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy cũng thế. Tổng cộng có khoảng tám đứa bọn tôi đứng đợi xe buýt ở chung một bến. Và đương nhiên, làm gì có chuyện Juli để cho tôi yên. Nó lúc nào cũng cố đứng cạnh tôi, hoặc không thì bắt chuyện, hoặc không thì cũng nảy nòi ra cách này cách nọ hành hạ tôi.

Xong rồi nó bắt đầu trèo cây. Con gái học lớp bảy rồi mà còn bày đặt cái trò leo trèo mới kinh chứ. Mà nó làm thế để làm gì? Để đứng trên cây rồi gào rống cả lên rằng

“Xe buýt còn cách chúng ta năm … bốn … ba khu phố nữa …”.

Mới sáng ra mà cứ sa sả ở trên cây thông báo tình hình giao thông – cứ làm như đứa nào cũng thích nghe lắm đấy!

Con bé còn gạ gẫm tôi leo lên cùng với nó nữa chứ. “Bryce, lên đi! Cậu sẽ không tin nổi màu sắc trên này đâu! Ở trên này trông hoành tráng lắm ấy! Cậu phải lên đây mà xem!

Vâng, xin cảm ơn! Tôi chỉ thấy được cái cảnh: “Bryce và Juli ngồi trên cành cây …”. Không biết đến bao giờ thì tôi mới có thể quên được quãng học lớp hai đấy nữa?

Có một sáng – lúc tôi đang cố tình không ngẩng lên thì tự nhiên con bé đu vèo từ trên cây xuống và đâm trúng tôi đánh cái rầm. Đột quỵ luôn! Tôi bị rơi cả cặp, sái luôn cả cổ. Và thế là tôi không thèm đứng đợi xe buýt ở dưới cái cây đó với cái con khỉ thần kinh lúc nào cũng bay nhảy loạn cào cào đó nữa.

Từ hôm đó phải sát giờ tôi mới ra khỏi nhà. Tôi đứng đợi riêng một chỗ, và khi nào thấy xe buýt tới thì tôi mới chạy lên đồi để leo lên xe.

Chỉ cần không dính vào Juli là được yên thân.

Nói chung là với cách này tôi được sống yên bình hết năm lớp bảy và gần hết năm lớp tám, cho tới một ngày nọ … vài tháng trước. Đấy là khi tôi nghe có tiếng động rung chuyển cả ngọn đồi. Tôi thấy có cả mấy cái xe tải to đùng đỗ trên phố Collier, đúng bến xe buýt. Có mấy ông đang đứng quát om sòm con bé Juli, lúc này, đương nhiên, đang tít tắp trên cây.

Mấy đứa khác cũng bắt đầu xúm lại dưới cái cây và tôi có thể nghe thấy tiếng chúng nó gọi Juli xuống. Con bé vẫn ổn – bất cứ ai có tai thì đều biết thế – nhưng mà tôi không hiểu nổi mọi người đang tranh cãi cái gì.

Tôi leo lên ngọn đồi, và khi tiến lại gần, nhìn thấy rõ thứ mà mấy ông kia đang cầm thì tôi hiểu ra ngay vì sao Juli không chịu trèo xuống khỏi cái cây.

Cưa máy.

Này, đừng có mà hiểu nhầm ý tôi đấy nhé! Cái cây đó đúng là một mớ cành rối rắm lồi lõm xấu xí. Còn đứa đang cãi nhau với mấy ông kia là Juli – cái đứa hay ra vẻ kiểu hiểu biết phiền nhiễu nhất trần đời. Nhưng tự nhiên, tôi thấy nhói nhói trong lòng. Juli yêu cái cây đó. Nghe thì ngu ngu nhưng đúng là nó yêu cái cây đó, và việc chặt cái cây đó khác nào cứa vào tim gan nó chứ?

Ai cũng có bảo nó trèo xuống. Kể cả tôi. Nhứng nó nói là nó sẽ không xuống đâu, không bao giờ, và rồi nó cố rủ mọi người trèo lên cùng. “Bryce, xin cậu đấy! Leo lên trên này với tớ đi. Bọn họ sẽ không thể chặt được nếu tất cả bọn mình cùng ở trên này!”

Trong một thoáng, tôi đã đắn đo. Nhưng rồi xe buýt tới và tôi tự nhủ là đừng dính vào chuyện này. Cái cây đó chẳng phải là cây của tôi, mà cũng chẳng phải của Juli cho dù con bé vẫn hay tỏ ra như thế.

Bọn tôi lên xe hết và chỉ có mỗi Juli ở lại. Nhưng đúng là đến trường cũng phí cả đi. Tôi không thể không nghĩ về Juli. Liệu nó có còn ở trên cây nữa không? Liệu người ta có bắt nó đi không?

Khi xe buýt thả bọn tôi xuống bến buổi chiều hôm đó, Juli đã đi mất còn cái cây thì bị chặt một nửa. Những cái cành ở phía trên cao, nơi con diều của tôi bị vướng phải, nơi trú ngụ yêu thích của Juli – tất cả đều biến mất.

Bọn tôi đứng xem người ta làm một lúc, những cái cưa máy gằn lên hết cỡ, phả khói mù mịt khi nghiến qua những thớ gỗ. Cái cây trông lệch hẳn về một bên và trơ trụi. Sau mấy phút tôi đã phải bỏ đi. Cứ đứng đó nhìn thì chẳng khác nào chứng kiến cảnh người ta đang mổ xẻ một cơ thể vậy, và lần đầu tiên từ lâu lắm rồi, tôi thấy muốn khóc. Khóc. Vì một cái cây ngu ngốc mà tôi ghét.

Tôi đi về nhà và cố không nghĩ ngợi lung tung nhưng rồi cứ băn khoăn mãi. Nếu mà tôi cũng trèo lên cái cây cùng với con bé thì sao nhỉ? Có khi nào mọi chuyện lại khác đi không nhỉ?

Tôi đã nghĩ tới việc gọi điện cho Juli để nói rằng tôi rất tiếc về chuyện cái cây bị chặt, nhưng rồi tôi đã không gọi. Tôi không biết nữa, nhưng nếu làm thế thì nó cứ sao sao ấy.

Sáng hôm sau con bé không ra bến xe buýt và cũng chẳng đi xe buýt về lúc chiều nữa.

Rồi tối hôm đó, ngay trước bữa tối, ông ngoại gọi tôi vào phòng khách. Ông không gọi lúc tôi đi ngang qua – có vẻ như thế thì thân thiết quá chăng. Thay vào đó, ông nói chuyện với mẹ để mẹ bảo tôi. “Mẹ không biết là ông định nói gì với con đâu, cưng à”, mẹ nói. “Nhưng có khi bây giờ ông đã sẵn sàng quan tâm tới con hơn rồi”.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 7-10-2014 20:59:06 | Chỉ xem của tác giả
Chương 4
Trên ngọn cây tiêu huyền*




*Tên tiếng Anh trong truyện là "sycamore", còn được gọi là cây chò nước, là cây thân gỗ được trồng ở nhiều nơi trên thế giới. Vào mùa thu, cũng giống như cây phong, lá cây tiêu huyền sẽ dần đổi màu từ xanh sang đỏ.

Tớ rất thích ngắm bố vẽ tranh. Đúng ra là tớ thích nghe bố kể chuyện khi bố vẽ. Từng từ, từng từ cất lên thật nhịp nhàng, trầm bổng mỗi khi bố dặm bút vẽ phong cảnh. Không chút u sầu. Có thể có chút gì đó ưu tư, nhưng thật yên bình.

Bố không có xưởng vẽ riêng, và vì ga-ra thì đầy ắp những thứ mọi người nghĩ là sẽ cần nhưng rồi chẳng ai thèm dùng tới nên bố luôn vẽ ở ngoài trời.

Phong cảnh ngoài trời thì đúng là nhất rồi, nhưng gần nhà tớ lại không có mấy cảnh đẹp. Chính thế mà bố lúc nào cũng để máy ảnh trong xe tải. Vì là thợ xây nên bố phải đi đến rất nhiều nơi, và lúc nào bố cũng kiếm tìm một buổi chiều tà hay một sớm bình minh thật đẹp, hay cũng có khi chỉ là một cánh đồng bình dị với mấy con cừu hay bò vẩn vơ gặm cỏ. Rồi bố sẽ lựa trong số những tấm hình bố chụp được, đính vào giá vẽ và vẽ lại.

Bức nào bố vẽ cũng đẹp nhưng tớ cứ thấy thương thương bố sao ấy. Vì bố phải vẽ những cảnh đẹp như thế trong sân sau nhà, một nơi rõ là chẳng thơ mộng gì cả. Cũng khó có thể coi đấy là một cái sân, kể cả khi tớ bắt đầu nuôi gà thì trông cũng chẳng khá hơn mấy.

Nhưng có vẻ như khi vẽ, bố không hề nhìn thấy cái sân hay đàn gà. Cũng không phải bức ảnh hay bức vẽ. Bố nhìn thấy điều gì đó lớn lao hơn nhiều. Ánh nhìn trong mắt bố cứ như thể bố vượt qua được giới hạn về không gian của cái sân, của khu phố và thậm chí là của cả thế giới này.

Và khi đôi bàn tay to và chai sạn lướt đầu bút mảnh mai trên bức vẽ, trông cứ như một linh hồn duyên dáng nào đó đã nhập vào bố vậy.

Hồi tớ còn nhỏ, bố thường cho tớ ngồi cạnh lúc bố vẽ, miễn là tớ trật tự. Chẳng dễ gì mà ngồi im được nhưng rồi tớ phát hiện ra rằng, chỉ sau năm hay mười phút thôi là bố sẽ bắt đầu nói chuyện.

Tớ biết được rất nhiều điều về bố bằng cách đó. Bố kể cho tớ đủ chuyện về những gì bố  đã làm hồi bằng tuổi tớ, rồi cả những chuyện khác nữa - như chuyện công việc đầu tiên mà bố kiếm được là chở cỏ khô, và chuyện bố ước gì bố học cho xong đại học.

Khi tớ lớn lên chút nữa, bố vẫn kể chuyện về bố và lúc bố còn bé, nhưng bố cũng bắt đầu hỏi chuyện tớ nữa. Bọn tớ học gì ở trường? Tớ đang đọc sách gì? Tớ nghĩ gì về việc này việc kia?

Đến một hôm, bố làm tớ ngỡ ngàng khi hỏi tớ về Bryce. Vì sao tớ lại thích Bryce đến thế?

Tớ kể với bố về đôi mắt của cậu ấy, rồi mái tóc và cả cái cách mà má cậu ấy ửng hồng. Nhưng có lẽ tớ đã giải thích không được rõ ràng cho lắm vì khi tớ kể xong, bố bèn lắc đầu và nói thật nhẹ nhàng rành rọt rằng tớ cần phải nhìn vào tổng thể.

Tớ không thật sự hiểu bố định nói gì nhưng rõ là tớ chỉ muốn cãi nhau với bố thôi. Làm sao mà bố có thể hiểu được Bryce cơ chứ? Bố có biết gì về cậu ấy đâu?

Nhưng đây không phải là chỗ để cãi nhau. Trong nhà thì còn được chứ ngoài này thì không.

Cả hai bố con tớ đều im lặng một lúc rất lâu, rồi bố hôn lên trán tớ và nói: “Quan trọng là phải đúng sáng*, Julianna ạ.”

*Đúng sáng: Thuật ngữ thường dùng trong hội hoạ và nhiếp ảnh. Một bức tranh hay một tấm hình đúng sáng được hiểu là những phần quan trọng của chủ đề được thể hiện rõ ràng. Tuy nhiên, mọi thứ đều mang tính tương đối nên để đánh giá “đúng sáng”, còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trường phái, quan điểm của người vẽ, người chụp, người xem, v.v…

Đúng sáng á? Thế có nghĩa là gì chứ? Tớ ngồi thần ra, nghĩ ngợi nhưng lại sợ là nếu tớ hỏi thì chẳng khác nào tự nhận rằng mình vẫn chưa đủ lớn để hiểu. Tuy nhiên, không rõ vì sao tớ cũng lại cảm thấy mọi thứ thật rõ ràng. Như thể tớ hiểu được bố định nói gì.

Sau lần đó, bố không nói nhiều về các sự kiện mà nói nhiều hơn về các ý tưởng. Tớ càng lớn thì những câu chuyện của bố càng trở nên sâu sắc hơn. Tớ không biết có phải bố sâu sắc hơn thật không, hay chỉ là bố nghi rằng giờ tớ đã hơn mười tuổi rồi và như thế thì tớ có thế hiểu được nhiều hơn.

Hầu như những gì bố nói đều rất mơ hồ với tớ. Nhưng có một lần, tự nhiên tớ lại hiểu được chính xác ý của bố. "Một bức tranh không chỉ đơn thuần là tập hợp của các chi tiết", bố nói thế rồi giải thích rằng nếu tách mọi thứ ra riêng thì một con bò sẽ chỉ là một con bò, một cánh đồng sẽ chỉ là cỏ và hoa, ánh nắng xuyên qua kẽ lá cũng chỉ là một tia sáng; nhưng nếu đặt những điều đó ở bên cạnh nhau thì phép màu sẽ xuất hiện.

