Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 2640|Trả lời: 47
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại] Cuộc Săn Cừu Hoang | Haruki Murakami (Hết)

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 5-7-2014 16:36:41 | Xem tất |Chế độ đọc
Đăng ký tác phẩm: Cuộc Săn Cừu Hoang

Tác giả: Haruki Murakami

Thể loại: Tiểu Thuyết

Dịch giả: Minh Hạnh

Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành

NGUỒN

Ngày xuất bản: N/A

Nhà xuất bản: N/A
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 16:38:19 | Xem tất
Mục Lục


Giới Thiệu

Phần I: Khúc Dạo Đầu - Chương 1: Picnic Chiều Thứ Tư

Phần II: Tháng Bảy, Tám Năm Sau - Chương 2: Mười Sáu Bước

Chương 3: Chiếc Váy Ngủ

Phần III: Tháng Chín, Hai Tháng Sau - Chương 4: Dương Vật Cá Voi Và Người Đàn Bà Làm Ba Nghề

Chương 5: Đôi Tai Không Bịt Kín

Chương 6: Những Cuộc Phiêu Lưu Tiếp Theo Của Đôi Tai Không Bịt Kín

Phần IV: Cuộc Săn Cừu Hoang - Chương 7: Trước Người Đàn Ông Lạ Mặt

Chương 8: Giờ Là Người Đàn Ông Lạ Mặt

Chương 9: “Ông Chủ”

Chương 10: Đếm Cừu

Chương 11: Chiếc Limousine Và Người Lái Xe

Chương 12: Nơi Vũ Trụ Của Loài Sâu

Phần V: Những Lá Thư Của Chuột Và Các Kỷ Niệm Tạp Nhạp - Chương 13: Lá Thư Thứ Nhất Của Chuột

Chương 14: Lá Thư Thứ Hai Của Chuột

Chương 15: Bài Hát Đã Chấm Dứt

Chương 16: Cô Ta Uống Một Ly Salty Dog, Nói Chuyện Về Tiếng Sóng

Phần VI: Cuộc Săn Cừu Hoang, II - Chương 17: Câu Chuyện Lạ Kỳ Của Người Đàn Ông Lạ Mặt

Chương 18: Câu Chuyện Kỳ Lạ Của Người Đàn Ông Lạ Mặt Tiếp Diễn

Chương 19: Lại Chuyện Chiếc Xe Limousine Và Người Lái Xe

Chương 20: Cuối Hè, Đầu Thu

Chương 21: Một Trong Số Năm Ngàn

Chương 22: Buổi Picnic Chiều Chủ Nhật

Chương 23: Tư Tưởng Hạn Chế Nhưng Ngoan Cường

Chương 24: Một Chương Cho Cá Trích

Phần VII: Công Vụ Ở Khách Sạn Cá Heo - Chương 25: Dịch Chuyển Hoàn Thành Tại Rạp Chiếu Phim; Đến Khách Sạn Cá Heo

Chương 26: Giáo Sư Cừu Xuất Hiện

Chương 27: Giáo Sư Cừu Ăn Hết, Kể Hết

Chương 28: Tạm biệt khách sạn cá heo

Phần VIII: Cuộc Săn Cừu Hoang, III - Chương 29: Sự Ra Đời, Hưng Thịnh Và Suy Vong Của Huyện Junitaki

Chương 30: Lần Suy Vong Tiếp Theo Của Junitaki Và Lượng Cừu Của Nó

Chương 31: Đêm Ở Junitaki

Chương 32: Một Khúc Ngoặt Không May Trên Đường

Chương 33: Nàng Rời Núi; Cơn Đói Hành Hạ

Chương 34: Khám Phá Trong Ga Ra; Những Ý Nghĩ Giữa Đồng Cỏ

Chương 35: Người Cừu Tới

Chương 36: Con Đường Lớn Rất Riêng Của Gió

Chương 37: Những Điều Gương Phản Chiếu, Những Điều Không

Chương 38: Và Thế Là Thời Gian Trôi Đi

Chương 39: Những Kẻ Sống Trong Bóng Tối

Chương 40: Chuột, Người Lên Dây Đồng Hồ

Chương 41: Dây Xanh Với Dây Đỏ; Những Con Mòng Biển Lạnh Cóng

Chương 42: Thăm Lại Khúc Ngoặt Không May

Chương 43: Cuộc Hẹn Lúc Mười Hai Giờ

Phần Kết
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 16:40:04 | Xem tất
Giới Thiệu


Nhật Bản những năm 80 của thế kỷ trước, một nhân vật chính không tên, ly dị vợ, công việc nhiều tiền nhưng nhàm chán, thông minh nhưng đời lại chẳng có gì kích thích hắn nghĩ suy - Cuộc săn cừu hoang rõ ràng được đặt trên nền một thực tế quen thuộc của thời hiện đại. Một không khí hững hờ và uể oải theo người đọc vào cả một thế giới hoang đường, và không rời bỏ ngay cả khi câu chuyện diễn tiến đến những tình tiết gay cấn nhất của cuộc săn săn cừu hoang kỳ lạ, hay những đoản khúc gợi cảm u sầu với cô gái có đôi tai đẹp khác thường. Murakami đã hư cấu ngay trên nền thế giới thực và tạo nên một tiểu thuyết như mơ. Có lẽ tiểu thuyết nên được đọc theo cách ấy: như mơ một giấc thật sâu, đến mức dẫu phần lý trí trong ta vẫn biết là nó không có thật, nhưng khi tỉnh lại và tiếp tục sống đời mình, đâu đó trong tim ta vẫn vương vấn khôn nguôi.

Haruki Murakami, nhà văn Nhật Bản lừng danh, là tác giả nhiều tiểu thuyết thuộc hàng bán chạy nhất thế giới đồng thời nhận được sự đánh giá cao của giới phê bình nghiêm túc, “hàn lâm”. Nhiều tác phẩm của ông đã dịch ra tiếng Việt và được người đọc Việt Nam ưa thích, như Rừng Na Uy, Biên niên ký Chim vặn dây cót, Phía Nam biên giới phía Tây mặt trời, Kafka bên bờ biển, Người tình Sputnik, Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 16:48:13 | Xem tất
Phần I: Khúc Dạo Đầu - Chương 1: Picnic Chiều Thứ Tư


Đó là mẩu tin chỉ gồm một đoạn ngắn ngủn trên tờ tin tức buổi sáng. Một thằng bạn gọi điện và đọc mẩu tin đó cho tôi. Chẳng có gì đặc biệt cả. Chỉ là một mẩu tin do tay phóng viên non tay mới ra trường tập tọe viết cho quen.

Ngày tháng, tên góc phố, một người lái xe tải, một người đi bộ, một người chết, một cuộc điều tra về khả năng tai nạn xảy ra do bất cẩn.

Nghe giống như một bài thơ in ở tay gấp một cuốn tạp chí.

“Đám tang tổ chức ở đâu?” tôi hỏi.

“Ai biết được,” hắn đáp. “Nó có gia đình không?”

Tất nhiên là nàng có gia đình.

Tôi gọi điện đến đồn cảnh sát để tìm số điện thoại và địa chỉ nhà nàng, rồi tôi gọi điện đến nhà nàng để hỏi thêm chi tiết về đám tang.

Gia đình nàng sống trong một khu phố cổ ở Tokyo. Tôi lấy bản đồ ra đánh dấu dãy phố bằng mực đỏ. Chỗ nào cũng có đường tàu điện ngầm, tàu hỏa, xe buýt, tất cả chồng chéo lên nhau như một tấm mạng nhện méo mó, tạo thành một mê cung chằng chịt những con phố hẹp và rãnh nước thải.

Ngày đưa tang nàng, tôi bắt tàu điện đến Waseda. Gần đến bến cuối, tôi xuống tàu. Tấm bản đồ tôi mang theo chẳng giúp được gì mấy. Rốt cuộc, tôi phải mua hết bao thuốc này đến bao thuốc khác, mỗi lần mua thuốc là một lần hỏi đường.

Nhà nàng là một ngôi nhà gỗ có hàng rào gỗ màu nâu bao quanh. Trước khoảng sân nhỏ là một chum gốm đựng đầy nước mưa tù đọng. Nền đất tối tăm ẩm thấp.

Nàng bỏ nhà đi năm mười sáu tuổi. Đó có lẽ là lý do tại sao đám tang nàng lại thê lương đến thế. Chỉ có mấy người trong gia đình có mặt, đa số là người lớn tuổi. Anh trai nàng, mà cũng có khi là anh rể, trạc ba mươi tuổi, đứng ra làm chủ tang.

Cha nàng, một người đàn ông tầm thước trạc năm tư năm lăm, đeo băng tang đen trên cánh tay. Ông đứng cạnh lối vào, hầu như bất động. Ông khiến tôi nhớ đến hình ảnh một con phố sạch bong sau trận mưa tầm tã.

Lúc về, tôi lặng lẽ cúi đầu chào. Ông cũng cúi chào đáp lễ, không nói một lời.

Tôi gặp nàng vào mùa thu chín năm về trước, khi tôi hai mươi còn nàng mười bảy.

Hồi đó, gần trường đại học có một quán cà phê nhỏ nơi tôi thường tụ tập với bạn bè. Quán cà phê không có gì đặc biệt, nhưng nó phục vụ vài thứ không đổi: nhạc rock nặng và cà phê tồi.

Nàng luôn ngồi tại một chỗ cố định, khuỷu tay chống lên mặt bàn, đọc sách. Cặp kính cận của nàng – trông giống như cái niềng răng – và đôi tay gầy guộc khiến cho nàng có một vẻ gì đó thân thương. Lúc nào cốc cà phê của nàng cũng nguội ngắt, lúc nào gạt tàn của nàng cũng đầy đầu lọc.

Thứ duy nhất không luôn như cũ là mấy cuốn sách. Một lần, tôi thấy nàng đọc Mickey Spillane, lần khác là Kenzaburo Oe, lần khác nữa là Allen Ginsberg. Không quan trọng cuốn nào, miễn sách là được. Tụi sinh viên đến quán uống cà phê cho nàng mượn sách, nàng nghiến ngấu không sót một cuốn nào từ đầu đến cuối, kể cả bìa sách. Đọc ngấu đọc nghiến, như người ta gặm ngô. Ngày đó, người ta cho nhau mượn sách như một lẽ tất nhiên, và nàng chẳng bao giờ phải cố công đi lùng mua sách cả.

Đó là thời của những ban nhạc như The Door, The Stones, The Byrds, Deep Purple và The Moody Blues. Không gian tràn đầy nhựa sống, cho dù mọi thứ dường như đang ở bên bờ vực sụp đổ, chỉ đợi một cú hích mạnh nữa thôi.

Nàng và tôi thường cho nhau mượn sách, nói mãi không hết chuyện, cùng nhau uống thứ rượu whisky rẻ tiền, rồi làm tình với nhau, thứ tình dục chẳng có gì đáng nói. Bạn biết đấy, chuyện thường nhật ấy mà. Trong lúc đó, tấm màn khép vở đang rệu rã buông xuống những bước chân lê thê của thập kỷ sáu mươi.

Tôi không tài nào nhớ nổi tên nàng.

Tôi có thể lôi mẩu cáo phó ra để xem tên nàng, nhưng giờ thì việc đó có nghĩa gì đâu. Tôi đã quên tên nàng rồi.

Giả sử tôi có gặp mấy thằng bạn cũ và giữa chừng câu chuyện có nhắc đến nàng. Chắc cũng chẳng ai còn nhớ tên nàng. Ví dụ như một đứa nói, mày còn nhớ con nhỏ ngày xưa không, con nhỏ sẵn sàng lên giường với bất cứ thằng nào ấy, tao nhớ mặt nhưng quên béng tên nó rồi, mà tao ngủ với nó ối lần đấy, không biết con nhỏ đó giờ ra sao rồi, bây giờ mà bỗng nhiên gặp lại nó giữa đường thì chắc kỳ lắm.

“Con nhỏ ngày xưa sẵn sàng lên giường với bất cứ thằng nào”. Đó là tên nàng.


Nói cho đúng ra thì không phải ai nàng cũng ngủ cùng. Nàng có tiêu chuẩn riêng.
Nhưng, sự thật là, chỉ cần kiểm tra qua chút ít bằng chứng, người ta cũng thấy ngay là nàng thường sẵn sàng lên giường với hầu như bất cứ gã trai nào.

Có một lần, và chỉ một lần duy nhất, tôi hỏi nàng về mấy thứ tiêu chuẩn đó.

“Thôi được, nếu anh cứ khăng khăng muốn biết…”, nàng bắt đầu. Ba chục giây ngẫm nghĩ trôi qua. “Việc đó không giống như những người khác làm đâu. Đôi khi ý nghĩ lên giường với ai đó khiến em khó chịu. Nhưng anh biết không, có lẽ em muốn hiểu thêm về nhiều người khác nhau. Hoặc cũng có thể đó là cách giúp em nhận thức thế giới của mình”.

“Bằng cách ngủ với một ai đó ư?”

“À há”.

Giờ thì đến lượt tôi phải ngẫm nghĩ về điều nàng nói.

“Vậy cách đó có giúp em hiểu thêm điều gì không?” tôi hỏi nàng.

“Có chút chút”, nàng trả lời.

Đông qua rồi hè tới, tôi hầu như không gặp nàng nữa. Trường đại học bị phong tỏa và đóng cửa mấy lần. Về phần mình, tôi phải lo giải quyết mấy chuyện cá nhân.

Mùa thu năm sau, khi tôi quay trở lại quán cà phê cũ, đám khách quen đã hoàn toàn thay đổi. Nàng là khuôn mặt duy nhất tôi còn nhận ra được. Quán vẫn bật thứ nhạc rock xưa, nhưng không khí phấn khích ngày xưa giờ đã tan biến. Chỉ còn nàng và thứ cà phê dở tệ là vẫn thế. Tôi buông mình xuống chiếc ghế đối diện nàng, và chúng tôi nói chuyện về đám bạn cũ.

Hầu hết bọn họ đã bỏ học, đứa thì tự sát, đứa thì lặn mất tăm. Cứ nói những chuyện đại loại như vậy.

“Anh làm gì suốt cả năm qua?” nàng hỏi tôi.

“Linh tinh đủ thứ”, tôi đáp.

“Có khôn lên chút nào không?”

“Chút xíu thôi”.


Đêm đó, tôi ngủ với nàng lần đầu tiên.

o O o


Tôi hầu như chẳng biết gì về thân thế nàng. Những gì tôi biết có lẽ do ai đó kể cho, hay có lẽ nàng đã kể cho tôi khi chúng tôi bên nhau trên giường. Năm đầu trung học, nàng cãi vã với bố một trận kịch liệt rồi bỏ nhà đi (bỏ cả học nữa). Chuyện này thì tôi khá chắc. Còn chuyện chính xác nàng sống ở đâu, hoặc đã sống sót bằng cách nào thì chẳng ai biết.

Nàng thường ngồi lì cả ngày ở một quán cà phê nhạc rock nào đó, nhâm nhi hết tách cà phê này đến tách cà phê khác, hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, lật giở từng trang sách, chờ ai đó đến trả tiền cà phê và thuốc lá cho mình (một khoản không nhỏ với những đứa như tụi tôi ngày ấy) rồi cuối cùng lên giường với gã ta.

Vậy đấy. Đó là tất cả những gì tôi biết về nàng.

Kể từ mùa thu năm đó tới mùa xuân năm sau, tối thứ Ba tuần nào nàng cũng ghé qua căn hộ của tôi ở ngoại ô Mitaka. Nàng ăn hết sạch bất cứ món gì tôi nấu, vứt đầy đầu lọc thuốc lá trong gạt tàn của tôi rồi làm tình với tôi trong tiếng nhạc rock của chương trình FEN trên đài phát thanh to hết cỡ. Sáng thứ Tư, sau khi tỉnh dậy, hai đứa tôi đi bộ qua rừng đến khu học xá ICU rồi ăn trưa tại nhà ăn. Buổi chiều, chúng tôi uống một cốc cà phê loãng ở phòng sinh hoạt chung cho sinh viên, và nếu trời đẹp chúng tôi sẽ nằm dài trên bãi cỏ ngắm nhìn bầu trời.

Nàng gọi đó là những buổi picnic chiều thứ Tư của riêng hai đứa

“Mỗi lần mình đến đây, em đều có cảm giác như mình đang đi picnic”

“Vậy sao? Picnic ấy à?”

“Anh thấy đấy, mặt đất thì cứ trải dài tít tắp, mọi người ai trông cũng vui vẻ cả…”

Nàng ngồi dậy, phải quẹt mấy que diêm mới châm được thuốc.

“Mặt trời lên đỉnh bầu trời, rồi bắt đầu lặn xuống. Mọi người đến rồi đi. Thời gian cứ thế lướt qua. Cứ y như một buổi picnic vậy, anh thấy không?”
Ngày đó, tôi đã hai mốt và sắp bước sang tuổi hai mươi hai. Tôi không có cơ may tốt nghiệp sớm, mà cũng chẳng có lý do gì để bỏ học. Tôi bị mắc kẹt trong một tình huống tuyệt vọng kỳ quặc. Hàng tháng trời tôi sa lầy, không tài nào tìm nổi một hướng đi mới cho mình. Vạn vật đều vận động, riêng mình tôi vẫn đứng yên. Vào mùa thu, mọi thứ đều nhuốm màu tàn úa, trong chốc lát màu sắc bỗng nhạt phai trước mắt tôi. Ánh mặt trời, mùi hương cỏ, những tiếng tí tách dù là nhỏ nhất của làn mưa, mọi thứ đều khiến tôi không sao yên ổn.

Đã bao lần tôi mơ thấy mình đáp một chuyến tàu đêm? Bao giờ cũng là giấc mơ về một chuyến tàu đêm. Chuyến tàu mà trên đó không gian ngột ngạt vì khói thuốc và mùi hôi thối của nhà vệ sinh. Tàu đông nghẹt đến nỗi chẳng còn chỗ đứng. Mấy đống nôn mửa đóng cục trên ghế ngồi. Việc duy nhất tôi có thể làm là đứng lên, xuống tàu ở ga kế tiếp. Nhưng chẳng hề có ga tàu nào. Chỉ là một cánh đồng bất tận, không một ngọn đèn le lói trong màn đêm. Không hề có lấy một người trưởng ga, đồng hồ, hay bảng giờ tàu, không gì hết – giấc mơ của tôi là như vậy đó.

Tôi vẫn còn nhớ rõ buổi chiều kỳ lạ ấy. Buổi chiều ngày 25 tháng Mười một. Cơn mưa tầm tã trước đó đã làm lá bạch quả rụng đầy đường, biến lối đi thành một lòng sông vàng khô cạn. Hai đứa tôi đi dạo, tay đút túi áo. Không gian yên tĩnh đến bất ngờ. Chỉ có tiếng lạo xạo của đám lá dưới chân chúng tôi và tiếng kêu nhức óc của đàn chum.

Nàng đột ngột hỏi tôi. “Anh đang nghĩ gì vậy?”

“Đâu có gì đâu,” tôi đáp.

Nàng đi mấy bước nữa trước khi ngồi lại bên vệ đường và hít một hơi thuốc thật dài.

“Anh lúc nào cũng gặp ác mộng à?”

“Anh thường xuyên gặp ác mộng. Thường là ác mộng về máy tự động bán đồ lặt vặt ăn tươi nuốt sống không trả lại tiền thừa cho anh.”

Nàng cười và đặt tay lên gối tôi, nhưng rồi lại rụt ngay tay lại.

“Anh không muốn nói về chuyện đó hôm nay phải không?”

“Hôm nay thì không. Hôm nay anh không muốn nói chuyện.”

Nàng búng nhẹ điếu thuốc hút dở xuống đất rồi lấy giày di qua di lại. “Anh không thể nói ra những điều anh muốn nói, có đúng vậy không?”

“Cũng chẳng biết nữa”, tôi đáp.

Hai cánh chim vụt liệng qua rồi chợt mất hút trên bầu trời không một gợn mây. Chúng tôi nhìn theo cho đến khi chúng biến mất. Nàng bắt đầu lấy một cành cây vẽ nguệch ngoạc mấy nét không ra hình thù gì trên mặt đất.

“Đôi khi ngủ với anh em cảm thấy thật cô đơn.”

“Xin lỗi đã làm em có cảm giác ấy”, tôi đáp.

“Anh không có lỗi gì cả. Em không nghĩ là anh mơ tưởng đến đứa con gái khác khi mình làm tình với nhau. Mà cho dù anh có mơ tưởng đến ai đó thì cũng có khác gì đâu? Chỉ là…” Nàng ngừng lại giữa chừng và chậm rãi vạch ba đường thẳng trên mặt đất. “Ôi, em cũng chẳng biết nữa.”

“Em biết đấy, anh không có ý xa lánh em”, tôi ngắt lời sau một lát. “Anh không biết cái gì đã vận vào người anh nữa. Anh đang cố hiểu điều gì đang xảy ra với mình. Anh không muốn thổi phồng mọi chuyện nhưng anh cũng không muốn né tránh vấn đề. Mọi chuyện cần có thời gian.”

“Cần bao nhiêu thời gian?”

“Ai biết được. Có thể một năm, có thể mười năm.”

Nàng quẳng nhánh cây đi, đứng lên, phủi phủi mấy sợi cỏ khô vướng trên áo. “Mười năm ấy à? Thôi nào anh, nghe cứ như là mãi mãi vậy?”

“Cũng có thể lắm”, tôi đáp.

o O o


Chúng tôi băng qua rừng đến khu học xá, ngồi trệu trạo nhai bánh mì xúc xích tại phòng sinh hoạt chung. Đã hai giờ chiều, hình Yukio Mishima cứ vụt qua vụt lại trên chiếc ti vi trong phòng. Núm âm thanh của ti vi bị hỏng nên chúng tôi chẳng hiểu họ đang nói cái gì, mà chúng tôi cũng chẳng quan tâm lắm. Một cậu sinh viên đứng lên tìm cách sửa núm âm thanh nhưng không được, cuối cùng cậu ta bỏ cuộc và đi mất.

“Anh muốn em”, tôi nói.

“Được thôi”, nàng đáp.

Tay thọc trong túi áo khoác, hai đứa tôi chậm rãi đi về căn hộ của tôi.

Tôi thức dậy thấy nàng đang thút thít khóc, tấm thân mảnh dẻ của nàng run rẩy dưới lớp chăn. Tôi bật máy sưởi lên và nhìn đồng hồ. Đã hai giờ sáng. Vầng trăng trắng sáng đến ngỡ ngàng giữa bầu trời.

Tôi đợi cho đến khi nàng thôi khóc rồi mới đặt ấm pha trà. Tôi pha một gói trà cho cả hai đứa. Trà nóng, không đường, không chanh. Tôi châm hai điếu thuốc rồi đưa cho nàng một điếu. Nàng rít vội rồi nhả khói, ba hơi liên tiếp, rồi húng hắng ho.

“Nói em biết đi, anh có bao giờ có ý định giết em không?” nàng hỏi.

“Em ư?”

“Ừ.”

“Tại sao em lại hỏi anh câu đó?”

Điếu thuốc vẫn còn trên môi, nàng lấy đầu ngón tay gãi nhẹ nơi mí mắt.

“Chẳng có lý do gì đặc biệt cả.”

“Không, chưa bao giờ”, tôi đáp.

“Thật không?”

“Thật. Anh muốn giết em để làm gì?”

“Ồ, có lẽ anh nói thật,” nàng đáp. “Trong một giây, em chợt nghĩ có lẽ là cũng chẳng tệ quá nếu em bị giết. Trong lúc em đang ngủ say chẳng hạn.”

“Anh e là mình không phải loại sát nhân.”

“Vậy sao?”

“Ít ra là cho đến giờ.”

Nàng cười. Rồi nàng dập thuốc, uống hết tách trà, châm thuốc.

“Em sẽ sống cho đến năm hai mươi lăm tuổi”, nàng nói, “rồi chết.”

Tháng Bảy, tám năm sau, nàng qua đời lúc hai mươi sáu tuổi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 16:51:12 | Xem tất
Phần II: Tháng Bảy, Tám Năm Sau - Chương 2: Mười Sáu Bước


Tôi đợi nghe tiếng xì xì của không khí bị nén khi cửa thang máy đóng lại sau lưng mình rồi mới nhắm mắt lại. Cố gắng tĩnh trí, tôi bắt đầu bước đúng mười sáu bước từ chỗ thang máy về phía cửa căn hộ mình. Mắt nhắm nghiền, tôi đếm chính xác mười sáu bước, không hơn, không kém. Đầu óc tôi mụ đi vì rượu, miệng tôi đắng nghét mùi thuốc.

Cho dù có say đến cỡ nào, tôi bao giờ cũng có thể bước đúng mười sáu bước thẳng tắp từ cửa thang máy về phía căn hộ mình. Thành quả của bao năm nhọc công rèn giũa thứ kỷ luật tự giác vô nghĩa. Cứ khi nào say, tôi lại ưỡn vai, cố giữ cho cột sống thật thẳng, ngẩng cao đầu, rồi hít một hơi thật dài làn không khí mát lành của buổi sáng trong hành lang bê tông. Sau đó, tôi nhắm mắt và bước đúng mười sáu bước qua làn sương mờ mờ ảo ảo của rượu whisky.

Trong phạm vi nhỏ nhoi của thế giới mười sáu bước chân ấy, tôi được phong danh hiệu “Kẻ Say Phong Nhã Nhất”. Một thành tích giản đơn thôi. Ta không có cách nào khác ngoài việc phải chấp nhận sự thật sờ sờ ra đó là ta đang say.

Không có và vủng, nhưng nhị, giả sử giả dụ gì hết. Chỉ một câu “Ta say”, đơn giản và dễ hiểu.

Cái thái độ bất cần đó giúp tôi đạt được danh hiệu Kẻ Say Phong Nhã Nhất, Kẻ Dậy Sớm Nhất, Toa Chở Hàng Cuối Cùng Qua Cầu.

Năm bước, sáu bước, bảy bước….

Đến bước thứ tám thì tôi dừng lại, mở mắt và thở một hơi thật sâu. Có tiếng gì kêu vù vù trong tai tôi. Nghe cứ như một làn gió biển thổi qua tấm màn sắt gỉ. Ngẫm nghĩ lại không biết lần cuối tôi đi biển là bao giờ nhỉ?

Xem nào. Ngày 24 tháng Bảy. 6:30 sáng. Thời khắc lý tưởng trong một năm, thậm chí trong cả một ngày, để đi biển. Bãi biển vẫn còn tinh không không một bóng người. Dấu chân chim nằm rải rác bên mép sóng giống như lá thông rụng đầy sau một cơn gió mạnh.

Bãi biển, hừm…

Tôi lại bước tiếp. Biển đã lùi xa. Mọi thứ đã quá xa rồi.

Đến đúng bước thứ mười sáu, tôi dừng lại, mở mắt, đứng sừng sững ngay trước cửa nhà như mọi khi. Lôi từ trong hộp thư ra mấy tờ báo của hai ngày qua và hai bì thư, tôi cặp chúng dưới nách. Tôi lục lọi tìm chìa khóa trong túi áo rồi ngả người về trước, trán tựa trên tấm cửa sắt sắc lạnh. Từ đâu đó sau tai mình, tôi nghe một tiếng cách nhẹ. Cái thằng tôi, một nùi bông đẫm rượu. Hầu như không còn làm chủ được mọi cảm giác nữa.

Thật chẳng còn gì hay hơn.

Tôi lách người qua cánh cửa hé mở rồi đóng cửa lại phía sau. Hành lang yên ắng như tờ. Yên ắng hơn mức cần thiết.

Tôi bỗng chú ý đến đôi giày đỏ dưới chân mình. Tôi đã từng nhìn thấy đôi giày này. Đôi giày xếp giữa đôi thể thao dính đầy bùn và đôi xăng đan rẻ tiền của tôi trông như một món quà Giáng sinh muộn. Một sự yên lặng thoảng nhẹ như làn khói bao trùm lên đôi giày.

Cô ta ngồi gục bên bàn bếp, tay chống trán, mái tóc đen thẳng che khuất khuôn mặt nhìn nghiêng. Khoảng da cổ trăng trắng hiện sau mấy lọn tóc, dây áo lót thấp thoáng nơi ống tay sát nách của chiếc váy đầm in hoa tôi chưa từng nhìn thấy trước đây.

Tôi cởi áo khoác, cà vạt, rồi đồng hồ, trong cả quãng thời gian ấy, cô ta không ngầng đầu liếc tôi lấy một giây. Tấm lưng cô ta gợi cho tôi nhiều kỷ niệm. Những kỷ niệm trước khi tôi quen cô.

“Sao nào?” tôi nói bằng giọng cứ như đi mượn của ai, giọng tôi bỗng lạc đi.

Đúng như tôi đoán, cô ta không đáp lại lấy một câu. Hay là cô ta đang ngủ, đang khóc, hay thậm chí đã ngoẻo rồi cũng nên.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế đối diện và dụi mắt. Một tia nắng mong manh chia mặt bàn làm hai, tôi ở phía ánh sáng, cô ta ở phía bóng tối. Một bóng tối không màu. Trên mặt bàn là chậu hoa phong lữ héo khô. Bên ngoài là ai đó đang dội nước rửa đường. Nước bắn tung tóe trên vỉa hè, đâu đó thoảng mùi nhựa đường ẩm ướt.

“Uống cà phê không?”

Không một lời đáp.

Tôi đứng dậy, xay cà phê đủ pha hai cốc. Xay xong rồi tôi mới nhận ra mình thèm trà đá chứ không phải cà phê. Thế đấy, tôi luôn nhận thức được mọi việc khi sự đã rồi.

Đài đang phát một lô những bản nhạc pop chẳng có gì đặc sắc. Nhưng chúng lại quá hợp cho buổi sáng. Thế giới hầu như chẳng thay đổi gì trong mười năm. Chỉ có tên ca sĩ và bài hát là khác. Còn tôi thì già đi.

Nước bắt đầu sôi. Tôi tắt bếp, để nước nguội trong ba mươi giây rồi đổ nước pha cà phê. Nước bắt đầu ngấm vào cà phê, hạt cà phê xay nở dần, hương thơm lấp đầy căn phòng.

Cầm ấm nước trên tay, tôi hỏi cô ta, “Cô đến đây tối qua à?”

Một cái gật đầu khẽ khàng.

“Cô đợi tôi từ đêm qua tới giờ à?”

Không trả lời.

Hơi nước từ ấm cà phê và ánh mặt trời gay gắt làm căn phòng bắt đầu nóng lên. Tôi đóng cửa, bật điều hòa rồi đặt hai cốc cà phê lên bàn.

“Uống đi”, tôi lấy lại giọng.

Yên lặng.

“Cô sẽ cảm thấy đỡ hơn nếu uống chút gì đó”.

Ba mươi giây trôi qua, rồi cô ta từ từ ngẩng đầu, lơ đãng nhìn trân trân vào chậu hoa héo. Mấy sợi tóc mai bết lại trên má, ở cô ta toát ra một mùi ẩm ướt.

“Anh đừng để ý đến tôi”, cô ta nói, “Tôi không định khóc lóc như thế này.”

Tôi đưa cho cô ta hộp khăn giấy. Cô ta lặng lẽ xì mũi rồi vuốt mấy sợi tóc khỏi má.

“Thật ra tôi định đi trước khi anh về nhà. Tôi không muốn gặp anh.”

“Nhưng tôi thấy là sau đó cô đã đổi ý.”

“Không phải. Tôi chẳng biết đi đâu cả. Nhưng anh đừng lo, tôi đi ngay bây giờ đây.”

“Vậy thì uống chút cà phê đã.”

Tôi chỉnh đài sang kênh tường thuật lưu lượng xe cộ, nhấm nháp cà phê, mở hai phong bì. Một lá thư thông báo đang có đợt khuyến mãi hai mươi phần trăm tại một cửa hàng nội thất. Lá kia là của một người tôi chẳng hề muốn nghĩ đến, huống hồ là đọc thư. Tôi vò nát, quẳng hai lá thư vào sọt rác rồi nhấm nháp mấy chiếc bánh quy pho mát còn sót lại. Cô ta ủ tay quanh cốc cà phê và nhìn chằm chằm vào tôi, làn môi cô ta lướt nhẹ quanh viền cốc.

“Có xa lát trong tủ lạnh đó”, cô ta nói.

“Xa lát gì?”

“Cà chua với đậu hũ. Ngoài ra không còn gì hết. Tôi quẳng mấy quả dưa chuột hỏng đi rồi.”

“Ừm.”

Tôi lại tủ lạnh, lấy bát thủy tinh Okinawa xanh đựng xa lát ra rồi rắc chút nước trộn còn sót lại lên. Cà chua và đậu đũa nguội ngắt. Không có vị gì. Cả cà phê lẫn bánh quy cũng vô vị nốt. Có phải ánh nắng buổi sớm đã phân hủy mọi thứ. Tôi bỏ dở cốc cà phê, lôi trong túi ra điếu thuốc quăn queo, quẹt mấy que diêm tôi chưa từng nhìn thấy trước đây. Đầu thuốc cháy tanh tách khô khốc, làn khói xanh làm thành một hình thù ngoằn ngoèo trong nắng sớm.

“Tôi đi dự một đám tang. Khi đám tang xong, tôi đến Shinjuku, một mình.”

Con mèo không biết từ đâu hiện ra, ngáp một cái rõ dài, sà vào lòng cô ta. Cô ta lấy tay khẽ gãi tai mèo.

“Anh không phải giải thích gì cho tôi”, cô ta nói. “Tôi biết tôi đã không còn là gì trong anh nữa rồi.”

“Tôi đâu có giải thích gì đâu. Chỉ nói chuyện thôi mà”.

Cô ta nhún vai, kéo dây chiếc áo lót vào trong váy. Khuôn mặt cô ta không chút biểu cảm, như hình ảnh một thành phố đang chìm dần trên mặt đại dương.

“Một người quen cũ cách đây nhiều năm rồi. Cô không biết người ấy”.

“Ồ vậy sao?”

Con mèo duỗi dài chân rồi thở hắt ra.

Tôi liếc nhìn đầu mẩu thuốc cháy dở mình đang hút.

“Vậy người quen anh làm sao lại chết?”

“Bị xe tải cán. Gãy mười ba cái xương”.

“Nữ à?”

“Ừ.”

Bản tin bảy giờ và chương trình tường thuật lưu lượng xe cộ kết thúc, một bản rock nhẹ được phát lại. Cô ta đặt cốc cà phê xuống và nhìn thẳng vào tôi.

“Nói cho tôi biết đi, nếu tôi chết anh có đi uống say khướt như thế không?”

“Việc tôi say chẳng có gì liên quan đến đám tang cả. Mà nếu có cũng chỉ vài cốc đầu thôi.”

Một ngày mới lại bắt đầu. Lại một ngày nắng nóng. Một loạt nhà cao tầng sáng lóa qua khung cửa sổ.

“Cô có muốn uống chút gì lành lạnh không?”

Cô ta lắc đầu.

Tôi lấy một lon Coca trong tủ lạnh ra, làm một hơi hết sạch.

“Cô ấy là loại người sẵn sàng ngủ với bất kỳ thằng đàn ông nào”. Một lời cáo phó mới kỳ làm sao: người chết là loại gái sẵn sàng ngủ với bất cứ thằng đàn ông nào.

“Sao anh lại kể chuyện này cho tôi?”

Tại sao ư? Tôi cũng không biết nữa.

“Vậy đấy”, cô ta gợi lại câu chuyện giữa chừng bỏ dở, “cô ta là loại người có thể ngủ với bất kỳ ai, đúng không?”

“Đúng thế.”

“Nhưng không phải với anh chứ?”

Có chút gì đó gờn gợn trọng giọng nói cô ta. Tôi ngẩng lên từ bát xa lát, liếc nhìn cô ta.

“Cô nghĩ là không à?”

“Có lẽ là không”, cô ta nói khẽ. “Anh ư, anh không phải loại người đó.”

“Loại nào?”

“Không biết nữa. Ở anh có một cái gì đó đặc biệt. Giá thử như có một cái đồng hồ cát: cát chảy sắp hết. Anh là người sẽ quay ngược lại cái đồng hồ đó để cát chảy lại.”

“Vậy sao?”

Cô ta khẽ mím môi, rồi chùng người lại.

“Tôi đến lấy mấy thứ đồ của tôi. Áo khoác, mũ mãng, mấy thứ còn sót lại. Tôi xếp chúng vào thùng rồi. Khi rảnh, anh mang ra bưu điện gửi cho tôi được không?”

“Tôi có thể mang chúng đến chỗ cô mà.”

Cô ta khẽ lắc đầu. “Khỏi cần đi. Tôi không muốn anh đến chỗ tôi. Anh hiểu chứ?”

Tất nhiên là tôi hiểu. Tôi đã không thèm nghĩ trước khi mở miệng nói.

“Anh có địa chỉ chưa?”

“Có rồi.”

“Thôi, có vậy đó thôi. Xin lỗi anh là tôi đã ngồi đây hơi lâu.”

“Còn giấy tờ thủ tục thì sao, có vậy thôi phải không?”

“À há. Mọi thứ đều thu xếp xong rồi.”

“Tôi không ngờ là thủ tục lại đơn giản đến vậy. Tôi cứ nghĩ là nó phải rắc rối hơn nhiều.”

“Mấy người ngoài không biết gì thì nghĩ vậy nhưng thật ra thì cũng đơn giản thôi. Một khi đã quyết định ly dị thì thủ tục quá đơn giản”. Cô ta vừa nói vừa gãi đầu con mèo. “Sau hai lần ly dị là ai cũng kinh nghiệm đầy mình.”

Con mèo lại duỗi lưng, nhắm mắt rồi nhanh chóng rúc đầu vào khuỷu tay cô ta. Tôi quẳng hai cốc cà phê và bát xa lát vào chậu rửa bát, rồi lấy một tờ hóa đơn cũ phủi phủi mấy vụn bánh trên bàn. Ánh mặt trời chói chang khiến tôi như muốn nảy đom đóm mắt.

“Tôi đã soạn ra một danh sách chi tiết. Đại loại như chỗ cất mấy tờ giấy quan trọng là chỗ nào, ngày đổ rác là ngày nào. Có thắc mắc gì anh cứ gọi tôi.”

“Cảm ơn nhé.”

“Anh đã bao giờ muốn có con chưa?” cô ta bất ngờ hỏi tôi.

“Không, tôi không nghĩ là tôi từng muốn có con.”

“Tôi cũng đã nghĩ khá lâu về chuyện đó. Nhưng mà khi nhìn sự thể thế này, có lẽ không có con lại là điều tốt. Mà cũng có thể nếu mình có một đứa con thì sự thể có lẽ không đến nỗi này, anh nghĩ sao?”

“Nhiều cặp vợ chồng có con rồi vẫn ly dị đó thôi”.

“Có lẽ anh nói đúng”, cô ta nói, tay nghịch nghịch chiếc bật lửa của tôi. “Tôi vẫn còn yêu anh. Nhưng điều đó cũng chẳng quan trọng gì nữa rồi, phải không? Bản thân tôi đã hiểu điều đó quá rõ”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 16:56:01 | Xem tất
Chương 3: Chiếc Váy Ngủ


Khi cô ta đi rồi, rôi uống hết một lon Coca nữa, đi tắm nước nóng dưới vòi hoa sen rồi cạo râu. Tôi sắp dùng hết sạch mọi thứ – xà phòng, dầu gội đầu, kem cạo râu.

Tôi bước ra khỏi vòi hoa sen, lau khô tóc, xoa sữa dưỡng thể, lấy ráy tai. Rồi tôi vào bếp hâm lại chỗ cà phê còn thừa. Chỉ để thấy rằng: không một ai ngồi ở phía đối điện chiếc bàn. Nhìn trân trân vào chiếc ghế không ai ngồi ấy, tôi cảm thấy mình như là một thằng bé con trong bức họa của De Chirico, bị bỏ rơi đơn độc tại một đất nước xa lạ. Tất nhiên là tôi chẳng còn bé bỏng gì nữa. Tôi quyết định thôi không nghĩ về hình ảnh đó nữa mà dành thời gian nhâm nhi cà phê và thuốc lá.

Mặc dù không hề chợp mắt trong vòng hai mươi tư tiếng đồng hồ nhưng tôi thấy tỉnh táo một cách kỳ lạ. Cơ thể rã rượi đến tận xương tủy nhưng trí óc tôi cứ mải miết bơi vun vút qua những đường nước xoắn xít của ý thức tôi, như một sinh vật nước không ngưng nghỉ.

Chiếc ghế trống trước mặt khiến tôi nhớ đến một cuốn tiểu thuyết Mỹ mà tôi từng đọc cách đây đã lâu. Sau khi người vợ bỏ đi, người chồng vẫn giữ nguyên chiếc váy ngủ choàng hờ hững trên ghế. Giờ đây nghĩ lại, câu chuyện đó bỗng trở nên có nghĩa. Đúng thật, chiếc váy có lẽ không giúp sự việc trở nên sáng sủa hơn, nhưng có nó còn hơn là chậu hoa phong lữ héo nhìn trân trân vào tôi. Ngoài ra, có lẽ con mèo cũng cảm thấy thoải mái hơn khi biết rằng mấy thứ đồ của cô ta vẫn còn đâu đây.

Tôi kiểm tra phòng ngủ, mở tất cả ngăn kéo tủ của cô ta, mọi thứ đều rỗng không. Chỉ còn lại một chiếc khăn đã bị mối xông, ba cái mắc áo và một gói thuốc chống mối. Đồ trang điểm, đồ vệ sinh cá nhân, lô uốn tóc, bàn chải đánh răng, máy sấy tóc, thuốc men đã được sắp xếp thành từng loại, bốt, xăng đan, dép, mấy chiếc hộp đựng mũ, mấy thứ đồ phụ tùng, túi xách tay, túi đeo vai, va li, ví đầm, đám quần lót lúc nào cũng được xếp gọn ghẽ, tất dài, tất ngắn, thư từ, tất cả mọi thứ với chút mùi đàn bà phảng phất đều không còn. Cô ta có lẽ đã xóa hết cả dấu vân tay cũng nên. Một phần ba số sách vở và đĩa nhạc cũng đã biến mất – mọi thứ cô ta tự bỏ tiền ra mua hoặc tôi mua tặng.

Trong cuốn album ảnh, mọi bức ảnh có hình cô ta đã bị bóc đi. Những bức ảnh có cả hai đứa chúng tôi đều đã bị cắt bỏ, phần có hình cô ta được cẩn thận cắt đi, phần có hình tôi được để lại. Những bức ảnh chụp tôi một mình hoặc ảnh chụp núi sông, hươu hiếc, mèo miếc đều được để nguyên. Ba cuốn album ảnh đã biến thành một quá khứ được sửa đổi. Mọi thứ như thể tôi sinh ra đã cô độc rồi, cô độc suốt quãng đời, và sẽ tiếp tục cô độc mãi.
Một chiếc váy ngủ! Lẽ ra ít nhất cô ta cũng có thể để lại một chiếc váy ngủ.

Đó là lựa chọn của cô ta, và lựa chọn này là không để lại một dấu vết gì. Tôi có thể hoặc chấp nhận nó hoặc, như tôi hình dung đó là chủ ý của cô ta, có thể khiến mình tin rằng cô ta chưa từng tồn tại. Nếu cô ta chưa bao giờ tồn tại thì chiếc váy ngủ cũng vậy.

Tôi dập thuốc vào gạt tàn, nghĩ một chút về chiếc váy ngủ của cô ta, rồi thôi không nghĩ nữa và đi ngủ.

Một tháng trôi qua kể từ khi tôi đồng ý ly dị và cô ta dọn ra ngoài. Một tháng của những số không. Không tập trung và không cảm giác, một tháng khởi tạo những thờ ơ.

Không gì thay đổi từ ngày này qua ngày khác, không một thứ gì. Tôi thức dậy lúc bảy giờ, nướng bánh và pha cà phê, đi làm, ăn tối ở ngoài, làm một hai ly, về nhà, đọc sách trên giường độ một tiếng, tắt đèn, rồi đi ngủ. Thứ Bảy và Chủ nhật, thay vì làm việc, tôi ra ngoài giết thời gian từ sáng, đảo một vòng qua các rạp chiếu phim. Sau đó tôi ăn tối, uống vài ly, đọc và đi ngủ, một mình. Vậy đó, tôi lay lắt qua ngày đoạn tháng giống như cách người ta gạch bỏ ngày trên lịch, hết ngày này đến ngày kia.

Theo một nghĩa nào đó, sự biến mất của cô ta là do tình hình vượt quá tầm kiểm soát của tôi. Những gì đã qua là qua luôn, kiểu như thế. Chúng tôi sống với nhau thế nào trong bốn năm qua chẳng còn quan trọng nữa. Giống như những tấm ảnh bị bóc mất khỏi cuốn album.

Hoặc cũng chẳng quan trọng gì khi cô ta ngủ với một thằng trong đám bạn tôi suốt một thời gian dài, vào một ngày đẹp trời, cô ta dọn đến ở với gã đó. Tất cả những điều này hoàn toàn có thể xảy ra. Những chuyện như thế diễn ra khá đều đặn, vậy thì làm sao tôi có thể nghĩ việc cô ta bỏ tôi là một điều gì đó không bình thường. Tóm lại là mọi việc tùy cô ta.

“Tóm lại là mọi việc tùy cô thôi”, tôi nói.

Đó là một chiều Chủ nhật, tôi đang nhẩn nha mở nắp lon bia thì cô ta nói ra điều đó. Nói là cô ta muốn ly hôn.

“Với anh thì thế nào cũng được đúng không?” cô ta hỏi, dằn từng từ một cách chậm rãi.

“Không, với tôi thì thế nào cũng không được”, tôi nói. “Tôi chỉ nói là mọi việc tùy cô”.

“Nếu anh muốn biết sự thật, thì tôi không muốn bỏ anh”, cô ta nói, sau một lúc.

“Được rồi, vậy thì đừng bỏ tôi”, tôi nói.

“Nhưng tôi chẳng đi đến đâu khi ở lại với anh”.

Cô ta không nói thêm, nhưng tôi biết cô ta muốn nói gì. Mấy tháng nữa tôi sẽ tròn ba mươi tuổi; cô ta hai mươi sáu. Và nếu tính đến độ dài quãng đời còn lại của chúng tôi thì cái nền tảng chúng tôi xây đắp hầu như không có gì. Tất cả những gì chúng tôi làm trong suốt bốn năm chung sống là phung phí số tiền tiết kiệm được.

Tôi cho rằng phần lớn lỗi là do tôi. Có lẽ tôi không bao giờ nên lấy vợ. Ít ra là không bao giờ lấy cô ta.

Lúc đầu, cô ta nghĩ mình là kẻ không hợp với xã hội và biến tôi thành kẻ hợp với xã hội. Với vai trò riêng của mình, chúng tôi khá hợp nhau. Tuy vậy, ngay khi chúng tôi nghĩ mình đã đạt tới một sự sắp đặt vĩnh viễn thì một thứ gì đó bỗng tan vỡ. Một chút xíu nhỏ nhất của một thứ gì đó, nhưng không bao giờ lấy lại được. Chúng tôi đã sánh bước một cách êm đềm dọc theo một con ngõ cụt dài thăm thẳm. Đó là kết cục của chúng tôi.

Với cô ta, tôi đã không là gì nữa. Ngay cả nếu cô ta vẫn còn yêu tôi, cũng chẳng quan trọng gì nữa rồi. Chúng tôi đã khá quen với vai trò của người kia. Cô ta hiểu điều đó bằng bản năng; tôi biết điều đó từ kinh nghiệm. Không còn hy vọng gì.

Vậy là cô ta và chiếc váy ngủ đã biến mất vĩnh viễn. Một thứ gì đó đã bị lãng quên. Một thứ gì đó biến mất, một thứ gì đó chết đi. Nhưng rốt cuộc thì người ta khó có thể gọi cái thứ ấy là tấn thảm kịch.

Tháng Bảy, ngày 24, 8:25 sáng.

Tôi kiểm tra mấy con số trên chiếc đồng hồ điện tử, nhắm mắt rồi thiếp đi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 16:59:15 | Xem tất
Phần III: Tháng Chín, Hai Tháng Sau - Chương 4: Dương Vật Cá Voi Và Người Đàn Bà Làm Ba Nghề


Ngủ với một người đàn bà: một điều có vẻ như quan trọng nhất trong đầu bạn, hoặc có thể tưởng như chẳng là gì hết, điều đó chỉ để nói rằng có thứ tình dục như liệu pháp (liệu pháp tự kỷ, vậy đó) và có thứ tình dục như một thú vui.

Có thứ tình dục để tự hoàn thiện mình từ đầu đến cuối và có thứ tình dục để giết chết thời gian từ đầu đến cuối; thứ tình dục bắt đầu như một liệu pháp để rồi chỉ kết thúc như một việc chẳng-có-gì-hay-hơn-để-làm, và ngược lại. Đời sống tình dục của con người chúng ta – tôi biết nói như thế nào nhỉ? – khác một cách cơ bản với đời sống tình dục của cá voi.

Chúng ta không phải là cá voi – và điều này tạo nên chủ đề lớn xuyên suốt đời sống tình dục của chúng ta.

Khi tôi còn nhỏ, có một công viên hải dương cách chỗ tôi ở ba mươi phút đi xe đạp. Một sự yên lặng lạnh lẽo như thủy tinh luôn bao phủ chốn đó, thảng hoặc chỉ nghe được tiếng nước bắn tung tóe. Tôi hầu như có thể cảm thấy được con Quái vật từ Phá Đen[1] đang thở trong một góc tối lờ mờ nào đó.

Hàng đàn cá ngừ lượn vòng quanh chiếc bể lớn. Cá tầm lượn qua lượn lại luồng nước hẹp, cá piranha cắm hàm răng sắc như dao cạo vào từng mảng thịt, loài lươn điện phát ra âm thanh lốp bốp và những tia lửa như bóng đèn bị cháy.

Bể cá cũng đầy những loài cá khác không đếm xuể, với những tên gọi, những vảy cá và vây cá khác nhau. Tôi không hiểu nổi tại sao trên thế gian lại có lắm loài cá đến thế.

Tất nhiên là không có con cá voi nào trong công viên hải dương. Một con cá voi sẽ là quá lớn, ngay cả khi người ra phá tường và biến toàn bộ cái công viên đó thành một chiếc bể. Thay vào đó, công viên trưng bày một chiếc dương vật cá voi. Nói là như một biểu tượng cũng được.

Thế là chính những năm tháng dễ bị tác động nhất trong tuổi niên thiếu của tôi được dành không phải để ngắm một con cá voi mà là một chiếc dương vật cá voi: Bất cứ khi nào tôi mệt mỏi vì đi bộ dọc theo những lối đi lạnh lẽo của công viên, tôi lại lẻn đến chỗ của riêng mình trên chiếc ghế băng trong sự tĩnh lặng của phòng trưng bày có trần cao, dành hàng giờ ở đó ngẫm nghĩ về cái dương vật cá voi này.

Có lúc nó làm tôi nhớ đến một cây cọ quăn queo nhỏ xíu, những lúc khác là một bắp ngô khổng lồ. Thực ra, nếu không có tấm biển đề – CƠ QUAN SINH DỤC CÁ VOI: GIỐNG ĐỰC – không ai có thể nghĩ đó là một cái dương vật cá voi. Nó có lẽ giống một di vật khai quật được từ sa mạc Trung Á hơn là một sản phẩm của Bắc Băng Dương. Nó không hề giống dương vật của tôi hay của bất cứ dương vật nào tôi từng nhìn thấy. Tệ hơn nữa, chiếc dương vật đã bị cắt rời toát ra một vẻ buồn bã khác thường, hầu như không diễn tả nổi.

Tôi nhớ đến nó, cái dương vật cá voi khổng lồ ấy, sau lần đầu tiên giao hợp với một đứa con gái. Sự trớ trêu nào của số phận, con đường quanh co nào đã mang nó đến căn phòng trưng bày giống như một cái hang ấy. Tim tôi thắt lại khi nghĩ đến điều đó. Tôi cảm thấy mình như không có chút hy vọng nào trên thế gian này. Nhưng tôi mới chỉ mười bảy tuổi và rõ ràng là quá trẻ để từ bỏ mọi thứ. Chính khi ấy, tôi nhận ra một điều mà từ đó tôi luôn ghi tâm khắc cốt.

Rằng, tôi không phải một con cá voi.

Lúc này đây tôi đang trên giường cùng cô bạn gái mới, đưa tay vuốt tóc cô, tôi ngẫm nghĩ về cá voi thật lâu.

Trong công viên hải dương của trí nhớ tôi, trời luôn vào cuối thu. Tấm kính thành bể lạnh lẽo. Tôi mặc áo len dày. Qua ô cửa sổ lớn của phòng trưng bày, biển tối như chì, những bọt sóng không đếm xuể gợi nhớ đến chiếc cổ bằng đăng ten trên áo váy thiếu nữ.

“Anh đang nghĩ gì vậy?” cô hỏi.

“Một chuyện ngày xưa thôi”, tôi đáp.

Cô hai mươi mốt tuổi, với một thân hình mảnh mai hấp dẫn và một đôi tai đầy quyến rũ có hình dáng hoàn hảo nhất. Cô làm nghề sửa bản in bán thời gian cho một nhà xuất bản nhỏ, một người mẫu chụp quảng cáo chuyên về các bức ảnh chụp tai, và gái gọi cho một câu lạc bộ kín tiếng chỉ-dành-cho-bạn-thân-thiết-mà-thôi. Tôi không biết cô coi đâu là nghề chính trong ba nghề ấy. Cô cũng không biết nữa.

Tuy nhiên, qua đánh giá những thuộc tính cơ bản của cô, tôi phải nói tài năng thiên bẩm của cô nghiêng về làm người mẫu tai. Cô đồng ý. Nghề này cũng tạm chấp nhận được nếu không tính đến việc cơ hội cho người mẫu quảng cáo chuyên về tai cực kỳ hạn chế đến mức nào, địa vị và mức lương thấp ra sao. Đối với một tay làm nghề P.R, nghệ sĩ trang điểm hay người quay phim thông thường, cô chỉ là “người mang tai”, một ai đó có tai. Tinh thần và thể xác cô, ngoài đôi tai, hoàn toàn không được đếm xỉa đến, bị coi thường, xem như không hề tồn tại.

“Nhưng anh biết đấy, đó không phải con người thật của em”, cô sẽ nói vậy. “Em là tai em, tai em là em”.

Cái tôi làm nghề sửa bản in hay cái tôi làm nghề gái gọi của cô chẳng bao giờ cho người khác thấy tai của mình.

“Đó là bởi chúng không thực sự là em”, cô giải thích.

Văn phòng câu lạc bộ gái gọi của cô, bề ngoài đăng ký như một “câu lạc bộ tài năng”, có trụ sở tại Akasaka và do một bà tóc bạc người Anh mà ai cũng gọi là bà X quản lý. Bà sống ở Nhật đã ba mươi năm, nói tiếng Nhật trôi chảy và đọc được hầu hết các Hán tự cơ bản.

Bà X mở một trường gia sư tiếng Anh cho phụ nữ cách văn phòng gái gọi không đầy năm trăm thước và dùng nơi đó để tìm kiếm các gương mặt triển vọng cho văn phòng gái gọi. Ngược lại, một vài cô gái gọi cũng đi học tại trường dạy tiếng Anh. Tất nhiên với mức học phí được miễn giảm.
Bà X gọi tất cả các cô gái là “cưng”. Mềm mại như một buổi chiều xuân, những “cục cưng” của bà.

“Nhớ mặc đồ lót điệu đà, nghe cưng. Và không mặc quần tất”. Hoặc “Cưng uống trà với sữa, phải không cưng?”. Bà có sự am hiểu chắc chắn về thị trường của mình. Khách hàng quen của bà là những doanh nhân giàu có trong độ tuổi bốn mươi và năm mươi. Hai phần ba là khách ngoại quốc, số còn lại là người Nhật. Bà X không ưa đám chính trị gia, các ông già, bọn tình dục lệch lạc và người nghèo.

Bà có một tá người đẹp chân dài sẵn sàng đi khách bất kỳ lúc nào, nhưng trong cả bó hoa ấy cô bạn gái mới của tôi là bông hoa ít hương sắc nhất. Với tư cách gái gọi, có vẻ như cô ở dưới mức trung bình. Thực tế là, khi che tai đi, cô không có gì đặc sắc. Tôi không hiểu tại sao bà X lại chọn cô. Có lẽ bà đánh hơi thấy trong sự tầm thường của cô một vẻ rực rỡ đặc biệt, hoặc có thể bà nghĩ một cô gái tầm thường sẽ là của hiếm. Dù cách nào đi nữa, tầm nhìn của bà X đã trúng mục tiêu, bạn gái tôi nhanh chóng có một số lượng khách quen nhất định. Cô mặc quần áo bình thường, trang điểm bình thường, mặc quần áo lót bình thường và xức một loại nước hoa bình thường khi cô tới khách sạn Hilton, Okura hay Prince để ngủ với một hai gã đàn ông mỗi tuần, thế là kiếm đủ để sống cho cả một tháng.

Một nửa các đêm khác cô ngủ với tôi miễn phí. Nửa còn lại tôi không biết cô qua đêm thế nào.

Cuộc sống của cô với tư cách người sửa bản in cho nhà xuất bản thì bình thường hơn. Ba ngày một tuần cô đáp xe đến Kanda, tới tầng thứ ba của một tòa nhà văn phòng nhỏ, và từ chín giờ đến năm giờ cô đọc và sửa các bản in thử, pha trà, chạy xuống dưới gác (không có thang máy trong tòa nhà) mua tẩy. Cô là người được sai làm chân chạy vặt, không phải vì ai đó có gì chống lại cô, mà bởi vì cô là gái chưa chồng duy nhất trong công ty. Như một con tắc kè hoa, cô thay đổi cùng với môi trường và hoàn cảnh, có khả năng tùy ý tập trung hoặc kiềm chế vẻ rực rỡ của mình.

Tôi biết cô (hay đúng hơn là, tai cô) lần đầu tiên ngay sau khi tôi chia tay vợ. Đó là vào đầu tháng Tám. Tôi đang thực hiện một hợp đồng phụ về viết quảng cáo cho một công ty phần mềm máy tính, bên đã đưa tôi mặt đối mặt, ấy là nói như vậy, với đôi tai cô.

Giám đốc công ty quảng cáo đặt bản dự thảo chiến dịch và ba bức ảnh đen trắng lớn trên bàn tôi, nói tôi chuẩn bị ba thông điệp cho các bức ảnh trong vòng một tuần. Cả ba bức là ảnh khổng lồ chụp cận cảnh một cái tai.

Một cái tai ư?

“Tại sao lại là một cái tai?” tôi hỏi.

“Ai biết được? Có gì khác kia chứ? Thì là một cái tai thôi. Cậu có một tuần để suy nghĩ về tai”.

Thế là tôi ngắm những cái tai trong cả một tuần liền. Tôi dán ba cá tai khổng lồ lên trên tường trước bản làm việc, và cả ngày trong khi hút thuốc, uống cà phê, cắt móng tay, tôi trầm ngâm suy nghĩ về mấy cái tai.

Tôi hoàn thành công việc đó trong một tuần, nhưng mấy bức ảnh chụp tai vẫn được dán trên tường. Một phần vì hạ chúng xuống quá phiền toái, một phần vì tôi đã trở nên quen thuộc với mấy cái tai ấy. Nhưng lý do chính để tôi không hạ mấy bức ảnh xuống là vì mấy cái tai đó đã mê hoặc tôi. Chúng là hình ảnh lý tưởng của một cái tai. Sự tinh túy, tuyệt phẩm của tai. Chưa bao giờ bất cứ một bộ phận được phóng to nào của cơ thế (tất nhiên là gồm cả bộ phận sinh dục) lại có một sức hút mạnh mẽ đến như vậy đối với tôi. Chúng như một vòng xoáy lớn lao nào đó của số phận hút tôi vào trong.
Một đường cong táo bạo bất ngờ cắt xéo một cách rõ ràng ngang qua mặt phẳng bức ảnh, những đường cong khác như đường chạm tinh tế uốn lượn quanh những vũng tối huyền ảo, trong khi những đường cong khác nữa lại như một bức tranh tường cổ, lần theo những huyền thoại của một thời quá khứ. Nhưng phần thịt mềm mại nơi dái tai vượt lên trên tất cả, vượt lên trên mọi vẻ đẹp và ham muốn.

Mấy ngày sau, tôi gọi tay nhiếp ảnh gia để xin tên và số điện thoại của đôi tai ấy.

“Có việc gì đấy?” tay nhiếp ảnh gia hỏi.

“Chỉ tò mò thôi mà. Thật là đôi tai quá ấn tượng”.

“Ồ, xét riêng về khoản tai thì quả đúng vậy, nhưng bản thân con bé đó chả có gì đặc biệt. Nếu cậu muốn một em non tơ, tôi có thể giới thiệu cho cậu một em người mẫu đồ tắm tôi chụp hôm trước”.

Tôi từ chối, ghi lại tên và số điện thoại của những cái tai, cảm ơn gã, rồi cúp máy.

Hai giờ, sáu giờ, mười giờ, tôi cố gọi vào số điện thoại của cô, nhưng không ai trả lời. Rõ ràng là cô đang mải tận hưởng cuộc sống của mình.

Phải đến mười giờ sáng hôm sau tôi mới gặp được cô trên điện thoại. Tôi tự giới thiệu mình một cách vắn tắt, rồi nói thêm là tôi phải nói chuyện công việc liên quan tới quảng cáo và liệu cô có thể dùng bữa tối với tôi chăng.

“Nhưng người ta bảo tôi là công việc đã xong”, cô nói.

“Đúng là công việc đã xong”, tôi nói.

Dường như cô hơi ngạc nhiên, nhưng không hỏi gì thêm. Chúng tôi hẹn nhau buổi tối hôm sau.

Tôi gọi đặt chỗ tại một nhà hàng Pháp sang trọng nhất mà tôi biết. Trên đại lộ Aoyama. Sau đó tôi lấy ra một chiếc sơ mi mới tinh, dành thời gian lựa cà vạt, rồi mặc một chiếc áo vest tôi mới chỉ mặc có hai lần trước đó.

Đúng như lời cảnh báo của tay nhiếp ảnh gia, cô gái chẳng có gì đặc biệt. Quần áo bình thường, vẻ ngoài bình thường. Cô có vẻ như là thành viên dàn đồng ca của một trường nữ sinh hạng hai. Nhưng điều đó không thành vấn đề với tôi. Điều khiến tôi thất vọng là cô giấu tai dưới làn tóc thẳng.

“Cô đang che tai của mình đi”, tôi nói một cách hờ hững.

“Đúng thế”, cô nói một cách hờ hững.

Chúng tôi đến sớm hơn dự kiến và là những người khách đến ăn tối đầu tiên tại nhà hàng. Đèn mờ mờ, người hầu bàn đem một thanh diêm dài để châm cây nến nhỏ màu đỏ trên bàn chúng tôi, và viên quản lý ném một cái nhìn soi xét lên đám khăn ăn và chén bát để đảm bảo mọi thứ đều đúng quy cách. Ván sàn gỗ sồi lắng bóng được sắp xếp theo hình chữ chi, người hầu bàn đi đi lại lại, giày phát ra tiếng lách ca lách cách. Giày của anh ta trông đắt tiền hơn giày của tôi nhiều. Nụ hồng tươi rói trong lọ, và tranh sơn dầu hiện đại, bản gốc, treo trên tường.

Tôi liếc qua danh sách rượu và chọn loại vang trắng tinh khiết, rồi chọn món nguội khai vị gồm pa tê vịt, cá trap và gan cá vây chân sốt kem tươi. Sau khi nghiên cứu kỹ thức đơn, cô gọi món canh rùa, xa lát và cá bơn lá mít, trong khi tôi gọi món canh nhím biển, bê quay với mùi tây và xa lát cà chua. Nửa tháng lương đi tong.

“Chỗ này dễ thương ghê”, cô nói. “Anh có hay đến đây không?”

“Chỉ thỉnh thoảng vì công việc thôi”, tôi trả lời, “Sự thật là tôi không thường đi nhà hàng khi tôi một mình. Tôi hay lui tới các quán bar, ở đó tôi ăn uống bất cứ thứ gì họ có. Như vậy tiện hơn. Đỡ phải có những quyết định không cần thiết”.

“Vậy anh thường xuyên ăn gì tại quán bar?”

“Thì đủ thứ. Thường là trứng ốp lết và bánh mì kẹp”.

“Trứng ốp lếp và bánh mì kẹp”, cô nhắc lại. “Ngày nào anh cũng ăn trứng ốp lếp và bánh mì kẹp tại quán bar?”

“Không phải hàng ngày. Cứ cách ba ngày thì tôi lại tự nấu ăn một lần.”

“Vậy là cứ ba ngày thì hai ngày anh ăn trứng ốp lếp và bánh mì kẹp?”

“Chắc vậy quá”, tôi nói.

“Tại sao lại là trứng ốp lếp và bánh mì kẹp?”

“Vì một quán bar tương đối có thể có trứng ốp lếp và bánh mì kẹp khá ngon”.

“Hừm”, cô nói. “Khá lạ đấy.”

“Không lạ chút nào cả”.

Tôi không biết thoát ra khỏi tình thế này như thế nào, vậy là tôi ngồi đó lặng lẽ ngắm nghía đám tro trong gạt tàn.

Cô khuấy động không khí. “Hãy nói chuyện công việc đi”.

“Như tôi đã nói với cô ngày hôm qua, công việc đã hoàn thành. Không khúc mắc gì cả. Vậy nên tôi không có gì để nói.”

Cô rút ra một điếu thuốc lá đinh hương mảnh từ trong túi xách, châm lửa bằng diêm của nhà hàng và nhìn tôi với một vẻ như muốn nói, “Rồi sao nữa?”
Tôi đang định nói thì viên quản lý tiến lại bàn chúng tôi. Ông ta chỉ cho tôi mác chai rượu, mỉm cười hạnh phúc như thể đang khoe với chúng tôi ảnh đứa con trai duy nhất của mình. Tôi gật đầu. Ông ta mở nút chai với một tiếp bốp nhẹ, rồi rót một chút vào ly của tôi. Ngụm rượu có vị như giá của cả bữa tối.

Viên quản lý rút lui và thế chỗ ông ta là một người hầu bàn đặt ba món nguội khai vị và một chiếc đĩa nhỏ trước mặt mỗi người chúng tôi. Khi người hầu bàn đi, để chúng tôi một mình, tôi buột miệng, “Tôi phải nhìn thấy tai của cô.”

Không nói một lời nào, cô tiếp tục dùng món pa tê và gan cá vây chân. Cô nhấp một ngụm rượu. “Xin lỗi đã khiến cô phải chịu đựng,” tôi tìm lời thoái thác.

Cô cười rất khẽ, “Món ăn Pháp ngon thế thì đâu có phải chịu đựng gì đâu.”

“Cô có bực mình không khi đôi tai của mình bị đem ra làm đề tài nói chuyện?”

“Có sao đâu. Điều đó phụ thuộc và cách nói chuyện.” Cô lắc đầu trong khi đưa đĩa lên miệng. “Hãy cứ nói thẳng với tôi, vì đó là cách tôi thích nhất.”
Chúng tôi lặng lẽ nhấp rượu và tiếp tục dùng bữa.

“Tôi rẽ ở một góc phố,” tôi ướm lời, “ngay khi người đi trước tôi rẽ ở góc phố tiếp theo. Tôi không thể thấy người đó trông như thế nào. Tất cả những gì tôi nhìn ra được là cái đuôi áo trắng tinh thấp thoáng trong giây lát. Nhưng màu trắng của cái đuôi áo ấy hằn sâu mãi mãi trong tâm thức tôi. Cô đã bao giờ có cảm giác đó chưa?”

“Có lẽ rồi.”

“Ừm, đó là cảm giác của tôi khi nhìn thấy tai cô.”

Chúng tôi lại cắm cúi ăn trong yên lặng. Tôi rót rượu cho cô, rồi cho mình.

“Cái lưu lại trong tâm trí anh không phải là cảnh tượng,” cô hỏi, “mà là cảm giác, đúng vậy không?”

“Đúng thế.”

“Trước đó anh đã bao giờ có cảm giác ấy chưa?”

Tôi suy nghĩ một chút, rồi lắc đầu. “Chưa, tôi nghĩ là chưa.”

“Nghĩa là tất cả đều do tai tôi.”

“Tôi không thể khẳng định điều đó. Tôi không dám chắc chắn. Tôi chưa bao giờ nghe nói hình dáng của tai lại khêu gợi người ta như thế này.”

“Tôi biết có người hắt hơi mỗi lần trông thấy mũi của Farrah Fawcett. Anh biết không, có cả một yếu tố tâm lý lớn liên quan đến hắt hơi. Một khi có đường nối nhân quả thì không còn thoát đi đâu được.”

“Tôi không phải chuyên gia về mũi của Farrah Fawcett,” tôi nói, nhấp một ngụm rượu. Rồi tôi quên mất điều mình định nói.

“Đó không hẳn là điều anh muốn nói, đúng không?” cô nói.

“Không, không hẳn,” tôi nói. “Cái cảm giác tôi đang có, nó mông lung khủng khiếp, tuy vậy lại rất chắc chắn.” Tôi diễn đạt, nắm hai tay cách người một thước, rồi dồn khoảng cách đó lại thành năm centimet. “Tôi e là tôi không diễn đạt điều này cho đúng được.”

“Một hiện tượng tập trung dựa trên những động cơ mơ hồ.”

“Chính xác,” tôi nói. “Cô thông minh hơn tôi ít nhất là bảy lần.”

“Tôi theo học mấy lớp từ xa.”

“Lớp học từ xa ư?”

“Đúng vậy, lớp tâm lý học qua đường thư.”

Chúng tôi chia nhau miếng pa tê cuối cùng. Giờ thì tôi hoàn toàn mất phương hướng.

“Anh vẫn chưa hiểu sao? Mối quan hệ giữa tai tôi và cảm giác của anh?”

“Nói tóm lại là chưa,” tôi nói. “Nghĩa là, tôi không hiểu rõ liệu tai cô quyến rũ tôi một cách trực tiếp, hay là liệu có một cái gì đó trong cô quyến rũ tôi thông qua tai cô.”

Cô đặt cả hai tay lên bàn rỗi khẽ lắc đầu. “Cái cảm giác này của anh là thuộc diện tốt hay xấu vậy?”

“Không tốt cũng chẳng xấu. Hay có lẽ cả hai. Tôi không nói được.”

Cô nắm chặt ly rượu giữa hai lòng bàn tay và nhìn thẳng vào mặt tôi. “Có vẻ như anh cần nghiên cứu thêm về phương diện thể hiện cảm xúc.”

“Tôi cũng tệ cả khoản mô tả cảm xúc nữa,” tôi nói.

Đến đó cô mỉm cười. “Không sao cả. Tôi nghĩ tôi hiểu rõ anh định nói gì.”

“Vậy thì, tôi nên làm gì đây?”

Cô không nói gì một lúc thật lâu. Dường như cô đang chìm trong suy nghĩ về một điều gì đó khác. Năm chiếc đĩa nằm trống trơn trên bàn, một chòm năm hành tinh đã bị hủy diệt.

“Này anh,” cô kết thúc sự yên lặng. “Tôi nghĩ chúng ta nên trở thành bạn bè. Tất nhiên là nếu anh đồng ý.”

“Tất nhiên là tôi đồng ý rồi.”

“Và tôi muốn nói là những người bạn rất thân,” cô nói.

Tôi gật đầu.

Và thế là chúng tôi trở thành những người bạn rất thân. Chưa đầy ba mươi phút sau lần đầu gặp mặt.

“Với tư cách là bạn thân, có một vài điều anh muốn hỏi em,” tôi nói.

“Anh hỏi đi.”

“Trước hết là tại sao em không để lộ tai? Hai là, đã bao giờ tai em có ảnh hưởng đặc biệt đến ai ngoài anh ra không?”

Không một lời, cô chăm chăm nhìn đôi bàn tay đang đặt trên bàn.

“Có vài người,” cô nói khẽ.

“Vài người ư?”

“Ừ. Nhưng nói một cách khác, em quen với cái tôi không để lộ tai của mình hơn.”

“Nghĩa là cái tôi để lộ tai của em khác với cái tôi không để lộ tai của em.”

“Đúng.”

Hai người hầu bàn dọn đĩa ăn của chúng tôi và mang món xúp ra.

“Em có thể kể cho anh về con người để lộ tai của em được không?”

“Đã lâu quá rồi, em e không kể cho tường tận được. Sự thật là, em không hề để lộ tai mình lấy một lần kể từ khi em hai mươi tuổi.”

“Nhưng khi em làm người mẫu tai, em để lộ tai của mình đấy thôi?”

“Đúng thế,” cô nói, “nhưng không phải tai thật của em.”

“Không phải tai thật của em ư?”

“Đó là đôi tai đã bị bịt kín.”

Tôi ăn hai thìa xúp đầy và ngẩng nhìn cô.

“Kể cho anh nghe thêm về ‘đôi tai đã bị bịt kín’ của em đi.”

“Đôi tai đã bị bịt kín là đôi tai đã chết. Em đã giết chính đôi tai của mình. Nghĩa là, em cắt đường thông tai một cách có ý thức… Anh vẫn hiểu em nói gì đấy chứ?”

Không, tôi không hiểu cô.

“Vậy thì anh hỏi em đi,” cô nói.

“Khi nói giết chính đôi tai của mình, có phải ý em là em tự làm cho mình bị điếc?”

“Không, em có thể nghe khá rõ. Nhưng ngay cả khi đó, tai em đã chết. Anh cũng có thể làm thế.”

Cô đặt thìa xúp xuống, ngồi thẳng lưng, nâng cao vai năm centimet, đẩy hàm ra phía trước, giữ nguyên tư thế đó trong cả mười giây, và đột nhiên hạ vai xuống.

“Thấy chưa. Tai em đã chết. Giờ anh thử đi.”

Tôi lặp lại động tác cô đã làm ba lần. Một cách chậm rãi, cẩn thận, nhưng không gì cho tôi cảm giác là tai tôi đã chết. Rượu đang nhanh chóng luồn lách trong cơ thể tôi.

“Anh tin là tai mình đã không chết đúng cách,” tôi nói, thất vọng.

Cô lắc đầu. “Không sao đâu. Nếu tai anh không cần chết thì chả có gì sai khi chúng không chết cả.”

“Anh có thể hỏi em một điều không?”

“Anh hỏi đi.”

“Nếu tổng kết lại tất cả mọi thứ em kể cho anh, có vẻ như thế này: em để lộ tai cho đến khi hai mươi tuổi. Rồi một ngày kia em che tai đi. Và từ ngày đó trở đi, em không một lần nào để lộ tai. Nhưng vào những lúc em bắt buộc phải để lộ tai, em chặn đường thông nối giữa tai em và ý thức em. Có đúng thế không?”

Một nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt cô. “Đúng thế đấy.”

“Điều gì đã xảy đến với tai em khi em hai mươi tuổi?”

“Anh đừng có hối thúc mọi thứ,” cô nói, với tay phải qua bàn, chạm nhẹ vào bàn tay trái tôi. “Em xin anh đó.”

Tôi rót nốt chỗ rượu còn lại vào ly hai chúng tôi và chậm rãi uống ly của mình.

“Trước tiên, em muốn biết thêm về anh,” cô bắt đầu.

“Điều gì về anh nào?”

“Mọi thứ. Anh được nuôi dạy ra sao, anh bao nhiêu tuổi, anh làm nghề gì, đại loại như vậy.”

“Chuyện anh thường lắm. Quá mức bình thường, có lẽ em sẽ ngủ gật giữa chừng mất.”

“Em thích những câu chuyện bình thường.”

“Chuyện của anh là loại chuyện bình thường mà không ai muốn nghe.”

“Không sao cả, kể cho em trong mười phút thôi.”

“Anh sinh năm 1948, vào ngày 24 tháng Mười hai, đêm Giáng sinh. Nào, đêm Giáng sinh không phải là một ngày sinh nhật hay ho gì. Anh muốn nói là người ta không nhận được quà sinh nhật và quà Giáng sinh tách biệt. Mọi người đều nghĩ họ sẽ tiết kiệm được tiền bằng cách đó. Sao chiếu mệnh của anh là sao Ma Kết và nhóm máu anh là nhóm máu A – một sự kết hợp hoàn hảo cho nghề giao dịch viên ngân hàng và công chức. Anh không hợp với những người sao Nhân Mã, Bảo Bình và Thiên Bình. Một cuộc đời tẻ nhạt, em có nghĩ thế không?”

“Em đang bị thu hút đây.”

“Anh lớn lên tại một thị trấn nhỏ bình thường, đi học ở một trường bình thường. Anh là một đứa bé lặng lẽ, nhưng rồi lớn lên thành một thằng nhỏ mau chán. Anh gặp một cô bạn gái bình thường, có một mối tình đầu bình thường. Năm mười tám tuổi, anh đi học đại học ở Tokyo. Khi ra trường, anh và một người bạn mở một dịch vụ biên dịch nho nhỏ, và bằng cách này cách khác bọn anh sống lần hồi. Ba năm trước, bọn anh bỏ vốn kinh doanh vào các bản tin PR và các công việc liên quan đến quảng cáo, việc đó tiến triển khá tốt. Anh có quan hệ với một trong những người phụ nữ làm trong công ty. Bọn anh cưới nhau bốn năm trước và ly dị hai tháng trước. Anh không thể nói tóm gọn lại vì lý do duy nhất nào. Anh có một con mèo đực làm vật nuôi trong nhà. Hút bốn mươi điếu thuốc mỗi ngày. Có vẻ như không thể bỏ được. Anh có ba bộ com lê, sáu chiếc cà vạt, cộng với một bộ sưu tập năm trăm đĩa nhạc đã lỗi thời hết thuốc chữa. Anh nhớ tất cả tên của những kẻ giết người trong mọi truyện trinh thám từng được Ellery Queen viết ra. Anh có trọn bộ cuốn Đi tìm thời gian đã mất, nhưng mới chỉ đọc có một nửa. Anh uống bia vào mùa hè, whisky vào mùa đông.”

“Và cứ ba ngày thì hai ngày anh ăn trứng ốp lết và bánh mỳ kẹp tại quán bar, đúng không?”

“À há,” tôi nói.

“Thật là một cuộc sống thú vị.”

“Đến giờ thì vẫn tẻ nhạt thôi. Có lẽ từ giờ trở đi nó cũng sẽ vẫn mãi như thế. Nói vậy không có nghĩa điều đó làm anh bận tâm. Ý anh là, anh chấp nhận những gì đến với mình.”

Tôi nhìn đồng hồ. Chín phút, hai mươi giây.

“Nhưng những gì anh vừa kể em nghe không phải là tất cả, đúng không?”

Tôi nhìn chằm chằm vào tay mình trên bàn. “Tất nhiên đó không phải là tất cả. Không bao giờ kể hết chuyện về cuộc đời một ai đó, cho dù nó có tẻ nhạt đến mức nào.”

“Em có thể nhận xét không?”

“Tất nhiên rồi.”

“Bất cứ khi nào em gặp mọi người lần đầu tiên, em gợi cho họ nói chuyện trong mười phút. Sau đó em đánh giá họ từ khía cạnh đối ngược hoàn toàn với tất cả những gì họ kể cho em. Anh có nghĩ điều đó điên rồ không?”

“Không,” tôi nói, lắc dầu, “anh đoán là phương pháp của em có hiệu quả đấy.”

Một người hầu bàn tiến lại, bày ra những chiếc đĩa mới, một người hầu bàn khác dọn món chính trên những chiếc đĩa ấy, và một người khác nữa rưới nước xốt lên. Một tình huống phòng ngự kiểu kép nhanh gọn, chặn ngắn tới chốt hai, chốt hai tới chốt một.

“Áp dụng cách thức này đối với anh, em rút ra dược một điều,” cô nói, đặt con dao lên trên món cá bơn. “Rằng cuộc đời anh không buồn tẻ. Anh ước cuộc đời mình buồn tẻ. Em suy luận có sai không?”

“Có lẽ không. Có lẽ cuộc đời anh không buồn tẻ, có lẽ anh không thật sự đi tìm một cuộc đời buồn tẻ. Nhưng kết quả cũng giống nhau cả thôi. Cách nào đi chăng nữa anh cũng biết được điều gì sẽ xảy ra. Hầu hết mọi người cố thoát ra khỏi sự nhàm chán, nhưng anh lại cố rút vào sâu bên trong cái sự nhàm chán ấy. Đó là lý do tại sao anh không than vãn khi nói cuộc đời mình tẻ nhạt. Dù sao thì nó cũng đủ làm vợ anh bỏ đi.”

“Đó có phải lý do anh và vợ anh chia tay?”

“Như anh đã nói trước, anh không thể tóm gọn lại trong một lý do duy nhất nào. Nhưng như Nietzche nói, ‘Đấu tranh chống lại sự nhàm chán, ngay cả thần thánh cũng phải đầu hàng.’”

Chúng tôi nhẩn nha ăn. Cô thêm nước xốt, tôi thêm bánh mì. Sau đó đĩa bát được dọn đi, chúng tôi ăn món kem việt quất, và đến lúc họ đem cà phê ra tôi châm một điếu thuốc. Khói thuốc lơ lửng giây lát trước khi hệ thống thông gió không tiếng ồn lặng lẽ cuốn nó đi.

Mọi người bắt đầu lục tục đến các bàn bên. Một bản concerto của Mozart phát ra từ dàn loa trên cao.

“Nếu có thể, anh muốn được hỏi thêm về đôi tai của em,” tôi nói.

“Anh muốn hỏi liệu tai em có sở hữu một thứ quyền lực đặc biệt nào đó chăng?”

Tôi gật đầu.

“Đó là điều anh phải tự mình kiểm tra lấy,” cô nói. “Nếu em kể cho anh nghe điều gì, có lẽ anh sẽ không hứng thú nữa. Có thể còn làm cản trở anh đó.”
Tôi gật đầu lần nữa.

“Với anh, em sẽ cho anh xem tai mình,” cô nói, sau khi dùng cà phê xong. “Nhưng em không biết điều đó có thực sự có lợi cho anh hay không. Có lẽ cuối cùng anh sẽ hối tiếc vì điều đó.”

“Nghĩa là sao?”

“Cái sự tẻ nhạt của anh có lẽ không thâm căn cố đế như anh nghĩ.”

“Đó là cơ hội mà anh phải nắm bắt,” tôi nói.

Cô với tay qua bàn và đặt tay lên tay tôi. “Còn điều này nữa: tạm thời – cứ cho là trong mấy tháng tới – đừng rời xa em. Được chứ?”

“Chắc chắn rồi.”

Đến đó, cô lấy trong túi xách ra một chiếc dây buộc tóc màu đen. Giữ nó giữa hai môi, cô đưa hai tay vén tóc ra đằng sau, xoắn một vòng, rồi nhanh chóng buộc tóc lại đằng sau.

“Thế nào?”

Tôi nín thở và nhìn chằm chằm vào cô, sững sờ. Miệng tôi đắng ngắt. Tôi không thể thốt nên lời. Trong thoáng chốc, bức tường trát thạch cao trắng dường như gợn sóng. Âm thanh của những người khách đến ăn tối và tiếng lách cách của tiếng dao dĩa nhỏ dần đi, rồi trở lại bình thường. Tôi nghe thấy tiếng sóng, nhớ lại mùi hương của buổi tối đã bị quên lãng từ lâu. Tuy vậy mọi thứ đơn thuần là những mảnh vụn của những cảm giác chạy qua người tôi trong mấy phần trăm giây ấy.

“Tinh túy,” tôi cố gắng lắm mới nói được một câu. “Anh không thể tin được đó lại là cùng một người.”

“Hiểu điều em nói chưa?” cô nói.

Chú thích

[1] Creature of the Black Lagoon (1954), một bộ phim về quái vật của Mỹ do Jack Arnold đạo diễn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 17:02:01 | Xem tất
Chương 5: Đôi Tai Không Bịt Kín


“Hiểu điều em nói chưa?” cô nói.

Cô trở nên vô cùng xinh đẹp, vẻ đẹp vượt trên mọi sự hiểu biết. Chưa bao giờ mắt tôi được say mê thưởng thức một vẻ đẹp đến nhường vậy. Loại vẻ đẹp tôi chưa bao giờ mơ tưởng sẽ tồn tại trên đời. Rộng mở như cả vũ trụ, nhưng đồng thời cũng dày đặc như một dòng sông băng. Dư thừa một cách không hề bối rối, nhưng đồng thời cũng được rút gọn đến phần cốt lõi. Nó vượt lên trên mọi khái niệm trong tầm hiểu biết của tôi. Cô với đôi tai là một, lướt bay qua mặt cắt của thời gian như một luồng sáng thay đổi liên tục.

“Em thật đặc biệt,” tôi nói, sau khi lấy lại hơi thở.

“Em biết,” cô nói. “Đó là tai em trong trạng thái không bị bịt kín.”

Lúc này, một vài vị khách quay sang chúng tôi, mồm há hốc ra nhìn chằm chằm vào cô. Người hầu bàn mang thêm cà phê không tài nào rót được đúng cách. Không một ai thốt được lời nào. Chỉ có cuộn băng trên đầu từ cứ tiếp tục quay chậm rãi.

Cô rút ra một điếu thuốc lá đinh hương trong ví đưa lên môi. Tôi lập cập châm lửa cho cô bằng bật lửa của mình.

“Em muốn ngủ với anh,” cô nói.

Thế là chúng tôi ngủ với nhau.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 17:05:31 | Xem tất
Chương 6: Những Cuộc Phiêu Lưu Tiếp Theo Của Đôi Tai Không Bịt Kín


Tuy vậy tôi phải mất công đợi cô bộc lộ vẻ rực rỡ chói lọi của mình. Hai ba ngày sau đó, cô chỉ thỉnh thoảng để lộ tai, rồi lại giấu kỳ công của tạo hóa ấy sau tóc và trở về với vẻ bình thường.

Đối với cô, việc ấy cũng như thể cố cởi áo khoác trong giá rét đầu tháng Ba. “Em cho là giờ vẫn chưa phải lúc để lộ tai”, cô nói. “Em chưa hoàn toàn thoải mái với chúng.”

“Thật ra anh không phản đối đâu,” tôi nói. Ngay cả khi che tai đi, cô cũng xinh ra phết.

Cô thỉnh thoảng cho tôi xem tai; hầu hết vào những lúc gần gũi nhau. Gần gũi cô khi cô để lộ tai là một trải nghiệm tôi chưa từng biết đến. Khi trời mưa, mùi mưa biểu lộ vô cùng rõ ràng. Khi chim hót, điệu nhạc của chúng nghe cực kỳ sáng rõ. Tôi không biết phải diễn đạt như thế nào, nhưng đúng là như thế đó.

“Em không để lộ tai khi ngủ với những người đàn ông khác ư?” một lần tôi hỏi cô.

“Tất nhiên là không,” cô nói. “Có lẽ họ còn chẳng biết là em có tai nữa.”

“Chuyện ấy như thế nào với em khi em không để lộ tai?”

“Một nhiệm vụ. Khô khan và vô vị, như nhai giấy báo vậy. Nhưng như thế cũng chẳng sao. Anh biết đấy, hoàn thành một nhiệm vụ chẳng có gì xấu cả.”

“Nhưng khi tai em lộ ra chuyện ấy tốt hơn ngàn lần, đúng không?”

“Tất nhiên rồi.”

“Vậy thì em nên để lộ chúng ra,” tôi nói. “Không cần phải chịu đựng những lúc buồn tẻ ấy một cách vô cớ.”

Vô cùng nghiêm túc, cô nhìn chằm chằm vào tôi và nói, “Anh không hiểu gì hết.”

Tất nhiên, có nhiều thứ tôi không hiểu gì hết.

Chẳng hạn, lý do tại sao cô đối xử với tôi một cách đặc biệt. Tôi không bao giờ có thể tin rằng mình lại hay hơn hoặc khác biệt với bất kỳ người nào khác.

Nhưng khi tôi kể điều đó cho cô, cô chỉ cười.

“Thật ra rất đơn giản,” cô nói. “Anh cất công đi tìm em. Đó là lý do lớn nhất.”

“Và giả sử một người nào khác đã cất công đi tìm em?”

“Ít nhất trong thời điểm hiện tại, anh là người muốn em. Hơn nữa, anh tốt hơn nhiều so với những gì anh nghĩ về mình.”

“Vậy tại sao anh lại cứ nghĩ như vậy?” tôi bối rối.

“Đó là vì anh chỉ sống có một nửa,” cô nói nhanh. “Nửa kia vẫn còn ngủ yên đâu đó.”

“Hừm.”

“Theo nghĩa đó, anh không khác em. Em đang che giấu tai mình, còn anh chỉ có một nửa con người mình là đang thật sự sống. Chắc có vẻ như vậy quá đúng không?”

“Ngay cả khi đúng như vậy, cái nửa còn lại của anh không thể nào sánh được với tai em.”

“Có lẽ là không,” cô mỉm cười. “Anh đâu có biết được, đúng không?”

Và vẫn giữ nụ cười đó, cô hất tóc ra sau và cởi khuy áo.

Buổi chiều tháng Chín gần về cuối hè ấy, tôi nghỉ phép một ngày và nằm trên giường với cô, vuốt tóc cô và ngẫm nghĩ về cái dương vật cá voi. Biển, một màu chì xám sẫm. Một cơn gió lộng quật vào cửa sổ khu hải dương. Trần nhà cao ngất, phòng trưng bày vắng tanh. Cái dương vật bị cắt rời mãi khỏi con cá voi, ý nghĩa của nó với tư cách là dương vật cá voi đã bị mất đi vĩnh viễn.

Rồi tôi lại nghĩ đến chiếc váy ngủ của vợ tôi. Không có chiếc váy ngủ thật nào. Chỉ có điều, vương vấn trong đầu tôi là hình ảnh mơ hồ về một chiếc váy ngủ vắt hờ trên ghế. Tôi không thể nhớ được chiếc váy đã có ý nghĩa như thế nào với tôi. Liệu có phải một ai đó khác đã sống cuộc đời tôi trong cả quãng thời gian ấy.

“Nói anh nghe, em không mặc váy ngủ phải không?” tôi hỏi bạn gái tôi.

Cô nhấc đầu khỏi vai tôi và nhìn tôi một cách hững hờ.

“Em không có chiếc nào.”

“Hừm,” tôi nói.

“Nhưng nếu anh nghĩ anh sẽ hứng thú hơn nếu em…”

“Không, không phải như vậy,” tôi nhanh chóng cắt lời. “Đó không phải là lý do tại sao anh hỏi.”

“Không, thật đấy, anh không cần phải ngượng. Em hoàn toàn quen với mấy thứ đó do công việc của mình. Em không hề ngượng chút nào.”

“Anh không đòi hỏi bất cứ thứ gì,” tôi nói. “Nói thật nhé, mọi thứ anh cần là em và đôi tai em, không hơn.”

Cô bĩu môi lắc đầu và dụi trán vào vai tôi. Chưa đầy mười lăm giây sau, cô ngẩng lên.

“Này anh, sẽ có một cuộc điện thoại quan trọng trong mười phút nữa.”

“Một cuộc điện thoại ư?” Tôi liếc nhìn chiếc điện thoại bên giường.

“Đúng thế, chuông điện thoại sắp reo.”

“Em có thể đoán được à?”

“Em đoán được.”

Cô châm cho mình một điếu thuốc, đầu dựa trên ngực tôi. Một lát sau, tàn thuốc của cô rơi cạnh rốn tôi và cô chun môi thổi tắt đi. Tôi sờ tai cô giữa những ngón tay mình. Đó là một cảm giác thật tuyệt vời. Đầu óc tôi trống rỗng với những hình ảnh không ra hình thù gì buông trôi lơ lửng.

“Một điều gì đó liên quan đến cừu,” cô nói. “Rất nhiều cừu và đặc biệt một con cừu.”

“Cừu ư?”

“À há,” cô nói, đưa điếu thuốc hút dở một nửa cho tôi. Tôi rít một hơi, rồi dụi thuốc vào gạt tàn. “Và đó sẽ là khởi đầu cho một cuộc phiêu lưu hoang dại.”

Ngay sau đó chuông điện thoại reo. Tôi nhìn cô, nhưng cô đã ngủ gật trên ngực tôi. Tôi để chuông điện thoại reo bốn lần mới nhấc máy.

Đó là tay đối tác. “Cậu có thể đến đây ngay được không?” hắn nói. Có một vẻ gì giận dữ trong giọng hắn. “Tôi có một việc cực khẩn muốn bàn với cậu.”

“Khẩn như thế nào?”

“Cứ đến đây rồi cậu sẽ thấy,” hắn nói.

“Có trời mới biết việc này liên quan đến cừu,” tôi nói, thử xem phản ứng của hắn thế nào. Đó là điều tôi không nên nói. Ống nghe trở nên lạnh băng.

“Làm sao cậu biết được?” tay đối tác hỏi.

Cuộc rượt đuổi cừu hoang bắt đầu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 5-7-2014 17:12:52 | Xem tất
Phần IV: Cuộc Săn Cừu Hoang
- Chương 7: Trước Người Đàn Ông Lạ Mặt


Có vô vàn lý do giải thích tại sao một cá nhân lại có thể thường xuyên tiêu thụ một khối lượng rượu lớn, nhưng thực tế thì tất cả đều rút lại thành một điều.

Năm năm trước, tay đối tác của tôi là một gã say vui vẻ. Ba năm sau, hắn trở thành một gã say ủ rũ. Và đến mùa hè vừa rồi hắn dò dẫm ở ngưỡng cửa nghiện ngập. Với hầu hết những kẻ uống rượu thường xuyên, hắn là loại người khá tử tế, bình thường, nếu không muốn nói là đặc biệt sắc sảo khi tỉnh táo. Tất cả mọi người đều nghĩ về hắn như một người khá tử tế, bình thường, tuy không hẳn là đặc biệt sắc sảo. Hắn cũng nghĩ vậy. Đó là lý do tại sao hắn uống rượu. Vì có vẻ như khi có tí cồn trong cơ thể, hắn có thể hoàn toàn trở thành hiện thân của cái ý tưởng loại người như trên.

Lúc đầu mọi việc đều ổn. Nhưng cùng với thời gian và lượng rượu tăng dần lên, những thay đổi rất nhỏ xuất hiện, và những thay đổi rất nhỏ dần dần tạo thành một rãnh sâu. Cái sự bình thường và khá tử tế của hắn đã vượt hắn một quãng xa. Một trường hợp điển hình. Tuy nhiên thường thì người ta không nghĩ về mình như là một trường hợp điển hình. Và loại người không-hẳn-là-đặc-biệt-sắc-sảo lại càng nghĩ ít như vậy hơn. Cố gắng tìm lại những gì đã mất, hắn chỉ càng lang thang trong một màn sương cồn thậm chí còn dày đặc hơn.

Tuy thế, ít ra là trong lúc này đây, hắn là một gã đàn ông bình thường cho tới khi mặt trời lặn. Và vì từ nhiều năm nay tôi đã cố gắng một cách có ý thức không gặp hắn sau khi mặt trời lặn, đối với tôi hắn cũng đủ bình thường. Ngay cả như vậy, tôi biết quá rõ là sau khi mặt trời lặn hắn trở nên không còn bình thường nữa, và bản thân hắn cũng biết thế. Vì không ai trong hai người chúng tôi từng động chạm đến đề tài này, chúng tôi vẫn ăn ý với nhau như trước. Chỉ có điều chúng tôi không còn là bạn như xưa.

Tuy thế không thể nói tôi hiểu hắn một trăm phần trăm (thậm chí bảy mươi phần trăm cũng là tốt rồi), nhưng dù gì đi nữa, hắn vẫn là người bạn duy nhất thời đại học của tôi, và không dễ dàng gì khi chứng kiến hắn trở nên sa ngã từ một góc độ gần. Rốt cuộc, có lẽ đó là sự tàn phá của thời gian.

Lúc tôi đến văn phòng thấy hắn đã làm một ngụm whisky. Chừng nào chỉ là một ngụm, hắn có thể là người bình thường, nhưng không thể nào biết được khi nào hắn sẽ tăng cái bình thường đó lên thành hai. Khi điều đó xảy ra, tôi biết chúng tôi sẽ phải ai đi đường nấy.

Tôi đang đứng trong luồng khí lạnh từ máy điều hòa để cho ráo mồ hôi, miệng nhấp một ly trà lúa mạch mát lạnh. Tôi không nói gì, hắn không nói gì. Mặt trời buổi chiều gay gắt đổ lên tấm vải sơn lót nhà những tia nắng đầy ảo giác. Dưới kia, trên khoảng đất xanh tươi của công viên, mọi người nằm dài trên cỏ tắm nắng. Tay đối tác của tôi gõ gõ đầu cây bút bi lên lòng bàn tay phải.

“Tôi nghe nói cậu ly dị,” hắn mở đầu.

“Đó là tin cách đây hai tuần rồi,” tôi nói, vẫn còn nhìn chằm chằm ra cửa sổ. Tôi bỏ kính râm ra, và mắt tôi thấy đau.

“Thế tại sao cậu lại ly dị?”

“Lý do cá nhân thôi.”

“Tôi biết,” hắn nói. “Chưa bao giờ nghe nói đến ly dị vì lý do khác ngoài lý do cá nhân.”

Tôi không nói gì. Chẳng phải chúng tôi đã có một thỏa thuận không lời từ trước đến giờ là không bao giờ động chạm đến chuyện riêng tư của nhau đó sao?

“Tôi không có ý soi mói,” hắn nói, “nhưng cô ấy cũng là bạn tôi. Tin đó đến bất ngờ quá. Tôi cứ nghĩ hai người lúc nào cũng thân thiết.”

“Chúng tôi lúc nào cũng thân thiết. Có phải chúng tôi chia tay nhau một cách hằn học đâu.”

Tay đối tác của tôi cười kiểu cách, tiếp tục gõ bút lên lòng bàn tay. Hắn mặc áo sơ mi xanh thẫm, đeo cà vạt đen, mái tóc chải gọn gàng, xức nước hoa. Trong khi đó tôi mặc áo phông in hình Snoopy đang vác ván lướt sóng, quần bò cũ hiệu Levi’s đã giặt nhiều đến mức không còn màu gì nữa, và đi giày thể thao bẩn. Đối với bất kỳ ai, rõ ràng hắn mới là kẻ bình thường.

“Cậu nhớ khi cô ấy và hai ta làm việc cùng nhau chứ?”

“Tôi nhớ rất rõ,” tôi nói.

Tôi đi khỏi chỗ máy điều hòa, đến giữa phòng, ngồi phịch xuống chiếc xô pha Thụy Điển bọc nhung lông xanh da trời. Tôi rút một điếu Pall Mall đầu lọc khỏi hộp thuốc lá dành cho khách đặc biệt và châm thuốc bằng chiếc bật lửa nặng đặt bàn.

“Thì sao?” tôi nói.

“Tôi nghĩ chúng ta đã làm việc quá sức mình.”

“Cậu muốn nói đến công việc quảng cáo và tạp chí?”

Tay đối tác của tôi gật đầu, mặc dù có lẽ phải khó khăn lắm hắn mới thú nhận điều đó. Tôi nâng chiếc bật lửa trong tay, vặn núm điều chỉnh ngọn lửa và cảm thấy thương hại hắn.

“Được rồi, tôi biết cậu muốn nói gì,” tôi nói, để lại chiếc bật lửa vào chỗ cũ trên bàn, “những hãy nhớ rằng tôi không phải là người đem lai việc kinh doanh này, và làm công việc này cũng không phải ý tưởng của tôi. Là cậu tự dấn vào. Cậu là người muốn thử nghiệm.”

“Do hoàn cảnh bắt buộc. Chúng ta không có gì…”

“Việc đó kiếm ra tiền.”

“Tất nhiên là việc đó kiếm ra tiền. Cho phép chúng ta dọn đến một văn phòng rộng hơn và tuyển thêm nhân viên. Tôi mua xe mới, tậu một căn hộ, cho hai đứa con nhỏ học tại một trường đắt tiền. Tôi nghĩ là không tồi đối với người ba mươi tuổi.”

“Cậu xứng đáng được hưởng những điều đấy. Chả có gì phải xấu hổ cả.”

“Ai xấu hổ?” tay đối tác của tôi nói, lấy lại cây bút bi đã bay qua bàn hắn và chọc chọc bút vào giữa lòng bàn tay. “Nhưng cậu biết đấy, điều đó có vẻ không thật. Ngày trước hai thằng chúng mình tay trắng nợ nần chồng chất, cố nẫng được mấy vụ dịch dọt, phát tờ rơi quảng cáo dọc sân ga.”

“Giờ thì điều gì ngăn cản chúng ta phát tờ rơi quảng cáo nếu chúng ta muốn?”

Tay đối tác ngẩng lên nhìn tôi. “Này, tôi không đùa đâu.”

“Tôi cũng vậy.”

Yên lặng bao trùm lấy chúng tôi.

“Nhiều thứ đã thay đổi,” tay đối tác của tôi nói. “Tốc độ cuộc sống, tư duy của chúng ta. Trên hết, chúng ta thậm chí không biết được chúng ta thực sự kiếm được bao nhiêu. Nhân viên kế toán thuế đến lo hết mấy vụ giấy tờ kinh khủng ấy, nào là miễn thuế, trừ thuế, xóa nợ và còn gì gì nữa.”

“Giống như những chỗ khác thôi.”

“Tôi biết, tôi biết. Đó là những thứ chúng ta phải làm và đang làm. Nhưng ngày xưa làm thấy thích hơn.”

“Trông kìa bóng tối của nhà tù chưa bao giờ nhắc đến. Giờ nhân lên gấp bội quanh những tháng ngày của ta.” Những vẫn thơ của một bài thơ bỗng nhiên buột ra khỏi miệng tôi.

“Lại gì nữa thế?”

“Không có gì cả, xin lỗi nhé. Cậu đang nói cái gì kia?”

“Tôi cứ cảm thấy như chúng ta đang dính líu vào một dạng bóc lột.”

“Bóc lột ư?” Tôi ngẩng lên ngạc nhiên.

Khoảng cách giữa hai chúng tôi là hai thước, và do độ cao khác nhau của hai chiếc ghế, đầu hắn nhô cao hơn đầu tôi khoảng hai mươi lăm centimet. Một bức thạch bản treo phía sau hắn. Bức thạch bản mới tôi chưa bao giờ thấy trước đây, có hình một con cá có cánh. Con cá trông không mãn nguyện với đôi cánh. Có lẽ nó không chắc phải dùng đôi cánh như thế nào.

“Bóc lột ư?” tôi lẩm bẩm với chính mình.

“Bóc lột.”

“Và ai, xin làm ơn cho biết, đang làm cái công việc bóc lột ấy?”

“Những kẻ có những mối quan tâm khác nhau, từng chút một.”

Tôi vắt tréo chân trên xô pha màu xanh da trời và nhìn chằm chằm vào màn biểu diễn kịch tính của bàn tay hắn với cây bút bi, giờ đang nằm ở đúng tầm mắt tôi.

“Dù sao thì, cậu có nghĩ là chúng ta đã thay đổi?” tay đối tác của tôi hỏi.

“Chúng ta vẫn vậy thôi. Không ai hay cái gì thay đổi hết.”

“Cậu thật sự nghĩ thế sao?”

“Tôi thật sự nghĩ thế. Bóc lột không tồn tại. Đó chỉ là chuyện cổ tích. Ngay cả cậu cũng không tin là tiếng kèn của Cứu Thế Quân[1] trên thực tế có thể cứu rỗi thế giới, đúng không? Tôi nghĩ là cậu cả nghĩ quá thôi.”

“Thôi được rồi, có lẽ tôi đã cả nghĩ quá,” tay đối tác của tôi nói. “Tuần trước cậu – ý tôi là chúng ta – viết lời quảng cáo cho loại bơ thực vật ấy. Và đó không phải một lời dẫn tồi. Mọi thứ nói chung đều ổn. Nhưng nói tôi nghe, cậu đã lần nào ăn bơ thực vật trong mấy năm qua chưa?”

“Không, tôi ghét bơ thực vật.”

“Tôi cũng vậy. Đó là ý tôi muốn nói. Ít ra thì, ngày trước chúng ta làm công việc chúng ta tin, và chúng ta tự hào về nó. Giờ không còn như thế nữa. Chúng ta chỉ cho ra những thứ ngớ ngẩn.”

“Bơ thực vật tốt cho ta. Đó là chất béo thực vật, có độ cholesterol thấp. Nó phòng chống các bệnh về tim và gần đây vị của nó không tồi. Lại rẻ và giữ được lâu nữa.”

“Vậy ăn thứ đó đi.”

Tôi ngồi thụp sâu trong chiếc xô pha, duỗi dài chân tay.

“Điều đó không quan trọng,” tôi nói. “Cho dù chúng ta có ăn bơ thực vật hay không thì cũng thế thôi. Việc dịch dọt chán ngắt hay một lời dẫn quảng cáo lừa lọc, về cơ bản là giống nhau. Tất nhiên là chúng ta cho ra những thứ ngớ ngẩn, nhưng nói tôi nghe, chỗ nào người ta làm việc với con chữ một cách thực chất? Thôi đi nào, không ở đâu có chuyện làm việc trung thực hết. Cũng giống như không có chuyện thở trung thực hay đái trung thực.”

“Ngày xưa cậu ngây thơ hơn.”

“Có lẽ vậy,” tôi nói, dập điếu thuốc vào gạt tàn. “Và chắc chắn ở đâu có một thị trấn ngây thơ nơi có một tay hàng thịt ngây thơ xẻ một miếng thịt hun khói ngây thơ. Vậy nếu cậu nghĩ nốc whisky vào giữa buổi sáng là ngây thơ thì cứ tiếp tục đi, muốn nốc bao nhiêu thì tùy,”

Căn phòng bị bao trùm tiếng bút bi gõ cộp cộp lên bàn một lúc lâu.

“Xin lỗi, tôi không có ý muốn nói vậy,”

“Không sao,” tay đối tác của tôi nói. “Tôi chắc chắn không thể phủ nhận điều đó.”

Bộ điều chỉnh nhiệt của máy điều hòa phát ra âm thanh kỳ lạ. Buổi chiều hôm nay đặc biệt yên tĩnh.

“Tự tin chút đi,” tôi nói. “Chẳng phải chúng ta đã tự mình tiến xa đến mức này ư? Chỉ với hai đứa chúng ta. Chúng ta chỉ khác những câu chuyện thành đạt hay ho ấy một điểm thôi: họ thì có người ủng hộ và danh hiệu.”

“Nghĩ mà xem, chúng ta từng là bạn,” tay đối tác của tôi nói.

“Chúng ta vẫn là bạn của nhau,” tôi nói. “Chúng ta đã đi cả quãng đường cùng nhau.”

“Tôi không muốn thấy cậu ly dị.”

“Tôi biết,” tôi nói. “Nhưng chúng ta bắt đầu nói chuyện về cừu được chưa?”

Hắn gật đầu. Hắn đặt chiếc bút bi lại trong khay và dụi mắt.

“Người đàn ông ấy tới lúc mười một giờ sáng nay,” tay đối tác của tôi bắt đầu.

Chú thích

[1] Cứu Thế Quân, hay Đạo quân Cứu thế (1865) là một giáo phái Tin lành thuộc cộng đồng Kháng Cánh, nổi tiếng với các hoạt động từ thiện quốc tế, trụ sở đặt tại London, Anh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách