Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: MinhHạ
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại] Cuộc Săn Cừu Hoang | Haruki Murakami (Hết)

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 18:27:31 | Xem tất
Chương 28: Tạm biệt khách sạn cá heo


Chúng tôi mất một ngày chuẩn bị cho chuyến đi.

Chúng tôi mua đồ leo núi và thực phẩm gọn nhẹ tại một cửa hàng thể thao, mua áo len dày cộp dành cho ngư dân và tất len tại cửa hàng bách hóa. Tại hiệu sách, chúng tôi mua một tấm bản đồ tỷ lệ 1:50000 của khu vực chúng tôi sắp đến và một cuốn sách về lịch sử địa phương. Chúng tôi cũng mang ủng lông đế đinh và đồ mặc loại có lót nhiệt.

“Tất cả những áo áo quần quần này không có bất cứ ích lợi nào cho loại công việc nào của em,” cô nói.

“Khi ra ngoài trời tuyết, em không có thời gian để mà nghĩ đến chuyện đó đâu,” tôi nói.

“Anh định ở lại đến khi tuyết rơi nhiều sao?”

“Không nói được. Nhưng anh biết tuyết bắt đầu rơi vào cuối tháng Mười. Tốt hơn là hãy chuẩn bị đầy đủ. Không biết được chuyện gì sẽ xảy ra.”

Chúng tôi lôi những gì mua được về khách sạn, nhét vào một chiếc ba lô lớn, rồi chúng tôi tập hợp tất cả những đồ phụ chúng tôi mua từ Tokyo, để lại nhờ chủ khách sạn Cá Heo giữ hộ. Thật ra, hầu như tất cả những gì cô mang trong túi mình là đồ lặt vặt. Một hộp trang điểm, năm cuốn sách và sáu băng cát xét, một túi đầy tất dài và đồ lót, áo phông và quần soóc, một đồng hồ báo thức du lịch, một cuốn sổ ký họa và một bộ hai mươi tư bút chì màu, văn phòng phẩm và phong bì, khăn tắm, túi đồ cứu thương nhỏ, máy sấy tóc, bông gạc.

“Nhưng tại sao em lại mang theo váy đầm và giầy cao gót?”

“Em biết làm gì nếu chúng ta đi dự tiệc?” cô nài nỉ.

Không dùng lý lẽ được với cô. Cô gắng cho cái váy, gấp gọn gàng và giày cao gót vào trong ba lô của chúng tôi cùng với các vật dụng đã được loại bớt. Với đồ trang điểm, cô chuyển sang một chiếc hộp trang điểm bỏ túi mua ở cửa hàng gần đó.

Người chủ khách sạn lịch sự đón nhận túi hành lý. Tôi trả tiền cho cả ngày hôm sau và nói với ông chúng tôi sẽ trở lại sau một hai tuần.

“Ông cụ tôi có giúp gì được cho anh không?” ông hỏi đầy lo lắng.

Tôi nói là ông ấy đã giúp nhiều lắm.

“Tôi thỉnh thoảng mong mình có thể đi tìm kiếm một thứ gì đó,” ông tuyên bố, “nhưng trước khi đi xa đến mức ấy, bản thân tôi không hề biết được là đi tìm cái gì. Còn cha tôi, ông ấy là người đi kiếm tìm một điều gì đó suốt cả đời. Đến tận bây giờ ông vẫn đang tìm kiếm. Ngay từ khi tôi còn bé, cha tôi đã kể cho tôi nghe về con cừu trắng đến với ông trong giấc mơ. Vì thế tôi luôn nghĩ đó chính là cuộc sống. Một cuộc tìm kiếm không ngừng nghỉ.”
Tiền sảnh khách sạn Cá Heo lặng như tờ. Một bà phục vụ già đi lên đi xuống cầu thang với chiếc giẻ lau.

“Cha tôi giờ đã bảy mươi ba tuổi rồi mà vẫn không thấy cừu đâu. Tôi không biết liệu thứ đó thậm chí có tồn tại hay không. Tôi không khỏi nghĩ rằng cuộc đời ông đã không hạnh phúc, nhưng ông chế nhạo tôi và không lắng nghe một lời nào tôi nói. Đó là bởi vì tôi không có mục đích trên đời.”
“Nhưng ông có khách sạn Cá Heo,” bạn gái tôi nói dịu dàng.

“Ngoài ra, cha ông đã để cuộc tìm kiếm cừu cho người khác,” tôi thêm vào. “Chúng tôi đảm đương phần còn lại.”

Người chủ khách sạn mỉm cười.

“Nếu đúng như thế, tôi không còn biết nói gì hơn. Hai chúng tôi nên sống hòa thuận hạnh phúc.”

“Tôi rất hy vọng thế,” tôi nói.

Lát sau, khi chúng tôi còn lại một mình, cô hỏi tôi, “Anh có thật sự nghĩ rằng hai người đó xứng đáng có nhau không?”

“Họ đã cùng nhau lâu thế này… Họ sẽ ổn thôi. Ít nhất là, sau một khoảng trống bốn mươi hai năm. Giờ thì chúng ta phải truy tìm con cừu đó.”

“Em thích hai người đó.”

“Anh cũng thích hai người đó.”

Chúng tôi xếp đồ xong rồi ăn nằm với nhau, sau đó ra ngoài xem phim. Trong bộ phim cũng có nhiều đàn ông và đàn bà ăn nằm với nhau. Rốt cuộc thì xem người khác ăn nằm với nhau chẳng có gì sai cả.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 18:30:19 | Xem tất
Phần VIII: Cuộc Săn Cừu Hoang, III - Chương 29: Sự Ra Đời, Hưng Thịnh Và Suy Vong Của Huyện Junitaki


Chúng tôi bắt đầu chuyến tàu sớm từ Sapporo đến Asahikawa. Tôi mở một chai bia rồi ngồi xuống đọc cuốn Lịch sử chính thức huyện Junitaki to tướng đóng trong hộp. Junitaki là huyện nơi trang trại Giáo sư Cừu tọa lạc. Đọc lịch sử của huyện có lẽ không có giá trị thực tiễn nào, nhưng nó cũng chẳng hại gì.

Tác giả sinh năm 1940 tại Junitaki và, sau khi tốt nghiệp khoa văn trường đại học Hokkaido, hoạt động với tư cách một sử gia địa phương, ấy là bìa sách nói thế. Được cho là người hoạt động hăng hái, song ông ta chỉ viết mỗi một cuốn sách, được xuất bản tháng Năm năm 1970. Lần xuất bản đầu tiên, có lẽ là lần duy nhất.

Theo tác giả, những người định cư đầu tiên đến nơi mà ngày nay gọi là Junitaki vào đầu mùa hè năm 1881. Cả thảy mười tám người, tất cả đều là nông dân nghèo xơ xác từ Tsugaru, nông cụ,quần áo, giường chiếu, xoong nồi và dao rựa sơ sài là tất cả tài sản của họ.

Họ đi qua một ngôi làng của người Ainu gần Sapporo và với chút tiền ít ỏi, họ thuê một thanh niên Ainu gầy gò, mắt đen làm người dẫn đường. Tên người thanh niên tiếng Ainu được dịch là”Trăng tròn đang khuyết đần” (gợi ý là anh ta có xu hướng trầm cảm, tác giả đặt giả thuyết vậy).

Có lẽ người thanh niên không sinh ra để làm người dẫn đường; tuy nhiên, cậu chứng tỏ mình khá hơn rất nhiều so với người ta tưởng lúc đầu. Hầu như không hiểu một tí tiếng Nhật nào, cậu dẫn mười tám người nông dân dữ tợn đáng ngờ lên phía Bắc, dọc theo sông Ishikari. Cậu có ý tưởng rõ ràng trong đầu rằng phải đi đâu để tìm đất đai màu mỡ.

Ngày thứ tư, cả đoàn đến địa điểm này. Được phú cho sông nước rộng lớn, phong cảnh nơi đây sống động với hoa lá tươi đẹp.

“Nơi này tốt đấy,” người thanh niên nói. “có ít thú hoang, đất đai màu mỡ, nhiều cá hồi.”

“Không ăn thua,” người đứng đầu đám nông dân nói. “Chúng tôi muốn đi sâu hơn.”

Người thanh niên hiểu rằng đám nông dân tin họ sẽ tìm được đất đai màu mỡ hơn nếu đi sâu hơn. Tốt thôi. Nếu đó là những gì họ muốn, sẽ đi sâu hơn.
Thế là cả đoàn tiếp tục cuộc hành trình lên hướng Bắc trong hai ngày nữa. Ở đó người thanh niên tìm được một chỗ dốc, nơi đây nếu đất đai không màu mỡ đúng như chỗ đất trước thì ít nhất cũng không phải lo lũ lụt.

“Chỗ này thế nào?” người thanh niên hỏi. “Ở đây cũng tốt.”

Đám nông dân lắc đầu.

Cảnh này cứ lặp đi lặp lại cho đến khi cuối cùng họ đến địa điểm mà ngày nay là Asahikawa. Cách Sapporo bảy ngày đường và một trăm dặm.

“Ở đây thì sao?” người thanh niên hỏi, chưa bao giờ cảm thấy không chắc chắn như thế.

“Không được,” đám nông dân trả lời.

“Nhưng từ đây chúng ta phải trèo núi,” người thanh niên nói.

“Chúng tôi không ngại,” đám nông dân hân hoan nói.

Và thế là họ vượt đèo Shiokari.

Khỏi cần phải nói, có lý do khiến những người nông dân bỏ qua đám đất đai màu mỡ phía dưới và khăng khăn đi sâu hơn vào vùng hoang vu. Sự thật là, họ đang lẩn trốn. Họ đã bỏ thị trấn, bỏ nợ nần chồng chất, và muốn tránh khỏi chốn văn minh càng xa càng tốt.

Tất nhiên, người thanh niên Ainu không có cách nào biết được điều này. Vậy là, một cách tự nhiên, sự ngạc nhiên ban đầu của cậu khi đám nông dân từ chối những vùng đất màu mỡ chẳng bao lâu chuyển sang hoang mang, kiệt sức và mất tự tin.

Tuy nhiên, tính cách của người thanh niên đủ phức tạp đến lúc đoàn người vượt qua đèo Shiokari, cậu đã phó mặc mình cho một số phận không thể hiểu nổi, dẫn họ ngược lên mãi, lên mãi phía Bắc. Cậu bỏ công sức chọn con đường gồ ghề nhất, bãi lầy nguy hiểm nhất, để làm vừa lòng những người thuê mình.

Bốn ngày phía Bắc đèo Shiokari, đoàn người đến một con sông chảy theo hướng Tây. Theo nhất trí chung, mọi người quyết định họ nên đi về hướng Tây.

Chiến thuật này đã khiến họ giáp mặt những con đường khủng khiếp qua những địa hình khủng khiếp. Họ chật vật tìm đường qua những rừng tre, chặt cỏ cao đến vai để qua những cánh đồng cỏ mỗi lần mất nửa ngày, lội bì bõm qua bùn cao tới ngực, trèo lên núi đá dốc lởm chởm, bất cứ thứ gì để tiến xa hơn về phía Đông. Đêm đến, họ rải vải bạt không thấm nước bên bờ sông và canh chừng tiếng hú của đàn sói khi ngủ. Cánh tay họ, bị tre quẹt cho rớm máu, luôn luôn bị bao vây bởi đám ruồi nhuế và muỗi sẵn sàng rúc sâu vào trong tai họ để hút máu.

Năm ngày đi về hướng Đông, họ thấy đường đi bị núi chặn lại và không thể tiến xa hơn. Vùng đất ở sâu hơn không phù hợp cho người đến lập nghiệp, người thanh niên tuyên bố. Nghe vậy, đám nông dân dừng chân. Đó là ngày mùng 8 tháng bảy, năm 1881, cách Sapporo 240 cây số.

Việc đầu tiên là họ khảo sát vị trí của vùng đất, thử nước, kiểm tra đất. Đất khá tốt để trồng cấy. Rồi họ chia đất cho nhau và dựng một túp lều công nhỏ bằng gỗ ở giữa.

Người thanh niên Ainu gặp một toán thợ săn Ainu đi qua khu vực. “Vùng này gọi là gì?” cậu hỏi họ.

“Mày nghĩ rằng cái chỗ đất như lỗ đít này xứng đáng có tên sao?” Họ trả lời.

Vậy là hiện tại khu vực hoang vu này không có tên. Vì chẳng có nhà dân nào khác (hoặc ít ra là một nhà dân mong muốn tiếp xúc với loài người) trong bán kính sáu mươi lăm cây số nên khu đất không cần có tên. Trên thực tế, vào năm 1889 khi một nhân viên điều tra dân số do Chính quyền địa phương cử xuống thúc ép đám nông dân phải có tên, những người định cư vẫn thờ ơ không dao động. Cuốc liềm trong tay, họ họp mặt trong túp lều công và quyết định không đặt tên cho vùng đất. Tay viên chức đúng là không biết xoay xở ra sao. Tất cả những gì ông ta có thể làm là đếm số thác nước của con sông kế bên, mười hai, và báo cáo cái tên Junitaki-buraku hay Khu Định Cư Mười Hai Thác Nước cho Chính quyền địa phương. Từ đó trở đi, khu định cư mang tên chính thức Junitaki-buraku (và sau đó Junitaki-mura, Ngôi Làng Mười Hai Thác Nước).

Khu vực trải một hình cung sáu mươi độ giữa hai ngọn núi và được cắt ngang ở giữa bởi một con sông sâu. Chắc chắn là một dáng đất lỗ đít rồi. Đất đai phủ kín rừng tre trong khi những cây xanh quanh năm khổng lồ trải rễ rộng và sâu. Sói, nai sừng tấm, gấu, chuột xạ, chim chóc tranh nhau chút thức ăn ít ỏi trong vùng đất hoang vu. Khắp nơi nhung nhúc những ruồi và muỗi.

“Các vị đều muốn sống ở đây à?” người thanh niên Ainu hỏi.

“Chắc chắn rồi”, đám nông dân trả lời.

Không rõ vì sao mà người thanh niên Ainu, thay vì về nhà, lại chọn ở lại với những người định cư. Có lẽ cậu ta tò mò, tác giả đặt ra giả thuyết (Tác giả thích đặt giả thuyết). Dù với bất cứ lý do nào, nếu cậu ta không ở lại, người ta ngờ rằng họ có thể sống qua mùa đông. Người thanh niên dạy họ cách trồng rau mùa đông, cách chống chọi với tuyết, cách bắt cá ở sông đóng băng, cách đặt bẫy sói, cách tránh sự chú ý của gấu trước khi ngủ đông, cách xem thời tiết qua hướng gió, cách tránh cước ở chân tay vì bị rét, cách nướng măng tre làm thức ăn, cách đốn cây xanh quanh năm theo hướng định sẵn. Chẳng bao lâu, mọi người nhận ra được giá trị của người thanh niên, và bản thân người thanh niên lấy lại được tự tin. Cuối cùng cậu ta lấy tên Nhật và cưới con gái của một người định cư, với người vợ này cậu có ba đứa con. Không còn “Trăng Tròn Đang Khuyết Dần” nữa.

Tuy thế, thậm chí với khối kiến thức thực tiễn của người thanh niên Ainu, hoàn cảnh của những người định cư vẫn thật khốn khổ. Đến tháng Tám, mỗi gia đình đều dựng được lều, chỉ là những thanh gỗ chẻ túm lại với nhau quấy quá vội vàng hầu như không ngăn nổi gió đông. Thức dậy mà thấy một đống tuyết cao đến ba mười centimet cạnh gối cũng chẳng có gì là lạ. Hầu hết các gia đình chỉ có một bộ giường chiếu, vì thế đám đàn ông con trai thường phải ngủ co quắp bên bếp lửa. Khi thức ăn dự trữ đã cạn, những người định cư đi ra ngoài kiếm cá và bất cứ cây dại héo quắt nào họ có thể kiếm dưới tuyết. Đó là một mùa đông đặc biệt lạnh. Tuy thế, không ai chết cả. Không cãi nhau, không nước mắt. Sức mạnh của họ là cái nghèo bẩm sinh.

Mùa xuân tới. Hai đứa trẻ ra đời và số người định cư tăng lên hai mươi hai. Hai giờ trước khi trở dạ các bà mẹ còn đang làm việc ngoài đồng, và sáng hôm sau khi sinh con họ ra đồng làm việc.

Nhóm nông dân trồng ngô và khoai tây. Cánh đàn ông đốn cây và đốt rễ để phát quang thêm đất. Cuộc sống mới sinh sôi trên mặt đất, cây non kết quả, nhưng ngay khi những người định cư đang thở phào nhẹ nhõm, họ lại bị hàng đàn châu chấu bao vây.

Châu chấu lướt quanh núi. Đầu tiên, trông chúng như một đám mây đen khổng lồ. Rồi sau đó là một tiếng ầm ầm. Không ai biết được điều gì đang xảy ra với họ. Chỉ có người thanh niên Ainu biết. Cậu hạ lệnh cho cánh đàn ông nhóm lửa trên đồng. Tẩm giọt dầu cuối cùng vào đồ đạc cuối cùng, đám đàn ông đốt tất cả những gì họ có thể động tay vào. Cánh phụ nữ gõ chày vào xoong nồi. Họ làm hết sức mình, nhưng tất cả đều không đủ. Hàng trăm ngàn con châu chấu xà xuống trên mùa màng của họ và tàn phá hết. Không còn gì sót lại sau đó.

Khi đàn châu chấu bay đi rồi, người thanh niên ra đồng mà khóc. Không một người định cư nào nhỏ một giọt nước mắt. Họ nhặt chỗ châu chấu chết rồi đốt, và ngay sau khi chúng đã thành tro, những người định cư tiếp tục phát quang đất.

Họ trở lại ăn cá và rau dại cả mùa đông sau. Vào mùa xuân, ba đứa trẻ nữa ra đời. Mọi người trồng cấy trên đồng. Vào mùa hè, châu chấu trở lại tấn công. Và tất cả cây trồng lại bị nhai đến tận gốc. Tuy nhiên lần này, người thanh niên Ainu không khóc.

Cuối cùng, trận tấn công dữ dội của châu chấu kết thúc nào năm thứ ba. Một đợt mưa dài giết sạch chỗ trứng châu chấu. Nhưng mưa kéo dài đã làm hại cây trồng. Năm sau gặp phải sự phá hoại bất bình thường của bọ cánh cứng, và mùa hè sau đó lạnh bất bình thường.

Đọc đến đó, tôi gấp sách, mở một chai bia nữa và lôi hộp ăn trưa có trứng cá hồi ra khỏi túi.

Cô ngồi đối diện với tôi khoanh tay, ngủ say sưa. Nắng sớm thu xen nghiên qua khung cửa sổ tàu, trải một lớp chăn bằng ánh sáng lên lòng cô. Một con nhậy tí hon bay lên từ đâu đó và đập cánh như một mảnh giấy nhỏ. Cuối cùng thì con nhậy đậu lên ngực cô và ở đó trước khi bay đi mất. Khi con nhậy đã bay, cô trông già đi chút xíu.

Tôi hút một điếu thuốc, rồi đọc tiếp cuốn Lịch sử chính thức huyện Junitaki.

Đến năm thứ sáu, khu định cư đã có thể tự mình tồn tại. Mùa màng sinh sôi, các túp lều được sửa lại, và ai nấy đều đã thích nghi với khí hậu lạnh. Những căn nhà gỗ cưa thế chỗ đám lều gỗ, họ đắp lò sưởi, treo đèn. Mọi người chất lên thuyền những gì ít ỏi còn lại, chỗ rau quả thừa rồi cá khô và sừng nai tấm, đi hai ngày tới chợ thị trấn gần nhất, mua chuối, quần áo và dầu. Một số người học cách làm than củi từ gỗ đốn trong cánh đồng đã phát quang. Một số khu định cư tương tự mọc lên xuôi dòng sông và giao thương được xác lập.

Trong khi việc vỡ đất tiếp diễn, họ thấy rõ là khu định cư đặc biệt thiếu người, thế là nhóm triệu tập hội đồng làng, và sau hai ngày họ quyết định kêu gọi sự tăng viện từ quê cũ. Câu hỏi về khoản nợ không trả được đặt ra, nhưng xét qua câu trả lời đáp lại những dò hỏi được gói ghém cẩn thận ttrong những bức thư gửi về nhà, họ biết rằng các chủ nợ đã từ lâu thôi không cố đòi nợ nữa. Người cao tuổi nhất trong số những người định cư gửi thư cho đám bạn cũ, hỏi xem họ có muốn cùng những người định cư làm việc ở vùng đất mới hay không. Năm 1889, điều tra dân số được tiến hành, cùng năm khu định cư được chính thức đặt tên.

Năm sau đó, sáu gia đình mới, gồm chín người định cư mới, đến khu định cư. Họ được chào đón bởi các túp lều gỗ đã được nâng cấp. Tất cả đều nghẹn ngào nước mắt ngày tái ngộ. Cư dân mới được cấp đất, và với sự giúp đỡ của những người định cư đầu tiên họ trồng cấy và xây nhà riêng.
Năm 1893, thêm bốn gia đình mới đến, với mười sáu người. Năm 1987, thêm bảy gia đình mới đến với hai mươi bốn người.

Số lượng người định cư mới tăng dần một cách ổn định. Túp lều công được mở rộng thành phòng họp trang trọng hơn, và ngay cạnh đó họ xây một miếu thờ nhỏ. Khu định cư chính thức trở thành làng. Từ Junitaki-buraku thành Junitaki-mura. Người đưa thư bắt đầu xuất hiện, dù không đều đặn. Tuy hạt kê vẫn là món ăn chính của dân làng nhưng giờ đây thi thoảng họ trộn nó với cơm trắng thật.

Tất nhiên, không phải hộ không phải chịu những điều không may. Các viên chức đến đánh thuế và bắt lính. Người thanh niên Ainu, giờ đã ba mươi lăm tuổi, đặc biệt phiền lòng bởi những diễn biến này. Anh không thể hiểu được tại sao những thứ như thuế má và nghĩa vụ quân sự lại cần thiết.
“Đối với tôi có vẻ mọi thứ cứ như trước thì hay hơn,” anh nói.

Dẫu vậy, làng vẫn tiếp tục phát triển.

Năm 1903, họ phát hiện một khu đất cao hơn gần làng phù hợp với việc nuôi thả súc vật, thế là làng lập đồng cỏ chung. Một viên chức chính quyền địa phương hướng dẫn họ dựng rào, cung cấp hệ thống thoát nước và dựng lều trại cho vật nuôi, tiếp đó, lao động nhà tù được gọi đến để xây dựng một con đường dọc theo sông, và cùng với thời gian, hàng đàn cừu mua rẻ của chính phủ được chăn thả bên đường. Những người nông dân không hề biết tại sao chính phủ lại hào phóng như vậy. Mà, tại sao không nhỉ? Họ nghĩ. Sau một cuộc chống trả khó khăn, đây là sự đền bù được hoan nghênh.
Tất nhiên, chính phủ hào phóng cung cấp cho họ những con cừu này không phải là không có lý do. Bị hối thúc bởi mục tiêu quân sự là phải tự túc len nhiệt cho chiến dịch sắp tới trên đại lục, chính phủ đã ra lệnh cho Bộ Nông nghiệp và Kinh doanh nỗ lực chăn nuôi cừu hơn,và bộ đã ép chính quyền Địa phương phải thực thi các kế hoạch này. Chiến tranh Nga-Nhật sắp tới gần.

Trong khắp cả làng, lại chính người đàn ông Ainu, nay không còn là chàng thanh niên nữa, tỏ rõ sự quan tâm đến cừu nhiều nhất. Ông học phương pháp chăn nuôi cừu từ các quan chức địa phương và đảm nhận trách nhiệm phụ trách đồng cỏ của làng. Không ai biết chính xác tại sao ông ta lại hết mình với cừu nhường ấy. Có thể là vì những phức tạp của cuộc sống do số lượng dân làng bỗng nhiên tăng vọt.

Đồng cỏ trở thành nhà cho ba mươi sáu đầu cừu Southdown và hai mươi mốt đầu cừu Shropshire cộng với hai con chó cô li giống Border. Người đàn ông Ainu trở thành người chăn cừu giỏi, và số lượng cừu và chó tăng lên mỗi năm. Ông dần dà yêu đàn cừu và đàn chó của mình tha thiết. Các viên chức thì vô cùng hài lòng. Chó con được bán cho các trang trại cừu tương tự được thành lập gần đó để rồi trở thành những con chó chăn cừu giỏi nhất.
Khi chiến tranh Nga-Nhật bùng nổ, năm trai làng bị bắt đi lính và điều ra tiền tuyến ở Trung Hoa. Hai người hy sinh và một bị mất một cánh tay trái khi một quả lựu đạn của quân địch nổ tung trong cuộc giao tranh nhỏ trên một ngọn đồi nhỏ. Khi cuộc giao tranh kết thúc sau ba ngày, hai người kia thu thập các mảnh xương nằm rải rác của những người bạn thanh niên cùng làng. Tất cả là con trai của những người định cư đợt một và đợt hai. Một trong những người chết là con trai cả của người thanh-niên-trở-thành-người-chăn-cừu Ainu. Cậu chết khi mặc một cái áo khoác len do quân đội cấp.

“Tại sao lại điều bọn con trai ra trận tại một miền đất lạ?” người chăn cừu Ainu đi quanh hỏi mọi người. Lúc đó ông bốn mươi lăm tuổi.

Không ai có thể trả lời ông. Người chăn cừu Ainu tuyệt giao với làng và ở luôn bên ngoài đồng cỏ, tỉnh thức cùng đàn cừu. Vợ ông đã qua đời vì bệnh viêm phổi năm năm trước, và hai con gái ông đã lấy chồng. Để trả công trông nom đàn cừu, làng cấp cho ông chút lương ít ỏi và thức ăn.

Sau khi mất con trai, người chăn cừu Ainu trở nên cay đắng. Ông qua đời khi sáu mươi hai tuổi. Một sáng mùa đông, cậu bé giúp việc cho ông tìm thấy xác ông nằm chết sóng soài trên sàn trại cừu. Đông cứng. Hai con chó đời cháu của hai con cô li giống Border đầu tiên mắt buồn thương cảm rên rỉ bên cạnh ông. Đàn cừu, không hề biết gì, đang gặm cỏ tại khu chăn thả của mình. Nhịp nhai khe khẽ của răng cừu nghe giống như một dàn đồng ca catanhet.

Lịch sử Junitaki tiếp tục, nhưng lịch sử của người thanh niên Ainu kết thúc tại đó. Tôi đứng dậy đi vệ sinh và đái ra hết số bia trong hai chai. Khi tôi quay lại chỗ ngồi, cô đã thức giấc và đang lơ đãng nhìn ra ngoài cửa sổ. Cánh đồng lúa trải dài tít tắp. Thi thoảng là một hầm ủ tươi thức ăn cho vật nuôi. Sông chạy lại gần, rồi chạy ra xa. Tôi hút một điếu thuốc, cảm nhận khung cảnh cùng với dáng ngồi nghiêng của cô trong đó. Cô không nói một lời. Khi hút hết điếu thuốc, tôi quay lại với cuốn sách. Bóng một cây cầu sắt sáng lóe lên qua trang sách.

Sau câu chuyện bất hạnh của người thanh niên Ainu sau trở thành người chăn cừu, già đi, rồi qua đồi, lịch sử còn lại khá nhàm chán. Một trận viêm đường ruột cướp đi mười đầu cừu, một đợt lạnh khủng khiếp giáng đòn chí tử cho đám hoa màu, nhưng ngoài ra thì mọi thứ trong làng đều diễn ra trôi chảy. Vào thời Đại Chính, làng được hợp nhất thành huyện và được đổi tên mới là Junitaki-cho. Junitaki-cho phát triển tốt, xây thêm nhiều cơ sở vật chất, một trường tiểu học, một tòa thị chính, một điểm bưu điện. Đến lúc này, việc định cư ở Hokkaido gần như hoàn tất.

Khi đất đai trồng trọt được đã gần cạn kiệt, một vài thanh niên rời Junitaki-cho đi tìm vận may ở những thế giới mới như Mãn Châu và Sakhalin. Vào những năm 1937, Giáo sư Cừu xuất hiện ở thị trấn.

Lịch sử viết: “Người quản lý kỹ thuật của Bộ Nông Lâm được công nhận rộng rãi vì các nghiên cứu ở Triều Tiên và Mãn Châu. Giáo sư________(tuổi 32) rời vị trí của mình do hoàn cảnh đặc biệt và lập trang trại cừu riêng của mình tại thung lũng núi phía Bắc Junitaki-cho.”

Chuyện về ông chỉ được viết có thế.

Bản thân tác giả có vẻ như cũng chán các sự kiện những năm ba mươi, việc ghi chép của ông ta trở nên không đồng nhất và chắp vá. Ngay cả văn phong cũng sa sút, mất đi sự mạch lạc khi ông thảo luận về người thanh niên Ainu.

Tôi bỏ không đọc ba mươi năm giữa 1938 và 1969 và nhảy đến phần có tựa đề “Junitaki ngày nay”. Tất nhiên, “ngày nay” trong sách là vào năm 1970, hầu như không phải “ngày nay” của ngày nay. Tuy vậy, khi viết lịch sử của một thị trấn hiển nhiên cần phải đưa cái “ngày nay” ra. Và thậm chí nếu một ngày nay chẳng mấy chốc không còn là ngày nay nữa, không ai có thể chối cái được nó thật sự là một ngày nay. Vì nếu như ngày nay thôi không còn là ngày nay, lịch sử không thể tồn tại như lịch sử.

Theo cuốn Lịch sử chính thức huyện Junitaki, năm 1969 dân số giảm xuống còn 15.000, giảm 6.000 so với mười năm trước, hầu như vì sự sa sút của nghề nông. Sách nói rằng, tỷ lệ không còn làm nghề nông cao bất bình thường là phản ứng trước những thay đổi của cơ sở hạ tầng quốc gia trong thời kỳ phát triển công nghiệp nhanh chóng, cũng như bản chất kỳ lạ của nghề nông trong khí hậu của Hokkaido.

Vậy những nơi đất đai trồng cấy đã trở thành gì? Chúng được trồng cây gây rừng lại. Mảnh đất mà cha ông họ đã đổ máu phát hoang, những người hậu duệ giờ đây trồng cây. Thật trớ trêu khi sự việc trở nên như thế.

Nói vậy nghĩa là ngành nghề chính ở Junitaki ngày nay là lâm nghiệp và cán gỗ. Ngày nay thị trấn tự hào có một vài nhà máy gỗ nhỏ nơi họ sản xuất tủ đựng ti vi, bàn trang điểm, những bức tượng nhỏ hình gấu và người Ainu bán cho khách du lịch. Túp lều công cụ ngày xưa trở thành Bảo tàng Người tiên phong, nơi nông cụ và các đồ dùng ăn uống từ những ngày đầu định cư được trưng bày. Có cả vật lưu niệm về những thanh niên làng đã chết trong Chiến tranh Nga-Nhật. Và thậm chí cả bức thư gửi về quê hỏi về những người chủ nợ.

Nhưng sự thật Junitaki ngày nay là một thị trấn hết sức buồn tẻ. Dân thị trấn, khi đi làm về, xem ti vi trung bình bốn tiếng trước khi đi ngủ mỗi tối. Số phiếu đi bầu cử luôn cao, nhưng không ai ngạc nhiên trước việc ai là người trúng cử. Khẩu hiệu của thị trấn là “Nhân tính Rộng rãi trong một thiên nhiên Rộng rãi”. Hay tấm biển trước cửa ga nói thế.

Tôi gấp sách, ngáp, rồi ngủ thiếp đi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 18:34:59 | Xem tất
Chương 30: Lần Suy Vong Tiếp Theo Của Junitaki Và Lượng Cừu Của Nó


Chúng tôi bắt tàu chuyển tiếp tại Asahikawa và đi về hướng Bắc qua đèo Shiogari, chủ yếu đi chính con đường mà người thanh niên Ainu và mười tám người nông dân nghèo xơ xác đi một thế kỉ trước.

Mặt trời mùa thu chói sáng xuyên qua tàn tích cuối cùng của rừng hoang và lá cây thanh lương trà đỏ rực. Không khí tĩnh lặng và trong lành. Tới mức chỉ nhìn phong cảnh thôi cũng khiến người ta đau mắt.

Chuyến tàu lúc đầu vắng vẻ, nhưng tới giữa đường, một đám học sinh trung học đi vé tháng chen chúc nhau lên và thế là náo loạn vô cùng, những tiếng la hét, gầu tóc, mùi cơ thể, những cuộc chuyện trò không tài nào hiểu được và thôi thúc tình dục không có chỗ nào thoát ra. Cứ thế trong khoảng ba mươi phút cho đến khi tất cả bọn chúng biến mất tại cùng một nhà ga. Một lần nữa, đoàn tàu lại trống vắng, không nghe một tiếng nói.

Chúng tôi chia nhau nhấm nháp một thỏi sô cô la trong lúc phong cảnh diễu ra trước mắt. Ánh nắng thanh bình đổ lên mặt đất. Mọi thứ dường như xa xôi làm sao, như thể chúng tôi đang nhìn qua đầu kia của kính thiên văn. Cô huýt sáo mấy đoạn trong bài “Johnny B. Goode”. Đây có lẽ là lần lâu nhất chúng tôi không nói với nhau câu nào.

Buổi chiều, chúng tôi xuống tàu. Đứng trên sân ga, tôi hít một hơi thật sâu và vươn vai. Không khí trong lành đến mức tôi cảm thấy phổi mình sắp nổ tung. Ánh mặt trời trên cánh tay tôi ấm áp và đầy nhục cảm, ngay cả khi không khí ở đó lạnh hơn không khí ở Sapporo ba bốn độ.

Một dãy nhà kho xây bằng gạch cũ kỹ xếp hàng dọc đường ray, cạnh đó là một chồng gỗ xếp theo hình kim tự tháp dài hơn hai mét rưỡi, đen sẫm và đẫm nước từ trận mưa đêm trước. Sau khi chuyến tàu chờ chúng tôi đến đã rời khỏi nhà ga, chẳng còn ai trong tầm nhìn, chỉ có một bụi cúc vạn thọ đung đưa trong gió lạnh.

Từ sân ga, chúng tôi trông thấy một đô thị khu vực quy mô nhỏ điển hình. Có đầy đủ phố chính, các cửa hàng bách hóa khiêm nhường, bến xe buýt, trung tâm thông tin du lịch. Nếu ấn tượng ban đầu là đúng thì đó là một thành phố cực kì tẻ nhạt.

“Đây là đích đến của chúng ta ư?” cô hỏi.

“Không, không phải ở đây. Chúng ta đi tàu tiếp từ đây. Đích đến của chúng ta là một thị trấn nhỏ hơn thế này nhiều, rất nhiều.”

Tôi ngáp và thở một hơi sâu nữa.

“Đây là điểm quá giang của chúng ta. Đây là nơi mà những người định cư đầu tiên rẽ sang hướng Đông.”

“Những người định cư đầu tiên ư?”

Trong thời gian trước khi tàu chuyển tiếp đến, chúng tôi ngồi trước máy sưởi trong phòng đợi, và tôi thuật lại kiến thức vụn vặt của mình về lịch sử Junitaki-cho. Bảng niên đại trở nên hơi lẫn lộn, thế là tôi dùng một trang giấy từ cuốn sổ để vẽ một bảng thời gian đơn giản hóa dựa trên phần tóm tắt phía sau cuốn Lịch sử chính thức. Bên trái trang giấy, tôi liệt kê ngày tháng và các mốc phát triển trong lịch sử Junitaki-cho, bên phải là các sự kiện chủ yếu của lịch sử Nhật Bản trong cùng thời kỳ. Một bảng niên đại khá đáng nể.

Chẳng hạn, vào năm 1905, Cảng Arthur sụp đổ và con trai người thanh niên Ainu hy sinh. Và nếu như trí nhớ tôi chính xách, đó cũng là năm Giáo sư Cừu ra đời. Dần dà, lịch sử kết nối.

“Nhìn sự việc kiểu này,” cô nói, so sánh bên trái và bên phải của bảng niên đại, “người Nhật chúng ta dường như sống từ cuộc chiến này qua cuộc chiến khác.”

“Đúng là có vẻ như vậy,” tôi nói.

“Làm sao mà mọi việc lại trở nên thế này?”

“Chuyện đó phức tạp. Anh thật sự không nói được. Không phải chỉ như vậy.”

“Hừm.”

Phòng đợi, giống như hầu hết các phòng đợi, vắng vẻ và không có gì đáng chú ý. Ghế băng không thoải mái đến mức thảm hại, gạt tàn đầy những mẩu thuốc lá sũng nước, không khí bốc mùi chua. Trên tường là các tấm áp phích du lịch và danh sách tội phạm đang bị truy nã. Những người duy nhất ở đó là một ông già mặc áo len màu vàng nhạt và một bà mẹ với đứa con trai bốn tuổi. Ông già ngồi dính vào một chỗ, mải mê nghiên cứu tạp chí văn học. Ông lật trang chậm rãi như thể đang bóc băng dính. Mười lăm phút từ trang này qua trang khác. Bà mẹ và đứa bé trông như một cặp vợ chồng hôn nhân đang trục trặc.

“Thực ra ai cũng nghèo, nhưng chúng ta muốn tin rằng nếu mọi thứ ổn thỏa, chúng ta sẽ thoát khỏi cái nghèo.”

“Như người dân ở Junitaki-cho.”

“Chính xác. Đó là lý do họ làm quần quật đến chết để vỡ thêm đất. Ngay cả như vậy, hầu hết những người định cư đều chết trong cảnh nghèo.”

“Tại sao?”

“Tại khu vực thôi. Hokkaido là xứ lạnh, cứ mấy năm lại có một trận sương giá khủng khiếp. Nếu mùa màng chết hết thì sẽ không có gì ăn, không có thu nhập để mua dầu. Họ thậm chí không thể mua nổi hạt giống cho năm sau. Thế là họ cầm cố đất và vay nặng lãi. Nhưng không một nền nông nghiệp nào ở bất kỳ khu vực nào lại sinh lợi đủ để trả số lãi đó, thế nên cuối cùng họ bị tước đoạt đất đai. Điều đó khiến nhiều nông dân phải đi trồng cấy thuê.”

Tôi giờ qua mấy trang cuốn Lịch sử chính thức và đọc cho cô: “Vào năm 1930, số lượng nông dân tự cày cấy trên đất của mình giảm xuống còn 46% dân số Junitaki-cho. Họ bị giáng cho hai đòn chí tử, một thị trường đình trệ và một trận sương giá khủng khiếp.”

“Vậy là sau bao nhiêu nhọc nhằn để phát quang thêm đất trồng cấy cho chính mình, họ chỉ càng lún sâu hơn vào nợ nần.” cô kết luận.

Vì vẫn còn bốn mươi phút nữa tàu mới đến, cô quyết định một mình đi bộ quanh thị trấn. Tôi ngồi lại phòng đợi, uống một lon Coke và đọc tiếp phần bỏ dở ở một cuốn sách khác. Chẳng bao lâu tôi chán đọc và cất sách đi. Tôi không thể tập trung. Đầu tôi đầy những con cừu Junitaki-cho nhai chóp chép tất cả đám chữ nghĩa tôi có thể cho chúng ăn. Tôi nhắm mắt lại thở dài. Một đoàn tàu chở hàng đi ngang qua đổ một hồi còi.

Vài phút trước giờ đi, cô trở về với một túi táo. Chúng tôi ăn táo thay bữa trưa, rồi lên tàu.

Con tàu chắc chắn đã từng dãi dầu bao ngày tháng. Những phần gỗ ọp ẹp nơi sàn tàu oằn xuống và mòn vẹt. Đi dọc theo lối đi giữa các dãy ghế cũng đủ khiến người ta đung đưa từ bên này qua bên khác. Bọc ghế mất hết lớp tuyết còn nệm ghế như bánh mì để lâu một tháng. Một không khí chết chóc, trộn lẫn mùi nhà vệ sinh và mùi dầu lửa, lan tỏa trong toa tàu. Tôi mất mười phút cố mở cửa sổ để không khí từ bên ngoài vào, nhưng vừa mới mở được thì một đám cát mịn thổi vào và tôi lại mất từng ấy thời gian để đóng cửa sổ.

Tàu có hai toa. Có cả thảy mười lăm hành khách, bị gộp lại với nhau bởi một mối ràng buộc chung là sự thờ ơ và chán nản. Ông già mặc áo len vàng nhạt vẫn đang đọc tạp chí. Xét tốc độ đọc đó, số báo ấy có thể đã ra từ cách đây ba tháng. Một bà trung niên trông nặng nề đang nhìn chằm chằm vào một điểm xa bên ngoài, như thể nhà phê bình đang nghe một bản xô nát của Scriabin.

Bọn trẻ con cũng lặng lẽ. Chúng ngồi yên lặng nhìn trân trân ra ngoài cửa sổ. Thi thoảng, ai đó phát ra tiếng ho khan khò khè nghe cứ như xác ướp bị một cái cặp gõ lên đầu.

Mỗi lầu tàu vào một nhà ga là lại có ai đó xuống tàu. Cứ khi nào có người xuống tàu, người soát vé lại xuống thu vé rồi quay trở lại. Người soát vé hoàn toàn không chút biểu cảm gì, đến độ ông ta có thể đi cướp nhà băng mà không phải che mặt. Không hành khách mới nào lên tàu.

Bên ngoài, con sông trải dài bất tận, nổi màu nâu bùn do các trận mưa. Lấp lánh trong ánh nắng thu, trông dòng sông giống như một cái đập tràn toàn cà phê sữa. Con đường được nâng cấp dọc theo bờ sông lúc ẩn lúc hiện, và thỉnh thoảng một chiếc xe tải khổng lồ chở đầy gỗ phóng ầm ầm về phía Tây. Nhưng nhìn chung thì con đường dường như không được thực sự sử dụng. Các biển hiệu quảng cáo bên đường không truyền được thông điệp của nhà tài trợ cho ai, đến đâu. Tôi đẩy lui sự buồn chán bằng cách nhìn từng biển hiệu quảng cáo mới, nhận thấy ở chúng có vẻ lôi cuốn thành thị, sắc nét. Một cô gái có làn da rám nắng tuyệt đẹp mặc bikini chun môi trên một chai Coca, một diễn viên đứng tuổi nheo mày nhìn ly rượu Scotch nghiêng nghiêng, một chiếc đồng hồ thợ lặn được hào phóng té nước vào, một cô người mẫu ở giữa đám nội thất tinh tế, bóng mượt đang làm móng. Những người đi tiên phong mới của ngành quảng cáo đang khoét một vết sâu đồi bại vào trong vùng thôn quê.

Sau hai tiếng bốn mươi phút, chúng tôi tới Junitaki-cho, điểm dừng cuối. Vào một thời điểm nào đó trên đường chúng tôi đã ngủ gà gật, có vẻ như không nghe thấy thông báo của nhà ga. Động cơ diesel đã thở hắt ra hơi cuối cùng rồi mọi thứ rơi vào tĩnh lặng. Tôi giật mình tỉnh dậy, sự yên lặng râm ran trên da tôi. Khi tôi nhìn quanh, không hành khách nào còn lại trên tàu.

Tôi lôi túi xách từ trên giá xuống, gõ nhẹ lên vài cô vài lần để đánh thức cô dậy, rồi chúng tôi xuống tàu. Cơn gió thổi dọc chiều dài sân ga đã se sẽ chút lạnh cuối thu. Bóng dãy đồi tối đen trườn qua mặt đất như những vết ố chết người. Ngay cuối phố xá, hai dãy đồi ở hai bên thị trấn dường như gặp nhau, gọn gàng ôm cả thị trấn như hai bàn tay khum lại chắn gió cho một ngọn lửa diêm. Hai dãy đồi sừng sững phía trên sân ga chật hẹp.
Chúng tôi đứng đó, lúng túng một lúc, nhìn chăm chăm vào khung cảnh đến vài phút.

“Trang trại cũ của Giáo sư Cừu ở đâu anh?” cô hỏi.

“Tít trên núi. Cách đây ba tiếng đi xe.”

“Mình có đi thẳng đến đó không?”

“Không,” tôi nói. “Nếu mình đi ngay bây giờ thì quá nửa đêm mới tới nơi. Hãy qua đêm ở đây và khởi hành vào buổi sáng.”

Trước cửa nhà ga là một giao lộ nhỏ, vắng tanh. Không ai đi vòng quanh. Không taxi đón khách hoặc thả khách. Ở giữa, chỉ có một vòi phun nước hình chim nhưng chẳng có tí nước nào. Con chim lơ đãng nhìn lên bầu trời, miệng há ra mà không có gì để nói. Quanh vòi phun nước trồng một bồn cúc vạn thọ hình tròn. Chỉ liếc qua người ta cũng có thể thấy thị trấn tiêu điều hơn nhiều so với một thập kỷ trước. Hầu như không có ai ngoài phố, còn số ít ỏi đang ở ngoài phố thì dường như cũng có vẻ tiêu điều đãng trí của một thị trấn đang tàn lụi.

Bên trái giao lộ là khoảng nửa tá nhà kho cũ, từ những ngày còn vận tải đường sắt. Được xây bằng gạch theo kiểu cổ, chúng có mái rất dốc và cửa ra vào bằng thép được sơn đi sơn lại không biết bao lần, cuối cùng chỉ để bị bỏ hoang. Những con quạ to cồ cộ đậu thành dãy dọc theo mái ngói, lặng lẽ quan sát thị trấn. Tiếp đến là một bãi đất trống phủ đầy cỏ dại có thể khiến người ta bị phát ban đến tận vai, ở giữa đó là tàn tích của hai chiếc xe cũ bị bỏ mặc cho mưa nắng tàn phá. Cả hai chiếc xe đều thiếu lốp, các bộ phận bên trong lòi hết ra từ bên dưới ca pô để mở.

HƯỚNG DẪN ĐẾN THỊ TRẤN được dán ngay cạnh giao lộ vắng ngắt, bị gió mưa bào mòn đến mức hầu như không đọc nổi. Những chữ có thể được được là JUNITAKI-CHO và GIỚI HẠN PHÍA BẮC CỦA TRỒNG LÚA DIỆN RỘNG.

Ngay trước giao lộ là một con phố nhỏ, dọc hai bên là các cửa hàng. Một con phố không khác gì với những con phố tương tự ở Nhật, chỉ trừ một điểm là đường rộng một cách vô lý, đem lại cho thị trấn ấn tượng càng thêm thưa thớt và lạnh lẽo. Hai bên đường là những hàng cây thanh lương trà, tán lá rực rỡ nhưng không hiểu sao vẫn không bớt phần lạnh lẽo. Đó là sự lạnh lẽo ngấm vào mọi sinh vật, chưa kể vận mệnh con người. Những sự kiện ngày qua ngày thiếu sức sống của cư dân thị trấn - tất cả - đều bị nhấn chìm trong cái lạnh lẽo ấy.

Tôi xốc ba lô lên vai và đi về phía cuối khu vực thương mại dài năm trăm thước ấy, tìm một chỗ để nghỉ. Không có bất kì quán trọ nào. Một phần ba số cửa hiệu kéo cửa chớp xuống. Tấm biển rách tơi tả trước một hiệu đồng hồ đập qua đập lại trong gió.

Ở nơi con phố có các cửa hiệu đột ngột bị ngắt quãng, có một bãi đậu xe, lại đầy cỏ dại. Trong bãi là một chiếc Honda Fairlady màu kem và một xe thể thao, chiếc Toyota Celica màu đỏ. Cả hai đều mới. Tình trạng tinh khôi của chúng ở ngay giữa cái thị trấn rệu rã này tạo nên một khung cảnh mới kỳ cục làm sao.

Đi quá các cửa hiệu, con đường đổ dốc thoai thoải tới bờ sông, ở đó nó tách sang trái và phải theo hình chữ T. Dọc theo con đường này là những ngôi nhà khung gỗ một tầng nhỏ, với những hàng cây màu xám bụi đâm thẳng lên trời những cành nhánh đầy gai. Tôi không biết đó là cây gì, nhưng cành nào cành nấy đều mang hình dáng hết sức kì quái. Trước mỗi cửa nhà đều có thùng phuy đựng xăng lớn giống hệt nhau với các hộp đưa sữa kèm theo. Và trên mỗi mái nhà là những cột ăng ten ti vi cao không tưởng. Những cái xúc tu bằng bạc này mò mẫm trong không trung, bất chấp những ngọn núi tạo thành phông nền của thị trấn.

“Nhưng mà không có quán trọ nào,” cô nói lo lắng.

“Đừng lo, thị trấn nào chẳng phải có một quán trọ.”

Chúng tôi trở lại nhà ga và hỏi hai người phục vụ ở đó xem có thể tìm được chỗ trọ ở đâu. Tuổi cách xa nhau đến mức có thể cho là bố con được, họ rõ ràng là đang chán và giải thích địa điểm nhà trọ tỉ mỉ đến đáng ngại.

“Có hai nhà trọ,” người phục vụ lớn tuổi hơn nói. “Một cái đắt hơn, cái kia khá rẻ. Cái đắt tiền là nơi chúng tôi sắp xếp mấy vị viên chức quan trọng của Chính quyền địa phương và mở tiệc đặc biệt.”

“Thức ăn ở đó không tồi chút nào,” người phục vụ trẻ tuổi hơn nói.

“Cái kia là nơi mà đám khách thương gia hay đám thanh niên đi du lịch hay, xem nào, nơi khách thông thường nghỉ trọ. Bề ngoài thì có thể khiến anh mất hứng, nhưng không bẩn gì đâu. Phòng tắm khá ấn tượng đấy.”

“Mặc dù tường có mỏng,” người trẻ hơn nói.

Đến đó hai người lao vào một cuộc tranh luận về độ mỏng của bức tường.

“Chúng tôi sẽ đi tìm cái đắt tiền,” tôi nói. Không việc gì phải tiết kiệm. Còn đó chiếc phong bì, vẫn nhét đầy tiền.

Người phục vụ trẻ tuổi hơn xé một tờ từ sổ ghi nhớ và vẽ bản đồ chính xác đường đến quán trọ.

“Cám ơn nhé,” tôi nói. “Tôi đoán trước không có nhiều người qua đây như mười năm về trước.”

“Không, điều đó thì chắc chắn,” người lớn tuổi hơn nói. “Giờ chỉ còn một nhà máy gỗ và không còn ngành nghề nào đáng nói. Nông nghiệp đã sụp đổ. Dân số cũng đã giảm xuống quá nhiều.”

“Chết tiệt, không còn có đủ học sinh để mở lớp học tử tế ở trường nữa,” người trẻ hơn góp chuyện.

“Dân số là bao nhiêu vậy?”

“Người ta nói khoảng bảy nghìn, nhưng thực ra chắc phải ít hơn thế. Tôi nghĩ năm nghìn thì chính xác hơn.”

“Hãy đi tuyến đường này, cậu ơi, trước khi họ đóng cửa cái ga này, có lẽ là bất cứ lúc nào. Dù gì xảy ra đi nữa, chúng tôi vẫn là tuyến xếp hàng thứ ba từ dưới lên trong cả nước,” người lớn tuổi kết luận.

Tôi ngạc nhiên khi biết rằng có những chuyến tàu khác còn xuống cấp hơn cả tuyến này. Chúng tôi cảm ơn họ rồi đi.

Quán trọ nằm dưới sườn dốc, về bên phải con phố buôn bán, khoảng gần ba trăm mét dọc bờ sông. Một quán trọ cũ, khá đẹp, le lói chút duyên dáng hẳn đã có từ thời huy hoàng của thị trấn. Quán nhìn ra sông, có một khu vườn được chăm sóc cẩn thận. Ở một góc vườn, một chú cún chăn cừu sục mũi vào đĩa thức ăn, ăn tối sớm.

“Đi leo núi phải không?” người phục vụ đưa chúng tôi về phòng hỏi.

“Đúng là đi leo núi,” tôi trả lời đơn giản.

Chỉ có hai phòng trên gác. Mỗi phòng được bố trí rộng rãi, nếu bước ra ngoài ban công, có thể thấy cùng cảnh dòng sông cà phê sữa chúng tôi đã nhìn thấy trên tàu.

Bạn gái tôi muốn đi tắm, vậy nên tôi đi xem tòa thị chính. Tòa thị chính nằm trên con phố vắng tanh cách phố buôn bán hai dãy nhà về hướng Tây. Vậy nhưng tòa nhà lại mới và đẹp hơn nhiều so với những gì tôi trông đợi.

Tôi đi tới phòng chăn nuôi trong tòa thị chính, tự giới thiệu mình bằng tấm danh thiếp của một tạp chí từ hai năm trước khi tôi còn là phóng viên tự do, và bắt đầu thao thao về chuyện tôi cần hỏi một số câu về chăn nuôi cừu, nếu họ không ngại. Khá là gượng gạo khi một tuần san cho phụ nữ lại cần một bài báo về cừu, nhưng viên quan chức phụ trách chăn nuôi tin tôi ngay và dẫn tôi vào văn phòng anh ta.

“Hiện tại huyện chúng tôi có khoảng hai trăm con cừu, tất cả đều là giống Suffolk. Nghĩa là, cừu thịt. Thịt được chia thành từng phần đưa đến các nhà nghỉ và tiệm ăn gần đó, và rất được ưa chuộng.”

Tôi lôi sổ ra ghi nhanh những ghi chép phù hợp. Chắc chắn người đàn ông đáng thương này sẽ mua tạp chí phụ nữ trong vài số tới. Phải thú nhận điều đó khiến tôi cảm thấy ngượng.

“Chắc là một bài báo về ẩm thực hả anh?” anh ta ngừng lại để hỏi sau khi đã trình bày chi tiết hiện trạng chăn nuôi cừu.

“Ừm, tất nhiên đó là một phần của bài báo,” Tôi nói. “Nhưng hơn thế nữa, chúng tôi muốn vẽ lên một bức tranh toàn cảnh về cừu.”

“Một bức tranh toàn cảnh ư?”

“Anh biết đấy, tính cách, thói quen của chúng, đại loại thế.”

“Ồ,” người cung cấp thông tin của tôi nói.

Tôi gấp sổ và uống nước trà vừa được dọn ra. “Chúng tôi nghe nói có một trang trại cừu cũ ở đâu đó trên núi.”

“Vâng, quả có thế. Nó được Quân đội Mỹ sung công sau chiến tranh, nay thì không còn dùng nữa. Trong khoảng mười năm sau khi người Mỹ trao trả, một tay giàu có từ đâu tới sử dụng nó làm biệt thự, nhưng nó ở xa bất tiện cho việc đi lại quá nên ông ta thôi không lên đó nữa. Giờ thì ngôi nhà hầu như bị bỏ hoang. Đó là lý do tại sao trang trại được thị trấn thuê. Chúng tôi nên mua lại và biến chỗ đó thành trang trại du lịch. Nhưng tôi e là tài chính của huyện không cho phép làm như vậy. Đầu tiên, chúng tôi sẽ phải nâng cấp đường…”

“Cho thuê ư?”

“Vào mùa hè,trang trại cừu thuộc thị trấn chúng tôi dẫn khoảng năm mươi đầu cừu trên núi. Đồng của thị trấn không đủ cỏ, mà nói về đồng cỏ thì đồng trên đó khá tốt. Khi thời tiết bắt đầu trở nên xấu hơn vào khoảng nửa sau tháng Chín, người ta lại đưa cừu xuống.”

“Anh có tình cờ biết khi nào cừu lên đó không?”

“Tùy từng năm, nhưng nói chung từ đầu tháng Năm đến nửa sau tháng Chín.”

“Và có bao nhiêu người đưa cừu lên đó?”

“Một người. Vẫn người làm công việc đó suốt mười năm qua.”

“Liệu có thể gặp người này không?”

Viên quan chức gọi điện thoại đến trang trại cừu thuộc thị trấn.

“Nếu đi đến đó bây giờ, anh có thể gặp ông ấy”, anh ta nói. “Chúng ta lái xe đến đó chứ?”

Đầu tiên tôi lịch sự từ chối, nhưng ngay sau đó tôi biết mình không thể đến trang trại cừu bằng cách khác. Không có taxi hay hay xe cho thuê ở thị trấn này, và nếu đi bộ sẽ mất một tiếng rưỡi.

Viên quan chức phụ trách vật nuôi lái một chiếc xe mui kín nhỏ. Anh ta đi qua quán trọ của chúng tôi và hướng về phía Tây, đi trên một cây cầu bê tông dài để vượt qua một vùng đầm lầy lạnh lẽo, rồi leo lên dốc núi. Lốp xe quay tít trên sỏi.

“Từ Tokyo đến, chắc anh nghĩ đây là một thịt trấn ma?”

Tôi nói câu gì đó vô thưởng, vô phạt.

“Thực ra chúng tôi đang hấp hối. Chúng tôi cầm cự được chừng nào còn có đường xe lửa, nhưng nếu nó không còn chúng tôi chăc chắc sẽ chết. Thật kỳ lạ, một thị trấn hấp hối. Một người hấp hối thì tôi có thể hiểu được. Nhưng cả một thị trấn hấp hối thì…”

“Điều gì sẽ xảy ra nếu thị trấn này chết?”

“Điều gì sẽ xảy ra ư? Không ai biết được. Tất cả họ sẽ cao chạy xa bay trước lúc đó, không muốn biết. Nếu dân số xuống dưới một ngàn - điều hoàn toàn có khả năng - chúng tôi chắc chắn sẽ mất việc, và chúng tôi có thể là những người phải chấm dứt mọi thứ ở đây.”

Tôi mời anh ta một điếu thuốc và châm lửa cho anh ta bằng chiếc bật lửa Dupont khắc hình con cừu.

“Có khá nhiều việc tốt ở Sapporo. Tôi có một cậu lãnh đạo một công ty in ấn ở đó, và ông ấy cần thêm nhân công. Công ty nhận đặt hàng của các trường cho nên việc kinh doanh khá ổn định. Thật ra, chuyển đến đó là tốt nhất. Ít ra còn hơn là quản lý việc chuyên chở cừu và gia súc ở đây.”

“Có lẽ vậy,” tôi nói.

“Nhưng khi phải thực sự gói ghém đồ ra đi, tôi lại không có can đảm. Anh hiểu ý tôi không? Nếu thị trấn thực sự hấp hối, thì nỗi thôi thúc ở lại mà chứng kiến ngày tận vong của thị trấn vẫn mạnh hơn.”

“Anh sinh ra ở đây à?” tôi hỏi.

“Vâng”, anh ta nói, rồi im lặng. Một mặt trời nhuốm màu sầu muộn đã lặn một phần ba sau đồi.

Hai cây cột dựng ở lối vào trang trại cừu, ở giữa treo một tấm biển: TRANG TRẠI CỪU THUỘC THỊ TRẤN JUNITAKI-CHO. Con đường chạy dưới tấm biển rồi leo lên dốc, mất hút vào trong rừng thu rậm rạp.

“Ở sau rừng là trại cừu và đằng sau đó là nơi ở của người trông nom trại. Anh sẽ ở lại thị trấn thế nào được nhỉ?”

“Xuống núi mà. Tôi có thể đi bộ được. Cám ơn anh vì tất cả.”

Chiếc xe biến khỏi tầm mắt, và tôi đi giữa hai cây cột rồi lên dốc. Những tia nắng cuối cùng thêm chút màu cam vào đám lá cây thích đã nhuộm sắc vàng. Cây cao vút, những mảng nắng lọc qua cành cây chiếu lung linh trên con đường rải sỏi.

Ra khỏi rừng, tôi tình cờ gặp một tòa nhà hẹp trên mặt đồi, cùng với nó là mùi gia súc. Chuồng cừu lợp bằng tôn sóng đỏ với ba ống thông gió.

Có một chuồng chó tại cửa trại. Tôi vừa mới trông thấy chuồng chó thì một con chó cô li giống Border bị xích xổ ra sủa hai tràng. Đó là một con chó già có cặp mắt buồn ngủ và tiếng sủa của nó chẳng dọa nạt được ai. Khi tôi xoa cổ nó, nó bình tĩnh lại ngay. Hai chiếc bát nhựa màu vàng đựng thức ăn nước uống đặt ngay trước cửa chuồng. Ngay sau khi tôi thả tay ra, con chó quay trở lại cửa chuồng, mãn nguyện, xếp chân cho thẳng với cửa, rồi nằm xuống sàn.

Bên trong trại cừu tối mờ mờ. Không có ai quanh đó. Một lối đi lát bê tông rộng trải ra ở giữa, hai bên là chuồng cừu. Dọc theo lối đi là rãnh nước để tiêu nước đái cừu và nước rửa. Đây đó những ô cửa sổ trổ trên tường ghép ván gỗ cho thấy các ngọn đồi lởm chởm. Ánh hoàng hôn hắt màu đỏ lên đám cừu bên phải, đẩy đám cừu bên trái vào trong bóng tối xanh thẫm.

Ngay khi tôi bước chân vào chuồng cừu, tất cả hai trăm con cừu quay về phía tôi. Một nửa đàn cừu đứng, nửa kia nằm trên đám cỏ khô rải xuống sàn chuồng. Mắt chúng xanh một màu không tự nhiên, trông giống như những nguồn suối bé tí tẹo chảy ra từ hai bên mặt. Chúng tỏa sáng như mắt thủy tinh phản chiếu ánh sáng trực tiếp. Tất cả bọn chúng nhìn chằm chằm vào tôi. Không con nào nhúc nhích. Một vài con, đầu nhô ra khỏi chuồng, ngừng uống nước và đứng chôn chân tại chỗ, dán mắt nhìn tôi. Chúng dường như suy nghĩ theo nhóm. Không biết việc tôi đứng giữa cửa có tạm thời làm gián đoạn suy nghĩ thống nhất của chúng không? Mọi thứ dừng lại, mọi phán xét bị gián đoạn. Một chuyển động của tôi khiến đám cừu bắt đầu lại suy nghĩ của mình. Chúng bắt đầu chuyển động, trong tám cái chuồng riêng biệt. Những con cừu cái đứng quanh con cừu đực hạt giống trong chuồng cừu cái; trong chuồng chỉ dành cho cừu đực, những con cừu đực ganh đua vị trí thống trị. Chỉ có một vài con tò mò đứng ở hàng rào nhìn chằm chằm vào tôi.
Gắn vào những đôi tai dài, phẳng và đen thò ra từ hai bên mặt là những thẻ nhựa. Một số con mang thẻ màu xanh, một số màu vàng, một số màu đỏ. Chúng cũng có đốm màu trên lưng.

Tôi đi nhón chân để không làm chúng hoảng sợ. Giả bộ không quan tâm, tôi đến một chuồng và thò tay chạm vào đầu một con cừu đực non. Nó do dự nhưng không quay đi. Căng thẳng, mắt mở to, cứng nhắc. Có lẽ nó là thước đo đánh giá sự xâm nhập của tôi.

Trước tiên phải nói là giống cừu Suffolk khá đặc biệt. Chúng có màu đen hoàn toàn, tuy thế lông chúng lại trắng. Tai chúng to và dẹt, vểnh ra ngoài như cánh bướm đêm, và đôi mắt sáng xanh rực cùng chiếc mũi dài xương xẩu khiến chúng có vẻ ngoại lai. Những con suffolk này không từ chối cũng không chấp nhận sự hiện diện của tôi, xem tôi như một sự hiện hình nhất thời. Một vài con đái nghe xè xè. Nước đái chảy qua sàn, dưới chân chúng, xuống rãnh.

Tôi ra khỏi chuồng cừu, vuốt ve con chó cô li giống Border lần nữa rồi hít một hơi thật sâu.

Mặt trời đã lặn sau núi. Một màu tím nhạt u ám lan trên những sườn đồi như mực lan trong nước. Tôi vòng ra phía sau trại cừu, vượt cây cầu gỗ bắc qua suối, rồi đi thẳng đến khi nhà người trông nom trại cừu. Một ngôi nhà một tầng nhỏ ấm cúng, trông càng có vẻ nhỏ hơn khi ngay cạnh nó là nhà kho khổng lồ chứa cỏ khô và nông cụ.

Người trông nom trại cừu ở cạnh nhà kho, đang chồng những túi ni lông đựng thuốc tẩy trùng bên cạnh cái máng bê tông cao và rộng gần một mét. Khi tôi tiến lại, ông ta ngước nhìn một lần, rồi quay lại công việc đang làm, không hề bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của tôi. Phải tới khi tôi ở ngay trước mặt ông ta thì ông ta mới dừng lại và lau mặt bằng chiếc khăn vắt quanh cổ.

“Ngày mai là ngày tẩy trùng cho cừu,” ông ta nói, lôi ra một bao thuốc lá nhàu nát rồi châm lửa. “Đây chính là nơi chúng tôi đổ chất lỏng tẩy trùng và bắt bọn cừu bơi từ đầu nọ tới đầu kia. Nếu không thì chúng sẽ bị đủ loại rệp do ở trong chuồng suốt mùa đông.”

“Bác làm toàn bộ việc này một mình ư?”

“Cậu có đùa không đấy? Tôi có hai người giúp việc. Họ và tôi với lại con chó. Tuy thế, con chó làm chủ yếu mọi việc. Bọn cừu tin tưởng con chó. Nó đã không phải là chó chăn cừu nếu như bọn cừu không tin nó.”

Người đàn ông thấp hơn tôi vài centimet, thân hình chắc nịch. Ông ta cỡ bốn tám bốn chín tuổi, tóc cắt ngắn cứng và thẳng như bàn chải. Ông ta tháo đôi găng tay cao su ra như thể đang lột một lớp da. Tự vỗ bồm bộp vào quần, ông ta đứng đút tay trong túi. Ông ta còn hơn một người trông nom cừu, ông ta giống một viên trung sĩ huấn luyện tại một trường quân sự hơn.

“Vậy cậu đến để hỏi điều gì đó, hở?”

“Dạ, đúng thế.”

“Vậy thì cậu hỏi đi.”

“Bác làm nghề này đã lâu rồi đúng không?”

“Mười năm,” ông ta nói. “Tôi không biết như thế có phải là lâu không, nhưng tôi hiểu đàn cừu của mình. Trước đó tôi ở trong tự vệ quân.”

Ông ta vắt chiếc khăn lau tay quanh cổ và ngước nhìn trời.

“Bác ở đây qua mùa đông à?”

“À, ừ, “ ông ta ho, “Tôi chắc vậy. Làm gì có chỗ nào mà đi. Vả lại, có nhiều việc bận rộn cần giải quyết vào mùa đông. Chúng tôi có tuyết cao tới gần hai mét ở vùng này. Tuyết chất đống và nếu mái sụp xuống, ta sẽ có mấy con cừu bẹp dí. Với cả tôi cho chúng ăn, cọ rửa chuồng, việc này việc kia.”

“Khi hè tới, bác dẫn nửa số cừu lên núi phải không?”

“Đúng thế.”

“Dắt nhiều cừu như thế khó lắm nhỉ?”

“Dễ thôi. Đó là việc người ta vẫn làm suốt đấy thôi. Chỉ mấy năm gần đây người ta mới có khái niệm người giữ cừu, chứ không phải là người chăn cừu. Ngày trước người ta dắt chúng đi suốt năm. Ở Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ mười sáu, họ có các con đường trên khắp đất nước mà không ai, ngay cả nhà vua, có thể sử dụng ngoài người chăn cừu.”

Người đàn ông khạc đờm xuống đất, lấy giày dụi dụi đờm vào trong đất.

“Dù sao, chừng nào chúng không thấy sợ thì cừu là sinh vật rất biết hợp tác. Chúng cứ thế theo con chó mà không hỏi bất cứ câu nào.”

Tôi lấy bức ảnh cừu của Chuột đưa cho người chăn cừu. “Đây là nơi trong bức ảnh, đúng không?”

“Chắc chắn rồi,” người đàn ông nói. “Không nghi ngờ gì nữa: cũng là đám cừu của tụi tôi.”

“Con này thì sao?” tôi lấy bút bi chỉ vào con cừu chắc nịch có ngôi sao trên lưng.

Người đàn ông nheo mắt nhìn bức ảnh trong một giây. “Không, đó không phải là một trong những con cừu của chúng tôi. Nhưng lạ nhỉ. Nó không thể lọt vào đây được. Cả chỗ này được rào chắn bằng dây thép, và mỗi sáng mỗi tối tôi đều kiểm tra từng con một. Con chó sẽ biết ngay nếu có cừu lạ lọt vào. Đám cừu cũng sẽ làm ầm ĩ lên. Nhưng cậu biết đấy, tôi chưa từng nhìn thấy giống cừu này trong đời.”

“Có gì lạ xảy ra trong năm nay khi bác ở trên núi với cừu không?”

“Không có gì hết,” ông ta nói “Hết sức thanh bình.”

“Thế bác ở trên đó một mình suốt mùa hè à?”

“Không, tôi không ở trên đó một mình. Cứ hai ngày một lần mấy người nhân viên từ thị trấn lại lên đó, và rồi cả mấy người quan sát chính thức nữa. Tuần một lần tôi xuống thị trấn, và một người thay thế chăm nom đàn cừu. Cần tích trữ thực phẩm và mọi thứ.”

“Vậy bác không ẩn trên đó một mình suốt quãng thời gian đó chứ?”

“Không. Mùa hè vẫn còn chừng nào tuyết không quá sâu, và chỉ mất một tiếng rưỡi đến trang trại bằng xe jeep. Cũng chẳng hơn một buổi tản bộ là mấy. Tất nhiên, một khi có tuyết thì xe không thể đi qua, người ta sẽ chết dí trên đó cả mùa đông.”

“Vậy là bây giờ không có ai trên núi chứ?”

“Không ai ngoài người chủ biệt thự.”

“Người chủ biệt thự ư? Nhưng tôi nghe nói chỗ đó không ai sử dụng từ lâu lắm rồi.”

Người chăn cừu búng điếu thuốc trên mặt đất rồi giẫm chân lên. “Nó đã không được sử dụng trong nhiều năm, nhưng hiện nó đang được sử dụng. Nếu chỉ mong muốn vừa phải, không có lý do gì người ta không thể sống trên đó. Tự bản thân tôi cũng sửa sang ngôi nhà tí chút. Điện đóm, khí đốt và điện thoại đều đang hoạt động. Không có một ô cửa kính nào bị vỡ.”

“Cái anh làm việc tại tòa thị chính nói không có ai trên đó.”

“Có nhiều chứ các ông đó không biết. Tôi nhận việc làm thêm từ người chủ suốt, không bao giờ hở một lời cho bất cứ ai. Cậu ta bảo tôi kín mồm kín miệng.”

Người đàn ông muốn một điếu thuốc nữa, nhưng bao thuốc của ông ta rỗng không. Tôi mời ông ta bao Larks hút hết nửa của mình, kẹp tờ mười ngàn yên vào đó. Người đàn ông cân nhắc một thoáng về khoản tiền, rồi đưa một điếu thuốc lên môi và đút túi mọi thứ khác, “Cám ơn cậu nhiều,” ông ta nói.
“Vậy người chủ có mặt khi nào?”

“Vào mùa xuân. Mùa xuân chưa đỡ giá rét, vậy phải vào tháng Ba. Có lẽ đã năm năm kể từ khi cậu ta lên đó. Tôi không thật sự biết tại sao cậu ta cứ lên đó suốt thế, nhưng mà thôi, đó là việc của người chủ không phải việc của tôi. Cậu ta bảo tôi đừng nói cho ai biết. Cậu ta hẳn phải có lý do của mình. Dù sao thì, cậu ta ở trên đó suốt từ bấy đến giờ. Tôi bí mật mua thức ăn và chất đốt cho cậu ta rồi chở từng ít một lên bằng xe jeep. Với tất cả những gì cậu ta có, cậu ta có thể tồn tại trong một năm, dễ dàng.”

“Anh ta trạc tuổi tôi, có ria mép, đúng không bác?”

“À há,” người chăn cừu nói. “Chính cậu ta đó.”

“Thật tuyệt chưa,” tôi nói. Không cần đưa cho ông ta xem bức ảnh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 19:55:31 | Xem tất
Chương 31: Đêm Ở Junitaki


Việc dàn xếp với người trông nom trại cừu diễn ra suôn sẻ nhờ có tiền làm chất bôi trơn. Người trông nom trại cừu sẽ đón chúng tôi tại quán trọ vào tám giờ sáng, rồi lái xe đưa chúng tôi lên trại cừu trên núi.

“Tôi nghĩ việc tẩy trùng cho cừu có thể đợi đến mai.” Người trông nom trại cừu nói. Một người theo chủ nghĩa thực dụng triệt để.

“Còn một điều nữa khiến tôi băn khăn,” ông ta nói. “Đất sẽ trở nên mềm hơn vì trận mưa hôm qua, và có một chỗ xe có thể không qua được. Vì vậy tôi có thể sẽ phải yêu cầu cậu đi bộ từ điểm đó. Không phải lỗi của tôi mà.”

“Được mà bác,” tôi nói.

Đi bộ xuống đồi, tôi bỗng nhớ ra bố của Chuột có một căn biệt thự nghỉ dưỡng ở Hokkaido. Nghĩ lại mới thấy nhiều năm trước Chuột đã nói vậy mấy lần. Tít trên núi, đồng cỏ rộng lớn, ngôi nhà hai tầng cổ. Xưa nay tôi toàn vậy, những chi tiết quan trọng mãi sau mới nhớ ra. Đáng lẽ tôi phải nghĩ đến điều đó ngay khi nhận được thư Chuột. Nếu tôi nghĩ ra trước, chắc hẳn đã có nhiều cách để theo đuổi.

Bực bội với chính mình, tôi lê bước trở lại thị trấn theo con đường trên núi càng lúc càng trở nên tối hơn. Trong một tiếng rưỡi đi bộ ấy; tôi chỉ gặp ba chiếc xe động cơ. Hai chiếc là xe tải diesel lớn chất đầy gỗ, một chiếc máy kéo nhỏ. Cả ba đều đi xuống núi, nhưng không ai hô lên cho tôi đi nhờ. Về phần tôi mà nói, như vậy càng tốt.

Đến lúc tôi về tới quán trọ đã quá bảy giờ, đêm đã đen mịt. Người tôi lạnh thấu đến xương. Chú cún chăn cừu thò mũi ra khỏi chuồng chó và rên rỉ theo hướng tôi.

Cô mặc quần bò và áo len cổ lọ của tôi, hoàn toàn chìm đắm vào trò chơi điện tử trong phòng giải trí gần cửa quán trọ. Có vẻ giống một phòng khách cổ được tu sửa, căn phòng vẫn có một lò sưởi tuyệt đẹp. Một lò sưởi đốt củi thật sự. Thêm vào đó, có bốn trò chơi máy tính và hai bàn lăn bi ghim của Tây Ban Nha rẻ tiền, loại người ta không bao giờ tìm thấy ở bất cứ đâu.

“Em đói ngấu rồi,” cô nói.

Tôi đặt bữa tối và đi tắm nhanh. Lau khô người, lần đầu tiên trong một thời gian dài, tôi cân xem mình nặng bao nhiêu. Sáu mươi cân, giống như mười năm về trước. Chút mỡ thừa quanh bụng đã được cắt bớt một cách gọn ghẽ sau tuần vừa rồi.

Khi tôi quay lại phòng, bữa tối được bày ra. Múc từng miếng ra khỏi nồi thịt và khoai tây đang bốc hơi rồi vừa ăn vừa uống bia, tôi kể cho cô về trại chăn cừu thị trấn và người trông nom trại cừu được đào tạo trong Tự vệ quân. Cô rất bực mình vì đã để lỡ cơ hội xem đàn cừu.

“Tuy vậy,” cô nói, “em nghĩ chúng mình chỉ còn cách mục tiêu có một bước.”

“Anh hy vọng là em đúng,” tôi nói.

Chúng tôi xem một bộ phim Hitchcock trên TV, bò vào giường rồi tắt đèn. Đồng hồ dưới nhà điểm mười một giờ.

“Có lẽ không phải là đêm nay,” tôi nói. “Chúng mình phải dậy sớm mà.”

Cô không nói gì. Cô đã ngủ say, thở đều đều. Tôi lên dây chiếc đồng hồ báo thức du lịch và hút thuốc trong ánh trăng. Âm thanh duy nhất là tiếng cuồn cuộn của dòng sông.

Sau một ngày chạy loanh quanh, tôi cảm thấy mệt mỏi về thể xác, nhưng trí óc tôi đang chạy với tốc độ một cây số rưỡi một phút. Tôi không tài nào ngủ được. Âm thanh của dòng sông chỉ là một tiếng ồn khác đối với tôi, và nó đang gắn chặt vào óc tôi.

Nín thở trong bóng tối, tôi để hình ảnh thị trấn tan ra và biến mất quanh mình. Những ngôi nhà mục rữa dần, đường tàu han gỉ và biến mất, cỏ dại lấn áp đất trồng trọt. Thị trấn đã kết thúc lịch sử một trăm năm ngắn ngủi và chìm vào lòng đất. Thời gian đi ngược trở lại như một bộ phim quay ngược. Một lần nữa, con hươu Ainu, những con gấu đen, rồi bầy sói lại trở nên sống động trên đồng bằng, hàng đàn châu chấu dày đặc phủ kín bầu trời, một biển cỏ tre đung đưa trong gió thu, và những cây xanh quanh năm lộng lẫy che khuất mặt trời.

Tất cả những công trình của loài người mờ dần vào hư không, tuy nhiên lũ cừu vẫn còn. Chúng đứng đó, nhìn chằm chằm vào tôi, mắt sáng rực trong bóng tối. Không nói gì, không nghĩ gì, chúng cứ nhìn mãi nhìn mãi - thẳng vào tôi. Hàng vạn con cừu. Tiếng răng lách cách đều đều của chúng bao phủ trái đất.

Đồng hồ điểm hai tiếng và chúng biến mất.

Rồi tôi ngủ thiếp đi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:05:16 | Xem tất
Chương 32: Một Khúc Ngoặt Không May Trên Đường (1)


Buổi sớm mù sương và lành lạnh. Tôi thông cảm với những con cừu đó. Bơi qua thuốc tẩy trùng lạnh lẽo vào một ngày như thế này có thể thật là ác nghiệt. Có lẽ cừu không cảm thấy lạnh chăng? Có lẽ chúng không cảm thấy gì hết.

Mùa xuân ngắn ngủi ở Hokkaido sắp qua. Những đám mây xám dày phía Bắc là điềm báo tuyết sắp đến. Bay từ tháng Chín Tokyo đến tháng Mười Hokkaido, tôi đã mất hẳn mùa thu. Có lẽ bắt đầu và kết thúc, nhưng không có giữa thu.

Tôi thức dậy lúc sáu giờ rồi rửa mặt. Tôi ngồi một mình ở ban công, nhìn ra ngoài cửa sổ cho tới khi bữa sáng được dọn ra. Nước sông đã rút xuống đôi chút kể từ ngày hôm trước và đang dần trong hơn. Cánh đồng lúa trải dài bên bờ đối diện, nơi những cơn gió bất thường buổi sớm thổi qua đồng lúa chín cao tạo thành những đợt sóng chạy xa hút tầm mắt. Một chiếc máy kéo đi ngang qua cây cầu bê tông, hướng về phía đồi, thoảng nghe trong gió tiếng đầu máy lọc xọc. Ba con quạ bay ra từ trong cây bu lô giờ đã chuyển màu vàng. Lượn một vòng trên sông và sà xuống rào chắn của tòa nhà. Đậu ở đó, lũ quạ đóng vai những người ngoài cuộc hoàn hảo trong một vở kịch đương đại. Tuy nhiên, chẳng bao lâu chúng đã chán cái vai đó, liền bay đi từng con một và biến mất theo hướng ngược dòng.

Đúng tám giờ, chiếc xe jeep của người trông nom trại cừu đỗ ngoài quán trọ. Chiếc jeep có nóc hình hộp, hình như được lắp thêm vào nếu xét đến số đăng ký của Tự vệ quân đọc được trên tấm cản xóc.

“Cậu biết không, có điều gì kỳ quặc đang diễn ra,” người trông nom trại cừu nói ngay khi trông thấy tôi. “Tôi đã thử gọi điện lên núi trước, nhưng không sao gọi được.”

Cô và tôi trèo vào trong ghế sau. Nó bốc mùi xăng. “Lần cuối bác thử gọi là lúc nào?” Tôi hỏi.

“Xem nào, chắc là khoảng ngày hai mươi tháng trước. Kể từ đó tôi chưa lần nào liên lạc lại. Thường thì cậu ta gọi cho tôi bất cứ khi nào cậu ta cần thứ gì. Danh sách mua sắm hay đại loại vậy.”

“Bác có nghe thấy chuông điện thoại reo không?”

“Thậm chí không có lấy một tín hiệu báo bận. Chắc hẳn đường dây hỏng ở đâu đó. Không phải không có khả năng có một trận tuyết lớn.”

“Nhưng đâu hề có tuyết đâu.”

Người trông nom trại cừu nhìn lên nóc xe jeep và xoay cổ răng rắc. “Vậy thì chúng ta sẽ phải đi xem thế nào, đúng không?”

Tôi gật đầu. Khói xăng bắt đầu làm tôi khó chịu.

Chúng tôi vượt qua cây cầu bê tông và bắt đầu đi lên đồi theo con đường tôi đi hôm qua. Đi ngang qua Trại cừu Thị trấn, cả ba quay sang nhìn hai cây cột với tấm biển trên lối vào. Trang trại vô cùng tĩnh lặng. Tôi có thể hình dung thấy bọn cừu: con nào con nấy nhìn chằm chằm vào khoảng yên lặng của chính mình với đôi mắt xanh trong veo.

“Bác để việc tẩy trùng đến chiều à?”

“Ừ, mà thôi chẳng có gì phải gấp. Miễn là xong trước khi tuyết rơi.”

“Bao giờ tuyết bắt đầu rơi hả bác?”

“Sẽ chẳng có gì ngạc nhiên nếu tuyết rơi vào tuần sau,” Người trông nom trại cừu nói. Một tay đặt lên tay lái, ông nhìn xuống rồi ho. “Mặc dù vậy, phải đến tháng Mười một thì tuyết mới bắt đầu chất đống. Đã bao giờ biết mùa đông ở vùng này thế nào chưa?”

“Dạ chưa,” Tôi nói.

“Đấy, một khi tuyết bắt đầu dồn lại, nó chất đống không ngừng như thể một con đập vừa vỡ tung. Đến lúc đó thì không thể làm gì hơn là quanh quẩn trong nhà và chán chết đi được. Lẽ ra ngay từ đầu người ta không bao giờ nên sống ở vùng này.”

“Nhưng bác sống mãi ở đây đấy thôi.”

“Đó là bởi tôi yêu thích cừu. Cừu là loài vật có bản chất hiền hậu. Chúng thậm chí ghi nhớ ta qua khuôn mặt. Ngoảnh đi ngoảnh lại một năm chăm cừu đã qua lúc nào không hay, rồi thì cứ thế mãi. Vào mùa thu chúng kết đôi, mùa xuân chúng sinh con, mùa hè chúng gặm cỏ. Khi lũ cừu non lớn lên, vào mùa thu chúng lại kết đôi. Cứ quay vòng như thế. Tất cả cứ lặp đi lặp lại như vậy. Bọn cừu thay đổi mỗi năm, chỉ có tôi là già đi. Và càng già tôi lại càng không muốn sống ở thị trấn.”

“Cừu làm gì vào mùa đông hả bác?” bạn gái tôi hỏi.

Tay vẫn còn trên vô lăng, người trông nom trại cừu quay lại nhìn chằm chằm vào cô, gần như say sưa ngắm khuôn mặt cô, như thể trước đó ông ta không để ý đến cô. Con đường được lát, thẳng tắp và không hề có chiếc xe nào trong tầm mắt; tuy thế, tôi vẫn sợ toát mồ hôi.

“Chúng ở trong chuồng suốt mùa đông,” người trông nom trại cừu nói, cuối cùng đã quay lại quan sát con đường.

“Chúng không thấy chán ư?”

“Cậu có thấy chán ngấy cuộc đời của chính mình không?”

“Tôi thật tình không thể nói được.”

“Vậy thì với cừu cũng vậy thôi,” người trông nom trại cừu nói. “Chúng không nghĩ về những thứ như thế, mà nếu chúng có nghĩ thế thì cũng chẳng ích lợi gì. Chúng cứ qua đông bằng cách ăn cỏ, đái, cãi nhau lặt vặt, nghĩ về bọn cừu con trong bụng.”

Đồi ngày càng trở nên dốc hơn, và con đường bắt đầu uốn thành hình chữ chi. Phong cảnh đồng quê dần dần nhường chỗ cho rừng nguyên sinh tối tăm dựng đứng như bức tường ở hai bên đường. Thi thoảng lại có một khoảng trống thấp thoáng đồng bằng phía dưới.

“Nếu có tuyết, chúng ta sẽ không thể đi qua đây,” người trông nom trại cừu nói. “Nói thế không có nghĩa người ta có nhu cầu đi qua.”

“Có khu trượt tuyết hay đường leo núi nào không bác?” tôi hỏi.

“Không phải ở đây, không có gì hết. Đó là lý do tại sao không có khách du lịch. Đó là lý do tại sao thị trấn tàn lụi nhanh thế. Đến tận đầu những năm sáu mươi, thị trấn vẫn còn hoạt động theo mô hình nông nghiệp vùng khí hậu lạnh. Nhưng kể từ khi dư thừa gạo, mọi người mất hứng thú trồng trọt trong một cái tủ ướp lạnh. Có lý thôi.”

“Điều gì đã xảy ra với nhà máy gỗ?”

Không có đủ nhân công để đáp ứng nhu cầu, thế là họ chuyển đến những chỗ thuận tiện hơn. Ngày nay người ta vẫn có thể tìm thấy những nhà máy nhỏ ở một vài thị trấn, nhưng không nhiều. Hiện nay, cây đốn trong núi ở đây chuyển ngay qua thị trấn rồi được đưa tới Nayoro và Asahikawa. Đó là lý do đường sá cực tốt trong khi cả thị trấn kiệt quệ. Một xe tải lớn có lốp chạy tuyết sẽ đi qua được gần như bất kỳ đống tuyết nào.”

Tôi đưa một điếu thuốc lên môi một cách vô thức, nhưng trước khi châm lửa tôi nhớ đến khói xăng dầu nên lại đút nó vào bao. Thay vì hút tôi ngậm một viên kẹo chanh. Kết quả: vị xăng pha chanh kỳ dị.

“Cừu có cãi nhau không bác?” bạn gái tôi hỏi.

“Chắc chắn chúng cãi nhau rồi,” người trông nom trại cừu nói. “Giống như bất cứ loài vật nào đi theo nhóm. Con cừu nào cũng có trật tự phân hạng trong xã hội cừu. Nếu có năm mươi con trong chuồng thì sẽ có con cừu số một cho tới con cừu số năm mươi. Và con nào con nấy đều biết đích xác mình ở đâu.”

“Lạ lùng thật,” cô nói.

“Điều đó cũng khiến việc quản lý chúng dễ dàng hơn cho tôi. Chỉ cần dắt con cừu số một ra, thế là cả lũ cừu theo sau, không thắc mắc gì.”

“Nhưng nếu tất cả chúng đều biết vị trí của mình, tại sao chúng đánh nhau?”

“Chẳng hạn một con cừu bị đau và mất đi sức mạnh, vị trí của nó trở nên lung lay. Thế là con cừu dưới nó trở nên hăng máu hơn và cố vươn lên vị trí tốt hơn. Khi điều đó xảy ra, chúng đánh nhau trong ba ngày.”

“Tội nghiệp.”

“Ôi dào, huề cả làng thôi mà. Xét cho cùng, con cừu bị đá đít ấy khi còn trẻ cũng đã đá đít một con cừu khác. Và đến khi lên phản làm thịt không có số một hay số năm mươi. Chỉ là một cuộc liên hoan ngoài trời có cừu nướng quay cả con thôi.”

“Hừ,” cô nói.

“Nhưng con đáng thương thật sự là con cừu đực hạt giống. Cô cậu biết hết về hậu cung lũ cừu, đúng không?”

“Không, tôi không biết,” tôi đáp.

“Khi nuôi cừu, điều quan trọng nhất người ta cần chú ý là việc phối giống. Thế là người ta giữ chúng tách biệt, cừu đực với nhau, cừu cái với nhau. Rồi người ta ném một con đực vào chuồng lũ cừu cái. Nói chung thì nó là con đực khỏe nhất. Nói cách khác, người ta phối giống tốt nhất. Sau một tháng, khi mọi việc đã xong, con cừu đực giống này trở về chuồng toàn cừu đực. Nhưng trong thời gian con cừu đực giống bận rộn, những con đực khác đã thiết lập nên một trật tự phân hạng mới. Và do cái việc phối giống đó mà con cừu đực giống giảm cân tới một nửa nên không thắng nổi một trận đánh nhau. Thế là tất cả các con đực khác đánh hội đồng nó. Thế mới buồn.”

“Cừu đánh nhau như thế nào hả bác?”

“Chúng đập đầu nhau. Trán cừu cứng như thép và rỗng không bên trong.”

Cô không nói gì, nhưng có vẻ đang chìm trong suy nghĩ. Có lẽ đang thử hình dung cảnh những con cừu giận dữ đập đầu nhau.

Sau ba mươi phút đi xe, mặt đường lát bỗng nhiên biến mất, con đường hẹp lại chỉ còn một nửa. Từ hai bên, những cánh rừng nguyên sơ tối tăm đổ xô tới chiếc xe jeep của chúng tôi như những con sóng khổng lồ. Nhiệt độ hạ xuống.

Đường sá thật kinh khủng. Nó đẩy chiếc jeep bật qua bật lại như kim máy ghi địa chấn, lắc mạnh xăng trong thùng xăng bằng nhựa dưới chân chúng tôi. Xăng phát ra những âm thanh đáng ngại, như thể óc ai đó đang lắc qua lắc lại ọc ạch, sẵn sàng bắn tung ra khỏi hộp sọ. Tôi có lo ngại về điều đó không? Chắc chắn rồi.

Con đường tiếp tục như vậy trong khoảng hai ba mươi phút. Tôi không thể ngồi vững, dù chỉ để xem đồng hồ. Trong cả quãng thời gian đó không ai nói lời nào. Tôi nắm chặt đai an toàn gắn ở ghế, trong khi cô bám chặt tay phải tôi. Người trông nom trại cừu tập trung vào việc giữ tay lái.

“Bên phải,” người trông nom trại cừu bỗng nhiên nói to. Không biết phải trông đợi điều gì, tôi quay sang thì thấy một bức tường rừng cây tối tăm mở rộng ra, đất dần biến mất. Thung lũng mênh mông, cảnh tượng thật ngoạn mục. Nhưng thiếu vẻ ấm áp. Mặt đá dựng đứng, lột bỏ hết từng chút sự sống. Ta có thể ngửi thấy hơi thở đe dọa.

Chắn ngay trước mặt con đường là một ngọn núi trơn, hình nón. Tại đỉnh núi, một sức mạnh kinh khủng đã vặn xoáy hình nón thành ra không còn hình thù gì nữa.

Nắm chặt tay lái, người trông nom trại cừu hất cằm ra phía trước về hướng cái hang hẹp bên bờ đá.

“Chúng ta vừa đi vòng qua mặt kia của nó.”

Cơn gió mạnh từ thung lũng tràn qua leo lên sườn núi bên phải, thổi tung đám lá cây dày đặc, bắn nhẹ cát lên cửa sổ xe.

Tại một điểm gần đỉnh núi, con đường hình chữ chi kết thúc, sườn núi bên phải biến thành những khối đá núi lửa cao lởm chởm, rồi cuối cùng thành một mặt đá dốc đứng. Len qua một gờ đá hẹp được tạc thành một khối đá không ra hình thù gì, chiếc jeep di chuyển chậm chạp.

Bỗng nhiên, thời tiết chuyển hướng xấu. Những mảng xanh điểm xuyết trên bầu trời xám nhạt đã chán nét phảng phất hay thay đổi của mình mà chuyển sắc u ám, trộn lẫn một màu đen như bồ hóng không đều. Đem lại cho núi non một vẻ ảm đạm.

Trong ngọn núi chẳng khác gì cái vạc này, gió xoay tít, thổi vù vù và rền rĩ đến khiếp. Tôi lau mồ hôi trên lông mày. Dưới tấm áo len, người tôi cũng toát mồ hôi lạnh.

Người trông nom trại cừu mím môi mỗi khi ngoặt tay lái, ngoặt sang phải, rồi lại sang phải. Rồi ông cúi người về phía trước như thể đang cố căng tai nghe gì đó, đồng thời điều khiển chiếc jeep chạy chậm lại cho đến khi, nơi con đường hơi rộng ra, ông hãm phanh. Ông tắt máy, rồi chúng tôi ngồi đó, bị ném vào giữa sự yên lặng ớn lạnh. Chỉ có gió đang nghiên cứu tìm hiểu vùng đất này.

Người trông nom trại cừu để cả hai tay trên vô lăng. Dường như phải đến nửa tiếng trôi qua, rồi ông mới ra khỏi xe và gõ nhẹ đế giày lên mặt đất. Tôi theo ông trèo ra khỏi xe và đứng cạnh ông, nhìn xuống mặt đường.

“Không tốt đâu,” người trông nom trại cừu nói. “Trời mưa to hơn tôi tưởng.”

Con đường không có vẻ ẩm ướt đến thế đối với tôi. Ngược lại là khác, trông nó cứng đơ và khô khốc.

“Bên trong ẩm,” ông giải thích. “Nó đánh lừa tất cả mọi người. Mọi thứ đều khác biệt ở vùng này.”

“Khác ư?”

Thay vì trả lời, ông lôi một điếu thuốc ra khỏi túi và châm lửa. “Đi với tôi chút nhé?”

Chúng tôi đi bộ khoảng gần hai trăm mét tới khúc ngoặt kế tiếp. Tôi có thể cảm thấy cơn giá lạnh khó chịu. Tôi kéo khóa áo gió lên tận cổ rồi dựng cổ áo lên, nhưng vẫn lạnh.

Ngay ở chỗ con đường bắt đầu uốn khúc, người trông nom trại cừu dừng lại. Hướng về vách núi bên phải, thuốc vẫn trên môi, ông nhăn nhó. Nước, một màu nâu đất nhạt, đang chảy nhỏ giọt từ giữa vách núi, tràn xuống đá, và chậm rãi chảy qua đường. Tôi đưa ngón tay quệt ngang mặt đá. Nó xốp hơn vẻ ngoài, chỉ chạm nhẹ mà bề mặt đã vỡ vụn.

“Chỗ này đúng là khúc quanh khủng khiếp,” người trông nom trại cừu nói. “Bề mặt xốp, nhưng đó thế chưa hết đâu. Thôi, đó là vận rủi. Ngay cả lũ cừu cũng sợ.”

Người trông nom trại cừu ho rồi ném điếu thuốc lên mặt đất. “Tôi không muốn làm thế này với cậu, nhưng tôi không muốn mạo hiểm.”

Tôi gật đầu.

“Cậu nghĩ mình có thể đi bộ nốt quãng đường còn lại không?”

“Đi bộ không thành vấn đề. Vấn đề là độ rung.” Người trông nom trại cừu lấy giày giẫm mạnh lên đất lần nữa. Ngay sau một tích tắc là một câu trả lời chán ngắt và đáng nản. “Đi bộ được.”

Chúng tôi trở lại xe jeep.

“Chỗ đó cách đây quãng gần năm cây số,” người trông nom trại cừu nói. “Chỉ mất một tiếng rưỡi là đến nơi thôi, kể cả khi có cô kia đi cùng. Đường thẳng, không dốc mấy. Xin lỗi là tôi không thể đưa cậu đi hết quãng đường.”

“Không sao bác ạ. Cám ơn bác vì mọi thứ.”

“Cậu định ở lại trên đó à?”

“Tôi không biết. Tôi có thể quay lại vào ngày mai. Cũng có thể mất một tuần. Còn tùy sự việc thế nào.”

Ông đưa một điếu thuốc nữa lên môi, nhưng lần này chưa kịp châm lửa ông đã húng hắng ho. “Dẫu vậy cậu cũng nên cẩn thận. Trông tình hình thế này thì có lẽ sẽ có tuyết sớm đấy. Và một khi trời tuyết, cậu không đi đâu được đâu.”

“Tôi sẽ cẩn thận,” tôi nói.

“Có một hộp thư ngay cửa ra vào. Chìa khóa nhét ở dưới. Nếu không ai ở đó, hãy dùng nó.”

Chúng tôi dỡ đồ trên xe jeep xuống dưới bầu trời xám như chì. Tôi cởi áo gió và mặc chiếc áo khoác có mũ trùm dày cộp dành cho người leo núi. Tôi vẫn lạnh.

Phải khó khăn lắm người trông nom trại cừu mới quay được xe, liên tục đụng vào vách đá. Mỗi lần ông đâm, vách đá lại vỡ thêm ra. Cuối cùng ông cũng quay hẳn được xe, bóp còi, rồi vẫy tay. Chúng tôi cũng vẫy lại. Chiếc jeep ngoặt ở khúc quanh rồi biến mất.

Chúng tôi hoàn toàn một mình. Như thể chúng tôi bị bỏ lại bên rìa thế giới.

Chúng tôi đặt ba lô xuống đất và đứng đó không nói một lời, cố xác định vị trí. Dưới chúng tôi là một dải sông bạc thanh thoát uốn khúc qua thung lũng, hai bên bờ là rừng xanh rậm rạp. Bên kia thung lũng nổi lên dãy đồi thấp nhuốm sắc thu và xa xa là cảnh đồng bằng mờ mờ. Những cột khói mỏng bốc lên từ cánh đồng người ta đang đốt gốc rạ sau vụ gặt. Một quang cảnh đẹp đến sững sờ, nhưng điều đó không làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Mọi thứ dường như thật xa cách, thật… xa lạ.

Bầu trời bị đè nặng xuống bởi một màu xám ẩm ướt đồng nhất – những đám mây dường như hòa làm một, che phủ toàn bộ ánh sáng. Phía dưới, những mảng mây đen dày đặc bay qua ở khoảng cách hầu như có thể chạm tới được. Những đám mây lao về phía Đông từ hướng lục địa châu Á, cắt ngang qua biển Nhật Bản tới Hokkaido trên đường tới biển Okhotsk với tốc độ phi thường. Tất cả đều góp phần khiến chúng tôi nhận thức được sự may rủi hoàn toàn của nơi chúng tôi đứng. Một cơn gió mạnh tình cờ lướt qua, thế là cả cái khúc quanh đang rụn ra dần dính vào vách đá này có thể dễ dàng lôi chúng tôi xuống vực thẳm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:07:08 | Xem tất
Chương 32: Một Khúc Ngoặt Không May Trên Đường (2)


“Mình đi tiếp thôi,” tôi nói, xốc chiếc ba lô khổng lồ lên vai. Một điều gì đó khủng khiếp, mưa hoặc mưa tuyết, đang hiện diện đâu đây, và tôi muốn ở gần một chỗ nào đó có mái che. Tôi chắc chắn không muốn ướt sũng ở đây trong trời lạnh.

Chúng tôi mau chóng cuốc bộ khỏi cái “khúc quanh tử thần” đó. Người trông nom trại cừu nói đúng: chỗ này là vận rủi. Có một cảm giác chết chóc thoạt đầu chiếm lĩnh thân thể tôi, rồi sau đó đột ngột đưa ra tín hiệu cảnh cáo trong đầu tôi. Cái cảm giác người ta bắt gặp khi đang vượt qua sông và bỗng nhiên sa chân vào đám bùn có nhiệt độ khác.

Chỉ sau ba trăm thước cuốc bộ, tiếng bước chân của chúng tôi trên mặt đường trải qua bao nhiêu lần thay đổi. Những con lạch được dòng suối cung cấp nước liên tục chảy ngoằn ngoèo qua đường.

Ngay cả khi đã qua khúc quanh, chúng tôi cũng không đi chậm lại, cố tạo ra khoảng cách càng xa càng tốt khỏi chỗ đó. Chỉ ba mươi phút sau chúng tôi mới bớt căng thẳng khi vách đá trở nên ít dốc hơn và cây cối hiện ra.

Đi xa được đến mức này, chúng tôi không gặp khó khăn gì với quãng đường còn lại. Con đường trải phẳng, và núi non mất đi những gờ đá nhọn. Dần dần, chúng tôi ở giữa một phong cảnh cao nguyên thanh bình.

Ba mươi phút sau đó, hình chóp nón hoàn toàn ở sau chúng tôi, và chúng tôi đến bên một cao nguyên có núi non vây quanh trông giống như hình cắt bằng giấy. Như thể nửa trên của ngọn núi lửa khổng lồ bị sụp xuống. Một rừng cây bu lô với đám lá thu trải dài bất tận. Giữa đám bu lô là những bụi cây và tầng cây thấp màu sắc rực rỡ, đây đó một cây bu lô bật gốc, màu nâu và mục nát.

“Có vẻ như một chỗ khá dễ chịu,” bạn gái tôi nói.

Sau khúc quanh đó, quả thực trông nơi đây có vẻ như một chỗ khá dễ chịu.

Con đường dẫn thẳng chúng tôi xuyên qua rừng cây bu lô. Nó hầu như không đủ rộng để xe jeep qua và thẳng tăm tắp. Không khúc ngoặt, không dốc đứng. Nếu ta nhìn về phía trước, mọi thứ bị hút vào một điểm. Ngay cả những đám mây đen cũng bay thẳng qua điểm đó.

Và thật tĩnh lặng. Bản thân tiếng gió bị khoảng rừng rộng lớn nuốt chửng đi. Không khí bị cắt ngang bởi tiếng hót của một con sáo đen béo ụ. Một khi con chim biến ra khỏi tầm mắt, yên lặng lại dội về, một chất lỏng nhơn nhớt lấp đầy mọi lỗ hổng. Lá cây rơi trên mặt đường ướt đẫm nước mưa từ hai ngày trước. Con đường dường như vô tận, giống như rừng cây bu lô quanh đó. Những đám mây bay là là, chỉ trước đó chút ít trông đáng sợ, giờ khi nhìn xuyên qua rừng lại có vẻ siêu thực.

Mười lăm phút sau, chúng tôi đến bên một con suối trong vắt. Có một cây cầu bằng thân gỗ bu lô chắc chắn có tay vịn, và ở gần đó, một khoảng rừng trống nhỏ. Chúng tôi đặt ba lô xuống, xuống suối uống nước. Đó là thứ nước có vị tuyệt vời nhất mà tôi từng uống. Đủ lạnh để làm tay tôi ửng đỏ, và ngọt, có vị đất thoang thoảng.

Những đám mây vẫn tiếp tục bay theo hướng đã định, nhưng kỳ quặc thay, thời tiết không trở nên tệ hơn. Cô chỉnh lại dây giày leo núi, tôi ngồi tựa vào tay vịn hút thuốc. Tôi có thể nghe tiếng thác nước ở hạ nguồn. Dựa vào âm thanh ấy thì thấy con thác cũng không lớn lắm. Một ngọn gió tinh nghịch thổi từ bên trái qua, khiến các tán cây gợn sóng lăn tăn và lá bay tung tóe.

Tôi hút hết điếu thuốc rồi lấy giày di qua di lại trên đất, chỉ để tìm thấy một mẩu đầu lọc khác ngay cạnh chân tôi. Tôi nhặt nó lên. Một điếu Seven Stars đã bẹp dí. Không ướt, vậy là nó ở đó từ sau trận mưa. Có nghĩa là hoặc hôm qua hoặc hôm nay.

Tôi thử nhớ xem Chuột thường hút loại thuốc nào. Nhưng tôi không thể nhớ được là hắn thậm chí có hút thuốc hay không. Tôi thôi không nghĩ nữa và quăng mẩu đầu lọc xuống suối. Ngay lập tức, dòng nước cuốn nó đi.

“Gì thế anh?” cô hỏi.

“Anh tìm thấy một mẩu đầu lọc còn mới, vậy là người nào đó hẳn đã ngồi lại đây hút thuốc như anh cách đây không lâu.”

“Bạn anh à?”

“Ước gì anh có thể nói vậy.”

Cô ngồi xuống bên tôi và vén tóc ra sau, lần đầu tiên để tôi ngắm tai cô sau một thời gian dài. Tiếng thác nước yếu đi, rồi lại dội về.

“Anh vẫn còn thích tai em chứ?” cô hỏi.

Tôi mỉm cười và nhanh chóng đưa tay chạm vào tai cô.

“Em biết là anh thích mà,” tôi nói.

Tuy vậy sau khoảng mười lăm phút tiếp theo, con đường đột ngột chấm dứt, cũng như rừng cây bu lô bỗng nhiên kết thúc. Trước mắt chúng tôi là một đồng cỏ rộng mênh mông như một cái hồ.

Các cây cột dựng cách nhau năm thước bao quanh đồng cỏ. Dây sắt kết nối chúng lại, cũ kỹ, han gỉ. Dường như chúng tôi đã tìm thấy đường đến đồng cỏ chăn cừu. Tôi mở tung cánh cổng đôi cũ nát rồi bước vào. Cỏ mềm, đất sẫm màu và ẩm ướt.

Những đám mây đen đang bay qua đồng cỏ. Theo hướng mây bay là một rặng núi cao, lởm chởm. Chắc chắn góc độ có khác, nhưng không nghi ngờ gì nữa: đó chính là rặng núi trong bức ảnh của Chuột. Tôi không cần phải lôi ảnh ra so sánh.

Tuy nhiên, cảm giác thật bối rối khi tận mắt chứng kiến một cảnh tượng mà cho đến giờ tôi đã xem hàng trăm lần trong bức ảnh. Độ sâu của cái chỗ có thực này có vẻ không tự nhiên. Việc tôi có mặt ở đó cũng không sao xua nổi cái cảm giác phong cảnh này chỉ được tạm thời tập hợp lại cho phù hợp với bức ảnh.

Tôi dựa vào cổng và thở dài. Chính nó đây, thứ chúng tôi mãi tìm kiếm. Và cho dù cuộc tìm kiếm đó có mang ý nghĩa gì đi chăng nữa, chúng tôi đã tìm ra nó.

“Chúng mình thành công rồi, anh nhỉ?” cô nói, chạm vào tay tôi.

“Chúng mình thành công rồi,” tôi đáp. Không biết nói gì hơn.

Thẳng bên kia đồng cỏ là một ngôi nhà khung gỗ hai tầng cũ kỹ theo kiểu Mỹ. Ngôi nhà Giáo sư Cừu đã xây bốn mươi năm trước và cha của Chuột đã mua lại sau đó. Không có gì gần đó để so sánh, vì thế nhìn từ xa khó nói được nhà rộng cỡ nào. Dù thế nào thì đó cũng là một ngôi nhà thấp bè bè và không biểu lộ gì hết. Được quét vôi trắng, dưới bầu trời u ám trông ngôi nhà như có màu xám báo điềm gở.

Ở giữa mái nhà hình tam giác màu vàng mù tạt gần như màu gỉ sét nhô ra một ống khói gạch hình chữ nhật. Thay vì hàng rào quanh nhà, có cả dãy cây xanh quanh năm bảo vệ nhà khỏi nắng mưa. Ngôi nhà mang vẻ hoang lạnh đến kỳ lạ. Càng nhìn tôi càng thấy nó là một ngôi nhà kỳ cục. Nó chẳng đặc biệt không mến khách hay lạnh lẽo, hay được xây theo phong cách không bình thường, nó cũng không hư nát gì. Nó chỉ… kỳ kỳ sao ấy. Như thể một sinh vật to lớn già đi mà không thể diễn đạt được tình cảm của mình. Không phải vì nó không biết cách diễn đạt tình cảm, mà vì nó không biết diễn đạt cái gì.

Mùi mưa bỗng nhiên hiện diện khắp nơi. Đến lúc phải đi tiếp rồi. Chúng tôi đi thẳng qua đồng cỏ tới ngôi nhà. Mây thổi từ phía Tây qua không còn là những cụm mây bồng bềnh nhẹ trôi nữa; đó là những đám mây lớn báo hiệu mưa đang đến gần.

Đồng cỏ rộng mênh mông. Cho dù có đi nhanh cỡ nào, có vẻ như chúng tôi chẳng tiến xa được là mấy. Tôi không thể đoán định được khoảng cách. Nghĩ mới thấy đây là mặt đất bằng phẳng đầu tiên chúng tôi đi qua, vì thế thậm chí những thứ ở xa trông vẫn có vẻ trong tầm tay.
Một đàn chim bay ngang những đám mây tiến về hướng Bắc.

Sau khoảng thời gian cảm giác như hàng giờ liền, khi chúng tôi cuối cùng cũng đến được ngôi nhà, mưa bắt đầu rơi lộp độp. Nhìn gần, ngôi nhà trông lớn hơn và cũ kỹ hơn khi nhìn từ xa. Lớp vôi trắng phồng lên và bong tróc, chỗ vôi bong ra trên mặt đất đã từ lâu biến thành màu nâu vì mưa. Đến mức này, người ta sẽ phải bóc toàn bộ lớp vôi cũ trước khi có thể nghĩ đến việc quét một lớp mới. Cái viễn cảnh quét vôi một ngôi nhà như thế này – tại sao tôi lại nghĩ đến điều đó kia chứ? – khiến tôi co rúm lại. Một ngôi nhà không ai sống sẽ sụp đổ, và ngôi nhà này, không nghi ngờ gì nữa, đang trên đà tới đó.

Cây cối, trái ngược với ngôi nhà ọp ẹp, đang sinh sôi phát triển, bao quanh nhà như ngôi nhà trên cây trong phim Gia đình Thụy Sĩ trên hoang đảo. Cành cây dài không được xén tỉa, đâm tứ tung.

Con đường lên núi quanh co như thế mà Giáo sư Cừu xây được ngôi nhà này thì quả là một kỳ công. Chở gỗ lên, làm tất cả mọi việc, đổ toàn bộ tiền tiết kiệm vào đó, không còn nghi ngờ gì nữa. Nghĩ đến việc vẫn chính ông Giáo sư Cừu ấy giờ đang ẩn nấp trong căn phòng tối tăm ở khách sạn Cá Heo mà xem! Không thể đòi hỏi một dẫn chứng nào hay hơn (hoặc tệ hơn) thế về một cuộc đời không được thưởng công.

Tôi đứng trong mưa lạnh nhìn trân trân lên ngôi nhà. Ngay cả khi nhìn gần, nó vẫn không có dấu hiệu có người ở. Hàng tầng cát mịn tích tụ lại trên cánh cửa chớp bằng gỗ của cửa sổ trượt cao, hẹp. Mưa đã khiến cát cố định thành hình, trên đó một lớp cát khác lại được thổi tới, và một trận mưa mới lại khiến nó nằm cố định một chỗ.

Giữa cửa ra vào ngang tầm mắt là một ô kính rộng khoảng mười centimet vuông, bên trong phủ một tấm vải. Quả đấm cửa bằng đồng cũng bị cát tàn phá, chỉ cần chạm vào là sạn cát rơi lả tả. Quả đấm cửa lung lay như một chiếc răng hàm già nua, tuy thế cửa vẫn không mở. Được làm bằng ba tấm ván gỗ sồi, cánh cửa này chắc chắn hơn bề ngoài. Tôi gõ cửa thật mạnh vài lần chỉ để mà gõ. Như đã đoán trước, không có tiếng trả lời. Tôi chỉ tổ làm đau tay mình. Cành nhánh của cây sồi đỏ khổng lồ đung đưa trong cơn gió mạnh, tạo ra một trận cát lở thật sự.

Đúng như người trông nom trại cừu nói, chìa khóa ở đáy hộp thư. Một chiếc chìa khóa bằng đồng kiểu cổ, chỗ tay hay chạm vào có màu trắng xỉn.

“Anh có nghĩ là họ hơi bất cẩn khi để chìa khóa như thế không?” bạn gái tôi hỏi.

“Em biết có thằng trộm nào lần mò đến tận đây, ăn trộm thứ gì đó rồi chở đồ xuống dưới không?”

Chìa khóa khớp vừa khin khít với lỗ khóa. Tôi xoay chìa, có một tiếng cách to, và then cửa mở ra.

Trong nhà tối mờ mờ, tối một cách không tự nhiên. Cửa chớp đã được đóng suốt một quãng thời gian dài, phải mất một lúc mắt tôi mới điều chỉnh được. Chỗ nào cũng tối mò mò.

Căn phòng rộng rãi. Rộng rãi, yên tĩnh, và bốc mùi như một cái chuồng bò cũ. Cái mùi tôi nhớ được từ thuở thiếu thời. Đồ đạc cũ và thảm bỏ đi. Chúng tôi đóng cánh cửa sau mình lại, khiến tiếng gió ngoài kia ngưng bặt.

“Xin chào!” tôi hét lên. “Có ai ở nhà không?”

Tất nhiên là không rồi. Rõ ràng là không ai ở đó. Chỉ có sự hiện diện của chiếc đồng hồ quả lắc đang kêu tích tắc cạnh lò sưởi.

Trong giây lát, tôi có cảm giác chóng mặt. Ở đó trong bóng tối, thời gian bị đảo ngược. Thời khắc chồng chéo nhau. Ký ức tan thành mây khói. Rồi cảm giác ấy qua đi. Tôi mở mắt và mọi thứ lại trở về như cũ. Trước mắt tôi là một khoảng không gian màu xám đơn thuần, không gì hơn.

“Anh có sao không?” cô hỏi một cách lo lắng.

“Không sao đâu,” tôi nói. “Mình lên kiểm tra trên gác đi.”

Trong khi cô tìm công tắc điện, tôi kiểm tra chiếc đồng hồ quả lắc. Đó là loại có ba quả lắc, lên dây cót bằng xích. Mặc dầu cả ba đều xuống mức thấp nhất, chiếc đồng hồ vẫn cố gắng nhích thêm chút chuyển động cuối cùng. Xét độ dài của dây xích, có lẽ phải mất khoảng một tuần để quả lắc xuống mức thấp nhất. Có nghĩa là vào một lúc nào đó trong tuần ai đó đã ở đây để lên dây đồng hồ.

Tôi chỉnh ba quả lắc lên mức cao nhất rồi ngồi duỗi dài chân trên xô pha. Một cái xô pha cũ rích từ thời tiền chiến, nhưng ngồi khá dễ chịu. Không quá êm, không quá cứng và có mùi như lòng bàn tay.

Một tiếng tách, rồi đèn bật sáng. Cô từ trong bếp đi ra, ngồi trên ghế dài, rồi châm một điếu thuốc đinh hương. Tôi châm một điếu cho mình. Tồi dần dà yêu thích chúng qua cô.

“Có vẻ như bạn anh chuẩn bị qua đông ở đây,” cô nói.

“Có một đống chất đốt và thực phẩm cho cả mùa đông trong bếp. Một siêu thị thông thường.”

“Nhưng không có dấu hiệu gì của cậu ta.”

“Trên gác thì sao?”

Chúng tôi trèo lên cầu thang cạnh bếp. Nửa đường lên, cầu thang nghiêng về một góc. Lên đến tầng hai, chúng tôi dường như bước vào một tầng khí quyển khác.

Có ba phòng ngủ trên tầng hai. Một phòng lớn bên trái hành lang và hai phòng nhỏ hơn bên phải. Phòng nào cũng chỉ có ít đồ đạc tối thiểu, phòng nào cũng u ám. Phòng lớn có giường đôi và một tủ gương trang điểm. Giường chỉ còn trơ lại khung. Thời gian chết trong không trung.

Chỉ có căn phòng nhỏ xa hơn là phảng phất mùi người ở. Giường được dọn gọn ghẽ, gối hơi có vết lõm, và một bộ quần áo ngủ màu xanh được gấp ở đầu giường. Một ngọn đèn kiểu cổ đặt trên chiếc bàn nhỏ cạnh một cuốn sách bị lật ngược. Một cuốn tiểu thuyết của Conrad.

Cạnh giường là một chiếc tủ có ngăn kéo làm bằng gỗ sồi nặng trịch. Trong đó là một lô vật dụng gồm áo len nam, sơ mi, quần, tất và đồ lót. Áo len và quần đã cũ, chỗ này chỗ kia bị sờn, nhưng vẫn còn tốt. Tôi thề là trước đây đã trông thấy một số quần áo đó. Chúng thuộc về Chuột, đúng thế đấy. Áo sơ mi có vòng cổ ba mươi tám centimet, quần có vòng eo khoảng bảy mươi tư.

Cạnh cửa sổ là một cái bàn cũ và một cái ghế có kiểu dáng đơn giản độc nhất vô nhị ngày nay không thường gặp nữa. Trong ngăn kéo bàn, một chiếc bút máy rẻ tiền, ba hộp mực ống, và một bộ đồ dùng để viết thư, văn phòng phẩm chưa dùng đến. Trong ngăn kéo thứ hai, một lượng dự trữ kẹo ngậm ho đã dùng được một nửa và các thứ đồ nhỏ lặt vặt khác nhau. Ngăn kéo thứ ba, trống không. Không nhật ký, không sổ ghi chép, không gì hết. Hắn đã bỏ hết mọi thứ phụ. Mọi thứ đã được cất đi. Quá ngăn nắp. Tôi quệt ngón tay lên mặt bàn, kết quả là ngón tay tôi trắng vì bụi. Không nhiều bụi lắm. Có lẽ lượng bụi sau một tuần.

Tôi kéo cửa sổ lên và mở tung cửa chớp. Mây đen bay là là đang sà xuống. Gió đã tập hợp sức mạnh, hầu như có thể thấy được gió nhảy chồm chồm qua đồng cỏ như một con thú hoang. Xa xa là rừng cây bu lô và bên kia rừng là núi. Khung cảnh hệt như trong bức ảnh. Chỉ khác là không có cừu.
Chúng tôi đi xuống tầng dưới rồi ngồi trên xô pha. Chiếc đồng hồ quả lắc đổ một hồi chuông gióng giả, rồi đánh mười hai tiếng. Chúng tôi yên lặng cho tới khi tiếng chuông cuối cùng bị nuốt chửng vào không khí.

“Chúng mình làm gì bây giờ anh?” cô hỏi.

“Chúng mình đợi thôi. Biết làm gì nữa?” tôi nói. “Chuột ở đây một tuần trước. Đồ đạc của cậu ta vẫn còn đây. Cậu ta sẽ phải quay lại thôi.”

“Nhưng nếu tuyết rơi trước khi cậu ta quay lại, chúng mình sẽ phải ở đây cả mùa đông và thời gian của chúng mình sẽ hết.”

Quả vậy.

“Tai em không nói với em điều gì à?”

“Chúng hiện không hoạt động. Nếu em mở tai ra, em bị nhức đầu.”

“Thế thì, anh nghĩ chúng mình cứ nghỉ cho khỏe và đợi Chuột thôi,” tôi nói.

Thế nghĩa là chúng tôi không còn cách lựa chọn nào khác.

Trong khi cô vào bếp pha cà phê, tôi đảo nhanh một vòng quanh phòng khách lớn, kiểm tra từ góc nọ tới góc kia. Lò sưởi, một lò sưởi thật vẫn đang hoạt động đặt ở giữa bức tường chính, sạch và sẵn sàng để sử dụng. Nhưng mới đây nó không được sử dụng. Một vài chiếc lá sồi rơi vào qua đường ống khói, nằm trong lòng lò sưởi. Một chiếc máy sưởi lớn chạy bằng dầu đặt gần đó. Dụng cụ đo mức dầu cho thấy dầu còn đầy.

Cạnh lò sưởi là một giá sách âm tường bằng kính, đầy những sách cũ. Tôi lôi ra mấy cuốn lật qua. Tất cả đều là sách xuất bản trước chiến tranh, hầu như không cuốn nào có giá trị. Địa lý, khoa học, lịch sử, triết học và chính trị. Cả đống sách hoàn toàn vô dụng, có chăng là những đầu sách phải đọc của một nhà trí thức bốn mươi năm về trước. Cũng có cả sách xuất bản sau chiến tranh, có giá trị tương tự. Chỉ có những cuốn Những cuộc đời của Plutarch và Bi kịch Hy Lạp chọn lọc cùng vài cuốn tiểu thuyết là còn sống sót được qua sự bào mòn của năm tháng. Đây là một kinh nghiệm mới mẻ với tôi: tôi chưa từng trông thấy một bộ sưu tập toàn những cuốn sách vô dụng mà lại khổng lồ đến thế.

Bên cạnh giá sách là một giá trưng bày, cũng âm vào tường, trên đó là một dàn máy hifì âm thanh nổi – loa nhỏ, ampli, bàn quay – loại thông dụng vào những năm sáu tư, sáu nhăm. Khoảng hai trăm đĩa hát cũ, cái nào cũng bị xước đến không nhận ra nổi, nhưng ít nhất không đến nỗi vô giá trị. Gu âm nhạc không bị xói mòn như hệ tư tưởng. Tôi bật ampli đèn chân không và hạ kim xuống. Bài Phía Nam biên giới của Nat King Cole. Bỗng nhiên căn phòng có cảm giác như được đưa trở về những năm 1950.

Bức tường đối diện có bốn cửa sổ trượt cao hơn mét tám đặt cách đều nhau. Có thể thấy lúc này mưa đang trút xối xả. Một màn mưa màu xám, che khuất những dãy núi phía xa.

Căn phòng lát ván gỗ, ở giữa là một tấm thảm rộng hai mét tư nhân ba mét sáu, bên trên đặt một bộ bàn ghế phòng khách và một ngọn đèn cây đặt trên sàn. Một cái bàn ăn đặt ở một góc phòng, phủ bụi.

Một căn phòng trống rỗng từng có người ở.

Một cánh cửa được lắp kín đáo vào trong tường mở vào một phòng chứa đồ khá rộng. Căn phòng xếp chật ních các đồ đạc dư thừa, thảm, bát đĩa, một bộ gậy chơi gôn, một cây đàn ghi ta, một tấm đệm, áo khoác, ủng leo núi, tạp chí cũ. Thậm chí cả sách tham khảo thi cử cho học sinh cấp hai và một chiếc máy bay điều khiển bằng vô tuyến. Hầu hết đều là sản phẩm của thập kỷ năm mươi và sáu mươi.

Ngôi nhà lưu giữ mạch thời gian riêng, giống như chiếc đồng hồ quả lắc trong phòng khách. Những người tình cờ đi qua nâng quả lắc, và chừng nào quả lắc được lên dây, chiếc đồng hồ tiếp tục kêu tích tắc. Nhưng khi mọi người đi hết và quả lắc không được ngó ngàng tới, cả khối thời gian bị bỏ lại để góp nhặt dần những gì còn sót lại của một cuộc sống đang mất dần trên sàn.

Tôi mang mấy cuốn tạp chí điện ảnh cũ vào phòng khách. Ảnh tiêu điểm trong một cuốn là từ bộ phim Trận chiến Alamo. Bộ phim đầu tiên do John Wayne đạo diễn với sự ủng hộ hết mình của John Ford. John Wayne nói, tôi muốn làm một đại sử thi tồn tại mãi trong trái tim người Mỹ. Ông ta trông sến hết sức khi đội cái mũ làm bằng lông hải ly.

Bạn gái tôi trở lại cùng cà phê, rồi chúng tôi đối diện nhau uống cà phê. Những giọt mưa thỉnh thoảng lại gõ nhẹ lên cửa sổ. Thời gian trôi qua chậm chạp trong khi khí lạnh tràn khắp căn phòng. Ánh sáng vàng của ngọn đèn trôi quanh phòng như phấn hoa.

“Anh mệt à?” cô hỏi.

“Chắc vậy quá,” tôi nói, ngó lơ đãng ra ngoài cửa sổ. Chúng mình chạy quanh tìm như điên cả ngần ấy thời gian, và giờ đây chúng mình phải ngừng lại. Chưa thể hoàn toàn quen với điều đó. Rốt cuộc thì chúng mình đã tìm được cảnh trong bức ảnh, không có Chuột mà cũng chẳng có cừu.”

“Anh ngủ chút đi. Em sẽ nấu bữa tối.”

Cô mang từ trên gác xuống một cái chăn và đắp cho tôi. Rồi cô khởi động máy sưởi chạy dầu, đặt một điếu thuốc lên môi tôi rồi châm lửa.

“Vui lên chút đi nào. Mọi việc rồi sẽ ổn thôi.”

“Cảm ơn em,” tôi nói.

Đến đó, cô biến mất vào trong bếp.

Hoàn toàn một mình, tôi cảm thấy người nặng trĩu. Tôi làm hai hơi rồi dập thuốc, trùm chăn đến tận cổ, và nhắm mắt. Chỉ mất có vài giây là tôi thiếp đi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:09:45 | Xem tất
Chương 33: Nàng Rời Núi; Cơn Đói Hành Hạ


Đồng hồ điểm sáu tiếng và tôi thức dậy trên xô pha. Đèn đã tắt, căn phòng chìm trong bóng tối dày đặc. Mọi thứ, từ sâu trong bản thể tôi đến các đầu ngón tay tôi đều tê liệt. Bóng tối lan lên da tôi như mực.

Mưa đã ngớt, chim ăn đêm kêu ngoài kính cửa sổ. Ánh lửa từ máy sưởi đổ bóng mờ nhạt, chập chờn, kéo dài lên bức tường trắng của căn phòng. Tôi đứng dậy bật công tắc ngọn đèn cây trên sàn, vào bếp, uống hai cốc nước lạnh. Một nồi ninh, vẫn còn ấm, nằm trên bếp. Một chiếc gạt tàn đựng hai điếu thuốc đinh hương đã dụi tắt.

Ngay lập tức, theo bản năng, tôi biết cô đã đi mất.

Tôi đứng đó, tay trên mặt bếp, cố sắp xếp ý nghĩ của mình.

Cô không còn đó nữa, điều này là chắc chắn. Không phải tranh luận hay đoán già đoán non gì. Trên thực tế, cô đã không còn ở đây. Bầu không khí trống vắng của ngôi nhà là không thay đổi được nữa, không chối cãi được nữa. Đó là một cảm giác tôi đã biết quá rõ trong vòng mấy tháng từ khi vợ tôi bỏ tôi cho đến khi tôi gặp bạn gái tôi.

Tôi lên gác kiểm tra. Tôi mở các cửa tủ. Không có dấu hiệu gì của cô. Chiếc túi khoác vai và áo khoác nhồi lông của cô biến mất. Cả đôi ủng trong hành lang cũng vậy. Không còn nghi ngờ gì nữa, cô đã đi mất. Tôi lục tìm tất cả những nơi cô có thể đã để lại thư, nhưng không thấy gì hết. Có lẽ cô đã xuống núi.

Tôi không thể chấp nhận sự thật là cô đã biến mất. Tôi hầu như chưa tỉnh ngủ, nhưng kể cả khi tôi hoàn toàn tỉnh táo, điều này – cũng như tất cả mọi thứ đang xảy đến với tôi – vẫn vượt xa tầm lĩnh hội của tôi. Hầu như người ta không thể làm gì hơn ngoài việc để sự việc xảy ra theo ý nó.

Ngồi trên ghế, tôi bỗng nhiên thấy đói. Mà cũng không phải một cơn đói thông thường.

Tôi đi từ bếp vào hầm dự trữ thực phẩm, mở một chai rượu vang đỏ. Quá lạnh nhưng uống được. Quay trở lại bếp, tôi cắt mấy lát bánh mì, rồi gọt một quả táo. Trong khi đợi cho nồi ninh nóng lên, tôi làm ba ly rượu.

Khi nồi ninh đã sẵn sàng, tôi chuyển qua chiếc bàn trong phòng khách và ăn tối trong lúc nghe dàn nhạc của Percy Faith chơi bản “Perfidia”. Sau bữa tối, tôi uống cà phê còn lại trong bình, và với xấp bài nằm trên mặt lò sưởi, tôi tự chia cho mình một ván solitaire. Một trò chơi được phát minh rồi thành mốt ở Anh vào thế kỷ mười chín, sau đó được quần chúng ưa chuộng do luật chơi đơn giản. Một nhà toán học từng tính tỷ lệ thành công trong trò này là một trên hai mươi lăm. Tôi thử ba lần – tất nhiên là không thành công. Tôi dọn đám bài và bát đĩa. Rồi tôi làm nốt chỗ rượu còn lại.

Đêm xuống. Tôi đóng cửa chớp rồi nằm trên xô pha nghe những đĩa nhạc cũ đầy vết xước.

Liệu Chuột có bao giờ quay trở lại không?

Giả sử là hắn sẽ quay lại. Xét cho cùng, hắn tĩch trữ một lượng xăng dầu và thực phẩm cho cả mùa đông kia mà.

Nhưng đó là giả sử. Chuột có thể đã bỏ chỗ này và trở lại thị trấn. Hoặc có thể hắn cặp với một người đàn bà nào đó. Trên thực tế, bất cứ điều gì cũng có thể.

Điều đó có nghĩa là tôi ở trong một mớ bòng bong thực sự. Thời hạn một tháng của tôi, giờ chính xác đã quá nửa, chẳng mấy chốc sẽ hết. Không Chuột, không cừu, chỉ có người đàn ông mặc bộ com lê đen kéo lê tôi vào trận chiến hủy diệt cuối cùng của các thần linh. Dù tôi chẳng là cái thá gì, ông ta cứ kéo. Tôi không nghi ngờ gì về điều đó.

Ở thành phố, tuần thứ hai của tháng Mười là thời điểm tao nhã nhất của năm. Nếu tất cả những việc này không xảy ra thì giờ tôi đang ăn trứng ốp lết và uống whisky. Một thời điểm đẹp của một mùa đẹp, vào buổi tối khi mưa tạnh, những cục đá và mặt quầy bar bằng gỗ vững chắc, thời gian trôi chậm chạp, dễ dàng, như một dòng suối dịu dàng.

Đảo ngược toàn bộ cảnh này trong đầu, tôi bắt đầu tưởng tượng một thằng tôi khác ở đâu đó, ngồi trong một quầy bar, nâng niu ly whisky, không mảy may bận tâm đến điều gì. Càng nghĩ đến điều đó, cái tôi khác kia càng trở nên thực hơn, khiến cái tôi này đây không thực một chút nào.
Tôi lắc đầu cho tỉnh.

Bên ngoài, những con chim ăn đêm vẫn tiếp tục kêu gù gù nho nhỏ.

Tôi lên gác và dọn giường trong căn phòng nhỏ mà Chuột đã không dùng đến. Đệm, khăn trải giường và chăn, tất cả đều được xếp gọn gàng nơi tủ tường cạnh cầu thang.

Đồ đạc giống hệt như đồ đạc trong phòng Chuột. Bàn nhỏ cạnh giường, rồi bàn ghế và đèn. Lỗi mốt, nhưng là sản phẩm của cái thời mà mọi thứ làm ra đều bền chắc và hoạt động tốt. Không màu mè.

Đúng như dự đoán, khung cảnh từ cửa sổ đầu giường nhìn ra đồng cỏ. Mưa đã tạnh, màn mây dày đặc đang bắt đầu tan ra. Một vầng trăng khuyết tuyệt đẹp thi thoảng lại tỏa sáng trên đồng cỏ. Như một ngọn đèn pha đang quét trên thứ rất có thể là mặt biển.

Chui vào trong chăn, vẫn còn mặc nguyên quần áo, tôi nhìn chằm chằm vào khung cảnh thoắt ẩn thoắt hiện. Hiện lên trong tâm trí tôi là hình ảnh nhạt nhòa về cô bạn gái đi vòng qua khúc ngoặt không may trên đường, một mình xuống núi. Rồi hình ảnh đó biến mất, nhường chỗ cho một đàn cừu và Chuột đang chụp ảnh chúng. Mặt trăng lại trốn sau một đám mây, và khi nó hiện ra, cả cừu lẫn Chuột biến mất.

Tôi đọc Sherlock Holmes bên ánh đèn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:13:26 | Xem tất
Chương 34: Khám Phá Trong Ga Ra; Những Ý Nghĩ Giữa Đồng Cỏ


Những con chim thuộc một loài tôi chưa từng thấy trước đây bám chặt vào cây sồi đỏ trước cửa ra vào như đám đồ trang trí Giáng sinh, hót líu lo. Thế giới sáng một cách ẩm ướt trong nắng sớm.

Tôi nướng bánh mì trong cái lò nướng cổ lỗ sĩ, loại phải dùng tay để trở bánh. Tôi cho bơ vào chảo, rán vài quả trứng kiểu ốp la một mặt, uống hai ly nước nho. Tôi thấy cô đơn khi không có cô, nhưng việc tôi còn có thể cảm thấy cô đơn đã là một sự an ủi. Cô đơn không phải là một cảm giác xấu. Nó giống như sự tĩnh lặng của cây sồi đỏ sau khi những con chim bé bỏng đã bay đi.

Tôi rửa bát đĩa, rồi súc miệng cho sạch lòng đỏ trứng và đánh răng trong nguyên năm phút. Sau một hồi cân nhắc kỹ, tôi quyết định cạo râu. Có một hộp kem cạo râu hầu như còn mới và một dao cạo râu hiệu Gillette tại bồn rửa. Bàn chải và kem đánh răng, xà phòng, nước thơm, thậm chí cả nước hoa. Mười chiếc khăn lau tay, mỗi chiếc một màu, được gấp ngay ngắn trên giá. Không một vết bẩn trên mặt gương hay bồn rửa. Đúng như ý thức ngăn nắp của Chuột.

Buồng vệ sinh và buồng tắm cũng ngăn nắp như vậy. Lớp vữa giữa những viên gạch đã được cọ bằng bàn chải và chất tẩy rửa. Tất cả trắng lóa, một công trình nghệ thuật. Túi bột thơm trong buồng tắm tỏa mùi rượu gin chanh ta uống ở một quán bar sang trọng.

Tôi vào phòng khách hút thuốc buổi sáng. Tôi còn ba bao Lark trong ba lô. Khi mấy bao thuốc này hết, tôi sẽ không còn gì để hút xách nữa. Tôi châm điếu thứ hai và ngẫm nghĩ không biết sẽ như thế nào nếu không có thuốc. Mặt trời buổi sáng đem lại cảm giác tuyệt vời, và ngồi trên cái xô pha ôm trọn lấy cơ thể mình là một điều hoàn toàn xa xỉ. Trước khi tôi nhận ra, cả tiếng đồng hồ đã trôi qua. Chiếc đồng hồ trễ nải điểm chín giờ.

Tôi bắt đầu hiểu tại sao Chuột lại giữ ngôi nhà ngăn nắp đến nhường ấy, cọ rửa giữa các viên gạch, là áo sơ mi, rồi cạo râu, dù chắc chắn là hắn chẳng có ai để mà gặp. Ở đây, nếu không vận động chân tay, người ta sẽ mất hết khái niệm thời gian.

Tôi đứng dậy khỏi xô pha, khoanh tay, đi một vòng quanh phòng, nhưng không tìm được bất cứ việc gì cần làm. Chuột đã lau chùi bất cứ thứ gì có thể lau chùi. Hắn thậm chí còn cạo cả lớp bồ hóng trên trần nhà.

Thế là tôi quyết định đi dạo một vòng. Thời tiết tuyệt đẹp. Bầu trời điểm vài vệt mây trắng, không gian tràn ngập tiếng chim.

Phía sau ngôi nhà là một ga ra lớn. Một mẩu đầu lọc nằm trên mặt đất trước cánh cửa đôi cũ kỹ. Seven Stars. Lần này đầu lọc có vẻ khá cũ. Giấy đã bung hết, lòi cả phần lõi lọc.

Gạt tàn. Tôi chỉ trông thấy một chiếc trong nhà, và nó không cho thấy dấu vết sử dụng. Chuột không hút thuốc! Tôi vê phần lõi lọc trong lòng bàn tay rồi vứt xuống đất.

Tôi kéo chốt cửa nặng trịch rồi mở cửa ga ra để thấy bên trong thật rộng lớn. Ánh mặt trời chiếu xiên qua các kẽ hở nơi lớp ván gỗ ngoài, tạo nên một loạt những đường song song trên nền đất tối. Có mùi đất và xăng.

Một chiếc Toyota Land Cruiser nằm đó. Không một vết bùn trên thân hay lốp xe. Bình xăng gần như còn đầy. Tôi sờ tay dưới bảng đồng hồ nơi Chuột thường giấu chìa khóa. Đúng như dự đoán, chìa khóa ở đó. Tôi tra chìa vào bộ phận đánh lửa và khởi động. Ngay lập tức đầu máy chạy vo vo thật êm. Vẫn là Chuột ngày nào, luôn giỏi chỉnh sửa xe. Tôi tắt máy, cất chìa khóa vào chỗ cũ, rồi nhìn quanh ghế người lái. Không có gì đáng kể – bản đồ đi đường, khăn mặt, nửa thanh sô cô la. Ở ghế sau, bẩn thỉu một cách không bình thường đối với Chuột, là một cuộn dây và một chiếc kìm lớn. Tôi mở cửa sau và gạt những mảnh vụn vào tay, giơ lên chỗ ánh mặt trời xuyên qua mắt gỗ ở lớp ván gỗ. Thứ để nhồi đệm. Hay lông cừu. Tôi lôi một mảnh giấy từ trong túi ra, bọc những mảnh vụn lại, rồi đút vào trong túi ngực.

Tôi không hiểu được tại sao Chuột lại không lấy xe đi. Việc chiếc xe vẫn còn trong ga ra có nghĩa là hắn đã đi bộ xuống núi hoặc hắn không đi đâu cả. Cách nào cũng không hợp lý. Ba ngày trước con đường vách đá hẳn vẫn dễ lái qua. Liệu hắn có bỏ ngôi nhà để hạ trại trên núi không?

Lòng đầy băn khoăn, tôi đóng cửa ga ra và đi ra ngoài đồng cỏ. Không có một lời giải thích hợp lý khả dĩ nào cho tình huống vô lý đến nhường ấy.

Khi mặt trời lên cao hơn, hơi nước từ đồng cỏ bốc lên. Núi có vẻ mù sương, và mùi cỏ tràn ngập.

Tôi đi bộ qua đám cỏ ẩm ướt đến giữa cánh đồng. Ở đó nằm lăn lóc một chiếc lốp cũ bỏ đi, cao su màu trắng và rạn nứt. Tôi ngồi lên đó và tìm hiểu địa hình xung quanh. Từ đây ngôi nhà trông giống như một tảng đá trắng nhô ra khỏi bờ biển.

Trong lúc một mình thế này, ký ức về những lần bơi thi trên biển từng tham gia khi còn bé tràn về trong tôi. Những lần bơi từ đảo này sang đảo khác, tôi thỉnh thoảng ngừng lại giữa đường để nhìn quanh. Tôi cảm thấy buồn cười nhất khi thấy mình ở chính giữa hai điểm. Ý nghĩ rằng trên đất liền mọi người vẫn đang hoạt động bình thường cũng khá là kỳ cục. Tôi thấy bối rối khi nghĩ cái xã hội ấy có thể tiếp tục một cách hoàn toàn trôi chảy mà không có tôi.

Tôi ngồi đó trong mười lăm phút trước khi thong thả đi bộ về lại ngôi nhà. Tôi ngồi trên xô pha ở phòng khách và tiếp tục đọc cuốn Sherlock Holmes.
Lúc hai giờ, Người Cừu tới.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:18:04 | Xem tất
Chương 35: Người Cừu Tới


Lúc đồng hồ điểm hai tiếng, có một tiếng gõ cửa. Ban đầu là hai tiếng, tạm nghỉ sau hai hơi thở, rồi ba tiếng.

Tôi phải mất một lúc mới nhận ra được đó là tiếng gõ cửa. Tôi chưa từng nghĩ đến chuyện có ai gõ cửa. Chuột không gõ cửa, đó là nhà của hắn. Người trông nom trại cừu có thể gõ, nhưng chắc chắn ông ta không đợi trả lời trước khi bước vào. Có lẽ bạn gái tôi – không, cô hẳn sẽ lẻn vào qua cửa bếp và tự pha cho mình một cốc cà phê. Cô không phải dạng quen gõ cửa.

Tôi mở cửa, và đứng đó, cách tôi hai thước, là Người Cừu. Rõ ràng hắn không mấy bận tâm đến việc cửa mở hay tôi là người mở cửa. Hắn cẩn thận xem xét hộp thư như thể nó là một mẫu vật hiếm có, lạ lùng. Người Cừu không cao hơn hộp thư là mấy. Cùng lắm là khoảng một mét bốn mươi bảy. Vai lại còn thõng xuống và chân đi vòng kiềng.

Ngoài ra, khoảng cách giữa bậu cửa ra vào, nơi tôi đứng, và mặt đất, nơi hắn đứng là khoảng mười lăm centimet, vì thế cứ như tôi đang nhìn xuống hắn từ cửa sổ xe buýt. Như thể phớt lờ khiếm khuyết rõ ràng của mình, hắn tiếp tục xem xét kỹ lưỡng hòm thư.

“Tôi vào được không?” Người Cừu nói nhanh như súng liên thanh, quay người sang một bên suốt trong khi nói. Giọng hắn giận dữ.

“Vâng mời anh vào,” tôi nói.

Hắn cúi xuống cẩn thận cởi dây đôi ủng leo núi. Đôi ủng đóng một lớp bùn dày như vỏ bánh mì ngọt. Người Cừu dùng cả hai tay nhấc ủng lên và, với kỹ thuật điêu luyện, đập mạnh chúng vào nhau. Bùn đã đóng cứng rơi tới tấp xuống đất. Rồi để chứng minh cho kiến thức tuyệt vời về sơ đồ bố trí của ngôi nhà, hắn xỏ dép vào, đi đến xô pha và ngồi xuống.

Thật tuyệt chưa, tôi nghĩ.

Người Cừu mặc nguyên cả một tấm da cừu che hết qua đầu. Tay chân hắn là đồ giả và được ráp vào, nhưng bộ đồ thật vừa vặn với thân hình chắc nịch của hắn. Mũ trùm cũng làm giả, nhưng cặp sừng uốn quăn trên đỉnh đầu hoàn toàn thật. Đôi tai, có lẽ được dây kim loại giữ cho chắc thêm, thò ra ngang nhau từ hai bên mũ trùm. Chiếc mặt nạ che khuất nửa trên khuôn mặt hắn, đôi găng tay và tất, mọi thứ đều màu đen. Có một khóa kéo từ cổ đến đũng quần.

Trên ngực hắn là một túi áo, cũng có khóa kéo, hắn lôi từ đó ra thuốc và bật lửa. Người Cừu cho một điếu Seven Stars lên miệng, châm lửa, và thở dài thườn thượt. Tôi lấy trong bếp ra chiếc gạt tàn đã được rửa sạch.

“Tôi muốn uống chút rượu,” Người Cừu nói. Tôi đi vào bếp mang ra nửa chai Four Roses và hai chiếc ly có đá.

Hắn rót whisky lên đá, tôi cũng làm như vậy, chúng tôi uống mà không chúc tụng gì. Trong khi uống, Người Cừu lẩm bẩm với chính mình. Chiếc mũi tẹt
quá to đối với cơ thể hắn, và mỗi lần thở vào, lỗ mũi hắn phồng tướng lên. Hai con mắt lộ ra sau tấm mặt nạ đảo qua đảo lại không ngừng quanh căn phòng.

Khi Người Cừu uống whisky xong, hắn có vẻ thoải mái hơn. Hắn dập thuốc và dùng hai tay dụi mắt dưới tấm mặt nạ.

“Lông rơi vào mắt tôi, ” Người Cừu nói.

Tôi không biết phải phản ứng ra sao nên không nói gì cả.

“Anh đến đây chiều hôm qua phải không?” Người Cừu nói, dụi mắt thêm chút nữa. “Tôi quan sát anh suốt thời gian.” Người Cừu ngừng lại để rót một ngụm whisky lên đá đã tan một nửa và làm một ngụm hết sạch.

“Và người phụ nữ đã một mình ra đi vào chiều nay.”

“Anh cũng quan sát điều đó, đúng không?”

“Quan sát cô ta ư? Chúng tôi chở cô ta đi.”

“Chở cô ấy đi ư?”

“Chắc chắn rồi thò đầu qua cửa bếp nói cô nên về nhà thì hơn.”

“Tại sao vậy?”

Điều đó khiến Người Cừu khó chịu. “Tại sao” hiển nhiên không phải là cách để diễn đạt một câu hỏi với hắn, nhưng tôi chưa kịp nói gì khác thì mắt hắn đã từ từ chuyển sang một tia nhìn khác.

“Cô ta quay lại khách sạn Cá Heo,” Người Cừu nói.

“Cô ấy nói vậy à?”

“Không nói gì hết. Nhưng cô ta ở khách sạn Cá Heo.”

“Làm sao anh biết được?”

Người Cừu lại từ chối nói thêm. Hắn đặt cả hai tay lên đầu gối và nhìn trừng trừng vào tấm kính trên bàn.

“Nhưng cô ấy quay lại khách sạn Cá Heo thật chứ?” tôi nói.

“À há khách sạn Cáheo là một khách sạn tốt. Ngửi như mùi cừu,” Người Cừu nói.

Lại yên lặng.

Quan sát kỹ hơn, tôi có thể thấy bộ lông của Người Cừu bẩn thỉu, lông cứng đơ đầy đầu.

“Cô ấy có nói hay nhắn nhủ gì khi đi không?”

“Không,” Người Cừu nói, lắc đầu. “Cô ta không nói gì và chúng tôi không hỏi.”

“Khi anh khuyên cô ấy nên đi, cô ấy đứng dậy đi không nói một lời à?”

“Đúng vậy. Chúng tôi nói cô ta nên đi vì cô ta muốn thế.”

“Cô ấy đến đây vì cô ấy muốn như thế.”

“Sai rồi!” Người Cừu la lên.

“Cô ta muốn thoá tra nhưng bản thân cô ta lại hoang mang. Đó là lý do chúng tôi xua đuổi cô ta về nhà. Anh khiến cô ta hoang mang.”

Người Cừu đứng dậy và đập tay phải xuống bàn đánh rầm. Ly whisky của hắn trượt đi khoảng năm centimet.

Người Cừu giữ nguyên tư thế đó cho đến khi đôi mắt dần dần mất đi vẻ nóng nảy và hắn ngã quỵ xuống chiếc xô pha, không còn sức lực.

“Anh khiến người đàn bà đó hoang mang.” Người Cừu nói, lần này điềm tĩnh hơn. “Không hay chút nào. Anh không biết gì hết. Anh chỉ biết nghĩ đến mình thôi.”

“Anh muốn nói với tôi là cô ấy không nên đến đây ư?”

“Đúng thế. Cô ta không hề có ý định đến đây. Anh không nghĩ đến gì khác ngoài bản thân mình.”

Tôi đứng đó lặng thinh, nhấm nháp ly whisky.

“Nhưng thôi những gì đã qua thì không lấy lại được nữa. Dù sao đi nữa đối với cô ta thế là xong.”

“Xong ư?”

“Anh sẽ không bao giờ gặp lại người đàn bà đó nữa.”

Bởi vì tôi chỉ biết nghĩ đến mình thôi ư?”

“Đúng thế. Bởi vì anh chỉ biết nghĩ đến mình thôi. Đáng đời anh lắm.”

Người Cừu đứng dậy đi đến bên cửa sổ, dùng một tay mở tung cửa, rồi hít hà làn không khí trong lành. Một sự thể hiện sức mạnh không hề tầm thường.

“Phải mở cửa sổ vào những ngày đẹp trời như thế này,” Người Cừu nói. Rồi Người Cừu đảo nhanh một vòng quanh nửa căn phòng và dừng lại trước tủ sách, khoanh tay xem xét kỹ lưỡng gáy sách. Từ mông của bộ phục trang thò ra một cái đuôi bé tẹo. Trong tư thế này, trông hắn giống như một con cừu đang đứng bằng hai chân sau.

“Tôi đang đi tìm một người bạn,” tôi đánh bạo nói.

“Thế à?” Người Cừu đáp lại tôi với vẻ hết sức thờ ơ.

“Cậu ta đã sống ở đây. Cho tới một tuần trước.”

“Tôi chưa biết gì hết.”

Người Cừu đứng trước lò sưởi tráo xấp bài lấy trên mặt lò sưởi.

“Tôi cũng đang đi tìm một con cừu có ngôi sao trên lưng,” tôi tiếp tục.

“Tôi không trông thấy nó,” Người Cừu nói.

Nhưng rõ ràng là Người Cừu biết một điều gì đó về Chuột và con cừu. Sự thiếu quan tâm của hắn quá giả tạo. Thời điểm đưa ra câu trả lời của hắn quá nhanh, giọng hắn không thật.

Tôi thay đổi chiến thuật. Giả bộ không quan tâm nữa, tôi ngáp, lấy sách trên bàn và lật nhanh những trang sách. Người Cừu hơi cáu kỉnh, bèn quay lại xô pha và lặng lẽ quan sát tôi đọc sách.

“Đọc sách có thú không?” Người Cừu hỏi.

“Hừm,” tôi trả lời.

Người Cừu chờ cơ hội. Tôi tiếp tục đọc để chọc tức hắn.

“Xin lỗi đã la hét om sòm,” Người Cừu nói khẽ. “Thỉnh thoảng con cừu và con người trong tôi xung khắc nhau nên tôi mới cư xử như vậy. Không có ý gì cả khi la lối như vậy không có ý gì cả. Vả lại anh cứ nói những điều đe dọa chúng tôi.”

“Không sao đâu,” tôi nói.

“Thật tiếc là anh sẽ không bao giờ gặp người đàn bà đó nữa. Nhưng đó không phải lỗi của chúng tôi.”

“Hừm.”

Tôi lấy ba bao Lark ra khỏi ba lô và đưa cho Người Cừu. Người Cừu sửng sốt.

“Cám ơn nhé. Tôi chưa từng thử hiệu này. Nhưng anh không cần à?”

“Tôi bỏ thuốc,” tôi nói.

“Đúng thế là khôn đấy,” Người Cừu gật đầu vô cùng nghiêm túc. “Thuốc lá thật sự có hại cho anh.”

Hắn cẩn thận cất mấy bao thuốc vào cái túi trên cánh tay. Bộ lông cừu phồng lên một cục hình chữ nhật.

“Tôi nhất định phải gặp được bạn tôi. Tôi đã đi một quãng đường rất, rất dài đến đây để gặp cậu ấy.”

Người Cừu gật đầu.

“Cũng tương tự như vậy vì con cừu đó.”

Người Cừu gật đầu.

“Nhưng theo tôi hiểu thì anh không biết gì về họ cả?”

Người Cừu lắc đầu vẻ buồn bã. Đôi tai giả của hắn đưa lên đưa xuống. Lần này sự phủ nhận của hắn yếu ớt hơn trước “Chỗ này thật đẹp,” Người Cừu đổi chủ đề. “Cảnh đẹp không khí tốt và trong lành. Anh sẽ yêu thích nơi này.”

“Đúng, chỗ này đẹp,” tôi nói.

“Mùa đông còn đẹp hơn. Khắp nơi không có gì ngoài tuyết, mọi thứ đóng băng. Tất cả thú vật ngủ đông không có ngư ời.”

“Anh ở đấy suốt mùa đông à?”

“À há.”

Tôi không hỏi gì nữa. Người Cừu giống như một con thú. Tiến đến gần hắn thì hắn sẽ lảng đi, đi chỗ khác thì hắn sẽ lại gần hơn. Chừng nào tôi không đi đâu cả thì không cần phải vội vàng làm gì. Tôi cứ thong thả thôi.

Người Cừu lấy tay trái rút chiếc găng đen ra khỏi mấy ngón tay phải, từng ngón một. Sau mấy lần giật mạnh, chiếc găng tuột ra, để lộ một bàn tay đen đen đang tróc vảy. Nhỏ nhưng núng nính những thịt, một vết sẹo bỏng cũ kéo dài từ phần dưới ngón tay cái đến giữa mu bàn tay.
Người Cừu nhìn chằm chằm vào mu bàn tay, rồi lật ngược lại để nhìn lòng bàn tay. Cái cử chỉ đó hệt như cách Chuột thường làm. Nhưng Người Cừu không thể là Chuột được. Có sự chênh lệch về chiều cao đến hai mươi centimet giữa hai người.

“Anh sẽ ở lại đây chứ?” Người Cừu hỏi.

“Không, ngay sau khi tôi tìm thấy bạn tôi hoặc con cừu, tôi sẽ đi. Tôi đến đây vì họ.”

“Mùa đông ở đây thật đẹp,” Người Cừu nhắc lại.

“Trắng xóa lấp lánh. Mọi thứ đều đóng băng.”

Người Cừu cười khúc khích với chính mình, lỗ mũi hắn phồng tướng lên. Hàm răng xỉn thò ra từ miệng, hai chiếc răng cửa không còn. Có gì đó không đồng đều trong nhịp suy nghĩ của Người Cừu, điều này khiến cả căn phòng dường như nở ra rồi co lại.

“Tôi phải đi thôi,” Nguời Cừu đột ngột nói. “Cám ơn vì mấy bao thuốc.”

Tôi gật đầu.

“Hy vọng anh sẽ mau chóng tìm thấy bạn anh và con cừu đó.”

“Hừm,” tôi nói. “Nếu anh biết gì thì hãy báo cho tôi.”

Người Cừu cứ ấp a ấp úng, không thoái mái. “Ừm mà được rồi chắc chắn rồi.”

Tôi cố nén cười. Người Cừu là một kẻ không giỏi nói láo.
Hắn đeo găng tay vào và đứng dậy đi. “Tôi sẽ quay trở lại. Không nói được là bao nhiêu ngày nữa nhưng tôi sẽ quay trở lại.” Rồi mắt hắn mờ đi. “Không làm phiền anh chứ?”

“Anh đùa đấy à?” tôi vội lắc đầu. “Tất nhiên là không rồi, tôi muốn gặp lại anh.”

“Chúng tôi sẽ quay trở lại.” Người Cừu nói, rồi đóng sầm cánh cửa sau mình. Đuôi hắn suýt nữa bị kẹp, nhưng nó lách qua bình an vô sự.

Qua một khe cửa chớp, tôi quan sát Người Cừu đứng nhìn chằm chằm vào cái hộp thư quét vôi trắng bong tróc, hệt như khi hắn xuất hiện lần đầu tiên. Rồi hơi ngọ nguậy chút để chỉnh lại bộ đồ cho vừa với cơ thể, hắn nhanh chân băng qua đồng cỏ tới khu rừng phía Đông. Đôi tai chĩa ngang của hắn trông như cầu nhảy ở bể bơi. Càng lúc càng xa. Người Cừu trở thành một chấm trắng mờ nhạt, cuối cùng hòa với màu trắng của rừng cầy bu lô.

Ngay cả sau khi Người Cừu đã mất hút, tôi vẫn cứ nhìn chằm chằm vào đồng cỏ và rừng bu lô. Người Cừu có phải là một ảo ảnh không?

Tuy nhiên vẫn còn một chai whisky và đầu mẩu thuốc lá Seven Stars trên bàn, và ở đó trên xô pha là mấy sợi lông cừu. Tôi so sánh chúng với lông cừu từ ghế sau của chiếc Land Cruiser. Giống hệt nhau.

Như một cách để tập trung suy nghĩ, tôi vào bếp làm món bò nướng kiểu Salisbury. Tôi băm nhỏ một củ hành tây rồi phi hành trên chảo. Trong lúc đó, tôi rã đông một miếng thịt bò từ ngăn đá, rồi xay thịt bằng cối xay loại vừa. Căn bếp có thể được gọi là nhỏ gọn, nhưng dù vậy nó không phải chỉ có những đồ dùng và gia vị thông thường.

Giá như họ làm đường đến đây, người ta có thể mở một nhà hàng kiểu nhà gỗ nhỏ trên núi. Sẽ không tồi đâu, cửa sổ mở rộng, nhìn ra đàn cừu, trời xanh ngắt. Các gia đình có thể để bọn trẻ chơi với cừu, tình nhân có thể tản bộ trong rừng bu lô. Chắc chắn sẽ thành công.

Chuột có thể quản lý nhà hàng, tôi có thể nấu nướng. Người Cừu cũng có thể phù hợp cho một việc gì đó. Bộ quần áo của hắn sẽ hoàn hảo đối với chốn núi non này. Và để thêm chút thực tế, không viển vông, người trông nom trại cừu có thể hợp tác với chúng tôi; người ca cần một người có óc thực tế. Cả con chó nữa. Ngay cả Giáo sư Cừu cũng có thể tạt vào thăm.

Trong khi bác trứng bằng một chiếc xẻng gỗ, tôi điểm qua điểm lại những ý nghĩ này trong đầu.

Nhưng cô bạn gái có đôi tai tuyệt đẹp của tôi – liệu tôi có vĩnh viễn mất cô? Ý nghĩ này khiến tôi buồn, mặc dù những gì Người Cừu nói có thể đúng. Lẽ ra tôi nên đến đây một mình. Lẽ ra tôi không nên… Tôi lắc đầu. Rồi tôi nối lại tiếp tục ý nghĩ dang dở về nhà hàng.

Mà, nếu như chúng tôi có thể kéo được J đến đây, tôi chắc chắc mọi thứ sẽ ổn thôi. Anh sẽ là trung tâm của kế hoạch này. Trong khi đợi hành nguội, tôi ngồi cạnh cửa sổ nhìn chăm chăm ra đồng cỏ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 20:22:33 | Xem tất
Chương 36: Con Đường Lớn Rất Riêng Của Gió


Ba ngày trôi qua không có biến cố gì. Không một điều gì xảy ra. Người Cừu không đến. Tôi nấu nướng, ăn uống, đọc sách, và khi mặt trời lặn, tôi uống whisky rồi đi ngủ.

Không khí buổi sáng nơi đồng cỏ ngày càng lạnh hơn. Ngày qua ngày, đám lá bu lô vàng rực trở nên lốm đốm khi những cơn gió đông đầu tiên lách qua những cành cây khô héo và băng qua cao nguyên sang phía Đông Nam. Dừng bước giữa cánh đồng, tôi có thể nghe thấy rõ ràng tiếng gió. Không quay lại, chúng tuyên bố vậy. Mùa thu ngắn ngủi đã qua.

Không tập luyện và không hút thuốc, tôi nhanh chóng tăng ba cân. Thế là tôi bắt đầu dậy lúc sáu giờ và chạy bộ nửa vòng theo hình trăng lưỡi liềm quanh đồng cỏ. Nhờ vậy mà tôi giảm mấy cân. Không thuốc thì cũng gay đấy, nhưng không có một cửa hàng nào trong bán kính ba mươi hai cây số thì biết làm gì đây? Mỗi lần thèm thuốc, tôi nghĩ đến cô và đôi tai cô. So với mọi thứ tôi đã mất đến nay, không có thuốc hút chỉ là chuyện vặt. Và trên thực tế đúng như vậy.

Rảnh rỗi thế nên tôi bày ra nấu nướng đủ món. Tôi làm món bò nướng. Tôi rã đông một con cá hồi rồi ướp gia vị. Tôi tìm trên đồng cỏ những rau cỏ ăn được rồi ninh những gì tìm được với cá ngừ khô và nước tương. Tôi muối bắp cải theo cách đơn giản. Tôi chuẩn bị nhiều thức ăn nhẹ phòng khi Người Cừu đến uống rượu. Tuy nhiên, Người Cừu không bao giờ đến.

Hầu hết các buổi chiều tôi giết thời gian bằng cách nhìn ra đồng cỏ. Chẳng bao lâu tôi bắt đầu thấy ảo ảnh. Một bóng hình xuất hiện từ rừng cây bu lô và chạy thẳng về hướng tôi. Thường thì đó là Người Cừu, nhưng thỉnh thoảng đó là Chuột, đôi khi là bạn gái tôi. Những lần khác đó là con cừu có ngôi sao trên lưng.

Nhưng rốt cuộc, không ai xuất hiện cả. Chỉ có gió thổi qua đồng cỏ. Như thể đồng cỏ là con đường lớn rất riêng của gió. Gió lướt nhanh qua đồng cỏ, không bao giờ ngoái lại như đang thực hiện một nhiệm vụ cực kỳ khẩn cấp.

Vào ngày thứ bảy sau khi tôi lên núi, tuyết rơi lần đầu tiên. Gió lặng một cách bất thường vào buổi sáng, bầu trời âm u với những đám mây dày đặc xám như chì. Sau khi chạy và tắm sáng, tôi ngồi uống cà phê và nghe đĩa, thế rồi tuyết bắt đầu rơi. Một trận tuyết khắc nghiệt. Tuyết nện thình thịch tới tấp vào ô kính cửa sổ. Gió trở nên mạnh hơn, khiến tuyết rơi chéo một góc ba mươi độ. Giống như những đường xiên chéo của một mẩu giấy bọc quà ở cửa hàng bách hóa. Chẳng bao lâu bão mạnh hơn và mọi thứ bên ngoài ngập trong màu trắng. Cả rặng núi và khu rừng bị che khuất. Đây không phải là thứ tuyết thảm hại như thỉnh thoảng vẫn rơi ở Tokyo. Đây mới đúng là trận tuyết thật sự, một trận tuyết đích thực nơi đất Bắc. Một trận tuyết bao phủ mọi thứ và làm đông cứng tận sâu trong lòng đất.

Tuyết trắng lóa cả mắt. Tôi kéo rèm và nằm cuộn tròn bên máy sưởi đọc sách. Đĩa hát kết thúc, kim nhích lên, rồi tất cả chìm trong yên lặng. Loại yên lặng theo liền sau cái chết của mọi sự sống. Tôi đặt sách xuống bàn và không hiểu sao cảm thấy mình phải đi quanh ngôi nhà. Từ phòng khách vào trong bếp, kiểm tra buồng kho, buồng tắm và hầm rượu, lên gác mở cửa tất cả các phòng. Tất nhiên là không có ai. Chỉ có sự yên lặng như dầu chảy vào trong mọi ngóc ngách. Chỉ có sự yên lặng hầu như không thay đổi gì từ phòng này qua phòng khác.

Tôi thấy đơn độc. Có lẽ đơn độc hơn bất cứ lúc nào trong cả đời mình.

Tôi thèm thuốc đến chết được đã hai ngày nay, nhưng vì không có thuốc, tôi uống rượu suông. Cứ thế này suốt mùa đông thì tôi rốt cuộc sẽ thành thằng nghiện rượu mất. Nói vậy không có nghĩa có đủ rượu quanh đây để mà nghiện ngập. Ba chai whisky, một chai brandy, mười hai thùng bia lon, vậy thôi. Rõ ràng Chuột cũng từng nảy ra ý nghĩ tương tự.

Liệu tay đối tác của tôi, đúng hơn là, đối tác cũ của tôi, có còn rượu chè be bét? Liệu hắn có gắng tổ chức công ty một cách hiệu quả, chuyển nó thành một công ty dịch thuật hồ như tôi đã gợi ý? Có thể hắn đã làm y như thế. Nhưng liệu hắn có thể thành công mà không có tôi, như hắn đã lo ngại không? Thời gian chúng tôi làm việc cùng nhau đã hết. Sáu năm cùng nhau, và giờ không lại hoàn không.

Đến đầu giờ chiều tuyết ngừng rơi. Ngừng đột ngột, hệt như lúc bắt đầu. Màn mây dày đặc bị xé toạc lỗ chỗ khi các cột ánh sáng lớn đâm thẳng xuống lấp lánh trên đồng cỏ. Cảnh tượng thật lộng lẫy.

Tuyết cứng nằm rải rác trên đất như kẹo. Chúng đông đặc lại thành cục nhỏ như thể từ chối không chịu tan. Tuy vậy, lúc đồng hồ điểm ba tiếng, tuyết đã tan hết. Mặt đất ướt nhẹp, hoàng hôn bao phủ khắp cánh đồng trong màn ánh sáng dịu nhẹ. Chim hót như được xổ lồng.

Sau bữa tối, tôi mượn hai cuốn sách trong phòng Chuột, cuốn Làm bánh mì và cuốn tiểu thuyết của Conrad, rồi thư giãn trên xô pha trong phòng khách. Đọc được một phần ba cuốn tiểu thuyết, rồi bắt gặp một mẩu báo cỡ khoảng mười centimet vuông Chuột dùng để đánh dấu sách. Không ngày tháng, nhưng nhìn màu giấy thì thấy chắc hẳn đó là tờ báo mới đây. Đó là tin tức địa phương, một hội nghị chuyên đề về lão hóa và xã hội được tổ chức tại khách sạn Sapporo, một cuộc tập hợp biểu tình tại nhà ga gần Asahikawa, một buổi thuyết trình về khủng long Trung Đông. Không gì thu hút sự chú ý của Chuột, hay của tôi. Mặt sau, rao vặt quảng cáo. Tôi ngáp, gấp sách lại, đi hâm nóng chỗ cà phê còn thừa.

Tôi bỗng nhận ra đây là lần đầu tiên, trong quãng thời gian tưởng chừng như bao nhiêu năm, tôi mới lại nhìn thấy một tờ báo, và tôi đã bị tụt lại đằng sau cả một tuần liền không biết đến những gì đang xảy ra trên thế giới. Một tên lửa hạt nhân có thể đã tàn phá Tokyo, một cơn bệnh dịch có thể đã quét sạch cả thế giới, người sao Hỏa có thể đã chiếm đóng nước Úc, tôi cũng không hay biết. Tất nhiên chiếc Land Cruiser trong ga ra có đài, nhưng tôi phát hiện ra rằng rốt cuộc tôi không hề có ham muốn thôi thúc đi nghe đài. Nếu có điều gì đó xảy ra thật mà tôi không hay biết thì cũng chẳng sao. Tôi không thật sự cần biết. Dù sao tôi cũng còn khối việc phải bận tâm rồi.

Một cái gì đó khiến tôi bứt rứt. Một cái gì đó đã diễu qua trước mắt tôi mà tôi ngu ngốc không nhận thấy. Dẫu vậy, trên bình diện vô thức, nó vẫn được ghi nhớ. Tôi đặt cốc cà phê vào chậu rửa rồi quay lại phòng khách. Tôi xem lại mẩu báo. Ở đó trên mặt sau ghi:

Gửi: Chuột

Hãy liên lạc. Khẩn!

Khách sạn Cá Heo, Phòng 406

Tôi kẹp mẩu báo vào trong cuốn sách rồi ngồi thụt xuống xô pha.

Vậy là Chuột biết tôi đi tìm hắn. Câu hỏi là: làm sao hắn tìm thấy mẩu tin? Do tình cờ chăng, khi hắn xuống núi? Hay có thể hắn đã tìm kiếm cái gì đó qua mấy tuần báo liền?

Vậy tại sao hắn không liên lạc với tôi? Có phải tôi đã rời khách sạn Cá Heo khi hắn tình cờ đọc được mẩu tin? Có phải đường dây điện thoại của hắn bị cắt đứt?

Không. Chuột đã có thể liên lạc lại nếu hắn muốn, chỉ là hắn không muốn thôi. Vì tôi ở khách sạn Cá Heo, hắn đã đoán là tôi sẽ tìm đường lên đây, vì thế nếu hắn muốn gặp tôi, hắn chỉ phải đợi thôi, hoặc ít nhất cũng để lại lời nhắn.

Chung quy là thế này: vì lý do nào đó Chuột không muốn giáp mặt tôi. Dù vậy, hắn cũng không từ chối tôi.

Nếu hắn không muốn tôi ở đây, hắn đã có thể không cho tôi vào bằng nhiều cách. Xét cho cùng, đây là nhà của hắn.

Trong khi đánh vật với hai định đề trên, tôi nhìn chiếc kim dài chậm chạp bò quanh mặt đồng hồ. Sau một hồi quanh đi quẩn lại, lập luận của tôi không tiến triển được đến đâu. Tôi không thể hiểu được cốt lõi của tất cả điều này là gì.

Người Cừu biết gì đó. Điều đó là chắc chắn rồi. Người nào đã theo dõi cảnh tôi đến đây thì chắc chắn cũng biết Chuột sống ở đây trong sáu tháng.

Thực ra, có vẻ như hành vi của Người Cừu phản ánh ý nguyện của Chuột. Người Cừu đã lái xe đưa bạn gái tôi rời núi và để tôi lại đây một mình. Việc hắn có mặt ở đây rõ ràng là báo hiệu điều gì đó. Một điều gì đó đang được xúc tiến quanh tôi. Ta có thể linh cảm thấy ở khắp nơi. Một điều gì đó sắp diễn ra.

Tôi tắt đèn rồi đi lên gác, trèo vào giường, nhìn ra ánh trăng và đồng cỏ. Những vì sao hé nhìn qua một vết rạch trong mây. Tôi mở cửa sổ và ngửi mùi không khí ban đêm. Trong đám lá cây xào xạc tôi có thể nghe một tiếng kêu xa xa. Một tiếng kêu kỳ lạ, không phải chim cũng không phải thú.
Tôi tỉnh dậy rồi chạy trên đồng cỏ, đi tắm, rồi ăn sáng. Một buổi sáng như những buổi sáng khác. Bầu trời âm u như ngày hôm trước, nhưng nhiệt độ đã tăng lên một chút, ít khả năng sẽ có tuyết.

Mặc quần bò, áo len và áo khoác, rồi đi giày thể thao, tôi băng qua đồng cỏ. Hướng về khu rừng phía Đông nơi tôi trông thấy Người Cừu biến mất, tôi đi vào một bụi cây. Không có con đường thật sự nào đáng nói, không dấu hiệu nào của cuộc sống loài người. Thi thoảng, có một cây bu lô già bị đổ.
Nền rừng phẳng, trừ một đường trũng rộng gần một mét, giống như nền suối đã cạn khô hay một con mương bị bỏ hoang. Đường trũng này chạy ngoằn ngoèo qua rừng đến mấy cây số. Có chỗ xuống thấp sâu, có chỗ nông choèn, thành một lớp sâu đến mắt cá chân lá rụng.

Đường trũng dẫn đến một lối đi ngoằn ngoèo trên núi, hai bên đường dốc thoai thoải xuống những thung lũng nhỏ khô cạn. Những con chim béo múp lệt quệt trên đám lá để qua đường, biến mất trong tầng cây thấp. Đây đó, những bụi đỗ quyên cháy lên một màu đỏ rực.

Tôi đi loanh quanh một tiếng đồng hồ và mất hết cảm giác phương hướng. Cứ thế này thì tôi sẽ không tìm thấy Người Cừu mất. Tôi lang thang quanh đáy một thung lũng nhỏ khô cạn cho tới khi nghe thấy tiếng thác nước. Tôi tìm ra dòng sông, rồi đi xuôi dòng. Nếu tôi nhớ đúng thì có một thác nước, và gần đó là con đường chúng tôi đã đi lên.

Sau khoảng mười phút, tôi gặp thác nước. Nước bắn tung tóe khi đập vào những tảng đá trong hẻm núi bên dưới, đổ ụp xuống thành những vực nước đông cứng. Không có dấu hiệu nào là có cá, mặc dù vài chiếc lá rụng vẽ ra những vòng tròn tỏa nhè nhẹ trên mặt các vực nước. Tôi nhảy từ hòn đá này qua hòn đá khác, đi dưới ngọn thác, rồi bò lên phía bờ trơn tuột đối diện. Tôi đã lên tới đường.

Ngồi trên thành cầu, đang quan sát tôi, là Người Cừu. Một túi củi lớn bằng vải buồm treo trên vai hắn.

“Cứ đi lang thang nhiều như thế anh sẽ thành mồi cho gấu đấy,” Người Cừu nói. “Anh biết đấy chắc chắn có một con ở những nơi như thế này. Chiều hôm qua tôi thấy dấu vết nó. Nếu anh phải đi thì anh nên buộc một cái chuông lên hông như chúng tôi.”

Người Cừu rung một cái chuông nhỏ được cài vào hông bằng kim băng.

“Tôi đi tìm anh mãi,” tôi nói sau khi nghỉ lấy hơi.

“Tôi biết,” Người Cừu nói. “Tôi thấy anh đi tìm.”

“Vậy sao anh không gọi?”

“Anh là người muốn đi tìm tôi. Vậy nên tôi phải kìm nén lại.”

Người Cừu lôi một điếu thuốc ra khỏi túi rồi hút với vẻ đầy khoái chí. Tôi ngồi xuống cạnh hắn.

“Anh sống ở gần đây à?”

“Hừm.” Người Cừu nói. “Nhưng đừng cho ai biết. Không ai biết được.”

“Nhưng bạn tôi biết hết về anh.”

Yên lặng.

“Và nếu anh là bạn của bạn tôi, điều đó có nghĩa chúng ta là bạn, đúng không?”

“Chắc vậy,” Người Cừu thận trọng đáp. “Có lẽ là như vậy.”

“Và nếu anh là bạn tôi, anh sẽ không nói dối tôi, đúng không? Cứ nghĩ mà xem.”

“Ô không,” một Người Cừu bối rối trả lời. Hắn liếm đôi môi khô nẻ. “Tôi không thể nói cho anh được tôi thật sự xin lỗi tôi không thể nói cho anh được tôi không thể. Tôi không được phép nói.”

“Ai đó đã đề nghị anh phải giữ yên lặng à?”

Người Cừu im thin thít. Gió rít qua những hàng cây không hoa trái.

“Làm gì có ai ở quanh đây mà nghe,” tôi thì thầm.

Người Cừu nhìn thẳng vào mắt tôi. “Anh không biết tí gì về đường sá của chúng tôi ở đây đúng không?”

“Không, tôi không biết.”

“Vậy thì nghe này đây không phải là nơi thông thường để mà lui đến đâu. Điều đó anh nên ghi nhớ.”

“Nhưng mới hôm nọ anh còn nói với tôi đây là một nơi thật đẹp mà.”

“Đối với chúng tôi thì đúng thế,” Người Cừu nói. “Đối với chúng tôi đây là nơi duy nhất để sinh sống. Nếu chúng tôi bị đuổi khỏi đây chúng tôi không biết đi đâu.”

Đến đó Người Cừu ngừng lại. Hắn không nói thêm lời nào về chủ đề đó. Tôi nhìn túi củi bằng vải buồm của hắn. “Cái đó là để làm chất đốt trong mùa đông à?”

Người Cừu gật đầu lặng lẽ.

“Nhưng tôi không trông thấy tí khói nào.”

“Chưa nhóm lửa đâu. Phải đợi đến khi tuyết rơi nhiều. Nhưng ngay cả sau khi tuyết rơi nhiều anh cũng không thể trông thấy khói từ ngọn lửa của chúng tôi. Chúng tôi có cách nhóm lửa đặc biệt.” Hắn ngoác miệng cười tự mãn.
“Vậy khi nào tuyết bắt đầu chất đống ở quanh đây?”

Người Cừu nhìn trời, rồi nhìn tôi. “Năm nay tuyết sẽ tới sớm. Có thể trong mười ngày tới.”

“Trong mười ngày tới đường sá sẽ đóng băng à?”

“Có thể lắm. Không ai đi lên và cũng không ai đi xuống. Thời gian tuyệt vời trong năm.”

“Vậy anh sống ở đây bao lâu rồi?”

“Lâu rồi,” Người Cừu nói. “Lâu lắm rồi.”

“Anh ăn những gì?”

“Thì củ măng quả hạnh chim chóc bất cứ thứ cua cán hỏ gì tôi có thể bắt được.”

“Anh không lạnh à?”

“Mùa đông thì phải lạnh rồi.”

“Nếu anh cần thì tôi sẵn lòng chia sẻ với anh bất cứ thứ gì tôi có.”

“Cám ơn nhưng giờ tôi vẫn ổn”

Người Cừu bỗng nhiên đứng dậy và bắt đầu đi về hướng đồng cỏ. Tôi liền đứng dậy theo hắn.

“Tại sao anh phải trốn tránh ở tận đây?”

“Anh sẽ cười nếu tôi nói anh biết,” Người Cừu nói.

“Không, tôi thề là sẽ không cười,” tôi nói. “Tôi không thể hình dung có gì để mà cười.”

“Anh sẽ không nói với ai chứ?”

“Tôi sẽ không nói với ai.”

“Tôi không muốn ra chiến trận.”

Mấy phút sau đó, chúng tôi bước đi mà không nói với nhau một lời nào.

“Chiến trận với ai?” tôi hỏi.
“Không biết nữa,” Người Cừu ho húng hắng. “Nhưng tôi không muốn đi. Dù sao chăng nữa đó là lý do tôi là cừu. Một con cừu ở lại đúng chỗ của nó ở đây.”

“Anh quê ở Junitaki-cho à?”

“À há nhưng đừng nói với ai đấy.”

“Tôi sẽ không nói,” tôi nói. “Anh không thích thị trấn à?”

“Thị trấn ở dưới kia ấy à?”

“Đúng thế.”

“Không thích chút nào. Cũng đầy những lính là lính,” Người Cừu lại ho tiếp. “Anh quê đâu?”

“Tokyo.”

“Cón ghe nói về chiến tranh không?”

“Không.”

Đến đó Người Cừu có vẻ không quan tâm đến tôi nữa. Hắn giữ yên lặng cho tới khi chúng tôi đến cổng vào đồng cỏ.

“Anh muốn ghé qua ngôi nhà không?” tôi hỏi Người Cừu.

“Phải đi kiếm dự trữ cho mùa đông đây,” hắn nói. “Bận lắm. Có lẽ để lần sau.”

“Tôi muốn gặp bạn tôi,” tôi nói. “Tôi có việc bắt buộc phải gặp anh ấy vào tuần tới.”

Người Cừu lắc đầu một cách buồn bã. Tai hắn đập phần phật. “Xin lỗi nhưng như tôi đã nói trước điều đó không phụ thuộc vào chúng tôi.”

“Thôi, vậy thì, nếu có thể thì nhờ anh chuyển lời.”

“Hừm.” Người Cừu nói.

“Cám ơn nhiều nhé,” tôi nói. Tôi quay bước đi.

“Nếu anh đi ra ngoài,” Người Cừu gọi với theo trong lúc bỏ đi, “nhớ đừng quên cái chuông.”

Tôi quay thẳng lại ngôi nhà trong lúc Người Cừu biến mất vào khu rừng phía Đông, hệt như lúc trước. Một đồng cỏ xanh tĩnh lặng của mùa đông tối tăm trải dài giữa hai chúng tôi.

Chiều hôm đó tôi làm bánh mì. Cuốn Làm bánh mì của Chuột chứng tỏ là một cuốn sách dạy nấu ăn được viết cẩn thận. Trên bìa sách ghi: “Bạn biết đọc thì bạn cũng biết làm bánh mì.” Không hề phóng đại. Mùi bánh mì tỏa khắp nhà, khiến căn nhà ấm hơn. Đối với một người lần đầu nướng bánh thì bánh có vị cũng không đến nỗi nào. Có khối bột mì và men trong bếp, đủ để làm bánh cả mùa đông dài, nếu rốt cuộc tôi phải ở lại. Và nhiều gạo và mì ống đến độ tôi chẳng cần phải bận tâm.

Tối hôm đó tôi ăn bánh mì, xa lát, thịt muối hun khói và trứng, tráng miệng bằng món đào đóng hộp, tảo biển và nấm.

Bữa trưa thì có bánh pho mát trong ngăn đá tủ lạnh và trà sữa đặc.

Vào bữa ăn nhẹ, tôi tự thưởng cho mình kem hạt phỉ rưới rượu Cointreau.

Vào buổi tối, thịt gà nướng và một hộp xúp hiệu Campbell.

Tôi lại tăng cân.

Vào đầu buổi chiều ngày thứ chín, trong khi đang xem qua tủ sách, tôi chú ý đến một cuốn sách có vẻ mới được đọc gần đây. Đó là cuốn sách duy nhất không có bụi, gáy sách hơi thò ra ngoài một chút so với số sách còn lại.

Tôi lôi nó ra và ngồi trên ghế dài phòng khách giở nhanh cuốn sách. Di sản chủ nghĩa Liên Á. Xuất bản thời chiến tranh. Giấy rẻ tiền và bốc mùi hôi khi tôi lật các trang. Nội dung thì, như ta có thể đoán trước về một ấn phẩm thời chiến, phiến diện khủng khiếp. Lại chán chết nữa; cứ ba trang lại có một cái gì đó đáng để mà ngáp. Trên một số trang có những từ đã bị gạch đi. Không một dòng nào nói về sự kiện ngày 26 tháng Hai.

Nhét gần cuối sách là một tờ giấy vở trắng. Sau những trang sách ngả vàng, tờ giấy màu trắng ấy xuất hiện như một điều kì diệu. Nó đánh dấu, trên lề phải, một bản phụ lục cho cuốn sách. Một danh sách tên, ngày tháng năm sinh, địa chỉ thường trú của tất cả những người nổi tiếng lẫn vô danh đi theo cái được gọi là chủ nghĩa Liên Á. Tôi đọc lướt danh sách từ đầu chí cuối, và ở khoảng giữa là Ông Chủ. Chính cái Ông Chủ bị “cừu nhập” mà tôi đã được mang đến đây nhân danh ông ta. Địa chỉ thường trú của ông ta, Hokkaido – Junitaki-cho.

Quá kinh ngạc, tôi đặt cuốn sách lên lòng. Đầu óc tôi thậm chí không thể nghĩ ra được từ ngữ nào. Như thể người nào đó, hoặc một cái gì đó, vừa giáng cho tôi một đòn chí mạng từ đằng sau.

Làm sao tôi lại không luận ra được kia chứ? Lẽ ra tôi phải nghĩ đến điều đó ngay từ đầu. Ngay khi biết được Ông chủ xuất thân từ tầng lớp nông dân nghèo ở Hokkaido đáng lẽ ra tôi phải kiểm tra chi tiết đó. Cho dù Ông Chủ có cố gắng giũ bỏ quá khứ của mình khéo léo đến mấy, chắc hẳn phải có cách nào để tìm ra sự thật. Tay thư ký mặc bộ com lê đen chắc chắn sẽ tìm thông tin đó cho tôi.

Mà không, có thể là không.

Tôi lắc đầu.

Đời nào có chuyện ông ta không tự mình kiểm tra thông tin đó. Ông ta đâu có bất cẩn đến thế. Ông ta hẳn đã phải kiểm tra mọi góc độ có thể, dù có phức tạp hay không. Hệt như cách ông ta đã nghiên cứu về tôi.

Vậy là ông ta đã biết tất cả mọi thứ.

Điều đó là không thể bàn cãi. Tuy vậy, ông ta đã bỏ bao công sức để thuyết phục tôi, hoặc đúng hơn là hăm dọa tôi, để tôi lên đây. Tại sao kia chứ? Nếu đó là một việc cần làm, chắc chắn ông ta ở vào một vị thế tốt hơn để thực hiện nó và thực hiện một cách xuất sắc. Và nếu vì một lý do nào đấy tôi là một con tốt, tại sao ông ra không nói cho tôi biết tên của chỗ này ngay từ đầu?

Trong lúc xem xét tỉ mỉ nỗi băn khoăn của mình, tôi bắt đầu giận điên lên. Càng lúc chuyện này càng biến thành một vở hài kịch lố bịch kỳ cục đầy những rủi ro, và tôi không nghĩ nó đáng cười. Chuột biết nhiều đến mức nào? Và nhân tiện hỏi luôn, người đàn ông mặc bộ com lê màu đen đó biết nhiều đến mức nào? Cái thằng tôi đây, ở ngay trung tâm của mọi thứ mà không có lấy một manh mối. Khắp mọi nơi mọi lúc, tôi đã quá sai lầm, quá sơ suất. Tất nhiên, người ta cũng có thể nói như vậy về cả cuộc đời tôi. Theo nghĩa đó, tôi cho rằng tôi không thể đổ lỗi cho một ai. Dẫu vậy, ai cho bọn họ cái quyền đối xử với tôi như thế này? Tôi đã bị lợi dụng, bị đánh cho tơi bời, bị vắt kiệt sức.

Tôi sẵn sàng cao chạy xa bay khỏi ngọn núi này, nhưng vì một lý do nào đó việc ấy không làm tôi thỏa mãn. Tôi đã bị lún quá sâu. Giá mà tôi có thể khóc được thì thật dễ dàng biết bao. Nhưng khóc lóc để làm gì cơ chứ, vì tôi có cảm giác rằng sắp tới đây còn có việc đáng than khóc hơn.
Tôi vào bếp lấy ra một chai whisky. Tôi không thể nghĩ đến gì khác ngoài uống rượu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách