|
Chương 1-1
“Mừng kỷ niệm ngày cưới, em yêu!”
Tôi cố mở mắt ra và ngồi dậy, trong khi Luke cẩn thận để khay đồ ăn sáng trên giường. Bánh chocolate, nước cam tươi, cà phê, thiệp và hoa huệ tây. Đồ ăn cho lễ kỷ niệm ngày cưới.
“Vâng, cảm ơn anh.” Tôi mỉm cười. Nụ cười uể oải, gợi tình và đầy thỏa mãn mà tôi vẫn giữ riêng cho những đêm tân hôn, các dịp kỷ niệm, sinh nhật, những đêm đầy ham muốn và những ngày đặc biệt. Thế nhưng từ khi lấy chồng, tôi đã dùng nó thường xuyên hơn: các ngày trong tuần, ngày nắng, ngày mưa, mọi ngày, mọi tháng. Tôi không thể không như vậy. Tôi quá hạnh phúc. Một niềm hạnh phúc ngập tràn. Tôi biết tôi nói câu này là sáo rỗng. Người ta đã chán phát ốm và tôi biết mọi người, những ai từng trải qua hôn nhân đổ vỡ sẽ lập tức khó chịu khi nghe những lời đó của tôi. Nhưng sự thật là như thế.
Anh để khay đồ ăn trên giường trong khi tôi vỗ tay và suýt soa kêu: “Tuyệt quá, anh yêu ạ!” Rồi chúng tôi hôn nhau, nhẹ nhàng và êm ái, “Cảm ơn anh!”
“Không, cảm ơn em vì đã cho anh một năm đẹp nhất của cuộc đời anh!” Luke mỉm cười.
“Không, em phải cảm ơn anh mới đúng.” Tôi nhấn mạnh. Tôi không thích cuộc hội thoại này. Nó thường kéo dài chẳng biết bao giờ dứt về chuyện ai là người may mắn nhất vì đã lấy được người kia. Người may mắn là tôi. Nhưng lần này Luke chuyển đề tài trước khi cả hai đi quá xa.
“Đừng cử động.” Anh làm như thể đang chỉ dẫn tôi. Nói rồi anh chạy xuống nhà và trở lại với một chai Bolilie và hai ly rượu, “Đây là nghi thứ đấy!” Anh nói với nụ cười trên môi.
Chúng tôi mở thiệp chúc mừng, uống champagne và làm tình. Những thứ bình thường nhất mà mọi cặp đôi đều làm khi họ kỷ niệm ngày cưới. Chúng tôi luôn miệng hỏi nhau xem đối phương có thấy hạnh phúc hay không.
“Hạnh phúc phát điên ấy chứ! Em thì sao?”
“Em không thể hạnh phúc hơn được nữa.”
Đó là một đoạn hội thoại yêu thích khác của chúng tôi. Những từ đó được lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần. Và tôi cũng luôn trả lời mà không cần một giây suy nghĩ. Tính chân thực của nó không còn gì để bàn cãi. Chúng tôi phát điên lên vì nhau.
Tôi chưa bao giờ thấy hạnh phúc hơn, hài lòng hơn và tự tin hơn lúc này. Tôi tỏ ra khá phớt đời khi ba cô em gái đều lấy chồng trước tôi. Mặc dù cha mẹ tôi có ý kiến khác nhau, họ đều vui mừng và khuây khỏa khi các em tôi đều sống ở Sheffield, chỉ cách nhà cha mẹ tôi trong bán kính tầm ba dặm. Tôi từng thuyết phục bằng được mẹ cho tôi “lang bạt” ở London. Và theo bà, tôi sẽ “chẳng mong gì ở đó, ngoài rắc rối.” Do đó, tôi luôn nỗ lực vì biết rằng mỗi năm qua đi, tôi lại làm mẹ thất vọng hơn. Tôi dành phần lớn thời gian ở các quán bar hay hộp đêm. Mẹ còn nghĩ tôi phải độc thân chán chê nữa kia. Và tất cả mọi người đều kinh ngạc khi tôi lấy chồng quá sớm, và kinh ngạc vì tôi lấy chồng! Tôi không phải mê mẩn gì chuyện làm cô dâu. Trước khi gặp Luke, tôi tự cho mình là một phụ nữ Thành thị. Tôi từng lẳng lơ quyến rũ đến chết người. Và khi chuyện tán tỉnh đã trở nên nhàm chán, tôi nhanh chóng trở thành tên lính thiện nghệ trong cuộc cách mạng của phụ nữ trên giường. Cũng như rất nhiều phụ nữ khác, tôi khao khát được khám phá thay vì ngớ ngẩn vì thiếu hiểu biết. Tôi vội vàng chen lấn, xếp hàng chờ đợi rồi sau đó bất cẩn rũ bỏ cái vỏ bọc ngây thơ. Tôi gạt hình ảnh của một Madonna ra sau và quay sang hình mẫu của dòng nhạc Pop. Không chút e ngại. Không hề nao núng. Chẳng có tư thế nào trong cuốn Kama Sutra mà tôi chưa thử (Trừ cái tư thế đứng thẳng không có chút gì hấp dẫn). Cứ thỉnh thoảng tôi lại tự cho mình xả láng hưởng thụ vài mối quan hệ trai gái bất chính nhưng cũng lãng mạn vô cùng.
Tôi phát triển nhờ thử thách.
Tôi sống để săn lùng.
Đến chết cũng không khuất phục.
Tôi sung sướng vì những phụ nữ khác đã tự kết thành rào chắn cho tôi. Tôi hài lòng với bảng thành tích của mình: “Nhiều hơn năm và ít hơn mười” người đàn ông. Sau cùng thì họ đều là những gã hoặc là cục mịch tốt bụng, hoặc là có bề ngoài phong nhã, hoặc tôi nghĩ mình yêu họ, hay ít nhất là một trong ba. Tôi nhanh chóng trở thành loại phụ nữ “nhiều hơn mười và ít hơn hai mươi.” Tôi thích chinh phục hơn là thụ động. Tôi đã trải nghiệm tất cả: từ tình một đêm đến thề non hẹn biển. Ngủ với trai vì mọi phụ nữ đều làm vậy. Ngủ với một người đàn ông vì không ai không muốn làm vậy, vì họ vạm vỡ, quến rũ, hay vì anh ta là đội trưởng đội bóng. Vì họ hơn tuổi tôi, hay ít tuổi hơn tôi. Vì giúp tôi vượt qua giai đoạn khó khăn của cuộc tình xưa bất hạnh, giúp họ quên đi người tình trước. Vì họ có tóc dài hơn mọi người, vì tóc họ ngắn. Vì tôi quá mệt nên không muốn bắt taxi về nhà. Và có một lần là vì anh ta làm được nhiều trò hay ho với vỏ gói bánh qui. Đến tận lúc đó tôi mới dừng đếm số đầu người và tự hỏi lăng nhăng với chừng đấy đàn ông liệu có phải là điều mà phụ nữ hiện đại cần nhắm tới hay không? Ngay cả sự đa dạng cũng không còn khiến tôi thích thú.
Sau đó tôi gặp Luke. Tại một đám cưới. Anh là người dẫn chỗ cho khách, và từ đó mới có cơ hội tán tỉnh tôi khi dẫn đường cho tôi tới chỗ ngồi của mình. Anh cao khoảng 1m85 với mái tóc vàng thẳng và mềm như chờ đợi những ngón tay luồn qua nó. Anh có nụ cười lớn đầy bao bọc, và như thường lệ, anh mặc áo comple đuôi tôm. Ngay lập tức, tôi thấy mình bị anh cuốn hút. Tôi không thể rời mắt khỏi Luke. Tôi quan sát khi Luke phát tờ nhạc cho mọi người, nói chuyện với các bà và các thím, làm cho họ cảm thấy hấp dẫn và thấy mình đặc biệt. Khi Rose bắt đầu cắt bánh, tôi đang trong tình trạng “thích.” Còn khi cô ấy tung bó hoa thì tôi chuyển thành “yêu.”
Luke.
Luke có kỹ thuật gợi tình vô cùng độc đáo. Giống như cuốn tập chí Time Out sống động, Luke rất hài hước. Với vẻ bình thản thường trực và khả năng làm việc đầy nhiệt huyết, anh thuộc tuýp đàn ông chẳng cái gì là không thử: nhảy ceroc, body painting, leo núi, tranh luận trên đài, bơi xuồng, trượt skate, đua chó săn.
“Cô có thích bóng quần không?”
“Tôi không biết chơi.” Tôi trả lời, nguyền rủa cái khả năng phối hợp chân tay mắt mũi tệ hại của mình, mà đúng hơn là nguyền rủa vì thiếu chúng.
“Tôi sẽ dạy cô.” Và Luke làm thật. Tự nhiên khi ở bên anh, tôi có thể làm những việc mà trước đây dường như là không thể. Anh tiếp cận mọi thứ đầy tự tin và kiên định. Và dù tôi thì ngược lại, tức là bừa bãi và nóng vội, nhưng sự tự tin thì rất dễ truyền từ người này sang người khác. Chúng tôi không bao giờ ngồi trong các quán cà phê hay trước ti vi. Mà thay vào đó mỗi lần hẹn hò chúng tôi thường làm những việc khác người, kỳ lạ và lý thú. Anh lúc nào cũng “tình cờ” có được mấy tấm vé của câu lạc bộ Hài kịch hay của đêm khai mạc mấy buổi biểu diễn kỳ cục trên đại lộ với những cái tên tức cười: Kho củ hành hay Người đàn ông trên Mặt Trăng. Chúng tôi lúc nào cũng bận rộn: bơi lội, lướt ván, đi thăm các Nhà trưng bày hay tiệc tùng tối ngày. Việc gì chúng tôi cũng làm cùng nhau. Và anh trở thành một người bạn mới, thân nhất của tôi. Thân vô cùng. Đã quá rõ ràng, tôi nhận ra anh chính là người đàn ông tôi vẫn mong được cùng nhìn về một hướng.
Tôi cảm nhận được sự giải thoát và khuây khỏa một cách rõ rệt. Tôi vui sướng vì lại lần nữa nhận ra sex không phải là trò chơi, không tổn thương và không hổ thẹn. Chỉ sau vài tháng hẹn hò, Luke đã chìa ra cho tôi một chiếc nhẫn kim cương xinh đẹp, và tôi đã tự tin mà chấp nhận nó. Đó là yêu. Tình yêu mà Luke vừa định nghĩa. Tôi nghĩ tốc độ tức là lãng mạn. Nhưng mẹ tôi lại cứ cho rằng tốc độ nghĩa là không chắc chắn, và khăng khăng muốn có ba năm đính hôn để xóa bỏ lời đồn về những lần ghé thăm shop đồ dùng trẻ em Baby Gap.
Ở bên Luke tôi thấy được bao bọc, che chở và chiều chuộng. Tôi vẫn chưa làm cách nào giải thích được cảm giác đó cho bạn bè tôi, dù là độc thân hay đã có gia đình, nát rượu hay là không. Chúng tôi thảo luận về lượng calo hấp thụ, những kỷ niệm ăn trộm đồ thời thơ ấu và số lượng tampon cần khi giai đoạn đèn đỏ kéo dài; tất cả những gì bạn có thể tưởng tượng được. Thế nhưng tôi lại khá bối rối khi đề cập lại những vấn đề này, nhưng mặt khác tôi lại thấy gắn bó hơn.
Chúng tôi lười biếng nằm trên giường hết cả ngày. Tôi rất xúc động mỗi khi ở bên anh ấy. Gần đây Luke phải làm việc mười bốn tiếng một ngày. Mặc dù có bề ngoài là một chàng trai bình thường nhưng anh ta là một con sâu việc. Khi anh không làm việc, chúng tôi lại cùng nhau làm gì đó trong giới hạn của căn nhà. Cuộc chiến không ngừng với những bức tường nứt và một khu vườn đang phát triển. Nhạc kịch hay lướt sóng là những thứ xa xỉ đã vượt ngoài khả năng của chúng tôi. Hôm nay là ngày nghỉ, vì vậy chúng tôi nói chuyện. Chúng tôi nói về quá khứ, nhớ những bộ phim đã xem cùng nhau, những nơi từng tới thăm, những con đường chúng tôi đi qua và những vụ cãi cọ chúng tôi gặp phải. Chúng tôi bắt đầu hoạch định tương lai, và tất nhiên là tương lai chói lọi. Tôi rên rỉ về công việc của mình ở Looper Jackson, kêu nhàm kêu chán. Luke lại nhắc nhở tôi rằng lương ở đây khá ổn, và có thể việc sát hợp sau này sẽ tạo cho tôi nhiều cơ hội mới. Anh thật tử tế khi cố cho tôi thấy giá trị của chính mình và công việc cũng xứng đáng, nhưng tôi vẫn thấy nghi ngờ. Một người yêu công việc như anh thì làm sao nhận thức được. Đó không phải lỗi của anh. Nói chuyện về công việc của tôi làm cả hai đều mệt mỏi, vì thế tôi chuyển chủ đề. Tôi nói với anh về cái máy giặt bị rò nước. Và anh đáp lại bằng một câu chuyện cười về con mèo nhà hàng xóm qua tè trong vườn trồng thảo mộc nhà tôi. Chẳng hiểu sao câu chuyện đó lại làm tôi cười nghiêng ngả (có lẽ tại rượu champagne), khiến anh không thể “làm xong việc” và tôi thì phải chạy vào nhà tắm. Nhưng không để tôi làm như thế, anh giữ tôi lại cuộc chơi cho đến khi tôi phải rên rỉ mới tha. Chúng tôi yêu mãnh liệt và thân xác như hòa quyện vào làm một. Trời nắng. Anh đặt lên khắp cơ thể tôi những cái hôn nhẹ như cánh bướm. Và tôi đáp lại bằng cách hôn lên anh, rồi cả hai ngủ thiếp đi.
Mười một giờ trưa, chúng tôi chợt tỉnh giấc và lại cùng diễn cảnh trong phim “Bốn đám cưới và một đám ma.” Cái cảnh mà trong đó Hugh Grant và bạn cùng phòng ngủ quên, sau đó tỉnh dậy, chạy quanh nhà và cùng kêu lên “Mẹ kiếp!” Mọi người trong rạp cười ồ, không phải vì lời thoại hóm hỉnh mà vì tình cảnh đó đã quá quen thuộc. Tất cả chúng ta đều đã trải qua. Mà lại thường vào cái ngày chúng ta phải đi phỏng vấn cho một công việc mang ý nghĩa cả đời người, hoặc là khi bạn có một cái hẹn vô cùng quan trọng, hay là ngày khuyến mãi đầu tiên của Harvey Nichols hoặc năm mươi người bạn chuẩn bị kéo đến nhà bạn ăn buffet trong vòng hai tiếng nữa. Chúng tôi ra, rồi vào phòng tắm, lên xuống cầu thang, ra vào chỗ cái máy lạnh, hì hụi ra vườn rồi lại đi vào. Luke và tôi lau dọn, mặc quần áo, chiên, ướp thức ăn, bày trí ghế xếp và ô che. Chúng tôi dọn lại đống tạp chí và đặt chúng ở nơi chiến lược. Vợ chồng tôi đã sắp xếp mua một trăm quả bóng bay heli màu bạc, dự trữ phim cho máy quay và đánh bóng mấy cái ly rồi mặc bộ đồ Armani của chúng tôi vào. Lại cảnh vừa dọn vừa kêu “Mẹ kiếp!” hệt như trong phim.
Người đưa hàng đã chuẩn bị xong và đưa thức ăn tới. Tất cả những gì chúng tôi phải làm chỉ là bóc tấm nilon bọc bên ngoài. Tôi muốn có cái cảm giác “dẫu sao mình cũng góp phần làm gì đó.” Trông chỗ đồ ăn thật tuyệt! Chúng được đặt giữa cái bàn gỗ to của chúng tôi (một sự đầu tư cho đại gia đình mà chúng tôi dự định sẽ có bốn đứa con). Tôi nhìn chỗ thức ăn với cảm xúc pha trộn: tự hào và kinh ngạc. Zucca gialla intere al forno con pomodori secchi (thịt nhồi muối tiêu nướng với cà chua phơi héo), zucchini carpaccio (bí xanh mỏng vỏ), insalata prosciutto e fichi (thịt nguội với quả sung – bạn sẽ chẳng thèm ngó ngàng đến nó nếu ngày xưa mẹ bạn nhồi nó vào bánh sandwhich cho bạn đem tới trường). Tiếp đó là hàng đống mì ống, cháo ngô salad kiểu Ý, một núi rau chẳng ai biết tên nó là gì, và một chồng quả mâm xôi tươi (màu sắc hài hòa). Trông chúng chẳng khác gì những thứ mua từ siêu thị Bluebird cao cấp trên đường Kings Road. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên, vì người đưa thực phẩm chính là nhân viên siêu thị Bluebird trên đường Kings Road. Chúng tôi vui chơi thỏa thích. Tôi cầm máy ảnh chạy khắp nơi, chụp ảnh đồ ăn một cách nghệ thuật bằng cách cho phản chiếu qua mấy ly rượu champagne, hình đồ ăn in lên mấy quả bóng rồi hình mấy cái ly trên quả bóng, rồi hình quả bóng lại in lên cốc. Còn Luke, thực tế hơn một chút, nhận ra chúng tôi còn bốn thùng champagne cần làm lạnh. Nên trong khi tôi đang mải bày trí, anh xúc đá đổ đầy bồn tắm và nhét vào đó khoảng hai mươi chai champagne. Ngay khi thức ăn được đưa ra khỏi cái tủ lạnh cỡ bằng súng đại bác của chúng tôi, những chai rượu còn lại lập tức được đưa vào. Cuối cùng chúng tôi đã có thể tự chúc mừng thành công của nhau với lòng hiếu khách vô bờ, vào lúc một giờ kém năm phút.
Một giờ năm phút, tôi kiểm tra lại thiệp mời. Trên đó ghi chính xác là ngày hai mươi sáu tháng bảy. Chưa thấy ai đến. Một giờ bảy phút, tôi ngóng ra ngóng vào cái chuông cửa. Rồi một giờ mười phút, tôi bắt đầu cắm cảu “Chả ai đến cả!” Luke rót rượu cho tôi. “Mọi người không thích những bữa tiệc của chúng ta thì phải!” Tôi nói thêm. Anh đưa ly rượu cho tôi, xoa lên vai tôi và hỏi, “Em có nghĩ chúng ta có tiếng là bủn xỉn không nhỉ?” Anh hôn lên trán tôi trong khi tôi lẩm bẩm, “Thật là ngu khi nghĩ người ta sẽ hy sinh cả ngày Chủ nhật để đến kỷ niệm ngày cưới của chúng ta.” Một giờ mười một phút, tôi bắt đầu gói món Zucca gialla intere al forno con pomodori secchi lại và tự nhủ chắc một tháng nữa cũng chả cần ghé thăm khu mua sắm Sainsbury.
Chuông cửa reo. Luke đứng dậy ra mở cửa. Anh cười với tôi và chắc phải kiềm chế lắm mới không nói ra mấy câu ngớ ngẩn đại loại như “Anh bảo rồi mà”, “Phải kiên nhẫn chứ” – những câu tôi bị nghe giảng đi giảng lại không biết bao nhiêu lần mà kể. Luke biết ngay tôi sẽ vặn lại rằng: trong số các đức hạnh thì chữ “nhẫn” được đánh giá cao quá mức. Bạn bè của chúng tôi bắt đầu đến và đang ào ạt xông qua cửa. Tất cả đều nói những điều hay ho về ngôi nhà, về đồ ăn và về tôi. Tất cả họ trông rất tuyệt và mang theo thêm nhiều rượu nữa.
Luke và tôi có những người bạn tuyệt vời. Những con người thực sự tài giỏi. Tất cả đều thành đạt, khỏe mạnh, thông minh, hài hước và có bản chất tốt đẹp. Rõ là thế, tội gì không tốt khi bạn vừa thành đạt, khỏe mạnh, vừa thông minh, hài hước, lại còn trai xinh gái đẹp nữa? Tuy nhiên, chẳng ai trong số họ có tất cả những phẩm chất đó và lúc nào cũng sở hữu được chúng. Chẳng có một ngoại lệ, vào lúc này hay là lúc khác, các bạn tôi sẽ có những giây phút riêng của họ. Ho thất bại ở mặt này hoặc là mặt kia: tình cảm, thi cử, công việc. Họ vẫn bị ốm, nhưng (thật may) không có gì quá tồi tệ: cảm cúm, đau đầu… gối vì tập luyện quá sức cho giải marathon toàn London, quanh quẩn cũng chỉ có thế. Cũng có những lúc bọn họ trở nên ngu xuẩn, ngớ ngẩn, cáu bẳn, bốc đồng, giống như tôi và Luke vậy. Nhưng nhìn chung, bọn họ có sức khỏe, thông minh và xinh đẹp. Tuy nhiên có lẽ tôi hơi thành kiến, vì họ là bạn của tôi.
Vì vậy, khi họ tới với vẻ trẻ trung, làn da rám nắng, khuôn mặt hí hửng và rõ ràng là đang ngỏng cổ mong một buổi chiều ăn chơi phù phiếm, tôi không thể có cảm giác gì khác hơn là tự hào về họ. Tự hào về Luke, tự hào về cuộc sống của chúng tôi, tự hào về các bạn tôi và tự hào về chính bản thân mình.
Những cái tên để yêu và ghét. Vì cuộc sống là như vậy – cố gắng khi ta còn có thể, và chúng ta đều cố gắng ở một mức độ khác nhau. Chúng ta không thể yêu quý được tất cả mọi người. Cuộc sống sẽ thật đơn điệu nếu tất cả mọi người đều yêu quý nhau. Và hơi tẻ nhạt nữa.
Luke – một chàng Luke đáng yêu, tuyệt vời, tử tế, hào hiệp, thông minh. Lucy và Daisy là bạn của tôi từ thời đại học. Rose, chị gái Daisy cũng đến cùng chồng là Peter. Chính ở đám cưới của họ, tôi và Luke gặp nhau. Và còn có Sam, đồng nghiệp thân thiết của tôi nữa.
Lucy khá mảnh khảnh, cao ráo với làn da mịn màng, đôi mắt to màu xanh lá, mái tóc thẳng vàng óng trông rất (có vẻ) tự nhiên xõa xuống bờ vai. Ai đó có thể nhận xét cô ấy là một đại mỹ nhân. Một phụ nữ có ngoại hình lộng lẫy khiến người ta choáng váng: mông nhỏ, ngực bự, eo và lồng ngực nhỏ xíu. Và không có cớ gì cô ấy lại không nhận thức được vẻ đẹp của mình. Chỉ có nước câm, điếc, mù, hay sống cô quạnh trong nhà giam, cô mới không nhận ra mình có một ngoại hình siêu mẫu. Nhưng với khả năng hiện tại, cô chẳng cần dùng đến ngoại hình tuyệt vời của mình mà vẫn sống tốt. Cô buôn bán chất dẫn xuất (không biết đó là chất gì – đã qua lâu rồi cái thời tôi có thể lịch sự hỏi về những điều tương tự như tế) và từ đó kiếm được vô số tiền, còn được mọi người trong thành phố kính nể. Chẳng dễ chút nào với ngoại hình của cô ấy. Dù là đàn ông hay đàn bà – mọi người đều cho rằng phụ nữ đẹp chắc hẳn phải ngu. Cả hai phe đều muốn tin vào điều đó, vì những lý do khác nhau. Với các anh em, sự quả quyết này khiến họ đỡ phải lo lắng đau đầu. Còn với các chị em, họ thực sự tin là trên đời này có Chúa.
Đối với Lucy, việc kết bạn khá khó khăn. Đàn ông lúc nào cũng nói họ muốn hiểu cô hơn, nhưng thực ra là muốn hiểu hơn về “con người” cô, trong khi phụ nữ luôn gườm gườm coi cô là đối thủ. Lucy không mấy lo lắng gì về điều này. Thật ngớ ngẩn nếu phải lo lắng vì mình xinh đẹp, thông minh, thành đạt và giàu có. Thay vào đó, cô cố gắng thích nghi với cuộc sống một mình.
Cô thích như vậy.
Xét về mặt nào đó.
Lucy tự an ủi bằng ý nghĩ dẫu sao mấy ai được hấp dẫn như cô. Điều đó không có nghĩa là cô không có người bạn nào. Luôn có những kẻ muốn làm bạn thân của cô, thậm chí chỉ đủ lâu để nhận ra cô ăn kiêng hay tập thể dục (ở mức độ nào đó). Cũng luôn có những quý ông muốn được mời cô bữa tối. Và tất nhiên đều là những quý ông giàu có, với ngoại hình của các minh tinh điện ảnh và là thành viên vô thời hạn của MENSA (Câu lạc bộ dành cho những người có chỉ số thông minh cao nhất thế giới). Vấn đề duy nhất nằm ở chỗ không chỉ có một người muốn nói với cô về chuyện ăn kiêng, không chỉ có một gã muốn đưa cô đi vỗ béo. Và vì thế Lucy trở nên cáu bẳn và xa cách. Đó là cách cô tự vệ, nhưng ngoại hình lại chính là vũ khí. Hầu hết mọi người đều không thấy cô có chút nào đáng sợ. Tôi đoán là họ đúng. Tôi đoán là họ ghen tỵ. Cô ấy nói tôi là người bạn đầu tiên, người bạn duy nhất và có thể là người bạn thực sự duy nhất của đời cô. Tôi cũng không nghĩ là cô ấy nói câu đó với tất cả mọi người.
Chúng tôi gặp nhau từ trước đây rất lâu, vào ngày đầu tiên bước chân vào cổng trường đại học. Khi cha Lucy đậu chiếc Daimler thì cũng là lúc bố tôi đỗ xịch chiếc Citroen trong bãi đỗ xe của ký túc xá. Tôi tràn đầy năng lượng, cởi mở và lạc quan. Tôi lập tức nhìn thấy Lucy và nhận ra cô ấy cũng nhìn tôi một cái như vậy. Và Lucy với cái nhìn mau lẹ đã được luyện tập nhiều lần, lập tức ghi lại: Connie (là tôi đấy), cỡ mười, ngực nhỏ, cao 1m63, đường nét được nhưng không cuốn hút, và lúc đó tôi để tóc dài. Bây giờ thì tôi để kiểu đầu bob, nhưng không giống của Lucy, tóc tôi quăn gợn sóng, không phải màu vàng bạch kim mà là vô số những lọn vàng hoe (như trong quảng cáo lá cải trên tạp chí), thỉnh thoảng điểm vào những cọng vàng vàng kỳ quặc (đã được ban hội thẩm tổng kết). Tôi ghét nó, nhưng mọi người lại thích. Sau này Lucy mới nói với tôi là cô ấy thấy mặt tôi ấn tượng sâu sắc và chính điều đó đã làm cô chú ý. Cô ấy miêu tả nó như khuôn mặt của một tiểu thiên sứ. Nhưng là thiên sứ ẩn chứa một bí mật bẩn thỉu, ác độc và đầy khiêu khích. Tôi thấy cách miêu tả này hơi kỳ cục, nhưng rõ ràng cũng có phần tâng bốc.
Tiếp theo, tôi và Daisy cũng gặp nhau ở đại học khi cùng đợi đăng ký các môn tự chọn. Tôi thấy Daisy đang kiên nhẫn và bồn chồn xếp hàng, cẩn thận tránh ánh mắt của những sinh viên khác. Tôi thì ngược lại, tán gẫu và mỉm cười với tất cả mọi người xung quanh, mong mỏi được làm thân với bất cứ ai trao cho tôi cơ hội. Tôi thấy cô ấy khá lạnh, bình tĩnh và tách biệt. Khi Daisy đã lên đến hàng đầu tiên và chuẩn bị đi qua cửa đăng ký môn học, tôi hướng về phía cô ấy gọi khá to. Giọng tôi làm gián đoạn một vài cuộc nói chuyện khác và sau đó là một khoảng im lặng đến rùng mình. Dường như mọi người cùng đợi tôi lên tiếng.
“Cậu đăng ký sup gì vậy?” Tôi sử dụng ngôn ngữ của người trong ngành nghe rất có vẻ “đại học”. Sup nghĩa là môn phụ, và Uni thay cho trường đại học. Phòng họp của sinh viên thì trở thành HSV. Ngày thứ hai là tôi đã thuộc làu. Tôi không giỏi các loại ngôn ngữ nhưng tôi rất hiểu tầm quan trọng của vấn đề hòa đồng với dân bản địa. Không cần bản đồ, không cần hỏi đường, và không bao giờ tin tưởng mấy ông lái xe đội mũ.
Tôi nghĩ, nhìn Daisy rất thú vị và thông minh. Cô ấy trông giống kiểu người mà tôi vẫn mong được gặp gỡ trong trường đại học: nghiêm túc, đáng nể, và đáng để ganh đua. Cô ấy còn có vẻ hoảng hốt khi bị tôi gọi tên đột ngột. Sau này Daisy mới nói với tôi rằng cô ấy hoảng hốt không phải vì tiếng gọi của tôi, mà vì không hiểu tại sao tôi lại gọi cô ấy. Lúc đó cô ấy không muốn trả lời vì ngộ nhỡ tôi gọi người khác thì sao. Chúng tôi lúc đó đều quá non nớt. Thiếu tự tin, thiếu lòng tin tưởng, và thiếu kinh nghiệm thực tế. Những người trẻ tuổi thực sự lãng phí tuổi trẻ của mình. Họ quá nghèo, cả về vật chất lẫn tinh thần để hưởng thụ nó. Tôi có thể phát biểu câu đó vì giờ tôi đã ba mươi – cái tuổi tự tin đầy mình. Ngoại trừ việc cởi đồ thì vẫn vậy. Tôi tự tin, nhưng không phải là bất khả chiến bại.
Daisy lúng túng cố tìm một câu đáp hóm hỉnh và duyên dáng. Ngập ngừng, cô thông báo đúng sự thật là chọn môn cổ điển, sau đó biến mất hút phía góc hành lang. Sau đó ngồi ở quán bar sinh viên, trên cái ghế focmica màu da cam, tôi nhận ra rằng Daisy có vô khối những lý do chính đáng cho sự lựa chọn của mình. Cô ấy hiểu biết và rất hứng thú với thần thoại Hy Lạp và La Mã. Cô ấy hy vọng rằng những tài liệu tham khảo cổ điển cho Văn học Anh (môn học chính của cô) sẽ rõ ràng hơn nếu cô có hiểu biết sâu sắc hơn về những nữ hiệp và anh hùng trong huyền thoại.
Tôi chọn môn đó cho giống Daisy.
Sau đó chúng tôi chia sẻ các ghi chép bài giảng, những bí mật, cả những căng thẳng, mệt mỏi hay thành công, thăng trầm của cuộc sống sinh viên. Ngày qua ngày, chúng tôi trở nên thân thiết. Khi bạn bè của tôi ngày càng đông hơn (một số người thu hút nhưng khó tính, một số thì nông cạn nhưng dễ tính), Daisy vẫn thu mình lại với một vài người bạn thân thiết. Trong số tất cả các bạn tôi, Daisy tự coi cô ấy là người bạn chân thành và ngốc nghếch nhất. Còn Lucy thì tự cho mình là người bạn chân thành và quái đản nhất. Có lẽ mỗi người đều đúng một vế.
Daisy cao 1m77 và hồi đó luôn ám ảnh với sự vụng về và thân hình quá khổ. Cuộc sống của cô ấy là cuộc chiến không ngưng nghỉ với trọng lượng và tự trọng của bản thân, mỗi khi cái này tăng thì cái kia sẽ giảm. Cô xấu hổ vì cặp kính cận, vì mái tóc đỏ, quần áo hiệu M&S và mấy cái nốt trên người. Cô tự nhận mình là cô gái khá thông minh nhưng giản dị. Nhưng điều khiến Daisy ngạc nhiên là không ai có vẻ để ý gì đến những yếu điểm đó của cô. Cô có đôi mắt đẹp, nhanh nhẹn, bản tính tốt đẹp, chân thành và nhạy cảm. Dù có cố gắng hết sức tôi cũng chẳng nhận ra những khuyết điểm mà Daisy vẫn đay đi đay lại.
“Mái tóc khô xoăn tít của tớ thật là không cải tạo được.”
“Cũng giống như tóc tớ thôi, chỉ là màu đỏ thôi mà.” Chúng tôi nhìn nhau chăm chú, nhận ra điều ẩn ý lớn lao trong sự khác biệt này. Tôi mở lời như an ủi: “Thời kỳ tiền Raphael người ta ca ngợi những mái tóc như của cậu lắm đấy!”
Sau nhiều năm Daisy cũng dần tin rằng nếu tôi nhận ra những điểm tốt đó, và Lucy cũng vậy thì có lẽ, chỉ có lẽ thôi, là chúng cũng tồn tại. Chỉ trước khi chúng tôi đều bỏ cuộc và bỏ về nhà, chắc mẩm rằng Daisy sẽ chẳng bao giờ tự yêu quý bản thân thì cô ấy mới bắt đầu hiểu ra vấn đề. Cô ấy đã thay cặp đít chai bằng kính sát tròng, và làn da cũng mịn màng hơn vì được chăm sóc, nghỉ ngơi. Còn tóc cô ấy thì vẫn xoăn và đỏ.
Rose – chị gái của Daisy – lớn hơn cô ba tuổi, tức là năm nay ba mươi hai, gần bước sang tuổi ba mươi ba. Tôi gặp Rose lần đầu tiên khi chị ấy tới trường thăm Daisy.
Bấy giờ chị hai mươi mốt tuổi nhưng ngay lúc đó trông đã như gái ba mươi hai, và giờ thì ba mươi hai đã là dĩ vãng. Nhìn chị ấy, người ta nghĩ năm mươi hai. Không phải vì trông Rose già đau đớn, ngoại hình cực kỳ ổn là đằng khác. Trông chị ấy vừa đúng cái tuổi ba mươi hai, hoặc có thể là những gì bạn hình dung về tuổi ba mươi hai lúc còn mười tám. Chị mặc cỡ mười sáu rất thoải mái. Cũng là tóc đỏ nhưng màu sẫm hơn Daisy. Rose cũng có đôi mắt và nụ cười đáng yêu như Daisy vậy. Chị đi legging và mặc áo chui đầu, vẫn cái áo mặc những năm tám mươi khi đến thăm Daisy ở ký túc xá. Chị biết làm vườn, lại còn biết khâu vá. Chị tự làm mứt. Không phải chỉ vì chị có nhiều thời gian, mà vì chị làm với niềm thích thú. Rose kết hôn với Peter. Khi Rose mới đưa Peter đi gặp Daisy, Lucy và tôi rình mò ở cửa sổ phòng ngủ ký túc xá, tàn nhẫn đẩy nhau ra để có được tầm nhìn tốt nhất. Kể cũng đáng. Peter cao, dáng thể thao và đẹp trai. Sau đó chúng tôi phát hiện ra anh ta còn thông minh và quyến rũ nữa. Lucy không công nhận là Rose sẽ bảo đảm được điều gì, thay vào đó cô lầm bầm rằng anh ta “không xấu”, điều mà cả Daisy lẫn tôi đều hiểu là một lời đánh giá cao từ phía Lucy. Họ có hai con trai sinh đôi, Sebastian và Henry trông rất đáng yêu. Trông bọn trẻ thật hạnh phúc và thật tuyệt khi gia đình họ tới dự bữa tiệc của tôi. Vì Luke thì thích Peter, mọi người thích bọn trẻ, còn Rose giúp rửa bát.
Cuối cùng là Sam. Cuối cùng không có nghĩa là tôi chỉ có bằng ấy bạn. Đây là danh sách không đầy đủ những người tôi biết và yêu quý. Mặc dù nghĩ lại thì bốn người bạn thân kể ra là quá nhiều. Bạn thân thực sự ấy. Họ là nguồn lực để nhờ vả làm phù dâu. Mặc dù cảnh tượng đúng là một đám hổ lốn: mọi hình dạng, kích cỡ nhét chung trong đống váy áo màu xanh da trời nhạt. Tôi không quan tâm mấy đến điều này, ngay cả trong đám cưới của tôi. Nhưng giờ tôi luôn nhắc nhở những cặp vợ chồng mới cưới rằng hãy quan sát kỹ bạn thân của mình và cố tưởng tượng xem bạn có thể mua gì cho họ. Cái gì đó giúp Sam cao hơn một chút, Jane chân dài hơn một chút và Karen eo nhỏ đi một chút.
Tôi mới chỉ biết Sam được hơn hai năm. Chúng tôi làm việc cùng nhau. Cô vui vẻ hòa đồng. Với Sam, bơ sẽ không tan trong miệng mà vẫn mềm ra dù ở đâu trên cơ thể cô. Sam rất dễ thương. Cô tốt bụng, giàu lòng vị tha, biết thông cảm và hào phóng. Tất cả những thứ đó hòa quyện với tính tình vui nhộn và hài hước. Sam là một điển hình cho những người yêu mỗi buổi bình minh của mùa xuân và không gian mùa thu mỗi khi chiều muộn. Nhưng, cũng vì thế mà cô thích cả sáng mùa thu, tối mùa xuân và nói chung kể cả không phải xuân không phải thu, cô cũng yêu bằng hết. Sam ba mươi ba tuổi – một điều làm mọi người kinh ngạc, và chính Sam cũng không ngoại lệ. Nếu phải miêu tả bản thân, Sam sẽ không bao giờ kể lể với bạn rằng cô có vô số bạn bè thân thiết nhờ tính chân thành tốt bụng của mình. Sam cũng sẽ không khoe với bạn về đôi mắt nâu hút hồn, hàng mi dày mịn như nhung mà cô sở hữu (không phải là thơ đâu, nhưng hãy tin tôi, chúng tuyệt vời như thế đấy!). Cô ấy cũng sẽ không lên mặt về khả năng làm người khác quên buồn, quên khóc bởi tài pha trò độc chiêu. Đơn giản, Sam sẽ nói: “Xin chào, tôi là Sam Martin, tôi ba mươi ba tuổi và còn độc thân.” Vì cô ấy chân thành đến độ kỳ cục nên có thể cô ta sẽ nói thêm: “Điều đó cũng làm cho tôi buồn.” Và vì hơi ám ảnh về bản thân nên có khi cô ấy còn tiến xa hơn và thêm vào mấy chữ: “Buồn rất nhiều.” Hoặc cô ấy chỉ yêu cầu bạn kéo ghế và cô ấy sẽ thống kê chi tiết các loại chuyện tình và bi kịch tình yêu theo thứ tự từ A đến Z. hay từ tuổi mười lăm cho tới ba mươi ba.
Sam đã cố gắng hơn nửa đời người chỉ để lập gia đình. Tôi thấy thật ngạc nhiên khi vẫn còn những phụ nữ như cô ấy. Những phụ nữ xinh đẹp, nổi tiếng, tham vọng, thời trang đầy người mà vẫn sống đời hiu quạnh. Nhưng ngoài kia có rất nhiều người như vậy, hàng trăm người trong các công sở, ngay tại thành phố London này. Họ giao du với những người đã có gia đình, với những người độc thân và thích độc thân. Những người không bao giờ quan tâm đến tình trạng bản thân một chút nào (tôi cũng không nghĩ là có quá nhiều người như vậy, nhưng nghe nói đã có những thống kê cụ thể). Phụ nữ như Sam thật dễ nhận ra, vì họ đều có ngoại hình của phụ nữ những năm cuối thập kỷ, họ tự hỏi “Tôi đã làm gì sai? Tại sao với mẹ tôi thì dễ thế mà với tôi lại khó khăn đến vậy?” Họ cứ tự bới lông tìm ra hết vết này đến vết khác trên chính bản thân mình, lúc nào cũng thấy toàn điểm yếu, nhưng hình ảnh của họ không vì thế mà trầy xước. Họ đều là những phụ nữ tuyệt vời. Nếu có thể thì tôi cũng lấy Sam và tự hào về cô ấy. Tất nhiên tôi không phải dân đồng tính, nhưng nếu chẳng may tôi như vậy, Sam cũng như vậy. Và cuộc hôn nhân giữa hai người cùng giới tính được chấp nhận thì tôi sẽ cưới Sam.
Nó sẽ giúp tôi trở nên tốt đẹp hơn. |
|