Tớ hiểu điều bố nói, nhưng chưa bao giờ tớ cảm được điều đó cho đến khi tớ trèo lên cây tiêu huyền.

Cái cây tiêu huyền ấy đứng ở trên đồi từ lâu lắm rồi. Nó đứng trên một bãi đất trống rộng, toả bóng mát vào mùa hè và là nơi chim chóc đến làm tổ vào mùa xuân. À, nó còn là cái cầu trượt của anh em tớ nữa. Thân cây uốn cong, lượn được gần trọn một vòng xoáy trôn ốc. Trượt ở trên đấy thích mê luôn được ấy. Mẹ nói là có khi cái cây đã bị gẫy từ lúc nó còn non nhưng may mắn là vẫn sống được. Giờ có lẽ nó phải được đến trăm tuổi rồi không chừng. Và nó vẫn đứng đó. Nó là cái cây to nhất mà mà mẹ từng thấy. 'Tượng đài can trường", mẹ đã gọi cái cây ấy như thế.

Lúc nào tớ cũng leo trèo, nghịch ngợm ở chỗ cái cây, nhưng mãi đến năm lớp năm, tớ mới tiến hành một cuộc chinh phục ra trò. Ấy là khi tớ trèo lên để lấy một con diều bị mắc trên cành. Con điều đang lơ lửng, phiêu diêu trên trời thì hụp một cái rơi xuống đâu đó gần cây tiêu huyền.

Tớ đã từng thả diều rồi nên tớ biết - có lúc con diều sẽ bay đi mất dạng và có lúc thì nó sẽ nằm ở giữa đường chẳng hạn, đợi bạn đến giải cứu. Những con diều có thể rất may mắn nhưng cũng có những con diều cực xấu tính. Tớ có cả hai loại, và đương nhiên con diều may mắn xứng đáng được đi tìm.

Con diều này trông có vẻ may mắn. Nó chẳng rực rỡ, bắt mắt gì đâu, chỉ là một con diều kiểu truyền thống, hình thoi, có tua rua vàng và xanh da trời. Nhưng nó bay lượn thật hiền hoà, và lúc bị rơi xuống, trông như là vì nó bị mệt chứ không phải muốn trêu tức gì ai.

Mấy con diều xấu tính ấy, chúng rơi toàn là vì muốn chọc giận ai đó thôi. Có bao giờ chứng bay cho tử tế đâu mà hết hơi chứ? Bay lên được chừng có gần chục mét thôi là chúng bắt đầu cười khẩy bạn, rồi thả mình rơi tự do đầy khoái trá.

Thế là Champ và tớ chạy lên phố Collier, và sau khi tìm kiêm hết trên đường, Champ hướng về cây tiêu huyền và bắt đầu sủa nhặng lên. Tớ nhìn lên và thấy con diều mắc ở trên đó, dải tua rua xanh da trời và vàng đang phất phơ giữa những tán lá.

Con diều mắc vào chỗ cao ơi là cao, nhưng tớ vẫn muốn thử xem thế nào. Tớ trèo lên cây, leo tắt qua chỗ cầu trượt và bắt đầu leo lên cao dần. Champ đứng ở dưói, sủa sủa, ra dáng trông chừng tớ. Thoáng một cái tớ đã leo lên được một đoạn khá cao. Nhưng con diều hẵng còn ở xa tít mù táp.

Rồi tớ nhìn thấy Bryce đi từ góc phố xuyên qua bãi đất trông. Và từ cách mà cậu ấy ngước lên nhìn, tớ biết ngay đây là con diều của cậu ấy.

May thế, may ơi là may! Không ngờ đây đúng là một con diều may mắn!

"Cậu trèo lên được chỗ đó không?", cậu ấy gọi với lên.

"Được chứ!", tớ nói vọng xuống. Và thế là tớ trèo lên, lên nữa, lên nữa!

Các cành cây rất khoẻ, lại chẻ nhánh rất nhiều nên trèo lên không khó. Và rồi càng lên cao, tớ càng ngỡ ngàng trước khung cảnh trải ra trước mắt. Chưa bao giờ, chưa bao giờ tớ được chiêm ngưỡng một khung cảnh như thế. Cứ giống như ngồi trên máy bay, lượn trên tất cả các mái nhà, lượn trên tất cả các ngọn cây. Lượn trên cả thế giới!

Rồi tớ nhìn xuống. Đúng chỗ Bryce. Và tự nhiên tớ thấy chóng mặt và đầu gối như muốn khuỵu xuống. Chắc tớ cách mặt đất đến cả trăm mét ấy chứ! Bryce hét lên: "Cậu trèo lên được không đấy?"

Tớ hít một hơi rồi cố nói vọng xuống: "Dễ ợt!", rồi tự thúc mình phải tập trung nhìn vào những sợi tua rua xanh vàng, chỉ tập trung vào đúng mấy sợi tua rua thôi, và tớ trèo lên tiếp, lên tiếp nữa, lên tiếp nữa. Cuối cùng cũng chạm được vào con diều; tớ túm chặt lấy. Hu-rây! Tớ lấy được con diều rồi!

Nhưng dây diều bị rối, quần vào cành cây ờ phía trên nên tớ không tài nào kéo con diều ra được. Bryce lại gọi với lên: "Cứ dứt đứt dây ra cũng được!". May thế xong rồi tớ cũng kéo được con diều ra.

Lấy được con diều rồi, tớ dừng lại nghỉ một tí. Phải hồi sức trước khi trèo xuống chứ. Thế là thay vì nhìn xuống dưới đất, tớ bám chắc vào cây và phóng tầm mắt ra thật xa. Xa hơn cả những mái nhà.

Đấy là lúc nỗi sợ hãi khi ở trên cao dần biến mất, và rồi len lỏi trong tớ một cảm giác kỳ thú chưa từng có. Rằng tớ đang bay. Vút lên không trung, lãng đãng cùng mây trời.

Và tớ chợt nhận ra hương thơm của gió. Tựa như... nắng vậy. Tựa như nắng và cỏ dại, tựa như những quả lựu mọng đỏ và tựa như mưa! Tớ cứ hít mãi, hít mãi, hít đến căng cả lồng ngực mùi hương ấy. Ngọt ngào. Và thơm mát. Đến vô bờ.

Tiếng Bryce gọi với lên "Cậu bị vướng ở trên đấy à?" làm tớ chợt tỉnh. Tớ sửa soạn kỹ lưỡng, cầm thật chắc con diều trong tay rồi từ từ trèo xuống. Tớ có thế nhìn thấy Bryce đang đi vòng vòng quanh cái cây và cứ nhìn lên để chắc chắn là tớ không bị làm sao hết.

Lúc tớ trèo xuống đến chỗ cầu trượt, cái cảm giác lâng lâng tràn ngập trong đầu khi đứng ở trên cao lan toả dần và tớ lâng lâng sung sướng nhận ra giờ chỉ có mỗi Bryce và tớ.

Mỗi hai đứa thôi!

Tim tớ đập loạn xạ lúc đưa trả cho cậu ấy con diều. Nhưng cậu ấy chưa kịp cầm lấy thì Champ đã thúc thúc tớ từ đằng sau. Tớ có thể cảm thấy được cái mũi ươn ướt, lành lạnh của nó cọ vào da.

Á, vào da ấy hả?!

Tớ quờ tay ra sau, túm lấy quần. Ôi trời ơi, cái quần bò của tớ bị rách toác hết phần mông!

Bryce cười gượng gạo. Chắc là cậu ấy nhìn thấy rồi! Lần đầu tiên tớ là đứa phải đỏ mặt. Ngượng chín người luôn ấy. Cậu ấy cầm lấy con diều rồi ý tứ chạy đi luôn để tớ có thể tự xử lý tai nạn.

Thực ra thì tớ quên vụ tai nạn rách mông này nhanh lắm, nhưng chưa khi nào tớ có thể quên được khung cảnh ấy. Tớ cứ nghĩ mãi về cảm giác được đứng thật là cao trong tán lá khi ấy. Tớ muốn được nhìn lại, muốn được cảm nhận lần nữa. Và lần nữa.

Chẳng mấy mà tớ đã hết thấy sợ trèo lên độ cao ấy và tìm được cho riêng mình một 'vọng gác". Tớ có thể ngồi trên đó hàng giờ chỉ để ngắm nhìn vạn vật. Những buổi hoàng hôn rực rỡ. Những chiều chạng vạng nhuộm ánh tím hồng huyền bí. Những thời khắc cuối ngày chìm ngập trong sắc cam đỏ thiêu đốt những đám mây tận cuối chân trời.

Vào một ngày như thế triết lý của bố về cái tổng thể còn quan trọng hơn sự hợp lại của các phần, vốn luôn văng vẳng trong đầu tớ, cuối cùng đã thật nhẹ nhàng bao trọn trái tim tớ. Khung cảnh mà tớ nhìn thấy từ trên ngọn cây tiêu huyền không chỉ đơn thuần là những mái nhà, những đám mây, những cơn gió và những màu sắc cộng lại.

Đó là phép màu.

Và tớ bắt đầu thấy kỳ thú với những cảm xúc đang diễn ra trong lòng, vừa giản dị, mộc mạc, vừa huy hoàng, lộng lẫy. Làm sao có thể như thế được nhỉ? Làm sao mà tớ lại có thể vừa thấy thật bình yên, vừa thật háo hức và hồi hộp? Làm sao mà cái cây tiêu huyền này lại khiến lòng tớ thấy thật phức tạp đến thế? Và tràn đầy sức sống đến thế?

Tớ trèo lên cây bất cứ lúc nào có cơ hội. Và khi lên trung học cơ sở thì gần như là ngày nào tớ cũng trèo cây vì xe buýt của trường đón bọn tớ ở phố Collier, ngay trước cây tiêu huyền.

Lúc đầu tớ chỉ muốn xem mình có thể trèo cao đến đâu trước khi xe buýt tới đón, nhưng rồi tớ rời nhà rất sớm để có thể leo lên “vọng gác" ngắm mặt trời mọc, lắng nghe lũ chim bàn chuyện ríu rít buối sớm, hoặc đơn giản chỉ là nhìn lũ bạn tụ tập.

Tớ đã cố rủ lũ bạn cùng đợi ở bến xe buýt trèo lên với tớ, thấp thôi cũng được, nhưng bọn nó đều nói là bọn nó không thích bị bẩn quần bẩn áo. Không muốn cảm nhận được phép màu chỉ vì sợ dính tí bụi bẩn ấy hả? Không thể tin được!

Tớ không hề nói với mẹ là tớ trèo cây. Tính mẹ như thế, nếu biết thì thể nào mẹ cũng lo lắng. Hai ông anh tớ ấy hả? Anh trai mà, còn lâu hai ông ấy mới thèm quan tâm!

Thế là còn lại mỗi bố. Người mà tớ biết sẽ hiểu. Thế nhưng tớ vẫn sợ. Nếu tớ kể với bố, bố sẽ nói với mẹ và rồi cả hai bố mẹ sẽ không cho tớ leo trèo gì hết. Vì thế nên tớ không hé răng tới nửa lời, và tớ vẫn trèo lên cây tiêu huyền để tận hưởng niềm vui thích mỗi khi ngắm nhìn thế giới. Một niềm vui thích có phần cô đơn.

Rồi vài tháng trước, tớ chợt nhận ra mình nói chuyện với cái cây. Một cuộc đối thoại nghiêm chỉnh, chỉ giữa tớ và một cái cây. Lúc trèo xuống, tớ bỗng thấy muốn khóc. Vì sao mà tớ lại chẳng có lấy một ai để tâm sự? Vì sao mà tớ lại chẳng có lấy một người bạn thân giống như mọi người? Ừ thì tớ cũng có bạn học cùng trường nhưng không có đứa nào là đặc biệt thân thiết cả. Bọn nó không thích thú gì trò leo cây trèo cành. Cũng chẳng mê man hít hà ánh mặt trời như tớ.

Tối đó sau khi ăn xong, bố ra ngoài vẽ tranh. Trong cái giá lạnh của buổi đêm, dưới ánh đèn leo lét ngoài hiên, bố tỉ mẩn đưa những nét bút cuối cùng để hoàn chỉnh bức vẽ về một sớm bình minh.

Tớ khoác thêm áo rồi rón rén ra ngoài, khẽ khàng ngồi xuống cạnh bố.

Mấy phút sau bố cất lời: "Con gái rượu đang nghĩ gì thế?"

Từ trước tới giờ, chưa lần nào bố lại hỏi tớ như thế khi tớ ngồi xem bố vẽ. Tớ nhìn bố nhưng không tài nào mở miệng ra được.

Bố pha hai sắc cam vào cùng nhau, rồi rất dịu dàng, bố nói: "Nói bố xem nào".

Tớ thở dài đánh thượt một cái đến ngỡ ngàng: "Con biết vì sao bố thích ra ngoài đây rồi". Bố cố tình trêu tớ: "Thế con nói cho mẹ giúp bố đi!"

"Thật đấy bố. Giờ con hiểu cả điều mà bố từng nói, rằng cái tổng thể còn quan trọng hơn sự hợp lại của các phần ấy mà".

Bố ngừng pha màu. "Thật không? Làm sao mà con hiểu được thế? Nói bố nghe xem nào!"

Thế là tớ kể cho bố nghe về cây tiêu huyền. Về khung cảnh, những âm thanh, những sắc màu, những cơn gió và cả cảm giác như đang bay mỗi khi ở trên cao. Cảm giác kỳ diệu của phép màu.

Bố không hề ngắt lời tớ một lần nào. Và khi kể xong, tớ nhìn bố rồi thì thào: "Bố trèo lên đó với con nhé!"

Bố nghĩ một lúc lâu rồi mỉm cười: "Giờ bố trèo leo làm sao được hả Julianna? Nhưng mà chắc chắn bố sẽ thử một lần xem sao. Cuối tuần này nhé, trời đất sáng sủa, bố con mình tha hồ trèo, nhỉ?"

"Hoan hô bố!"

Tối đó tớ đi ngủ mà lòng đầy háo hức, đến mức tớ nghĩ là cả đêm tớ chỉ ngủ có mỗi năm phút thôi. Thứ Bảy gần xịt. Tớ không thể đợi được ấy chứ!

Sáng hôm sau, tớ chạy ra bên xe buýt siêu sớm và trèo lên cây. Tớ đón được cảnh mặt tròi leo dần lên những bậc thang mây rồi đủng đỉnh chăng tơ lửa khắp trời đất. Trong đầu tớ còn đang lên danh sách tất cả những thứ muốn khoe với bố, thì chợt nghe thấy tiếng ầm ầm ở phía dưới.

Tớ nhòm xuống thì thấy ngay dưới gốc cây có hai cái xe tải. Xe tải to ấy. Một cái kéo theo một chiếc thùng rỗng, dài còn cái kia thì chở cần cẩu - loại vẫn được dùng để sửa chữa dây điện cao quá đầu và các cột tín hiệu điện thoại.

Có bốn người đàn ông đứng quanh xe, nói chuyện và uống nước từ bình téc-mốt. Tí nữa thì tớ định gọi với xuống: "Chú ơi, chú không được đỗ xe ở đấy đâu... Đấy là bến xe buýt ạ!". Nhưng tớ chưa kịp làm gì thì một trong số bọn họ tiến ra đằng sau xe tải và bắt đầu dỡ dụng cụ xuống. Găng tay này. Dây thừng này. Bịt tai này. Và rồi cưa máy. Ba cái cưa máy.

Nhưng tớ vẫn chưa hiểu gì cả. Tớ cứ ngó quanh xem xem họ đến để cưa chặt cái gì. Rồi một đứa vẫn hay đi xe buýt ra tới bến. Nó nói chuyện với mấy ông đó rồi lập tức chỉ tay lên chỗ tớ ngồi trên cây.

Một ông gọi với lên: "Này, cháu gái xuống đi! Giờ bọn chú phải chặt cái cây này đây".

Tớ bám chặt vào cành cây vì đột nhiên thấy mình như muốn ngã. Tớ cố gắng lắm mói bật ra được tiếng: "Cái cây này ấy ạ?"

"Ừ, xuống đi cháu!"

"Nhưng ai bảo cái chú đên chặt ạ?”

"Chủ khu đất!", ông ấy nói với lên.

"Nhưng mà vì sao ạ?"

Dù ở trên tít cao nhưng tớ vẫn có thể thấy ông ấy đang nhăn mặt. "Thì vì chủ đất sắp xây nhà mà cái cây này thì lại vướng víu. Thôi, cháu gái ơi, xuống nhanh đi cho bọn chú còn làm việc cái!". Lúc đó lũ bạn cũng ra bến gần hết. Bọn nó chẳng nói gì với tớ cả mà chỉ ngó lên cây rồi rì rầm bàn tán. Rồi Bryce đến. Thế là tớ biết xe buýt cũng sắp đến. Tớ nhìn, dọc theo các mái nhà, đúng phóc, xe buýt kia rồi, còn cách chưa đến bốn khu phố.

Tim tớ đập loạn xạ. Tớ chẳng biết phải làm gì! Tớ không thể cứ thế đi và để họ chặt cây được! Tớ gào lên: "Các chú không được chặt cái cây này! Không được!"

Một ông lắc lắc đầu rồi nói: "Chú gọi cảnh sát bây giờ đấy! Cháu đang cản trở công việc có ký hợp đồng đàng hoàng đấy. Giờ thì cháu xuống hay là để bọn chú cho đổ luôn với cái cây hả?"

Xe buýt còn cách ba khu phố nữa. Tớ chưa bao giờ nghỉ học vì bất cứ lý do gì ngoài lúc bị ốm, nhưng từ tận đáy lòng tớ biết là mình sẽ không lên xe tới trường hôm nay. "Chú cứ cho cháu đổ luôn với cây cũng được!", tớ gào lên. Rồi tớ nảy ra một sáng kiến. Họ sẽ không thể chặt cây nêu như tất cả bọn tớ cùng ở trên cây. Nếu mà thế thì họ sẽ phải nghe theo thôi! "Này các cậu!", tớ gọi lũ bạn học. "Trèo lên trên này với tớ đi! Họ sẽ không thể chặt cây nếu mà bọn mình ở trên này! Marcia! Tony! Bryce! Đi mà! Đừng cho bọn họ làm thế!"

Nhưng mà chúng nó chỉ đứng đực ra đó và nhìn tớ.

Tớ có thể thấy xe buýt chỉ còn cách có đúng một khu phố. "Đi mà các cậu! Mọi người không cần phải trèo lên tận chỗ tớ đâu. Chỉ cần trèo thấp thấp thôi cũng được. Đi mà!"

Xe buýt đỗ xịch xuống ngay sát mấy cái xe tải. Cửa xe mở và lũ bạn học của tớ lần lượt leo hết lên xe.

Những gì xảy ra sau đó rất bập bùng. Tớ chỉ nhớ là hàng xóm kéo ra xem, rồi cảnh sát đến, loa đài ầm ĩ. Tớ nhớ là có cả lính cứu hoả, và có ông nào tới nói rằng cây tiêu huyền này là cái cục nợ của ông ấy và tốt nhất là tớ trèo xuống ngay lập tức.

Ai đó gọi cả mẹ ra. Mẹ hết khóc lại dỗ dành rồi làm ầm hết cả lên, chẳng giống một người mẹ thấu tình đạt lý gì cả. Nhưng tớ vẫn không chịu xuống. Tớ không xuống!

Rồi bố chạy tới. Bố nhảy ra khỏi xe tải, và sau khi nói với mẹ mấy câu, bố  bảo người ngồi trong cần cấu đưa bố lên chỗ tớ ngồi. Sau đó thì hết chuyện. Tớ oà lên khóc và cố thuyết phục bố phóng mắt qua các mái nhà nhưng bố không chịu. Bố nói là chẳng có khung cảnh nào so được với sự an toàn của con gái bố cả.

Bố đưa tớ xuống rồi chở tớ về nhà, nhưng tớ cũng không thể ngồi yên ở nhà được. Tớ không chịu nổi tiếng cưa máy. Kế cả từ đằng xa vọng lại.

Thế là bố đưa tớ tới chỗ làm, và lúc bố đang xây tường thì tớ ngồi trong xe bố mà khóc nức nở.

Tó khóc phải đến hai tuần liền. À, đương nhiên là tớ vẫn đi học, vẫn cố gắng hoạt động hết mức có thể nhưng tớ không đi xe buýt. Tớ đạp xe tới trường. Xa hơn nhưng tớ không phải đi lên phía phố Collier. Phía có một đống mùn cưa ú ụ mà một thời là cây tiêu huyền đầy kiêu hãnh.

Một tối, tớ đang tự giam mình trong phòng thì bố đi vào, mang theo vật gì đó được phủ bằng một chiếc khăn. Tớ biết đó là một bức tranh vì bố toàn làm thế những lúc cần vận chuyển các bức tranh quan trọng, như khi trưng bày ở công viên. Bố ngồi xuống, đặt bức tranh ở trên sàn phía trước mặt. "Bố thích cái cây của con từ lâu rồi", bố nói. "Trước cả khi con kể với bố về nó kia".

"Thôi bố ạ. Không sao đâu. Con sẽ quên thôi".

"Không đâu, Julianna. Không đâu, con sẽ không quên đâu".

Tớ bắt đầu nức nở. "Nó chỉ là cái cây…”

"Bố không bao giờ muốn con tự thuyết phục mình tin như thế. Cả con và bố đều biết là không phải vậy".

"Nhưng bố ơi…”.

"Để bố nói nốt nào". Bố hít thật sâu. "Bố muốn linh hồn của cái cây ấy luôn ở bên con. Bố muốn con luôn nhớ cái cảm giác mỗi khi con ở trên đó". Bố ngập ngừng một chút, rồi đưa tớ bức tranh. "Chính vì thế mà bố vẽ cái này cho con".

Tớ kéo cái khăn phủ ra, và đó là cái cây của tớ. Cây tiêu huyền xinh đẹp và tráng lệ của tớ. Dưới những tán cây, bố đã vẽ buối hừng đông rực lửa, và dường như tớ còn cảm nhận được cả làn gió nữa. Và tít tắp trên cây có một cô nhóc đang dõi mắt về nơi rất xa, hai má ửng hồng bởi gió. Bởi niềm vui. Bởi phép màu.

"Đừng khóc, Julianna. Bố muốn bức tranh này đem lại điều gì đó cho con chứ không phải làm con buồn".

Tớ quệt nước mắt đang chảy trên má và khịt mũi một cái thật mạnh. "Con cảm ơn bố", tớ nấc lên. "Con cảm ơn".

Tớ treo bức tranh ngay phía cuối giường. Đó là thứ đầu tiên tớ luôn thấy khi thức giấc mỗi sáng và là thứ cuối cùng tớ rời mắt trước khi đi ngủ mỗi tối. Và giờ khi có thể nhìn ngắm bức tranh mà không khóc nữa, tớ không chỉ thấy được cái cây và hồi tưởng lại cảm giác khi ở trên đó.

Hơn thế, tớ bắt đầu nhìn nhận khác đi về mọi điều xung quanh mình.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 12-10-2014 12:21:18 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5
Cục ta Cục tác!





Tôi sợ trứng. Sợ cả gà nữa. Bạn cứ ôm bụng hay nhe răng cười thoải mái đi, nhưng đúng là tôi sợ thật chứ chẳng đùa tí nào đâu.

Căn nguyên mọi chuyện là từ hồi lớp sáu.

Dính dáng tới mấy quả trứng.

Và cả hai ông mãnh nhà Baker nữa.

Hai ông ấy, một ông tên Matt, một ông tên Mike, nhưng nói thật, đến tận bây giờ tôi cũng chẳng phân biệt nổi ông nào là ông nào. Lúc nào hai ông ấy cũng dính với nhau như sam. Và mặc dù không phải sinh đôi nhưng hai ông ấy giống nhau y xì, từ mặt mũi đến lời ăn tiếng nói. Cả hai đều học cùng lớp với Lynetta nên chắc chắn một trong hai ông bị đúp.

Mà cái "chắc" đó cũng là việc cực chẳng đã thôi chứ tôi nghi là chẳng có thầy cô nào tình nguyện hai năm liền dạy một trong hai ông điên này, nói gì đến cả hai ông một lúc.

Gì thì gì nhưng chính Matt và Mike đã mở mắt cho tôi biết là rắn ăn trứng. ''Ăn trứng" ở đây là ăn sống và nguyên cả vỏ ấy.

Nếu không phải tại Lynetta thì tôi đã không bị ba cái giống bò sát dấm dớ ấy ám ảnh đến vậy. Lynetta chết mê chết mệt một ông tên là Skyler Brown. Ông này sống cách nhà tôi khoảng ba dãy phố. Cứ hở ra là thế nào chị ấy cũng đến nhà ông này xem tập trống. Chậc, ba cái trò bum-bum-xoè đó thì liên quan gì tới tôi, đúng không? Vấn đề là, Skyler và hai ông anh của Juli thành lập một ban nhạc và đặt tên là Tè Rồi Biến.

Lúc mới nghe cái tên đó, mẹ cáu um cả lên. "Không hiểu nổi bố mẹ kiểu gì mà lại cho con cái mình chơi trong cái ban nhạc tên là Tè Rồi Biến cơ chứ? Nghe ghê hết cả người. Không ra thể thống gì cả!"

"Thì mục đích là thế mà mẹ", Lynetta lại còn cố giải thích. "Cần gì có nghĩa đâu. Đấy chỉ là cách chọc tức mấy ông bà già thôi".

"Chị đang nói tôi là mấy ông bà già đó chứ gì, đúng không? Tôi đúng là đang bị chọc cho điên đây!"

Lynetta nhún vai một cái, ra điều là tuỳ mẹ muôn nghĩ thế nào thì nghĩ.

"Đi về phòng ngay! Đi ngay", mẹ gắt lên.

"Vì sao ạ?" Lynetta phản pháo. "Con có nói gì đâu?"

"Con thừa biết là vì sao! Về ngay phòng rồi ngồi mà kiểm điểm lại bản thân cho mẹ!"

Thế là Lynetta lại bị cấm túc. Sau vụ đó, chỉ cần Lynetta về muộn giờ ăn tối hai phút thôi là mẹ sẽ hạ lệnh cho tôi đến nhà Skyler để lôi cổ chị ấy về. Có thể như thế thì làm mất mặt Lynetta thật nhưng mà tôi thì cũng chẳng sung sướng gì cho cam. Hồi đấy tôi mới chỉ học tiểu học còn mấy ông Tè Rồi Biến ấy thì đã lên trung học rồi. Mấy ông ấy lớn đùng lớn đoàng, tóc tai thì rũ rượi, lại còn suốt ngày đánh trống thổi kèn điên loạn cả khu phố. Tôi thì trông đúng kiểu nhi đồng thối tai.

Nhìn chung là tôi rất sợ phải đi xuống nhà Skyler gọi Lynetta về ăn tối. Sợ đến mức mà giọng tôi lúc gọi nghe cứ the thé như chuột kêu ấy.

Lấy tên Tè Rồi Biến được một dạo thì mấy ông ấy lại đổi tên ban nhạc thành Tè Bậy và Những Người Bạn. Đến lúc đó thì mấy ông ấy cũng quen với việc tôi đến để gọi Lynetta về nhà. Và thay vì lừ lừ nhìn tôi như hồi trước, mấy ông ấy bắt đầu giả cái giọng kiêu: “A, cu em đến rồi đó hả, vào đi cưng!", "Bé Bryde có ăn mứt không nào?"

Đấy, đầu cua tai nheo vì sao mà tôi lại chui vào ga-ra nhà Skyler Brown, bị mấy ông mãnh trung học quấy và bắt xem trăn Nam Mỹ nuốt trứng là thế. Vì tôi đã từng chứng kiến con trăn này nuốt nguyên cả con chuột cống lúc lên phòng Matt và Mike rồi nên trò này của mấy ông Tè Bậy cũng phần nào mất đi tính bất ngờ. Thêm nữa, tôi biết thừa là mấy ông ấy muốn lấy trò này để hù tôi nên còn lâu tôi mới để mấy ông ấy hả hê sung sướng.

Nhưng mà cũng chẳng dễ dàng gì vì thực sự là nhìn con trăn nuốt trứng rùng rợn hơn bạn tưởng nhiều. Con trăn banh cái mồm nó ra hết cỡ rồi ngoạp lấy quả trứng và ực! Nhìn rõ được cả quả trứng đang trôi dần xuống trong cổ họng nó.

Nhưng thế đã hết đâu. Sau khi xem màn xực ba quả trứng, Matt-hoặc-Mike quay ra hỏi tôi: "Thế giờ, đố cu Brycie nhé, làm sao mà con trăn nó tiêu hoá được hết ba quả trứng?".

Tôi nhún vai và cố ghìm giọng cho khỏi the thé khi trả lời: "Thì dạ dày nó tiết dịch vị?".

Ông này lắc đầu rồi xì đểu: "Nó cần một cái cây. Hoặc một cái cẳng chân cũng được". Ông ấy nhe nhở nhìn tôi: "Hay cu có muốn hiến tặng chân cu không?".

Tôi hơi lùi lại. Tôi có thể mường tượng ra cảnh con quái vật ấy cố gắng nuốt trọn cả cái chân của tôi để tiêu hoá hết đống trứng. "K-không!".

Ông ấy cười phá lên rồi chỉ vào con trăn đang trườn trườn quanh phòng. "Òi, tiếc thế! Nó lại bò đi chỗ khác rồi. Có khi nó thích cái đàn piano hơn ấy chứ!".

Đàn piano á? Trăn triếc gì mà kinh thế? Làm sao mà chị tôi lại có thể ngồi chung phòng với mấy ông điên loạn này cơ chứ? Tôi nhìn bà chị mình và dù là chị ấy đang cố tỏ ra ''Chị đây chả sợ gì" nhưng tôi biết thừa Lynetta đang sợ chết khiếp con trăn ấy.

Con trăn quấn mình ba vòng dọc theo chân đàn piano rồi Matt-hoặc-Mike giơ tay lên và nói: "Suỵt! Suỵt! Trật tự! Xem đây này!"

Con trăn dừng trườn và bắt đầu uốn éo. Và khi nó uốn éo thì tôi có thể nghe thấy tiếng quả trứng vỡ vụn trong bụng nó. "Eo ôi, kinh quá!", mấy bà con gái rú rít. "Uầy, thật bá đạo!", mấy ông con trai đắc ý tán thưởng. Mike và Matt nhìn nhau, mép xếch lên tận mang tai: "Đã xong bữa tối!"

Tôi cố tỏ ra bình thường về vụ con trăn, nhưng thực sự, tôi bắt đầu nằm mơ ác mộng, rằng con trăn gớm ghiếc ấy nuốt tá lả đủ thứ. Trứng. Chuột. Mèo.

Và cả tôi nữa.

Rồi cơn ác mộng ngoài đời đến thật.

Vào một buổi sáng, khoảng hai tuần sau màn trình diễn trăn rắn ở ga-ra nhà Skyler, Juli xuất hiện trước cửa nhà tôi, và đoán xem con bé cầm cái gì sang? Một hộp trứng. Nó bô lô ba la về lễ Giáng sinh rồi bắt đầu gợi chuyện: "Này Bryce! Cậu có nhớ Abby, Bonnie, Clyde, Dexter không? Cả Eunice và Florence nữa?"

Tôi nhìn nó trân trân. Tôi nhớ mang máng là tên mấy con tuần lộc của ông già Noel khác khác kia.

"Nhớ không... mấy em gà của tớ ấy? Mấy em gà mà tớ đã ấp nở hồi hội chợ khoa học năm ngoái ấy?"

"À à... ừ... quên thế nào được!"

“Tụi nó đang đẻ trứng đấy!" Con bé ấn hộp trứng vào tay tôi. "Đây này, cậu cầm lấy! Tớ tặng cậu và mọi người trong nhà".

"Ô. ừ, cảm ơn nhé", tôi ấp úng đáp và đóng cửa.

Tôi đã từng cực kì thích trứng. Nhất là trứng bác ăn cùng với thịt muối hoặc xúc xích. Nhưng mà kể cả không có vụ trăn nuốt trứng kia thì tôi cũng chẳng cần biết người ta làm gì với mấy quả trứng này vì đằng nào với tôi, chúng cũng chẳng ngon lành gì. Chỉ như rơm như rác thôi. Vì mấy quả trứng này là của mấy con gà nở ra từ mấy quả trứng đã được Juli Baker ấp nở hồi hội chợ khoa học năm lớp năm.

Đúng kiểu Juli nhé. Nó hoàn toàn làm bá chủ cái hội chợ nhưng bạn phải hiểu cho tôi rằng là, công trình khoa học của nó đơn giản chỉ là ngắm trứng nở thành gà thôi. Nói thật chứ, ấp trứng gà thì có cái gì để báo cáo báo mèo cơ chứ? Thì chỉ cần có ánh sáng này, thùng đựng này, vụn báo rải ra này, thế thôi! Thế là xong một công trình khoa học!

Ấy thế mà con bé Juli bôi ra được cả một bản báo cáo dày những một đốt ngón tay, nó còn vẽ bảng biểu, sơ đồ nữa mới sợ chứ - đúng rồi đấy, tôi đang nói là biểu đồ cột, biểu đồ phần trăm, biểu đồ đường thẳng ấy - về hoạt động của trứng. Trứng ấy!

Nó còn cố căn chỉnh được thời gian thế nào đó để trứng nở đúng vào đêm hội chợ. Người thường thì làm sao làm nổi mấy trò đó chứ? Về phần mình, công trình khoa học của tôi là quá trình phun trào của núi lửa, một công trình mà tôi phải lao tâm khổ tứ biết bao lâu mới hoàn thành được. Ấy thế mà ai đến cũng chỉ nhăm nhăm xem gà của Juli chui ra từ quả trứng như thế nào. Tôi cũng bon chen ra chỗ nó để xem, và - hoàn thoàn khách quan nhé, tôi thấy chán phèo. Bọn gà chui ra khỏi trứng khoảng năm giây rồi nằm ì ra đó khoảng năm phút.

Tôi còn nghe được Juli bô lô ba la với ban giám khảo nữa. Con bé có một cái que chỉ - bạn có tin được không? Không phải là bút chì mà là một cái que chỉ kéo ra thu vào được, rất là xịn ấy. Thế là nó hết kéo dài que chỉ ra tận lò ấp trứng rồi lại gõ gõ vào cái biểu đồ này hay cái sơ đồ nọ trong lúc kể lể chuyện nó đã phấn khích thế nào khi theo dõi mấy quả trứng thay đổi trong hai mươi mốt ngày. Chỉ thiếu nước con bé chui luôn vào bộ đồ con gà nữa thôi là khuếch trương vô đối luôn ấy chứ. Mà nói thật, tôi tin chắc là nếu nghĩ ra được trò đấy thì nó làm thật chứ chẳng đùa.

Nhưng mà thôi - tôi kể xong rồi. Thế mới đúng kiểu Juli mà, đúng không? Có điều tự dưng một năm sau, tôi lại đứng đây và ôm một cái hộp toàn trứng gà nuôi. Và trong lúc tôi còn đang cố kìm nén nỗi bực dọc, khó chịu cứ trào lên mỗi khi nghĩ tới cái công trình khoa học ngu xuẩn được gắn ruy-băng xanh giải nhất của con bé đó, thì mẹ từ đâu bước ra và hỏi: "Ai đấy con? Con cầm cái gì thê? Trứng à?"

Chỉ nhìn qua là tôi đoán được ngay mẹ cực kì háo hức muốn làm món trứng bác. "Vâng", tôi trề môi rồi đưa hộp trứng cho mẹ. "Nhưng mà con sẽ ăn ngũ cốc cơ".

Mẹ mở nắp hộp, rồi đóng lại, cười rõ tươi. "Tốt quá!", mẹ hớn hở. "Ai mang trứng sang thế con?"

"Juli ạ. Nó nuôi ạ".

"Nuôi là sao hả con?" "Dạ, thì là gà nhà nó đẻ ấy ạ".

"Ồ", nụ cười trên môi mẹ lịm dần khi mẹ mở lại hộp trứng. "Thật thế à? Mẹ còn chẳng biết là con bé nuôi... gà cơ đấy".

"Mẹ có nhớ không? Mẹ với bố chả đứng cả tiếng đồng hồ xem chúng nó nở hồi hội chợ khoa học năm ngoái còn gì".

"À, nhưng mà làm sao mà mình biết được là mấy quả trứng này... không có... gà ở bên trong bây giờ?"

Tôi nhún vai: "Con nói rồi đấy nhé, con sẽ ăn ngũ cốc".

Cả nhà tôi đều ăn ngũ cốc nhưng ai cũng chỉ nói về trứng thôi. Bố thì nghĩ rằng mấy quả trứng chả có vấn đề gì cả - bố đã từng ăn trứng gà tươi nuôi ở nông trại hồi bố còn nhỏ và bố bảo là trứng đấy ngon tuyệt cú. Nhưng mẹ thì không thể dừng nổi ý nghĩ rằng có khi mẹ sẽ đập ra một con gà chết không chừng, và rồi chẳng mấy chốc cuộc bàn luận lan tới tận vai trò của gà trống - điều mà lý ra tôi và món Cherrios của tôi chẳng dính dáng gì.

Cuối cùng Lynetta lên tiếng: "Giả sử nhà họ có gà trống thì làm gì mà nhà mình lại không biết được cơ chứ? Làm gì mà khu phố này không biết cơ chứ?"

Hừm, cả nhà tôi đều gật gù, cũng đúng. Nhưng rồi mẹ lại chêm vào: "Có khi nhà người ta khâu mỏ nó lại và không cho nó gáy nữa thì sao? Kiểu như có người phẫu thuật thanh quản cho chó để nó sủa bé đi ấy?"

"Gà trống mà bị khâu mỏ ấy hả?", bố thốt lên, giọng điệu đúng kiểu như vừa nghe được chuyện nực cười nhất trần đời. Rồi bố quay sang nhìn mẹ và nhận ra tốt nhất là bố nên đồng tình với ý kiến gà trống bị khâu mỏ của mẹ chứ đừng có dại mà xiên xỏ bông đùa lúc này. "E-hèm", bố hắng giọng, "anh chưa thấy có ai làm thế cả, nhưng cũng có khi nhà đó làm thế thật".

Lynetta nhún vai, nói với mẹ: "Thế thì mẹ chỉ cần đi hỏi nhà họ là xong. Mẹ gọi cho cô Baker rồi hỏi cô ấy đi".

“Ô”, mẹ nói. "Ờ thì... nhưng mẹ không thích tự dưng lại đem chuyện trứng triếc ra hỏi cô ấy. Nghe vô duyên lắm".

"Sao chị không hỏi anh Matt hay Mike ấy?" Tôi đánh tiếng với Lynetta.

Chị quạu mặt nhìn tôi rồi rít lên như còi: "Im ngay”.

"Cái gì? Em có làm cái gì đâu?"

"Mày không thấy là dạo này tao không xuống đó chơi nữa hả, thằng hâm này?"

"Lynetta!", mẹ quát lên. Như thể đây là lần đầu tiên mẹ nghe chị nói năng như thế với tôi.

"Ừ, đúng rồi. Đương nhiên là em con biết chứ. Mà mẹ cũng định hỏi con về chuyện ấy đây. Có chuyện gì không con?"

Lynetta đứng lên, cáu kỉnh xô cái ghế của mình vào bàn. "Cứ làm như là mẹ quan tâm lắm ấy", chị ấy cáu cẳn, rồi tót một mạch về phòng.

"Ôi giời ôi", bố thở hắt ra.

Mẹ cuống lên: "Anh bình tĩnh đã nào", rồi vội chạy theo Lynetta.

Khi mẹ đi rồi, bố quay sang hỏi: "Thế sao con trai không đi hỏi Juli ấy?".

"Bố ơi!".

"Chỉ hỏi tí chứ có cái gì đâu, hả Bryce? Chả mất gì".

"Nhưng mà thế nào nó cũng trả lời tràng giang đại hải đến nửa tiếng mất!"

Bố nhìn tôi tầm một phút rồi nói: "Không có thằng con trai nào sợ con gái cả!"

"Con không sợ nó...”

“Bố nghĩ là con có sợ".

“Bố”

"Thôi nhé, nghiêm túc đi con trai. Bố muốn, con đi hỏi. Chiến thắng nỗi sợ hãi bản thân rồi đi hỏi cho bố mẹ".

"Xem là họ có gà trống hay không ạ?".

"Đúng rồi". Bố đứng dậy, vừa dọn bát, vừa nói: "Giờ bố phải đi làm còn con thì đi học đi. Tối nay bố muốn nghe con báo cáo tình hình".

Hay. Quá hay. Vừa mới mở mắt ra đã thấy đời đen thủi lủi rồi. Nhưng rồi lúc ở trường, tôi kể với thằng Garrett về vụ này và nó chỉ nhún vai nói: "Nhà con bé ở đối diện bên kia đường với nhà mày đúng không?".

"Ừ, thì sao?".

"Thì mày chỉ cần đi qua nhà nó rồi nhìn, qua hàng rào ấy".

"Mày bảo là đi do thám ấy hả?"

"Chính thế".

"Nhưng... làm sao mà tao biết được con nào là con trống cơ chứ?".

"Trống thì... tao chả biết nữa... to hơn này. Mới lị có nhiều lông hơn này".

"Lông ấy hả? Mày bảo tao phải sang đấy và đếm lông à?".

"Không, sao mày ngu thế? Mẹ tao bảo con trai thường thông minh, sáng dạ hơn".

Rồi nó rũ ra cười. "Cơ mà tao không chắc là mày được thế”.

"Xin cám ơn. Mày giúp tao hơi bị được đấy. Cảm động phát kinh lên được".

"Nói cho mày biết, con trống thì sẽ to hơn và có nhiều lông màu sáng hơn. Mày có biết mấy cái lông dài dài ở đằng đuôi không? Thường là chúng sẽ đỏ tươi hơn, hoặc đen hơn, đại loại vậy. Mà bọn gà trống có cái gì đỏ đỏ trông như cao su ở trên đỉnh đầu ấy. Còn cả một ít ở cổ nữa. Tóm lại là mấy cái đồ đỏ cao su ấy mọc ở quanh mặt con trống".

"Thế có nghĩa là giờ tao cần xem lông to với mớ cao su đỏ, đúng không?".


"Thì mày nghĩ mà xem, con gà nào mà chả có cái mớ cao su đỏ đấy. Chỉ có điều là không to lắm thôi".

Mắt tôi đảo như rang lạc, nhìn chằm chằm vào thằng Garrett. Tí nữa thì tôi đã vọt miệng nói rằng: "Thôi bỏ đi, để tao hỏi luôn Juli cho rồi", nhưng thằng này lại bồi thêm: "Thích thì tao đi cùng mày".

"Thật ấy hả?"

"Thật chứ còn gì nữa".

Và thế đấy, bạn thân mến. Đó là căn nguyên vì sao vào hồi ba giờ rưỡi chiều hôm đó tôi đã phải đứng khom lưng trinh thám sân sau nhà Baker cùng thằng Garrett Anderson. Tôi cũng không khoái trò rình rập, lén lút thế này đâu, nhưng chỉ bằng mỗi cách này, tôi mới có thứ mà báo cáo tình hình với bố tôi vào bữa tối.

Bọn tôi đền nơi cũng nhanh. Chuông vừa reo một cái là hai thằng té ra khỏi trường ngay vì theo như tôi tính toán, nếu rảo cẳng bọn tôi có thể điều tra rồi biến trước khi Juli về nhà. Bọn tôi thậm chí còn chẳng thèm bỏ cặp sách xuống, cứ đi thẳng dọc theo ngõ và bắt đầu trinh thám.

Thực ra cũng không cần phải kiễng chân nhòm vào sân vì gần như có thế thấy tất tần tật mọi thứ qua kè hở hàng rào. Nhưng tại thằng Garrett cứ vươn cố lên nhòm nên tôi cũng làm theo, mặc dù tôi biết thừa là thằng Garrett có sống ở khu này đâu mà nó phải ngại - tôi đây này! Cái sân sau nhà con bé Juli đúng là một bãi chiến trường. Phát choáng lên được ấy chứ. Bụi rậm khắp nơi, ở một bên sân có cái chuồng gà làm từ tả pí lù dây rợ và ván gỗ, cái sân thì nào có trồng cỏ đâu, toàn là đất thịt.

Thằng Garrett phát hiện ra con chó nhà Baker đang nằm ngủ ở hiên sau nhà giữa hai cái ghế gập nhìn không thể xập xệ hon. Nó chỉ con chó rồi nói: "Này, mày có nghĩ là nó sẽ gây rắc rối gì không?".

"Bọn mình sẽ không ở đây lâu la đến thế đâu! Mấy con gà dấm dớ đó ở đâu nhỉ?".

"Có khi ở trong chuồng", Garrett đáp, rồi nhặt một hòn đá ném vào đống ván gỗ và dây thép.

Đầu tiên bọn tôi nghe thấy một tràng đập cánh phạch phạch rồi một con le te chạy ra. Nó không chạy tới gần chỗ bọn tôi đang đứng nhưng vẫn có thể nhìn thấy rõ nó có lông vũ và có cái gì đó trông như cao su màu đo đỏ.

"Thế nào mày?", tôi quay sang hỏi Garrett. "Con này có phải là trống không?".

Nó nhún vai. "Tao trông nó đúng là gà".

"Sao mày biết?".

Nó lại nhún vai. "Biết là biết chứ sao!".

Bọn tôi đứng xem nó bới đất chừng một phút, rồi tôi lại quay sang hỏi: "Thế mái thì như thế nào hả mày?"

"Mái ấy hả?".

"Ừ. Có trông này, có gà con này, thì phải có mái chứ. Thế mái thì trông như thế nào?".

"Là một trong mấy con kia kia", nó vừa nói vừa chỉ vào sân nhà Baker.

"Thế con gà thì như thế nào?".

Thằng này quay sang nhìn tôi như thể tôi là thằng điên. "Mày đang lảm nhảm cái gì đấy?". "Con gà ấy! Con gà thì nó như thế nào?".

Garrett lùi lại rồi nói: "Bryce này, mày đang bị đơ rồi. Để tao cho mày xem thế nào là con gà này!". Rồi nó ngồi thụp xuống, nhặt lấy một hòn đá khác, và đúng lúc nó chuẩn bị ném thì cái cửa kéo ở hiên sau nhà mở ra. Juli bước ra ngoài sân.


Bọn tôi đờ cả người. Và trong lúc dòm con bé qua hàng rào, tôi nói: "Nó về nhà từ lúc nào thế nhỉ?".

Garrett làu bàu: "Thì lúc mày đang đơ đơ vì gà qué chứ còn gì". Rồi nó thì thào: "Nhưng mà này, sẽ có trò hay đấy. Nó đang cầm giỏ đúng không? Có khi nó ra ngoài để lấy trứng".

Trước hết là con bé phải ôm ấp cái đống lông bù xù đang nằm ngáy ngoài hiên đã. Nó quỳ xuống, gí mũi vào con chó, rồi gãi, rồi vỗ, rồi ôm, rồi cưng nựng chán chê xong mới tha cho con chó tội nghiệp quay lại ngủ tiếp. Rồi nó lại phải dừng lại và kêu cục cục để dụ con gà bị Garrett dọa lúc nãy. Xong rồi nó bắt đầu hát. Chính thế nó hát. Lấy hết sức bình sinh, nó rống lên: "Đón ánh nắng khi ngày mưa giông. Đón ánh nắng ấm khi trời lạnh. Bạn hiền ơi, tôi đoán bạn sẽ hỏi. Rằng tại sao tôi yêu đời đến thế? Chính nhờ những nàng công chúa bé bỏng. Những cô nàng xinh xẻo của tôi ơi... ". Con bé nhòm vào trong chuồng và bắt đầu kêu cục cục: "Chào em Flo! Chào em Bonnie! Ra ngoài chơi đi nào!"

Cái chuồng gà không đủ to để con bé đi vào. Trông nó giống như cái nhà xí thu nhỏ ấy, nhỏ đến mức ngay cả con chó nhà con bé cũng chẳng chui vào được. Nhưng mà thế thì có làm Juli Baker chùn bước không? Không. Con bé chống tay, quỳ xuống và bắt đầu bò vào bên trong. Mấy con gà đi ra, quang quác và vồ cánh ầm ĩ. Chẳng mấy mà cái sân đầy nhóc gà và chúng tôi thì chỉ dán mắt vào mỗi đôi giày dính đầy phân gà của Juli.

Nhưng thế đã hết đâu. Con bé lại véo von trong chuồng gà: "Tôi chẳng cần vận may hay danh tiếng. Tôi đã có tất cả ở đây, em yêu ơi, ai cũng thấy. Bạn hiền ơi, tôi đoán bạn sẽ hỏi. Rằng tại sao tôi yêu đời đến thế? Chính nhờ những nàng công chúa bé bỏng. Những cô nàng xinh xẻo của tôi ơi... "

Lúc này tôi chẳng để tâm lắm tới ba cái chuyện kiểm tra lông lá hay thứ giống cao su màu đo đỏ của lũ gà. Tôi chỉ chăm chăm nhìn vào phần đế giày của Juli Baker và băn khoăn tự hỏi sao trên đời này lại có người như nó, thích chui vào chuồng gà để giày bị đính choe choét phân gà.

Thằng Garrett kéo tôi về với thực tại. "Tất cả đều là gà thôi", nó kết luận chắc nịch. "Mày cứ nhìn mà xem".

Tôi không săm soi đôi giày của Judi nữa mà bắt đầu quay lại săm soi lũ gà. Việc đầu tiên mà tôi làm chính là đếm một-hai-ba-bốn-năm-sáu. Đủ hết. Thì đấy, làm gì có ai lại không nhớ chuyện con bé ấp nở được sáu quả trứng? Đấy là kỷ lục của mọi thời đại ở trường - tất cả không trừ một ai trong hạt này đều nghe về chuyện đó.

Nhưng thực tình là tôi không biết phải làm thế nào để hỏi lại thằng Garrett điều mà nó vừa nói. Thì đấy, tất cả đều là lũ gà, nhưng như thế thì nghĩa là gì chứ? Tôi không muốn lại bị thằng này nói là đơ nhưng quả thực là tôi vẫn chẳng hiểu gì cả. Cuối cùng tôi đành hỏi nó: "Mày nói là không có trống hả?"

"Truẩn không cần trỉnh".

''Sao mày biết?"

Nó nhún vai. "Trống thì phải khệnh".

"Chính thế. Mà mày nhìn xem - chẳng có con nào có lông dài cả. Mà cũng chẳng có nhiều cái đo đỏ ấy". Nó gật gù. "Chuẩn luôn. Tất cả chúng nó đều là gà".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 27-10-2014 23:40:52 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5 (tt)
Cục ta cục tác!






Tối đó bố hỏi ngay tình hình. "Thế nào con trai, hoàn thành nhiệm vụ chứ hả?", bố vừa hỏi vừa ngoáy dĩa vào đĩa mì fettucdne* đầy ú.

*Fettuccme (trong tiếng Ý có nghĩa là "cái nơ nhỏ"): một loại mi Ý, sợi dẹt và dày.

Tôi cũng tấn công đĩa mì của mình và nhe răng cười với bố. "Dạ", tôi ngồi thẳng lưng để trả lời. "Tất cả đều là gà ạ".

Cái dĩa của bố bỗng đứng khựng lại. "Và... ?"

Tôi biết ngay là có vấn đề nhưng không thể biết là cái gì. Tôi cố nhe răng và hỏi lại:

"Và gì ạ?"

Bố đặt dĩa xuống rồi nhìn tôi chằm chằm. "Con bé nó nói thế à? Tất cả đều là gà?"

"Ơ, cũng không hẳn ạ".

"Thế chính xác là nó nói thế nào?"

"Ờ... nó chẳng nói chính xác cái gì đâu ạ".

"Tức là sao?"

"Tức là con tới đó và tự xem xét ạ". Tôi đã cố nói để nghe cho giống như tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, nhưng bố chẳng thèm tin.

"Con không hỏi nó à?"

"Con không cần ấy chứ. Thằng Garrett biết rất nhiều về gà, nên bọn con tới nhà Juli và tự tìm hiểu thôi".

Lúc đó, Lynetta vừa quay lại bàn ăn sau khi tráng rửa sạch sẽ chỗ sốt Romano khỏi mấy cọng mì trong đĩa của mình. Vừa với lọ muối, chị ấy vừa nhăn mặt nhìn tôi:

"Mày đúng là gà"

"Lynetta!", mẹ quát. "Ăn nói nhẹ nhàng với em chứ con".

Lynetta ngừng rắc muối. "Mẹ ơi, nó đi rình trộm. Mẹ có biết không đấy? Nó tới nhà người ta và nhòm qua hàng rào ấy. Hay là mẹ cũng thấy thế là không vấn đề gì?"

Mẹ quay sang tôi. "Bryce, có đúng thế không?"

Ai cũng nhìn tôi chằm chằm, và tôi thấy là tôi cần phải giữ thể diện. "Thế thì có làm sao chứ ạ? Bố bảo con đi tìm hiểu, về gà của nó, và con đã đi còn gì!"

"Cục ta cục tác!". Lynetta thì thào.

Bố vẫn chưa thèm nhấc dĩa lên ăn tiếp. "Và con đi tìm hiểu được", bố nói, cứ như thể đếm từng chữ một, "rằng là tất cả đều là... gà".

"Vâng ạ".

Bố thở dài, rồi đưa miếng mì lên miệng, và trệu trạo nhai, chậm ơi là chậm.

Tôi có cảm giác như mình đang bị chìm nghỉm nhưng lại chẳng thể hiểu nổi vì sao. Và thế là tôi cố gắng chơi bài an toàn: "Cả nhà cứ tự nhiên mà ăn trứng, nhưng con sê không động tới đâu, nên đừng có bảo con ăn".

Mẹ cứ hết nhìn bố rồi lại nhìn tôi lúc ăn salad, và tôi có thể thấy rõ là mẹ đang đợi xem bố xử lý vụ trinh thám nhà hàng xóm láng giềng của tôi như thế nào. Nhưng vì bố chẳng nói gì cả nên mẹ đành hắng giọng và nói: ''Vì sao con không ăn?"

"Vì có... thì có... Con chả biết nói thế nào cho nó đỡ thô bỉ nữa".

"Cứ nói đi xem nào", bố giật giọng.

"Thi, bố mẹ biết không, toàn là phân phiếc ấy".

"Èo, kinh thế". Lynetta kêu lên rồi quăng luôn cái dĩa xuống. Ý con là phân gà ấy hả?"

"Vâng. Sân sau nhà nó còn chả có cả cỏ nữa cơ. Toàn là đất điếc các thứ với lại, đầy... phân gà. Mấy con gà toàn giẫm vào, xong còn mổ với bới móc trong đống đấy, với cả...".

"Gớm quá đi mất!", Lynetta rú lên.

"Thật mà!"

Lynetta đứng bật dậy và hỏi: "Mẹ nghĩ là nghe xong cái thứ đó mà con vẫn còn ăn được chắc?", và rồi lao thẳng ra khỏi phòng ăn.

"Lynetta! Con phải ăn cái gì đi đã chứ", mẹ gọi với theo chị ấy.

''Không, con không ăn đâu!", chị gào lại; rồi một giây sau, chị ấy thò đầu vào phòng ăn và liếng thoắng: "Và mẹ cũng đừng có mơ là con sẽ ăn bất kỳ quả trứng nào trong cái đống trứng đấy. Mẹ đã nghe về khuẩn salmonella* chưa đấy?"

*Salmonella: loại vi khuẩn có thế sống trong đường ruột của người và động vật, và thường là nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy.

Lúc Lynetta đi rồi, mẹ quay ra hỏi bố: "Salmonella? Anh bảo, mấy quả trứng này có bị nhiễm khuẩn salmonella không?"

"Anh không cần biết, Patsy. Anh chỉ cần biết con trai minh là một thằng chết nhát".

"Thằng chết nhát á? Thôi mà Rick. Bryce đâu có thế. Nó là đứa giỏi sợ."

"Giỏi sợ con gái".

"Con đã nói với bố là con không sợ nó. Tại con bé nó cứ làm phiền con đấy chứ!"

"Thế vì sao lại thế?"

"Bố biết thừa còn gì! Nó cũng làm phiền bố còn gì. Việc gì nó chả quá tả!"

“Bryce, bố đã nói là con phải vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân, thế nhưng tất cả những gì con làm là đầu hàng. Nếu con thích con bé thì đã là một nhé. Thích thì đâm ra ngại. Nhưng như thế này thì đúng là quá xấu hổ. Ừ thì nó nói nhiều, ừ thì nó nhiệt tình thái quá trong mọi chuyện. Nhưng như thế thì sao? Con cứ đi vào đường hoàng, rồi đi ra. Thà con cứ đứng trước mặt nó mà khóc rống lên còn đỡ".

"Anh Rick..mẹ nói. "Anh bình tĩnh lại xem nào. Con nó cũng tìm được câu trả lời cho mấy thứ anh bảo nó hỏi còn gì".

"Nó có tìm được cái gì đâu!"

''Sao anh lại nói thế?"

"Nó nói với anh tất cả đều là gà! Thì đương nhiên, không là gà thì là con gì? Anh là anh hỏi nó có bao nhiêu con mái, bao nhiêu con trống cơ mà!"

Tí nữa thì tôi nghe não kêu đánh "tách", và nói thật, tôi thấy mình đúng là thằng đần. Chẳng trách mà bố cáu tiết lên với tôi. Tôi đúng là thằng ngu thật! Tất cả đều là gà... chả thế thì là gì chứ! Thằng Garrett cứ ra vẻ nó là chuyên gia về gà qué, thế mà nó chả biết cái quái gì sất! Sao tôi lại nghe nó cơ chứ?

Nhưng giờ thì muộn rồi. Bố đã nghĩ tôi là một thằng chết nhát, và để tôi có thể hết nhát, bố đã quyết định là tôi sẽ mang hộp trứng sang nhà Baker và nói với nhà đấy rằng nhà tôi không ăn trứng, hoặc là nhà tôi bị dị ứng trứng, hoặc là bất cứ lý do nào.

Thế là mẹ xen vào: ''Anh dạy con cái kiểu gì thế? Toàn là nói dối cả. Nếu mà con nó đem trả lại trứng cho người ta thì cứ nói thật có phải hơn không?"

"Cái gì? Nói thật là em sợ khuẩn salmonella ấy hả?"

"Mình em chắc? Thế anh thì không sợ à?"

"Patsy, đấy không phải là vần đề. Vấn đề là, anh không muốn có một thằng con chết nhát!"

"Thế anh dạy nó nói dối ư?"

"Thế thì cứ vứt hết đi. Nhưng bố nói cho con biết, từ giờ trở đi con phải không được sợ con bé ghê gớm ấy nữa, nghe rõ chưa?"

"Rõ ạ".

"Rồi, thế thì được".

Tôi thoát nạn được khoảng tám ngày. Sau đấy con bé lại đến, đúng bảy giờ sáng, nhưng trông nó thật hớn hở phấn khích quá đỗi, mà tôi thì chưa đủ tỉnh táo để xử lý phần tử quá khích như thế. Kết quả là con bé ấy đã ấn được vào tay tôi một hộp trứng nữa, và tôi đã phải vứt cái hộp đó vào thùng rác trước khi bố xuống ăn sáng.

Việc này cứ tiếp diễn như vậy trong hai năm. Hai năm! Đến mức, nó trở thành một phần trong lịch trình buổi sáng của tôi. Tôi sẽ phải canh chừng Juli để còn kịp mở cửa trước khi nó có cơ hội gõ cửa hay bấm chuông, rồi sau đó tôi sẽ vứt trứng vào thùng rác trước khi bố xuống nhà.

Thế rồi cũng đến cái ngày tôi bị lật tẩy. Thực ra có một dạo Juli không mấy khi sang đưa trứng. Đấy là hồi cái cây tiêu huyền bị chặt. Nhưng tự nhiên vào một buổi sáng, con bé lại mang trứng sang nhà tôi. Như mọi lần, tôi nhận trứng và đem đi vứt. Nhưng cái thùng rác đã đầy hự nên không tài nào nhét thêm cái hộp vào. Tôi đành để cái hộp lên chốc thùng rác và đem ra ngoài đổ.

Đoán xem ai đang đứng như trời trồng ở hiên nhà tôi?

Con bé Trứng Gà.

Tí nữa thì tôi làm tung tóe hết cả rác ra hiên nhà. ''Sao... cậu vẫn ở đây là gì thế?", tôi lắp bắp hỏi nó.

"Tớ... tớ không rõ. Tớ chỉ đang... nghĩ thôi".

"Về cái gì?", tôi cuống quýt. Tôi cần làm cho con bé bị phân tán. Làm nó không chủ ý vào cái thùng rác trước khi nó kịp nhìn thấy thứ mà tôi để ở trên chốc thùng. Con bé quay đi ngượng nghịu. Juli Baker mà biết ngượng ấy hả? Tôi đã nghĩ là không thể nào ấy chứ.

Sao cũng được. Đây chính là cơ hội vàng để tôi vớ lấy tờ tạp chí mềm oặt phủ lên trên hộp trứng đang nằm hớ hênh. Rồi tôi cố gắng phi thật nhanh tới thùng rác trong sân nhưng con bé đã đứng chắn trưóc mặt tôi. Thề luôn. Nó nhảy xổ ra và dang rộng hai tay như thể đang đứng chắn khung thành vậy.

"Sao thế hả Bryce?", con bé hỏi. 'Trứng bị vỡ à?"

Quá tuyệt. Sao tôi không nghĩ ra cái lý do đó từ trước nhỉ? "Ừ”, tôi nói với nó. "Tớ rất rất xin lỗi cậu". Nhưng thực ra tôi đang nhủ thầm trong đầu rằng: "Chúa ơi, con xin Chúa đấy. Cho con đi ra chỗ thùng rác đi mà".

Chắc chắn Chúa đang ngủ nên con bé Juli, rất nhanh gọn, đã lôi được hộp trứng quý báu của nó ra khỏi đống rác, và đương nhiên nó có thể thấy ngay là trứng không hề bị vỡ. Thậm chí còn chẳng có một vết nứt nữa ấy chứ.

Nó đứng chết lặng với hộp trứng trên tay trong khi tôi đi đổ chỗ rác còn lại. "Sao cậu lại vứt trứng đi?", con bé hỏi nhưng giọng nó nghe chẳng giống giọng Juli Baker tẹo nào. Bé xíu. Và run rẩy.

Và thế là tôi nói rằng nhà tôi sợ bị ngộ độc khuẩn salmonella vì sân vườn nhà nó là một đống lộn xộn, và rằng cả nhà tôi chỉ cố gắng để không làm tổn thương nó. Tôi nói điều đó với nó như thể nhà tôi là kẻ làm đúng còn nó mới là người làm sai, nhưng quả tình tôi thấy mình đúng là một thằng khốn nạn. Một thằng gà thôn khốn nạn.

Rồi con bé nói với tôi rằng, có mấy người hàng xóm đang mua trứng của nó. Mua đấy nhé. Và trong khi tôi còn đang choáng váng với mẩu tin khó lường đó thi nó nhầm tính vèo vèo trong đầu. "Cậu có biết là tôi đã lỗ những một trăm đô-la khi cho không nhà cậu trứng không?" Rồi nó chạy vọt qua phố, giàn giụa nước mắt.

Tôi cứ cố tự nhủ rằng tôi đâu có xin xỏ gì nó mấy quả trứng đâu - tôi đâu có nói là nhà tôi muốn hay cần hay thích thú gì mấy quả trứng đâu - nhưng sự thực là tôi chưa bao giờ thấy Juli khóc cả. Kể cả khi nó bị gãy tay trong giờ thể dục, kể cả khi nó bị trêu chọc ở trường hay bị hai ông anh bỏ bom. Ngay cả khi cây tiêu huyền bị chặt. Tôi chắc chắn là lúc đó nó có khóc, nhưng tôi không nhìn thấy tận mắt. Trong mắt tôi, Juli Baker là một đứa cứng rắn đến mức không bao giờ biết khóc.

Tôi xuống phòng để soạn sách và đi học mà lòng cảm tưởng như mình đúng là thằng khốn nạn nhất trần đời vừa rơi xuống trái đất. Suốt hai năm trời, tôi đã lén lút đi vứt trứng, giấu diếm con bé, giấu diếm cả bố nữa - mà tôi làm như thế để làm gì chứ? Tại sao tôi lại không thể đứng lên và nói rằng:

''Không, tớ không muốn, không cần, không thích trứng đâu. Cậu đem đi mà cho cái con trăn ấy". Nói cái gì cũng được!

Có thật là tôi sợ làm tổn thương con bé không nhỉ?

Hay đúng hơn là tôi sợ nó?




Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
Đăng lúc 13-5-2016 22:23:58 | Chỉ xem của tác giả
THÔNG BÁO


Xin chào bạn!

Trước tiên, cám ơn sự đóng góp của bạn dành cho box.

Hiện nay, box đang tiến hành sắp xếp lại để gọn gàng hơn.

Trong quá trình sắp xếp, bọn mình thấy bạn đã ngừng thread hơn 2 tháng và không có bất cứ thông báo nào đến độc giả.

Vậy nên 5 ngày sau thông báo này, nếu vẫn không có chương mới, bọn mình sẽ tiến hành các biện pháp xử lý thích hợp.

Mong bạn hiểu và thông cảm!

Thân mến!

Mod
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
Đăng lúc 16-6-2016 20:54:48 | Chỉ xem của tác giả
Vì tình yêu với Flipped mà khi đổi máy tính 3 lần vẫn còn giữ, vì nét gần gũi trong văn phong của tác giả với Mark Twain, mình đăng nốt truyện theo bạn gerichilli.


Chương 6. Những Cô Nàng Xinh Xẻo




Kể từ khi cây tiêu huyền bị chặt, mọi thứ đối với tớ dường như cũng theo đó mà đổ vỡ hết thảy. Champ chết. Và rồi tớ phát hiện ra chuyện mấy quả trứng. Champ đúng là đã già rồi nên nó ra đi cũng là lẽ thường tình. Và mặc dù giờ vẫn rất nhớ nó nhưng tớ thấy đối diện với việc Champ chết còn dễ dàng hơn gấp nhiều lần khi đối diện với sự thật về mấy quả trứng. Đến giờ tớ vẫn không thể tin nổi chuyện đó.

Người ta thường cứ băn khoăn chuyện trứng có trước hay gà có trước. Với nhà tớ thì trứng có trước, nhưng con chó còn có trước cả trứng và gà. Một tối nọ hồi tớ khoảng sáu tuổi, bố đi làm về và chở theo một con chó trưởng thành ở thùng xe. Chắc ai đó đã đâm vào nó ở giữa ngã tư và bố đã phải dừng lại để xem nó bị thương có nặng không. Rồi bố nhận ra là con vật tội nghiệp ấy gầy như cái giẻ vắt vai và không có bất cứ vật làm dấu hay tên tuổi gì. “Đói khát và hoàn toàn mất phương hướng”, bố nói với mẹ. “Em có hình dung nổi có người nào lại nỡ bỏ rơi một chú chó đáng yêu như thế không cơ chứ?”

Cả nhà tớ xúm lại ở ngoài thềm và tớ đã không thể kìm nổi. Một con chó! Một con chó nhắng nhít và quấn quýt không rời! Giờ thì tớ biết là Champ không phải thuộc hàng đẹp mã, nhưng khi bạn sáu tuổi thì con chó nào cũng thế - dù bẩn thỉu, nhếch nhác thế nào – đều là một con chó đẹp lung linh và cực đáng ôm ấp.

Hai ông anh tớ cũng khoái con chó ra trò nhưng từ cái cách mẹ cau mày lại như bị cấu ấy, tớ đã biết ngay mẹ đang nghĩ gì? Bỏ rơi con chó này ư? Tớ biết ngay mà. Tớ có thể thấy rõ mồn một luôn. Nhưng mẹ nói điều đó ra nhẹ bẫng: “Nhà mình không có chỗ cho con chó này đâu”.

“Trina à”, bố nói, “đây không phải là chuyện của nhà tôi, của nhà anh. Đây là vấn đề thuộc về lòng trắc ẩn”.

“Anh không định nói với em là anh sẽ cho nó… làm thú nuôi trong nhà đấy chứ?”

“Anh không định thế”.

“À, thế thì anh định thế nào?”

“Thì cho nó ăn một bữa tử tế, tắm rửa cho nó… rồi có lẽ là đăng quảng cáo tìm nhà nhận nuôi nó”.

Mẹ nheo nheo mắt nhìn bố. “Không có cái kiểu có lẽ ở đây đâu nhé”.

Hai ông anh tớ léo nhéo: “Nhà mình không nuôi nó ạ?”

“Đúng thế”.

“Nhưng mà mẹ ơi-iiii”, miệng hai ông ấy ngoạc ra.

“Miễn bình luận thêm gì nữa”, mẹ chốt hạ. “Nó sẽ được tắm, được ăn và được đăng quảng cáo trên báo”.

Bố khoác vai Matt và Mike. “Thôi các con, nhất định một ngày nào đấy nhà mình sẽ nuôi chó”.

Mặc dù lúc đó đã đi vào trong nhà nhưng mẹ vẫn nói vọng lại: “Đợi đến khi nào hai đứa học được cách ăn ở gọn gàng đã!”.

Đến cuối tuần thì con chó được đặt tên là Champ. Đến cuối tuần sau thì nó được chuyển từ vườn sau nhà vào tới khu vực bếp. Và không lâu sau đó, nó được chuyển hẳn vào nhà. Có vẻ như chẳng ai thèm một con chó trưởng thành có tiếng sủa thật rộn ràng, bắng nhắng. Chẳng một ai ngoại trừ bốn trên năm thành viên nhà Baker.

Rồi mẹ bắt đầu ngửi thấy mùi lạ. Một mùi bí ẩn cứ thoang thoảng đâu đó trong nhà. Ai cũng gật đầu đồng tình là có ngửi thấy mùi nhưng khi mẹ quả quyết là mùi tỏa ra từ Champ thì ai cũng lắc đầu phản đối. Mẹ bắt chúng tớ tắm rửa cho nó suốt ngày thì làm sao là mùi của nó được chứ. Chúng tớ đứa nào đứa nấy gí mũi vào hít ngửi Champ và nó thơm phưng phức luôn.

Cá nhân tớ thì ngờ rằng chính Matt với Mike mới là người không tắm rửa sạch sẽ nhưng tớ thèm vào mà lại gần để ngửi hai ông ấy. Và vì cả nhà chia thành hai phe xem ai là thủ phạm nên mùi lạ được đặt bí danh là “Kỳ Hương”. Bữa ăn nào cũng chỉ xoay quanh vụ “Kỳ Hương” thôi. Trong khi hai anh tớ hứng chí vô cùng với vụ kỳ án này thì mẹ lại chẳng thấy có gì là hay ho cả.

Rồi một ngày mẹ đã phá được án. Và có lẽ là mẹ đã đập nứt sọ Champ luôn không chừng nếu bố không về giải cứu kịp thời và xua nó ra ngoài sân.

Mẹ gào ầm lên. “Em đã nói với anh là nó rồi còn gì. Kỳ Hương của cái con tè rồi biến ấy chứ của ai? Anh thấy chưa? Anh thấy chưa? Nó vừa mới lại phun vòi rồng vào góc bàn kia kìa!”

Bố vớ lấy cuộn giấy vệ sinh rồi chạy vội ra chỗ Champ vừa đứng, và hỏi: “Đâu? Ở đâu nào?”

Cả ba giọt đang chảy dọc theo chân bàn. “Đó”, mẹ vừa nói vừa run run chỉ vào đống nước. “Ở đó chứ ở đâu!”

Bố lau chỗ nước tiểu, rồi kiểm tra cả thảm và nói: “Có xíu xíu thôi mà em”.

“Vâng, chính thế!”, mẹ hùng dũng chống tay vào hông. “Chính thế nên em không tài nào mà phát hiện ra. Từ giờ trở đi, cho con chó ở ngoài. Anh nghe rõ chưa? Nó không được phép bén mảng vào nhà nữa!”

“Thế ga-ra thì sao ạ?”. Tớ rón rén hỏi. “Nó ngủ trong đó được không ạ?”

“Để rồi nó lại phun vòi vào hết thảy mọi thứ ngoài đó ấy hả? Không được!”

Mike với Matt thì nhìn nhau, mép xếch tận mang tai. “Tè Rồi Biến! Tên này đặt cho ban nhạc mình thì quá chuẩn!”

“Ố-dề! Quá đỉnh!”

“Ban?”, mẹ hỏi lại. “Từ từ đã, ban gì hả mấy đứa?”. Nhưng hai ông ấy đã bay vèo về phòng, bàn tán loạn xạ về lô-gô cho ban nhạc.
Bố với tớ mất cả ngày để hít ngửi và thu dọn tang chứng. Bố đi trước, xịt dung dịch ammoniac; tớ theo sau xịt Lysol*. Trước đó thì cả bố và tớ đã cố lôi cả hai ông anh tớ xuống làm cùng nhưng thay vì làm, hai ông ấy quay ra chiến nhau bằng bình xịt. Kết quả là cả hai bị tống lên trên phòng và nhốt lại. Nhưng dĩ nhiên, có hề gì với hai ông ấy đâu.

Và thế là Champ phải ra ngoài ở, và có lẽ nó sẽ là vật nuôi duy nhất của nhà tớ nếu không có hội chợ khoa học năm tớ học lớp năm.
Ai cũng có ý tưởng hay tuyệt cứ nhưng tớ thì chẳng nghĩ ra được cái gì cả. Rồi cô giáo của bọn tớ, cô Bruveck, kéo tớ ra và nói rằng một người bạn của cô đang nuôi gà, nên cô có thể xin giúp tớ một quả trứng đã được thụ tinh để tớ làm công trình khoa học.

“Nhưng mà em chẳng biết gì về ấp trứng cả”, tớ nói với cô thế.

Cô cười và choàng vai tớ. “Em không cần phải là chuyên gia về mọi thứ ngay, Juli à. Mục địch ở đây là học được điều gì đó mới mẻ”.
“Nhưng lỡ mà nó chết thì sao ạ?”

“Thì nó chết thôi. Nếu em lo về điểm số thì em cứ viết công trình của em thật khoa học và em vẫn được điểm A cơ mà”.

Điểm A ấy hả? Gây ra cái chết cho một con gà – đấy mới là chuyện mà tớ lo kia. Tự dưng tớ lại thấy làm mô hình núi lửa hay tự chế ra cao su tổng hợp hay minh họa các ứng dụng khoa học của tỉ số truyền động có khi lại hay hơn hẳn ấy chứ.

Nhưng đạn đã lên nòng, và cô Brubeck không muốn nói thêm gì nhiều. Cô lôi cuốn Cẩm Nang Nuôi Gà Cho Người Không Chuyên từ trên giá xuống, nói một lèo: “Em đọc phần ấp nhân tạo và tối nay tự lắp đặt đi nhé. Mai cô sẽ mang trứng đến cho em.

“Nhưng mà…”.

“Không việc gì phải lo lắng thế, Juli à”, cô sốt sắng. “Trường mình làm công trình này suốt ấy mà, năm nào cũng là một trong những công trình tốt nhất ở hội chợ”.

Tớ vẫn tiếp tục ngừng ngập “Nhưng…” thì cô đã đi mất tiêu, chắc là tiếp tục đi chấm dứt cuộc chiến do dự về công trình khoa học của một tên học sinh khác.

Tối đó, tớ thấy lo lắng hơn bao giờ hết. Tớ đã đọc đi đọc lại chương viết về ấp trứng ít nhất là bốn lần, nhưng vẫn băn khoăn không biết nên bắt đầu từ đâu. Tớ đào đâu ra bể nuôi cá cũ? Tớ đào đâu ra nhiệt kế lò ấp? Chẳng kẽ lại lấy cái máy làm đồ rán giòn ra dùng?
Lại còn phải kiểm soát cả độ ẩm nữa chứ, nếu không thì gà con sẽ gặp phải vô thiên lủng những thứ tồi tệ. Nếu khô quá thì gà sẽ không mổ thủng được vỏ trứng để chui ra. Nếu ẩm quá thì gà sẽ chết vì bệnh viêm rốn. Mà có thứ bệnh tên là “viêm rốn gà con”?!
Mẹ, hết sức thấu tình đạt lý, đã bảo tớ nói thẳng với cô Brubeck rằng tớ không thể ấp trứng được. “Hay là con trồng đậu vậy?”, mẹ gợi ý.

Bố thì khác. Bố hiểu rằng việc từ chối làm bài tập mà giáo viên giao là điều không tưởng, và vì thé nên bố hứa sẽ giúp tớ. “Làm một cái lò ấp trứng thì không khó lắm đâu con gái. Bố con mình sẽ làm sao khi ăn tối xong”.

Không hiểu sao mà bố biết đích xác mọi thứ trong ga-ra là một trong những điều kỳ thú nhất vũ trụ này. Tuy nhiên bố đã bật mí cho tớ chuyện bố đã biết về lò ấp trứng như thế nào. Bố vừa khoan một lỗ chừng hơn hai xăng-ti-mét rưỡi trên miếng kim loại cũ hiệu Plexiglas vừa toét miệng cười: “Bố cũng đã ấp nở một con vịt hồi bố học trung học. Công trình cho hội chợ khoa học”.

“Vịt ấy ạ?”.

“Ừ, nhưng gia cầm nào cũng giống nhau hết ấy mà con. Chỉ cần giữ nhiệt độ ổn định và độ ẩm chuẩn, trở quả trứng vài lần một ngày, và chỉ sau vài tuần là con sẽ có một tên bám đuôi tí hon”.

Bố đưa tớ một cái bóng đèn và một đoạn dây kéo dài có mắc ổ cắm điện. “Giờ con căng cái dây này xuyên qua cái lỗ bố vừa mới đục. Còn bố sẽ đi tìm mấy cái nhiệt kế”.

“Mấy cái cơ ạ? Mình cần nhiều hơn một cơ ạ?”

“Mình phải làm một cái ẩm kế con à”.

“Ẩm kế?”

“Để kiểm tra độ ẩm trong lò ấp chứ. Chỉ là cái nhiệt kế gắn thêm bóng đèn có quấn vải màn ẩm thôi mà con”.

Tớ nhoẻn cười. “Thế là gà con sẽ không bị bệnh viêm rốn nữa đúng không ạ?”

Bố cũng nhoẻn miệng cười đáp. “Chính xác!”

Đến chiều hôm sau tớ không chỉ có một mà có tới sau quả trứng gà được ấp ở 39 độ C. “Hầu hết là không nở được đâu Juli ạ”. Cô Brubeck nói với tớ. “Hy vọng may ra được một quả. Trước giờ kỷ lục là được ba quả. Chủ yếu là chấm điểm phần báo cáo. Hãy thử làm nhà khoa học xem thế nào nhé. Chúc em may mắn”. Và cô đi luôn sau khi nói có thế.

Báo cáo? Về cái gì chứ? Tớ phải trở trứng ba lần một ngày và điều chỉnh nhiệt độ với độ ẩm, nhưng ngoài mấy việc đó ra thì còn gì phải làm nữa?

Tối đó, bố ra ngoài ga-ra, mang theo một cái ống bằng bìa cứng và một cái đèn pin. Bố dán hai thứ vào với nhau sao cho ánh sáng rọi thẳng từ ống ra. “Giờ để bố chỉ cho con xem cách soi trứng nhé”, bố nói, rồi tắt đèn trong ga-ra.

Tớ có thấy phần soi trứng trong quyển sách của cô Brubeck rồi nhưng chưa đọc qua. “Vì sao lại gọi thế ạ?”, tớ hỏi bố. “Mà làm thế để làm gì ạ?”

“Trước kia người ta dùng nến để soi trứng chứ không dùng đèn sợi đốt”. Bố để một quả trứng lên trên cái ống. “Ánh đèn sẽ cho con nhìn xuyên qua được vỏ trứng và con sẽ thấy phôi thai phát triển như thế nào. Và nếu cần thì con có thể loại ra những thai nào yếu”.

“Giết chúng ạ?”

“Loại ra chứ. Bỏ những phôi phát triển không bình thường đi”.

“Nhưng… chẳng phải thế có nghĩa là giết chúng còn gì ạ?”

Bố nhìn tớ. “Nếu để lại quả trứng mà lý ả phải loại bỏ thì còn có thể đem lại hậu quả nghiêm trọng cho những quả trứng khỏe con à”.

“Vì sao ạ? Không phải là trứng chỉ nở ra là xong thôi ạ?”

Bố quay lại để soi đèn vào quả trứng. “Nó có thể nổ tung và lây vi khuẩn sang các quả trứng khác”.

Nổ tung! Nào thì viêm rốn gà con, rồi trứng nổ, rồi thì loại bỏ, các công trình khoa học này đúng là tệ hại bậc nhất luôn! Rồi bố nói: “Nhìn này, Julianna. Con có thể thấy được phôi thai đấy”. Bố giữ cái đèn pin và quả trứng để tớ có thể nhìn rõ.

Tớ ghé mắt nhìn qua ống con bố thì hỏi: “Con có thấy cái chấm đen đen không? Ở giữa ấy? Mà có mấy đường mạch nối vào ấy?”

“Có phải cái chấm trông như hạt đậu không ạ?”

“Chính nó đấy!”

Đột nhiên cảm giác trở nên rất thật. Quả trứng này đang sống. Tớ háo hức soi hết chỗ trứng còn lại. Quả nào cũng có một hạt đỗ bé tí teo ở bên trong! Chắc chắn là chúng phải sống. Chắc chắn là chúng phải nở được!

“Bố ơi, con mang lò ấp vào trong nhà được không ạ? Ở ngoài này buổi đem chắc sẽ lạnh lắm. Bố nhé!”

“Bố cũng đang định bảo con thế. Con mở cửa đi. Để bố bê cái lò vào cho con”.

Hai tuần sau, tớ hoàn toàn đắm đuối với mấy con gà. Tớ đánh dấu A, B, C, D, E và F lên từng quả trứng nhưng từ trước đó rất lâu, tất cả đám trứng đều được đặt tên cả rồi: Abby, Bonnie, Clyde, Dexter, Eunice và Florence. Hàng ngày tớ đều cân trứng, soi trứng và trở trứng. Tớ thậm chí còn nghĩ rằng, có khi nên cho mấy quả trứng nghe tiếng cục cục cục gà mẹ gọi gà con. Thế là tớ cũng cục cục cục được một dạo. Nhưng quả tình là mệt chết đi được! Tớ quyết định chuyển sang ư ử theo nhạc để phục vụ đám trứng gà. Rồi tớ cứ tự nhiên ư ử miết như vậy từ lúc nào không hay. Đơn giản thôi, bởi vì cứ ở bên đám trứng gà là tớ thấy vui khủng khiếp.

Tớ nghiền ngẫm từ đầu chí cuối quyển Cẩm Nang Nuôi Gà Cho Người Không Chuyên những hai lần. Rồi tớ vẽ biểu đồ về các giai đoạn phát triển của phôi thai. Tớ làm một tấm áp-phích hình con gà to thật là to. Tớ vẽ cả biểu đồ thay đổi nhiệt độ và độ ẩm của từng ngày và một biểu đồ đường thẳng ghi lại quá trình giảm cân của từng quả trứng. Nhìn từ ngoài vào trông mấy quả trứng đó chán òm, nhưng tớ biết rõ những gì đang xảy ra ở bên trong!

Rồi hai ngày trước khi hội chợ khoa học bắt đầu, khi tớ đang soi Bonnie thì nhận ra điều khác lạ. Tớ gọi bố vào phòng và nói: “Bố ơi, bố nhìn xem! Có phải là quả tim đang đập không?!

Bố nghiên cứu quả trứng một hồi rồi mỉm cười: “Để bố gọi mẹ lên”.

Thế là cả bố mẹ và tớ xúm vào và ngắm nhìn quả tim của Bonnie đập từng nhịp một. Ngay cả mẹ cũng phải thốt lên rằng đó thực sự là một điều kỳ diệu.

Clyde là nhóc đầu tiên phát tín hiệu. Và đương nhiên là nó chui ra ngoài trước khi tớ đi học. Cái mỏ bé xíu của nó chọc chọc qua lớp vỏ, khi tớ đang cố nín thở và chờ đợi thì nó ngừng lại, nghỉ lấy sức. Và nghỉ tiếp. Cuối cùng, cái mỏ của nó chọc lại thêm lần nữa, nhưng chỉ được một nhát thôi là nó lại nghỉ. Làm sao tớ có thể để nó ở nhà mà đi học được cơ chứ? Nhỡ đâu nó cần tớ giúp thì sao? Nhìn chung đây chắc chắn là một lý do chính đáng để nghỉ ở nhà, ít nhất là được một lúc!

Bố cố gắng thuyết phục tớ rằng trứng nở có khi phải mất cả ngày trời và sau khi tớ đi học về thì vẫn có ối thứ để xem, nhưng chẳng có lời nào của bố vào được đầu tớ cả. Không-không-không! Tớ muốn xem chúng nó chào đời, Abby này, Bonnie này, Clyde này, Dexter này, Eunice này, và cả Florence nữa. Từng nhóc một. “Con không thể để lỡ cảnh trứng nở được!”, tớ nói với bố. “Không một giây nào đâu!”

“Thế thì con mang tụi nó đến trường luôn đi”, mẹ nói. “Cô Brubeck chắc chẳng ngại gì đâu. Dù sao cũng là ý tưởng của cô ấy mà ra cả”.

Rõ ràng là đôi lúc có được một bà mẹ thấu tình đạt lý thì vô cùng đáng giá. Tớ sẽ chuẩn bị cho hội chợ khoa học sớm, chính thế! Tớ đóng gói toàn bộ đồ đạc, áp-phích, biểu đồ, và leo lên xe mẹ đi tới trường.

Đúng là cô Brubeck chả kêu ca gì. Cô ấy bận tíu tít với mấy đứa học sinh khác nên tớ có đến gần cả ngày chỉ để ngắm trứng nở.
Clyde và Bonnie là hai nhóc đầu tiên chui ra. Nhưng mới đầu thì thất vọng lắm ấy vì chúng chỉ nằm đó, mình mẩy ướt ướt và lông liếc dính bê dính bết. Trông chúng nó kiệt sức và rất xấu xí. Nhưng đến khi Abby và Dexter nở ra thì Bonnie và Clyde đã khô ráo và bông xù, láo liên quan sát.

Hai quả cuối thì mãi không chịu nở. Cô Brubeck cố vảo tớ cứ để tự nhiên, và cuối cùng thì chúng nó cũng chịu nở. Đúng lúc hội chợ diễn ra vào tối hôm đó. Cả nhà tớ đến xem, Matt và Mike chỉ ngó nghiêng có hai phút rồi phi sang các bàn khác nhưng mẹ và bố thì ở lại cùng tớ suốt buổi. Mẹ thậm chí còn nhấc Bonnie lên và cưng nựng nó.

Tối đó, sau khi hội chợ kết thúc và tớ thì đang thu dọn các thứ để về nhà, mẹ liền hỏi: “Thế giờ thì chỗ này sẽ về nhà cô Brubeck đúng không?”

“Cái gì về nhà cô Brubeck cơ ạ?”, tớ hỏi lại mẹ.

“Đám gà con ấy, Juli. Con không định nuôi chúng nó đấy chứ hả?”

Nói thật, tớ chưa từng nghĩ tớ chuyện sau khi trứng nở thì sẽ ra sao. Tớ thì chỉ có tập trung vào mỗi việc làm thế nào để đám gà con chào đời. Nhưng mẹ nói đúng – giờ thì tất cả chúng nó đều ở đây cả rồi. Sau cục bông bé xíu đáng yêu, mỗi nhóc một tên, và tớ có thể dám chắc rằng, mỗi nhóc một nết.

“Con… con không biết nữa”, tớ lắp bắp. “Con sẽ hỏi cô Brubeck”.

Tớ chạy đi tìm cô Brubeck, nhưng trong lòng thì cầu khấn rằng cô đừng mong tớ trả lại đám gà con cho bạn cô. Sau rốt thì chính tớ là người ấp chúng cơ mà. Chính tớ đặt tên cho chúng cơ mà. Chính tớ đã cứu chúng không bị bệnh viêm rốn nữa! Đám gà con này là của tớ!

Tớ đã thở phào nhẹ nhõm khi cô Brubeck nói là đám gà con đúng là của tớ. Khỏi nói mẹ kinh hãi thế nào. Nhưng rõ rồi đấy, tất cả đều là của tớ. “Nuôi chúng vui vẻ nhé em”, cô Brubeck nói rồi sải bước đi luôn sang chỗ Heidi để giúp bạn ấy thu dọn phần trình bày về định luật Bernoulli*.

*Định luật Bernoulli do nhà toán học Thụy Sĩ - Hà Lan Daniel Bernoulli (1700 – 1782) xây dựng. Định luật này có liên quan tới sự chuyển động thành dòng của chất lỏng và chất khí. Định luật này đã được ứng dụng trong công nghệ chế tạo máy bay.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách