Vào lần sinh nhật thứ hai mươi, Joe đối diện với một vấn đề phức tạp đến nỗi anh phải tìm người giúp đỡ, và chính vì vậy anh đã gặp bà Rubin.
Rắc rối của anh bắt đầu từ hai năm trước, khi anh bắt buộc phải đăng kí tham gia quân dịch. Anh đã nói với bạn bè ở trường trung học bằng những câu vụng về vốn đặc trưng cho các nỗ lực giao tiếp của anh, “Làm sao vụ đó tóm được cậu cơ chứ? Không thể gọi một cốc bia ấy thế mà lại có thể đi đánh trận.”
Bao giờ Joe cũng cao lớn hơn so với tuổi, thanh mảnh chứ không chắc đậm, và, theo mốt nhóm bạn, đã bắt đầu nuôi tóc dài ở hai bên mang tai nên nhìn từ phía sau cũng có thể thấy rõ. Anh không thật nổi bật về điền kinh để thu hút được sự chú ý của bất kỳ trường đại học nào, cũng không giỏi tới mức được cấp học bổng. Vật duy nhất anh phải xuất trình khi tốt nghiệp trung học là một mảnh bìa trắng cỡ cái ví chứng nhận anh đã đăng ký tham gia quân dịch và được tự động xếp loại 1-A; việc xếp loại chính thức sẽ được tiến hành sau đó, khi anh được gọi đi khám sức khỏe. Khi vào đại học, người ta yêu cầu anh trình thẻ quân dịch, và vị giáo sư phụ trách có vẻ hài lòng khi thấy anh đã có.
Vào sinh nhật thứ mười chín, Joe nhận được một công văn làm anh sợ hết hồn. Đó là công văn của hội đồng tuyển quân, khi anh đi nghe giảng môn văn hóa về thì nó đã đang nằm chờ sẵn. Trong mười phút khổ sở, anh lo sợ không dám mở ra xem. “Tớ không sợ chiến tranh”, Joe khẳng định với anh bạn cùng phòng, một sinh viên triết quê ở Nevada có khuôn mặt vàng vọt, “và tớ cũng không phải kẻ từ chối nhập ngũ vì cho rằng nó trái với đạo lý, nhưng Việt Nam làm tớ điên đầu. Lạy Chúa, tớ không muốn bò lê bò toài khắp các ruộng lúa.”
Cuối cùng khi mở phong bì ra, anh không thấy gì ngoài một bản thông báo in roneo, “Vì đã đỗ vào trường đại học cho nên ông được xếp loại 2-S, và ông vẫn sẽ được xếp vào loại này cho đến khi tốt nghiệp. Tuy nhiên, ông phải báo cáo với ủy ban quân dịch về bất kỳ thay đổi nào trong tình hình học tập của ông.” Kèm theo là tấm thẻ mới để anh xuất trình với viên chức trong trường và người phục vụ quầy rượu.
Mặc dù năm đầu anh đạt được điểm số tốt nhưng năm thứ hai lại nảy sinh khó khăn. Trường anh chọn không thuộc loại lò luyện não như Berkeley, cũng không phải nơi toàn những cô cậu thích ăn diện như Stanford; nó là một trong số nhiều trường có chất lượng nằm rải rác khắp California và là nguyên nhân dẫn đến sự vượt trội trên nhiều lĩnh vực của bang đó; trong khi một bang như Pennsylvania chỉ cung cấp nền giáo dục đại học cho ba mươi mốt phần trăm học sinh tốt nghiệp trung học, California lại lo việc học hành cho bảy mươi ba phần trăm, và sự khác nhau này phải được nói đến. Joe kiên trì nỗ lực và cố gắng đạt những điểm số giữ cho anh được ở lại trường và thoát khỏi quân dịch.
Chính mục đích thứ hai này đã gây cho anh tình trạng khủng hoảng tinh thần. Bốn sự việc khó chịu dồn dập trong một thời gian ngắn. Chúng ám ảnh anh, không tài nào gạt bỏ được; bản thân các sự việc đó không có gì nghiêm trọng, nếu là mười năm trước, các chàng trai trẻ có thể dễ dàng gạt bỏ. Bây giờ, mùa thu năm 1968, chúng hợp lại để tạo nên một cơn ác mộng đáng sợ.
Sự việc thứ nhất đến một cách ngẫu nhiên. Một hôm, bạn cùng phòng Joe, một sinh viên gần như liên tục đạt điểm A và đã làm được như vậy suốt thời trung học, có một anh bạn hơn tuổi đã tốt nghiệp đại học năm trước tên là Karl đến thăm. Anh chàng to lớn, tháo vát này tạt vào phòng, nằm dài trên giường, cầm theo một lon bia. “Mặc kệ người ta nói gì với cậu,” anh ta nói với giọng dạy đời, “cứ theo ba khóa Giáo dục học đi. Khối thằng cha hợm đời đã cười phá lên khi tớ bỏ lớp dự bị luật để sang khoa Giáo dục tiểu học… Khoa Thay Tã III, bọn nó gọi như vậy. Được thôi, bây giờ chúng đang ở Việt Nam cả rồi đấy. Còn tớ thì được lánh nạn trong một trường tiểu học ở Anaheim. Trong thời gian này tớ được an toàn không phải lo lắng gì về quân dịch.” Anh ta ngả đầu vào gối, tợp một ngụm bia và nhắc lại câu khuyên bảo, “Học sư phạm đi.”
“Anh thấy nghề dạy học thế nào?” Joe hỏi.
“Ai thèm quan tâm chứ? Buổi sáng cậu trình diện. Bọn nhóc quậy tưng bừng. Cậu ngăn không cho chúng phá lớp tanh bành. Đến tối cậu được về nhà.”
“Thế anh dạy chúng những gì?”
“Chẳng dạy gì cả.”
“Anh không bị đuổi việc à?”
“Tớ to cao. Bọn trẻ sợ tớ một phép. Vậy nên tớ tương đối giữ được trật tự. Tay hiệu trưởng quá biết ơn vì có được một lớp học không ồn ào nên ông ta chẳng cần quan tâm xem tớ có dạy gì hay không.”
“Nghe có vẻ hay ho nhỉ,” Joe nhận xét.
“Tớ tránh được quân dịch,” anh giáo đáp.
Một thời gian sau, anh bạn cùng phòng kéo Joe cùng đi đến trường tiểu học đó để thử xem ông hiệu trưởng có công việc gì cho họ sau khi họ tốt nghiệp không, và họ quan sát bọn trẻ, trong đó có nhiều đứa da đen, la hét ầm ĩ ngoài hành lang. Ông hiệu trưởng là một người hiền lành, khoảng bốn mươi tuổi, tóc rụng gần hết. “Bạn các anh là một trong những giáo viên giỏi nhất trường chúng tôi,” ông hăng hái nói. “Nếu các anh đủ điều kiện để được cấp bằng tốt nghiệp của bang California, chúng tôi sẽ rất vui lòng tăng cường các anh vào đội ngũ giảng dạy.” |