Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: hahoangtn
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại] Tìm Trong Nỗi Nhớ | Lê Ngọc Mai [Hoàn]

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 19-3-2013 22:55:39 | Chỉ xem của tác giả
Lãnh đạo cơ quan E chắc cũng nhiều việc bận, nên tôi đợi đến mấy tháng mà cuộc họp vẫn chưa diễn ra. Được cái may là cán bộ tổ chức ở đây rất hiền, tuần nào tôi cũng vác mặt đến hỏi tình hình, nhưng luôn luôn được ông tiếp đón rất nhã nhặn. Phải cái trí nhớ ông không được tốt như cái bà trung niên ở trường đại học nọ, cho nên sau bốn năm lần mà ông vẫn nhìn tôi như mới gặp lần đầu, và tôi luôn luôn phải trình bày lại hết sức dài dòng điều mình muốn hỏi.

    Sau trận cười vĩnh biệt khoa C tại phòng tổ chức trường ấy độ một tháng, một buổi sáng tôi đến cơ quan E thì được ông già ở đó cho biết rằng lãnh đạo cơ quan đã họp để xét chuyện tuyển người. Ông giải thích khá kỹ về việc cơ quan hiện chưa có biên chế, cho nên chỉ tuyển để làm hợp đồng, nhưng đến khi nào có biên chế thì những người đã được nhận làm hợp đồng sẽ được chuyển sang diện biên chế, tất nhiên là phải xét duyệt thêm lần nữa, nhưng... Tim tôi đập thình thịch, tôi sốt ruột cắt ngang lời ông, hỏi xem kết quả thông báo công khai ở đâu. “Tên cô là gì?”, ông già hỏi. “Dạ, cháu là Hoàng L.C. ạ”, tôi trả lời. Ông già liền ra lệnh cho bà ngồi cạnh tìm xem Hoàng L.C. có trong danh sách được tuyển không. Bà nọ lục tìm một lúc rồi rút ra một hồ sơ, nhìn tôi mỉm cười rất trìu mến và bảo: “Hoàng L.C. phải không? Cháu được nhận rồi đấy.” Tim tôi như nhảy vọt ra ngoài lồng ngực. Bà nọ vừa đưa hồ sơ cho cấp trên của mình, vừa thì thầm nói với ông điều gì đó. Ông già cầm lấy hồ sơ, giở ra đọc, rồi hỏi tôi một cách thận trọng:

    - Cô là Hoàng L.C. phải không?

    - Dạ, vâng ạ.

    - Sinh ngày... tháng...năm... có đúng không?

    - Đúng ạ.

    - Cô học ở trường M. tại Liên Xô về có đúng không?

    - Vâng ạ.

    - Chuyên ngành của cô là tâm lý xã hội có phải không?

    - Vâng ạ, - tôi vừa đáp vừa liếc mắt vào tập hồ sơ trên tay ông già, nhận ra ngay đó chính là hồ sơ của mình, có cái ảnh của tôi dán ở trang đầu đập vào mắt. Tôi bèn bảo:

    - Đây đúng là hồ sơ của cháu đấy bác ạ, bác xem cái ảnh đây này.

    Ông già nhìn ảnh, rồi lại ngẩng lên nhìn tôi, rồi một nụ cười rất tươi nở trên gương mặt ông. Ông gập hồ sơ lại, gật gù bảo:
    - Hồ sơ của cháu tốt lắm. Điểm học tất cả các năm đều tốt. Ngành nghề chuyên môn, đề tài luận án thế là phù hợp với cơ quan này. Cháu về làm hợp đồng tạm một thời gian, rồi thế nào cũng được vào biên chế sớm.

    Tôi không dám tin ngay vào tai mình, phải hỏi lại thêm lần nữa: “Cháu được nhận vào làm hợp đồng rồi thật hả bác?”

“Thật chứ còn gì nữa”, ông già vui vẻ đáp. Bà ngồi bên cạnh cũng âu yếm nói thêm một câu: “Con bé này lớn lên trông xinh quá nhỉ. Ăn bơ sữa tây nhiều có khác, trắng nõn trắng nà. Hồi bé thì đen nhẻm, không nói thì bây giờ đố ai nhận ra được.” Tôi giật thót cả người. Quái lạ, sao bà này lại biết tôi hồi bé? Mà tôi có đen nhẻm bao giờ đâu? Tôi giống mẹ, từ khi sinh ra đã có nước da rất trắng.

    Nghĩ vậy, nhưng tôi thấy tốt nhất là lờ chuyện này đi. Cái quan trọng là mình đã được nhận, hồ sơ đúng là của mình. Tôi liền hỏi ông già về những thủ tục giấy tờ phải làm. “Cháu sang gặp chị Nhung ở phòng bên cạnh, chị ấy sẽ hướng dẫn. Hôm nay thì chị ấy nghỉ con ốm, vài ngày nữa cháu quay lại là vừa”, ông già ân cần dặn dò.

    Tôi vừa định chào và đi ra thì bà ngồi bên cạnh chợt hỏi: “Mẹ cháu dạo này vẫn khỏe chứ?” Tôi lạnh cả người, lúng búng hỏi: “Dạ, bác bảo gì ạ?” “Mẹ cháu vẫn khỏe chứ?”, bà nọ hờ hững nhắc lại. “Mẹ cháu mất rồi”, tôi nói ngắc ngứ trong họng vì không đủ khả năng để nói dối. “Sao?”, cả ông già lẫn bà phụ tá đều kêu lên ngạc nhiên cùng một lúc. “Sao không nghe ai nói gì hết cả. Mà mới vài tháng trước tôi còn gặp bà ấy ở đám cưới con ông Bảo kia mà”, bà nọ nói một cách sửng sốt. “Chắc bác nhầm cháu với ai. Mẹ cháu mất lâu rồi. Từ năm bảy hai cơ ạ”, tôi nhìn xuống đất, lí nhí thú nhận. Im lặng một lúc. Rồi ông già hỏi: “Thế cô không phải là con ông Hùng à?” “Bố cháu tên là Hưng, không phải Hùng ạ”, tôi dũng cảm trả lời. Lại một lát im lặng nữa, lần này dài hơn lần trước. Ông già mở hồ sơ của tôi ra, xem lại một chỗ nào đó, lắc đầu, rồi lôi ra một tờ giấy, giơ lên trước mắt tôi và hỏi: “Cái thư này có phải của cô không?” “Không ạ”, tôi nói một cách đau đớn. Ông già thở dài, đặt cái thư sang một phía, rồi đưa tập hồ sơ cho tôi và bảo: “Cô cầm hồ sơ về đi. Có sự nhầm lẫn. Chúng tôi chỉ có ít chỗ nên không nhận cô được.” “Nhưng bác vừa bảo là hồ sơ của cháu tốt, ngành chuyên môn của cháu phù hợp cơ mà”, tôi hốt hoảng nói, cố kìm để khỏi khóc. “Cô không phải là con ông Hùng thì không được”, ông già trả lời, vẻ vừa bực bội vừa ái ngại.

    Sáu tháng sau ngày về nước, tôi lại trở về điểm xuất phát ban đầu. Việc làm vẫn chưa tìm được, hy vọng hầu như không còn, tinh thần hoàn toàn suy sụp. Bố tôi và cô tôi xúm lại động viên, an ủi, đưa ra rất nhiều lý lẽ. Nào là mới về nước sáu tháng thì có vội gì, nhiều người phải đi xin việc đến hai ba năm mới được. Nào là mới bị có ba cơ quan từ chối mà sao đã nản chí, còn bao nhiêu cơ quan khác mình đã thử đâu. Nào là đã có kinh nghiệm rồi, từ nay đi xin việc chắc chắn sẽ thuận lợi hơn...

    Quả là tôi đã thu được nhiều kinh nghiệm. Tôi biết, tôi không xin được về viện B là vì đi nhầm cửa, cho nên mới bị đá đi đá lại như quả bóng giữa Viện và Bộ. Tôi không được nhận vào khoa C vì tôi tưởng nhầm rằng tôi là con Tổng bí thư. Tôi không có chỗ ở cơ quan E vì tôi không phải là con ông Hùng. Có điều, những kinh nghiệm này không làm cho tôi trưởng thành hơn, mà chỉ khiến tôi khiếp sợ. Không biết còn phải thu hoạch thêm những kinh nghiệm nào nữa thì mới xin được việc?

    Tôi nằm bẹp ở nhà suốt một tháng, chẳng thiết đi đâu. Đã buồn về chuyện xin việc, lại điên cả đầu vì lâu không có tin tức gì của K. Lá thư cuối cùng của anh, tôi nhận được cách đây một tháng. Hai tháng đầu, tuần nào K. cũng viết thư cho tôi. Tôi thì viết cho anh hàng ngày, như viết nhật ký, mỗi tuần gom lại thành một tập dày, gửi một lần. Sau hai tháng, những lá thư của K. thưa thớt hẳn đi. Anh viết rằng dạo này anh phải đi suốt, ít ở Matxcơva lắm, thành ra anh đã trả lại căn phòng ở Matxcơva rồi, mỗi lần về anh đến ở nhờ nhà bạn bè, tiện đâu ở đó vì chỉ có vài ngày rồi lại phải đi. K. bảo tôi gửi thư về địa chỉ hòm thư lưu của anh, mỗi lần về Matxcơva anh sẽ ra bưu điện nhận. Có lẽ lâu lắm rồi K. không về Matxcơva, cho nên đã năm lá thư của tôi gửi đi không hề có hồi âm.

    Thỉnh thoảng tôi mới đi ra phố một lần. Công việc duy nhất là bán đồ mang ở Nga về để lấy tiền ăn. Mỗi lần bán đồ, tôi lại nghĩ có khi phải bỏ ngành chuyên môn đi kiếm việc khác làm, cốt để ra tiền là được. Chứ nếu không xin được việc làm mà bán hết sạch đồ rồi thì làm sao? Thôi, tạm thời cứ sống được ngày nào hay ngày ấy.

    Một buổi tối, tôi đang nhàn rỗi ngồi nhà, xem một vở kịch tivi nhạt thếch, thì cô tôi đến. Mặt cô rạng rỡ như vừa trúng số độc đắc. Cô cho biết là cô mới có một phát hiện kinh thiên động địa: một bà hàng xóm của cô hóa ra lại làm việc ở phòng tài vụ của trường đại học D, cơ quan mà tôi xếp ở vị trí thứ tư trong cái danh sách dự định đi xin việc của tôi.

    Bà Thơm (tên bà tài vụ) là hàng xóm cùng phố với cô tôi, cách dăm số nhà chứ không phải là gần lắm, thành thử xưa nay cô tôi chỉ biết bà qua loa chứ không thân thiết gì. Hôm vừa rồi đi họp tổ dân phố, tình cờ ngồi cạnh bà, sau vài câu chuyện xã giao thì cô tôi mừng rú vì phát hiện ra cái nơi làm việc quý hóa của bà Thơm. Cô vội vã nói chuyện với bà về cô cháu của mình (tức là tôi), ngỏ ý nhờ bà giúp cho tôi về làm việc ở trường D. Mới đầu bà Thơm cũng còn nói năng dè dặt, thận trọng, nhưng sau khi hỏi kỹ, biết tôi học ở Nga về, thì bà tỏ ra thông cảm hơn, bảo cô tôi dẫn tôi đến nhà bà nói chuyện, nếu thấy giúp được thì bà sẽ cố giúp.

    Ngay tối hôm sau, tôi lon ton theo cô tôi đến nhà bà Thơm. Đã có cô tôi giới thiệu nên tôi không cần mang theo giấy giới thiệu gì cả. Chỉ mang theo một cái nồi hầm (vốn nằm trong thùng hàng biển của tôi) và một lọ nước hoa Pháp (vừa mua vội ngoài phố), gọi là có chút quà mọn đem ở Nga về. Những thứ này là do cô tôi chỉ đạo, chứ tự tôi thì không thể nghĩ ra. Vừa xách quà đi, tôi vừa tủm tỉm cười vì thấy mình sao giống T.” ủng” quá.

    Bà Thơm nhận quà mà cứ trách cô cháu tôi sao lại khách sáo bày vẽ thế. Nhìn bà ở nhà mà cũng son phấn kỹ càng, mùi thơm sực nức, tôi mừng thầm rằng lọ nước hoa Pháp của mình thế là hữu dụng. Cái nồi hầm thì chưa biết có được hữu dụng như vậy hay không, nhưng khi thấy bà Thơm nhanh nhẹn đem nó cất đi ngay thì hai cô cháu tôi đưa mắt nhìn nhau sung sướng.

    Chuyện trò dài dòng cả buổi tối, vì bà Thơm là người rất hay chuyện, lại đặc biệt quan tâm đến tình hình nước Nga, hỏi kỹ càng từng chuyện giá cả lên xuống ra sao, hàng họ thay đổi thế nào ở cái xứ xa xôi ấy. Tôi ngoan ngoãn ngồi hầu chuyện bà, tập trung tư tưởng không kém gì khi trả lời những câu hỏi về ngành nghề, chuyên môn. Đến quãng chín giờ tối thì chúng tôi đi đến được cái kết luận mà hai cô cháu tôi đang căng thẳng mong đợi: bà Thơm hứa sẽ giúp tôi xin về làm việc ở trường D, mới đầu làm hợp đồng, khi nào trường có biên chế thì bà sẽ giúp tiếp cho vào biên chế. Đã mừng hụt vài bận rồi, nên tôi cố ghìm cảm xúc. Nhưng đến khi bà Thơm bảo là tôi không phải lên phòng tổ chức hay gặp ai ở trường cả, chỉ việc đưa hồ sơ của tôi cho bà, bà sẽ lo cho từ A đến Z, thì tôi suýt nữa nhảy lên vì hạnh phúc.

    Chưa đầy một tháng sau đó, bà Thơm trở thành anh hùng kiêm ân nhân trong mắt gia đình tôi, vì tôi đã có trong tay mọi giấy tờ để về làm hợp đồng ở trường D. Cô tôi vừa cười hỉ hả vừa tự trách mình quan liêu, nếu chịu khó đi điều tra sớm, phát hiện ra mối tốt thế này, thì cháu mình đâu đến nỗi mất toi sáu tháng trời lăn lóc khổ nhục ở mấy cái cơ quan giời đánh kia.

    Vậy là nhờ bà Thơm phòng tài vụ, tôi đã trở thành giảng viên đại học của trường D. Mới là giảng viên hợp đồng thôi, nhưng là diện “hợp đồng đợi biên chế”. Đã biết tài năng của bà Thơm, tôi gần như tin chắc rằng nếu có biên chế thì ắt sẽ đến lượt mình, vì mình có lợi thế là được quý nhân phù trợ.

    Tôi đến nhận việc nhưng chưa có việc gì làm ngay. Ông tổ trưởng bộ môn bảo tôi đi dự một số giờ giảng của giáo viên trong khoa, để có khái niệm về phương pháp giảng dạy. Sau đó ông sẽ cho tôi dạy thử một số giờ. Tạm thời, mỗi tuần tôi chỉ phải đến trường dự giờ hai buổi, mỗi buổi ba tiếng, thời gian còn lại tự do muốn làm gì thì làm. Đời giảng viên đại học hóa ra sung sướng thật.

    Một tuần sau khi nhận việc, tôi có dịp làm quen với các đồng nghiệp của mình, nhờ một cuộc họp cán bộ toàn khoa. Nếu mọi người không châm chước cho lính mới thì tôi đã bị coi là hâm nặng, vì ai đời giờ họp khoa thông báo trên bảng là 8h30 rõ rành rành, mà tôi lại nhè đúng 8h30 đã sốt sắng trình diện. Đứng trơ ra một mình mất hơn nửa tiếng, quãng 9h15 mới thấy vài người lững thững xuất hiện, rồi các giáo sư lục tục kéo đến nhiều nhất trong khoảng từ 9h30 đến 9h45, và đúng mười giờ thì cuộc họp bắt đầu, sau khi trưởng khoa đã dăm lần bảy lượt hô hào kêu gọi anh em vào phòng họp với một giọng vừa năn nỉ vừa dọa dẫm.

    Họp bộ môn thì thời điểm xuất hiện của các thành viên có khẩn trương hơn một chút, nhưng lại mất nhiều thời gian vào việc trà lá và những chuyện ngoài đề. Cuộc họp thường diễn ra ở nhà ông tổ trưởng bộ môn, đôi khi ở nhà bà tổ phó, vì ở khoa này cấp bộ môn chưa đủ tư cách để được sở hữu riêng một phòng làm việc. Bộ môn của tôi có một ông tổ trưởng, một bà tổ phó, cộng với hai bà và một ông tổ viên, giờ có thêm tôi thì cả thảy là sáu. Hiện tại, ông tổ viên đang đi thực tập ở nước ngoài (nghe nói sắp về) nên bộ môn chỉ còn lại có năm. Tổ trưởng của tôi một mình lọt giữa Tây Lương nữ quốc nhưng thoải mái như cá trong nước. Giọng sang sảng đúng cốt cách lãnh đạo, ông nói thao thao hàng tiếng không biết mệt, cả ba bà kia cộng lại cũng không đủ sức lấn át được ông.

    Sau mấy buổi họp bộ môn, tôi đã thu được nhiều thông tin khá quan trọng, nhờ nghe lỏm các câu chuyện ngoài lề. Thực ra tôi cũng không định nghe lỏm, mà chuyện người ta nói cứ tự nhiên lọt vào tai tôi. Buổi đầu tiên, tôi được biết rằng cái bọn đi học nước ngoài về, có bằng này cấp nọ nhưng nhiều khi dốt đặc, chẳng biết gì về thực tế Việt Nam nên chỉ ngồi chơi xơi nước chứ không được việc gì hết. Buổi thứ hai tôi lại biết thêm rằng cái bọn do trên ép xuống bắt dưới phải nhận mới là bọn dốt nhất. Các thông tin này lần nào cũng do đúng hai bà phát ra, một bà nạ dòng sồn sồn, còn bà kia chắc chỉ hơn tôi vài tuổi. Đến buổi thứ ba, tôi quyết định tự mình tìm hiểu thêm thông tin bằng cách bắt chuyện với một chị trông khá hiền mà tôi nhận thấy là thường hay ngồi nghe chứ không tham gia vào câu chuyện của hai bà kia. Nhờ chị Vi, tôi mới rõ rằng ở bộ môn này người có học vị cao nhất là ông tổ trưởng, phó tiến sĩ, bảo vệ luận án ở chính khoa này cách đây vài năm. Chị Vi thì đang làm nghiên cứu sinh trong nước, sắp tới có hy vọng được đi thực tập nước ngoài. Hai bà kia thì khoa cũng đang động viên thi nghiên cứu sinh trong nước, nhưng họ còn chưa sắp xếp được thời gian. Cũng phải, vì thời gian của giảng viên đại học thoạt nhìn cứ tưởng là rộng rãi, nhưng thực chất vô cùng eo hẹo, do ai cũng phải kiếm việc làm thêm chứ làm sao sống nổi với đồng lương.

    Lương tôi diện hợp đồng thì lại càng còm hơn, chỉ đủ tiền ăn sáng. Hàng tháng vẫn phải ăn vào tiền bán đồ mang ở Nga về. Ổn định được chỗ làm rồi, noi gương đồng nghiệp, tôi cũng lăm le kiếm việc làm thêm. Đang lúc chưa biết làm gì thì một lần nữa bà Thơm lại ra tay cứu độ. Nhưng khác với lần trước, lần này chuyện xảy ra hoàn toàn tình cờ.

    Hôm ấy, tôi đang đi trong trường thì chạm trán bà Thơm. Sau khi cung kính chào ân nhân, tôi vừa quay gót đi tiếp thì bỗng bà giật giọng gọi tôi lại hỏi một câu hết sức bất ngờ: “Em có muốn kiếm việc làm thêm không?” Tôi ngẩn người ra, tự bảo bà này lại còn có cả tài đọc được ý nghĩ người khác thì khiếp quá. Bà Thơm giải thích: “Chị có một quầy bán hoa, lấy mối từ Đà Lạt, bán chạy lắm. Phải cái chị không đứng bán được, vì phải làm việc theo giờ hành chính ngày tám tiếng.Thành thử chị thuê hai con bé cùng phố bán hai ca khác nhau, nhưng hôm qua một con láo quá, dám tắt mắt lấy tiền của chị, chị vừa đuổi nó đi xong. Thấy em xinh xắn, tươi tỉnh, chị nghĩ em làm nghề bán hàng hợp đấy. Với lại trông em thật thà chị cũng yên tâm.” Tôi chưa làm nghề bán hàng bao giờ, nhưng nghe bà Thơm nói thế thì cũng yên tâm theo bà. Với lại, còn đòi hỏi gì nữa, có việc làm thêm để tăng thu nhập là may quá rồi.

    Từ ngày bán hoa thuê cho bà Thơm, tôi có tiền chi tiêu rủng rỉnh hẳn. Thời gian mà tôi đứng ở quầy bán hoa ít ra cũng nhiều gấp đôi thời gian tôi xuất hiện ở trường. Bù lại, thu nhập do việc này mang lại cũng hơn đứt tiền lương của tôi. Tóm lại là đủ sống mà không phải gặm thêm vào số hàng mang ở Nga về còn sót lại.

    Tôi viết thư cho K. kể hết mọi chuyện và lại giục anh trở về Hà Nội. Em tìm được chỗ làm đúng chuyên môn rồi, lại có việc làm thêm nhẹ nhàng đủ tiền để sống. Về đi anh, rồi anh cũng sẽ kiếm được việc như em thôi. Dù không giàu có thì mình cũng sống được, còn hơn là lăn lóc đánh quả ở nước ngoài. Sống xa nhau mãi như thế này em không chịu nổi...

    Nhưng những lá thư của tôi gửi đi không hề có hồi âm. Một tháng, hai tháng, rồi ba tháng, không thư từ, không điện thoại, không hề có bất cứ một tin tức nào của K. Gần như phát điên lên vì lo sợ, tôi tìm đến bố mẹ K. để hỏi tin anh.

    Mẹ K. tiếp tôi với một vẻ rầu rĩ. Bà cũng đang héo ruột héo gan vì cậu con trai quý của mình. Lâu lắm rồi K. không viết thư cho bố mẹ. Mới đây, mẹ K. nghe có người nói rằng anh đã sang hẳn Ba Lan. Bà trách tôi không ở lại Matxcơva để thúc ép anh về nước. Tự dưng đùng đùng bỏ về một mình, rồi có chuyện gì xảy ra thì còn kêu ai được?

    Có chuyện gì đã xảy ra? Tôi cảm thấy mẹ K. biết điều gì đó nhưng giấu tôi. Gặng hỏi mãi mà bà không chịu nói, tôi sục đến nhà tất cả những người quen mới ở Matxcơva về nước để tìm hiểu tình hình. Nhặt nhạnh thông tin mỗi nơi một tí, cuối cùng tôi cũng đoán ra được một câu trả lời đại thể về sự im lặng của K.

    Vậy là K. đã sang hẳn Ba Lan. Anh vay nợ nhiều đến mức bị chủ nợ đe dọa và khống chế, chỉ nai lưng ra làm để trả nợ mà cũng không xong. Rồi, trong lúc K. đang tuyệt vọng nhất thì có một người quen đã giúp đỡ anh. Chị cho anh vay tiền để trả nợ một phần. Anh chuyển sang Ba Lan để hợp tác cùng làm ăn với chị. Chị là một người cực kỳ tháo vát, làm ăn giỏi. Công việc của K. gần đây đã khá hẳn lên. Hình như anh đã trả gần xong nợ. Chị bạn anh bỏ chồng, sống một mình. Sau một thời gian ở Ba Lan, K. đến sống cùng với chị. Sống như vợ chồng.

    Tôi đã mất K. Mẹ anh nói đúng, lỗi tại tôi, còn trách ai được nữa. Tôi đã bỏ đi trong lúc anh cần tôi. Còn người phụ nữ ấy, chị đã chìa tay cho K. khi anh bị lún xuống hố sâu. Chị đã làm cho anh cái điều mà tôi không làm nổi. Không làm nổi hồi ấy, và đã quá muộn để làm bây giờ.

    Bây giờ, bà Thơm không còn được hài lòng như lúc đầu về công việc bán hoa của tôi. Vài lần tạt qua kiểm tra bất ngờ, bà kêu tôi bán hàng mà đầu óc cứ ở trên mây trên gió, đã thế mặt mũi lại còn khó đăm đăm, chẳng thấy cười được cái nào.

    Chắc là vì đã sẵn bực mình nên hôm ấy chỉ mất một ít tiền mà cơn tức giận của bà Thơm bùng lên thật dữ dội. Tại sao lại mất tiền thì mãi đến bây giờ tôi cũng không hiểu được. Có lẽ tại vì hôm ấy tự dưng có quá nhiều người vào mua hoa hồng nhung. Những bông hoa quái ác ấy, nó cứ bắt tôi nhớ đến những kỷ niệm mà tôi muốn quên đi. Có nhiều lúc trao hoa cho khách, tôi phải nhìn đi chỗ khác để giấu đôi mắt mờ lệ của mình. Cả buổi, tôi không sao tập trung tư tưởng nổi vào chuyện bán hàng, đầu óc lộn xộn toàn những hình ảnh xa xưa. Đến lúc ra về, tôi lại còn đãng trí không kiểm tra lại tiền trước lúc giao cho bà chủ. Cán bộ phòng tài vụ không cần đến năm phút đã phát hiện ngay ra là tài sản của mình bị hao hụt. Cả dãy phố thì không cần đến hai phút sau đã biết tôi là đứa tắt mắt. Tôi hốt hoảng xin đền tiền ngay lập tức nhưng bà chủ không chịu hạ giọng đi cho. Máy bà đã mở ra rồi, bà phải tiếp tục xả cho hết cỡ. Nào là mặt mũi thì trí thức mà hóa ra cũng giở trò ăn cắp vặt thế à. Nào là nếu thiếu thì xin, tôi cũng thí cho, chỗ tiền ấy với tôi chẳng đáng gì, nhưng tôi ghét là ghét cái thói gian lận... Cuối cùng, bà chủ tuyên bố là nể cô tôi lắm nên bà cho tôi làm tiếp, nhưng bà mà còn bắt quả tang được lần nữa thì cứ tự động mà xéo đi. Biết mình chẳng đủ sức xen vào khi đại bác còn đang gầm rú, tôi đợi cho bà chủ nói xong rồi xỉa tiền túi ra trả bà và bảo là tôi thôi việc. “Lại sĩ à? – bà chủ cười khẩy. – Sĩ thì thiệt thân, chứ tôi thì cần đếch gì cô. Tôi chỉ cần hô lên một tiếng là khối đứa nhảy bổ vào chỗ này ngay.”

    Về khoản này thì bà Thơm nói đúng. Chưa đầy một tuần sau khi tôi thôi việc đã có một cô gái khác đến bán hàng cho bà thay tôi. Tôi biết cô gái ấy. Cô ấy cũng là giảng viên trường tôi, dạy ở khoa bên cạnh.

    Thôi bán hoa cho bà Thơm, tôi lại phải ăn vào tiền bán đồ mang ở Nga về. Vẫn biết là phải đi tìm việc làm thêm khác mới sống được, nhưng bây giờ tôi không còn nhiệt tình như trước nên cứ lần chần. Vả lại, tình hình của tôi ở trường ngày càng tồi tệ nên tôi không còn lòng dạ nào nghĩ đến chuyện làm thêm nữa.

    Ông tổ trưởng bộ môn vẫn chưa cho tôi dạy thử giờ nào. Ông không nói rõ vì lý do gì, chỉ bảo cứ từ từ, rồi lúc nào tiện thì ông sẽ sắp xếp. Đề tài khoa học của bộ môn, tôi cũng không được tham gia vì là người mới, chưa có kinh nghiệm thực tế Việt Nam.Bù lại, tôi được phong chức tổ phó công đoàn, mỗi lần công đoàn cấp trên triệu tập họp thì tôi được đại diện cho công đoàn bộ môn đi họp. Thỉnh thoảng, ông tổ trưởng cũng an ủi tư cách giảng viên đại học của tôi, cho tôi tiếp xúc với sinh viên bằng cách đi coi thi hộ người này người nọ.

    Nếu không có chị Vi thương hại nói cho biết thì tôi cũng không hình dung được tình hình của mình trầm trọng đến mức nào. Hóa ra, khoa này hiện không hề có nhu cầu về chuyên môn của tôi. Bộ môn của tôi lúc trước đã thừa người, trên trường cứ ấn tôi xuống, khoa đành phải nhận. Số giờ dạy của bộ môn so với số giáo viên vốn đã ít nên tổ trưởng bộ môn chẳng muốn san thêm ra cho một người mới về chưa có kinh nghiệm làm gì. Với lại, bộ môn không muốn mất công giao việc cho tôi vì ai cũng nghĩ rằng tôi chỉ làm hợp đồng một thời gian rồi chán sẽ bỏ đi, chứ chẳng có hy vọng gì được vào biên chế. Ở khoa còn có vài người đang ngồi đợi biên chế từ mấy năm nay, toàn là những ngành khoa cần cả, nên trường bắt nhận tôi làm hợp đồng thì khoa chịu, chứ vào biên chế thì còn lâu. Chưa kể đến chuyện tôi còn can tội mang bằng cấp cao ở nước ngoài về, điều này khiến cho một số người trong khoa đâm ra cảnh giác về những tham vọng xấu của tôi.

    Chị Vi còn chưa biết là chỗ dựa duy nhất của tôi ở cấp trường cũng đã mất. Từ sau khi xảy ra sự cố bán hoa để mất tiền với bà Thơm, tôi không còn hy vọng gì được bà phù trợ cho việc vào biên chế. Tóm lại, tôi không còn hy vọng nào ở trường này cả.

    Mẹ K. bất ngờ đến tìm tôi vào lúc tôi đang ở trong tình trạng nửa thất nghiệp. Không phải đi họp công đoàn, không có kỳ thi nào để đi coi, cũng chán chẳng buồn đi dự giờ của ai nữa cả. Hoạt động của tôi ở trường hạn chế ở các buổi họp khoa và bộ môn, cộng với việc đi lĩnh vài đồng lương còm mỗi tháng một lần.

    Tôi không kể với mẹ K. về những chuyện ấy, vì tuy bà hỏi thăm công việc của tôi, nhưng tôi có cảm giác rất rõ rằng bà đến vì một chuyện gì khác. Loanh quanh một hồi, bà hỏi tôi có biết thêm gì về tình hình của K. ở Ba Lan không? Tôi thấy cũng chẳng cần giấu nên bèn nói thẳng ra rằng tôi biết anh dạo này làm ăn đã khá hơn nhiều, và anh đã gặp một người phụ nữ khác.

    Tôi tránh không nói đến chuyện K. sống cùng người đó, nhưng mẹ anh đã biết hết. Bà bảo rằng không bao giờ bà chấp nhận cho con trai bà sống với cái loại gái bỏ chồng như vậy. Rằng thằng K. nó chẳng yêu gì con đó, nó có thèm đả động đến chuyện cưới xin gì đâu. Cuối cùng, bà khóc và nói tôi là niềm hy vọng duy nhất của bà, chỉ có tôi mới kéo con trai bà ra khỏi nanh vuốt của “cái con kia” được. Rồi bà đưa cho tôi địa chỉ của K. ở Ba Lan và gần như van xin tôi viết thư gọi anh về. “Cháu viết thư thì có ích gì đâu, - tôi bảo. - Địa chỉ của cháu không hề thay đổi, nếu anh ấy muốn thì anh ấy đã viết cho cháu rồi. Anh ấy đã có sự lựa chọn khác, cháu không muốn xen vào nữa.” Mẹ K. kêu lên: “Nó không dám viết cho con vì nó đã trót sa chân nên sợ con không tha thứ. Nếu nó biết là con vẫn chờ đợi thì chắc chắn nó sẽ bỏ tất cả để về ”.

    Khi rời Matxcơva, tôi cũng đã tưởng rằng anh sẽ phải vứt bỏ tất cả để về theo tôi. Bây giờ, tôi không còn niềm tin ấy nữa. Tờ giấy ghi địa chỉ của K. mà mẹ anh đưa cho tôi, tôi nhét vào ngăn kéo, nó nằm yên trong đó ba tuần.

    Ba tuần sau, tôi mở ngăn kéo ra nhìn, tự hỏi mình có nên viết thư cho K. không. Không phải để gọi anh về, mà chỉ để chúc mừng sinh nhật anh thôi, vì hơn nửa tháng nữa anh sẽ tròn hai mươi chín tuổi. Đấu tranh tư tưởng một hồi, tôi lại cất mảnh giấy vào ngăn kéo.

    Ngày sinh nhật K., buổi sáng, tôi tỉnh dậy trong giường với ý nghĩ rằng giờ này, người phụ nữ ấy chắc đang chúc mừng anh với một cái hôn dài như tôi vẫn thường làm trong những dịp sinh nhật trước của anh. Chị ấy có biết rõ thị hiếu của K. để chọn cho anh đúng món quà mà anh thích? Tối nay, anh có mời bạn bè, hay chỉ muốn ở nhà một mình với chị như năm xưa anh vẫn thích làm như vậy với tôi? Anh đã quên hẳn tôi rồi, hay ít nhất cũng nghĩ rằng tôi đã quên anh.

    Không chịu đựng nổi ý nghĩ ấy, tôi làm một việc điên rồ là mở ngăn kéo, lấy tờ giấy ghi địa chỉ của K. và chạy bổ ra bưu điện. Tôi gửi đi một bức điện dài, bắt đầu bằng dòng chữ “Chúc mừng sinh nhật lần thứ hai mươi chín...” Tôi không ký tên vào bức điện, sợ rằng nếu nó rơi vào tay người khác thì cái tên tôi có thể làm hỏng mất ngày vui của anh. Vả lại, cần gì phải ký tên, nếu K. còn nhớ tới tôi, anh sẽ hiểu bức điện từ Hà Nội này là do ai gửi.

    Rõ ràng, K. đã dứt khoát quên tôi. Bức điện này cũng chung số phận với những bức thư mà tôi gửi cho anh hồi trước, không hề có một hồi âm.

    Cần phải sống, tôi tự nhủ mình như vậy. Nói cụ thể hơn là cần phải kiếm tiền. Tôi vừa có một hướng mới do chị Vi mách cho. Chị chuẩn bị đi thực tập nước ngoài nên bỏ việc làm thêm ở một sạp bán sách báo. Chị xui tôi đến xin làm thay chị, chủ sạp đang tìm người.

    Tưởng chủ sạp là ai xa lạ, hóa ra lại là một cặp vợ chồng làm việc ở trường tôi. Bà làm phòng hành chính, ông làm phòng đào tạo, tôi không quen nhưng thỉnh thoảng có gặp ở trường.

    Tôi đến ngay sau khi chị Vi thôi việc, thế mà chỗ làm đã có người khác. Ít ra, đó cũng là điều mà bà chủ sạp trả lời tôi. Giọng bà lạnh lùng và khó chịu đến nỗi tôi đâm ngờ rằng chưa chắc đã có người nào, mà lý do chính khiến bà chủ không muốn nhận tôi là vì tôi đã mang tiếng xấu. Ai chứ bà Thơm thì chẳng thể giữ mồm giữ miệng được. Tôi hiểu rằng từ nay đi kiếm việc thì nên tránh dân cùng trường ra cho đỡ mất thời giờ.

    Giữa lúc tôi đang buồn thì T.H. từ Pháp về Hà Nội chơi. Cô vừa mới lấy chồng xong nên đem chú rể về trình diện. Chẳng báo trước gì hết, T.H. đến nhà tôi một cách rất bất ngờ. Đến một mình, không mang theo chồng, để hàn huyên cho thoải mái. Tôi mừng đến phát khóc lên.

    Câu đầu tiên của T.H. là hỏi thăm K. và thắc mắc sao chúng tôi đợi gì mà mãi không chịu cưới. Cô sững sờ khi biết rằng K. chưa về nước, tôi và anh đã cắt đứt rồi. T.H. muốn hỏi thêm nhưng tôi kiên quyết nói sang chuyện khác nên cô đành chịu. Cô bèn hỏi đến chuyện việc làm. Tôi bảo, bây giờ tôi làm hợp đồng ở trường D, đang đợi biên chế. “Có đủ sống không?”, T.H. hỏi. “Thì cũng như người khác thôi”, tôi trả lời và lại muốn đổi đề tài, nói đến chuyện đám bạn cũ. Nhưng lần này, T.H. nhất định không bỏ cuộc.

    - Có chuyện gì thế? – T.H. hỏi.

    - Chẳng có chuyện gì đâu, - tôi chối.

    - Mày đừng có giấu tao. Nhìn mặt mày là tao biết. Hồi trước, có chuyện gì mày cũng kể cho tao hết cả. Mày không coi tao là bạn nữa à, - T.H. nói dỗi.

    - Thực ra cũng không có gì quan trọng cả, nói nó mất vui đi, - tôi lúng túng.

    - Kể cho tao nghe đi, xem tao có giúp gì được mày không, - T.H. nài nỉ.

    Nhìn vẻ mặt lo lắng của T.H., đột nhiên tôi không kìm được, khóc nức lên:

    - Ở đây, tao không có gì hết cả. Tình không, tiền không, sự nghiệp không. Tao không còn biết sống để làm gì nữa H. ạ.

    Rồi tôi kể hết mọi chuyện cho T.H. nghe, từ chuyện tôi đi xin việc đến chuyện tôi bán hoa để mất tiền, rồi tình hình bi đát của tôi ở trường hiện nay... Nước mắt T.H. ứa ra, cô bảo:

    - Tao không thể để mặc mày như thế này được. Tao sẽ kéo mày ra khỏi đây. Mày có muốn quay lại Matxcơva với K. không?

    - Không, - tôi kêu lên. – Tao biết làm gì ở Matxcơva bây giờ. Mà K. cũng không còn ở Matxcơva nữa.

    - Thế thì sang Pháp với tao đi, - T.H. bảo. - Tao sẽ nói Pascal tìm cho mày một học bổng sang Pháp học.

    - Nhưng tao bảo vệ luận án ở Nga rồi, còn học gì nữa.

    - Có bằng Nga rồi thì học lấy thêm bằng Pháp, có sao đâu. Học, học nữa, học mãi. Mày chưa đến hai tám tuổi, đi học là phải quá. Sang Paris mà xem, tao quen mấy bác người Việt mình, gần sáu chục tuổi rồi mà vẫn còn được cơ quan cử đi Pháp học, học xong về nước thì vừa đến tuổi về hưu. Đi học bây giờ là cái nghề hữu ích nhất của trí thức nước mình C. ạ. Mày cứ sang Pháp một thời gian, thay đổi không khí. Không phải lo nghĩ kiếm sống mà lại được học thêm, tiếp xúc với giới khoa học bên đó cũng hay lắm chứ. Rồi tương lai thế nào thì tính sau.

    Tôi đưa cho T.H. toàn bộ hồ sơ khoa học của tôi để vợ chồng cô đi liên hệ xin học bổng. T.H. trở lại Paris, tôi bắt đầu đi học tiếng Pháp cấp tốc (cũng may, không phải bập bẹ từ đầu, vì tôi đã từng học tiếng Pháp trong những năm đại học ở Nga). Bốn tháng sau, tôi nhận được thư của cô bạn cùng với những giấy tờ để tôi sang Pháp làm luận án tiến sĩ. “Tao rất muốn mày sang đây sớm, nhưng vì mày khác ngành bọn tao nên hơi khó liên hệ. Mãi vừa đây mới có trường trả lời đồng ý nhận, nhưng lại ở thành phố khác chứ không phải ở Paris. Kể cũng buồn vì bọn mình sẽ không được ở gần nhau, nhưng tạm thời mày cứ sang Pháp đi, rồi sau đó nếu muốn chuyển lên Paris thì chắc cũng có cách”, T.H. viết

    Một năm rưỡi sau ngày về nước, tôi lại rời Hà Nội ra đi. Chẳng có gì luyến tiếc khi bỏ hợp đồng ở trường D, chỉ thương bố đã bắt đầu già yếu, giờ lại sống lủi thủi một mình ở Hà Nội. Nhưng bố tôi thì có vẻ thanh thản hơn, cụ nói giống hệt T.H.: “Con cứ đi một thời gian cho thay đổi không khí. Lúc này ở nhà làm việc chưa thuận lợi thì tranh thủ đi học thêm cũng tốt. Ít nữa về có thể tình hình sẽ sáng sủa hơn”. Rồi cụ nói thêm: “Đừng lo cho bố. Thằng D. cũng sắp về rồi.” D., em trai tôi, đang ở Đức, quãng nửa năm nữa học xong nó sẽ trở về. Đó là điều an ủi duy nhất của tôi.

    Trước hôm đi, tôi đến chào bố mẹ K. “Con bỏ thằng K. thật đấy à?”, mẹ anh hỏi, hệt như ngày nào anh hỏi tôi ở Matxcơva. Nước mắt tôi trào ra, tôi nghẹn ngào nói: “Nếu anh về Hà Nội, bác nói anh tha lỗi cho cháu”.

    Thế là lại Nội Bài. Một năm rưỡi trước, khi tôi từ Nga trở về xuống đến đây, tôi cứ nghĩ rằng tôi sẽ quay lại sân bay này để đón K. Bây giờ, tôi đến để lại ra đi. Tương lai sẽ ra sao, tôi cũng chưa biết nữa. Trong vali tôi có đủ giấy tờ ghi rõ rằng tôi đến trường... để làm luận án tiến sĩ ba năm. Trong tay tôi có tấm vé máy bay ghi rõ nơi đến: sân bay Charles De Gaulle- Paris. Vậy mà tôi bước lên máy bay như một người ngơ ngẩ
n. Không biết mình đang làm gì. Không biết mình đang đi đâu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 28-3-2013 00:33:35 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8

"Đi đâu" luôn luôn là vấn đề phải lo nghĩ trước hàng tháng của vợ chồng Lan Chi mỗi khi kỳ nghỉ hè đến gần. Từ cuối tháng tư, khi đợt nghỉ mùa xuân của lũ trẻ vừa kết thúc, hai vợ chồng đã bắt đầu hỏi nhau: "Hè này nhà mình đi đâu nhỉ?" Ra biển, lên núi, đi trong nước Pháp hay ra nước ngoài? Đi đâu thì đi, phải quyết định cho nhanh để trong tháng năm còn tìm thuê nhà hay thuê khách sạn, đặt chỗ trước, chứ cứ lần lữa đợi đến tháng sáu thì chẳng còn nhiều nơi tốt mà kén chọn. "Tốt" ở đây còn kèm theo tiêu chuẩn là "không đắt", cho nên thực ra cũng chẳng được kén chọn gì nhiều. Ngân sách eo hẹp, đi xa thì tốn kém, đi gần thì loanh quanh cũng chỉ có vài nơi.

    Có những năm Lan Chi chả thấy hào hứng gì, lại nghĩ đến cảnh chen chúc tàu xe, đảo lộn cuộc sống mà phát ngán, cô bảo: "Thôi, hè này mình ở nhà một lần thì đã sao, đi mãi cũng chán!". Nhưng Trung phản đối: "Cả năm đã ở nhà rồi, chịu khó đi ít ngày cho lũ trẻ được thay đổi không khí". Lại có năm tìm mãi không được nơi ưng ý, đến lượt Trung chán ngán đề xuất ý kiến tẩy chay chuyện đi nghỉ một năm, nhưng Lan Chi không chịu: " Nghỉ hè, nhà nào người ta cũng cho con đi chơi cả, mình lại giam con ở nhà sợ chúng nó tủi thân".

    Đúng vậy, tháng bảy và nhất là vào đầu tháng tám, cả nước Pháp ồ ạt xuống đường đi nghỉ, ai không đi được tự dưng cảm thấy mình lạc lõng, thua kém thiên hạ. Các nhà ga đông nghịt người. Trên các con đường cao tốc, vào những ngày và những giờ cao điểm, tốc độ xe chạy còn chậm hơn trong đường làng, hàng đoàn ô tô lũ lượt mệt mỏi nhích từng tí một, người và xe vã mồ hôi dưới ánh mặt trời gay gắt. Vậy mà ai cũng hớn hở ra đi. Dãy phố của Lan Chi thường ngày đã vắng, vào những dịp này lại càng vắng tanh, hầu như nhà nào cũng có vài tuần đóng cửa im ỉm. Kể ra ở lại nhà vào lúc này thì điều kiện nghỉ ngơi còn yên tĩnh hơn là lên núi hay ra biển. Nhưng mà buồn, trẻ con chẳng có bạn để chơi. Đến đầu năm học mới, cô giáo ra bài văn "Kể lại kỳ nghỉ hè của em" thì đứa nào không đi đâu sẽ chẳng biết kể gì hết. Đấy là trẻ con, chứ còn người lớn bị người quen hỏi thăm "hè này đi đâu" mà lại trả lời là "không đi đâu cả", thì thấy như mình tự nhiên bị tụt xuống mất vài nấc trong bậc thang xã hội. Nghe nói có nhà sa sút không còn tiền đi nghỉ đã phải đóng cửa tắt đèn, chui xuống kho ở tầng hầm sống một tuần để giữ sĩ diện với hàng xóm. Chắc là chuyện đùa thôi, nhưng chuyện thật một trăm phần trăm là gia đình em gái Trung đã từng phải vác lều bạt lên núi cắm trại một tuần để khỏi phải chui vào kho ở. Không phải là do thiếu tiền, mà vì vợ chồng Hạnh đột nhiên có sự cố nên không đi nghỉ được đúng vào thời gian dự kiến, đến phút cuối cùng mới thay đổi kế hoạch nên chỉ còn kiếm được một chỗ "camping" ở một vùng dưới chân núi. Lên núi cắm trại thì cũng là một thú vui của dân tây, phải cái dân mình không có tình thần thể thao leo núi như tây, lại kém chịu lạnh, nên tuy cả nhà đã chả dám leo đâu cao, chủ yếu chỉ chui ra chui vào cái lều, vậy mà sau kỳ nghỉ về đến Paris mẹ Trung còn bị ho dai dẳng đến hơn một tháng. Thế nhưng hè nào bà cũng chịu khó đi nghỉ cùng gia đình con gái, tuy rằng chuyện đó đối với bà có vẻ là nghĩa vụ hơn là niềm vui. Hè năm ngoái, gia đình Hạnh đi nghỉ tại một bờ biển nổi tiếng ở Tây Ban Nha, đúng được hai tuần trời nắng rực rỡ. Bãi biển đẹp, nước biển đã ấm lại trong, nhưng Hạnh phàn nàn là cô dỗ thế nào mẹ cũng chỉ chịu ra bãi biển có đúng một lần (không nhúng chân xuống nước), rồi lại về nhà ngồi vì sợ nắng.

    Lan Chi nhớ lại tuổi thơ của mình, nghèo đói mà sao thật dễ vui. Nghỉ hè hầu như chẳng ai đi đâu hết, lũ trẻ cùng phố được thả ra là tụ tập ngay lại với nhau, tự nghĩ ra đủ thứ trò chơi, vui nổ trời, đến chiều tối bố mẹ phải rát cổ bỏng họng gọi năm lần bảy lượt thì mới chịu về nhà tắm rửa, ăn uống. Ở đây, những nhà tử tế không có cái lối thả rông con ra đường như vậy. Trẻ con được nghỉ hè hai tháng, không lẽ đóng cửa nhốt chúng ở nhà cả sáu chục ngày. Vì thế, hè mới lấp ló đến gần mà vợ chồng Lan Chi đã lo sốt vó đến trách nhiệm mua vui giải trí cho con.

    Năm nay, Lan Chi có vẻ ung dung hơn mọi năm về chuyện đi nghỉ hè. Đã đầu tháng năm rồi, sực nhớ là chưa thấy vợ bàn gì đến chuyện này cả, Trung hỏi:

    - Em đã chọn được nơi nào đưa con đi nghỉ hè năm nay chưa?

    - Anh có sắp xếp đi nghỉ với em và bọn trẻ được không, hay lại để bốn mẹ con đi với nhau thôi? - Lan Chi không trả lời mà hỏi lại.

    - Em đưa con đi rồi anh tranh thủ đến vài ngày thôi. Hè năm nay chắc anh phải ở lại trực bệnh viện.

    Xin nghỉ phép vài tuần vào dịp hè đối với Lan Chi là một vấn đề đơn giản, chỉ cần báo trước một tháng cho ông chủ là xong. Mùa hè, sinh viên nghỉ học đi kiếm việc làm thêm đông như kiến, cửa hàng chẳng khó khăn gì để tìm người bán hàng tạm vài tuần. Nhưng cái nghề bác sĩ của Trung thì lại hay bắt anh làm việc vào lúc thiên hạ đi chơi: kỳ nghỉ hè không những người ta chẳng chịu ốm bớt đi cho, mà lại còn có thêm bao nhiêu bệnh tật tai nạn cứ trái khoáy xảy ra vào đúng lúc tinh thần nghỉ ngơi của dân chúng lên đến cao điểm. Không phải năm nào Trung cũng lấy phép được vào dịp hè để đi nghỉ với vợ con.

    Những lần như vậy, vợ chồng Trung thường chọn một nơi nghỉ gần nhà, để anh có thể đến vào dịp cuối tuần hay vào ngày nghỉ bù nào khác rồi lại quay về làm việc mà không mất nhiều thời gian đi lại.

    - Nếu anh không đi nghỉ được thì hè này em mang bọn trẻ con sang Đức chơi với con nhà Duy. Hẹn với vợ chồng nó đã mấy năm nay rồi, thôi thì dịp này đi luôn là tiện nhất, - Lan Chi bảo.

    - Cũng hay đó, - Trung nói. - Nhưng đi Berlin thì có lẽ một tuần là đủ. Rồi đem bọn nó về đây, đi biển hay lên núi thêm một tuần cho thoáng. Mùa hè nóng ở Berlin lâu anh sợ lũ trẻ nó chán. Thì cũng thành phố, nhà cửa như đây chớ có gì đâu.

    - Em muốn sang chỗ Duy hai tuần. Mấy năm rồi chị em không gặp nhau. Với lại có hai đứa con nhà Duy chơi cùng thì bọn trẻ nhà mình nó cũng vui. Để chúng nó luyện nói tiếng Việt với nhau. Biển với núi thì chúng nó đi mãi rồi, còn lạ gì nữa.

    - Tùy em thôi. Vậy em định bao giờ đi?

    - Em định đi hai tuần cuối tháng bảy. Đã hỏi Duy rồi, nó bảo lúc đó đối với nhà nó là tiện nhất.

    Thế là quyết định. Giữa tháng bảy này, bốn mẹ con sẽ đi Berlin. Lan Chi thở phào nhẹ nhõm. Mọi chuyện giải quyết dễ dàng nhanh gọn như vậy mà cô cứ băn khoăn suy tính cả tháng nay.

    Nhưng cuộc đời thường hay có những sự cố bất ngờ. Quãng cuối tháng năm, khi Lan Chi đã hoàn toàn ung dung với kế hoạch đi Đức chơi, thì bỗng dưng Trung lại đề nghị cô chuyển chuyến đi Berlin lên đầu tháng bảy hoặc sang tháng tám. Lý do là vì cuối tháng bảy, một anh bạn của Trung sẽ từ Mỹ qua Pháp chơi và dự định ghé thăm anh vài hôm. Trung muốn vợ con có mặt ở nhà vào dịp đó.

    Chuyện tưởng hết sức đơn giản, không ngờ Lan Chi lại giãy nảy lên:

    - Em có kế hoạch hết rồi, không thay đổi được nữa đâu. Đã hẹn chính xác với Duy là hai tuần cuối tháng bảy, bây giờ lại đổi sang dịp khác thì không tiện cho nhà nó. Nó cũng có kế hoạch của nó chứ, đâu phải cứ ngồi nhà đợi mình mãi được. Sao anh không nói từ trước?

    - Anh mới nhận được thư của Tuấn hôm nay. Mà trước sau vài tuần có gì là quan trọng? Nếu em thấy đi dịp khác không tiện cho Duy thì cứ đi như đã hẹn vậy, nhưng về sớm một tuần có được không? Anh sẽ hẹn Tuấn đến chơi mấy ngày cuối tháng bảy, - ngạc nhiên trước phản ứng của vợ, Trung nhượng bộ.

    - Anh bảo anh ấy đến vào đầu tháng tám ấy, - Lan Chi không chịu.

    - Không được đâu. Nó bảo là ba mươi tháng bảy đã phải quay về Mỹ rồi.

    - Thôi, thế thì anh chịu khó tiếp bạn anh một mình. Hai ông với nhau, muốn làm gì thì làm, đi đâu thì đi, càng vui chứ sao. Chẳng mấy khi được sống lại đời độc thân vui tính. Em mà là anh thì em thích như vậy hơn. Có em với bọn trẻ con ở nhà chỉ thêm vướng bận chứ được ích gì.

    Khổ nỗi, ông bạn của Trung không sang Pháp dưới dạng độc thân vui tính, mà đi cùng với vợ con. Vì vậy, Trung muốn vợ con mình cũng có mặt ở nhà cho vui vẻ. Hơn nữa, thiếu Lan Chi, anh sợ không đón tiếp gia đình bạn chu đáo được. Nhất là anh lại làm việc ở bệnh viện, giờ giấc linh tinh.

    Vấn đề đâm ra rắc rối. Lan Chi khăng khăng không chịu thay đổi chuyến đi Berlin. Cô bảo rằng cô không muốn sai lời hứa với Duy. Rằng đã hẹn là sang Đức hai tuần thì cô sẽ ở đó đúng hai tuần. Rằng mấy năm rồi chị em không gặp nhau, thế mà anh lại muốn em về sớm chỉ để tiếp đón bạn bè anh, nào em có quen biết gì họ đâu...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 28-3-2013 00:37:36 | Chỉ xem của tác giả
“Nếu em không muốn thì thôi”, Trung lạnh lùng nói rồi quay ngoắt người bỏ đi, không buồn nghe hết những lý lẽ dài dòng của vợ. Lan Chi ngẩn người ra nhìn theo chồng. Rất ít khi cô thấy anh có vẻ bực bội như vậy.

“Hay là mình chỉ đi một tuần thôi nhỉ?”, Lan Chi nghĩ nhưng vẫn đứng yên, không nói lại câu nào.

    Đúng là Trung rất bực. Không hẳn do yêu cầu của anh bị Lan Chi từ chối, mà cái chính là vì anh thấy vợ mình đột nhiên trở nên xa cách và khó hiểu. Tất cả những lý lẽ mà cô đưa ra anh đều thấy chẳng xuôi tai. Anh có cảm giác như cô che giấu anh điều gì. Ừ thì cô cứ đi Berlin, nhưng sao nhất thiết lại phải đi hai tuần bằng được? Sao không thể chiều chồng mà về sớm một tuần? Nào anh có yêu cầu điều gì quá đáng đâu.

    Kể ra, yêu cầu của Trung không có gì là quá đáng thật, nhưng nói cho khách quan thì vợ anh cũng không phải là không có lý khi thích ở thăm em trai hơn là về nhà sớm để đón tiếp bạn của chồng. Có điều, cô lại giải thích cái lý của mình một cách thiếu tự tin đến nỗi không làm sáng tỏ được “chính nghĩa”. Hẳn là trong thâm tâm Lan Chi không được thanh thản cho lắm: cô biết rằng mình chưa hoàn toàn thành thật với chồng. Nhưng làm sao cô có thể thú nhận được với anh, khi ngay cả với chính bản thân mình cô cũng không muốn thừa nhận rằng ngoài việc muốn gặp em trai, ngoài những lý do khiến cô không hào hứng với đề nghị của Trung, còn có một nguyên nhân thầm kín khác thúc đẩy cô phải có mặt ở Berlin cả hai tuần cuối tháng bảy. Cô không muốn thừa nhận rằng cái ý định đi Đức chơi quả là đã có từ lâu, nhưng chỉ thực sự ám ảnh cô kể từ khi nghe cái tin do Tài “ủng” đem đến. Điều này, tất nhiên, Trung không thể biết.

    Vậy là đến ngày bốn mẹ con lên đường, cả Trung lẫn Lan Chi đều có tâm trạng không thoải mái. Anh tự nhủ là không đáng để bực mình vì một chuyện nhỏ nhặt như vậy, cái chính là vợ con có kỳ nghỉ vui, thế là được rồi. Cô tự nhủ là mình không có lỗi gì với chồng, mình không định làm điều gì không phải, việc mình có mặt hay không có mặt ở nhà khi bạn Trung đến chơi đâu có gì là quan trọng...

    Trung lái xe đưa vợ con ra ga. Đến lúc chia tay, tự nhiên Lan Chi mủi lòng, cô đột ngột vòng tay ôm cổ chồng, gắn vào môi anh một cái hôn thật thắm thiết và hứa: “Nếu bọn trẻ con ở đó một tuần thấy chán thì em sẽ mang con về sớm, có gì em sẽ gọi điện cho anh”. “”Anh sẽ gọi điện cho em đến nhà Duy, như vậy tiện hơn”, Trung nói, cảm động vì cái hôn thắm thiết bất ngờ của vợ.

    Tàu bắt đầu chuyển bánh. Lan Chi nhìn bóng chồng lùi xa dần trên sân ga, chẳng hiểu sao bỗng thấy lòng se lại như sắp phải xa anh lâu lắm. Cô cũng chẳng rõ mình chờ đợi gì ở chuyến đi này. Có lẽ chẳng đợi chờ gì hết cả. Vậy mà cứ thấy trong lòng pha trộn những cảm giác lạ lùng, một chút hy vọng, một chút bồn chồn, và dường như có cả một chút lo sợ nữa.

    Đây là lần đầu tiên được đi Berlin nên cả ba đứa trẻ đều hớn hở. Nhất là cu Nam, tàu chạy mới được chừng một tiếng mà cu cậu đã sốt ruột hỏi: “ Sắp đến Berlin chưa hả mẹ?” “Đầu tiên phải đến Paris cái đã. Sau đó chúng mình sẽ chuyển tàu đi Berlin”, Lan Chi giải thích. Thấy con trai nhấp nhổm không yên, cô bèn lấy một quyển sách mang ở nhà đi, đưa cho thằng bé và bảo: “Nếu con chán ngắm cảnh rồi thì đọc sách vậy. Đọc hết quyển này chắc sẽ đến Paris.” Rồi cô cũng lấy ra cho mình một quyển sách. Đọc cho khỏi nghĩ ngợi linh tinh. Trước mắt là cả một chặng đường dài. Còn hơn ba tiếng nữa tàu mới đến Paris
   


Muốn đổi kiểu cho dễ nhìn chút mà.... mỗi chương dài quá up 1 lần mình đọc lại cũng thấy sợ :D
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 28-3-2013 00:46:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

Paris trong lần gặp gỡ đầu tiên không kịp để lại cho tôi ấn tượng gì đặc biệt ngoài một vài cửa hàng vào dễ ra khó mà bây giờ tôi không còn nhớ nổi tên. Chỉ nhớ rằng một khi đã trót sa chân vào đó thì phải là mặt dày lắm mới dám bỏ đi mà không mua một thứ gì, sau khi đã được những cô bán hàng cười tươi như hoa, tận tâm với khách một cách đáng sợ, ra sức vồ vập, săn đón, chiều chuộng. Hàng hóa thì cái gì cũng đẹp, cái gì cũng đắt, cái gì cũng muốn mua, nhưng nếu không có cô bạn quyết định hộ cho chắc là tôi đã nhắm mắt mua đại một thứ để thoát thân chứ không dứt khoát chọn nổi một cái gì. Tôi chỉ ở lại Paris có hai ngày. Không đủ thời gian để đi thăm danh lam thắng cảnh Paris, theo ý kiến của T.H. Cô bạn khuyên tôi dành các hoạt động văn hóa ấy cho một kỳ nghỉ dài ngày, còn trước mắt thì nên thưởng thức một thú vui không văn hóa bằng là đi dạo cửa hàng, mua sắm vài thứ cần thiết (đúng hơn là không thật cần thiết, nhưng không sao cầm lòng được). Paris khi ấy đã vào cuối tháng mười một, không có tuyết như ở Matxcơva nhưng lạnh buốt, trời phập phù lúc nắng, lúc mưa. Đi một vòng dăm cửa hàng, mua được vài thứ lặt vặt xong thì tôi cũng bắt đầu hắt hơi xổ mũi. Mang theo cái kỷ niệm đầu tiên không mấy ngọt ngào này của thời tiết Paris, tôi lên tàu đi xuống phía nam, người ngây ngấy sốt, lòng dạ bồn chồn, không biết điều gì sẽ chờ đợi mình ở cái thành phố xa lạ kia. Lúc ấy, làm sao tôi có thể ngờ được rằng đó sẽ là nơi neo bến của đời mình.

    Khái niệm của tôi về thành phố này tuần đầu tiên thu hẹp trong một khung cửa sổ, một mảnh trời xám xịt, những mái nhà cao thấp nhấp nhô, một cành cây trơ trụi, khẳng khiu, chốc chốc lại rũ rượi trong cơn gió giật, và tôi, nằm bẹp một mình trong phòng, mặt mũi đỏ bừng vì sốt, người chốc chốc lại rũ rượi trong cơn ho, đầu óc ong ong toàn những ý nghĩ u ám. Tôi không ngớt tự hỏi chẳng biết mình làm gì ở cái nơi lạ hơ lạ hoắc này? Đi học? Gần ba chục tuổi rồi mà cái việc duy nhất có thể làm vẫn chỉ là đi học!

    Bắt đầu từ tuần thứ hai, tôi khỏi ốm, chân trời được mở rộng ra ngoài khung cửa sổ, đầu óc cũng bớt u ám hơn. Đến trường đại học, lập tức cảm giác xa lạ ban đầu biến mất: lại giảng đường, thư viện, xêmina..., tôi bận ngập cổ nhưng thấy mình như trẻ ra vài tuổi. Hồi ở Matxcơva, nhiều lúc quá mệt mỏi vì thi cử, luận án, tôi chỉ mong chóng học xong để được đi làm. Phải có kinh nghiệm của một thời gian “làm việc” vật vờ giữa những cuộc họp vô bổ, đầu óc thì chỉ bận tâm lo nghĩ kiếm tiền hoặc đấu trí những chuyện không mảy may liên quan gì đến khoa học, đến giờ tôi mới giác ngộ ra rằng được vô tư đi học quả là một hạnh phúc lớn. Rita, cô bạn người Nga của tôi, người bạn đầu tiên của tôi ở thành phố này, thì bảo đi học là một cứu cánh, không chỉ cho cô mà còn cho khối người nước ngoài ở đây. Cô này xấp xỉ tuổi tôi, tức là cũng gần ba chục, một lứa tuổi rất thích hợp với việc đi học.

    Tôi quen Rita một cách hoàn toàn tình cờ, không phải ở trường đại học, mà trong lúc xếp hàng đứng đợi để làm thủ tục nhận giấy tạm trú ở Pháp. Hàng người cũng dài lê thê, màu da và ngôn ngữ cũng phong phú, mặt người cũng nhẫn nhục không khác gì khi xếp hàng mua nồi hầm ở Matxcơva. Sau hai buổi đều tình cờ đứng cạnh nhau, tôi và Rita trở thành người quen. Phải mất hai buổi, là vì buổi đầu tiên tôi không có kinh nghiệm, mười giờ sáng mới lò dò đến nơi. Cứ tưởng chủ nghĩa tư bản thì không phải xếp hàng, hóa ra phàm thứ nào nhu cầu nhiều mà cung cấp nhỏ giọt thì đều phải hết sức kiên nhẫn mới may ra đến lượt. Xếp hàng được hai tiếng đồng hồ, phía trước còn quãng gần một chục người nữa thì hết giờ làm việc, thế là hôm sau đành phải phấn đấu lại từ đầu. Rút kinh nghiệm, sáng hôm sau tôi quyết dậy sớm, đến nơi từ chín giờ kém năm, tức là năm phút trước giờ mở cửa. Thất vọng tràn trề vì hóa ra không chỉ có mình khôn lỏi: bên ngoài tấm rèm sắt đóng kín mít đã có một đám người chầu chực sẵn, vẻ mặt mới sáng ra xem chừng đã phờ phạc như phải đứng cả đêm giữ chỗ ở đây. Đúng chín giờ, tấm rèm sắt được từ từ kéo lên. Đám đông bắt đầu nhốn nháo xô đẩy. Những người đứng trước thì vội vàng cúi khom xuống chui qua khe hở cho nhanh( tấm rèm trêu ngươi kéo lên rất chậm, mới hở ra một khoảng cách mặt đất chưa đến một mét: đợi thêm vài phút nữa cho nó kéo lên hẳn thì sốt ruột làm sao chịu nổi!), rồi ào ào chạy tọt vào trong. Những người đứng sau thấy thế cuống cuồng mạnh ai nấy chen để lao lên phía trước. Rita đứng cạnh tôi hốt hoảng lấy người che cho đứa con gái chừng hai tuổi đang ngồi trong xe đẩy vừa mới bị một gã to béo vô ý đạp vào: con bé khóc thét lên vì sợ hãi. Tôi giúp cô kéo cái xe đẩy ra khỏi dòng người, đợi cho mọi người vào hết, bức rèm cũng kéo hết lên, rồi tôi, Rita và một cô bụng to nữa (sau này hỏi ra thì biết là người Rumani) là ba người đi vào sau cùng. Vào trong nhà thì bắt đầu được xếp hàng, lấy số. Những người vào theo tư thế lom khom tất nhiên được nhận số đầu tiên, chỉ phải đợi năm mười phút là được giải quyết (bõ công chui). Những người dám chen thì phải đợi từ nửa tiếng đến một tiếng. Không dám chen như tôi, Rita và cô gái bụng to thì phải đợi quãng tiếng rưỡi nhưng rồi cũng xong việc. Phía sau tôi dần dần mọc ra một cái đuôi dài, những kẻ sẽ xếp hàng chừng hai tiếng để đổi được một kinh nghiệm quý báu, hôm sau sẽ biết điều dậy sớm hơn.

    Du học sinh được xếp một hàng riêng, giải quyết chóng vánh hơn các đối tượng khác. Tôi đứng cạnh Rita, nói chuyện một lát thì biết là cô học cùng trường với tôi. Cô sang Pháp mục đích chính không phải là đi học, mà là đi theo chồng. Vợ chồng cô đã quyết định rời bỏ hẳn nước Nga sau khi chồng cô xin được học bổng học cao học ở Pháp. Tuy nhiên, chồng Rita đi học nên không được phép mang theo vợ con, vì thế Rita bèn tìm cách đi theo danh nghĩa du học tự túc. Ở Nga, cô là giáo viên cấp ba, dạy tiếng Pháp. Sang đây, lúc đầu cô học ngành văn học Pháp, nhưng đến khi sinh con thì không còn có thời gian để học, lại túng tiền, cho nên cô bèn đổi sang ngành ngôn ngữ và văn học Nga. Lợi thế của ngành này là Rita không cần học cũng đã nói tiếng Nga hay hơn đứt các giáo sư. Phần lớn thời gian cô phải ở nhà trông con và hì hụi với những bản dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Nga để kiếm thêm tiền. Mỗi tuần, cô chỉ tranh thủ đảo qua trường một hai buổi, đến kỳ thi thì vác mặt đi thi để có đủ điều kiện tiếp tục gia hạn giấy tạm trú. Cái tờ giấy quý hóa này cũng là mục đích học tập của quãng một phần ba sinh viên lớp Rita, tức là những sinh viên người Nga như cô, mỗi lần gặp nhau (chủ yếu trong kỳ thi) là lại có dịp thực hành hội thoại tiếng Nga rào rào.

    Tôi và Rita trao đổi số điện thoại cho nhau, nhưng cả hai đều chẳng có dịp nào dùng đến vì không có việc gì cần, lại chưa thân đến mức thích tán gẫu qua điện thoại Tuy vậy, thỉnh thoảng tình cờ gặp nhau ở trường, chúng tôi vẫn dừng lại nói chuyện. Trong một lần gặp gỡ tình cờ như vậy, Rita đã “làm quà” cho tôi một thông tin: cô hỏi tôi đã biết về một buổi dạ hội có liên quan đến Việt Nam sắp diễn ra ở thành phố này chưa? Đó là một buổi dạ hội nhằm mục đích quyên tiền mua thuốc men và thiết bị y tế giúp các bệnh viện ở Việt Nam, do một nhóm bác sĩ Pháp phối hợp với hội “Những người bạn của Việt nam” tổ chức. Hôm trước, khi nhìn thấy tờ quảng cáo về chuyện ấy ở một phòng khám bệnh lúc đưa con gái đi tiêm chủng, Rita chợt nghĩ rằng có thể tôi sẽ quan tâm đến thông tin này.

    Quãng nửa năm sau, chồng Rita học xong và xin được việc làm ở thành phố khác. Cô bỏ học để đi theo chồng. Chúng tôi không còn gặp nhau nữa, cũng không giữ liên lạc với nhau. Vì vậy, Rita không hề biết rằng do câu chuyện “làm quà “ ấy của cô mà đời tôi đảo lộn. Tôi đã đến buổi dạ hội này, và ở đó tôi đã gặp Tr.

    Thực ra, nếu Cécile, cô bạn cùng khoa đồng thời là hàng xóm ở ký túc xá của tôi không rầu rĩ cả tuần vì bị bồ bỏ thì có khi buổi tối hôm ấy tôi vẫn vùi đầu vào đống sách ở nhà. Trước đó, đã hai tối liền tôi phải ngồi nghe nỗi lòng của Cécile. Cô chọn tôi để dốc bầu tâm sự chẳng phải vì thân thiết gì đặc biệt với tôi, càng không phải vì muốn hỏi ý kiến nhà tâm lý học (bản thân Cécile cũng học tâm lý nên các “võ” của dân tâm lý cô chẳng lạ gì). Chẳng qua vì cứ tối đến là mấy cô bạn gái khác trong ký túc xá biến đâu hết sạch, còn trơ lại có mỗi tôi. Thấy tôi tối nào cũng chăm chỉ ngồi nhà, có lẽ Cécile chắc mẩm rằng tôi cũng mang mối hận với bọn đàn ông như cô, nên cô bèn tạt vào phòng tôi để cùng nói xấu bọn ấy cho bõ ghét. Trình độ tiếng Pháp của tôi thời đó chỉ đủ để gật gù tán thưởng và thỉnh thoảng chêm vào một vài câu đưa đẩy (loại câu có thể sử dụng trong bất cứ trường hợp đau lòng nào), chứ chưa đạt đến độ góp được ý kiến riêng gì đối với một đề tài tinh tế như vậy. Nhưng Cécile cũng chẳng cần tôi nói, vì mới chỉ có mình cô nói thôi mà mất hai tối vẫn chưa xong bản cáo trạng dành cho giới đàn ông. Bản cáo trạng khá dài, vì hóa ra gã bạc tình kia không phải là kẻ có tội duy nhất, mà đã là người thứ tư ở danh sách bồ của Cécile trong vòng ba năm qua. Hai chàng đầu tội nhẹ thôi vì họ không định bỏ Cécile mà bị cô bỏ (tất nhiên, bỏ là có lý do chính đáng). Chàng thứ ba, mối tình day dứt nhất của Cécile (chia tay nhau vì một sự hiểu lầm), thì được hưởng quy chế “giận thì giận, mà thương thì thương”. Những cơn bão táp dữ dội nhất được trút cả lên đầu gã thứ tư, kẻ vừa mới chia tay với Cécile tuần trước. Mà chia tay là để đi lấy vợ mới khốn nạn chứ! Điều làm Cécile uất nhất là cô đã để lỡ cơ hội đá gã, cho nên phải chịu cái nhục là bị gã đá mình. Một mối nhục bất ngờ, vì từ trước đến nay cô vẫn nghĩ mình yêu tên này là hạ cố. Gã đã theo đuổi Cécile từ mấy năm nay, khi cô còn đang ở đời bồ thứ hai, sau đó vì quá đau buồn do tan vỡ mối tình thứ ba mà cách đây bốn tháng cô chấp nhận đến với gã. Đùng một cái, sau bốn tháng chiếm đoạt được trái tim (và những thứ đi kèm) của người đẹp mà mình đã khổ công đeo đuổi mấy năm trời, đột nhiên gã giời đánh tuyên bố rằng họ không hợp nhau, rằng với Cécile gã chỉ có sự say mê mù quáng nhất thời, chứ không thể có được hạnh phúc bền vững, thứ hạnh phúc mà gã tin rằng gã đã tìm được ở một cô gái khác. Sôi lên vì giận, Cécile đi tìm hiểu thì được biết thêm rằng đám cưới của người yêu mình đã được dự định tổ chức vào tháng sau. Thế còn chưa đủ, gã bạc tình còn giáng thêm một cú vào lòng tự trọng của Cécile khi (chẳng biết cố tình hay vô ý) để cho cô nhìn thấy “hạnh phúc bền vững” của gã: một mụ vừa già vừa xấu, béo như cái thùng tônô, chân như chân voi mà còn mặc váy ngắn, tóc xơ xác, mặt đầy tàn nhang, mỗi khi bước đi thì cằm tiến lên trước mông ít nhất nửa mét... Nói đến đây, nước mắt Cécile chảy tong tong, răng cô nghiến lại, uất hận vì bị mất người yêu về tay một kẻ không xứng là tình địch của mình. Lòng tự ái của cô bị tổn thương, sự tự tin bỗng dưng như ngọn nến lung lay trước gió.

    Kỳ quái làm sao, những giọt nước mắt của Cécile làm cho tôi cũng muốn khóc theo, thương bạn thì ít mà động lòng thương thân thì nhiều. Dẹp tự ái đi mà nói thì tôi cũng bị bồ đá như Cécile chứ có khác gì đâu. Cécile chỉ mất cho gã kia có bốn tháng thôi, chứ tôi đã dành cho K. cả năm năm tuổi trẻ. Thương yêu, đợi chờ, để rồi anh đột ngột bỏ đi với người khác mà không thèm nói lại một câu. Tôi không thể nào bắt mình căm giận được K. như Cécile, nhưng tôi quyết định không chôn vùi cuộc đời mình vào việc nhớ thương anh nữa.

    Tôi an ủi Cécile là cô rất đẹp (sự thực là như vậy: người cô dong dỏng cao và thon thả như “top model”, mọi đường nét đều thanh tú), thiếu gì người mê, việc gì phải đi thương tiếc một kẻ chẳng ra gì, thằng kia nó ngu thì nó thiệt... Rồi để giải khuây cho cô, cho mình, và để tránh một buổi tối thứ ba ngồi nghe tâm sự, tôi nghĩ cách rủ cô đi chơi. Cécile lắc đầu quầy quậy, bảo rằng cô đã chán những cuộc vui chơi giải trí, ngán đến tận cổ khi phải nhìn mặt bọn đàn ông, trông thằng nào thằng nấy đều rặt một phường lừa đảo...


Vậy là cuộc đời L.C sắp rẽ sang một hướng khác tại buổi dạ hội này ........................
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 28-3-2013 01:07:30 | Chỉ xem của tác giả
Cuối cùng, tôi cũng rủ được Cécile đến buổi dạ hội mà Rita đã báo cho biết. Cécile đồng ý đi chỉ vì chiều tôi, không nỡ để tôi phải đi một mình. Thêm nữa, đây lại là một buổi dạ hội từ thiện...
    Buổi dạ hội thu hút được khá nhiều người, cả Pháp lẫn Việt. Người Việt thì đủ thành phần, còn người Pháp thì chủ yếu là giới bác sĩ, nhân viên y tế, sinh viên y khoa (điều này về sau tôi biết là do nghe Tr. nói (anh ở trong ban tổ chức), chứ lúc ấy tất nhiên tôi không nhận diện ra được bác sĩ nào, vì ở đây không có ai mặc blouse trắng cả).
    Sau khi ăn hai cái nem rán, vài miếng tôm chiên bọc bột, mặt Cécile đã bớt đi vẻ u sầu. Người cô bắt đầu hơi nhún nhảy đung đưa theo điệu nhạc, tuy vậy cô vẫn chỉ đứng ngoài nhìn thôi chứ chưa bước chân vào sàn nhảy.
    Tôi chạy đi mua hai cốc nước quả cho tôi và Cécile, lúc quay lại thì thấy cô đang nói chuyện sôi nổi với một anh chàng tóc nâu, đeo kính cận. Nhìn qua thì thấy nhan sắc chàng này chẳng có gì đặc biệt, nhưng thật may là mặt anh ta hình như trông không giống phường lừa đảo, không làm cho Cécile ngán đến tận cổ. Bằng chứng là đôi mắt của Cécile không những không lúc nào rời người đối thoại ra, mà còn chuyển từ u sầu sang đong đưa, lúng liếng.
    Đưa cốc nước cho Cécile xong, tôi tế nhị đứng tránh xa ra một quãng. Lãng đi một tí, uống chưa xong cốc nước thì tôi đã nhìn thấy Cécile yểu điệu áp sát người vào chàng trai trong một điệu slow tình tứ từ lúc nào không biết.
    Chẳng còn cô bạn đứng cùng để tán chuyện, tôi bèn bỏ ra ngoài hít thở khí trời cho thoáng.
    Đêm đầu xuân có vị ngọt ngào của một que kem làm bằng nhiều loại trái cây hỗn hợp. Không khí se lạnh và phảng phất mùi hoa. Tôi bỗng nhận thấy cách mình mấy bước chân có một bụi tử đinh hương nở hoa tím ngắt. “ Xiren! Sao mới đầu tháng tư mà đã có xiren rồi nhỉ?”, tôi thầm nghĩ, bước lại gần và chợt nhận ra rằng cho đến giờ mình vẫn chưa biết tên tiếng Pháp của loại hoa này. Đối với tôi, nó vẫn chỉ là xiren, loài hoa mà cứ mỗi độ xuân về lại rạo rực phủ khắp quả đồi của thời sinh viên của tôi. Có lẽ vì ở đây ấm hơn nên xiren nở sớm. Ở Matxcơva, tháng năm mới là tháng của xiren.
    Đang định thưởng thức hương hoa thì bất chợt có mùi thuốc lá xộc vào mũi. Tôi nhăn mặt, khịt mũi, phẩy tay xua đi cái mùi khó chịu đó rồi đưa mắt nhìn quanh để tìm thủ phạm, nhưng trong ánh sáng mờ mờ tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài rặng hoa xiren tím một màu bí ẩn. Không muốn tiếp tục bị khói thuốc lá đầu độc, tôi bèn quay gót bước vào nhà.
    - Tôi dập điếu thuốc rồi đó, chị khỏi cần đi tránh khói thuốc nữa nhen, - anh đột ngột bước ra từ phía sau rặng cây, nói bằng một giọng bình thản thoáng một nụ cười, như là đã quen nhau từ lâu lắm.
    Tr. bước vào đời tôi bất ngờ như vậy. Với anh, tôi đi từ bất ngờ này sang bất ngờ khác.
    Buổi tối hôm ấy, lúc tôi đang đứng nói chuyện với Tr. thì Cecile khoác tay cậu bạn mới chạy ập đến, bảo: “Đừng đợi mình nhé, mình có việc phải đi chỗ khác”. Trước khi lao vút đi, cô còn liếc mắt nhìn Tr. một cái rồi mỉm cười ranh mãnh với tôi (ra ý bảo: “Hai chúng mình tối nay đều trúng quả!”). Cecile đi một lát thì tôi cũng muốn về, tuy buổi dạ hội chưa kết thúc. Tr. bảo để anh lái xe đưa tôi về. Tôi từ chối. Tr. cũng không nài, anh chỉ ghi cho tôi số điện thoại của anh và nói “hy vọng có dịp gặp lại”. Phân vân một lát rồi tôi cũng ghi cho anh số điện thoại của tôi.
    Tôi ra gần đến bến xe buýt thì thấy một chuyến xe đang rời bến. Đuổi theo không kịp nữa, tôi nhìn bảng giờ xe chạy mà chán nản cả người: vào cái giờ khuya này số chuyến xe bị giảm đi, phải nửa tiếng nữa mới có thêm chuyến khác. Bến xe vắng tanh không một bóng người. Tôi đứng co ro chưa được năm phút thì bất ngờ có một chiếc ôtô đỗ xịch ngay trước mặt. Tr. thò đầu ra, cười bảo: “Giờ này đợi xe buýt thì lâu lắm. Lên đây tôi chở về luôn đi. Tiện đường thôi, đừng ngại.” Thấy tôi còn ngần ngừ, anh dọa: “Chỗ này ban đêm không an toàn đâu.” Lý lẽ sau cùng này của Tr. quả là có sức thuyết phục: chẳng đợi anh mời thêm, tôi cun cút chui ngay vào xe của anh.
    Mấy ngày sau, một buổi tối Tr. gọi điện thoại cho tôi. Sau khi trao đổi vài câu xã giao, tôi hơi bất ngờ khi nghe anh hỏi tôi đã ăn tối chưa, nếu chưa, anh muốn rủ tôi đi ăn để giới thiệu cho tôi một tiệm ăn Việt Nam hay lắm (“Có đủ các món Bắc do đầu bếp người Bắc nấu”, Tr. nhấn mạnh). Bất ngờ với cả chính mình, tôi đồng ý ngay và hỏi anh là phải gặp nhau ở đâu, vào lúc mấy giờ. “Ở trước cổng nhà L.C., ngay bây giờ”, Tr. đáp. Tôi vội chạy ra cửa sổ nhìn xuống đường: Tr. bước ra từ chiếc ôtô đỗ ở lề đường, một tay cầm điện thoại, tay kia giơ lên vẫy tôi, mỉm cười.
    Quãng hai tháng sau đó, một buổi chiều chủ nhật, khi chúng tôi đi dạo bên bờ sông Garonne, đang nói chuyện linh tinh thì bất ngờ, không rào trước đón sau gì hết, Tr. bảo rằng anh yêu tôi và muốn cưới tôi.
    - Nhưng anh đã biết gì về em đâu mà muốn cưới em, - tôi nói, cảm thấy tim mình như nhảy dựng lên.
    - Anh biết về em nhiều hơn em tưởng, - Tr. trả lời.
    - Anh mới quen em hai tháng nay, làm sao mà biết nhiều được, - tôi phản đối.
    - Cũng đã đủ để tin rằng chúng mình rất hợp nhau, - Tr. nói hết sức tự tin.
    - Nhưng em thì chưa biết về anh đủ để có thể tin được như thế, - tôi bảo.
    - Vậy em muốn biết gì thì cứ hỏi, anh sẵn sàng trả lời, - Tr. cười đáp. - Hỏi cung nhiều lắm thì cũng một buổi là khai xong hết chứ mấy.
    Sau đây là những đoạn trích từ cuộc “hỏi cung”.
    - Sao đến giờ anh vẫn sống một mình? Trước đây, đã có lúc nào anh định lấy vợ chưa?
    - Anh muốn lấy vợ sớm lắm (cười), từ lúc chưa đến hai mươi tuổi, dạo còn ở Sài Gòn, nhưng không thành. Sau đó, cách đây ba năm thì có cô định lấy anh, nhưng rồi cũng không thành nốt (lại cười). Bây giờ là lần thứ ba, quá tam ba bận chắc phải xong (cả hai chúng tôi cùng cười, rồi tôi bảo: “Anh đừng có nói trước mà bước không qua đấy”).
    - Anh kể cho em nghe về lần đầu của anh đi. Vì sao lại không thành?
    - Vì gia đình anh quyết định rời Việt Nam. Anh nhất quyết đi vì ở Sài Gòn lúc đó anh không thấy có tương lai. Cô ấy là bạn học của anh. Anh muốn cô ấy đi cùng nhưng cô ấy không thể đi được. Ba cô ấy còn trong trại cải tạo, má thì bệnh nặng, cô ấy có bốn đứa em nhỏ. Anh phải đi một mình, hẹn nếu ổn định được thì sẽ tìm cách quay lại đón. Nhưng sự đời đâu có đơn giản như mình mong muốn. Cô ấy đợi anh năm năm rồi đi lấy chồng. Anh nghe nói... – Tr. đột ngột dừng giữa câu, rút một điếu thuốc ra châm lửa hút. Rồi có lẽ sực nhớ rằng tôi sợ mùi khói thuốc, anh lại vội dụi điếu thuốc, vứt đi.
    - Chắc là chị ấy buồn lắm, - tôi nói, tự nhiên thấy thương người con gái xa lạ ấy đến thắt cả lòng. Hẳn là chị cũng đã ngóng chờ anh như tôi từng ngóng chờ K.
    Tr. khẽ thở dài, không nói gì, nhưng tôi đọc được trên gương mặt anh câu trả lời: “Anh cũng buồn lắm.”
    - Còn lần thứ hai? – tôi hỏi tiếp.
    - Lần thứ hai thì không có gì thật đáng nói, - Tr. trả lời. - Đó là hồi anh ở Paris. Anh đi làm rồi, còn cô ấy vẫn là sinh viên. Đã có lúc nghĩ đến chuyện cưới, đã sống với nhau một thời gian, nhưng càng ngày càng thấy là tính tình không hợp, cứ cãi nhau hoài thôi. Sau hết chịu nổi nên quyết định chia tay. Cô ấy có ngay bồ khác, còn anh thì rời Paris xuống đây.
    - Vậy mà anh bảo là “không có gì thật đáng nói”. Anh phải chạy trốn khỏi Paris tức là cũng sâu sắc lắm rồi.
    - Không có chuyện “chạy trốn” đâu. Anh chuyển đến đây hoàn toàn là vì công việc. Ở Paris anh chưa có công việc ổn định, lại phải làm việc như bác sĩ đa khoa, trong khi anh tốt nghiệp chuyên khoa nhi. Chỗ làm việc của anh ở đây tốt hơn hẳn, được nhận là anh đi liền.
    - Anh yêu nghề lắm phải không? Bác sĩ nhi khoa là một nghề hay thật đấy. Hồi trước, cũng có dạo em mơ làm bác sĩ chữa bệnh cho trẻ con.
    - Bây giờ thì anh thích nghề này, nhưng thực ra hồi đầu anh học ngành y cái chính là vì chiều má anh thôi. Người Việt mình cỡ tuổi má anh ở đây, không biết sao ai cũng chỉ muốn con mình làm bác sĩ. Đối với mấy ông bà già thì không có nghề gì oai hơn là bác sĩ hết. Má anh cứ nói hoài, anh thấy cũng được nên nghe theo. Chớ còn trước đó, anh lại thích theo nghề khác.
    - Nghề gì vậy? – tôi tò mò hỏi.
    - Nghề kiến trúc. Hồi xưa anh thích làm kiến trúc sư lắm. Đến giờ, thỉnh thoảng vẫn thấy hơi tiếc, - Tr. thú nhận.
    Có một cái gì đó nhói lên trong tim tôi. Trong chốc lát, tôi tưởng như lại nhìn thấy K. đứng bên tôi, say sưa nói về ngành kiến trúc của mình. Nhưng bề ngoài Tr. không giống K., hoàn toàn không giống. Vóc người anh tầm thước, hơi gầy chứ không cao to như K., da ngăm ngăm đen, nụ cười lúc nào cũng thoáng vẻ tinh nghịch. Có lẽ, cái gây ấn tượng nhất đối với tôi là giọng nói của anh. Tôi không ngờ con trai Sài Gòn lại có giọng nói hay đến vậy: trầm, nam tính nhưng lại khá nhẹ nhàng, ấm áp, tình cảm nhưng không hề suồng sã, tóm lại là một giọng nói trời cho để gây lòng tin ngay phút ban đầu ở người đối thoại ( chính xác hơn là ở người đối thoại thuộc nữ giới).
    - Nghề kiến trúc à? Vậy chắc là anh thích vẽ lắm nhỉ? – tôi lại hỏi.
    - Hồi xưa anh cũng ham vẽ, nhưng từ khi học y thì bỏ. Bây giờ chắc không cầm nổi cây cọ nữa rồi, - Tr. cười
    Sau này, Tr. phàn nàn rằng anh đã bị tôi “tra tấn” về mặt tâm lý một cách hết sức “dã man”, vì sau khi anh đã thành khẩn khai báo hết mọi tội lỗi rồi mà tôi vẫn còn bắt anh phải sống trong trạng thái căng thẳng chờ đợi bản án mất gần hai tháng.
    Điều này Tr. tố lên như vậy sau ngày cưới của chúng tôi (để kể khổ và đòi bồi thường thiệt hại!), chứ còn trong chính thời gian chờ đợi đó, tôi không hề nhận thấy anh “căng thẳng” bao giờ. Lần nào gặp nhau anh cũng có thái độ bình thản với nụ cười tinh nghịch cố hữu. Chỉ có cái buổi tối quyết định ấy, khi anh đến rủ tôi đi xem phim và tôi bảo: “Để hôm khác đi xem phim được không anh? Tối nay, em có chuyện muốn nói với anh”, thì Tr. có vẻ hơi bối rối, nhưng anh trấn tĩnh lại ngay và cười đáp: “Em đã quyết định rồi phải không? Vậy thì em cứ tuyên án đi, anh nghe đây.” “Em muốn kể cho anh nghe một chuyện...một chuyện ngày xưa của em. Em nghĩ là anh nên biết, nếu anh vẫn muốn cưới em.” “Gì mà trang trọng vậy? Mà anh có yêu cầu em phải cung khai lý lịch hồi nào đâu?”, Tr. đùa, nhưng mắt thoáng vẻ lo ngại. “Chính vì anh không yêu cầu nên em mới càng thấy là phải kể cho anh biết, nếu không, em cảm thấy trong lòng không thanh thản”, tôi bảo.
    Tr. ngồi xuống đi văng, cạnh tôi, và tôi bắt đầu kể cho anh nghe câu chuyện của tôi và K., từ cái thời hạnh phúc ở Matxcơva đến những ngày chờ đợi tuyệt vọng ở Hà Nội. Tôi kể rằng suốt năm năm trời tôi không thể hình dung được cuộc đời của mình thiếu K., rằng tôi đã sống với K. một thời gian và cứ đinh ninh rằng sẽ sống với K. cả đời, rằng tôi chỉ thực sự đoạn tuyệt với giấc mơ này khi rời Hà Nội ra đi...Khi dừng lời, tôi nhận ra đầu mình đã tựa vào vai Tr. từ lúc nào không biết. Anh vòng tay ôm tôi thật dịu dàng và nói khẽ: “Anh hy vọng là sống với anh em sẽ được hạnh phúc.” “Em tin chắc là như vậy. Em tin điều đó ngay từ hôm anh nói là anh muốn cưới em”, tôi bảo. “Vậy sao em không nói với anh ngay từ hôm đó? Sao cứ bắt anh đợi hoài vậy? Em muốn thử thách anh à?” “ Không phải thế đâu. Cái chính là vì sống với anh có nghĩa là phải ở lại Pháp cả đời, mà em thì không hiểu mình có chịu đựng nổi cuộc sống lưu vong không. Em khác anh. Em còn bố, còn em trai ở Hà Nội. Em thương bố em lắm. Mẹ em mất vì trúng bom từ hồi hai chị em em còn bé xíu, bố em ở vậy nuôi bọn em bao nhiêu năm trời...”, tôi nói và bật khóc. Tr. khẽ xiết lại vòng tay, ôm tôi chặt hơn, rồi anh lấy mùi soa lau nước mắt cho tôi và bảo:”Bố em sẽ hiểu. Nhất định bố em sẽ hiểu. Mà em vẫn có thể đi về Hà Nội thăm bố được chớ.”
    Tôi viết thư cho em trai trước khi viết thư cho bố. D. lúc đó đã học xong ở Đức và mới trở về Hà Nội được ít lâu. Tôi hỏi ý kiến D. và nhờ nó làm “công tác tư tưởng” cho bố trước. Nhớ đến mảnh giấy ghi những lời dặn dò của bố cách đây hơn mười năm, khi tôi rời Hà Nội lần đầu để đi học ở Nga, nước mắt tôi trào ra, tôi lần lữa mãi vì không có đủ can đảm để viết thư cho bố.
    “Tất nhiên là bố sẽ buồn, nhưng nếu chị thực sự yêu anh Tr. thì em tin là bố sẽ không phản đối đâu. Chị đã hai chín tuổi rồi, chắc chắn là bố không muốn làm lỡ hạnh phúc của chị. Nếu vì thương bố mà chị bỏ anh Tr. về đây để rồi lại khổ sở thì chắc bố còn buồn hơn. Đến bây giờ mà nhắc lại cái hồi chị ở Nga về đi xin việc làm mãi chẳng ra sao, bố vẫn còn thương lắm...”, D. viết.
    “Con đã suy nghĩ kỹ chưa?” Bố tôi hỏi đi hỏi lại mấy lần câu đó, cả trong lá thư trả lời tôi lẫn trong lần tôi gọi điện thoại về Hà Nội để nói chuyện với bố. Bố bảo rằng nếu tôi đã quyết thì bố cũng không ngăn cản, điều mong muốn duy nhất của bố là tôi hạnh phúc. Nhưng bố tôi chỉ sợ là tôi quyết định vội vàng, sợ tôi không hợp với Tr., vì anh và tôi sinh ra, lớn lên trong những môi trường quá khác nhau.
    Chẳng riêng gì bố tôi, mà ngay cả T.H., cô bạn thân nhất của tôi cũng nghĩ thế. Khi tôi nói chuyện này với T.H. qua điện thoai, giọng cô bạn không giấu được vẻ băn khoăn.
    - Mày đã suy nghĩ kỹ chưa? Mày mới sang đây chưa lâu nên không biết, chứ tao ở đây lâu rồi tao biết. Dân Việt kiều di tản cũng phức tạp lắm C. ạ, họ nghĩ không giống mình, có những người không ưa du học sinh đâu, thậm chí có khi chỉ nghe mình nói giọng Hà Nội là họ đã ghét, - T.H. nói.
    - Tao không định lấy “dân Việt kiều di tản” chung chung, tao lấy một người cụ thể. Anh Tr. có thể có chuyện nghĩ không giống tao, nhưng chẳng bao giờ bắt tao phải nghĩ giống anh ấy cả. Mà cái chuyện “ghét giọng Hà Nội” chắc cũng tùy người thôi, chứ anh Tr. anh ấy lại bảo rằng giọng con gái Hà Nội trong trẻo, thanh thoát, dễ thương đấy chứ, - tôi đáp.
    - Khi mới yêu nhau nhiều khi không nhận thấy đâu. Với lại, ông ấy là một chuyện, còn gia đình ông ấy nữa chứ...
    - Này, sao tự nhiên mày lại thành bà già kỹ tính thế? - tôi sốt ruột kêu lên. – Mày với Pascal thì sao nào? Tây với ta còn hiểu nhau được, chả lẽ người trong một nước lại không hiểu nổi nhau.
    - Ấy, tây với ta cũng có lúc không hiểu nhau đấy, nhưng cái quan trọng là còn muốn hiểu, chứ người cùng một nước nhiều khi lại khăng khăng không muốn hiểu nhau đâu C. ạ. Nói thế thôi chứ cũng tùy người, tao có quen vài người giới ấy mà thấy cũng dễ chịu lắm. Mày dẫn hắn đến cho tao xem mặt đi, có khi gặp rồi tao lại đâm ra mê mẩn tâm thần như mày ấy chứ, - T.H. cười hì hì, đấu dịu.
    Tr. không cần mất nhiều thời gian để làm “mê mẩn tâm thần” cô bạn của tôi. T.H. lập tức có thiện cảm với anh ngày từ lần đầu tiên gặp mặt. Sau cuộc gặp gỡ đó, T.H. bảo tôi: “Bây giờ thì tao hiểu sao mày lại mê hắn. Mà sao ông này có giọng nói hay thế nhỉ?” Tôi cười tủm tỉm: “Tao biết mà. Nghe giọng nói đó là mày phải đầu hàng ngay, đố dám nghĩ xấu gì nữa nhé.”
    Tr. cũng hy vọng là sau khi gặp mặt tôi, mẹ anh sẽ phải “đầu hàng”. Mẹ anh sống ở Paris cùng em gái anh, anh chỉ mới nói chuyện với bà qua điện thoại. Nghe con trai bảo định lấy vợ, bà mừng bao nhiêu, thì khi biết lý lịch cô con dâu tương lai bà bực bội bấy nhiêu. Nhưng Tr. không nhụt chí, anh bảo rằng mẹ anh phản đối chỉ vì những định kiến vốn có từ lâu đối với dân Bắc, rằng những định kiến ấy chắc chắn sẽ tiêu tan khi mẹ anh gặp tôi. Trong con mắt si tình của Tr., tôi xinh đẹp, dịu dàng. Anh lạc quan, cứ tưởng rằng mẹ anh cũng sẽ nhìn tôi với con mắt như anh. Tôi thì thiếu kinh nghiệm, thừa tự tin, nên cũng không lo lắng lắm. Tôi vẫn nhớ hồi còn ở Hà Nội, không ít bậc cha mẹ có con trai đến tuổi lấy vợ coi tôi là con dâu lý tưởng (xinh vừa phải, vẻ mặt dáng điệu rất “con nhà”!). Bạn của bố tôi có khối người đòi “giấm” tôi làm con dâu. Khi tôi ở Nga về đến trình diện bố mẹ K., tôi đã được bố mẹ anh yêu quý ngay như con đẻ, mẹ anh cứ mong ngóng anh về để cưới tôi cho nhanh.


Kiểu như L.C mình cũng thích ^^

ôi ghét cái quy định 100 lí tự quá, cố gõ cho đủ 100 kí tự nào..................................
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 28-3-2013 01:12:21 | Chỉ xem của tác giả
Nhưng tiêu chuẩn “con dâu lý tưởng” của mẹ Tr. có lẽ không giống các bậc phụ huynh ở Hà Nội. Buổi ra mắt của tôi ở nhà anh là một thất bại ê chề. Mẹ Tr. thậm chí gần như không thèm nhìn mặt tôi nữa, bà sầm sầm bỏ ngay sang phòng khác khi Tr. vừa dắt tôi bước vào nhà, để mặc cho H., em gái Tr., tiếp bọn tôi. Không khí hết sức gượng gạo. H. luống cuống không biết cư xử thế nào cho phải: thương anh, muốn tỏ ra lịch sự với khách, nhưng lại sợ mẹ. Tr. vẫn cố tỏ ra bình thản, nhưng nhìn mắt anh tôi biết anh bực lắm. Ngồi được năm phút, tôi dứt khoát đứng dậy ra về. Tr. cũng đứng dậy theo tôi. H. không giữ, nhưng mẹ Tr. đột nhiên từ phòng bên cạnh bước ra nói bằng một giọng lạnh lùng: “Thằng Tr. ở lại đây má bảo!” Tr. trả lời bằng một giọng cũng lạnh lùng không kém: “Để bữa khác. Hôm nay con mắc bận.” Rồi không để mẹ anh kịp nói gì thêm, anh kéo tay tôi đi luôn. Chúng tôi đi thẳng ra ga, lên tàu về thành phố của mình.

    Ngồi trên tàu, Tr. bảo rằng dù mẹ anh muốn hay không thì anh vẫn cứ cưới tôi, anh đã ba mươi mốt tuổi rồi, mẹ anh không thể quyết định cuộc đời anh thay anh được. Anh vẫn tin rằng mẹ anh thực chất rất thương con, nên thấy chúng tôi hạnh phúc thì bà sẽ hiểu. Rồi anh thú nhận là còn chưa kể với tôi một lý do đã góp phần làm cho mẹ anh có thái độ dữ dội đến thế: hóa ra, bà cũng đã “giấm” sẵn cho mình một cô con dâu lý tưởng. Đó là một cô gái người Sài Gòn di tản như Tr. Hai gia đình quen nhau, muốn thông gia lắm, nhưng khổ nỗi là cả hai bên đương sự lại đều không có cùng ý muốn ấy với các bậc tiền bối. Mẹ Tr. chủ trương “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén” nên ra sức tổ chức những cuộc gặp gỡ “tình cờ” giữa cậu con trai và cô con dâu mơ ước của mình. Trong lúc bà đang hy vọng tràn trề (hay là hão huyền, theo lời Tr.) thì anh gặp tôi. Tôi trở thành người phải hứng chịu trách nhiệm về chuyện ước mong của mẹ anh bị đổ bể.

    Mấy ngày sau, mẹ Tr. bắn tin rằng bà sẽ từ con trai nếu anh cứ nhất định lấy tôi. Đây là tin bắn trực tiếp qua đường điện thoại, do mẹ Tr. ra lệnh cho H. truyền đạt lại với anh trai. Còn theo một nguồn tin vòng vèo (truyền qua dăm ba miệng người) mà tôi nhận được vài tuần sau đó thì tôi bị mẹ chồng tương lai kết tội là “thâm hiểm”. Bà đã kể lể với rất nhiều người quen ở Paris rằng bà vẫn biết con gái Hà Nội nó gian ngoan chớ không chân thật như con gái Sài Gòn mình, nhưng không ngờ nó thâm hiểm quá, nó giấu biệt đi cái vẻ nanh nọc, đáo để của gái Bắc kỳ, nó làm ra cái bộ hiền lành thục nữ để bỏ bùa mê thuốc lú cho con trai bà (hóa ra là tôi có được mẹ chồng quan sát, vậy mà tôi lại ngờ oan là bà không thèm nhìn mặt tôi). Nhưng đóng kịch giỏi mấy thì cũng chỉ lừa được thằng con trai dại gái của bà thôi, chớ qua mắt bà sao nổi!

    (Bản luận tội này của mẹ chồng đến tai tôi qua miệng T.H. Cô bạn nhanh nhẹn của tôi đã kiếm ngay ra được một người quen có quan hệ quen biết xa gần gì đó với gia đình Tr. ở Paris để điều tra tình hình. T.H. nói cho tôi biết điều này để “đề phòng”, nhưng lại cổ vũ tôi: “Đã quyết lấy thì cứ lấy, sợ gì!”)

    Tr. xin nghỉ phép một tuần để đưa tôi đi Italia chơi sau khi đăng ký kết hôn ở tòa thị chính. Thái độ của mẹ anh khiến cho cả hai chúng tôi đều không còn hứng thú tổ chức lễ cưới ồn ào. Tôi mơ ước đưa Tr. về Hà Nội thăm bố, nhưng cũng hiểu rằng giữa lúc mẹ anh đang giận dữ thế này thì việc anh theo tôi về Hà Nội có khác gì đổ thêm dầu vào lửa.

    Chuyến du lịch tuần trăng mật của chúng tôi gợn vệt buồn của một hạnh phúc không được những người thân chia sẻ. Nhưng cũng chính lý do đó lại làm cho nó đượm sắc màu lãng mạn và hương vị quyến rũ đặc biệt của trái cấm. Chỉ có một tuần mà Tr. kéo tôi đi khắp nơi: Venezia, Firenze, Roma và thậm chí cả Verona, quê hương của Romeo và Juliette, một thành phố nhỏ miền bắc Italia, kiến trúc chẳng có gì thật đặc biệt nhưng mỗi đường phố đều nhuốm vẻ huyền bí dịu dàng nhờ cái huyền thoại về cặp tình nhân nổi tiếng thời Trung Cổ.

    Ngày cuối cùng trước khi trở về Pháp, chúng tôi đứng trên tháp chuông cao chót vót của tòa thánh Vatican, nhìn xuống đường phố Roma với những dòng xe chạy ngược xuôi đã bị độ cao biến thành bé xíu, trông ngộ nghĩnh như ở xứ sở tí hon mà Guliver lạc đến. Bất chợt, choáng váng, chóng mặt trước khoảng không hun hút, tôi vội nép sát người vào Tr. và tự nhiên thấy hạnh phúc vô cùng khi cảm nhận phía sau đầu mình bờ vai vững chắc của anh, quanh người mình vòng tay ấm áp của anh. Tôi ngước mắt nhìn Tr., nhoẻn cười và phác một nụ hôn trên môi. Anh lập tức cúi xuống hôn tôi rồi nhìn tôi bằng ánh mắt “Romeo” đến nỗi tôi đột ngột rùng mình. Hình như...hình như tôi đã từng gặp một cái nhìn hệt như thế này ở một nơi nào đó, lâu lắm rồi... Matxcơva, một chiều buốt lạnh... Tôi vội úp mặt vào vai Tr. để giấu giọt nước mắt bỗng trào ra ngoài ý muốn. Trong lồng ngực tôi, quả tim như thắt lại, vật vã: nó biết rằng tôi yêu Tr., yêu thực sự, vậy mà tại sao một góc sâu thẳm trong lòng tôi vẫn chẳng thể quên K.?
    Đi Italia về được hơn một tháng thì tôi ốm lăn ốm lóc. Mới hưởng cái thú được vợ chiều chuộng cơm bưng nước rót có ít ngày, nay đã phải đổi phận xuống làm đầu bếp, đi chợ, nấu cơm, hầu vợ ốm..., vậy mà mặt mũi Tr. rạng rỡ vì hạnh phúc. Con mắt bác sĩ của anh nhanh chóng nhận ra ngay, trước cả tôi, là tôi ốm bệnh gì.

    Khi thằng con trai đầu lòng của chúng tôi ra đời, bà nội nó từ Paris gửi xuống cho cháu một con gấu bông to tướng và mấy bộ áo liền quần xinh xắn. Thằng cu chưa đủ trình độ để phấn khởi vì được quà, nhưng ba nó thì mừng đến rơm rớm nước mắt: một năm qua, anh vẫn ngấm ngầm đau khổ vì xung đột với mẹ, giờ đây, anh hiểu rằng bà đã nhượng bộ, bà không thể “từ” con cháu nổi. Tr. lập tức thu xếp đi Paris, mang theo một lô ảnh của con trai. Khi trở về, anh kể với tôi rằng hai mẹ con anh đã có một cuộc nói chuyện rất dài. Mẹ anh khóc lóc, mắng mỏ, trách móc, nói dỗi..., nhưng khi nhìn ảnh thằng cháu đích tôn thì bà mê lắm (làm sao mà không mê được: nó giống ba nó như đúc ). Tuy bà vẫn chưa muốn nghe nói đến con dâu, nhưng Tr. rất ung dung, anh bảo là bà muốn cháu thì trước sau cũng phải làm lành với mẹ nó.

    Tôi gửi ảnh con trai về khoe với ông ngoại và cậu nó ở Hà Nội. Bố tôi cũng thích mê thằng cu mũm mĩm (tuy nó chẳng giống mẹ tí nào!). Nói chuyện với bố qua điện thoại, tôi hứa: “Đợi cháu cứng cáp thêm một chút, con sẽ đem nó về Hà Nội thăm ông”.

    Nhưng tôi đã không bao giờ thực hiện được lời hứa ấy. Bố tôi mất đột ngột khi thằng cháu ngoại đầu tiên của cụ mới được bốn tháng tuổi.

    D. gọi điện báo cho tôi tin bố mất vào lúc nửa đêm. Đêm hôm đó, Tr. phải đi trực ở bệnh viện, tôi ở nhà một mình với con trai. Vừa dỗ được thằng bé ngủ lại sau bữa bú, tôi ngả lưng xuống giường, mắt ríu lại vì thiếu ngủ, thì đột nhiên một hồi chuông điện thoại vang lên. Ở đầu máy bên kia, D. nghẹn ngào bảo:”Bố ốm nặng lắm, khó lòng qua khỏi, chị về ngay đi...” Tôi cuống quýt hỏi: “Bố ốm bệnh gì? Từ lúc nào? Có cần thuốc gì để chị đi kiếm mang về ngay?” D. khóc nức lên: “Bố mất rồi... Hai tiếng trước... Chị về ngay để còn kịp làm tang lễ. Ở nhà chỉ còn đợi chị về thôi.”

    Tr. định đưa tôi và con trai về Hà Nội, nhưng thời gian gấp quá, chỉ kiếm được một vé máy bay để hai hôm sau thì bay ngay, chúng tôi đành quyết định là tôi về một mình. Tôi không kìm được nỗi lo cho con, thằng bé mới có bốn tháng đã phải xa mẹ, nhưng Tr. bảo tôi là không có gì phải lo hết cả, vì thằng cu lúc nào cũng có bác sĩ nhi khoa kè kè ở bên, ba nó chữa bệnh cho con người ta mãi rồi, chả lẽ không chăm nổi con mình. Rồi anh gọi điện thoại lên Paris nhờ mẹ anh xuống trông con giúp những lúc anh phải làm việc ở bệnh viện, bà đồng ý ngay.

    D. đợi tôi ở sân bay Nội Bài. Nó kể rằng bố tôi vào viện được một tuần thì mất.

    - Sao không báo ngay cho chị biết khi bố mới vào viện? - tôi trách.

    - Tại bố không cho. Bố bảo bố ốm thường thôi, chị thì lại có con nhỏ, nói chị chỉ thêm lo chứ chẳng được việc gì. Em cũng không ngờ bố ốm nặng thế.

    - Bố bị bệnh gì vậy?

    - Bệnh tim.

    - Sao lại thế được nhỉ? Từ trước đến giờ bố có bị bệnh tim bao giờ đâu?

    - Hơn một năm nay bố không được khỏe như trước nữa đâu. Bố hay kêu mệt. Em nghĩ có lẽ bố đã có vấn đề về tim rồi, nhưng bố cứ chủ quan. Cũng tại em nữa, em cũng chủ quan nốt...

    Hơn một năm nay... Có nghĩa là từ khi tôi lấy chồng...

    Kể từ ngày hôm đó, tôi biết rằng gánh nặng này sẽ đi theo tôi suốt cả cuộc đời. Nó ám ảnh tôi trong những đêm không ngủ, nó bất chợt hiện ra mọi lúc mọi nơi: khi hạnh phúc bên chồng con, lúc lẩn tránh tất cả để co lại với nỗi đau của riêng mình... Không bao giờ tôi có thể xóa bỏ nổi mặc cảm rằng bố tôi mắc bệnh tim là do tôi, là do quá đau buồn về việc tôi lấy Tr. và ở lại Pháp.

    Trong lễ tang bố tôi, tôi nhìn thấy bố mẹ K. Hai ông bà đến nói với tôi vài câu chia buồn. K. không có mặt ở đó. Tôi nghĩ chắc là anh vẫn còn ở Ba Lan. Nhưng tôi không muốn hỏi bố mẹ anh về chuyện này, bây giờ không phải lúc. Vả lại, chuyện ấy có gì quan trọng với tôi nữa đâu?

    Sau tang lễ một tuần, tôi rời Hà Nội. Dọc đường ra sân bay, tôi nhìn những phố xá thân quen với cặp mắt vô hồn, tự hỏi chẳng biết có khi nào trở lại đây nữa không? Tôi có còn gì ở Hà Nội nữa đâu ngoài những kỷ niệm đau buồn. Ở đây, tôi đã mất tất cả: mẹ, bố, một tình yêu đầu đời, những hy vọng về một hạnh phúc tương lai bình dị... Tự nhiên, trong lòng tôi trào lên cảm giác oán giận thành phố chôn rau cắt rốn của mình. Một sự oán giận bất công, vô lý, tôi biết vậy. Nhưng con tim đau đớn có bao giờ chịu lắng nghe tiếng nói của lý trí.

    Ba tháng sau ngày bố tôi mất, D. sang Đức dự một hội nghị khoa học rồi ở lại đó luôn. D. kiếm được việc làm ra tiền rất khá ở Đức, lại có người yêu đang học đại học ở đây, nên chẳng muốn về Hà Nội nữa. D. bảo tôi là đáng lẽ nó đã ở lại Đức ngay từ khi học xong, chỉ vì thương bố mà về.

    Tôi gọi điện thoại sang Đức cho D., hỏi thăm việc giải quyết tình hình nhà cửa. Nói chuyện một lát, tự nhiên D. sực nhớ ra:

    - Chết thật! Nhiều việc quá nên em quên mất. Anh K. dặn đi dặn lại em là chuyển lời chia buồn đến chị đấy.

    - Em gặp anh K. ở đâu? - tôi bàng hoàng hỏi.

    - Ở nhà mình. Chị quay lại Pháp được một hôm thì anh ấy đến. Anh ấy bảo là đi công tác trong Nam ra, biết tin là anh ấy đến ngay. Không được gặp chị, anh ấy buồn lắm.

    - Anh K. về Hà Nội từ lúc nào vậy?

    - Lâu rồi. Sau khi em về nước quãng nửa năm.

    - Anh ấy sống thế nào, em có biết không? – tôi ngập ngừng hỏi.

    - Hình như cũng vất vả. Chạy hết chỗ này đến chỗ khác. Khi em sang đây thì nghe nói anh ấy đang định lập công ty cùng với mấy ông bạn hay sao ấy, chẳng biết có khá hơn được không.

    Do dự một lát rồi D. nói thêm:

    - Chị biết không, anh K. vẫn chưa lấy vợ.

    Nhiều năm sau đó, thỉnh thoảng tôi vẫn được biết tin tức của K. qua em trai tôi. Ở Berlin, tình cờ D. lại làm việc cùng chỗ với S., bạn khá thân của K. từ hồi học phổ thông (tôi đã từng gặp S. dạo ở Mat xcơva, lúc đó anh đang học ở Đức, sang Nga chơi với K. trong kỳ nghỉ). Chính là qua S. mà vài năm sau tôi biết được tin K. lấy vợ. Một cô gái trẻ mà anh quen ở trong nước, không phải là người đã sống với anh ở Ba Lan.

    Chuyện gì đã xảy ra khiến K. từ Ba Lan về nước một mình? Tại sao suốt thời gian ở Ba Lan anh nhất quyết không viết thư cho tôi? Anh có nghĩ đến tôi không khi quyết định về nước? Anh biết tin tôi lấy chồng từ khi ở Ba Lan hay đến lúc về Hà Nội mới hay?

    Quá nhiều câu hỏi không có câu trả lời chất chứa trong đầu tôi. Tôi tự nhủ rằng mình và K. đều đã có hạnh phúc riêng, chẳng còn gì để phải vương vấn về nhau nữa. Vậy mà đôi khi những câu hỏi ấy vẫn cứ ập về. Tôi không sao gạt khỏi hẳn đầu mình những ý nghĩ về K. được.


Đọc đến đây mà buồn quá, rất thương và kính trọng bố L.C, một người bố tình cảm............................
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 3-4-2013 19:57:37 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10

Lan Chi không sao gạt được khỏi đầu mình những ý nghĩ về Kiên kể từ hôm đặt chân đến Berlin. Mặc dù cô ra sức tự khẳng định với mình rằng mục đích chính của chuyến đi này chỉ là thăm gia đình cậu em trai, có “chuyện gì khác” thì cũng chỉ là nhân thể, thế nhưng ngay từ đêm đầu tiên ở đây, trằn trọc khó ngủ vì cảm giác lạ nhà, trong đầu cô chốc chốc lại lởn vởn một câu hỏi: ”Không biết giờ này Kiên đã ở Berlin chưa nhỉ?”

    Cũng khó mà không nghĩ về cái “chuyện gì khác” ấy, khi biết rằng rất có thể hiện giờ Kiên đã ở đây, trong chính thành phố này, cùng hít thở bầu không khí này, cùng ngắm vòm trời đầy sao này bên ngoài cửa sổ... Và rất có thể sáng mai, một hồi chuông cửa sẽ vang lên, cô sẽ ra mở cửa và sẽ thấy trước mắt mình là một bông hồng nhung đỏ thắm.

    Bắt quả tang mình đang mơ mộng vẩn vơ như vậy, tự nhiên Lan Chi thấy hơi xấu hổ, cô tự mắng mình là “cải lương” rồi tự dội cho mình một gáo nước lạnh: “Vớ vẩn thật! Chắc gì cái tin mà Tài “ủng” tung ra đã đúng. Tin ai chả tin, lại đi tin cái mồm dẻo như kẹo kéo ấy. Vả lại, nếu Kiên có mặt ở Berlin thời điểm này thật thì cũng chắc gì anh ấy đã biết là mình đang ở đây. Mà nếu anh ấy biết mình đang ở đây thì cũng chắc gì anh ấy đã muốn tìm gặp mình. Mỗi người một phận rồi, còn hoa cúc hoa hồng gì nữa!”

    Tự trấn áp mình như vậy cho lương tâm yên ổn thôi, chứ thực ra Lan Chi cũng biết rằng những mơ mộng của cô không hẳn là không có cơ sở. Ngay từ khi mới dự kiến chuyến đi này, cô đã nhẩm tính rất nhanh rằng nếu Kiên đến Berlin thì thể nào anh cũng phải đến chỗ Sơn, ông bạn thân của anh ở thành phố này. Sơn thì hàng ngày đều gặp Duy ở chỗ làm việc, nhất định phải biết chuyện Lan Chi từ Pháp sang thăm em trai. Chẳng có lý do gì mà Sơn lại không nhanh nhảu truyền ngay cái tin ấy cho Kiên để làm quà. Diễn biến tiếp theo thế nào thì... hạ hồi phân giải.

    “Hạ hồi” không diễn ra nhanh chóng lắm: ngày hôm sau, lại ngày hôm sau, rồi thêm ngày hôm sau nữa, vẫn chẳng thấy động tĩnh gì. Nhưng Lan Chi cũng không có thời gian để bận tâm nhiều đến chuyện đó: vừa mới sang Đức được vài hôm, cô còn đang rối rít tít mù với con, với cháu, với em trai em dâu. Ban ngày thì cùng em dâu dắt một bầy năm đứa vừa con vừa cháu đi chơi. Tối đến thì hàn huyên với em trai, đủ thứ chuyện trên trời dưới biển của mấy năm xa cách. Hai chị em vẫn thường xuyên liên lạc với nhau qua điện thoại và e-mail, nhưng với lối trao đổi ngắn gọn này thì có nhiều chuyện dài dòng chẳng tiện nói ra, bây giờ gặp nhau mới là lúc dốc bầu tâm sự.

    “Bầu tâm sự” của Duy chủ yếu là những chuyện liên quan đến Thu Uyên (vợ Duy). Lúc vừa mới bước vào nhà, Lan Chi đã hơi sửng sốt khi nhìn thấy vẻ mặt mệt mỏi, buồn bã của em dâu. Chẳng còn gì giống cô gái tươi roi rói, mắt long lanh hạnh phúc mà Lan Chi gặp lần đầu trong lễ cưới của em trai cách đây dăm năm nữa. Ở thêm vài hôm thì lại chứng kiến thêm nhiều chuyện lạ: thỉnh thoảng, lại thấy cô em dâu thắp hương xì xụp khấn vái thần thánh gì đó với một vẻ hết sức thiết tha trước cái bàn thờ nhỏ kê ở góc phòng. Rồi đến bữa ăn, sau khi đã trổ tài xào nấu đủ món thơm điếc mũi để thết chị chồng xong, ngồi vào bàn, Thu Uyên lại dọn riêng ra cho mình một đĩa rau luộc và bảo: “Cả nhà cứ ăn ngon miệng nhé. Hôm nay em ăn chay.” Lan Chi ngạc nhiên đưa mắt nhìn Duy, nhưng cậu em trai ra hiệu cho cô cứ ăn đi, đừng bận tâm đến chuyện đó, cho nên cô đành giả bộ toàn tâm toàn ý tập trung vào bữa ăn, nhưng trong lòng thì cứ thắc mắc mãi không yên. Đợi lúc chỉ còn hai chị em ngồi lại với nhau, Lan Chi hỏi ngay: “Này, sao tự nhiên Thu Uyên lại cúng vái ăn chay thế nhỉ? Cái này là từ trước hay mới đây thôi? Vợ chồng em có chuyện gì trục trặc không đấy?” Duy thở dài: “Mới gần đây thôi. Bọn em thì chẳng có chuyện gì. Có chuyện là chuyện gia đình Uyên ở Hà Nội ấy chứ.”

    Gia đình Thu Uyên ở Hà Nội mấy năm nay không hiểu sao cứ bị vận hạn trút xuống đầu tới tấp. Đầu tiên là việc cậu em rể của cô chả rõ làm ăn thế nào mà tự dưng vỡ nợ. Chuyện hết sức mù mờ, Duy không hiểu nổi vì ngay cả Thu Uyên cũng chẳng hiểu gì mấy. Chỉ biết rằng cậu em rể này mấy năm trước thì làm ăn vô cùng phát đạt, tiền của thu về như nước (cũng chẳng rõ bằng cách nào), nhà xây cao ngất ngưởng, cô vợ (em gái của Thu Uyên) vốn là giáo viên cấp hai thì đẻ con xong bèn bỏ việc luôn, chỉ ở nhà ôm con, quản lý ôsin và đi “shopping” để tiêu tiền cho bớt nặng túi. Nhưng tiền đến nhanh nhẹn như thế nào thì tiền đi cũng chóng vánh như vậy.

    Trong lúc Thu Uyên còn đang hết sức ngưỡng mộ tài làm kinh tế của cậu em rể, thỉnh thoảng vẫn đem ra để treo gương sáng cho chồng mình noi theo, thì tự nhiên cô nhận được lá thư kêu cứu của mẹ gửi từ Hà Nội. Trong thư, mẹ Thu Uyên cho biết rằng công việc làm ăn của Tùng, em rể cô, đã bị đổ bể, do cậu ta vừa bị lừa trong một phi vụ làm ăn lớn ( hay là chính cậu ta đi lừa người khác rồi bị phát giác - điều này chỉ là nghi vấn thôi chứ vợ chồng Duy không xác định được, vì mẹ Thu Uyên nói hết sức lấp lửng). Chỉ có điều chắc chắn là cái nhà cao ngất ngưởng đã bị tịch thu, Tùng nợ ngập cổ đang đợi ngày ra tòa, và Trâm (em gái Thu Uyên) thì dọa rằng nếu chồng phải đi tù thì cô sẽ tự tử. Mẹ của Thu Uyên viết bằng một giọng vừa ra lệnh vừa van xin, giục vợ chồng cô gửi tiền về để cứu em, chứ chẳng lẽ anh chị sống sung sướng mà nỡ để gia đình em nó tan nát, con Trâm nó có làm sao thì mẹ cũng chẳng thiết sống làm gì. Đọc thư, Thu Uyên hoảng loạn tâm thần, cuống cuồng bắt chồng vét hết sạch số tiền dành dụm trong nhà băng ( tích cóp nhằm mục đích mua nhà ) để gửi về trả nợ cho em rể. Ai ngờ, anh chị kiếm tiền ở tây không giỏi bằng cậu em rể tiêu tiền ở nhà. Hy vọng mua nhà của vợ chồng Duy vỡ tan như bong bóng xà phòng mà vẫn không cứu được Tùng khỏi cái cảnh vào nhà đá ngồi bóc lịch.

    Em gái của Thu Uyên không tự tử nhưng khóc lóc ôm con về ở với bố mẹ, việc làm chưa có, tiền cũng không. Gia đình tự nhiên lâm vào cảnh cùng quẫn: bố mẹ Thu Uyên xưa nay vốn không có nguồn thu nhập nào khác ngoài lương hưu và trợ cấp của con, cả con phát đạt trong nước lẫn con kéo cày ở nước ngoài. Nay không những đã mất đi một nguồn quan trọng, mà lại phải gánh thêm con gái và cháu ngoại tay trắng về ăn bám. Tất nhiên, sức các cụ thì tự thân vận động hãy còn mệt, làm sao gánh nổi ai. Lại phải trông chờ vào con gái con rể ở Đức thôi.

    Vợ chồng Duy nhận thêm trách nhiệm chu cấp cho một gia đình bốn miệng ăn ở Hà Nội đúng vào thời điểm Thu Uyên vừa mới sinh đứa con thứ hai. Lúc trước, cô vốn đã chỉ có chỗ làm việc nhì nhằng, thu nhập không đáng kể, nên khi có thêm bé thứ hai, vợ chồng Duy tính toán thấy Thu Uyên đi làm chẳng bõ tiền thuê người trông con, nên bèn quyết định để cô thôi việc, ít nhất là vài năm khi con còn nhỏ. Nhân khẩu tăng, tiền không những không nở ra mà còn teo lại, vốn liếng trong nhà băng thì đã vét sạch cả rồi, đương nhiên vợ chồng Duy không có đủ khả năng để trợ cấp cho gia đình Thu Uyên ở Hà Nội với mức độ như mong muốn. Những lá thư nhà bắt đầu bay sang tới tấp, mỗi lá thư có ít nhất một câu chuyện đau lòng về cuộc sống của gia đình Thu Uyên ở Hà Nội, kèm theo dăm câu ám chỉ bóng gió đến những kẻ bội bạc, ích kỷ, chỉ biết sướng cái thân mình ở nước ngoài mà chẳng thiết gì đến những người ruột thịt ở quê hương. Mỗi lần đi làm về, chỉ cần nhìn thấy mắt vợ đỏ mọng lên là Duy biết ngay rằng vừa mới có thư từ Hà Nội gửi đến.

    Tai họa chưa dừng lại ở đó. Cách đây hơn nửa năm, bố Thu Uyên đột nhiên bị tai biến mạch máu não, cả nhà đã có lúc tưởng cụ không qua khỏi, may được Giời Phật phù hộ nên cụ thoát khỏi tay tử thần, nhưng vẫn phải nằm liệt giường liệt chiếu. Nhà đã quẫn lại càng quẫn: bao nhiêu khoản chi tiêu nảy ra, nào tiền thuốc thang, nào tiền thuê nguời chăm sóc bố..., mà nguồn trợ cấp thì không có cách gì sinh sôi nảy nở thêm ra được. Thấy Thu Uyên khóc nhiều quá, Duy xót ruột nên chạy đi vay tiền cho vợ về Hà Nội thăm bố ốm, tất nhiên ngoài tình cảm ra còn phải mang theo về được một khoản kha khá để đỡ đần các cụ ở nhà. Trở lại Berlin, vợ Duy đã có vẻ thanh thản hơn. Nhưng chỉ vài tháng sau, khoản tiền ở Hà Nội tiêu xong thì sự thanh thản của Thu Uyên cũng hết. Mắt cô lại đỏ mọng lên mỗi lần nhận được thư nhà. Những câu chuyện kể trong thư giờ đây không chỉ dừng lại ở chỗ đau lòng mà đã lên đến mức thê thảm. Những câu ám chỉ bóng gió đã chuyển thành những lời mắng mỏ, đay nghiến. Chỉ còn một chỗ bấu víu duy nhất trong lúc tuyệt vọng, mẹ Thu Uyên không thể nào hiểu nổi rằng nước Đức không phải là cái kho của “Alibaba” và túi tiền của con gái con rể bà không giống như nồi cơm Thạch Sanh. Tiền càng chậm gửi thì độ sâu sắc trong thư của bà càng tăng lên, không còn là thể văn kể chuyện thông thường mà đã nâng lên đến tầm triết lý với những lời cảnh báo về cái tòa án lương tâm khủng khiếp sẽ chờ đợi những kẻ bất hiếu, nhẫn tâm bỏ rơi bố mẹ khốn khổ ở trong nước để hưởng giàu sang phú quý một mình ở nước ngoài
.


ôi, chữ như kiến @@..............................................................................
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 3-4-2013 19:59:00 | Chỉ xem của tác giả
Thế nhưng, trái với dự kiến của mẹ Thu Uyên, tra tấn lương tâm hóa ra chẳng phải là một biện pháp kinh tế tốt để làm nảy ra tiền. Dù có sợ vạc dầu sôi sùng sục nơi địa ngục đến mấy thì vợ chồng Duy cũng chịu chết, không biết làm sao kiếm ra đủ tiền để đáp ứng nổi nhu cầu của gia đình Thu Uyên ở Hà Nội. Vợ Duy không chỉ khóc mỗi lần nhận được thư nhà nữa, cô bắt đầu rơi vào trạng thái thẫn thờ thường xuyên. Khổ sở vì cảnh nhà, đau đớn vì những lời mắng mỏ của mẹ, mặc cảm vì để chồng phải bao bố mẹ mình quá nhiều, chán chường vì cuộc sống của mình với chồng con ở Đức tự nhiên trở thành chật vật..., Thu Uyên suy sụp thần kinh hoàn toàn. Duy cố gắng động viên an ủi vợ, nhưng chính bản thân anh nhiều lúc cũng bực bội chán nản, chẳng đủ sức làm chỗ dựa tinh thần cho Thu Uyên. Vậy là từ hai tháng nay, Thu Uyên bắt đầu lập bàn thờ ở nhà và chăm chỉ đi lễ. Thấy vợ ăn chay, tụng niệm, thoạt đầu Duy cứ tưởng Thu Uyên quy đạo Phật, sau mới rõ là cô theo một thứ đạo đa thần, cúng vái từ Giời Phật đến thần linh ma quỷ, đối với vị nào cũng thành tâm như nhau. Kinh kệ chả thuộc câu nào, cũng chẳng biết chính xác đối tượng thờ cúng của mình là ai nữa, Thu Uyên chỉ nghĩ ra được độc có mỗi một kiểu khấn duy nhất là “xin các vị linh thiêng phù trợ, giải hạn cho gia đình con”. Nghe bảo ăn chay giúp cho thể xác phàm tục trở nên thanh thoát, mà càng thanh thoát thì càng dễ làm động lòng các “các vị” hơn, vậy là Thu Uyên cũng ăn chay. Nhưng cô không câu nệ ngày rằm hay mùng một gì cả, mà cứ vài hôm lại ăn chay một lần, tùy theo tâm trạng, với chủ thuyết rằng càng ăn chay nhiều càng tốt. Người truyền cho Thu Uyên chủ thuyết này là chị Ngoan, một chị hàng xóm cùng phố, chị này ăn chay theo lịch ba trăm sáu mươi nhăm ngày một năm.

    Ảnh hưởng của chị Ngoan đối với Thu Uyên trong thời gian gần đây làm cho Duy vừa ngạc nhiên, vừa lo sợ. Chị này vốn thuộc diện “xuất khẩu lao động”, tốt bụng nhưng đơn giản, lại hơi quê mùa, cho nên trước đây vợ Duy chỉ có quan hệ xã giao với chị như với một người đồng hương cùng phố, chứ chưa bao giờ thân thiết. Thế rồi cách đây quãng hai năm, một lần gặp chị Ngoan ngoài phố trong tình trạng đột nhiên không còn sợi tóc nào trên đầu, Thu Uyên sửng sốt dừng lại hỏi thăm. Tỉ tê trò chuyện một lúc, cô bàng hoàng được biết rằng chị mới cạo đầu sau khi nhận được tin thằng con trai duy nhất của mình gửi ông bà ngoại ở quê nuôi vừa bị chết đuối. Đi “xuất khẩu” ở Đức bị chồng ở nhà bỏ, mấy năm nay chị Ngoan vừa ky cóp tiền để gửi về nuôi con và nuôi bố mẹ ở trong nước, vừa tìm cách đón con sang. Nhờ người dắt mối, chị đã tìm được một ông tây đồng ý làm đám cưới giả với chị, giá cả phải chăng. Tiền đã trao, đến lúc sắp sửa tiến hành làm thủ tục giấy tờ thì đột nhiên ông tây lại ngãng ra, trả lại tiền, không chịu làm chồng hờ nữa. Hỏi đi hỏi lại mãi, tốn bao nhiêu thời gian, ông tây mới tiết lộ ra rằng tại chị vừa già vừa xấu, cho nên ông thấy khoản tiền ấy chẳng bõ công ông phải xấu hổ vác mặt đi làm các thủ tục kia (“Mà lão còn già và xấu gấp mấy mình ấy chứ”, chị Ngoan căm giận kể lại như vậy, không biết trong nhận xét này có bao nhiêu phần chủ quan.) Chẳng còn cách nào khác, chị Ngoan lại phải mặc cả trả thêm tiền, rồi cuối cùng cũng nhận được cái giấy xác nhận là vợ (hờ) của ông tây. Đang mừng rỡ chuyển sang giai đoạn làm giấy tờ để đón con trai sang Đức thì nhận được tin thằng bé chết đuối. Quá đau đớn, chị cạo trọc đầu, ăn chay, và ngoài giờ làm việc ra thì dồn toàn bộ tâm huyết vào việc lễ bái.

    Câu chuyện thương tâm của chị Ngoan làm Thu Uyên xúc động đến nỗi từ đó thỉnh thoảng cô lại chủ động ghé vào thăm chị, hỏi xem chị có cần giúp đỡ gì không. Chị Ngoan bắt đầu “truyền đạo” cho Thu Uyên. Mới đầu, vợ Duy chỉ nghe chị Ngoan vì lịch sự, nhưng rồi gần đây, sau những biến cố xảy ra với gia đình mình, cô bèn theo chị đi lễ. Nếu không vì Duy vừa dỗ dành, vừa dọa dẫm thì Thu Uyên còn định noi gương chị Ngoan mà cự tuyệt thịt cá hoàn toàn. Bây giờ, một trong những nỗi ám ảnh lớn của Duy là một hôm nào đó đi làm về nhà sẽ thấy vợ đón mình với cái đầu trọc lốc.

    “Chị nói chuyện với Uyên hộ em đi, - Duy năn nỉ Lan Chi. – Em thì chịu rồi, chẳng biết nói làm sao cho Uyên tỉnh lại. Chị khách quan hơn, lại học ngành tâm lý, nhiều kinh nghiệm, có khi Uyên nghe chị đấy.” “Ừ, chị sẽ cố thử xem sao, - Lan Chi hứa. – Nhưng chị nghĩ, nếu lễ bái một chút mà làm cho Uyên nó thanh thản hơn thì có lẽ cũng chẳng hại gì. Cái chính là đừng có quá đà, đừng có trở thành mê muội thôi. Chứ ai mà chẳng cần một chỗ dựa tinh thần hả Duy. Em biết không, cái hồi bố mới mất nhiều lúc chị tưởng như không chịu nổi, giá có một cái gì để bấu víu vào thì có khi cũng đỡ khổ hơn.”

    Đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm dùi mài kinh sử, Lan Chi được giao nhiệm vụ áp dụng kiến thức chuyên môn tâm lý học của mình vào một đối tượng cụ thể “có vấn đề”. Mục đích đặt ra là phải làm giảm bớt ảnh hưởng của chị hàng xóm trong địa hạt tư tưởng của cô em dâu. Chuẩn bị tinh thần hết sức kỹ càng, nhưng cuối cùng hóa ra gợi chuyện vợ Duy hoàn toàn không phải khó. Lan Chi chỉ vừa mới thử lựa lời hỏi han vài câu mà mắt cô em dâu đã lập tức rưng rưng: “Em biết anh Duy không thích em như thế này đâu, nhưng nhiều lúc em không có cách nào chịu nổi...” Thế rồi, chị chồng em dâu ngồi trò chuyện hết cả một buổi chiều, quanh đi quẩn lại cũng chỉ đến “đời là bể khổ”thôi chứ chả có chân lý gì mới mẻ.

    Vậy mà Thu Uyên hình như cũng nhẹ nhõm hẳn đi khi trút ra được những nỗi niềm bao lâu dồn nén trong lòng: cảm giác bất lực trước nỗi khổ của người thân, mặc cảm do hàng trăm ngàn cây số cách xa mà mình đã biến thành kẻ ngoài cuộc, nỗi đau đớn khi ngay cả những người ruột thịt nhất cũng không hiểu và oán giận mình, tâm trạng thắc thỏm lo âu khi lâu không nhận được thư nhà, nhưng đến khi cầm lá thư trên tay thì lại không đủ cam đảm để bóc ra đọc... “Rồi còn bao nhiêu nỗi lo sợ vơ vẩn nữa, chị biết không, mỗi khi nghe chuông điện thoại vào một giờ bất thường là em lại sợ đến thắt cả tim, không muốn nhấc máy lên, chỉ lo phải nghe tin xấu...” “Chị hiểu chứ, chị đã trải qua nỗi sợ ấy rồi, chị đã từng nhận một hồi chuông điện thoại réo lên vào lúc nửa đêm, và sau đó không bao giờ còn tìm lại được sự bình yên như trước nữa... Nhưng tất cả những điều mà em vừa nói đó: cái cảm giác bất lực ấy, cái mặc cảm ngoài cuộc ấy, cái nỗi đau không được hiểu ấy... hình như chẳng phải của riêng ai nữa đâu, nó đã là một phần của cuộc sống tha hương rồi, Uyên ạ.”

    Ngoảnh đi ngoảnh lại, một tuần lễ ở Berlin trôi vèo qua lúc nào không biết. Trung đã ba lần gọi điện thoại đến nhà Duy, hai lần đầu chỉ để biết tình hình vợ con, nhưng đến lần thứ ba thì anh hỏi: “Mấy mẹ con có định về sớm hơn không, hay vẫn ở lại hết cả hai tuần?” “Em cũng chưa quyết định, - Lan Chi do dự nói. - Mấy đứa trẻ chơi với nhau vẫn vui lắm, chưa muốn về đâu. Thôi, để em xem thế nào rồi vài hôm nữa em gọi lại cho anh nhé.”

    Hết một tuần rồi mà vẫn chẳng có tin tức gì của Kiên, Lan Chi bắt đầu phân vân, cô phỏng đoán: “ Hay là vì hiện nay Sơn không có mặt ở Berlin, cho nên chẳng có ai báo cho Kiên biết chuyện mình đến thăm Duy cả?” Để kiểm tra lại điều này, trong bữa ăn tối, Lan Chi làm ra vẻ tình cờ hỏi Duy:

    - À, anh Sơn có làm việc ở chỗ em nữa không hả Duy? Nếu gặp thì bảo là chị gửi lời thăm anh ấy nhé.

    - Anh ấy vẫn làm cùng chỗ với em. Hôm nọ, em có kể chuyện chị với lũ nhóc đến đây chơi, anh ấy cũng hỏi thăm chị mà em quên không nói lại, - Duy đáp.

    “Vậy chắc là Kiên không đến Berlin rồi. Nếu không, ít nhất Sơn cũng phải báo cho Duy tin đó”, Lan Chi nghĩ. Tự nhiên, cô thấy bực bội với chính mình. “Sao mình lại dễ tin đến thế nhỉ, nghe lão Tài “ủng” nói vu vơ một câu như vậy mà cũng tin ngay được.”

    Còn sáu ngày nữa là hết tháng bảy. Tuy lũ trẻ con vẫn quấn quýt nhau nô đùa cả ngày không biết chán ( kể cũng lạ: ngôn ngữ giao tiếp của chúng là một sự pha trộn hết sức liều mạng ba thứ tiếng Việt-Pháp-Đức, vậy mà chúng hiểu và thân nhau rất nhanh), nhưng Lan Chi đã nghĩ đến chuyện về sớm vài hôm để làm vui lòng chồng. “Ngày mai, mình sẽ ra ga xem mua vé tàu thế nào, rồi sau đó sẽ gọi điện báo ngay cho anh ấy”, cô dự tính.

    Nhưng Lan Chi chưa kịp gọi điện nói chuyện với chồng thì chuông điện thoại đã gióng giả vang lên trong bữa ăn tối hôm đó ở nhà Duy. Duy đi sang phòng bên cạnh nhấc máy nghe rồi gọi vọng ra:

    - Chị Chi ơi! Có điện thoại cho chị đấy!

    - Anh Trung lại gọi phải không? Chắc anh ấy sốt ruột rồi. Thôi có khi ngày mai chị đi mua vé tàu về, Duy ạ, - Lan Chi vừa bước về phía em trai vừa nói.

    - Không, không phải anh Trung đâu, - Duy đáp. - Anh Kiên muốn nói chuyện với chị, anh ấy đang ở nhà anh Sơn.

    Mười mấy năm trời ngăn cách hiện tại với quá khứ dường như vụt biến đi khi Lan Chi bước đến bên máy điện thoại. Cô hít một hơi dài để tự trấn tĩnh rồi nhận ống nghe từ tay Duy.

    - Alô... - cô nói bằng một giọng ngập ngừng và hơi yếu ớt.

    - Lan Chi phải không?

    Giọng nói vang lên ở đầu dây bên kia thân thuộc đến nỗi tự dưng Lan Chi có cảm giác như nghẹt thở. Trong khoảnh khắc, cô thấy mình như đột ngột rơi vào một khoảng trống bồng bềnh: không còn thời gian, không còn không gian, chỉ còn cô và anh giữa những kỷ niệm quay cuồng.


trung bình một đàn kiến có mấy ngàn con hô hô ....................................=))
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 3-4-2013 20:07:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 11

Không có thời gian, không có không gian, chỉ có tôi, anh và kỷ niệm.

    Đã bao nhiêu năm tôi nghĩ về cuộc hội ngộ này, và lần nào nó cũng hiện ra như vậy trong trí tưởng tượng của tôi. Tôi không hình dung ra được mình sẽ gặp lại anh ở đâu, vào lúc nào, trong hoàn cảnh nào, nhưng tôi gần như tin chắc rằng sớm hay muộn thì chuyện này cũng sẽ xảy ra. Tôi và anh còn có quá nhiều điều để nói với nhau, dù cuộc đời hai đứa đã từ lâu rẽ thành hai ngả.

    K. không khác mấy so với thời ở Matxcơva. Trên gương mặt anh hẳn là đã có thêm những nếp nhăn mờ của thời gian, nhưng nụ cười và cái nhìn vẫn nguyên xi như vậy. Anh bước vội gần như chạy về phía tôi, gió thổi tung lòa xòa mái tóc bờm xờm “nghệ sĩ”.

    Tôi hy vọng mình không thay đổi nhiều dưới con mắt của anh. Bao nhiêu năm rồi tôi vẫn nhất quyết để đúng một kiểu tóc dài ngang vai như vậy, kiểu tóc mà anh thích (và chồng tôi cũng thích). Những sợi tóc dài bay rối lên trong gió khi tôi bước lại gần anh. K. đưa tay vuốt lại tóc cho tôi, và đột nhiên tôi có cảm giác như anh muốn ôm ghì lấy tôi nhưng kìm lại được.
    - Em đã biết trước rằng thế nào chúng mình cũng gặp lại nhau, - tôi nói.

    - Anh cũng tin như vậy, nhưng anh không ngờ là phải đợi lâu đến thế này, - K. đáp.

    Thời gian đột ngột ập về sau câu nói đó của K. Bao nhiêu lời định nói bỗng nhiên trở thành lạc lõng và vô nghĩa trước sự hiện diện lặng lẽ nhưng nặng nề của nó. Qua màn sương mờ ảo của thời gian, tôi nhìn thấy hai bóng hình xa lắc xa lơ - tôi và anh trên sân bay Seremetievo ngày ấy.

    - Khi chúng mình chia tay nhau ở sân bay Seremetievo, em cứ hy vọng là chỉ ít ngày sau anh cũng sẽ về Hà Nội, - tôi nói.

    - Anh rất muốn về, anh đã cố hết sức, nhưng anh không thể về được. Hoàn cảnh lúc đó như vậy, chắc là em cũng hiểu, phải không?

    - Có những điều em không bao giờ hiểu nổi. Tại sao khi chúng mình ở Matxcơva, anh cứ khăng khăng không chịu giải thích cho em tình hình làm ăn của anh lúc đó?

    - Nhưng giải thích cho em những chuyện ấy thì có ích gì đâu, L.C.? Em cũng sẽ không thể giải quyết được gì, mà chỉ khổ thêm thôi.

    - Nếu em biết rõ tình hình, ít nhất, em cũng có thể ở lại Matxcơva để đợi anh, em sẽ không đời nào bỏ về Hà Nội trước một mình khi biết rằng anh đang ở trong tình trạng khốn khổ như vậy.

    - Lúc đó, chính em cũng đã khổ lắm rồi. Em nói rằng “em không chịu đựng nổi cuộc sống như thế này nữa”. Anh không có quyền yêu cầu em tiếp tục cuộc sống như vậy nữa.

    - Khi ấy, em nói thế vì em không hiểu gì hết cả! Em chỉ nhìn thấy nỗi khổ của em thôi. Nếu em biết rõ...

    - Nếu em biết rõ, có thể em sẽ ở lại đợi anh thêm một thời gian nữa, nhưng cuối cùng chắc em cũng sẽ không chịu đựng nổi và bỏ đi thôi. Anh đã nghĩ mãi rồi. Hồi ấy, anh rơi vào một tình trạng bế tắc, một vũng lầy như em đã nói, em có nhớ không? Em bảo rằng em muốn kéo anh ra khỏi vũng lầy này. Nhưng em không hiểu rằng điều đó là quá sức em. Còn anh, việc duy nhất mà anh có thể làm lúc ấy là không kéo em rơi vào vũng lầy cùng với anh.

    - Nhiều lúc, em cứ nghĩ lẽ ra em phải ngăn cản anh ngay từ đầu. Lẽ ra, anh không bao giờ nên dấn thân vào con đường ấy. Lẽ ra chúng mình phải về nước cưới luôn ngay sau khi anh bảo vệ xong...

    - Nhưng làm sao mà biết trước được sự đời hả L.C.? Làm sao anh biết trước được mọi sự sẽ đến nông nỗi này? Lúc ấy, anh chỉ hình dung rất rõ cuộc sống của chúng mình sẽ vất vả ra sao nếu về nước trắng tay. Anh đã muốn tránh cho chúng mình cuộc sống đó. Anh hy vọng...

    - Anh đã mất hy vọng từ khi nào? Có phải từ khi tiễn em ở sân bay Seremetievo không? Lúc ấy, anh bảo: “Anh không muốn mất em”. Em không hiểu ngay tại sao anh nói thế. Nhưng về sau, em nghĩ rằng chắc là ngay từ lúc đó, anh đã biết là chúng mình sẽ mất nhau rồi.

    - Không hẳn thế đâu. Lúc đó, anh đã linh cảm thấy điều này, nhưng anh vẫn còn hy vọng. Anh chỉ thực sự mất hy vọng khi ngừng viết thư cho em.

    - Nhưng tại sao anh không viết thư cho em? Dù thế nào đi nữa thì em cũng có quyền được biết rõ sự thực. Dù anh thấy chúng mình không còn hy vọng thì anh cũng phải nói với em một lời từ biệt cuối cùng. Anh chưa bao giờ nói với em lời từ biệt ấy cả. Bao nhiêu năm rồi em vẫn day dứt không yên vì chuyện đó.

    - Tha lỗi cho anh, L.C., anh biết, lẽ ra anh phải viết hết sự thực cho em. Nhưng anh quá khổ sở và không đủ can đảm để viết một lá thư đoạn tuyệt. Vả lại, nếu anh viết cho em rằng anh không thể trở về với em được vì đã hết sạch tiền, vì anh đã nợ ngập cổ, thì liệu em có vì những lý do ấy mà bỏ anh được không? Anh nghĩ là không. Anh sợ chỉ làm tăng thêm nỗi đau khổ của em và kéo dài sự chờ đợi vô vọng của em thôi.

    - Đối với em lúc đó, chờ đợi vô vọng còn đỡ đau khổ hơn là không có gì để chờ đợi cả. Em có thể đợi anh bao lâu cũng được, chỉ cần biết là anh vẫn yêu em. Em chỉ bỏ đi khi không còn hy vọng gì thôi.

    - Khi ở Matxcơva, em nói với anh: “Đừng bắt em phải đợi cả đời”. Anh đã suy nghĩ nhiều về câu nói đó. Anh hiểu là em nói đúng. Anh không có quyền bắt em chờ đợi cả đời. Anh không có quyền để cho em chờ đợi khi chính anh không còn hy vọng gì nữa.

    - Sau này, em đã đau khổ mãi vì câu nói đó, anh biết không? Em cứ tự dằn vạt mình mãi vì đã nói một câu ngu ngốc và ích kỷ như vậy. Lúc ấy, em không hiểu rằng sự chờ đợi là điều duy nhất mà em có thể làm được cho anh trong hoàn cảnh này. Nếu anh biết rằng em sẵn sàng chờ đợi anh đến cùng, có lẽ anh sẽ có thêm sức lực để thoát ra khỏi vũng lầy ấy, phải không? Có lẽ, anh sẽ không dập tắt mọi hy vọng của anh và của em. Có lẽ, em sẽ đợi được cho đến lúc anh về. Vì cuối cùng thì anh cũng đã trở về cơ mà!

    - Đừng tự dằn vặt mình như thế, L.C.! Hoàn cảnh lúc đó phức tạp hơn em tưởng. Có nhiều chuyện xảy ra sau đó khiến anh nghĩ rằng mình không còn xứng đáng với sự chờ đợi của em.

    - Anh muốn nói đến chuyện anh đã gặp và yêu một người khác phải không? Tại sao anh không viết thư nói thẳng với em về việc đó? Anh không nghĩ rằng ít nhất là trong chuyện đó anh cũng cần phải trung thực với em à?

    - Nhưng đó có phải là tình yêu đâu, L.C.! Anh không phủ nhận rằng anh có nhiều tình cảm đối với người ấy, nhưng yêu thì anh chỉ yêu có một mình em. Anh không biết phải viết cho em thế nào cả. Anh có cảm giác như mình thoát khỏi vũng lầy này rồi lại sa vào một vũng lầy khác. Mọi việc trong đầu anh lúc đó hết sức mù mờ. Điều duy nhất mà anh hiểu rõ là em sẽ không thể nào tha thứ cho anh được.

    - Anh vẫn nghĩ như thế ngay cả sau khi đã nhận được bức điện của em?

    - Bức điện nào nhỉ?

    - Bức điện em gửi sang Ba Lan để chúc mừng sinh nhật anh, ngày anh tròn hai mươi chín tuổi.

    - Anh không nhận được bức điện đó. Em có chắc là em viết đúng địa chỉ không? Mà làm sao em lại có địa chỉ của anh ở Ba Lan? Anh có dám viết thư cho em từ Ba Lan bao giờ đâu?

    - Mẹ anh đưa cho em địa chỉ đó, có lẽ không sai đâu. Lúc ấy, không có hồi âm của anh, em tin chắc rằng anh đã kiên quyết gạt em ra khỏi đời anh rồi. Nhưng về sau, khi biết tin anh từ Ba Lan về nước một mình, em cứ nghĩ đi nghĩ lại mãi. Em đâm ra ngờ rằng có thể anh không nhận được bức điện đó của em.

    - Anh không nhận được thật, L.C. ạ. Em viết gì trong bức điện ấy?

    - Không có gì thật đặc biệt cả. Em chỉ chúc mừng sinh nhật anh thôi. Lúc ấy, em muốn anh biết rằng em không thể quên anh, em hiểu hoàn cảnh của anh và không oán giận anh. Nếu anh nhận được bức điện đó, có thể anh đã trở về với em rồi, phải không?

    - Thực ra, em biết đấy, cuối cùng thì anh cũng đã trở về, dù không nhận được bức điện ấy. Ở Ba Lan, anh sống với người khác mà vẫn chỉ nghĩ đến em. Một cuộc sống như vậy không thể đem lại hạnh phúc cho ai cả. Anh thấy không thể tiếp tục mãi như vậy được nên quyết định trở về Hà Nội. Có điều, khi anh về đến nơi thì em đã bỏ đi rồi.

    - Anh bất ngờ lắm về chuyện em bỏ đi, phải không?

    - Anh không bất ngờ về việc em bỏ anh, anh đã bắt mình phải quen với ý nghĩ đó từ lâu rồi. Nhưng anh bất ngờ về việc em bỏ Hà Nội. Anh cứ nghĩ em yêu Hà Nội lắm. Khi ở Matxcơva, em cứ mong chóng đến lúc trở về Hà Nội sống. Em cứ giục giã anh suốt về chuyện đó.

    - Em không bao giờ muốn bỏ anh hay bỏ Hà Nội cả. Em bỏ đi chỉ vì quá tuyệt vọng mà thôi. Lúc ấy, em cũng không định đi mãi mãi. Cuộc đời đã xô đẩy em đến chỗ này, rồi em quen dần, rồi em chấp nhận, vậy thôi.

    - Anh cũng thế, anh quen dần, rồi anh chấp nhận, vậy thôi, - K. nói khẽ, sau một khoảng im lặng rất dài, rất nặng nề giữa hai chúng tôi.

    - Anh có hạnh phúc không? – tôi ngập ngừng hỏi.

    - Anh không thể quên em được, - K. không trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi. - Thỉnh thoảng, anh vẫn nằm mơ thấy em. Anh thấy chúng mình ở Matxcơva. Anh thấy em trong vòng tay anh. Anh cảm thấy rất rõ nụ hôn của em. Anh không còn muốn tỉnh dậy nữa vì sợ em biến mất. Em có bao giờ gặp những giấc mơ như vậy không?

    “Em đang mơ một giấc mơ như vậy”, tôi đáp.

    Nhưng K. không còn nghe tôi nói nữa. Anh đã từ từ biến mất khỏi giấc mơ của tôi.


mình cũng rất sợ một ngày cũng thốt ra câu "rồi quen dần, rồi chấp nhận".........................
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 3-4-2013 20:14:33 | Chỉ xem của tác giả
Chương 12

  Giấc mơ ấy của Lan Chi đột nhiên hiện về ám ảnh trong đầu cô suốt dọc đường cô đi đến chỗ hẹn gặp Kiên.

    Khi gọi điện thoại đến nhà Duy, Kiên bảo rằng anh vừa mới từ Leipzig đến Berlin được vài tiếng đồng hồ và sáng ngày kia đã phải bay về Hà Nội. Anh nói rất muốn được gặp Lan Chi trước khi về nước. Trao đổi một hồi, họ thỏa thuận hôm sau sẽ đi ăn tối cùng nhau, tại một tiệm ăn không xa nhà Duy mà Sơn đã giới thiệu cho Kiên.

    Thoạt đầu, Kiên muốn ghé qua nhà Duy để đón Lan Chi, nhưng cô không hào hứng lắm với đề nghị đó. Cô cảm thấy không thoải mái khi nghĩ rằng phút đầu tiên gặp lại của họ sẽ diễn ra trước sự chứng kiến của vợ chồng Duy và lũ trẻ con. Bất chợt, một ý nghĩ vụt đến trong đầu, cô bèn hẹn gặp anh trước cửa ga tàu điện ngầm gần nhà Duy rồi hai người sẽ cùng đi tàu đến tiệm ăn (cách đó ba bến). Ý kiến này của cô lập tức được Kiên hưởng ứng một cách vui mừng đến nỗi cô gần như tin chắc rằng anh cũng đã liên tưởng đến cái kỷ niệm mà cô vừa chợt nhớ ra.

    Vậy là gần bảy giờ tối, sau khi đã gửi gắm ba đứa con cho vợ chồng Duy với một lô lời dặn dò, rồi lại bắt cả ba đứa trẻ phải hứa là sẽ ăn ngoan và không quấy cô Uyên cậu Duy, Lan Chi nhìn lại mình trong gương lần cuối rồi đi ra cửa. Đến ngưỡng cửa, tự nhiên thấy nao nao trong lòng, cô quay lại thơm lần lượt cả ba đứa con và hứa: “Mẹ sẽ cố gắng về sớm!” Ba anh em cu Nam còn đang có nhiều trò vui với hai đứa em họ nên không bận tâm lắm đến sự vắng mặt của mẹ chúng trong bữa ăn tối, cũng chẳng hề tỏ ra mừng rỡ đặc biệt gì trước lời hứa “về sớm” của mẹ.

    Bảy giờ tối, nắng chiều chưa tắt hết mà đã có một mảnh trăng non nhợt nhạt đính chơ vơ, lạc lõng ở một góc trời. Không khí ngưng đọng, ngột ngạt, oi ả, chẳng có lấy một gợn gió thoảng qua. Đi đến gần lối vào ga tàu điện ngầm, Lan Chi bước chậm lại, đưa mắt nhìn những dòng người ngược xuôi hối hả. Cảm thấy mồ hôi lấm tấm rịn ra trên trán, cô dừng lại, rút một chiếc mùi soa giấy trong túi ra lau, và đúng lúc ấy, cô nhìn thấy Kiên tách khỏi dòng người, thong thả bước lại gần cô.

    Kiên đến trước giờ hẹn quãng hơn mười phút. Anh đi sớm vì không muốn để lộ thái độ bồn chồn của mình trước mặt vợ chồng Sơn, cũng để khỏi phải nghe những lời khuyên bảo và châm chọc của ông bạn.

    Ngay từ hôm qua, khi Kiên vừa mới đặt chân đến Berlin, anh đã lập tức bị Sơn biến thành đối tượng để trêu ghẹo. Ra đón Kiên ở ga, sau vài câu thăm hỏi thông thường, Sơn vỗ vai bạn nói với vẻ đầy bí ẩn:

    - Này, tao có một tin quan trọng cho mày đấy, nhưng chẳng biết tim mày có đủ khỏe để nghe không?

    - Tin gì mà kinh dị thế? - Kiên cười hỏi.

    - Nàng đang ở đây, - Sơn hạ giọng nói, vẻ mặt hết sức quan trọng.

    - Nàng nào? - Kiên không hiểu.

    - Đoán thử xem, - Sơn cười tinh nghịch.

    - Chịu, - Kiên thờ ơ đáp.

    - Chán mày thật, - Sơn lắc đầu vẻ chê trách. - Tình yêu thiêng liêng của đời mày đấy, biết chưa? Nàng mới từ Pháp đến Berlin thăm thằng em quãng một tuần nay.

    - Lan Chi đang ở Berlin à? - Kiên sững sờ hỏi.

    - Ừ. Thôi, đi đi, đừng đứng nghệt ra thế nữa. Nghĩ cho kỹ xem, nếu không sợ bu nó ở nhà, muốn liều mạng gặp nàng thì để tao bố trí cho, - Sơn cười hì hì nói.

    Dọc đường từ ga về nhà, Sơn bảo: “Tao có số điện thoại của thằng Duy đấy. Cứ để thong thả, ăn tối xong rồi nếu mày muốn thì gọi điện đến đó mà hỏi thăm tình hình.” Thấy Kiên ậm ừ, Sơn hỏi lại: “Sao? Nóng ruột quá, muốn gọi điện cho nàng ngay à?” “Có gì vội đâu, - Kiên chối. - Cứ từ từ, ăn tối xong rồi tao sẽ tính sau.”

    Bữa tối ở nhà Sơn, Kiên ngồi ăn như một cái máy, miệng nhai trệu trạo mà chẳng để ý mình đang ăn món gì. Vẻ mặt anh bần thần đến nỗi vợ Sơn phải ái ngại hỏi: “Anh Kiên hình như đi đường bị mệt? Anh có cần thuốc cảm cúm gì không thì để em lấy cho?” “Không, có mệt gì đâu”, Kiên bừng tỉnh. Sơn tủm tỉm cười bảo vợ: “Không có thuốc nào chữa cho anh ấy được đâu em ạ. Chỉ còn cách để anh ấy đi gọi điện thoại một chầu, may ra thì đỡ.”

    Mấy tiếng đồng hồ trước giờ hẹn của Kiên với Lan Chi, bắt gặp Kiên chốc chốc lại nhìn đồng hồ, Sơn bảo:

    - Còn lâu mới đến giờ, đừng có cuống thế. Theo tao, mày nên đến muộn chừng năm mười phút cho cao giá.

    - Cao giá hay thấp giá cái gì, - Kiên phì cười. – Tình xưa nghĩa cũ, đến thăm nhau thôi chứ có phải đi tán tỉnh gì đâu. Người ta có chồng có con rồi...

    - Ba con, - Sơn thản nhiên nói.

    - Ba con thật à? - Kiên hỏi.

    - Thì thấy thằng Duy nó bảo thế. Ít nhất là ba con ở thời điểm này. Tương lai có nhiều hơn không thì tao chưa nắm được thông tin.

    Nhìn vẻ mặt ngơ ngẩn của Kiên, Sơn bồi thêm:

    - Tao thành thật khuyên mày nên lấy cặp kính cận của tao đeo vào để đi gặp cố nhân cho thi vị. Phải nhìn mờ mờ ảo ảo thì mới tưởng nhớ được quá khứ, chứ nhìn rõ sự thật e rằng sẽ thất vọng đấy. Mày cứ thử tính mà xem: đàn bà đẻ con xong nói chung ai cũng tăng sơ sơ dăm bảy cân, nàng có ba đứa, vậy chắc tấm thân thon thả bây giờ không dưới sáu chục ký đâu.

    Kiên mỉm cười nhớ lại những lời nói của Sơn khi anh nhìn thấy Lan Chi hiện ra từ một góc phố. Vẫn cái vóc dáng mảnh mai ấy, vẫn mái tóc buông xõa ngang vai ấy..., anh nhận ra cô ngay lập tức và cảm thấy trào lên trong lòng một nỗi xúc động pha lẫn nhẹ nhõm. Anh định chạy ra đón Lan Chi nhưng bỗng nhiên đổi ý và lùi vào một góc khuất để kín đáo quan sát cô. Lan Chi tiến lại gần, cô không nhìn thấy anh. Khi cô đứng lại, đưa mắt nhìn quanh tìm kiếm, Kiên cảm giác như có một luồng điện chạy giần giật khắp người mình: cặp mắt của cô vẫn hơi ngơ ngác và mơ mộng không khác gì ngày xưa, làn môi của cô vẫn có một thoáng cong nũng nịu giống hệt thuở nào... Một nỗi buồn da diết tràn ngập lòng Kiên khi anh nghĩ rằng tất cả những đường nét thân thương này bây giờ đã thuộc về một người đàn ông khác. Anh cố giữ dáng điệu thật bình thản và bước lại gần Lan Chi.

    - Trời nóng quá, Lan Chi nhỉ, - Kiên nói với một nụ cười thay câu chào.

    - Vâng, nóng thật đấy, - Lan Chi mỉm cười đáp lại. – Hình như hôm nay lên đến ba mươi hai độ.

    Sau đoạn bình luận thời tiết là một khoảng im lặng bối rối, rồi Kiên là người lên tiếng đầu tiên:

    - Anh không ngờ lại được gặp em ở Berlin.

    - Ngày mai anh đã bay về Hà Nội rồi phải không? Sao anh đi công tác gấp thế? – Lan Chi hỏi.

    - Anh sang Đức làm việc hai tuần, nhưng là ở Leipzig chứ không phải ở Berlin. Xong việc ở Leipzig rồi anh mới đến đây thăm Sơn. Nếu biết trước là em đang ở Berlin thì anh đã thu xếp lên đây sớm hơn.

    Họ cùng đi vào ga. Lan Chi hỏi thăm về chuyến công tác của Kiên ở Leipzig. Anh trả lời một cách hết sức sôi nổi, cô lắng nghe với vẻ hết sức chăm chú, dù trong thâm tâm cả hai người đều hiểu rằng chuyện này chẳng có gì là quan trọng đối với họ.

    Tàu đến, Kiên ngừng ngay câu chuyện giữa chừng để cùng Lan Chi lên tàu. Trong toa đã đầy ắp người, không còn chỗ nào để ngồi, họ phải đứng sát vào nhau. Anh xúc động đến nghẹt thở khi cảm nhận sát người mình thân hình nhỏ nhắn của cô, thân thiết và gần gũi hệt như trong những giấc mơ vẫn thường trở đi trở lại ám ảnh anh suốt bao năm ròng. Tàu lắc mạnh và Kiên như tỉnh mộng: anh nhận thấy Lan Chi cố bám chắc vào tay vịn để khỏi ngã vào người anh. Chưa bao giờ anh hình dung rõ rệt và thấm thía đến vậy về cái vực sâu hun hút mà cuộc đời dùng để ngăn cách họ như lúc này đây, khi cô đứng ngay bên anh, gần như lọt thỏm trong vòng tay anh.

    Nơi họ đến ăn tối là một tiệm ăn Italia. Theo lời giới thiệu của Sơn, ngoài cái tiện là không xa nhà Duy, tiệm ăn này còn có ưu điểm là bài trí trang nhã, lịch sự, phục vụ tận tình, đồ ăn không phải là xuất sắc lắm nhưng cũng khá, khung cảnh tương đối yên tĩnh, nói tóm lại là một nơi rất hợp để diễn ra những màn tình cảm.

    Kiên hơi lúng túng trước quyển thực đơn với những món ăn ghi bằng tiếng Đức và tiếng Italia.

    - Anh chẳng có khái niệm gì mấy về món ăn Ý ngoài pizza và spaghetti, - anh thú nhận. – Em có kinh nghiệm gì không?

    - Kinh nghiệm của em thì cũng nghèo nàn thôi, nhưng nếu anh tín nhiệm em thì để em chọn cho anh nhé, - Lan Chi cười đáp. - Đừng ăn pizza, khô lắm, trời nóng thế này nuốt không nổi đâu.

    Sau một hồi nghiên cứu thực đơn, Lan Chi gợi ý Kiên lấy món Insalata di Mare làm khai vị và Scaloppina alla Milanese làm món chính.

    - Món khai vị này là một thứ salat có trộn tôm, sò huyết, nếu anh vẫn thích ăn đồ hải sản như xưa thì ăn cái này hợp đấy. Còn món chính là một loại thịt bê, làm theo kiểu Milano, theo em thì cũng được, - cô nói.

    - Em sống ở Pháp mà sao cũng thạo món ăn Ý thế? – Kiên hỏi, vẻ hơi ngạc nhiên.

    - Thạo gì đâu. Chẳng qua là vì em đã có dịp sang Ý chơi một tuần. Một tuần toàn đi ăn hiệu, toàn ăn đồ Ý, nên cuối cùng cũng phải nhớ lõm bõm được vài thứ chứ.

    - Em đã đi Ý rồi à? Nước Ý đẹp lắm phải không?

    - Vâng... - giọng Lan Chi đột nhiên trở nên gượng gạo. Kỷ niệm về chuyến du lịch tuần trăng mật bỗng hiện ra rõ mồn một trong đầu cô. Bất chợt, cô nghĩ đến chồng và bồn chồn tự hỏi chẳng hiểu tối nay anh có gọi điện thoại đến nhà Duy không. Để gạt khỏi đầu ý nghĩ đó, cô bèn đột ngột đổi đề tài.

    - Lâu nay anh có gặp Quân không? - cô hỏi.

    - À, Quân hả? Có đấy, anh mới gặp nó hồi Tết vừa rồi xong, - Kiên cười, mắt chợt lấp lánh những tia tinh nghịch. - Cậu ta bây giờ đạo mạo lắm, không còn tồ như hồi trước nữa đâu. Giáo sư đại học ở Mỹ, vợ khôn con đẹp, nói chung là yên ấm mọi bề...



em xin lỗi Lê Ngọc Mai nhé, lúc đọc truyện cảm xúc dạt dào thế mà... lần nào post cũng cố gắng cho nhanh nhanh :(
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách