|
Tác giả |
Đăng lúc 4-7-2014 21:52:14
|
Xem tất
Chương 14 (3)
Ba Thành trả lời và ánh mắt hắn đột nhiên sẫm buồn.
Sau một đêm ngủ cũng tạm gọi là yên giấc, không mộng mị, không chập chờn trong toà nhà của Tuấn, mới hửng sáng, Ba Thành đã đập cửa ầm ầm:
- Dậy! Dậy đi! Tiếp tục hành quân.
Hắn đứng chạng chân ngay trước cửa phòng tôi, mình trần trùi trụi, trắng núng, quần đùi dài đến khoeo chân, dây rút lòng thòng, để lộ cái thân thể đã xệ ra ở khắp mọi chỗ. Kỳ lạ! Với cái thân thể này mà hắn vẫn thức khuya dạy sớm, vẫn đi lại nhanh nhảu như hồi ở rừng được? Chắc thằng cha lại nổi cơn hứng nhậu nhẹt gì đây? Vẫn nằm ườn trên giường, tôi thờ ơ hỏi:
- Hành quân đi đâu? Hai thằng cứ đi tự hiên. Tao hơi nhức đầu.
- Hai thằng nào? - Đến sát giường tôi, hắn đưa tay kéo tuột tấm chăn đang đắp trên người tôi vất xuống cuối giường rồi tay chống nạnh, hai đầu gối củ lạc chạng ra - Sao lại hai thằng? Đi việc của mày mà hai thằng nào?
Tôi ngồi dạy, ngáp một tiếng rõ to:
- Việc của tao? Việc gì?
- Đi gặp thằng cha đại uý. Tao hỏi ra được chỗ ở của hắn rồi. Long Khánh.
- Đại uý à?... Gặp làm gì. Muộn rồi.
- Thôi đi cha nội! Đừng giả bộ nữa. Trong cái sọ nhàu nát kia nghĩ gì tưởng không biết sao? Cha nội vẫn canh cánh về ả đàn bà đó, đúng không? Tức là vẫn chưa thật thoả mãn cái chuyện dớ dẩn ả còn sống hay đã chết - Thấy tôi im lặng, hắn cười khồ khồ - Mẹ họ! Thằng Ba Thành này ít nhất đã đụng dao kéo vào thân thể mày trên ba lần, chả lẽ con mắt mày nghĩ gì tao lại không biết sao? Hớ! Nó chết rồi! Chết thật rồi! Cái miệng mày nói vậy nhưng con mắt mày lại méo sang hướng khác. Chết rồi thì thôi nhưng hà cớ gì mà cái bản mặt mày lại ủ ê như vừa đánh mất trứng dái thế? Chú mày đã quên rằng tao từng là bác sĩ tối cao của ráo trọi các loại nội ngoại khoa và cả tâm thần phân lập rồi à? Đi! Quyết rồi.
Vừa lúc Tuấn bước vào, xúng xính trong bộ pyjamas màu ghi nhẹ cùng với mùi nước hoa thơm ngàn ngạt:
- Mời hai đại ca ta đi ăn sáng rồi lên đường.
- Ủa! Mày cũng tính đi? - Ba Thành hỏi.
- Chớ sao không.
- Bậy mày ơi! Ở nhà. Làm ăn. Phát đạt. Một ngày bây giờ đối với mày là tiền, là vàng, đi lòng ròng theo tụi tao, những thằng phế loại, có mà hư người.
Cứ cho mượn một cái xe máy phân khối lớn là xong, vài bữa trả lại.
- Anh mới tầm bậy thì có, anh Ba! Anh nhìn nhận thằng em sao xoàng quá vậy? Có kiếm tiền vàng cũng là để cho thiên hạ khỏi khinh khỏi chê những thằng lính trong rừng ra chỉ biết đâm chém, ăn no vác nặng chứ tiền vàng thay thế thế quái nào được cú hội ngộ này. Ba ngày, bảy ngày, nửa tháng, cả tháng, cả năm -Tuấn cười hóm - Công tư kết hợp một chút. Đến nơi hai anh cứ vào trước, thằng em tranh thủ bay ra Vũng Tàu xem cái 500 khối gỗ xuất cho thằng Xanhgapo đã bốc xong lên tàu chưa. Hì!
- Kệ mày với cái đống gỗ của mày. Mày đi một ngày, một tháng, một năm cũng được - Ba Thành nói vẻ nôn nóng - Miễn là đưa được tao với Hai Hùng đến chỗ đó... Nhìn gì tao chằng chằng vậy mày, Hùng? Bộ tao lạ lắm hả?
Tôi giả vờ đánh đầu bẻ cổ để che đi một cái cười khó giấu. Với tính khí mang hổ lửa của thằng cha cựu bác sĩ này, nếu tôi lì lợm nhìn hắn thêm một chút nữa là dễ ăn chửi té tát vào mặt lắm. Dễ thường chuyến đi này chỉ là vì tôi như hắn nói chứ không phải vì cả mối tình tuyệt vọng của hắn với Hai Hợi nữa chăng? Cái thằng! Tính khí kỳ cục! Xấu tốt, nổi chìm cứ lộ tuốt luốt ra ngoài.
Chao ôi! Đã lâu lắm rồi tôi mới lại có một chuyến đi dễ chịu như thế. Đường êm, xe tốt, gió mát, bạn bè chân tình ruột thịt, thiên hạ đủ màu sắc xuôi ngược hai bên thành xe cũng hiền lành, thuần phác biết bao!
- Năm ấy, sau khi anh đi rồi, tụi em ở lại còn mấy người, buồn thối ruột - Tuấn vừa vặn lái vừa để cho dòng tâm sự bây giờ mới có dịp chảy ra - Tình hình lại xấu đi, rất xấu. Lác đác lại có người chiêu hồi, đầu hàng như dạo cuối trào Mậu Thân. Nản dữ lắm. Anh em đã tính rủ nhau cắt rừng trở về đội hình chủ lực để nếu có chết cũng chết trong không khí người nhà, chết đàng hoàng, chết trong danh dự người lính chứ không phải chết lủi thủi ở dưới cái vùng sông ấy. Nhưng chạnh nghĩ đến anh, đến con người, công tích và những thiệt thòi của anh, nghĩ đến những đứa đã ngã xuống, những thằng thương tật, rồi nghĩ đến ngay cả những đồng đội người ở đây cũng đang từng phút hy sinh, khổ đau chẳng kém gì mình mà bảo nhau cắn chặt răng trụ lại. Nói cho đúng, đơn vị ta khi ấy vẫn là đơn vị của anh mà không có anh. Rồi mọi việc cũng kết thúc. Còn năm thằng. Ba thằng chống nạng ra Bắc. Một thằng ở lại lấy vợ vốn là cơ sở cũ. Được vài tháng thì vào tù vì ra chợ nhậu xỉn, bắn chết người. Có gì đâu. Cũng chỉ là chuyện khích bác Bắc Nam thông thường. Thằng này nói: “Về má chúng mày đi! Ở trong này hoài, đem theo cái nghèo, cái lạnh vào theo”.
Thằng kia nổi sùng: “Đ. mẹ! Vậy thì hồi chiến tranh, mày rúc vào l... con đĩ ngựa nào để bây giờ ngu si hưởng thái bình lại còn nhảy ra nói láo?”.
Thằng kia chồm lên. Thế là bắn.
- Nếu phải tao, tao cũng bắn như vậy - Ba Thành nói âm thầm.
- Còn em - Tuấn nói tiếp - Được tin cậy hơn, họ cho chuyển ra làm huyện đội phó, huyện đội trưởng rồi chủ tịch và sau đó là bí thư huyện. Công việc đang đà tiến triển tốt với vị trí ở một huyện vững mạnh về mọi mặt của toàn tỉnh. Trong chiến tranh hay trong hoà bình, những thằng lính may mắn còn sót lại như em thực sự coi mảnh đất này như quê hương ruột thịt của mình. Ấy vậy mà - Tuấn nhếch mép cười, đột nhiên nhấn ga cho xe tăng tốc vọt nhanh lên một đoạn - Kỳ đại hội lần thứ hai, em bị đánh bật ra khỏi cấp uỷ rất vô cớ. Tội vạ gì ư? Chả có gì hết. Nếu có thì chỉ là cái tội cả tin, không chịu vào một ê-kíp nào, công tâm, yêu quý tất cả mọi người, làm việc không kể ngày đêm, không chịu được sự khuất tất của kẻ này hay kẻ khác và liêm khiết đến từng điếu thuốc lá của công quỹ... Khốn nạn! Hồi chiến tranh, người ta cần mình đứng ra lấy ngực hứng tên, hứng đạn. Yên hàn rồi, họ lại sợ mình tiếm quyền, sợ mình làm một cuộc xâm lược văn hoá và trí tuệ trở lại. Khổ!
Nhìn nhanh vào gương chiếu hậu, tôi bấm vào lưng Tuấn. Chẳng dè Ba Thành nhìn thấy, hắn văng luôn:
- Bấm mẹ gì. Để cho nó nói. Bộ chúng mày nghĩ tao là thằng Nam, thằng Nam rặt thì tao cũng cùng một giuộc như chúng nó hả? Mẹ! Thử xét nghiệm máu, thử lục lại gia phả coi, tao đảm bảo rằng ráo trọi những thằng thích phân biệt nhất đều chảy dòng máu Bắc kỳ thứ thiệt trong người, đều là dân Bắc kỳ từ đời ông đời cha, đời ông cố nội, ông tằng tổ đói kém quá mà di dân vào đây chứ vinh vang con mẹ gì.
Ngoài kia nghèo, đói, rét ư? đúng! Cả trí tuệ bảo thủ ư? Đúng! Nhưng phải hiểu tại sao lại như thế kia chứ. Vắt kiệt sức mình cho hai cuộc chiến tranh thì bố thằng nào mà chẳng đói, chẳng rét. Tất nhiên các cha cũng phải bớt bớt cái ì ạch, trì trệ đi và mấy cha Bắc mới vào trong này sau 75 cũng phải gạt bớt cái tham lam đi. Tham quá, đãi bôi quá, cái miệng và cái bụng không ăn khớp, tệ hại hơn là lại còn xỏ nhau, lục đục với nhau làm xấu cả những thằng Bắc thứ thiệt khác. Tao nói vậy có trúng không, Tuấn?
- Trúng. Y giọng Ban tuyên giáo Trung ương - Tuấn cười.
- Cà trớn mày! Không cẩn thận thì thành một hố sâu ngăn cách không sửa được đâu. Chất địa phương cát cứ trong này là biểu hiện của tư tưởng nông
dân văn hoá thấp nhưng chất đãi bôi, tham vặt, ưa dòm ngó nhau ngoài kia cũng là tư tưởng manh mún, văn hoá thấp nốt. Hai thằng nông dân trong một nước nông dân nhất định đụng chạm nhau. Tao là một thằng nông dân, tao cứ nói đại thế, trúng thì nghe, không trúng thì bỏ. Tao nhớ hồi tập kết ra ngoải, dân ngoải thì xin mời, mấy cha Bắc nhường hết. Lại muốn làm ông to bà lớn nữa ư? Cứ tự nhiên, chả ai tranh giành, tốt bụng vậy chớ. vậy mà bây giờ thái bình rồi lại đáp nghĩa bằng sự hẹp bụng, coi kỳ lắm, hổng biết điều. Nhưng cũng đừng chấp. Ngoài đó dù muốn hay không vẫn là cái nôi văn hoá, cái văn minh Mẹ. Mai mốt cuộc sống khá lên, tự nhiên mọi sự kỳ thị tầm bậy tầm bạ rồi cũng biến mất thôi. Ráo trọi đều khởi nguyên từ cái sự nghèo. Nghèo là hèn. Có anh hùng, có triết nhân vẫn hèn. Tao nói vậy nghe được không?
- Được! - Tuấn nói - Lần này thì hệt một nhà sử học kiêm dân tộc học... Bắc kỳ. Có khi phải lo kiếm cho anh Ba một cô vợ Hà Nội cho nó đã.
- Hà Nội hả? Hà Nội thì số dách rồi. Ở ngoài đó mọi thứ còn xập xệ dữ lắm nhưng con gái lại quá đẹp. Trắng nõn, răng đều chằn chặn không như cái cười toàn răng giả ở trong này. Phải không Tuấn?
Tuấn không hưởng ứng câu nói của Ba Thành, cái nhìn ra ngoài nắng trở nên đăm chiêu:
- Lắm lúc nghĩ cũng buồn. Có được đất đai dài rộng ngày hôm nay cho dù có điểm này điểm nọ chưa tương đồng nhưng người ít suy nghĩ nhất cũng phải thấy rằng đó là kết quả bằng máu của cả hai miền cùng đổ xuống ròng rã mấy chục năm chứ. Ngẫm lại câu nói của anh Hai hồi ở rừng mà thấy thấm! "... Hàng triệu thanh niên ưu tú của cả nước ngầm xuống để tới đây có một bờ cõi nối liền nhưng coi chừng lòng người lại chia hai...” Nhỡn tiền bây giờ đang phân hoá thành hai thật. Hai nền văn hoá, hai kinh đô, hai vùng dân cư và rất có thể sẽ là hai hệ tư tưởng. Cái manh nha trong chiến tranh lúc này đã trở thành một nguy cơ thật sự. Nếu không có điều này thì cuộc đời của anh Hai đâu ra nông nỗi này và cuộc sống của bao nhiêu người khác sẽ dễ chịu biết bao.
- Tuấn! - Tôi nhắc khẽ - Bỏ qua đi!
- Bỏ qua lúc này là tự sát. Không hiểu các cụ ở trên có thấy không?
Bài học tan rã vì xung đột lãnh thổ ở Đông Âu chưa đủ là một bài học đau đớn sao? Buồn thật! Kỳ thị xét đến cũng là sự sợ hãi và phân biệt xét đến cùng cũng là vị kỷ. Chiến tranh mất còn thì quyền lợi chịu chung. Mới bập vào làm kinh tế, vào trò chơi đầu tư với tư bản là đã lợi ích tranh giành, ruồng bỏ nhau.
- Đ. mẹ! Không nói chuyện chính trị, đau cái đầu lắm - Ba Thành la lên - Nói chuyện chính trị lúc này là ba cái thằng đã ngã xuống chúng nhất loạt đội mồ lên đòi máu bây giờ. Tao nói bay nghe một kỷ niệm về điếu thuốc nghe chơi. Cái dạo đó phẫu tao thèm thuốc gần chết. Thèm đến nỗi giá ai cho một điếu thuốc rê thì hút xong sẵn sàng lìa đời. Bỗng một cô gái trong ấp lập cập quần mang ra cho được một cục thuốc bằng trái ổi. Sướng quá, tao đem chia đều. Cái gì đã xảy ra nào? Thằng khu Năm nửa đêm trèo lên ngọn cây cao hút, nhả khói vào lá cành. Thằng Nam Bộ khá hơn chút. Sáng sớm chèo ghe ra giữa sông giả đò đi ỉa rồi mới lặng lẽ châm thuốc, nhả khói vào sương sữa cho tan luôn. Cuối cùng chỉ mấy thằng Bắc được hơn cả: ngồi tại võng, nhịp giò hút phì phèo, thằng nào hết rồi, thèm quá, cho ké một hơi. Tao dẫn chứng vậy là nghĩa gì? Vấn đề không phải là một điếu thuốc mà vấn đề là nền văn hoá từng vùng. Văn hoá nào thì nó phản ánh lối sống thế đó.
A-lê! - Hắn chợt kêu lên - Thời buổi cuộc sống bấp bênh, cuộc đời đen bạc này, thằng nào chủ trương phân biệt, thằng nào thích Nam Bắc phân tranh thì cứ phải đem ra mà bắn bỏ như bắn một tên tội phạm lịch sử, một tên đái vào mồ mả ông bà. Còn chúng tao, những thằng lính thiệt thòi, những thằng dân thường khốn khổ, chúng tao đ. có cái kỳ thị của bọn ham tiền của, ham quyền uy ấy. Tao nói vậy nghe có tầm bậy không?
Tôi nắm lấy bàn tay chuối mắn của hắn siết nhè nhẹ. Để có được những suy nghĩ gan ruột thẳng băng như thế, trái tim hắn phải có những nhịp đập lành hiền, trong trẻo thế nào với bạn bè, với đồng đội thân yêu đã cùng sống chết trên mảnh đát này. Giá như, vâng, cũng chỉ là giá như thôi, ở đâu đó trên cao kia người ta cũng có hay cũng giữ được nhịp đập ấy thì mười mấy năm hậu chiến đã làm gì đến nỗi.
- Stop! – Ba Thành bỗng đập vào vai Tuấn cái đét khi xe chớm đến ngã ba Dầu Giây – Dừng lại đã. Thằng Tám cọp hình như ở đâu gần đây? Thái bình,
trời yên biển lặng, ghé nó nhậu bậy cai coi. Mười bảy năm rồi.
- Ô-kê!
Tuấn nói - Còn anh Hai cũng ô-kê chứ?
Tôi gật đầu. Qua Tám Tính, tôi cũng muốn biết thêm về Hai Hợi, qua Hai Hợi biết đâu tôi chả lần ra cái đầu mối bí mật của cô ta. Chắc phải có một điều gì đó ghê gớm lắm thì cô ta mới chạy trốn quá khứ, chạy trốn tôi, trốn mọi người dữ dội như thế.
Hoá ra tôi vẫn không thể quên được người đàn bà này, như không thể quên được một bí mật kỳ lạ có liên quan đến chính cuộc đời tôi. Mọi sự vận động thật bẽ bàng. Thế nào mà trong cùng một thời điểm, kẻ ăn mày quá khứ và đứa chạy trốn quá khứ lại cùng song hành ngược chiều nhau. Liệu rồi tới đây có va chạm nhau không? Và nếu va chạm thì sẽ nổ ra một cái gì?
Hoá ra nhà Tám Tính cũng dễ tìm. Đó là một căn nhà lợp ngói rộng chừng bốn chục mét vuông nhưng bù lại là một khu vườn sum sê cây trái có những căn lều lợp lá xinh xắn nằm e ấp đó đây, thoạt nhìn đã thấy cái mùi vị rạo rực phong tình.
Chẳng ngờ con cọp đen một thuở ấy giờ đây lại thay đổi nhiều đến thế. Cậu ta đã hoàn toàn hoá thân thành một ông lão làm vườn hiền lành, cần mẫn: quần bà ba, áo bà ba, khăn rằn trên trán, râu để ba chòm cái đen, cái trắng, đặc biệt là cái cách nói năng, đi đứng đã ra chiều an phận lắm rồi. Duy chỉ có mấy cái bắp thịt ở tay, ở vai lộ ra còn giữ được dấu vết một thời dọc ngang sức vóc.
Tay cầm một cái kéo to tướng từ trong vườn bước ra nhìn thấy chúng tôi, cậu ta chỉ khẽ gật đầu chào, hỏi một câu lãng xẹt làm như vẫn thường gặp nhau, mới xa nhau có tháng trước, năm trước. Hơi hẫng một chút, sau đó lại chính Ba Thành lên tiếng trước:
- Sao? Độ này mấy vợ rồi?
Con cọp cười hiền, mấy chiếc răng nơi cửa miệng gẫy gần trọn:
- Một. Vẫn một từ năm 75 tới giờ.
- Cha trời! Thằng Tám cọp coi ra tu nhân tích đức dữ!
- Vẫn Ba Thành sồn sồn - Thế con cái đi đâu hết?
- Đứa đi học, đứa đi mẫu giáo, đứa theo mẹ đi làm - Tiếng trả lời không hào hứng hơn.
- Tóm lại là bao nhiêu cái tàu há mồm?
- Mười hai.
- Trời đất quỷ thần ơi! Mỗi năm tòi ra một đứa. Giỏi! Định mấy chục thì dừng?
- Trời cho đẻ cứ đẻ, biết nhiêu mà tính?
Sau đó là im lặng. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau... Ba Thành chỉ tôi:
- Còn nhớ thằng này không?
- Nhớ! - Đôi mắt hùm hụp của hắn không sáng hơn lên một chút nào - Hai... Hai Hùng, đội trưởng đặc... đặc nhiệm. Người yêu của... Ba Sương.
Đấy là cái giọng của một thằng dở người, bị giam vào hầm tối lâu ngày, Thành lại chỉ Tuấn:
- Thế còn thằng này?
Đôi mắt mờ mịt của hắn dừng lại hơi lâu hơn một chút:
- Quen quen nhưng không thật nhớ. Hình như ở... ban kinh tài huyện uỷ?
Ba Thành cười rống lên:
- Kinh tài cái con mẹ họ! Đ. mẹ! Tại thằng này béo tốt nên nó mới nói như vậy. Giỏi! Thời chiến hay thời binh, cứ kinh tài là người ta lập tức có ấn tượng chuột sa chĩnh gạo liền. Mở to mắt ra! Thằng Tuấn, dân Hải Phòng, cướp cò B41 hạ gục thằng Bảo, sau đó thay thằng Hùng, nhớ chưa?
- Nhớ.
Hắn nói nhớ mà mắt hắn rõ ra cái điệu không nhớ gì cả. Phun nước miếng một cái phèo xuống đất, hắn bảo mọi người cứ ngồi chơi tự nhiên rồi lẳng lặng dắt xe máy ra cổng, một chiếc suzuki cũng lem nhem cóc cáy như chủ nhân của nó.
- Chắc nó đi đón con hay vợ - Tôi nói - Ta nên đi đi. Xem chừng mình tới không đúng lúc. Để khi khác.
- Khoan đã - Ba Thành cản - Chả lẽ cuộc sống tồi tệ này đã làm cho hắn quên hết nghĩa tình bạn bè rồi à? Được thôi, nhưng cũng phải chờ nó về dậy dỗ nó vài câu. Mẹ! Bọn nhà giàu, bọn tham nhũng, bọn quan chức quên bạn bè còn bỏ qua được, đến thằng lính trần thân trận mạc như nó mà cũng ngơ ngơ là láo! Rất láo! - Nói láo nhưng cái miệng của Ba Thành lại ngoác ra cười - Biết thế cái dạo nó bị thương thập tử nhất sinh, toàn thân chỉ còn là cái giẻ rách, tao bỏ mẹ vào bụng nó một cục bùn cho rồi. Hớ! Thuốc rê! Nhà cửa đâu đã đến nỗi gì mà sau gần hai mươi năm gặp lại, chiến hữu lại bỏ thuốc rê ra mời? Tuấn! Đưa tao gói ba số để lát nữa nó về, tao sẽ mời lại nó. Nhưng mà này, Hai Hùng ạ! - Đột nhiên Thành chuyển giọng như phải gió
- Cái Hà Nội của mày ấy mà, cũng phải nhanh chóng thay hình đổi dạng đi. Năm kia tao ra, nhìn mà rầu thúi ruột. Thủ đô gì mà nghèo tàn nghèo mạt, bụi bặm bay khắp trời, đường sá, nhà cửa lúp xúp không bằng cái phố huyện ở đây. Nếu tao là các cụ cốp ở ngoài đó ấy à? Hàng ngày phải nhìn thấy cái Thủ đô ngổn ngang bừa bãi như cái chợ trời ấy thì mắc cỡ lắm, nhục lắm, ăn ngủ không ngon được kia. Đằng này chỉ thích ngồi trên các bàn chủ tịch nói những điều cao siêu chẳng dính dáng gì đến quốc kế nhân sinh cả. Ấy, các chú ơi! Nhiều khi chính cái bộ mặt của quốc gia, cái trung tâm văn hoá, chính trị (chứ không phải kinh tế) của cả nước ấy sẽ quyết định đến sự tồn tại của thời kỳ thị Bắc Nam đấy.
- Hút thuốc anh Ba! - Tuấn chìa ra trước mặt Ba Thành gói Malboro chưa bóc - Nói hay quá! Không dè ông anh tôi nhìn nhận mọi việc cứ sáng trưng, đáng ra phải ngồi ghế cầm cân nảy mực.
- Bậy mày! - Thành thoắt tỏ ra bối rối - Tao mà ghế ghiếc gì. Và tao cũng thèm vào ghế. Ghế ngồi càng cao, tư cách càng méo, ăn thua mẹ gì. Có cái ghế bệnh viện trưởng quèn mà còn bị cúp cua thì hỏi còn nước mẹ gì mà ham. Thời nào cũng vậy, chả ai dại gì đi sử dụng cái đứa mạnh mồm. Vậy tao về. Sống với nhân dân, buồn vui sướng khổ cùng với nhân dân như hồi chiến tranh là đã nhất, cái miệng cũng mạnh và cái óc cũng mạnh. Khoẻ! Ủa! Nhưng sao đang không lại nói chuyện chính trị vậy hè? Nè, không có nói chuyện chính trị nữa mấy cha... Đó, thằng Tám cọp nó về rồi kìa! Coi nó có vồ được con nhép con nào về theo không.
Tám Tính lụi hụi dắt xe vào cổng, đằng sau buộc một bó rau lang cao chất ngất.
-Ủa! - Ba Thành kêu lên - Bữa nay mày tính đãi bọn tao món rau lang luộc chấm muối này đó hả? Ngon vậy mày?
- Nuôi heo - Tám Tính trả lời trống lổng - Nhà nuôi chục con heo, mỗi ngày phải mất hai bó như thế này. Đỡ giùm tao cái túi này chút, Ba Thành!
- Hả? Cái gì nữa đây? Cám hả?
Tám Tính cười hiền, rút khăn lau cái cổ nhếnh nháng mồ hôi:
- Bà xã đi vắng. Nhậu bậy ba cái đồ nguội mua sẵn ở chợ đỡ đi.
Nói rồi, trước con mắt ngạc nhiên và thích thú của ba đứa chúng tôi, bằng bàn tay đầy sẹo nhăn nhúm, hắn lôi từ cái túi xách to tướng ra một con gà luộc sẵn vàng ươm cỡ ba cân, một cân giò nạc, bịch bún, mớ rau thơm, một tảng thịt heo quay cỡ hai ký đỏ au... Hắn lôi tiếp ra hai chú cá lóc đã bỏ lò, mỗi con ước chừng cũng phải tới cả ký, bịch củ kiệu, nước chấm có củ đậu thái nhỏ, tệp bánh tráng, nửa ký chả quế, một cây thuốc Caravena... Và cuối cùng hắn quài tay lại phía sau tháo ra một cái hộp được quấn bao tải kín mít. Chao ôi, cả một két bia Heneken xanh biếc nằm xếp lớp như một trung đội lính kèn sắp hành quân ra lễ đài.
Đứng trước đống đồ ăn ngồn ngộn như cả một cửa hàng thực phẩm được chuyển về đây, Ba Thành trớ mắt, méo miệng nhìn hai đứa tôi ra ý bảo: “Thấy chưa? Thằng lính bao giờ cũng vẫn là thằng lính. Chỉ có cái tình cảm nó nổi ra ngoài hay lặn vào trong”.
Trong bữa nhậu, Tám Tính trở nên linh hoạt hơn. Như thể suốt mười sáu năm qua anh ta phải tạm đánh mất mình trước gánh nặng của cuộc đời sinh nhai, nay bỗng chốc gặp lại bạn bè một thuở, hắn thoắt sống lại những ngày đau thương lãng mạn xưa kia, một cánh rừng, một cây súng, một bầu trời, một mạng sống, một đối tượng, một cánh võng thoáng đãng, nhẹ tênh. Sau ly thứ nhất, hắn bắt đầu cười. Sau ly thứ hai, hắn bắt đầu nói. Sau ly thứ ba, hắn trẻ lại mười tuổi và sau ly thứ tư thì hắn đã hiện nguyên hình phần nào cái dáng bộ thằng Tám cọp đánh giặc khét tiếng ngày xưa. Kiểu này tôi e rằng, chỉ cần qua ly thứ năm là hắn có thể lồng ra phố vồ con gái nhà người ta lắm.
- Tóm lại là thế nào? - Ba Thành đã uống khá nhiều, càng uống càng tỉnh, miệng lưỡi càng nhọn hoắt - Ai cũng nghĩ mày chết rồi. Vậy tại sao còn sống?
- Chết thiệt rồi còn gì nữa - Tám Tính ngừng uống, chống hai tay lên cằm, mặt mũi bỗng trở nên trầm ngâm, Mười bảy vết thương vào người, trong đó có tám vào chỗ hiểm, phẫu đi phẫu lại tới hàng chục lần thì còn gì nữa mà chẳng chết. Nói điều này tụi bay có thể không tin, khi chuyển lên quân y viện Rờ, tao chỉ còn nằm chờ chết. Bỗng một buổi sáng sau hàng chục buổi sáng hôn mê, tao lơ mơ tỉnh dậy, cảm thấy có ai đang cúi xuống bên sạp, sạp chứ không phải giường đâu nghe! Gượng mở mắt ra nhìn thì đó là khuôn mặt của cô y sĩ từ ngoài Bắc mới hành quân vào. Tưởng tao vẫn hôn mê, cổ không cần giữ gìn ý tứ gì cả, vừa cặp nhiệt, vừa kiểm tra lại băng, vừa vô ý chịn cả cái bộ ngực chắc nịch, thơm ngậy vào giữa mặt tao...
- Sắp chết mà vẫn còn ngửi được cái mùi thơm ngậy?
- Ba Thành cười hóm chêm vào.
- Sao không thơm mày - Tám Tính cãi một cách ngây thơ - Sắp chết cái đầu chớ cái mũi nó có sắp chết đâu. Nói tiếp: Tao khi đó đúng là mười phần đã chết chín nhưng riêng... cái kia lại gần như sống nguyên. Sống bù cho những phần đã chết nên mạnh mẽ dữ lắm! Thu tàn lực, tao mới nhè nhẹ hít lấy cái mùi thơm quen thuộc đó, hít một lần cuối để chết mà. Tao lại còn cố mở hé đôi mắt sưng mọng nhìn vào cái ngấn trắng rợn mình đó nữa.
- Có thấy trắng không hay là thấy thâm sì?
- Trắng. Tao cố mở mắt nhìn lần nữa và kỳ lạ! Tao bỗng thấy tỉnh hẳn, toàn thân rần rần chuyển động như có kiến bò vào tận từng lóng xướng, mạch máu. Cô ấy đi rồi, tao mới láng máng nghĩ: “Cuộc đời còn đang đẹp thế, đàn bà con gái còn đang nhiều quá trời, thơm tho thế, chết uổng lắm, ráng mà sống, sống què quặt cũng được”. Thế là, cùng với mỗi buổi sáng được hít thở, sức khoẻ tao hồi phục dần. Tao như đứa trẻ sài đẹn ngày ngày được uống sữa từ bộ ngực ấy mà cô không hề biết. Tất nhiên không thể không kể đến sự hỗ trợ của thể lực và tuổi tác nữa.
Tám tháng sau tao ra viện, gầy xọp đi đến gần hai chục cân, giò cẳng khẳng khiu nhìn muốn chảy nước mắt luôn. Trước lúc đi, tao nói: “Đồng chí y sĩ ơi, nếu không có bộ ngực của đồng chí hà hơi tiếp sức cho tôi thì giờ đây tôi đã ngoẻo củ tỏi rồi. Suốt đời thằng Tám Tính này mang ơn đồng chí. Sau này dù ở đâu, làm gì, tôi cũng xin phép được kêu đồng chí là mẹ đỡ đầu...”. Cô ta đỏ bừng mặt và bỏ chạy vào lán. Một năm sau, sát ngày giải phóng, khi đó người ngợm trông ra cũng được được, nhân một lần đi công tác qua, tao đã ghé vào thăm. Cô ấy nhìn tao lom khom. Khi nhận ra, cô rơm rớm khóc. Tao cũng rơm rớm... Và hai tháng sau, tao chính thức ngỏ lời cầu hôn.
- Nàng nhận lời? - Tuấn hỏi với vẻ bị cuốn hút thực sự.
- Không! Bảo rằng nghe đồn về tao đủ thứ kinh lắm, e rằng không có hạnh phúc.
- Đồn trước kia hay sau khi ra viện? - Tôi cũng buột miệng hỏi.
- Sau khi ra viện.
- Trời đất! – Ba Thành vỗ đùi – Chỉ còn bộ xương khô mà vẫn... vồ!
- Vẫn! – Tám Tính gãi đầu – Cái đó nó ăn vào máu rồi, xương cốt thì ăn nhằm gì vào đây.
- Rồi làm sao nữa?
- Chả làm sao cả. Vì tấm lòng của người mẹ đỡ đầu, tao cắn răng chừa. Bắt đầu thì khổ sở lắm. Như cái đứa lên cơn nghiện thuốc phiện, ngủ không được, ăn không được, bắp thịt oải ra, thần kinh nhão nhoét, chẳng thiết làm thiết ăn gì nữa. Sau quen dần. Vì tình yêu và lòng biết ơn với cô ấy mà quen. Nửa năm sau, thấy trong mình sạch sẽ rồi tao mới ngỏ lời một phát nữa. Nàng nhận lời. Hai tháng sau Sài Gòn giải phóng và thế là từ đó đến nay, cứ đều đều năm một. Dự định đến đứa thứ mười bốn, sao cho trai gái cân bằng thì dừng.
Chao, mười bốn đứa con cân bằng trai gái! Trước ba thằng đàn ông chưa có con hoặc vợ con lỡ cỡ, con số này nghe mới ngợp ngụa làm sao! Thả ra một câu triết lý, Tuấn nói:
- Rút cuộc, bệnh của anh Tám thực chất là căn bệnh của chiến tranh, đáng yêu thôi. Cũng như thói trầm uất là bệnh của tất cả nhưng ai đã một lần cầm súng, chả đáng yêu chút nào. Lòng biết ơn và tình yêu như anh nói chỉ là một phần thôi. Đúng ra, thái bình, không chết chóc mới làm cho bệnh anh tiêu tan. Khi đó, năng lượng khủng khiếp của con đực không rải ra bốn phương mà gom tụ về một hướng thì mười hai hay mười bốn con vậy vẫn là ít. |
|