Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: ^^Smile^^
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Dân Quốc] Không Kịp Nói Yêu Em | Phỉ Ngã Tư Tồn [Hoàn]

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 17-5-2013 17:10:54 | Chỉ xem của tác giả
Phần hai: Hôn lễ không có cô dâu
Chương 15

Tĩnh Uyển vốn đang trong giai đoạn dưỡng thương, trên đường cực kì mệt mỏi, vất vả cô sợ cha lo lắng, cố gắng không để lộ ra, chỉ cắn răng chịu đựng. Về đến Càn Bình, xuống xe dường như mệt mỏi lên đến cực điểm, cô không muốn nói thêm một câu. Suốt dọc đường Doãn Sở Phàn lo lắng không nguôi, lúc xuống tàu mới thở phào một tiếng, nói: “Cuối cùng cũng đến nhà rồi”.

Tiếng cười ồn ào trên sân ga, lần này đi Thừa Châu, chỉ mấy tháng, nhưng cô lại có cảm giác như cả một đời, dường như tách biệt với thế giới này là một tầng sâu, đầu óc choáng váng, cô cố gắng lấy tinh thần xuống xe, chân đặt xuống đất, trái tim vẫn dập dềnh. Họ đã điện báo cho gia đình từ trước, lái xe trong nhà đón được họ mới thở phào mặt mày hớn hở nói: “Lão gia, đại tiểu thư, hai người đã về rồi, phu nhân sớm đã giục chúng tôi đi đón đó.”

Tĩnh Uyển cảm thấy mình yếu ớt đền cực độ, mệt đến cực độ, ngồi trên xe cô chỉ muốn mau về nhà, đến lúc về nhà vừa xuống khỏi xe bỗng nhiên như có sức lực cô bước nhanh vào phòng khách: “Mẹ, Mẹ!”. Doãn phu nhân đã ra đón, cô lao vào lòng mẹ, giống như đứa trẻ òa khóc thành tiếng. Doãn phu nhân ôm lấy cô, cô khóc lớn hu hu như thể muốn trút ra hết những đau đớn tủi nhục gần đây. Doãn phu nhân không kìm được rơi lệ nói: “Về là tốt rồi,về là tốt rồi…”

Cô ôm lấy cánh tay mẹ, giống như ôm lấy khúc củi mục cuối cùng, cứ thế khóc nức nở. Cô chưa từng yếu đuối thế này, cũng chưa từng sợ hãi thế này. Doãn phu nhân vỗ vỗ lưng cô giống như dỗ đứa trẻ, cô kiệt sức nức nở nói: “Mẹ, con sai rồi.”. Doãn phu nhân ngấn lệ nói: “Con gái lần sau không được dọa mẹ như thế, mẹ chỉ có con thôi”. Nước mắt cô cũng lã chã chảy xuống giọng nói của cô gần như không thể nghe thấy: “Mẹ, con cũng chỉ có mẹ”

Tối đó cô ngủ rất ngon, cơ thể quá mệt mỏi, trái tim cũng mệt mỏi, thế nên về đến nhà là ngủ một giấc thật sâu chẳng mơ mộng gì. Cô ngủ đến trưa mới dậy ăn cơm trưa. Doãn Sở Phàn rời Càn Bình đã lâu vừa quay về bận việc kinh doanh. Doãn phu nhân ở lại với con gái, cứ ngắm cô mãi, chỉ hỏi mọi chuyện cô ở Thừa Châu. Cô sợ mẹ lo lắng, chỉ kể chút chuyện không liên quan, hai mẹ con tíu tít trò chuyện, bỗng bác Ngô vào nói: “Phu nhân, tiểu thư, Hứa thiếu gia đến.”

Tĩnh Uyển chỉ thấy trái tim nhảy lên không biết là cảm giác gì, Doãn phu nhân đã nói: “Mau, mau đi gọi cậu ấy vào”. Tĩnh Uyển ngồi ở đó không động đậy. Hứa kiến Chương hôm nay mặc áo dài, người gầy đi rất nhiều, vẻ mặt cũng mệt mỏi, từ xa đã chào hỏi Doãn phu nhân: “Bác gái”. Doãn phu nhân nói: “Ngồi đi, bác lấy chút điểm tâm cho hai đứa”. Bà liền đứng dậy ra đi, khóe miệng Tĩnh Uyên hơi mấp máy, cô muốn giữ mẹ lại, cuối cùng vẫn không nói ra.

Hứa Kiến Chương nhìn cô từ phía xa, giữa họ chỉ cách nửa căn phòng, nhưng trong chốc lát bỗng trở nên xa vời, dường như cách cả ngàn núi vạn biển. Anh hơi cúi đầu, Tĩnh Uyển nghiêng mặt, trên cửa sổ rèm cửa nhung màu xanh lá thẫm rủ những tua màu vàng hoa lệ gió thổi qua chút ánh vàng lấp lánh, giống như mặt trời chiếu xuống dòng sông, sống động lấp lánh, trong mắt anh lại tràn ngập sự chán nản.

Trong tim cô chất chứa cảm giác rối ren phức tạp, vừa như thương xót lại vừa như oán trách càng giống như sự bị động khiến cô không thể nghĩ gì thêm, ép cô đến mức không thể thở được. Cuối cùng anh mở rộng nói khàn khàn: “Tĩnh Uyển xin lỗi”. Cô không nói gì một sức mạnh kì lạ ủng hộ cô, móng tay cô vô thức cào vào mặt nhung ghế sofa nhung tơ mịn và mềm, hơi ngứa. Rất lâu sau anh lại nói: “Hôm nay anh đến, chỉ là đến xin lỗi em, anh có lỗi với em, nhưng trong tình hình đó anh cũng không có cách nào khác. Anh không mong em tha thứ cho anh, cũng biết em không muốn gặp anh, nhưng nếu hôm nay anh không đến, kiếp này anh sẽ không yên tâm.

Gió rất mạnh, thổi rèm cửa phần phật, Tĩnh Uyển nghĩ đến phòng ngủ cửa Mộ Dung Phong, cũng là rèm cửa lớn kiểu Tây, dưới rèm cửa kết quả cầu bông, lúc không có việc gì làm cô thường đứng trước cửa sổ nghịch mấy quả cầu đó, quả cầu bông xoa trong lòng bàn tay hơi ngứa ngứa. Cô bất ngờ hoảng hốt, kì lạ sao bỗng nhiên bản thân lại nhớ đến điều này. Cô cho rằng Thừa Châu là ác mộng của mình, cả đời cũng không muốn nhớ lại. Cô hơi hoảng loạn mắt nhắm lại, Kiến Chương đang nhìn cô, ánh mắt đầy hối hận và đau khổ, vẻ mặt cô hơi thẩn thờ nhưng cô định thần lại nói: “Em không oán trách anh”.

Anh đứng đó không nhúc nhích, giọng nói vẫn nhỏ nhẹ: “Nhưng anh trách bản thân mình…”. Cô quay đầu lại một cách hơi tự lừa mình dối người: “Đây không phải lỗi của anh, em không trách anh”. Anh lại gọi một tiếng Tĩnh Uyển. Cô nói: “Là em không tốt sao có thể trách anh được”. Sắc mặt anh nhợt nhạt đến đáng sợ, tuy cô gần anh như vậy, nhưng lại xa vời không với nổi đến thế. Cô nói ra câu đó, lập tức cảm thấy hối hận, yên lặng ngồi đó chỉ nhìn anh xót xa. Anh nhớ lại lúc nhỏ mỗi khi cô gây chuyện hoặc là bị tủi thân gì, cô đều có dáng vẻ đấy, trái tim mềm nhũn, nước mắt chực trào ra, chỉ là cố gắng kìm nén.

Cô đi lên phía trước một bước, anh đưa tay ra, cô chẳng nghĩ gì nửa mà cũng chẳng muốn nghĩ gì nữa, nghĩ tiếp cô sẽ phát điên. Cô quay về rồi, cô muốn quay lại cuộc sống của mình. Cô lao vào lòng anh, giống như sợ một cái gì đó vô hình, vô tướng. Cô muốn sự bình yên ở anh, muốn anh cho cô sự thân thuộc, trên cơ thể anh có mùi thuốc quen thuộc không có mùi thuốc súng rất nhạt xen lẫn. Cô không thể nghĩ tiếp, nghĩ tiếp cô sẽ sợ hãi, cô ngẫn mặt lên mắt ngấn lệ, cô biết rõ là không thể quay lại, cô không thể quay lại quá khứ trước đây với anh, nhưng cô cứ cố chấp trong tuyệt vọng, cô nhất định muốn giống như trước đây, cô nhất định phải tiếp tục cuộc sống của mình.

Anh ôm chặt lấy cô như ôm bảo vật đã mất vừa tìm lại được, anh không ngờ có thể dễ dàng tìm được sự tha thứ của cô như vậy, một người ngạo mạn như cô, bây giờ lại yếu đuối đến mức không có một sức lực nào. Trong tim anh lờ mờ dấy lên nỗi sợ hãi, tất cả quá dễ dàng, không giống như sự thật. Anh cho rằng cả đời cô sẽ không tha thứ cho mình, nhưng bây giờ cô đang ở trong lòng anh. Anh ôm chặt lấy cô, dường như chỉ có thế mới chứng minh sự tồn tại của cô, cơ thể cô cứng đờ, có lẽ vì vẫn giận anh, anh thở dài hôn lên tóc cô: “Tĩnh Uyển….anh xin lỗi….”

Vẻ mặt cô ngơ ngẩn, nơi tan nát trong trái tim lại âm ỉ đau, cô ép bản thân mình không nghĩ nữa, thứ cô muốn chỉ là một cuộc sống yên bình. Anh sẽ đối xử tốt hết sức với cô có thể, anh sẽ đối tốt với cô, sau đó quên hết tất cả những khúc mắc, quên Thừa Châu, quên tất cả những thứ đã làm xáo trộn cuộc sống của cô.

Càn Bình giữa tháng bảy, tháng tám vô cùng nóng bức, Tĩnh Uyển tuy ham ngủ nhưng ngày hè nóng nực hơn 10 giờ nắng đã gắt, cả khu vườn cây cối tươi tốt, mơn mởn sum suê, cô dậy muộn nên không ăn sáng, chỉ lấy một miếng bánh ngọt vừa ăn vừa đọc báo Tây hôm nay. Trên báo còn phân tích sự xung đột giữa Thừa – Dĩnh tại đồn Trịnh Gia, trình bày bố phòng và thực lưc hai quân chính phủ ở ngoài đứng hòa giải… Cô nhìn thấy hai từ “Thừa quân” bất giác nảy sinh bực bội, vứt tờ báo sang một bên, Doãn phu nhân thấy cô đọc báo nên hỏi: “Báo viết gì sắp đánh nhau sao?”

Cô đáp: “Vẫn là mấy câu đó, chuyên gia phân tích quân sự nước ngoài nói, tuy cục diện rất căng thẳng nhưng chắc sắp tới sẽ không đánh nhau”. Doãn phu nhân nói: “Vậy thì tốt, đánh nhau thì loạn lạc, khiến lòng người bất an, bà lại nói: “Không phải con muốn đi dạo công viên với Kiến Chương sao, sao đến giờ vẫn chưa đi?”

Tĩnh Uyển nhìn nhìn đồng hồ rồi nói: “Bọn con đến Minh Minh Hiên ăn cơm, dù sao công viên mấy ngày lại dạo một lần, giống vườn hoa nhà mình có gì thú vị chứ?”. Minh Minh Hiên là một nhà hàng đồ Tây ở trong công viên Càn Sơn, rất nổi tiếng, Tĩnh Uyển rất thích món đào lạnh ở đó, cho nên Kiến Chương và cô hay hẹn nhau ở đó.

11 giờ cô mới ra khỏi nhà, đến cô công viên đã 12 giờ. Hôm nay là chủ nhật, Minh Minh Hiên sắp kín chỗ. Vì là khách quen nên bồi tây mặt mày tươi cười chào hỏi: “Doãn tiểu thư đến à, Hứa thiếu gia đã đợi cô từ lâu rồi đấy”.

Vì đến ăn đồ Tây nên Hứa Kiến Chương cũng thay âu phục, ánh nắng giữa trưa gay gắt chiếu xuyên qua cửa sổ kính màu tạo thành những vệt sáng đầy màu sắc, một vệt sáng màu vàng nhạt đang chiếu trên mặt anh anh mỉm cười nheo mắt lại, những sợi tóc đen tuyền trên trán anh thẳng tấp, nụ cười đó ấm áp khiến tim cô cảm thấy dịu dàng bình yên , cô cười nói: “Đợi em lâu lắm rồi phải không?”. Kiến Chương đáp: “Anh cũng mới đến một lúc thôi”.

Thức ăn mới đem lên một lát, bỗng nhiên tiếng ồn ầm ĩ bên ngoài truyền tới, trong nhà vốn có một đội nhạc Nga đang biểu diễn, âm thanh đó ồn ào đến nổi át cả tiếng nhạc, có người đang lớn tiếng nói gì đó, còn có người liên tiếp hỏi, rất nhiều người khác không kìm được ngó nghiêng bồi Tây vội vàng đi qua, Tĩnh Uyển gọi anh ta lại hỏi: “Xảy ra chuyện gì thế?”

Bồi Tây đó đáp: “Báo mới đăng tin,Thừa quân tuyên chiến rồi.”

Trái tim cô chợt chùng xuống, không biết vì sao cơ thể bỗng đờ ra. Lúc lâu sau cô mới quay mặt lại nhìn Kiến Chương, trong ánh mắt ánh lên chút đau khổ, rất nhanh bị che lấp bởi sự ung dung. Giọng nói của anh dường như rất bình tĩnh: “Xem ra sẽ phải loạn lạc một thời gian”. Tĩnh Uyển cũng dần trấn tĩnh, nói như không có chuyện gì: “Thừa Dĩnh cũng không đánh nhau bốn năm nay rồi nhỉ”. Hai người họ vẫn cứ nói chuyện nhưng chiếc đĩa trong tay Tĩnh Uyển đã chọc nát miếng bánh mỏng mới mang lên.

Người ở bàn bên cạnh lớn tiếng thảo luận tình hình, những giọng nói liên tiếp truyền đến. Một người nói hành động này của Mộ Dung Phong không thông minh, Thừa quân vốn yếu thế, tuyệt đối không có lợi. Một người khác nói: “Dĩnh quân mới thắng An Quốc quân, sĩ khí đang lê , nếu không phải chính phủ nước ngoài điều đình thì đã tuyên chiến với Thừa quân tháng trước rồi”. Một người nửa lại có ý kiến khác: “Theo tôi thấy chưa chắc, Mộ Dung Phong mới kí hiệp ước với người Nga, quay đầu lại liền tuyên chiến với Dĩnh quân, ở giữa nhất định có điều bất thường”. Họ mồm năm miệng mười, nói mãi không thôi, Tĩnh Uyển vốn không muốn nghe, nhưng từng câu chữ giống như con rắn lạnh, uốn lượn luồn vào tai cô Tâm trạng cô rối loạn, bất giác thở dài một tiếng .
Hứa Kiến Chương bỗng nhiên gọi cô một tiếng: “Tĩnh Uyển”. Cô ngẩng đầu lên nhìn anh sắc mặt vẫn khoan thai điềm tĩnh, vệt sáng ở cửa kính màu chiếu lên khăn trải bàn trắng muốt, ánh sáng nhảy múa, chập chờn như lụa, có chiếc bóng hơi lay động, là chiếc lá bên ngoài cửa sổ bị gió thổi bay vào. Trong phòng ăn vốn lắp quạt trần, lúc này cánh quạt lớn chầm chậm quay giống như mái chèo chậm rãi khuấy động không khí ngưng tụ. Cô có một dự cảm không lành, chiếc khăn ăn phẳng phiu thấm hết mồ hôi trong lòng bàn tay, mềm mại mà dẻo dai, cô cứ thế nắm chặt chiếc khăn ấy. Vẻ mặt Kiến Chương vẫn thế, giống như lúc nhỏ giúp cô hái bông hoa, anh nói: “Chúng ta kết hôn đi”

Chiếc quạt trần trên đầu phát tiếng ù ù khe khẽ, xung quanh là những tiếng cười nói nho nhỏ, xa xa có tiếng ve sầu. Cô không hề thấy nóng nhưng mồ hôi cứ thấm vào quần áo, dính vào người. Cảm giác hoảng hốt chạy qua tim cô, giống như lúc nhỏ tỉnh dậy, trong phòng tĩnh mịch, mẹ không có ở đó, vú nuôi cũng không có ở đó, bốn bề yên ắng, chiếc đồng hồ treo tường tích tắc tích tắc chạy, chỉ có một mình cô trong phòng hốt hoảng đến phát sợ.

Tiếng người nói hỗn độn, còn lờ mờ nghe thấy có người nói tiếng Nga, ngữ điệu cứng nhắc và uốn lưỡi, cô định thần lại mới nhận ra đó là chỉ huy đội nhạc Nga. Đội nhạc lại bắt đầu diễn tấu, bản “Souvenir D’enfance”, tiếng dương cầm rất rõ ràng, mỗi nốt nhạc giống như gõ lên tim cô, từng nhát từng nhát một. Cô nghe thấy giọng nói chậm rãi, rành mạch của mình vang lên: “Được thôi”.

Mọi việc của lễ đính hôn đều đã được chuẩn bị xong, lần trước vì Kiến Chương xảy ra việc mà lỡ mất, bây giờ lại bố trí lại cũng không mất công sức. Tuy bây giờ là xã hội kiểu mới, nhưng đối với chuyện hôn nhân đại sự, vẫn khó tránh khỏi theo tục cũ, hai gia đình đều chuẩn bị sính lễ và của hồi môn.

Tĩnh Uyển không hề biết kết hôn lại phải chuẩn bị nhiều thứ như vậy, tuy cha mẹ giúp cô lo liệu nhưng cô rất nhiều đồ vẫn phải tự cô chọn lựa. Sáng sớm hôm đó đích thân Kiến Chương lái xe đến, đem hai người đến Tây Đại An xem nhẫn kim cương.

Cửa hàng đồ Tây vốn rất ít khách, đặc biệt là sớm thế này, hai người đi vào trong chỉ có mấy người làm thuê Ấn Độ, cho nên được họ chăm sóc rất nhiệt tình. Người bán hàng lấy đủ mọi loại nhẫn kim cương cho họ xem, lại nói: “Nếu không thích ở đây chúng tôi còn kim cương thô, có thể đặt làm nhẫn”. Vì là đồ dùng để kết hôn, cho nên Tĩnh Uyển rất coi trọng, đặt trước mắt lựa chọn mấy chiếc nhẫn đó đều có kiểu dáng bình thường, chọn mãi cũng không có chiếc nào vừa ý. Mấy người bán hàng lại lấy đá kim cương ra cho họ xem, những viên đá kim cương đó đặt trên lớp lụa nhung đen, lấp lánh giống như ánh sao trong đêm. Người bán hàng thấy là khách sộp nên rất nịnh bợ, nói: “Chỗ chúng tôi có một viên yến vàng rất đẹp, kim cương vàng vốn rất hiếm, viêm kim cương vàng ba cara này càng hiếm hơn”.Vừa nói vứa lấy ra một chiếc hộp hình quả đào, nho nhỏ mở ra cho họ xem.

Tĩnh Uyển nhìn viên kim cương yến vàng đó, lòng không kìm được nghĩ đến chiếc vòng Mộ Dung Phong từng tặng cô, ánh sáng lấp lánh rực rỡ ấy, gần như làm người ta chói mắt. Gương mặt cô bất giác đờ đẫn, chỉ trong giây lát đó Kiến Chương đã thấy vẻ mặt của cô, anh cũng đã nhớ ra, sau khi cô bị thương lần đầu gặp cô, trên tay cô đeo một chiếc lắc tay khảm kim cương yến vàng, dưới ánh đèn óng ánh như ánh sao, lóng la long lánh. Lúc đó anh chỉ lo lắng cho vết thương của cô, không hề nghĩ nhiều, nhưng bây giờ nhớ lại, ánh sáng của sợi dây chuyền đó dường như đang nhấp nháy trước mắt.

Anh nhớ đến lần về nước năm ngoái, cô nhìn thấy một vị vương phi đeo chiếc vòng tay nạm kim cương đó trên một tạp chí tiếng Anh, cứ khen ngợi mãi. Nhưng loại đá quý hiếm giá thành đắt đỏ này, các thương nhân bình thường cũng không mua nổi, anh nhìn ánh sáng lấp lánh của viên yến vàng , trái tim rơi thẳng xuống, ở nơi sâu thẳm trái tim cuộn trào sự lạnh lẽo, tuy là giữa hè nóng bức, nhưng bàn tay trong chốc lát lại lạnh đi.

Tĩnh Uyển mỉm cười nói với anh: “Em không thích kim cương vàng kiểu này, nhìn tối tối không bằng kim cương thường”. Anh cũng mỉm cười với cô, cô tinh mắt bỗng nhiên phát hiện trên tay người bán hàng còn một chiếc hộp liền hỏi: “Cái này cũng kim cương vàng sao?”. Người bán hàng đó nói: “Đây là kim cương hồng mấy ngày trước có một vị khách thích nó, vì chê khảm không đẹp, thay đổi kiểu dáng khảm lại, đã trả tiền rồi”. Tĩnh Uyển ồ một tiếng người bán hàng mở hộp ra cho họ xem, đó là một viên kim cương khoảng ba cara, khảm khắc tinh xảo, Tĩnh Uyển vừa nhìn đã thấy thích nó.

Kiến Chương thấy cô thích liền bảo người bán hàng mang đến, thử đeo lên tay vô cùng vừa vặn, người bán hàng cười nói: “Ngón tay tiểu thư thon dài, cho nên đeo kiểu dáng này là đẹp nhất”. Tĩnh Uyển càng nhìn càng thích, Kiến Chương nói: “Đây là đồ người ta đặt, vậy chúng tôi đặt một chiếc theo mẫu này nhé”.

Người bán hàng đó cười nói: “Ngài biết đấy loại kim cương này đắt hàng mà lại khan hiếm. Hiện nay kim cương hồng và kim cương ngọn lửa rất hiếm, theo tôi được biết nguồn kim cương này trong nước bị quản lí chặt, nếu ngài muốn, chúng tôi đánh điện đến trụ sở của hàng, chuyển hàng từ nước ngoài về, chỉ phiền ngài phải đặt tiền trước”

Kiến Chương hỏi: “Tiền đặt cọc không thành vấn đề, có điều là cần bao nhiêu thời gian?”. Người bán hàng đó đáp: “Vốn có thể chuyển bằng đường sắt nhưng bây giờ Thừa Dĩnh khai chiến nên phải vận bằng đường biển, nếu nhanh thì ba tháng kim cương mới tới nơi.

Tĩnh Uyển vừa nghe thấy liền rất thất vọng, hôn lễ của họ sẽ tổ chức vào tháng sau, Kiến Chương vội hỏi: “Không thể nhanh hơn sao?”. Người bán hàng đó xua tay tỏ vẻ không có cách nào. Tĩnh Uyển nói: “Vậy thì thôi đi em chọn cái khác là được”. Cô tháo nhẫn ra đặt lại vào hộp, viên kim cương hồng đó ánh màu đỏ nhạt, giống một nụ hồng, khiến người ta không thể rời mắt.

Kiến Chương thấy cô luyến tiếc, không kìm được hỏi người bán hàng: “Thật sự không có cách nào khác sao?”

Người bán hàng đó ngẩng đầu lên nói: “Trùng hợp thật người đặt chiếc nhẫn này đến rồi, hay là hai người thương lượng xem?”

Hứa Kiến Chương ngẩng đầu lên nhìn, thấy một người thanh niên mặc âu phục, khí độ phi phàm, tuy tướng mạo không đặc biệt tuấn tú nhưng có phong thái ung dung, khiến người ta vừa nhìn đã cảm thấy anh ta rất xuất sắc. Tĩnh Uyển cũng nhận ra người này không tầm thường, lại nghe người bán hàng đó chào hỏi: “Trình tiên sinh”. Kiến chương thấy một nhân vật như vậy, rất muốn thương lượng với anh ta, liền nói rõ ngọn nguồn sự tình. Vị Trình tiên sinh này là người rất phóng khoáng, lập tức liền đồng ý: “Hai vị đã cần dùng gấp, đương nhiên tôi có thể giúp hai người hoàn thành tâm nguyện”. Kiến Chương quá đỗi vui mừng, luôn miệng cảm ơn, Tĩnh Uyển cũng thấy mừng vì may mắn bất ngờ.

Trình tiên sinh đó vừa phong độ lại vừa khiêm tốn. Kiến Chương rất cảm kích sau khi anh ta đi rồi liền nói với Tĩnh Uyển: “Nghe giọng nói của anh ta không giống người bản địa”. Tĩnh Uyển cũng thấy người này xuất sắc như vậy, không hề tầm thường. Người bán hàng đứng bên cạnh nói xen vào: “Anh ta chính là em ruột của trưởng tài vụ tiền nhiệm họ Trình”

Họ Trình ở Ủng Nam là gia tộc lớn có tiếng,không chỉ ở Ủng Nam mà còn lừng lẫy tiếng tăm khắp hai mươi tỉnh giang nam, có câu nói, Ủng Nam nắm tiền tài Giang Nam, họ Trình nắm tiền tài Ủng Nam, hai mươi mốt tỉnh Giang Nam, tuy An Quốc quân của Khương Song Hỷ và Hộ Quốc quân của Lý Trọng Niên mỗi người chiếm một phương, nhưng với họ Trình ở Ủng Nam đều phải e dè. Họ Trình là gia tộc lớn ở Giang Nam, trong gia tộc ngoài những thân sĩ nổi tiếng khắp các tỉnh Giang Nam, con cả Trình gia Trình Doãn Chi từng làm trưởng tài vụ suốt hai nhiệm kì, tuy chỉ là tài vụ trưởng nhưng vì thao túng nội các, là gia đình rất có danh tiếng. Kiến Chương nghe nói là người của Trình gia, “ồ”một tiếng hiểu ra luôn miệng nói: “Chẳng trách ,chẳng trách”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 17-5-2013 22:39:04 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16


Họ chuẩn bị đồ đạc mấy ngày liền ,truớc khi kết hôn bận toàn chuyện vặt vãnh, bận bịu như thế nên từng ngày qua rất nhanh.Chỉ là thời cuộc biến động cuộc chiến lần này của Thừa Dĩnh rất khốc liệt, hàng ngày trên các báo đều đăng tình hình tiền tuyến, vì chiến sự khốc liệt Thừa quân quyết chiến nhiều ngày với Dĩnh quân từ Dư Gia Khẩu đến Lão Minh Sơn, hai bên quân số bị chết,bị thương không ngừng tăng, giằng co không từ bỏ.

Tĩnh Uyển tuy không quan tâm thời cuộc nhưng Doãn Sở Phàn vẫn thỉnh thoảng đọc báo, vừa ngậm tẩu thuốc nói: “Xem tình hình còn đánh nữa, cứ tiếp tục thế này chỉ sợ gạo tăng giá”. Doãn phu nhân nói: “Kệ họ đánh sao, không lẽ đánh đến cả thành Càn Bình này sao? Doãn Sở Phàn nhả một hơi thuốc nói: “Phu nhân bà không hiểu được đâu, không sợ ngộ nhỡ chỉ sợ chẳng may, tích trữ chút lương thực còn hơn không chuẩn bị gì”. Doãn phu nhân nghe ông nói như vậy đâm ra lo lắng: “Nếu thật sự đánh đến Càn Bình, vậy phải làm thế nào, hay là chúng ta đến phía nam tránh.”

Doãn Sở Phàn cười ha ha nói: “Mộ Dung Phong muốn đánh đến Càn Bình, e rằng cũng chưa dể dàng như vậy”. Tĩnh Uyển tựa vào ghế sofa, cầm con dao nhỏ gọt hoa quả, ngây người ra chút nữa cắt vào ngón tay mình. Doãn Sở Phàn lật báo, nói: “Bà xem Thừa quân mất Cẩm An lại không đánh hạ Cát Chẩn, theo tôi thấy Thừa quân có thể giữ Dư Gia Khẩu hay không vẫn chưa biết trước được.” Cô vốn đã dừng lại thấy cha làm như vô ý liếc về phía mình, liền vội vã tiếp tục gọt hoa quả, cô gọt lớp vỏ nông mà mỏng, từng vòng vòng chầm chậm tuột khỏi ngón tay , nước quả lạnh lẽo chảy trên tay, dính dính cô không dám nghĩ gì, hết sức tập trung vào việc gọt hoa quả, như thể đó là việc quan trọng nhất trên đời này.

Đến giữa tháng Tám ngày kết hôn gần kề, hôm đó vốn là ngày đại lễ, cho nên từ sáng sớm trên dưới Doãn gia đều bận rộn. Tĩnh Uyển cũng dậy từ rất sớm, người trong nhà đều bận bù đầu, chỉ một mình cô là không phải làm gì. Ăn sáng xong cô đành ngồi xem mẹ kiểm kê danh sách khách mời. Khắp trong ngoài nhà đã trang trí như mới, người làm đang treo dây màu, cờ màu trong không khí rất rộn rã. Hoa cỏ trong vườn sum suê xanh tươi tốt, ánh nắng chiếu vào dường như phát sáng lấp lánh .

Tĩnh Uyển không có việc gì làm bèn vào trong vườn, trong vườn có một cây nhài đang nở rộ hoa, hương thơm ngào ngạt, những bong hoa trắng nhỏ xinh, giống một chiếc cúc bạc, tinh xảo nhỏ nhắn điểm xuyết trong lá. Cô tiện tay háimột cành, định cài lên tóc, bác Ngô ở bên cạnh cười nói: “Hôm nay là ngày đại hỷ, tiểu thư phải cài hoa bên cạnh mới có không khí vui mừng chứ.” Tĩnh Uyển sững sờ lại bỏ hoa xuống.

Hôm đó tuy không mời khách nhưng Doãn gia là gia tộc lớn ở Càn Bình, cho nên trong nhà vẫn rất náo nhiệt. Hơn nữa dù họ là gia đình kiểu mới, nhưng ngày này con gái cũng không tiện lộ mặt nên Tĩnh Uyển ở một mình trên lầu.

Cô nghe tiếng cười nói ồn ã dưới lầu, trong lòng buồn bực khó nói, ôm gối ngồi trên giường thất thần, ngay cả bản thân cũng không biết mình nghĩ gì. Trên cây bên ngoài cửa sổ treo đầy cờ nhỏ đủ màu tung bay trong gió khiến cô nhớ đến lúc ở Nga, vào dịp giáng sinh trên cây thông treo đầy đồ chơi nhỏ đủ loại, rực rỡ sắc màu, tràn ngập trong tầm mắt, sự náo nhiệt đó khiến người ta không thở nổi.

Cô xuống giường mở chiếc hộp màu tím ra, chiếc đồng hồ đó lặng lẽ nằm trong hộp. Cô lấy nó ra bất giác dùng hai ngón tay lướt qua hai chữ “Bái Lâm” đó, hai tiếng ấy dường như muốn bật ra khỏi bờ môi. Đồng hồ tích tắc tích tắc giống như nhịp tim cô rõ ràng đến mức khiến cô phải sợ hãi. Cô chậm rãi đóng chặt nắp, nhớ lại lúc chia tay sau lần đầu gặp mặt, trong bóng tối anh quay đầu lại, còn trước mắt cô nhập nhòa, vốn không nhìn rõ mặt anh, bên ngoài cửa sổ sân ga sáng đèn, những tiếng bước chân hỗn độn. Tại sao anh để lại đồng hồ cho cô, cuộc gặp gỡ kinh hoàng đó, anh để lại cái này cho cô – là ý trời sao? Nhưng anh và cô rõ ràng không liên can với nhau, càng không thể có tương lai.

Tiếng bác Ngô vang lên bên ngoài: “Tiểu thư, tiểu thư…” Cô tự dưng giật mình, tiện tay nhét chiếc đồng hồ xuống gối, hỏi: “Vviệc gì thế?”. Bác Ngô đi vào nói: “Có bức thư gửi cho tiểu thư”. Cô thấy có một bức thư từ nước ngoài, bên trên chỉ viết : “Gửi tiểu thư Doãn Tĩnh Uyển”. Thư dán rất kín cô nhất thời không để ý, vì các bạn học của cô thường sai người gửi thư như thế này.

Bác Ngô cũng tưởng đó là một bức thư bình thường, ai ngờ Tĩnh Uyển vừa mở ra xem, sắc mặt liền trắng bệch, đưa tay ra nắm lấy cánh tay bác Ngô: “Người đưa thư đâu?”. Bác Ngô thấy tay cô lạnh ngắt, giật mình nói: “Ở dưới lầu”. Trái tim Tĩnh Uyển như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, cô cố gắng trấn tĩnh “ồ” một tiếng nói: “Cháu còn có mấy lời nhờ anh ta chuyển đến Vương tiểu thư, cháu xuống dưới gặp anh ta chút”. Cô soi gương sửa tóc, thấy tay mình đang run lẩy bẩy, may mà bác Ngô tưởng là người đưa thư của Vương tiểu thư thật, liền nói: “Vậy tôi đi lấy giúp tiểu thư hai đồng tiền”. Tĩnh Uyển hỏi: “Lấy hai đồng tiền làm gì?”. Bác Ngô cười: “Tiểu thư à, hôm nay cô vui đến mức hồ đồ rồi, người hầu của Vương tiểu thư đưa thư đến, nên thưởng cho người đó hai đồng chứ”.

Tĩnh Uyển giờ mới tĩnh táo lại, cũng cười cười nói: “Không cần đâu ở đây cháu còn mấy đồng lẻ, phía trước đông khách , bác bảo anh ta đến vườn hoa đợi cháu”. Bác Ngô vâng lời liền đi ra, Tĩnh Uyển chỉnh lại quần áo, cố gắng trấn tĩnh rồi mới xuống lầu. Khách khứa đều ở phía trước, trong phòng khách rất im ắng chỉ có một người đàn ông lạ mặt đứng đó, người đó thấy cô từ xa đã cung kính hành lễ.

Tĩnh Uyển nói: “Không cần khách sáo”. Người đó nói: “Tôi họ Nghiêm, Doãn tiểu thư , có một thứ muốn mời cô xem qua”. Nói xong anh ta đưa cho cô một hộp gấm bằng hai tay. Tĩnh Uyển lòng rối như tơ vò, còn hơi chần chừ, người đó đã mở nắp hộp ra, hóa ra bên trong lại là một cành lan Thiên Ly. Khóe miệng cô hơi mấp máy, người đó đã nói: “Doãn tiểu thư chắc đã nhận ra loại hoa lan này, mười sáu tỉnh phía Bắc chỉ có một cây lan duy nhất. Người đó tuy mặc thường phục nhưng vẻ mặt cảnh giác, rõ rang là người rất nhanh nhẹn, lanh trí. Cổ họng cô khô rát: “Anh có việc gì không?”. Khẩu khí của người đó vẫn rất cung kính: “Mong Doãn tiểu thư nể mặt cây lan Thiên Ly này có thể đi chỗ khác nói chuyện không?”

Cô nghĩ một lát, cuối cùng hạ quyết tâm: “Được thôi”. Người đó kính cẩn nói: “Xe của chúng tôi ở bên ngoài, nếu tiểu thư thấy không tiện có thể đi xe của mình”. Tĩnh Uyển nói: “Không cần”. Cô không hề nói thêm gì chỉ đi xuống lầu nói với bác Ngô mình phải ra ngoài một chuyến, bác Ngô nói: “Ôi chao tiểu thư, hôm nay là ngày đại hỷ đó”. Tĩnh Uyển nói: “Vương tiểu thư ốm nặng, dù thế nào cháu cũng đi gặp mặt cô ấy”. Bác Ngô biết tính khí cô, đành lấy áo khoác và ví cho cô rồi tiễn cô ra ngoài.

Cô lặng lẽ ra khỏi nhà vì trong nhà khách khứa đông nên bên ngoài đậu rất nhiều xe. Cô để Nghiêm tiên sinh đó dẫn đường, lên một chiếc xe rời đi, cũng chẳng ai chú ý đến cô. Chiếc xe đó chạy một mạch ra khỏi thành, tim cô đập thình thịch như trống đánh liên hồi. Cảnh vật bên ngoài cửa xe lướt qua, xe đi rất nhanh cô hỏi: “Đi dâu vậy?”. Vị Nghiêm tiên sinh đó nói: “Đến Càn Sơn”. Cô “ồ” một tiếng rồi không hỏi nữa. Càn Sơn nằm ở ngoại ô Càn Bình người giàu trong Càn Bình đều có biệt thự ở Càn Sơn, học theo cách của người Tây chủ nhật cả gia đình ra khỏi thành lên núi nghỉ ngơi. Hôm nay vừa hay là chủ nhật,nên con đường lên Càn Sơn xe đi đi lại lại như mắc cửi.

Xe lái thẳng lên núi, vùng đó toàn biệt thự lác đác xen giữa núi, mỗi căn cách nhau rất xa, dưới ánh nắng chỉ thấy nhà trắng, mái đỏ kiểu Tây lướt qua cửa xe. Đường núi ngoằn ngoèo, tuy đường bằng phẳng nhưng trái tim của Tĩnh Uyển chỉ không ở yên, giống như linh cảm được chuyện gì đó. Cô chỉ mong đi hết con đường này, nhưng cũng thầm mong tốt nhất vĩnh viễn không đi hết đoạn đường này.

Cuối cùng cũng đến nơi, một biệt thự nằm rất sâu, xe đi thẳng vào trong, hai bên đường đều là cây cối cao ngắt thuận theo thế núi lên trên, rẽ mấy lần mới nhìn thấy căn nhà kiểu Tây thấp thoáng sau tán cây xanh. Tĩnh Uyển biết rõ nơi này không giống với các biệt thự nơi khác ở Càn Sơn, nhưng trái tim chỉ thấp thỏm không yên, đến tận lúc xuống xe cảm giác do dự và bất an không thể giải thích như hình với bóng.

Người hầu mở của xe giúp cô, vị Nghiêm tiên sinh đó đi trước dẫn đường, trong biệt thự bài trí rất tiện nghi, nhưng cô nào có tâm trạng quan sát kỹ, chỉ thấy trong phòng khách có người đi ra, hình bóng đó rất quen thuộc, trái tim cô trùng xuống, cũng không biết là vui hay buồn, khẽ gọi một tiếng “Hà tiên sinh”. Cô dừng lại một lát rồi lại nói: “Hóa ra là anh”

Hà Tự An vẫy vẫy tay, cảnh vệ họ Nghiêm đó cũng đi ra ngoài. Hà Tự An rất khách sáo hành lễ nói: “Doãn tiểu thư vì chúng tôi không tiện lộ mặt nên mới dùng cách này mời cô đến, thất lễ rồi mong cô tha thứ. Tĩnh Uyển mĩm cười nói: “Chiến sự Thừa – Dĩnh đang quyết liệt anh mạo hiểm đến Càn Bình chắc có việc quan trọng nhưng không biết Tĩnh Uyển có giúp được gì không?”. Hà Tự An cười khổ sau đó thở dài một tiếng. Tĩnh Uyển biết anh là cánh tay đắc lực của Mô Dung Phong thấy anh buồn bã không vui, mặt mài chau lại bất giác hỏi: “Cậu Sáu sao rồi?”

Hà Tự An không trả lời chỉ đưa tay ra phía căn phòng ở hành lang. Tim Tĩnh Uyển nhói lên, cô không dám nghĩ gì chỉ chậm rãi bước đến, cuối cùng mở cửa phòng ra, cảm thấy hơi thở dường như tắc nghẹn, cả cơ thể cứ đờ ra.

Trong giây lát cô, nghi ngờ mình nhìn nhầm, nhưng rõ ràng như thế. Tuy ánh sáng trong phòng âm u anh mặc một chiếc áo dài, dáng vẻ giống con cái nhà giàu bình thường, nhưng hình bóng lại quá đỗi quen thuộc, ánh mắt vẫn như thế, trong đôi mắt ấy lóe lên những tia nắng rực rỡ, lại như có những ánh sao mờ xanh đang nhấp nháy.

Giống như dời núi lấp bể, tay cô đặt trên ngực, vì trái tim ở đó đập gấp như thế, giống như có thứ gì muốn nhét vào trong, cây lá bên ngoài cửa sổ lay động trong gió, còn cô giống chiếc lông vũ trong gió lớn, bất đắt dĩ lại bị kéo vào vòng xoáy đó. Cô biết tất cả đều là thật, nhưng xung quanh yên ắng, bóng cây in trên nền nhà, tán cây lưa thưa xen kẽ, giống như cảnh quay lặng như tờ trong phim, còn anh chỉ im lặng đứng ở đó, trong ánh mắt có sự điên cuồng và nồng cháy không thể cưỡng lại. Cô đứng đó như ngẩn ngơ.

Giọng nói của cô xa đến mức không giống như của mình: “Anh điên thật rồi”.

Anh mỉm cười, nụ cười của anh lẫn vào trong bóng cây, giống như một tia nắng nắng ngẩn ngơ. “Anh điên thật rồi mới thích em đến điên như vậy.”

Câu nói này anh đã từng nói lúc ở Thừa Châu, trên môi cô vẫn còn lưu lại sự nồng nhiệt hôm đó của anh, mùi hương bạc hà, mùi khói thuốc súng nhàn nhạt đó là mùi vị quen thuộc nhất. Anh gần cô như thế, chân thật như thế nhưng dường như ở giữa là cả một chân trời không thể vượt qua, cô nhìn anh giọng nói đượm sự bất lực: “Anh không muốn sống nữa à?”. Anh là chủ soái Thừa quân, tình hình chiến sự Thừa – Dĩnh gay go như thế anh lại dám đến chỗ của địch. Nếu bị phát hiện…

Anh chầm chậm khép lại nụ cười: “Tĩnh Uyển anh muốn để cho em biết, em không thể lấy người khác. Anh lấy mạng mình ra để gặp em, anh chỉ cần em đi theo anh”. Cô yếu ớt đến cực điểm, cô luôn cảm thấy bản thân mình rất kiên cường, nhưng thời khắc này chân lại mềm nhũn, như đứng không vững. Giọng nói cô nhẹ têng mà yếu ớt: “Em không thể”.

Anh nắm lấy tay cô mạnh đến mức khiến cô đau đớn, nhưng sự đau đớn đó kèm theo chút vui vẻ khó nói thành lời, giống như mặt băng nứt ra những đường rạn nhỏ cô không dám đối diện với sự sụp đổ vang dội đó. Cô chưa từng bất lực như bây giờ, chưa từng hoảng loạn như thế, chỉ tuân theo bản năng: “Anh mau đi đi, em xin anh mau đi đi, em sắp kết hôn rồi”. Anh nhìn thẳng vào cô: “Tĩnh Uyển đời này em chỉ có thể gả cho anh, anh muốm em gả cho anh”. Rồi anh ôm cô thật chặt vào lòng . Cảm giác quen thuộc mà chân thật bao vây lấy cô, cô yếu ớt ngẩn đầu lên, trong mắt anh chỉ có bóng hình cô, chỉ có cô. Hơi thở anh ấm ấm phả vào mặt cô, giọng nói anh ù ù vang lên bên tai cô: “Tĩnh Uyển đi theo anh”. Lý trí còn sót lại của cô đang đau khổ giằng xé: “Anh mau mau đi đi, nếu để người ta biết thân phận anh…”. Trong mắt anh dường như có vẻ kì lạ, rực rỡ giống như tia nắng: “Em đang lo cho anh sao?”. Cô không hề lo lắng cho anh, cô tự lừa mình dối người lắc đầu, anh bỗng hôn cô điên cuồng, nụ hôn của anh gấp gáp mà say đắm, đem theo sự cưỡng đoạt không cần nghi ngờ, nuốt lấy hút lấy hơi thở yếu ớt của cô. Hơi thở cô hỗn loạn, cả thế giới chỉ có hơi thở của anh lấp đầy tất cả, môi anh như ngọn lửa, anh nhen lên ngọn lửa trong tim cô. Xa cách lâu như thế …dường như đã xa anh lâu lắm, anh nhớ nhung cô, khát khao cô như vậy. Gương mặt cô nóng bừng, cả cơ thể như đang bốc cháy, cô khát khao theo bản năng, sự nồng nhiệt lạ lẫm nhưng lại quen thuộc, sự nồng nhiệt có thể đốt cháy tất cả như thế. Cơ thể anh như chấn động, chuyển động càng nóng bỏng, càng sâu hơn. Tay anh bỏng rát, giống như que hàn, in vào đó, ở đó liền có một cảm giác bỏng rát đau đớn, anh hút hết sự ngọt ngào trên trán cô, trong lúc vội vã anh không mở được hàng cúc tròn trên áo cô, anh lập tức kéo bung ra, cúc đứt vung vãi trên đất, vang lên tiếng roạt roạt, cô bỗng sực tĩnh, đẩy mạnh anh ra.

Hơi thở của anh vẫn gấp gáp, cô kéo lấy cổ áo mình, như thể kéo lấy trái tim mình, cô chỉ biết hoảng hốt và sợ hãi, cô cảm thấy sợ anh, sợ hãi bất cứ đụng chạm nào của anh. Cô thu mình lại anh đưa tay ra, cô nghiêng đầu đi theo bản năng, cô dũng cảm, cô không hề sợ anh mà sợ sự nồng nhiệt anh mang đến cho cô. Sự nồng nhiệt đó không thể chấp nhận được, lại không có cách nào khống chế, cô nghĩ đến Kiến Chương. Gần như tuyệt vọng, Kiến Chương không thể cho cô sự nồng nhiệt đó nhưng Kiến Chương có thể cho cô hạnh phúc. Hạnh phúc mà cô muốn, cô luôn biết bản thân mình cần gì, xưa nay cô đều có thể bình tĩnh mà nắm giữ.

Cô ngẩn đầu lên anh đang nhìn cô, trong đôi mắt ấy cháy lên sự khát vọng và đam mê không bao giờ hết, trái tim cô tê dại đau đớn, nhưng giọng nói cô đã trấn tĩnh, giống như ngay cả bản thân cô cũng tin rằng như thế: “Em không yêu anh, em càng không thể đi với anh”.

Anh nhìn cô không thể tin được, gần như khiến cô chột dạ, giọng nói của anh khàn đi: “Em không yêu anh ư?”. Trên trái tim cô chằng chịt vết sẹo ngang dọc, trong chốc lát dường như đau đớn khiến người ta ngạt thở. Giọng nói của anh bình bình, nhưng kèm theo sự giận dữ đáng sợ: “Em vẫn còn nói với anh một câu như thế sao? Nghe nói em kết hôn anh liền đến đây như phát điên. Không quan tâm đến tính mạng, không quan tâm đến chiến sự nước sôi lửa bỏng ở tiền tuyến, không quan tâm đến một nửa giang sơn, vậy mà em nói với anh một câu như thế sao?”.

Cô cố chấp quay mặt đi, khuôn mặt lặng lẽ nở nụ cười: “Đúng thế em không yêu anh”. Anh im lặng một lúc lâu, mới nói: “Em nói như vậy anh cũng không có cách nào, nhưng anh…nhưng anh…”.Anh lặp lại hai lần, cuối cùng không nói ra được vế sau, chỉ quay mặt đi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 17-5-2013 22:41:08 | Chỉ xem của tác giả
Chương 17


Gió bên ngoài rất mạnh, buổi chiều trong núi, trong bóng râm của cây cối, trên cửa kính chỉ có hình bóng cây cối lay động, giống như hoa tuyết trắng rụn vỡ rơi trên cửa sổ trong mùa đông. Trong ánh sáng ảm đạm, gương mặt anh hiện lên không rõ ràng, nhưng cô biết anh đang nhìn mình. Anh không màng tất cả đến đây, còn cô lại không thể không màng tất cả mà theo anh. Con đường phía trước không thể biết được, bước một bước này chính là thịt nát xương tan.

Giọng nói của anh nhẹ bẫng như mơ: “Tĩnh Uyển, trời tối anh phải đi rồi, chỉ có mấy tiếng, em có thể ở lại cùng anh không?”

Đáng lẽ cô phải lắc đầu, việc này nên mau chóng kết thúc, anh nên mau chóng rời khỏi đây, cô nên về nhà. Nhưng không hiểu vì sao khi anh nhìn cô như thế, cô lại mềm lòng, cuối cùng vẫn gật đầu.

Cô không biết anh đem theo bao nhiêu người, nhưng trong thành Càn Bình, trong khu vực Dĩnh quân, đem nhiều người hơn nữa cũng chỉ là trứng chọi đá. Giữa đám cây cối ngoài cửa sổ thỉnh thoảng lướt qua đám cảnh vệ, ánh nắng chiếu vào song cửa sổ, đã sang buổi chiều, cúc áo cô anh đã nhặt lên hết, đặt trên bàn trà, nó giống như những ngôi sao vỡ. Không có kim chỉ, may mà trong túi xách có mấy cái kim băng, tuy quần áo đã được đính vào, nhưng những chiếc kim băng bạc đó trông rất buồn cười. Xưa nay cô rất coi trọng hình thức, thấy thế hơi chau mày, anh đã thấy cô không vui, bèn nảy ra ý nghĩ, anh ngắt mấy bôong hoa nhài trên bàn trà xuống, cài từng bông lên kim băng, trong chốc lát kim băng đã bị che đi, chỉ còn lại những cánh hoa trắng muốt nở bung trên áo. Cô mỉm cười lấy từng bông cài lên kim băng, anh ngồi trên sofa ở xa xa, im lạng nhìn cô.

Hoa nhài từ từ nở trên áo, giống như tơ lụa mềm mại, nhưng rõ ràng là thật, hương thơm lan tỏa. Anh mỉm cười nói: “Thế này đẹp thật, lại có phong thái của quần áo kiểu Tây”. Cô chỉnh lại cúc áo, mỉm cười nói: “Em cũng cảm thấy rất đẹp”. Anh lấy một bông hoa nhài, cài lên tóc cô, bông hoa trắng nho nhỏ trên ngón tay anh, bất giác người ta nghĩ đến việc không may mắn. Chiến sự cấp bách thế, cô biết rõ sau khi anh quay về nhất định phải đích thân chỉ huy tiền tuyến trong mưa bom bão đạn, tim cô bỗng nhói lên xót xa nói: “Em không cài nữa, em không thích hoa này”. Anh cười nói: “Anh không kiêng kị, em còn phong kiến hơn anh”. Cuối cùng anh vẫn cài nhẹ lên tóc cô.

Cô chầm chậm vuốt chiếc khăn tay của mình, mùi hương hoa nhài thoang thoảng trên áo, vì ở trong núi nên ánh nắng lúc ba, bốn giờ chiều trắng nhạt như bạc, bên ngoài cửa sổ có tiếng gió ào ào, lướt qua rừng thông như sấm rền. Cô mỉm cười nói: “Em đói rồi”. Mộ Dung Phong sững lại một lúc, hai tay vỗ một cái, Thẩm Gia Bình bên ngoài lập tức đi vào, Mộ Dng Phong hỏi: “Có gì ăn được không?”.

Trên mặt Thẩm Gia Binh lộ lên vẻ khó xử, họ tuy cẩn thận bố trí rồi mới đến nhưng vì hành tung bí mật hơn nữa chỉ tạm thời dừng chân ở đây, những người hầu như nhà bếp đã cho rời đi. Tĩnh Uyển đứng dậy nói: “Em đi xem có gì không, nếu có điểm tâm, uống bữa trà chiều cũng được mà”. Mộ Dung Phong không muốn rời xa cô dù một phút: “Anh đi cùng em”.

Ở đây vốn là một biệt thự của một tham tán nước ngoài, trong phòng bếp đầy đủ mọi thứ. Cô tuy là một thiên kim tiểu thư, nhưng vì từng du học, nên không cảm thấy lạ lẫm. Cô lấy bát đĩa ra, lại cầm một chai nước mắm đóng nắp, nói với Mộng Dung Phong: “Mở giúp em cái này”.Thẩm Gia Bình từ ngoài bước vào, Mộ Dung Phong không muốn anh ta bước vào, tự mình cầm con dao nhỏ cạy ra từng chút. Anh rất hiếm khi làm việc này, nhưng bây giờ lại có một cảm giác vui tột độ, dường như sự việc bên ngoài núi là một thế giới khác xa xôi, việc duy nhất lúc này là giúp cô mở cái nắp này.

Phòng bếp kiểu Tây không đầy vết dầu mỡ như phòng bếp kiểu Trung Quốc, sàn nhà là gạch xanh bằng phẳng trên tường cũng giống như phòng bình thường, dán giấy tường phương Tây, hơn nữa phòng bếp vừa đúng hướng Tây, ánh mặt trời chiếu vào, sáng sủa sạch sẽ không khiến người ta thấy nóng. Cô cúi đầu thái củ cải đó vì chưa từng làm việc này nên nhát thì dày nhát thì mỏng thái rất lâu dao rớt xuống nhà cạch một tiếng. Ánh mặt trời chiếu xiên xiên lên tóc cô, hơi ánh lên vầng sáng vàng, có lọn tóc xổ ra, bám trên má cô, bên ngoài gió ù ù, trong phòng chỉ nghe tiếng dao nhè nhẹ, nhón tay cô thon dài, ấn lên củ cải đó, vì dùng lực mạnh nên móng tay có màu đỏ nhàn nhạt, mu bàn tay có bốn vết lõm nho nhỏ, làn da trắng ngần nên có thể nhìn thấy những mạch máu lờ mờ.

Anh đặt chiếc nắp xuống, từ phía sau anh đưa tay ra sau ấn lên mu bàn tay cô, cơ thể cô hơi run run, trên trán có mấy sợi tóc rối không vén lên, trong tóc có mùi hương nhàn nhạt, anh lại không dám hôn. Cơ thể cô hơi cứng đờ, giọng nói như thể rất bình tĩnh: “Em xong rồi mở nắp được chưa?”. Xa xa ngoài kia là tiếng gió rì rào, anh ngẩn ngơ tựa nằm mơ, những việc vặt như thế anh chưa từng làm, sau này cũng không thể chỉ có thời khắc này, cô giống như vợ anh, một đôi vợ chồng bình thường nhất, sống ở trong núi tĩnh mịch, không màng chuyện hồng trần.

Anh chưa từng mở nắp, mãi mới mở được, cô nấu món súp borscht, dùng cà chua xào với thịt dê, đều là món ăn Nga, cô mỉm cười nói: “Em xem bạn học Nga làm, cũng không biết là đúng hay không”.

Đương nhiên rất khó ăn, họ không ăn ở phòng ăn mà ngay tại phòng bếp, anh tuy không đói nhưng vẫn ăn rất ngon lành, cô chỉ uống một ngụm canh cô nói: “Chua quá hình như cho quá nhiều dấm rồi”. Anh mỉm cười: “Không sao, ăn không hết đưa anh”. Cô chắt nửa bát còn lại cho anh, trên người cô có mùi thơm của dấm, gần như thế nhưng lại xa như thế.

Đi ra khỏi phòng không khí mát mẻ, tuy đã là tháng tám nhưng đã đượm khí thu. Xung quanh đều là chiều tà mênh mang, dần dần bao phủ con đường nhỏ ngoằn ngoèo dẫn ra sau núi, anh và cô lặng lẽ đi, Thẩm Gia Bình và mấy cận vệ đi phía sau không xa. Đường núi được lát đá xanh, và ít người đi lại mặt đá rêu, hôm nay cô đi đôi giày cao gót, dần dần đi khó khăn hơn. Anh quay người lại đưa tay ra, cô do dự một lát, cuối cùng cũng đặt tay mình vào tay anh. Tay anh thô ráp mạnh mẽ, tràn đầy sức mạnh, tuy anh đi rất chậm nhưng mồ hôi trên trán cô vẫn dần dần rịn ra.

Vừa rẽ khỏi đường núi, cách vách đá chót vót hiện ra trước mắt, như những bức tường sừng sững muôn trượng giống như dùng dao cắt gọt. Còn phía tây là không gian vô tận, nổi lên là một vầng mặt trời đang lặn, mọi cảnh vật dưới núi đều thu trọn vào tầm mắt. Dưới chân núi khu rừng tĩnh mịch, bờ ruộng ngang dọc trong rất sương mù, ráng chiều ảm đạm, lờ mờ có thể nhìn thấy thành quách lớn, hàng vạn ngôi nhà, đó là thành Càn Bình. Xung quanh là tiếng gió ù ù không ngớt, trong chốc lát con người trở nên nhỏ bé như cọng cỏ, chỉ có vầng mặt trời đang lặn ấy rạng rỡ chiếu sáng vạn trượng hồng trần xa xôi dưới núi.

Anh nhìn thành Càn Bình nhòa đi trong ánh chiều tà, nói: “Đứng trên cao như vậy cái gì cũng nhìn thấy”. Cô lại thở dài một tiếng anh lấy khăn tay ra, trải lên một viên đá lớn,nói: “Em cũng mệt rồi ngồi xuống nghỉ ngơi chút đi”.

Cô vâng lời ngồi xuống, cô biết thời gian không còn nhiều, mặt trời xuống núi anh phải đi, về sau anh và cô chỉ là người qua đường. Anh từng đột ngột đâm vào cuộc sống của cô, nhưng cô không hề lệch hướng, cuối cùng cô vẫn phải tiếp tục cuộc sống của mình. Anh ngồi xuống bên cạnh cô, mặt trời đang chầm chậm lặn xuống giống như một quả trứng treo trên cửa sổ kính, chậm chạp rơi xuống, chậm chạp nhưng rơi thẳng, không thể kéo lên được.

Trong tay anh cầm lên một chiếc hộp nhung màu vàng nhỏ, nói với cô: “Bất luận thế nào, Tĩnh Uyển anh hi vọng em sẽ sống hạnh phúc.Sau này…sau này e rằng chúng ta chẳng còn mấy cơ hội gặp nhau, thứ này là mẹ anh để lại khi còn sống, anh luôn muốn tặng em”. Cô không nhận lấy cũng không nói gì, anh từ từ mở hộp ra, trong tích tắc ánh sáng chiếu thẳng vào khuôn mặt cô, ánh sáng đó không hề chói mắt, ngược lại rất ấm áp. Cô biết anh đã tặng thì nhất định là đồ giá trị, nhưng không bao giờ là ngọc trong veo, còn to hơn trứng chim bồ câu như thế phát ra thứ ánh sáng chuyển động kì lạ, khiến người ta yên lặng nín thở.

Ánh chiều tà rất đẹp chiếu rạng giữa trời, bầu trời giống như chiếc phẩm màu bị đổ, màu tím, màu vàng, màu đỏ, màu xanh, màu hồng…đằng sau anh đều là ánh mặt trời rực rỡ, ánh chiều tà cuối cùng bao phủ lấy anh, ngược ánh sáng mặt anh nhìn không rõ. “Đây là cống phẩm của “Hợp Phố” thời Càn Long vì rất hiếm nên được gọi là “Thần Châu”, tức là thần châu trong “truyền thuyết”. Cô nói: “Thứ đồ quý như vậy em không thể nhận”. Gương mặt anh như đang cười nhưng giọng nói đầy thất vọng: “Tĩnh Uyển vạn vật trên thế gian này mà nói đối với anh,quan trọng nhất chính là em, viên ngọc này có là gì chứ?”

( Ghi chú: “Hợp phố” một địa danh là nơi sản xuất ngọc trai nổi tiếng cũa Trung Quốc)

Cô buồn bã tự lừa mình dối người quay mặt đi, cuối cùng nhận lấy chiếc hộp, anh nói: “Anh đeo cho em”. Chiếc dây chuyền đó kiểu Tây, anh cúi đầu mò mẫm, mãi mà không đeo được. Trong tóc cô có mùi hoa thoang thoảng, ngón tay anh rịn mồ hôi, chiếc móc nho nhỏ chốc lát trượt ra, hơi thở của cô tràn đầy trong lòng anh, cô bỗng rướn về phía trước, mặt vùi vào ngực anh, anh ôm chặt lấy cô, tóc cô cọ vào cằm anh nhè nhẹ, hơi ngứa ngứa nổi đau không thể kiềm chế cuộn lên trong lòng anh, anh nói: “Đi với anh”.

Cô chỉ lắc đầu quầy quậy, dường như chỉ có thế mới có thể chắc chắn mình không nói ra lời gì đáng sợ. Nhà cô ở đây, gốc cô ở đây, cha mẹ người thân cô đều ở đây, tất cả mọi thứ cô thân thuộc đều ở đây. Cô luôn cho rằng mình rất dũng cảm, giờ mới biết mình rất yếu đuối, cô không dám, cô tuyệt đối không dám. Nếu cô không màng tất cả đi theo anh, nếu anh không yêu cô nữa, cô sẽ rơi xuống vực sâu thăm thẳm, sẽ mãi mãi không thể bò lên, vì cô yêu anh như thế, nếu sau này anh không yêu cô nữa, nếu anh muốn bỏ rơi cô, cô sẽ không còn gì cả. Đến lúc đó cô làm sao có thể chịu đựng được chứ?

Nước mắt lạnh lẽo chảy ra, giọng nói của anh cũng rất nhẹ: “Mặt trời lặn rồi”

Trong làn nước mắt nhạt nhòa, mặt đất đang nuốt chút ánh sáng cuối cùng, giữa trời đất bóng tối mênh mang trào lên, đan vào giữa mùa hạ, mà cơ cơ thể cô lại vô cùng lạnh lẽo.

Vì phải về kịp trước lúc đóng cửa thành Càn Bình, nên xe đi rất nhanh. Ánh trăng đang dần lên cao, vầng trăng sáng treo lơ lửng trên ngọn cây giữa núi. Vẫn là vị Nghiêm tiên sinh đó đưa cô về. Suốt dọc đường cô đều im lặng, xe đi trên đường đá giữa núi, cán vào đá phát ra tiếng loạt roạt nhỏ. Cô cứ thất thần như thế, cũng không biết là qua bao lâu, xe bỗng nhiên lắc lư, lái xe lập tức dừng xe lại, xuống xe xem xét kêu lên bực tức: “Chết, rồi nổ lốp rồi”.

Nghiêm tiên sinh đó cũng xuống kiểm tra, hỏi lái xe: “Thay lốp dự phòng mất bao lâu?”. Lái xe đáp: “Ít nhất phải một tiếng”. Anh ta sốt ruột nói rõ tình hình với cô, cô cũng bắt đầu sốt ruột , nếu không về kịp giờ cửa thành đóng mất, phải đợi đến sáng mai mới có thể vào thành, nếu cô cả đêm không về, trong nhà sẽ loạn hết lên ấy chứ?

Đang trong lúc sốt ruột, chỉ thấy hai luồng ánh đèn rọi tới, hóa ra có một chiếc xe từ từ trên núi xuống, đường núi khúc khuỷu, chiếc xe đó vốn đi từ từ, lúc đi qua xe họ, tốc độ xe càng chậm lại. Đã đi qua bỗng nhiên chiếc xe đó dừng lại, người lái xe bước xuống,như muốn hỏi họ sao vậy. Vị Nghiêm tiên sinh đó thấy người lái xe “ồ”một tiếng, người lái xe hình như nhận ra anh ta, quay trở lại nói câu gì đó với người trong xe.

Tĩnh Uyển thấy một người xuống xe, trông rất trẻ rõ ràng là một công tử phong độ, Nghiêm tiên sinh lên trước một bước, chào hỏi qua loa, nhưng không hề giới thiệu với Tĩnh Uyển, chỉ nói: “Tiểu thư chúng tôi vội vào thành, có thể cảm phiền cho chúng tôi đi nhờ một chuyến được không?”.

Người đó nói: “Đương nhiên mời hai vị lên xe”. Giọng nói anh ta rất trầm ấm dễ nghe, lại không phải là giọng người bản địa. Tĩnh Uyển không hề để ý, khi lên xe cảm ơn, người đó khách sáo đáp lại: “Không có gì, không cần khách sáo”. Trong xe có gắn một chiếc đèn nhỏ trên trần xe, chiếu rõ khuôn mặt người đó, cô cảm thấy rất quen, chợt nhận ra đó là người nhường nhẫn hôm ấy. Người đó nhìn rõ hình dáng cô, trong mắt lóe lên ánh nhìn kì lạ, thoắt cái trở lại vẻ ung dung hôm nào.

Tuy Nghiêm tiên sinh hình như có quen biết với Trình tiên sinh nhưng trong xe họ không hề nói chuyện. Tĩnh Uyển tâm trạng vốn nặng nề, nên chỉ im lặng, may mà xe đi rất nhanh, cuối cùng kịp vào thành trước lúc đóng cửa. Tronh thành Càn Bình nhà nhà đã lên đèn, Nghiêm tiên sinh đó liên tục cảm ơn Trình tiên sinh, họ xuống xe ở cổng Tây. Nghiêm tiên sinh đó làm việc rất chu đáo, giúp cô thuê một chiếc xe kéo về nhà, còn mình ngồi một chiếc khác theo sau bảo vệ cô, giữ khoảng cách không xa không gần.

Bên ngoài cổng nhà vẫn còn bảy, tám chiếc xe đậu lại, từng dãy đèn chiếu sáng đến tận trong vườn, xem ra khách vẫn chưa về hết, cảnh vệ họ Nghiêm đó xuống xe từ xa, thấy không có ai chú ý nói nhỏ với cô: “Thời gian này tôi đều ở Càn Bình phủ nhà tiểu thư, tôi không tiện đến thường xuyên, nếu tiểu thư có việc hãy trực tiếp đến số 21 ngõ Tam Hòe phía nam thành tìm tôi”. Tĩnh Uyển gật đầu, cô sợ về nhà muộn cha tức giận sẽ sinh ra lắm chuyện, khách khứa quả nhiên vẫn chưa về, trong nhà trên hình như vẫn còn mấy bàn bạc chượt, từ xa đã nghe thấy tiếng chia bài loạt soạt. Cha đang đánh bài với mấy người chú bác, thấy cô về chỉ hỏi một câu: “Vương tiểu thư đã đỡ chút nào chưa?”

Cô gật đầu qua loa, mượn cớ mệt về phòng mình, chẳng qua cả tâm hồn, thể xác cô đều quá mệt mỏi, cô nằm xuống giường nói nghỉ ngơi một lát, nhưng liền ngủ thiếp đi luôn. Trong mơ khung cảnh giống như ngày cưới, cô che mạng đỏ mặc quần áo cưới đỏ, đứng trong lễ đường rộng lớn, xung quanh đều là bạn bè người thân, bên ngoài cười nói nhưng bên trong tim cô lại buồn cực điểm. Tiếng người xướng lễ xướng lên : “Một bá ,hai bái…”. Hứa Kiến Chương bên cạnh cúi đầu hành lễ, trong lòng cứ nghĩ không lẽ sự thật lại gả cho anh như thế, chẳng lẻ thật sự gả cho anh?

Cô bàng hoàng tỉnh dậy, chỉ thấy cánh tay tê nhức, trên người lại đắp chiến chăn mỏng, chắc là bác Ngô đắp giúp cô, cô không biết mình đã ngủ bao lâu, nhìn trời bên ngoài đang dần sáng, đêm mùa hè luôn ngắn ngủi, trời đã sắp sáng rồi. Cô liền ngồi dậy vạt áo rơi ra mấy cánh hoa, cô nhặt lên xem hoa nhài tuy đã héo nhưng vẫn còn thơm. Cô chợt nhớ ra mình còn đeo viên “thần châu” đó, cô vô thức sờ lên cổ, không ngờ không thấy gì, trái tim bỗng chùng xuống, trong chốc lát dường như toát mồ hôi lạnh, chỉ nghĩ: “Viên ngọc đâu rồi?”

Cô hốt hoảng vội vàng đánh răng rửa mặt, nghĩ viên ngọc đó nhất định là rơi tối qua, nếu không phải xe kéo lúc về nhà thì rơi trên ô tô, bây giờ phải nhanh chóng đi tìm. Cô vốn rất ham ngủ ngay cả bác Ngô cũng ngạc nhiên hỏi: “Tiểu thư sao dậy sớm thế”. Doãn phu nhân thấy cô xuống lầu cũng thương xót nói: “Ssao không ngủ thêm chút nữa ngày kia là ngày lành, mai e rằng nửa đêm đã phải dậy chuẩn bị, đến lúc đó rất mệt đấy”. Tĩnh Uyển “dạ” một tiếng, Doãn phu nhân có một cô con gái duy nhất nên rất yêu chiều, thấy cô không tập trung liền hỏi: “Có phải ốm rồi không? Hai ngày này đừng để mệt quá đấy”.

Tĩnh Uyển vâng dạ qua loa với mẹ, trong đầu chỉ nghĩ trước tiên phải đi ngõ Tam Hòe, nói với Nghiêm tiên sinh, anh ta quan biết Trình tiên sinh, có thể bảo anh ta đi hỏi xem có phải rơi trên xe vị Trình tiên sinh đó không, nếu không vậy thì phiền phức rồi. Đang tính toán như thế bác Phúc đến thông báo có khách đến thăm cô, vì bình thường cô cũng có rất nhiều bạn học nam đến chơi,n ên Doãn phu nhân không để ý lắm. Tĩnh Uyển cầm tờ danh thiếp lên, chỉ thấy ba chữ “Trình Tín Chi” trong lòng mừng rỡ nghĩ chắc vị Trình tiên sinh đó, vội bảo bác Phúc mời đến phòng khách nhỏ. Quả nhiên là vị Trình tiên sinh ấy, từ xa anh đã cúi người hành lễ kiểu Tây,nói luôn: “Đường đột đến thăm tiểu thư lúc này là không nên nhưng tối qua tiểu thư quên một thứ rất quan trọng trên xe tôi, cho nên tôi vô cùng mạo muội đến trả trước”.

Tĩnh Uyển lúng túng nghĩ anh xuất thân cao quí, học rộng biết nhiều, e rằng đã biết rõ lai lịch viên chân trâu ấy, chẳng trách tối qua khi trên xe vừa nhìn thấy, vẻ mặt đã hiện rõ vẻ thiếu tự nhiên. Lúc đó cô chỉ canh cánh việc trong lòng, không hề phát giác. Không biết anh ta rốt cuộc biết bao nhiêu, trong lòng cứ thấp thỏm lo âu, vị Trình tiên sinh đó lại nói như không có chuyện gì: “Em gái nhà tôi xưa nay rất thích thứ đồ này, cho nên lần trước tôi mới đặt chiếc nhẫn đó ở cửa hàng đồ Tây cho nó, viên ngọc này của tiểu thư cũng có lẽ là ngọc trai nuôi từ Đông Doanh phải không?”

Tĩnh Uyển nghe anh nói cố ý giải vây cho mình, trong lòng nhẹ nhõm cười, nói: “Đúng thế là ngọc trai nuôi”. Vị Trình tiên sinh đó nói: “Viên ngọc đẹp đẽ như vậy, chỉ có người đẹp như tiểu thư đeo mới xứng, mới cùng tỏa sáng”. Tuy nói một câu nịnh nọt lấy lòng như thế nhưng thốt ra từ miệng anh ta thấy rất tự nhiên, không hề khiến người ta cảm thấy khách sáo, giả tạo.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 18-5-2013 00:16:25 | Chỉ xem của tác giả
Chương 18

Tĩnh Uyển tiễn Trình Tín Chi về, trái tim mới đập bình thường trở lại. Ngày hôm sau, vì là ngày đại hỷ cho nên hai vợ chồng họ Doãn đều bận chuẩn bị hôn lễ, trong nhà người đông việc nhiều, mấy người chị em họ của Tĩnh Uyển đều đến, ở trên lầu cùng cô. Một đám người nói nói cười cười, bỗng nghe thấy bác Phúc từ ngoài đường hô vọng vào trong, trên tay cầm tờ báo nói: “Đại thắng đại thắng, đánh một trận thắng lớn rồi!’’.



Tĩnh Uyễn vội vàng đi lên hai bước, quả nhiên nhìn thấy hàng tít màu đỏ lớn trên trang báo: “Dư Gia Khẩu đại thắng”, cô không kịp nghĩ nhiều, chỉ mãi đọc nội dung bên dưới, chiến đấu kịch liệt hơn mười ngày, Thừa quân cuối cùng không địch được Dĩnh quân, toàn tuyến phía đông tan vỡ. Tĩnh Uyển đọc đến mấy chữ: “Dĩnh quân chiếm đóng Dư Gia Khẩu”, trong đầu “ầm” một tiếng, định thần lại mới nghĩ Dư Gia Khẩu là vùng trọng yếu của Thừa quân, sau Dư Gia Khẩu là Vĩnh Tân, Vĩnh Tân là đại bản doanh phía Nam của Thừa quân bóp chặt yết hầu đường sắt Thừa Dĩnh, bây giờ lại để mất Dư Gia Khẩu, e rằng Vĩnh Tân nguy hiểm chỉ một sớm một chiều. Cô sững sờ đứng đó, Minh Hương vội cầm lấy tờ báo, rót cho cô tách trà nóng.



Một người chị họ cười nói: “Tĩnh Uyển nhà ta từ nhỏ đã giống con trai, cho nên không chịu thua kém đấng mày râu, lúc nào cũng quan tâm tin tức quốc sự, e rằng sau này Kiến Chương còn phải chịu lép vế với em ấy”. Một người em họ khác nói: “Báo thì có gì hay, ngày ngày chỉ nói chuyện đánh nhau, nhưng em nghe cha nói, trận đáng này sẽ chóng kết thúc thôi. Tin tức trang đầu hôm nay nói nước Nga tuyên chiến với Thừa quân. Cha nói , Thừa quân lần này trước sau đều có địch, chỉ có thể thua thảm hại”.



Chỉ nghe thấy “choang” một tiếng, tách trà trong tay Tĩnh Uyển vỡ tan. Minh Hương giật bắn mình, vội vàng hỏi: “Tiểu thư có bị bỏng không?”. Tĩnh Uyển sắc mặt trắng bệch, nhưng dáng vẻ vẫn trấn tĩnh: “Không”. Minh Hương vội thu dọn mãnh vỡ, miệng còn nói: “Rơi xuống đất nở hoa vinh hoa phú quý”. Một tay Tĩnh Uyển ấn lên ngực, trên mặt đang cười ngẩn ngơ , lẩm bẩm nói: “Em học ai thế, lải nhải như vậy”. Minh Hương bĩu môi: “Còn không phải là bác Ngô, nói trong nhà có việc hỷ, những câu tốt lành nhất định phải nhớ”.



Mấy người chị em họ xúm lại coi của hồi môn của cô, khăn trùm đầu, đồ trang sức hết thảy đều mang ra, cầm thứ nào lên là tấm tắc khen thứ ấy, toàn con gái trẻ tuổi tụ tập với nhau nên rất náo nhiệt, huống hồ đang xem trang sức, khen cái này tinh xảo, cái kia quý, trên trán Tĩnh Uyển lấm tấm mồ nôi lạnh, tiếng cười nói ồn ã cả căn phòng, vang lên trong tai như xa như gần vo ve như tiếng ong. Cô trấn tĩnh vì tổ chức hôn sự nên cả phòng đều treo trướng hỷ và hoa màu, bốn bề đều là màu sắc rực rở, trong căn phòng chất đầy các loại gấm vóc, rương hòm, đều là đồ cưới chuẩn bị cho ngày mai, trên bàn trang điểm có chiếc đồng hồ Tây nho nhỏ, dưới đồng hồ có quả cầu thủy tinh di chuyển không ngừng, lắc qua lắc lại, cô nhìn đến chóng mặt, dường như cả căn phòng đang chuyển động.



Vợ chồng họ Doãn đều bận tiếp khách đến ba bốn giờ chiều, Doãn phu nhân mới có thời gian lên lầu, xem con gái, còn đám chị em họ của Tĩnh Uyển đều đi xuống bên dưới nghe kịch một mình Tĩnh Uyển ngồi ở đó, sững sờ thẩn thờ. Doãn phu nhân xót xa hỏi: “Nghe bác Ngô nói trưa nay con không ăn gì, sao mặt đỏ thế”. Tĩnh Uyển đưa tay sờ sờ mặt, má cô nóng hầm hập, giống như sốt, nhưng trong tim cô dường như có một ngọn lửa đang hừng hực cháy, ánh mắt đượm về xa xôi, cô khẽ gọi một tiếng “mẹ”.



Doãn phu nhân nhẹ nhàng vuốt tóc cô, mắt cô bỗng ngấn lệ: “Mẹ,con sợ lắm”. Doãn phu nhân sững lại một lát, lập tức cười nói: “Con bé ngốc này, có gì sợ chứ, con gái lớn đều phải gả chồng mà”. Tĩnh Uyển lại giống như sắp bật khóc, cắn chặt môi, cố ngân nước mắt. Doãn phu nhân hoảng hốt, vội nói: “Con ngoan trên dưới Hứa gia con đều quen thuộc, giống như nhà mình vậy, hơn nữa đều ở trong thành, sau này con muốn về cũng rất thuận tiện mà”.



Tĩnh Uyển cuối cùng không kìm được nữa, nước mắt trào ra, Doãn phu nhân thấy cô như thế, không hiểu vì sao cũng thấy vô cùng xúc động, đưa tay ra ôm con gái vào lòng. Tĩnh Uyển vừa nói vừa nấc nghẹn ngào: “Mẹ con xin lỗi”. Doãn phu nhân vỗ lưng cô: “Nói linh tinh, con có lỗi gì với mẹ chứ, chỉ cần con sống vui vẻ mẹ vui lắm rồi”. Bà lại nói tiếp: “Xưa nay con luôn hiểu chuyện, hôm nay phải vui vẻ, hôm nay là đại hỷ mà”. Tĩnh Uyển “vâng”một tiếng, vùi mặt vào mẹ, ôm chặt lấy eo mẹ rất lâu không chịu buông ra. Doãn phu nhân nghĩ chỉ có một cô con gái độc nhất này, ngày mai phải gả về nhà người khác, trong lòng cũng ngàn lần, vạn phần không nỡ, nên bà cứ dặn dò mãi mấy đạo lý làm dâu, rồi an ủi rất nhiều.



Theo lễ tiết, trước khi kết hôn Kiến Chương và Tĩnh Uyển không được gặp mặt, cho nên chiều muộn hôm đó, Kiến Chương gọi điện tới. Tĩnh Uyển nhận điện, trong lòng cô có cảm giác rối ren phức tạp, nhưng không biết nên nói gì với anh, Kiến Chương chỉ coi như cô mệt, nói mấy việc hôn lễ ngày mai, cuối cùng dặn dò: “Vậy em ngủ sớm đi”. Cô “ậm ừ” một tiếng, anh sắp dập điện thoại, bỗng nghe cô gọi “Kiến Chương”.Anh hỏi: “Sao thế?”. Trong ống nghe chỉ có tiếng ù ù, hơi thở anh chậm và đều, cô dịu dàng nói: “Không có gì, chỉ nuốn gọi anh một tiếng thôi”.



Thỉnh thoảng cô lộ ra vẽ trẻ con đó, nhưng Kiến Chương lại thấy ngọt ngào nói: “Ngủ sớm chút đi, ngày mai gặp mặt rồi”. Tĩnh Uyển yên lặng hồi lâu, cuối cùng mới nói: “Anh cũng nghĩ sớm đi, tạm biệt”.



Cô dập điện thoại, đứng dậy. Phía trước bắc sân khấu, đang biểu diển, tiếng chiên trống truyền đến như xa như gần, réo rắt réo rắt…trái tim cô còn đập nhanh hơn tiếng trống, cô kiểm tra tất cả mọi thứ trong túi xách: ảnh cha mẹ và mình, hai tập tiền giấy dày, một nắm tiền lẻ, còn cả chiếc đồng hồ quả quýt đó. Cô nghĩ một lúc lấy khăn tay bọc viên “thần châu”, nhét vào đáy chiếc túi xách.



Khách khứa đều nghe kịch ở phía trước, cô lặng lẽ xuống lầu, vì sắp mở tiệc nên mọi người đều bận túi bụi, nhất thời không ai chú ý đến cô. Cô ra khỏi hoa viên từ cửa sau, trong vườn yên lặng không một bóng người, chỉ có mấy chiếc cờ màu nhỏ treo trên cây, tung bay trong gió, reo lên “:ật phật, lật phật”, tiếng chiêng trống huyên náo phía trước, cô lờ mờ nhận ra khúc “Ngọc Liên Minh”, đang hát đến câu: “Ta không cần gấm vóc tram ngọc, chỉ cần áo vải tram gai, mưa gió có nhau, bên nhau tron đời”….Lời thề son sắt đó như một lời an ủi kì lạ, khiến cô không thấy quá sợ hãi, chỉ là bước chân không kìm được hơi chùn lại, may mà suốt dọc đường không gặp ai. Cửa sau vốn không khóa, ông Lý canh cửa ngồi ở ghế mây, ngẩng đầu há miệng ngồi ở đó,hóa ra đã ngủ quên trong cơn gió mát, ông Lý nuôi một con chó vàng lớn, thấy cô nó lười nhác vẫy đuôi, cô lặng lẽ đi ra khỏi cửa.



Xuyên qua con phố liền nhìn thấy mấy chiếc xe kéo, đang đợi khách, cô lên đại một chiếc nói với phu xe: “Đến phía nam thành mau lên…”. Phu xe đó thấy dáng vẻ cô biết là tiểu thư con nhà giàu, hơn nữa lại không mặc cả, rõ ràng là khách sộp, lập tức hăng hái kéo nhanh như bay, không lâu sao đã đưa cô đến phía Nam thành.



Cô biết hành động này của cô khiến người đời kinh hãi, ngay cả Nghiêm tiên sinh đó thấy cô cũng rất bất ngờ. Cô không nhiều lời chỉ nói ngắn gọn một câu: “Tôi muốn đến Vĩnh Tân”.



Nghiêm tiên sinh đó lập tức trấn tĩnh, ánh mắt đầy vẻ khâm phục, miệng lại nói: “Bây giờ hai bên chiến sự gay go, giao thông đứt đoạn, tiểu thư không thể mạo hiểm như thế”.



Tĩnh Uyển cố chấp ngẩng mặt lên: “Anh ấy đã có thể đến được, anh nhất định có cách đưa tôi đi. Cửa thành sắp đóng rồi, nếu không đi hôm nay thì cả đời này tôi cũng không có cách nào đi”. Nghiêm tiên sinh do dự: “Tiểu thư thân đáng ngàn vàng, tiền tuyến lửa đạn không phải là chuyện chơi. Trên đường chẳng may có tổn thất gì, Nghiêm Thế Xương tôi mặt mũi nào đi gặp cậu Sáu”. Tĩnh Uyển giậm chân: “Tôi không sợ, anh sợ cái gì?”. Nghiêm Thế Xương suy nghĩ một lúc lâu, cuối cùng hạ quyết tâm, ngẩng đầu lên nói: “Vậy xin tiểu thư đợi lát. Tôi đi bố trí”.



Anh ta làm việc rất nhanh lẹ, một lúc sao liền quay lại, hai người ngồi xe ra khỏi thành, bên ngoài thành đã có một người thuê xe ngựa đón ở đó, trời đã muộn hai người ngồi trên xe ngựa lắc lư đi khoảng mười cây số. Tĩnh Uyển một nửa hồi hộp một nửa sợ hãi, xen lẫn sự vui mừng khó tả, ngồi trong chiếc ống xe ngựa lọc cọc lọc cọc. Trái tim cô ấp ủ một sự nồng nhiệt không thể khống chế. Lần này gần như đi cả nửa đêm, từ con đường nhỏ xe ngựa đi lắc lư rẽ vào con đường hẹp hơn nữa, cuối cùng đi vào một khuôn viên, nhờ vào chút ánh sáng ở đầu xe Tĩnh Uyển lờ mờ nhận thấy một hộ gia đình bình thường.



Nghiêm Thế Xương xuống xe trước, giúp cô kéo mành che nói nhỏ: “Tiểu thư tối nay ở tạm đây, sáng sớm mai lại lên đường”. Tĩnh Uyển tuy to gan, Nhưng đến nơi không quen biết này vẫn không khỏi thấy sợ hãi. Trong lòng vẫn nhớ cha mẹ, lúc này chắc họ lo lắng đến phát điên rồi, nhưng bản thân khi ra đi, đã không màng tất cả, sau này chỉ có thể cầu xin họ tha thứ.



Chủ nhà là một cặp vợ chồng tươi cười ra đón. Ở đây không có đèn điện, vẫn thắp đèn dầu, Tĩnh Uyển thấy có nữ chủ nhà mới thở phào nhẹ nhõm. Dưới ánh sáng ảm đạm, chỉ thấy một căn phòng dọn dẹp gọn gàng, bà chủ nhà giúp cô kéo chiếc mành, bên trong cũng là giường đất. Tĩnh Uyển nửa đêm bôn ba, nay thấy chiếc giường sạch sẽ đó liền ngồi xuống trước. Nghiêm Thế Xương nói: “E rằng ngày mai tiểu thư phải khổ rồi”. Anh ta nói rõ tất cả kế hoạch cho cô: Tiền tuyến tuy đang đánh nhau, nhưng ở đây rất gần núi Kỳ Phong, chúng ta đã chuẩn bị gia súc, sáng sớm ngày mai sẽ khởi hành, đi qua con đường nhỏ trên núi, dự tính phải đi mất bốn năm ngày, chỉ cần đến phạm vi núi Kỳ Phong, thì chúng ta có thể kiểm soát được rồi. Có điều đường đi đều là đường nhỏ qua núi vượt đèo, nhà dân thưa thớt, chỉ sợ việc ăn ở của tiểu thư sẽ gặp khó khăn nhiều”



Tĩnh Uyển nói: “Không sao, tôi đã đi là đã chuẩn bị khổ rồi”.



Nghiêm Thế Xương gặp mặt cô có mấy lần, trong lòng rất lo lắng, cô là đại tiểu thư yếu đuối như thế chỉ sợ trên đường rất khó chăm sóc. Sáng sớm ngày hôm sau Tĩnh Uyển thay bộ đồ cũ của bà chủ nhà, lấy vải xanh quấn lên tóc, nhìn rất giống thôn nữ. Cô tuy trẻ tuổi nhưng trong lòng đầy tâm sự, biết rõ con đường phía trước rất vất vả, soi mình vào mặt nước vẫn không nhịn được cười thành tiếng.



Nghiêm Thế Xương cũng thay quần áo vải cũ, chủ nhà chuẩn bị cho anh hai con lừa lớn, lại bảo một đứa cháu của mình tuổi tầm mười bốn gọi là Thặng Nhi, giúp Tĩnh Uyển kéo gia súc. Tuy Tĩnh Uyển cưỡi ngựa rất khá nhưng cũng chưa từng cưỡi lừa, cô đứng ở một chiếc cối bên cửa do dự một lúc lâu, cuối cùng lấy hết can đảm cưỡi lên, Nghiêm Thế Xương vốn cũng rất lo lắng, thấy cô ngồi chắc chắn trên yên mới thở phào.

Khi cưỡi quen con lừa đó rồi thì đi vừa nhanh vừa chắc. Tháng tám lúa kê trong núi đang chín, Tĩnh Uyển ngắt một chiếc lá cọ che lên đầu tránh nắng, cô đã thay đổi giày da bằng đôi giày vải cũ bà chủ nhà mới khâu, trên đó thêu một cặp bướm ngũ sắc, dưới ánh mặt trời đôi giày lắc qua lắc lại, cặp bướm sống động như muốn bay lên. Cô nghiêng người ngồi trên lưng lừa, hai bên con đường nhỏ điều là cỏ dại xanh rì, thỉnh thoảng giữa khúc quanh của núi hiện ra một mảnh ruộng, gió thổi qua đám cao lương rậm rì, cách chiếc lá cọ, ánh mặt trời nóng bỏng tỏa ra hơi thơm thanh mát. Đi rất lâu mới nhìn thấy hai ba hộ gia đình lác đác ở sườn núi, khói bếp màu xanh ngọc bốc lên lưng chừng trời. Con đường núi ngoằn ngoèo, như thể đi mãi không hết vậy. Tĩnh Uyển lúc đầu vẫn lo lắng về cha mẹ, thỉnh thoảng có cảm giác áy náy, đến lúc này cũng đành cố gắng quên đi, cô nghĩ việc đã đến nước này nghĩ nhiều cũng chẳng ích gì. Trong lòng hễ nghĩ đến ngày gặp Mộ Dung Phong là cả trái tim và đầu óc đều thấy vui mừng, dù rằng cô chưa bao giờ phải đi qua đường núi gập ghềnh như vầy.



Thặng Nhi chỉ lo cắm đầu đi, Tĩnh Uyển vốn có tâm trạng, muốn phân tán sự tập trung, do đó hỏi cậu hết câu này đến câu khác như mấy tuổi rồi, nhà có bao nhiêu người, đi học chưa, đã đi đâu ra khỏi làng chưa… Nghiêm Thế Xuơng vốn rất lo lắng, thấy dáng vẻ bây giờ của cô dần dần cũng yên tâm hơn. Tĩnh Uyển hiếm khi được vào trong núi, thấy cái gì cũng mới mẻ, lúc đầu Thặng Nhi hỏi một câu mới đáp một câu, sau đó cô hỏi cây đó là cây gì, đó là hoa gì…dần dần cũng trở nên thân thuộc hơn.



Mùa thu lạnh dần gió thổi rì rào lách qua cây cối, giữa cây cỏ tiếng côn trùng như đan dệt, bên này đang hát nên kia đang ca, chít chít rít rít trầm bổng không ngừng, Thặng Nhi nhanh tay nhanh mắt, bắt ngay một con dế lớn đậu trên cỏ, lấy lá cỏ buộc lại, đưa cho Tĩnh Uyển.Tĩnh Uyển mừng rỡ đón lấy, thắt lá cỏ vào chiếc lá cọ, cầm đầu ngọn cỏ nhọn chọc choc con dế, vô tình để lộ tính khí trẻ con, Nghiêm Thế Xương thấy thế phì cười.



Đi đường như thế suốt ba bốn ngày liền, con đường họ đi rất hẻo lánh, ngoài người bản địa rất ít người biết. Cho nên tuy chặng đường rất cực nhọc nhưng bình yên thuận lợi. Nghiêm Thế Xương rất kính phục cô,nói: “Tiểu thư quả thật không thua đấng mày râu”. Tĩnh Uyển cười đáp: “Anh coi tôi là thiên kim đại tiểu thư, hẳn là có phần coi thường tôi rồi”. Nghiêm thế Xương liên tục nói: “Không dám”. Tĩnh Uyển phì cười nói: “Anh đừng vâng vâng dạ dạ thế, anh tuy là thuộc hạ của Cậu Sáu, nhưng đâu phải thuộc hạ của tôi”. Nghiêm Thế Xương nói: “Thế Xương phụng mệnh bảo vệ tiểu thư, cho nên hiện tại chính là thuộc hạ của tiểu thư”.



Tĩnh Uyển cười nói: “Lần này may nhờ có anh, nếu anh cứ vâng vâng dạ dạ như thế tôi phạt anh đấy”. Nghiêm Thế Xương lại “vâng” một tiếng, lần này đến Thặng Nhi cũng cười, Tĩnh Uyển nói: “Vừa mới nói xong, lại phạm lỗi, phạt anh hát”. Nghiêm Thế Xương theo Mộ Dung Phong từ nhỏ, lên ngựa quản quân, xuống ngựa quản dân, sống trong rừng gươm bão đạn cho đến ngày hôm nay, bình thường những đồng bào mà anh chung sống đều là đàn ông hào khí vời vợi, xưa nay không coi trọng phụ nữ yếu đuối, nhưng đồng hành cùng vị Doãn tiểu thư này lại thấy cô phóng khoáng, bình dị dễ gần, không chỉ không hề kiêu ngạo mà còn kiên nhẫn, đến đàn ông bình thường cũng không bì được. Đáng quý nhất là một đương kim tiểu thư, suốt dọc đường ăn lương khô uống nước lạnh, chân tay phồng rộp cả lên nhưng không hề chau mày. Trong lòng anh tôn trọng cô, nghe cô nói muốn phạt anh hát, cảm thấy khó xử mặt mày đỏ bừng lên điều này xưa nay chưa từng xảy ra với anh: “Tôi không biết hát”.



Tĩnh Uyển vỗ tay cười nói: “Nói dối, người nào trên thế giới này mà chẳng biết hát, mau hát một bài, nếu không tôi và Thặng Nhi đều không chịu”. Nghiêm Thế Xương không biết làm thế nào, anh cũng không biết hát nhiều bài, đàng hát một câu dân ca quê nhà: “Trước núi sau núi trăm hoa đua nở, hái một nhành cây cài lên tóc, người trước người sau quay đầu nhìn lại, có ai đến hái hoa, yêu hoa yêu…”. Giọng anh khàn khô nhưng thấy Tĩnh Uyển cười, chăm chú lắng nghe, nên lại hát tiếp: “Trước núi sau núi trăm hoa đua nở, hái một nhành hoa cài lên tóc, người trước người sau quay đầu lại nhìn, có ai đến lấy chị yêu chị, bướm hồng cũng biết hoa yểu điệu, bay đến bên cạnh chị chẳng lẽ anh cứ đờ đẫn như thế, đờ đẫn như thế, còn muốn anh nhét vào tay anh, nhét vào tay anh…”



Móng lừa gõ trên con đường đá, âm thanh trong trẻo, làm kinh động mấy chú chim non phía xa xa, chúng phành phạch vỗ cánh bay lên trời. Những ngày tháng trước đây của anh, hoặc là liếm máu trên bang súng đầu dao, hoặc là uống rượu cá tiền với anh em hoặc là say đắm trong nhà thổ ngõ nhỏ, chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ ngồi trên lưng lừa cất cao tiếng hát  giữa núi rừng thế này, nhưng thấy khuôn mặt cô tươi cười, trong lòng dù như thế nào cũng không làm phật lòng cô. Thế Xương hát hết một bài, Tĩnh Uyển cười nói: “Hát hay như thế mà nói không biết hát”. Chiếc roi trong tay Nghiêm Thế Xương đã dính đầy mồ hôi, anh yên lặng vài giây rồi cười nói: “Giọng cậu Sáu mới hay, thỉnh thoảng nghe cậu ấy gọi một phách, còn vang hơn mấy diễn viên nổi tiếng nữa đó”



Tĩnh Uyển cười mỉm nói: “Tôi thật sự không biết, phải bắt anh ấy hát mới được”. Cô lại thuận miệng hỏi anh: “Cậu Sáu lúc nhỏ của anh trông như thế nào?”. Nghiêm Thế Xương cười nói: “Lúc đại soái còn sống, Cậu Sáu cũng rất nghịch ngợm, đại soái hễ tức giận là cầm chổi lông gà đánh cậu ấy, không đánh gãy chổi tuyệt đối không tha, lúc đó Cậu Sáu tầm mười tuổi, có lần gây chuyện bên ngoài, biết đại soái sẽ đánh, cho nên cầm dao cắt một vết sâu bảy, tám phân trên chiếc chổi lông gà mới. Đại soái  về đến nhà, quả nhiên cầm chổi đánh, mới đánh được hai cái đã gãy, đại soái sững lại nói: “Sao loại chổi này bây giờ lại đểu thế?”. Người ở nhà ai cũng biết là Cậu Sáu bày trò, đều ôm bụng cười lỉnh ra bên ngoài.



Tĩnh Uyển cũng mỉm cười, mắt nhìn con đường núi trước măt, hình như hơi thẫn thờ, lúc này mặt trời lặn xuống núi, ánh sáng như dát vàng, Nghiêm Thế Xương cảm thấy đôi mắt cô như thủy tinh còn phát sáng óng ánh hơn cả ánh chiều tà rực rỡ đó, cô quay mặt đi má phớt hồng như ráng chiều,nói: “Nghiêm đại ca, sau đó thì sao?”. Cô gọi tiếng “đại ca” nghe rất tự nhiên, Nghiêm Thế Sơn không dám trả lời, đương lúc chần chừ lại nghe cô nói: “Tội nghiệp anh ấy từ nhỏ không có mẹ,haizz!”. Một tiếng than như thế nghe xa xôi bất tận như một sợi dây lan đến tận sâu thẳm trái tim. Nghiêm Thế Xương không dám ngẩng đầu nhìn cô nữa, một lát sau mới nói: “Tiểu thư, ngày hôm nay sẽ đến Hà Gia Bảo rồi, ở đó chỉ cách núi Kỳ Phong một ngọn núi, tuy Dĩnh quân không đóng quân ở Hà Gia Bảo nhưng binh chiến lạc loạn là khó tránh khỏi. Cho nên hành trình ngày mai rất nguy hiểm, đến lúc đó nếu xảy ra chuyện gì, tiểu thư nhất định phải đi với Thặng Nhi trước, nó biết đường, biết đường nào đến núi Kỳ Phong”.



Tĩnh Uyển tuy hơi sợ hãi nhưng mau chóng lấy lại dũng khí, nói: “Nghiêm đại ca, ba chúng ta nhất định cùng nhau bình an đến núi Kỳ Phong”. Nghiêm Thế Xương cười nói: “Tôi chỉ sợ là bất trắc, tiểu thư là người phúc trí vẹn toàn, nhất định có thể bình an, thuận lợi đến gặp Cậu Sáu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 18-5-2013 02:06:23 | Chỉ xem của tác giả
Chương 19


Tối đó họ vẫn ngủ nhờ nhà mấy người nông dân, vì trên đường mệt mỏi nên Tĩnh Uyển ngủ say, sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, thấy hơi lạnh, cô đi đến cửa sổ mới biết là trời mưa. Trời hỡi mưa như thế là rất lầy lội khó đi, Nghiêm Thế Xương vốn định tạnh mưa mới đi nhưng mưa mùa thu, lúc mưa lúc tạnh, đến gần trưa vẫn rả rích không ngừng.Thời gian bỏ lỡ trên đường càng dài thì càng nguy hiểm, may mà sau buổi  trưa trời mưa nhỏ dần, họ bèn đội mưa lên đường.



Tĩnh Uyển mặc áo mưa, đội chiếc nón che gần hết mặt, cô chưa từng mặc áo mưa, chỉ thấy mùi cây trẩu rất khó chịu. Đi được mười cây số trời lại mưa to hơn, áo mưa vừa ướt lại vừa nặng, quần áo bên trong cũng ướt gần hết, lạnh lẽo như dính vào da thịt, khiến cô không khỏi run rẩy. Nghiêm Thế xương rất lo lắng nhưng trời mưa đường trơn, lừa đi rất chậm nên chẳng còn cách nào khác. Đến chiều từ đường núi nhìn ra xa thấy những ngôi nhà lớn trong núi, trong màn mưa mênh mang giống như một bức tranh thủy mặc vẽ cảnh bốn phía mây mù. Nghiêm Thế Xương chỉ cho cô xem: “Đó chính là Hà Gia Bảo, đi qua ngọn núi chính là núi Kỳ Phong rồi”



Tĩnh Uyển phấn trấn tinh thần cười nói: “Coi như sắp đến rồi”. Đường núi khúc khuỷu, nhìn gần ngay trước mặt nhưng đi lại rất xa, đến tận lúc lên đèn họ mới xuống núi, con đường đá xanh thẳng tắp kéo dài đến Hà Gia Bảo. Vì trời mưa nên chỉ có lác đác mấy người trên đường. Họ không ghé vào thị trấn, mà chỉ dừng chân nghỉ ngơi ở bên ngoài, mua bánh ngô làm lương khô.



Nghiêm Thế Xương đội nón mặc chiếc áo mưa dầu cũ, lại nói tiếng bản địa, ông chủ cửa hàng nhỏ không hề nghi ngờ, chỉ dẫn cặn kẽ cho anh: “Buổi tối đừng đi đường, năm nay nơi này không yên ổn, lúc thì quân này đánh đến lúc thì quân kia đánh đến, hai người tốt hơn hết là nghỉ  lại thị trấn một đêm, sáng sớm mai lên đường”.



Nghiêm Thế Xương hỏi: “Trong thành không phải có an dân đoàn sao?”. Ông chủ nói: “Nghe nói trên núi có một đồn trú quân của Dĩnh quân, cũng chỉ nghe nói như vậy, trong núi lớn như thế ai biết được quân binh nằm ở đâu”. Nghiêm Thế Xương trong lòng lo lắng, ôm bọc bánh ngô gói bằng lá cọ, bước thấp bước cao đi về bên cạnh Tĩnh Uyển, khẽ tiếng thương lượng với cô chốc lát, cuối cùng cảm thấy ở lại trong thị trấn càng nguy hiểm, họ vẫn quyết định đi thâu đêm.



Ai ngờ vào ban đêm mưa càng to, họ đi mấy cây số mà mưa như trút nước, ào ào từ trên trời đổ xuống, khiến người ta gần như không mở nổi mắt. Xung quanh yên lặng như tờ, ngay cả tiếng côn trùng cũng bặt thinh, chỉ có tiếng mưa ào ào, bốn bề đen như mực, đen đến mức đặc quách như mực tàu. Tĩnh Uyển tuy sợ hãi nhưng cắn chặt môi không hé một tiếng. Chiếc đèn dầu trong tay Nghiêm Thế Xương chỉ chiếu sáng không quá một trượng, trong ánh sáng mờ trắng trắng, vô số hạt mưa dường như đập thẳng vào đèn. Anh biết không nên đi tiếp nên nói với Tĩnh Uyển: “Bây giờ cho dù quay lại thị trấn cũng rất nguy hiểm, tôi nhớ phía trước có một miếu Quan Đế, hay là tối nay tránh tạm ở đó, sáng mai lại lên đường”.



Tĩnh Uyển chỉ thấy áo ướt dính vào người lạnh thấu xương, ngay cả giọng nói cũng đang run rẩy: “Tôi nghe theo Nghiêm đại ca”. Họ lại đội mưa đi một lúc mới thấy một cái miếu nhỏ. Trong miếu đã không còn hòa thượng, vì khách qua đường vẫn hay thường dừng chân ở đây, nên trong miếu cũng khá sạch sẽ, Nghiêm Thế Xương đặt đèn xuống, tìm một nơi khô ráo cho Tĩnh Uyển ngồi. Tĩnh Uyển cởi áo mưa, chỉ thấy gió đêm thốc thẳng vào người, lại càng lạnh hơn. Nghiêm Thế Xương thấy bên tường có chất một ít cỏ khô, chần chừ một lát, nếu đốt lửa sẽ có người đến. Nhưng nhìn ánh đèn le lói hắt trên mặt Tĩnh Uyển, sắc mặt cô trắng bệch không còn chút máu, môi đã khô nẻ, toàn thân đang run lên, anh chỉ lo cô mặc quần áo ướt sẽ bị ốm, trong lòng nhem nhóm tia hi vọng, cảm thấy trời mưa to thế này, cho dù trong núi có Dĩnh quân chắc cũng không đội mưa đi tuần đêm. Anh bèn đem cỏ khô đến, đốt lên.



Tĩnh Uyển giật bắn mình, thấy sắc mặt anh tập trung cô cũng hơi căng thẳng. Cô cố nghe ngóng nhưng chỉ nghe thấy tiếng mưa rì rào trên cành lá bên ngoài miếu. Nghiêm Thế Xương bỗng quay người lại, lấy đất hất vào đống lửa, Tĩnh Uyển sực tỉnh, vội giúp anh lấy đất dập lửa. Ngọn lửa tắt ngấm, trong miếu bỗng chốc đen ngòm. Tĩnh Uyển chỉ nghe thấy tiếng thở nhẹ của Nghiêm Thế Xương, hai con lừa vốn cột ở giữa miếu lúc nầy có một con hắt hơi, trong lòng cô sợ hãi, lại nghe thấy Ngiêm Thế Xương gọi nhỏ: “Thặng Nhi?”. Thặng Nhi bất ngờ tỉnh giấc, chỉ nghe Nghiêm Thế Xương nói: “Cháu biết đường xuống núi không?”. Thặng Nhi nói nhỏ: “Biết”.



Tĩnh Uyển cố mở to mắt, qua lỗ dột trên mái nhà, ánh sáng xanh của màng đêm chiếu xiên xuống sàn, lúc lâu sau cô mới có thể lờ mờ nhìn ra hình bóng của Nghiêm Thế xương, anh lặng lẽ đứng ở đó nhưng cô nghe không ra bên ngoài có gì là không ổn. Anh bỗng đưa tay ra, nhét vật cứng vào tay cô, nói nhỏ: “Không kịp rồi không biết đối phương có kịp chặn cửa trước sau không, Cậu Sáu từng dạy tiểu thư cách bắn súng, khẩu súng này tiểu thư cầm phòng thân”.



Trong tay anh có một khẩu súng ngắn khác, trong bóng tối khẩu súng lóe lên ánh sáng ảm đạm, cô cực kỳ sợ hãi, cầm khẩu súng trên tay nặng đến nổi không cầm lên nổi. Lúc này dường như mới nghe thấy tiếng vó ngựa, bên ngoài càng lúc càng gần, tiếng vó ngựa hỗn loạn, rõ ràng không phải một người một ngựa, láng máng nghe thấy tiếng ngựa hí, hình như cả một đám người ngựa. Ba người họ đều căng thẳng đến cực điểm, yên lặng đến nín thở, nghe đám người ngựa càng lúc càng lại gần, trái tim Tĩnh Uyển như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, bên ngoài có người nói: “Vừa nãy xa xa còn có ánh lửa giờ tắt rồi”, tiếp theo có người nói: “Vào trong xem”.



Cơ thể Tĩnh Uyển hơi run, cô nắm chặt khẩu súng trong tay, lòng bàn tay đã toát mồ hôi, nghe tiếng bước chân rầm rập xong vào, tiếp đó có người đá tung cửa miếu “rầm”một tiếng.



Mấy chiếc đèn dầu xông vào, luồng sáng đột ngột khiến Tĩnh Uyển không thể mở mắt, chỉ nghe thấy có người hỏi: “Là ai?bỏ súng xuống!”. Tiếp theo nghe thấy những âm thanh lạch cạch, là tiếng kéo cò súng, cô biết phản ứng vô hiệu nên chầm chậm bỏ súng xuống, ý nghĩ trong đầu lướt qua như điện xẹt: xong rồi!Cô sợ đến cực điểm, chỉ nghỉ nếu bị loạn binh làm nhục không bằng chết luôn ở đây. Đang trong lúc rất muốn chết, bỗng nghe thấy giọng của Nghiêm Thế Xương vang lên vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ mắng: “Chúc lão tam, cái thằng ranh con này! Hóa ra là mấy người! Làm ông mày sợ chết đi được!”.



Mô Dung Phong đang mơ màng ngủ, loáng thoáng hình như nghe thấy tiếng của Thẩm Gia Bình, nói rất nhỏ: “Cậu Sáu mới ngủ cả đêm không ngủ rồi, sáng mai lại phải đi xem bố phòng, đến bâu giờ mới tranh thủ đi chợp mắt”. Một giọng nói khác hình như của thư kí Uông Tử Kinh, có vẻ hơi chần chừ: “Vậy lát nũa tôi lại đến”. Trong chốc lát anh hoàn toàn tỉnh táo, ngoài trời âm u, tuy buổi chiều mà vẫn như vừa mới sáng, sắc trời một màu xanh xám, âm thanh như tiếng sấm rền từ bên ngoài văng vẳng truyền tới, âm thanh đó anh quá đỗi quen thuộc, biết không phải là tiếng sấm,mà là tiếng lửa đạn ở trận tuyến. Anh với lấy đồng hồ bên cạnh gối xem, mới ba giờ chiều hóa ra anh ngủ chưa được một tiếng, sự mệt mỏi không hề mất đi, ngược lại trong lòng trỗi dậy sự lo âu thấp thỏm.



Anh hỏi: “Ai bên ngoài thế?”.



Quả nhiên là Uông Tử Kinh nghe thấy tiếng anh hỏi vội vàng đi vào, anh đã xuống giường cầm chiếc khăn lạnh giá lau lau mặt, hỏi: “Có chuyện gì”. Uông Tử Kkinh cười nói: “Tin tốt lành, sư đoàn 9 và quân đoàn số 7, quân đoàn số 11 của Hộ Quốc quân đã hoàn thành bao vây, đội kỵ binh của chúng ta đã đến núi Nguyệt Hoàn, quân tiên phong của Hộ Quốc quân cũng đã đến cảng Khinh Xa, hai sư đoàn của Cao Bách Thuận của Dĩnh quân vẫn còn đang bị lừa”.



Mộ Dung Phong bỏ khăn mặt ra hỏi: “Tuyến đông thì sao?”



“Pháo binh của sư đoàn số 4 vẫn đang bị kìm chân”. Uông Tử Kinh nói rất ung dung, “Gần như sắp cho nổ tung Lịch Thàng thành một đám bùn đất, sư đoàn trưởng Tiền vừa gửi mật điện đến, báo đã đến vị trí được chỉ định, đợi rùa thò ra khỏi hang, để xả cơn giận mấy ngày vừa rồi”.



Mộ Dung Phong hừ một tiếng,nói: “Quân ta mất Dư Gia Khẩu không quá mười ngày, đám báo chí nước ngoài liền khua chân múa tay nói năng lung tung. Chúng còn dám trích dẫn binh pháp Tôn Tử, lần này ra diễn cho chúng xem vở kịch này, để chúng biết thế nào là binh pháp Tôn Tử”.



Mô Dung Phong đã dậy rồi nên giải quyết chút công việc quân, hành dinh tạm thời của anh đặt tại nơi đóng quân  của Nam đại bản doanh, họp liền mấy tiếng mới xong. Tâm trạng Mộ Dung Phong rất tốt, cười nói với đám phụ tá: “Mấy ngày nay mọi người đều mệt, hôm nay tôi mời mọi người ăn cơm”. Ăn cơm trong quân đội cũng có nguyên tắc, mỗi người mỗi ngày một phần bao nhiêu, cho nên anh vừa nói mời khách, mấy viên thư kí rất mừng, vây quanh anh đi ra khỏi phòng. Trời đang tối dần vầng thái dương màu vàng xuộm đang dần lặn về phía tây, xa xa đã thấy một chiếc xe từ bản doanh chạy vào, cảnh vệ gác cổng đang dựng súng hành lễ.



Mộ Dung Phong tưởng là thống chế Giang Châu Hạ Phố Nghĩa đến, đến lúc nhận ra chiếc xe Lincoln màu đen vô cùng quen thuộc là xe của mình, trong lòng thấy lạ quay mặt lại hỏi cảnh vệ: “Ai đưa xe của tôi ra ngoài thế? Thẩm Gia Bình đâu?”. Cảnh vệ đó đáp: “Đội trưởng Thẩm nói có việc ra ngoài”. Mộ Dung Phong chuẩn bị giận dữ, chiếc xe đó dừng lại, một người bước xuống xe, đó là Thẩm Gia Bình, từ xa đã cười nói: “Cậu Sáu Doãn tiểu thư đến rồi”.



Mộ Dung Phong dường như nghe chưa rõ: “Cái gì”. Thẩm Gia Bình cười tươi roi rói, nói: “Doãn tiểu thư đến rồi”. Mộ Dung Phong chợt đứng đờ ra, chỉ thấy một cô gái trẻ xuống xe, tuy chỉ mặc quần áo vải bình thường, nhưng hình thức thướt tha đó quá đỗi quen thuộc, chính là Tĩnh Uyển. Một cô gái trẻ tuổi yếu đuối, chịu bao hoảng sợ và khổ cực, nhưng chỉ nhìn anh từ xa trong lòng đã không ngăn nổi vui mừng, giống như sắt gặp nam châm, sản sinh một lực hút không màng tất cả, khiến cô lao vế phía anh.



Mộ Dung Phong bước mấy bước xuống bậc thang, từ xa đã dang tay ra, cơ thể ấm mềm của cô lao vào lòng anh, cô ngẩng mặt lên nhìn anh, mắt ngấn lệ long lanh, nụ cười nở trên gương mặt, khóe miệng hơi run run, câu nói đó không sao nói ra nổi.



Anh ôm chặt lấy cô cảm giác như trong giấc mơ không chân thật, dường như chỉ có dùng tay ôm cô thật chặt như thế mới có thể tin rằng đây là sự thật. Anh đột nhiên kêu lớn một tiếng, ôm cô lên quay mấy vòng, đó là cảm giác vui mừng khôn xiết, không thể kìm chế được nữa, trái tim vui sướng như sắp nổ tung. Cô chỉ thấy trời đất quay cuồng, trời và đất quay vòng xung quanh, bên tai có tiếng ù ù, chỉ nghe thấy tiếng cười sang sảng của anh: “Tĩnh Uyển, anh vui quá, anh vui quá!”.



Anh trẻ tuổi dẫn đầu ba quân, bình thường trước mặt mọi người đều rất già dặn, lúc này vui mừng như điên, chợt bộc lộ hành động trẻ con, khiến cả đám thư kí và tham mưu có mặt đều sững sờ.



Nụ cười của Tĩnh Uyển từ trong tim tràn ra, lan đến khóe mắt đầu mày, anh cứ ôm chặt cô quay mấy vòng rồi mới đặt cô xuống. Giờ cô mới để ý đến những người đứng bên cạnh phía doanh trại, họ cùng cười mỉm nhìn cô và Mộ Dung Phong, cô nghĩ đến cảnh tượng đó đều bị người ta thấy hết thật xấu hổ,không kìm được đỏ bừng mặt. Mộ Dung Phong vẫn nắm chặt tay cô, bỗng anh nhớ ra điều gì, sầm mặt gọi: “Nghiêm Thế Xương”.



Sau khi xuống xe Nghiêm Thế Xương thấy hơi lo lo, nghe anh gọi tên mình, liền đi lên trước một bước: “Có”. Mộ Dung Phong đã nghĩ đến Tĩnh Uyển đã vất vã và gặp nguy hiểm trên đường, vừa đau lòng vừa lo lắng, định bụng hỏi tội Nghiêm Thế Xương: “Bỏ đi, cậu cũng vất vả rồi, đi nghỉ trước đi”.



Anh vẫn ăn cơm cùng mấy viên thư kí, cơm thịt cũng khá thịnh soạn, có điều trong quân đội không được uống rượu, hơn nữa đám thư kí này, có ai không là người từng trải? Họ vừa ăn vừa đưa mắt ra hiệu, ăn qua loa rồi thi nhau bỏ đũa xuống nói: “Cậu Sáu ăn ngon miệng”.



Mộ Dung Phong nói: “Sao mấy cậu ăn nhanh thế, tôi còn chưa ăn no”. Hà Tự An cười nói: “Cậu Sáu, xin lỗi, báo cáo quân sự của tiền tuyến vẫn chưa đọc, tôi phải đi trước rồi. Một tay thư kí riêng vỗ đầu nói: “Ôi chao, tối nay đến phiên tôi trực ban, phải đến phòng điện báo”. Còn một người nữa nói: “Lý thống chế đợi tôi trả lời điện báo”. Cứ như thế, mấy người đó kiếm cớ từ bỏ về hết.



Trong lòng Mộ Dung quả thật nhớ nhung Tĩnh Uyển, thấy thư kí đi hết cũng cảm thấy buồn cười. Mỗi tối đi ngủ anh đều đến phòng trực ban xem báo cáo chiến sự tiền tuyến một lát, lúc tình hình căng thẳng thường cả đêm không ngủ, nhưng hôm nay vì các thư kí ôm đồm hết việc, sắp xếp mọi thứ xong cả rồi, nên liền đi thăm Tĩnh Uyển.



Tĩnh Uyển vừa mới tắm rửa xong, cả chặn đường gió cát bụi bặm, không tiện tắm giặt, cô xưa nay thích sạch sẽ, đương nhiên thấy rất khó chịu. Đến đây cuối cùng cũng được tắm nước nóng, chẳng khác nào được lột xác, thế nên mặt mày phấn chấn. Đến quần áo để thay cô cũng không có, Thẩm Gia Bình đành tạm thời sai người đến thành Vĩnh Tân mua mấy bộ, có một chiếc sườn xám hải đường rất lớn mặc vào rộng thùng thình, tà áo dài chạm vào mu bàn chân, mặc lên người lại có dáng vẻ thướt tha kì lạ. Tóc cô vốn rất dài, lúc này gọi đầu xong xõa lên vai, giống như đám mây đen, cô dùng khăn lau khô, trên ngọn tóc còn vô số giọt nhỏ long lanh, dưới ánh đèn óng ánh như thủy tinh.



Vì vừa tắm xong nên má Tĩnh Uyển ửng hồng, thấy anh dò xét tỉ mỉ, cô ngượng ngùng giải thích, nói: “Không có máy sấy nên đành để tóc xõa như thế này”. Lúc cô nói hơi quay mặt đi, có mấy giọt nước rớt vào mu bàn tay anh, rồi khô đi rất nhanh, da trên tay co lại, căng lên từng phân. Anh trở nên không tự nhiên, quay mặt đi xem xét đồ đạt trong phòng. Tuy là bố trí chóng vánh nhưng ở gian ngoài có đặt một chiếc sofa nhung, khôngcó bàn trà. Đi vào bên trong một bên đặt một chiếc giường sơn trắng kiểu Tây, chăn gối trên giường đều là đồ mới, ngoài ra còn có một bàn trang điểm kiểu Tây có gương lớn. Trên bàn có đặt một bình hoa sứ nhỏ, bên trong cắm hoa cúc.



Trong hành dinh tất cả đều đơn sơ giản dị, bó lam càng cua màu trắng đó tuy không phải là loại quý hiếm, nhưng thanh khiết tươi đẹp, vô cùng bắt mắt. Ngày ngày những thứ anh nhìn thấy đều là bom đạn, căn phòng ngăn nắp thế này đem lại cảm giác thoải mái yên ổn đặc biệt của khuê phòng, bất giác khiến người ta nhẹ nhõm.



Anh nói : “Bây giờ hoa cúc đã nở rồi”. Anh dừng lại một lát rồi nói: “Lát nữa họ cũng đặt một bình như thế trong phòng anh”.Tĩnh Uyển tiện tay rút một cành hoa cúc ra, nói: “hoa này tuy đẹp nhưng đáng tiếc lại nở vào mùa thu”. Cô chỉ tùy tiện nói một câu như vậy, Mộ Dung Phong bỗng có chút không lành, nhưng lòng anh đang vui mừng nên hỏi sang chuyện khác: “Em đi đường thế nào, chắc nguy hiểm lắm hả?”.

Tĩnh Uyển sợ anh lo lắng nên nói: “Cũng ổn, suốt chặng đường đều rất thuận lợi, chỉ là lúc ở Hà Gia Bảo hơi sợ hãi một chút”. Mộ Dung Phong quả nhiên kinh ngạc vội hỏi: “Có bị thương chỗ nào không?”. Tĩnh Uyển lắc đầu ánh mắt đung đưa mĩm cười nói: “Nghiêm đại ca cũng không ngờ Cậu Sáu dùng binh như thần, kỵ binh của sư đoàn số 4 đội mưa hành quân đánh úp Dĩnh quân, suýt nữa coi ba người tụi em là gián điệp Dĩnh quân bắt đi xử bắn”.



Cô nói dí dỏm, lộ ra vẻ mặt trẻ con. Mộ Dung Phong cười nhìn cô, cảm thấy cả cơ thể cô như đang phát sáng, tỏ ra một ánh sáng đẹp đẽ, ngược lại hoàn toàn với dáng vẻ u ám của cô trước đây. Hai người tuy mới gặp nhau mười ngày trước, nhưng lần trùng phùng này họ cứ ngỡ như trong mơ. Giờ mới biết người xưa nói: “Nửa đêm soi mình vào gương, cứ ngỡ tương phùng trong giấc mộng” là như thế nào.



Hai người cứ ngồi như thế,không muốn nói gì, tuy không trò chuyện với nhau nhưng trong lòng có một niềm vui lắng dịu, dường như họ muốn nhìn nhau như thế,cho đến tận mãi mãi. Cuối cùng đêm đã khuya, anh đành đứng dậy nói: “Anh về trước mai gặp lại em”.



Tĩnh Uyển tiễn anh ra ngoài, tà áo sườn xám dài lướt trên chân, cô quên mặc đồ tây, chiếc sườn xám không vừa người như vậy, trên tà thêu mấy bông hải đường, hình thù quá đỗi bình thường nhưng lại toát lên vẻ đẹp cổ điển. Màu sắc tà áo tươi tắn, chính cô cũng cảm thấy màu đỏ rực rỡ đó ánh cả lên đôi gò má ửng hồng. Đôi dép hoa gấm dưới chân màu hồng cánh sen xen lẫn đường chỉ kim tuyến màu vàng nhạt, từng bước nở hoa. Đi đường xa như vậy cuối cùng được gặp anh, ngay cả đôi dép mới dưới chân cũng có cảm giác vững chãi chân thật, tuy tương lai vẫn không đoán trước được, nhưng cuối cùng gặp được anh, cô vẫn có cảm giác mừng rỡ không thể nói thành lời.



Anh dừng lại ở cửa, nói: “Anh đi đây”. Gần nhau như thế cơ thể anh có mùi xà bông thơm thơm, mùi thuốc lá khô hanh, kèm theo mùi thanh mát của bạc hà, mùi nồng nặc của khói súng, trong mắt anh chỉ có hình bóng cô, giống như mê hoặc giọng cô nho nhỏ: “Ngủ ngon”. Anh cũng đáp lại một tiếng: “Ngủ ngon”, cô thấy anh mở cửa liền lùi về hai bước, mắt nhìn tiễn anh ra ngoài.



Tay anh tựa vào cửa bỗng nhiên đẩy mạnh, chỉ nghe “cạch” một tiếng cửa đóng lại. Tĩnh Uyển chưa kịp phản ứng, nụ hôn của anh đã phủ xuống như trời đất ập xuống, vừa gấp vừa dày, cô không thở được, đành dùng tay nắm lấy cổ áo anh. Cô bất lực vùng vẫy giống như người sắp chết: “Không, không được…”. Nhưng anh không màng tất cả, anh không màng gì nửa, chỉ có cô là chân thật, là thứ anh khao khát từ lâu. Anh suýt nữa mất cô, nhưng đã đoạt lại như kì tích. Hơi thở anh gấp gáp phả vào tai cô, có cảm giác ngưa ngứa kì lạ, cơ thể cô ép chặt vào lòng anh, xung quanh đều là hơi thở của anh, tất cả đều bị anh đoạt mất.



Mùi hương hoa cúc nhè nhẹ, cả căn phòng ngào ngạt hương thơm thanh mát, anh nghĩ đến rượu hoa cúc, trong rượu mạnh như thế, hoa cúc Hoàng Sơn khô, thấm nước nở ra từng bông, xinh đẹp rực rỡ giống như cô lúc này, đang nở ra trong lòng anh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 18-5-2013 08:38:51 | Chỉ xem của tác giả
Chương 19


Tối đó họ vẫn ngủ nhờ nhà mấy người nông dân, vì trên đường mệt mỏi nên Tĩnh Uyển ngủ say, sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, thấy hơi lạnh, cô đi đến cửa sổ mới biết là trời mưa. Trời hỡi mưa như thế là rất lầy lội khó đi, Nghiêm Thế Xương vốn định tạnh mưa mới đi nhưng mưa mùa thu, lúc mưa lúc tạnh, đến gần trưa vẫn rả rích không ngừng.Thời gian bỏ lỡ trên đường càng dài thì càng nguy hiểm, may mà sau buổi  trưa trời mưa nhỏ dần, họ bèn đội mưa lên đường.



Tĩnh Uyển mặc áo mưa, đội chiếc nón che gần hết mặt, cô chưa từng mặc áo mưa, chỉ thấy mùi cây trẩu rất khó chịu. Đi được mười cây số trời lại mưa to hơn, áo mưa vừa ướt lại vừa nặng, quần áo bên trong cũng ướt gần hết, lạnh lẽo như dính vào da thịt, khiến cô không khỏi run rẩy. Nghiêm Thế xương rất lo lắng nhưng trời mưa đường trơn, lừa đi rất chậm nên chẳng còn cách nào khác. Đến chiều từ đường núi nhìn ra xa thấy những ngôi nhà lớn trong núi, trong màn mưa mênh mang giống như một bức tranh thủy mặc vẽ cảnh bốn phía mây mù. Nghiêm Thế Xương chỉ cho cô xem: “Đó chính là Hà Gia Bảo, đi qua ngọn núi chính là núi Kỳ Phong rồi”



Tĩnh Uyển phấn trấn tinh thần cười nói: “Coi như sắp đến rồi”. Đường núi khúc khuỷu, nhìn gần ngay trước mặt nhưng đi lại rất xa, đến tận lúc lên đèn họ mới xuống núi, con đường đá xanh thẳng tắp kéo dài đến Hà Gia Bảo. Vì trời mưa nên chỉ có lác đác mấy người trên đường. Họ không ghé vào thị trấn, mà chỉ dừng chân nghỉ ngơi ở bên ngoài, mua bánh ngô làm lương khô.



Nghiêm Thế Xương đội nón mặc chiếc áo mưa dầu cũ, lại nói tiếng bản địa, ông chủ cửa hàng nhỏ không hề nghi ngờ, chỉ dẫn cặn kẽ cho anh: “Buổi tối đừng đi đường, năm nay nơi này không yên ổn, lúc thì quân này đánh đến lúc thì quân kia đánh đến, hai người tốt hơn hết là nghỉ  lại thị trấn một đêm, sáng sớm mai lên đường”.



Nghiêm Thế Xương hỏi: “Trong thành không phải có an dân đoàn sao?”. Ông chủ nói: “Nghe nói trên núi có một đồn trú quân của Dĩnh quân, cũng chỉ nghe nói như vậy, trong núi lớn như thế ai biết được quân binh nằm ở đâu”. Nghiêm Thế Xương trong lòng lo lắng, ôm bọc bánh ngô gói bằng lá cọ, bước thấp bước cao đi về bên cạnh Tĩnh Uyển, khẽ tiếng thương lượng với cô chốc lát, cuối cùng cảm thấy ở lại trong thị trấn càng nguy hiểm, họ vẫn quyết định đi thâu đêm.



Ai ngờ vào ban đêm mưa càng to, họ đi mấy cây số mà mưa như trút nước, ào ào từ trên trời đổ xuống, khiến người ta gần như không mở nổi mắt. Xung quanh yên lặng như tờ, ngay cả tiếng côn trùng cũng bặt thinh, chỉ có tiếng mưa ào ào, bốn bề đen như mực, đen đến mức đặc quách như mực tàu. Tĩnh Uyển tuy sợ hãi nhưng cắn chặt môi không hé một tiếng. Chiếc đèn dầu trong tay Nghiêm Thế Xương chỉ chiếu sáng không quá một trượng, trong ánh sáng mờ trắng trắng, vô số hạt mưa dường như đập thẳng vào đèn. Anh biết không nên đi tiếp nên nói với Tĩnh Uyển: “Bây giờ cho dù quay lại thị trấn cũng rất nguy hiểm, tôi nhớ phía trước có một miếu Quan Đế, hay là tối nay tránh tạm ở đó, sáng mai lại lên đường”.



Tĩnh Uyển chỉ thấy áo ướt dính vào người lạnh thấu xương, ngay cả giọng nói cũng đang run rẩy: “Tôi nghe theo Nghiêm đại ca”. Họ lại đội mưa đi một lúc mới thấy một cái miếu nhỏ. Trong miếu đã không còn hòa thượng, vì khách qua đường vẫn hay thường dừng chân ở đây, nên trong miếu cũng khá sạch sẽ, Nghiêm Thế Xương đặt đèn xuống, tìm một nơi khô ráo cho Tĩnh Uyển ngồi. Tĩnh Uyển cởi áo mưa, chỉ thấy gió đêm thốc thẳng vào người, lại càng lạnh hơn. Nghiêm Thế Xương thấy bên tường có chất một ít cỏ khô, chần chừ một lát, nếu đốt lửa sẽ có người đến. Nhưng nhìn ánh đèn le lói hắt trên mặt Tĩnh Uyển, sắc mặt cô trắng bệch không còn chút máu, môi đã khô nẻ, toàn thân đang run lên, anh chỉ lo cô mặc quần áo ướt sẽ bị ốm, trong lòng nhem nhóm tia hi vọng, cảm thấy trời mưa to thế này, cho dù trong núi có Dĩnh quân chắc cũng không đội mưa đi tuần đêm. Anh bèn đem cỏ khô đến, đốt lên.



Tĩnh Uyển giật bắn mình, thấy sắc mặt anh tập trung cô cũng hơi căng thẳng. Cô cố nghe ngóng nhưng chỉ nghe thấy tiếng mưa rì rào trên cành lá bên ngoài miếu. Nghiêm Thế Xương bỗng quay người lại, lấy đất hất vào đống lửa, Tĩnh Uyển sực tỉnh, vội giúp anh lấy đất dập lửa. Ngọn lửa tắt ngấm, trong miếu bỗng chốc đen ngòm. Tĩnh Uyển chỉ nghe thấy tiếng thở nhẹ của Nghiêm Thế Xương, hai con lừa vốn cột ở giữa miếu lúc nầy có một con hắt hơi, trong lòng cô sợ hãi, lại nghe thấy Ngiêm Thế Xương gọi nhỏ: “Thặng Nhi?”. Thặng Nhi bất ngờ tỉnh giấc, chỉ nghe Nghiêm Thế Xương nói: “Cháu biết đường xuống núi không?”. Thặng Nhi nói nhỏ: “Biết”.



Tĩnh Uyển cố mở to mắt, qua lỗ dột trên mái nhà, ánh sáng xanh của màng đêm chiếu xiên xuống sàn, lúc lâu sau cô mới có thể lờ mờ nhìn ra hình bóng của Nghiêm Thế xương, anh lặng lẽ đứng ở đó nhưng cô nghe không ra bên ngoài có gì là không ổn. Anh bỗng đưa tay ra, nhét vật cứng vào tay cô, nói nhỏ: “Không kịp rồi không biết đối phương có kịp chặn cửa trước sau không, Cậu Sáu từng dạy tiểu thư cách bắn súng, khẩu súng này tiểu thư cầm phòng thân”.



Trong tay anh có một khẩu súng ngắn khác, trong bóng tối khẩu súng lóe lên ánh sáng ảm đạm, cô cực kỳ sợ hãi, cầm khẩu súng trên tay nặng đến nổi không cầm lên nổi. Lúc này dường như mới nghe thấy tiếng vó ngựa, bên ngoài càng lúc càng gần, tiếng vó ngựa hỗn loạn, rõ ràng không phải một người một ngựa, láng máng nghe thấy tiếng ngựa hí, hình như cả một đám người ngựa. Ba người họ đều căng thẳng đến cực điểm, yên lặng đến nín thở, nghe đám người ngựa càng lúc càng lại gần, trái tim Tĩnh Uyển như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, bên ngoài có người nói: “Vừa nãy xa xa còn có ánh lửa giờ tắt rồi”, tiếp theo có người nói: “Vào trong xem”.



Cơ thể Tĩnh Uyển hơi run, cô nắm chặt khẩu súng trong tay, lòng bàn tay đã toát mồ hôi, nghe tiếng bước chân rầm rập xong vào, tiếp đó có người đá tung cửa miếu “rầm”một tiếng.



Mấy chiếc đèn dầu xông vào, luồng sáng đột ngột khiến Tĩnh Uyển không thể mở mắt, chỉ nghe thấy có người hỏi: “Là ai?bỏ súng xuống!”. Tiếp theo nghe thấy những âm thanh lạch cạch, là tiếng kéo cò súng, cô biết phản ứng vô hiệu nên chầm chậm bỏ súng xuống, ý nghĩ trong đầu lướt qua như điện xẹt: xong rồi!Cô sợ đến cực điểm, chỉ nghỉ nếu bị loạn binh làm nhục không bằng chết luôn ở đây. Đang trong lúc rất muốn chết, bỗng nghe thấy giọng của Nghiêm Thế Xương vang lên vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ mắng: “Chúc lão tam, cái thằng ranh con này! Hóa ra là mấy người! Làm ông mày sợ chết đi được!”.



Mô Dung Phong đang mơ màng ngủ, loáng thoáng hình như nghe thấy tiếng của Thẩm Gia Bình, nói rất nhỏ: “Cậu Sáu mới ngủ cả đêm không ngủ rồi, sáng mai lại phải đi xem bố phòng, đến bâu giờ mới tranh thủ đi chợp mắt”. Một giọng nói khác hình như của thư kí Uông Tử Kinh, có vẻ hơi chần chừ: “Vậy lát nũa tôi lại đến”. Trong chốc lát anh hoàn toàn tỉnh táo, ngoài trời âm u, tuy buổi chiều mà vẫn như vừa mới sáng, sắc trời một màu xanh xám, âm thanh như tiếng sấm rền từ bên ngoài văng vẳng truyền tới, âm thanh đó anh quá đỗi quen thuộc, biết không phải là tiếng sấm,mà là tiếng lửa đạn ở trận tuyến. Anh với lấy đồng hồ bên cạnh gối xem, mới ba giờ chiều hóa ra anh ngủ chưa được một tiếng, sự mệt mỏi không hề mất đi, ngược lại trong lòng trỗi dậy sự lo âu thấp thỏm.



Anh hỏi: “Ai bên ngoài thế?”.



Quả nhiên là Uông Tử Kinh nghe thấy tiếng anh hỏi vội vàng đi vào, anh đã xuống giường cầm chiếc khăn lạnh giá lau lau mặt, hỏi: “Có chuyện gì”. Uông Tử Kkinh cười nói: “Tin tốt lành, sư đoàn 9 và quân đoàn số 7, quân đoàn số 11 của Hộ Quốc quân đã hoàn thành bao vây, đội kỵ binh của chúng ta đã đến núi Nguyệt Hoàn, quân tiên phong của Hộ Quốc quân cũng đã đến cảng Khinh Xa, hai sư đoàn của Cao Bách Thuận của Dĩnh quân vẫn còn đang bị lừa”.



Mộ Dung Phong bỏ khăn mặt ra hỏi: “Tuyến đông thì sao?”



“Pháo binh của sư đoàn số 4 vẫn đang bị kìm chân”. Uông Tử Kinh nói rất ung dung, “Gần như sắp cho nổ tung Lịch Thàng thành một đám bùn đất, sư đoàn trưởng Tiền vừa gửi mật điện đến, báo đã đến vị trí được chỉ định, đợi rùa thò ra khỏi hang, để xả cơn giận mấy ngày vừa rồi”.



Mộ Dung Phong hừ một tiếng,nói: “Quân ta mất Dư Gia Khẩu không quá mười ngày, đám báo chí nước ngoài liền khua chân múa tay nói năng lung tung. Chúng còn dám trích dẫn binh pháp Tôn Tử, lần này ra diễn cho chúng xem vở kịch này, để chúng biết thế nào là binh pháp Tôn Tử”.



Mô Dung Phong đã dậy rồi nên giải quyết chút công việc quân, hành dinh tạm thời của anh đặt tại nơi đóng quân  của Nam đại bản doanh, họp liền mấy tiếng mới xong. Tâm trạng Mộ Dung Phong rất tốt, cười nói với đám phụ tá: “Mấy ngày nay mọi người đều mệt, hôm nay tôi mời mọi người ăn cơm”. Ăn cơm trong quân đội cũng có nguyên tắc, mỗi người mỗi ngày một phần bao nhiêu, cho nên anh vừa nói mời khách, mấy viên thư kí rất mừng, vây quanh anh đi ra khỏi phòng. Trời đang tối dần vầng thái dương màu vàng xuộm đang dần lặn về phía tây, xa xa đã thấy một chiếc xe từ bản doanh chạy vào, cảnh vệ gác cổng đang dựng súng hành lễ.



Mộ Dung Phong tưởng là thống chế Giang Châu Hạ Phố Nghĩa đến, đến lúc nhận ra chiếc xe Lincoln màu đen vô cùng quen thuộc là xe của mình, trong lòng thấy lạ quay mặt lại hỏi cảnh vệ: “Ai đưa xe của tôi ra ngoài thế? Thẩm Gia Bình đâu?”. Cảnh vệ đó đáp: “Đội trưởng Thẩm nói có việc ra ngoài”. Mộ Dung Phong chuẩn bị giận dữ, chiếc xe đó dừng lại, một người bước xuống xe, đó là Thẩm Gia Bình, từ xa đã cười nói: “Cậu Sáu Doãn tiểu thư đến rồi”.



Mộ Dung Phong dường như nghe chưa rõ: “Cái gì”. Thẩm Gia Bình cười tươi roi rói, nói: “Doãn tiểu thư đến rồi”. Mộ Dung Phong chợt đứng đờ ra, chỉ thấy một cô gái trẻ xuống xe, tuy chỉ mặc quần áo vải bình thường, nhưng hình thức thướt tha đó quá đỗi quen thuộc, chính là Tĩnh Uyển. Một cô gái trẻ tuổi yếu đuối, chịu bao hoảng sợ và khổ cực, nhưng chỉ nhìn anh từ xa trong lòng đã không ngăn nổi vui mừng, giống như sắt gặp nam châm, sản sinh một lực hút không màng tất cả, khiến cô lao vế phía anh.



Mộ Dung Phong bước mấy bước xuống bậc thang, từ xa đã dang tay ra, cơ thể ấm mềm của cô lao vào lòng anh, cô ngẩng mặt lên nhìn anh, mắt ngấn lệ long lanh, nụ cười nở trên gương mặt, khóe miệng hơi run run, câu nói đó không sao nói ra nổi.



Anh ôm chặt lấy cô cảm giác như trong giấc mơ không chân thật, dường như chỉ có dùng tay ôm cô thật chặt như thế mới có thể tin rằng đây là sự thật. Anh đột nhiên kêu lớn một tiếng, ôm cô lên quay mấy vòng, đó là cảm giác vui mừng khôn xiết, không thể kìm chế được nữa, trái tim vui sướng như sắp nổ tung. Cô chỉ thấy trời đất quay cuồng, trời và đất quay vòng xung quanh, bên tai có tiếng ù ù, chỉ nghe thấy tiếng cười sang sảng của anh: “Tĩnh Uyển, anh vui quá, anh vui quá!”.



Anh trẻ tuổi dẫn đầu ba quân, bình thường trước mặt mọi người đều rất già dặn, lúc này vui mừng như điên, chợt bộc lộ hành động trẻ con, khiến cả đám thư kí và tham mưu có mặt đều sững sờ.



Nụ cười của Tĩnh Uyển từ trong tim tràn ra, lan đến khóe mắt đầu mày, anh cứ ôm chặt cô quay mấy vòng rồi mới đặt cô xuống. Giờ cô mới để ý đến những người đứng bên cạnh phía doanh trại, họ cùng cười mỉm nhìn cô và Mộ Dung Phong, cô nghĩ đến cảnh tượng đó đều bị người ta thấy hết thật xấu hổ,không kìm được đỏ bừng mặt. Mộ Dung Phong vẫn nắm chặt tay cô, bỗng anh nhớ ra điều gì, sầm mặt gọi: “Nghiêm Thế Xương”.



Sau khi xuống xe Nghiêm Thế Xương thấy hơi lo lo, nghe anh gọi tên mình, liền đi lên trước một bước: “Có”. Mộ Dung Phong đã nghĩ đến Tĩnh Uyển đã vất vã và gặp nguy hiểm trên đường, vừa đau lòng vừa lo lắng, định bụng hỏi tội Nghiêm Thế Xương: “Bỏ đi, cậu cũng vất vả rồi, đi nghỉ trước đi”.



Anh vẫn ăn cơm cùng mấy viên thư kí, cơm thịt cũng khá thịnh soạn, có điều trong quân đội không được uống rượu, hơn nữa đám thư kí này, có ai không là người từng trải? Họ vừa ăn vừa đưa mắt ra hiệu, ăn qua loa rồi thi nhau bỏ đũa xuống nói: “Cậu Sáu ăn ngon miệng”.



Mộ Dung Phong nói: “Sao mấy cậu ăn nhanh thế, tôi còn chưa ăn no”. Hà Tự An cười nói: “Cậu Sáu, xin lỗi, báo cáo quân sự của tiền tuyến vẫn chưa đọc, tôi phải đi trước rồi. Một tay thư kí riêng vỗ đầu nói: “Ôi chao, tối nay đến phiên tôi trực ban, phải đến phòng điện báo”. Còn một người nữa nói: “Lý thống chế đợi tôi trả lời điện báo”. Cứ như thế, mấy người đó kiếm cớ từ bỏ về hết.



Trong lòng Mộ Dung quả thật nhớ nhung Tĩnh Uyển, thấy thư kí đi hết cũng cảm thấy buồn cười. Mỗi tối đi ngủ anh đều đến phòng trực ban xem báo cáo chiến sự tiền tuyến một lát, lúc tình hình căng thẳng thường cả đêm không ngủ, nhưng hôm nay vì các thư kí ôm đồm hết việc, sắp xếp mọi thứ xong cả rồi, nên liền đi thăm Tĩnh Uyển.



Tĩnh Uyển vừa mới tắm rửa xong, cả chặn đường gió cát bụi bặm, không tiện tắm giặt, cô xưa nay thích sạch sẽ, đương nhiên thấy rất khó chịu. Đến đây cuối cùng cũng được tắm nước nóng, chẳng khác nào được lột xác, thế nên mặt mày phấn chấn. Đến quần áo để thay cô cũng không có, Thẩm Gia Bình đành tạm thời sai người đến thành Vĩnh Tân mua mấy bộ, có một chiếc sườn xám hải đường rất lớn mặc vào rộng thùng thình, tà áo dài chạm vào mu bàn chân, mặc lên người lại có dáng vẻ thướt tha kì lạ. Tóc cô vốn rất dài, lúc này gọi đầu xong xõa lên vai, giống như đám mây đen, cô dùng khăn lau khô, trên ngọn tóc còn vô số giọt nhỏ long lanh, dưới ánh đèn óng ánh như thủy tinh.



Vì vừa tắm xong nên má Tĩnh Uyển ửng hồng, thấy anh dò xét tỉ mỉ, cô ngượng ngùng giải thích, nói: “Không có máy sấy nên đành để tóc xõa như thế này”. Lúc cô nói hơi quay mặt đi, có mấy giọt nước rớt vào mu bàn tay anh, rồi khô đi rất nhanh, da trên tay co lại, căng lên từng phân. Anh trở nên không tự nhiên, quay mặt đi xem xét đồ đạt trong phòng. Tuy là bố trí chóng vánh nhưng ở gian ngoài có đặt một chiếc sofa nhung, khôngcó bàn trà. Đi vào bên trong một bên đặt một chiếc giường sơn trắng kiểu Tây, chăn gối trên giường đều là đồ mới, ngoài ra còn có một bàn trang điểm kiểu Tây có gương lớn. Trên bàn có đặt một bình hoa sứ nhỏ, bên trong cắm hoa cúc.



Trong hành dinh tất cả đều đơn sơ giản dị, bó lam càng cua màu trắng đó tuy không phải là loại quý hiếm, nhưng thanh khiết tươi đẹp, vô cùng bắt mắt. Ngày ngày những thứ anh nhìn thấy đều là bom đạn, căn phòng ngăn nắp thế này đem lại cảm giác thoải mái yên ổn đặc biệt của khuê phòng, bất giác khiến người ta nhẹ nhõm.



Anh nói : “Bây giờ hoa cúc đã nở rồi”. Anh dừng lại một lát rồi nói: “Lát nữa họ cũng đặt một bình như thế trong phòng anh”.Tĩnh Uyển tiện tay rút một cành hoa cúc ra, nói: “hoa này tuy đẹp nhưng đáng tiếc lại nở vào mùa thu”. Cô chỉ tùy tiện nói một câu như vậy, Mộ Dung Phong bỗng có chút không lành, nhưng lòng anh đang vui mừng nên hỏi sang chuyện khác: “Em đi đường thế nào, chắc nguy hiểm lắm hả?”.

Tĩnh Uyển sợ anh lo lắng nên nói: “Cũng ổn, suốt chặng đường đều rất thuận lợi, chỉ là lúc ở Hà Gia Bảo hơi sợ hãi một chút”. Mộ Dung Phong quả nhiên kinh ngạc vội hỏi: “Có bị thương chỗ nào không?”. Tĩnh Uyển lắc đầu ánh mắt đung đưa mĩm cười nói: “Nghiêm đại ca cũng không ngờ Cậu Sáu dùng binh như thần, kỵ binh của sư đoàn số 4 đội mưa hành quân đánh úp Dĩnh quân, suýt nữa coi ba người tụi em là gián điệp Dĩnh quân bắt đi xử bắn”.



Cô nói dí dỏm, lộ ra vẻ mặt trẻ con. Mộ Dung Phong cười nhìn cô, cảm thấy cả cơ thể cô như đang phát sáng, tỏ ra một ánh sáng đẹp đẽ, ngược lại hoàn toàn với dáng vẻ u ám của cô trước đây. Hai người tuy mới gặp nhau mười ngày trước, nhưng lần trùng phùng này họ cứ ngỡ như trong mơ. Giờ mới biết người xưa nói: “Nửa đêm soi mình vào gương, cứ ngỡ tương phùng trong giấc mộng” là như thế nào.



Hai người cứ ngồi như thế,không muốn nói gì, tuy không trò chuyện với nhau nhưng trong lòng có một niềm vui lắng dịu, dường như họ muốn nhìn nhau như thế,cho đến tận mãi mãi. Cuối cùng đêm đã khuya, anh đành đứng dậy nói: “Anh về trước mai gặp lại em”.



Tĩnh Uyển tiễn anh ra ngoài, tà áo sườn xám dài lướt trên chân, cô quên mặc đồ tây, chiếc sườn xám không vừa người như vậy, trên tà thêu mấy bông hải đường, hình thù quá đỗi bình thường nhưng lại toát lên vẻ đẹp cổ điển. Màu sắc tà áo tươi tắn, chính cô cũng cảm thấy màu đỏ rực rỡ đó ánh cả lên đôi gò má ửng hồng. Đôi dép hoa gấm dưới chân màu hồng cánh sen xen lẫn đường chỉ kim tuyến màu vàng nhạt, từng bước nở hoa. Đi đường xa như vậy cuối cùng được gặp anh, ngay cả đôi dép mới dưới chân cũng có cảm giác vững chãi chân thật, tuy tương lai vẫn không đoán trước được, nhưng cuối cùng gặp được anh, cô vẫn có cảm giác mừng rỡ không thể nói thành lời.



Anh dừng lại ở cửa, nói: “Anh đi đây”. Gần nhau như thế cơ thể anh có mùi xà bông thơm thơm, mùi thuốc lá khô hanh, kèm theo mùi thanh mát của bạc hà, mùi nồng nặc của khói súng, trong mắt anh chỉ có hình bóng cô, giống như mê hoặc giọng cô nho nhỏ: “Ngủ ngon”. Anh cũng đáp lại một tiếng: “Ngủ ngon”, cô thấy anh mở cửa liền lùi về hai bước, mắt nhìn tiễn anh ra ngoài.



Tay anh tựa vào cửa bỗng nhiên đẩy mạnh, chỉ nghe “cạch” một tiếng cửa đóng lại. Tĩnh Uyển chưa kịp phản ứng, nụ hôn của anh đã phủ xuống như trời đất ập xuống, vừa gấp vừa dày, cô không thở được, đành dùng tay nắm lấy cổ áo anh. Cô bất lực vùng vẫy giống như người sắp chết: “Không, không được…”. Nhưng anh không màng tất cả, anh không màng gì nửa, chỉ có cô là chân thật, là thứ anh khao khát từ lâu. Anh suýt nữa mất cô, nhưng đã đoạt lại như kì tích. Hơi thở anh gấp gáp phả vào tai cô, có cảm giác ngưa ngứa kì lạ, cơ thể cô ép chặt vào lòng anh, xung quanh đều là hơi thở của anh, tất cả đều bị anh đoạt mất.



Mùi hương hoa cúc nhè nhẹ, cả căn phòng ngào ngạt hương thơm thanh mát, anh nghĩ đến rượu hoa cúc, trong rượu mạnh như thế, hoa cúc Hoàng Sơn khô, thấm nước nở ra từng bông, xinh đẹp rực rỡ giống như cô lúc này, đang nở ra trong lòng anh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 18-5-2013 08:49:01 | Chỉ xem của tác giả
  Chương 20



Báo cáo chiến sự cuối cùng của tiền tuyến đến vào buổi chiều. Sau khi Thừa quân giả vờ thất bại, Dĩnh quân quả nhiên trúng kế. Lúc này trải qua chiến đấu kịch liệt ngày đêm, Thừa quân đoạt lại Hà Gia Khẩu, công kích Tử Bình, Phụng Minh, còn tuyến Tây vừa tấn công Chương Đức, đoạt lại quyền khống chế đường sắt Thừa – Dĩnh. Dĩnh quân đã mất cửa ải Phụng Minh, đang lùi về sâu hơn mười cây số, lùi về trấn thủ tại Tấn Hoa, mà phòng tuyến phía sau Tấn Hoa là Phụ Thuận – thị trấn quân sự trọng yếu, Phụ Thuận là cửa ngõ của Càn Bình, cho nên trận đánh này đã làm lung lay gốc rễ của Dĩnh quân. Lập tức trong và ngoài nước chấn động, ngay cả chiến hạm nước ngoài cũng từ cảng Bắc Loan đi xuống phía Nam, tuần tiểu quan sát chiến cục từ xa.

Mô Dung Phong cầm báo cáo đại thắng, nhưng không hề mừng rỡ khôn xiết, vì lần này bố trí chu đáo trong thời gian dài, hơn nữa xiết hai gọng kiềm Đông Tây, cùng Hộ Quốc quân bao vây tiêu diệt, đương nhiên không thể thất bại. Các thư kí bận rộn sắp xếp các công việc như: tiếp nhận đầu hàng, bố trí tù binh, tước vũ khí, đoạt quân nhu…Tuy vẫn rất bận, nhưng trong sự bận rộn đó có sự ung dung đã được định liệu trước.

Mộ Dung Phong họp xong là quay về phòng làm việc của mình, vì báo cáo chiến sự phía Tây liên tục được chuyển đến, cho nên anh đến đó đọc trước. Hà Tự An tuy là thư kí riêng của anh, nhưng tham dự quân chính, cũng là một trợ tá quan trọng. Lúc này anh ta nghe thấy một việc quan trọng, nên đến gặp anh ngay, Hà Tự An có rất nhiều điều muốn nói, thấy Mộ Dung Phong cúi đầu chăm chú nhìn tờ bản đồ quân sự trải trên bàn liền gọi: “Cậu Sáu”.

Mộ Dung Phong “ừ” một tiếng, không ngẩn đầu lên, Hà Tự An biết tính khí của anh ta, không dám nói thẳng từ xa đã nói lòng vòng: “Nếu chiến sự thuận lợi, muộn nhất là tháng sau quân ta sẽ chiếm Dĩnh Châu, lúc đó mười sáu tỉnh Giang Bắc đều lọt vào tay Cậu Sáu”. Mộ Dung Phong ngẩn đầu lên nhìn anh ta một cái, nói: “Muốn nói gì thì nói đi”.

Hà Tự An nói: “Chẳng lẽ cậu Sáu định chia đôi giang sơn với chính phủ Xương Nghiệp, yên ổn với một nửa giang sơn?”

Mộ Dung Phong đáp: “Vĩnh Giang là nơi hiểm yếu khó vượt qua, hơn nữa đánh trận này nguyên khí của chúng ta phải cần một thời gian dài mới hồi phục được. Chính phủ Xương Nghiệp biết rõ điểm này mới mặc cả với tôi”. Anh dừng lại một lúc, nói tiếp: “Ngày đó ở Càn Bình lúc Trình Tín Chi thay mặt Trình gia đàm phán với tôi, tôi đã đồng ý với anh ta, sẽ tuân thủ lập hiến, công nhận chính phủ Xương Nghiệp, tiếp nhận quân hàm của chính phủ Xương Nghiệp. Biện pháp bề mặt đó, hát kịch vẫn phải hát cho đủ”.

  Hà Tự An do dự nói: “Nếu Trình gia chịu ủng hộ Cậu Sáu, vậy nội các Xương Nghiệp có cũng như không”. Mộ Dung Phong cười nói: “Họ Trình ở Ủng Nam là gia tộc hào thương cự phú, Trình Doãn Chi lại quá láu cá, giỏi nhất là tính toán được mất, sao chịu bỏ Xương Nghiệp ủng hộ tôi?”.

Hà Tự An trong lòng có kế hoạch, nhưng xưa nay biết Mộ Dung Phong trẻ tuổi háo thắng, lại thích thể diện, luôn thích mềm mỏng không thích cứng rắn, cho nên lại chuyển đề tài hai người nói chuyện thời cuộc một lát, lại lan qua chuyện cung cấp vật tư thời nghị chiến. Hà Tự An đang dần dần nghĩ cách dẫn đến đề tài ấy, bỗng Thẩm Gia Bình gõ cửa đi vào, thì thầm với Mộ Dung Phong gì đó. Mộ Dung Phong liền hỏi: “Chuyện gì vậy?”. Thẩm Gia Bình lộ vẻ khó xử, Mộ Dung Phong biết rõ anh ta cũng  chẳng có cách nào, đứng dậy lấy một quyển công văn trong tủ cầm trên tay nói: “Vậy tôi đi xem xem”.

  Hà Tự An thấy thời cơ không ổn ,vội nói: “Cậu Sáu tôi vẫn còn lời muốn nói. Mộ Dung Phong đã vội vã ra đến cửa, quay đầu lại nhìn nói: “Đợi tôi quay lại rồi nói”. Hà Tự An đuổi theo mấy bước nói: “Cậu Sáu xin dừng chân, Tự An có mấy câu quan trọng muốn nói với cậu Sáu”. Mộ Dung Phong khua khua tay biểu thị anh về rồi hãy nói, người đã được cảnh vệ vây lấy đi rất xa. Hà Tự An đàng đứng tại đó, kéo Thẩm Gia Bình hỏi: “Có phải là Doãn tiểu thư có chuyện không?”. ThẩmGia Bình cười nói: “Cũng không hẳn”. Hà Tự An trong lòng có biết bao điều muốn nói, giờ thấy vậy đành thầm tính chuyện của mình.

  Mộ Dung Phong đi vào phòng, thấy một chiếc hộp sơn đỏ đặt trên bàn trà, mấy món ăn bên trong còn nguyên chưa ai động đũa, cửa gian trong vẫn đóng kín. Anh đẩy cửa ra đi vào, chỉ thấy Tĩnh Uyển như lúc sáng, ôm đầu trong chăn, ngủ không nhúc nhích, tư thế hầu như kgông thay đổi. Anh rón rén lại gần, đến tận chiếc giường, đưa tay ra sờ trán cô, cô lại quay mặt đi trốn, anh cười nói: “Anh tưởng em ngủ đấy”. Cô coi như không nghe thấy, vẫn nằm ở đó, anh liền ngồi xuống một bên giường, đẩy cô nhè nhẹ: “Được rồi coi như anh sai, em cũng tức giận cả ngày rồi, chuyện khác không nói, nhưng cơm vẫn ăn chứ”.

Sống lưng cô cũng căng lên, cô vẫn không thèm để ý, anh yên lặng một lúc, nói: “Rốt cuộc là em không tin anh, vậy thần linh chứng giám, nếu anh phụ em thì tan xương nát thịt, chết chẳng yên lành”. Cô định không thèm để ý đến anh, nhưng quả thật không kìm được, lật mình ngồi dậy: “Người dẫn quân đánh giặc, sao không biết kiêng kỵ gì hết?”. Tuy khẩu khí vẫn còn lạnh nhạt, nhưng vẫn khiến Mộ Dung Phong cười: “Nếu em thật sự không để ý đến anh cả đời, anh thà chết đi còn hơn”.

Tĩnh Uyển tức giận nói: “Anh còn nói, anh còn nói”.

Anh lại tươi cười hớn hở: “Hóa ra em vẫn sợ anh chết”.

Tĩnh Uyển bị anh kích thích như thế, tức sôi máu, vênh mặt lên: “Ai sợ anh chết, cho dù anh chết vạn lần cũng không liên quan đến em”. Anh cười nói: “Anh không nỡ chết ấy, anh chết rồi em phải làm sao?”. Tĩnh Uyển hứ một tiếng nói: “Mặt dày, vô liêm sỉ”. Anh vẫn cười: “Đối với em anh thà vô liêm sỉ một chút”.

Anh thành thật thừa nhận như thế, thật khiến Tỉnh Uyển bất ngờ, sững sờ một lát, lúc sau mới nói: “Hừ không sợ người khác nghe thấy”. Anh ôm lấy eo cô, mỉm cười nói: “Ngoài em ra ai dám nghe chứ?”. Tĩnh Uyển cố kéo mặt ra, Mộ Dung Phong, nói: “Không chịu được thì cười đi. Sao cứ phải nhịn khổ sở như thế?”. Tĩnh Uyển liếc xéo anh một cái, nói: “Ai nói em muốn cười?”. Tuy nói như thế, nụ cười cũng dần ánh lên từ đáy đôi mắt, cô đẩy anh: “Tránh ra, nhìn anh là thấy ghét rồi”.

Mộ Dung Phong cười: “Anh bận như thế còn dành thời gian đến thăm em, em lại nói anh đáng ghét, anh sẽ để ghét cả đời đấy”. Tĩnh Uyển mắng: “Anh đừng xoen xoét cái miệng, em bực thật rồi đó”. Anh cười nói: “Anh nói nghiêm túc mà”. Anh đưa tập văn kiện cho cô xem, hóa ra là giấy chứng nhận kết hôn sao thành hai bản. Phía trên tên người làm chứng, người chủ hôn đã có chữ kí, dùng con dấu riêng họ đều là tướng lĩnh cao tiền bối đức cao vọng trọng trong thành Vĩnh Tân, phía dưới tên người đàn ông, anh cũng đã kí tên đóng dấu, chỉ có phần tên của người phụ nữ là để trống.

Đầu ngón tay cô lạnh băng, lòng bàn tay anh ấm nóng, nắm chặt lấy tay cô, anh đọc từng câu một cho cô nghe: “Mộ Dung Phong, Doãn Tĩnh Uyển đính ước trọn đời, kết thành vợ chồng, nguyện sống hòa thuật hạnh phúc”. Anh đọc rất chậm, từng chữ từng chữ, giọng nói đó mang theo sự mừng rỡ, mỗi chữ cô đều nghe rõ như thế, nhưng dường như cũng chưa nghe rõ, sức lực toàn thân bị rút đi, cứ yếu ớt dựa vào anh. Còn anhdùng cánh tay ôm chặt lấy cô, dường như sợ hễ buông tay ra là cô biến mất.

Ngày tháng năm sinh của anh, tên họ anh, ngày tháng năm sinh của cô, quê quán tên họ, tên người làm chứng, tên người giới thiệu tên người chủ hôn…những nét chữ khải chi chít viết trên tờ giấy kết hôn màu hồng, cô xưa nay thấy màu hồng rất quê, nhưng hôm nay màu hồng ấm áp như ánh sáng, mơ hồ phát ra ánh nắng ấm áp, trong tim cô có một cảm giác không thể diễn tả được, thích thú đến cực điểm, lại xen lẫn một cảm giác bi thương, luôn cảm thấy thời khắc này dường như không chân thật. Cô nắm chặt lấy một góc giấy chứng nhận kết hôn đó, mỉm cười nói: “Em phải nghĩ cho kĩ, hễ kí vào là em mang họ Mộ Dung đấy”.

Cô ngẩng mặt lên nhìn anh, trong mắt anh chỉ có sự dịu dàng như nước, nhìn cô chăm chú vượt đường xa tới đây, hai người đều rất khổ sở, anh đợi cô lâu như vậy, cô cũng mù mờ tìm lâu như vậy, giờ mới biết hóa ra là anh,đời này hóa ra là anh.

Cô vùi mặt vào lòng anh, anh ôm chặt lấy cô, giống như giây phút trùng phùng, nhưng khoảnh khắc này càng ngọt ngào hơn, càng chắc chắn hơn. Lâu như vậy xa như vậy, từ lần đầu gặp mặt đến bây giờ, cách lâu như vậy ở giữa nhiều người như thế, nhiều chuyện như thế, rốt cuộc anh đã đợi được cô.

Giọng nói anh như trong mơ: “Tĩnh Uyển em còn nhớ không…”. Cô “ừ”một tiếng, anh không nói tiếp, cô không hề truy hỏi, thật ra mọi thứ đối với cô giờ như mơ, cho dù bây giờ rõ ràng là đang ôm nhau, nhưng vì đợi nhau quá lâu nên cảm giác ngọt ngào này như giấc mơ. Nhưng giấc mơ này ngọt ngào say đắm như thế, anh nào nỡ nghĩ ngợi nhiều. Trái tim bình yên thanh thản, vì biết rõ cô là của anh, biết rõ đời này kiếp này cô là của anh. Nụ cười cô ngọt ngào như thế, hai con mắt đen láy trong suốt, trong đó chỉ có bóng hình anh. Trên môi cô hơi thở ngọt ngào, anh hôn lên khóe môi cô: “Đợi đánh trận xong, anh sẽ cho em một hôn lễ lớn nhất, anh muốn cho cả thế giới biết hai ta hạnh phúc nhường nào”.

Hà Tự An vốn rất trầm tính, hôm nay không biết vì sao đứng ngồi không yên, khoanh tay đi đi lại lại trong phòng, đi lại mấy lượt lại nhìn đồng hồ trên tường. Căn phòng lớn làm việc này là nơi xử lý việc quân của Mộ Dung Phong, trên tường treo mấy bức bản đồ quân sự, trên bàn đặt một núi báo cáo quân sự, điện báo công văn đến và đi, ngoài ra còn mắc mấy chiếc điện thoại. Cách bài biện rối ren ấy khiến người ta nhìn vào cảm thấy ngột ngạt.

Hà Tự An ngồi một lát, đứng dậy bước vài bước, nghe tiếng tích tắc tích tắc của đồng hồ trên tường, trong lòng càng khó chịu. Nghĩ một lát cuối cùng anh đi ra ngoài, men theo hành lang đi thẳng về phía sau. Sắc trời đã tối, trong căn nhà ngang phía sau có một vườn hoa nho nhỏ, cây cối xanh tốt. Thẩm Gia Bình đang ngồi đó, vừa ngân nga khúc dân ca vừa bốc lạc ăn, thấy anh đi vào liền chào một tiếng. Hà Tự An nhìn vế phía sau, phía sau là một tầng sân nữa, cảnh vệ đứng gác cổng, có thể thấy thị vệ đi lại thấp thoáng tuần tra bên trong. Hà Tự An hỏi Thẩm Gia Bình: “Sớm như vậy Cậu Sáu đã đi ngủ rồi?”.

Thẩm Gia Bình nói: “Mới ăn tối xong, lát nữa đưa Doãn tiểu thư lên phố mua đồ. Xem ra năm nay sẽ tổ chức đám cưới thật rồi”. Hà Tự An nghe nói câu này, không khỏi cảm thấy tiếc nuối, thở dài một tiếng, dùng tay bóp vỏ lạc, ấn đến bẹp dí, cuối cùng vổ tay, phủi hét vụn nhỏ, nói: “Không ngờ Doãn tiểu thư này có thể tu thành chính quả”. Thẩm Gia Bình nói: “Tuổi của Cậu Sáu cũng nên kết hôn lâu rồi, mấy lão phu nhân cứ nói hoài, chỉ là cậu ấy không buồn nghe. Lần trước đi Càn Bình gặp người của Trình gia, nguy hiểm như thế lại nhất định phải đi gặp Doãn tiểu thư, không phải anh nói Cậu Sáu yêu thật lòng rồi sao?”.

Hà Tự An nói: “Yêu là yêu, kết hôn là kết hôn, đây là hai chuyện khác nhau”. Thẩm Gia Bình cười ha ha, nói: “Dựa theo pháp luật, coi như họ đã kết hôn rồi”. Hà Tự An nói một câu vô thưởng vô phạt: “Bây giờ là xã hội dân chủ, đương nhiên phải dựa theo pháp luật rồi”. Tâm trạng anh vốn rất tệ, nhưng bây giờ bỗng có chút tinh thần: “Doãn tiểu thư đến cũng tốt, việc ăn ở của Cậu Sáu vốn cần người lo liệu, phụ nữ vốn cẩn thận chu đáo, tốt hơn nhiều so với cảnh vệ. Ngày đó không phải đại soái luôn khen Tứ phu nhân là: “Tùy quân phu nhân”* sao? Hơn nữa bình thường Cậu Sáu luôn nhớ nhung cô ấy, cuối cùng đã được ở bên nhau, Cậu Sáu cũng bớt lo lắng nhiều”.

Vì tính khí Mộ Dung Phong không tốt, gần đây việc quân bận rộn, đương nhiên lại càng nóng nảy, cho nên các cảnh vệ hay bị ăn mắng, từ sau khi Tĩnh Uyển đến, Thẩm Gia Bình dường như trút được gánh nặng. Huống hồ Tĩnh Uyển là con gái, thân ở trong quân đội mà không hề ngạo mạn, thường mặc đồ nam đi theo Mộ Dung Phong. Hai tuyến Nam Bắc Thừa quân đồng thời chiến đấu vô cùng vất vả, còn cô cùng Mộ Dung Phong đi lại khắp các hành dinh, chạy hàng ngàn cây số, trong mưa bom lửa đạn không rời nửa bước, cho nên không ít tướng lĩnh bên cạnh Mộ Dung Phong đầu tiên lườm nguýt, sau đó hoài nghi, cuối cùng hễ nhắc đến “phu nhân” là không kìm được khen ngợi, bái phục không thôi. Ngay cả phóng viên nước ngoài cũng đăng ảnh chụp chung của cô và Mộ Dung Phong lên báo Tây, khen “Mộ Dung phu nhân cũng anh hùng”.

Cho nên hôm đó Tôn Kính Nghi cảnh vệ đi theo Thẩm Gia Bình : “Không biết vì chuyện gì mà phu nhân ngồi khóc ở đó”. Thẩm Gia Bình nói: “Vớ vẫn sao phu nhân lại khóc!”. Nói xong lại cảm thấy tuy cô kiên cường rốt cuộc vẫn chỉ là phụ nữ, câu nói của mình cũng quá võ đoán, liền hỏi: “Vì sao khóc?”.

Tôn Kính Nghi nói: “Hôm trước đánh Phụ Thuận, thu hoạch được rất nhiều thứ, đều chất cả trong kho. Mấy ngày nay phu nhân quá buồn chán, rồi đến kho tiện lấy hai quyển sách và mấy tờ báo cho phu nhân xem, không biết vì sao, vừa nãy tôi thấy phu nhân ngồi ở đó một mình, lặng lẽ khóc”.

Thẩm Gia Bình biết tính cách Tĩnh Uyển rất kiên cường, có lần ngã xuống từ lưng ngựa cũng không thấy cô đỏ mắt, nên nghe Tôn Kính Nghi nói vậy, trong lòng thấy hơi lo lắng. Anh nghĩ một lát nói: “Cậu Sáu còn đang họp, tôi đến xem phu nhân có gì dặn dò không”.

Đại quân tiến xuống phía Nam, lúc này hành dinh đặt tại thị trấn nhỏ Thanh Bình cách Phụ Thuận chỉ ba bốn cây số, vì nơi đóng quân không đủ, cho nên trưng dụng nhà quan chức về hưu của địa phương làm hành dinh. Thị trấn Thanh Bình tuy không lớn, nhưng từ xưa là trạm dịch trọng yếu, cho nên tuy là nhà dân, nhưng rất nhiều giếng trời, lớp lớp sân vườn, rộng rãi và hoa lệ. Trong chiếc sân phía trước căn nhà Tĩnh Uyển có thể đặt hàng trăm chậu hoa cúc, chen chúc như biển hoa. Thẩm Gia Bình từ xa đã nhìn thấy Tĩnh Uyển đứng trước cửa sổ, lặng lẽ nhìn biển hoa như gấm nhung. Bọn họ luôn kính trọng Tĩnh Uyển, vậy nên vừa vào phòng đã lập tức hành lễ: “Phu nhân”.

Bình thường Tĩnh Uyển rất ít khi dùng son phấn, những khi bôn ba hầu như cô đều mặt đồ nam, lúc này vì trong hành dinh nên cô mặc chiếc sườn xám nhung màu xanh thẳm hết sức bình thường, trên mặt phủ một lớp phấn mỏng, tuy thế vẫn có thể nhận ra khóe mắt hoe đỏ. Thẩm Gia Bình đang suy tính, Tĩnh Uyển thấy vẻ mặt anh liền gượng cười, nói: “Hôm nay tôi hơi mệt, anh đừng nói với Cậu Sáu”.

Thẩm Gia Bình nhìn dáng vẻ cô, dường như vô cùng đau lòng, nhưng anh chỉ là đội trưởng cảnh vệ, rất nhiều việc không tiện hỏi, đành đáp: “Nếu có chuyện gì, phu nhân có thể giao Gia Bình làm”. Tĩnh Uyển “ừ”một tiếng, một lúc sau mới hỏi anh: “Theo anh lúc nào mới có thể tấn công Càn Bình?”. Thẩm Gia Bình nghe cô hỏi vậy, vô cùng bất ngờ, vì tuy cô ở trong quân đội, nhưng chưa từng hỏi việc quân, bình thường đa phần bận mấy việc vặt như thăm hỏi quân lính hay cầm máu…anh chần chừ đáp: “Việc tiền tuyến rất khó nói, cũng không quá mấy ngày đâu”.

Tĩnh Uyển lại “ừ”một tiếng, Thẩm Gia Bình tinh mắt, thấy một tờ báo đặt trên chiếc bàn bằng gỗ lê,cầm lên xem, thấy đó là một tờ “Dĩnh Châu nhật báo”, mấy ngày trước mặt báo có cáo thị màu đen rất bắt mắt: “Tuyên bố đoạn tuyệt cha con Doãn Sở Phàn và Doãn Tĩnh Uyển”, anh đọc lướt thấy giọng điệu rất gay gắt, nói: “Đứa con gái hư đốn bỏ nhà bỏ nước là bất trung, hủy hôn ra đi là bất nghĩa, không nói với cha mẹ là bất hiếu”, lại viết “Kẻ bất hiếu, bất trung, bất nghĩa không thể là gia tộc Doãn thị, cho nên tuyên bố đoạn tuyệt quan hệ cha con”.

Tĩnh Uyển thấy anh đọc báo, cười thê lương nói: “Bái Lâm sắp về rồi, anh đem cái này đi, đừng để anh ấy nhìn thấy”. Từ lúc Thẩm Gia Bình quen biết cô, chưa từng thấy vẽ mặt cô như vậy, trong lòng buồn rầu, nói nhỏ: “Việc này vẫn nên nói với Cậu Sáu thì hơn, phu nhân chịu đựng tủi nhục như vậy, đến lúc đó Cậu Sáu có thể ra mặt giải thích rõ ràng”.

  Trong mắt Tĩnh Uyển ngân ngấn lệ, quay mặt đi nói nhỏ giống như thì thầm một mình: “Ngay cả cha mẹ tôi cũng không cần tôi nữa, còn gì đáng để giải thích chứ?”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 18-5-2013 16:24:16 | Chỉ xem của tác giả
Chương 21


Mộ Dung Phong đi xem bố phòng nên về hành dinh rất muộn. Căn phòng cũ kĩ ảm đạm.trong phòng khách bật đèn,dưới chiếc chụp đèn màu trắng đục, ánh sáng tỏa ra một quầng vàng tối mờ mờ,đồ dùng đều là gỗ lê kiểu cũ, hoa văn trạm trổ lồi lõm, dưới ánh đèn càng đượm không khí cổ xưa. Trong phòng im phăng phắc, bàn ăn bên ngoài đặt một nồi lẩu hoa cúc đã sắp cạn, kêu lục bục, ngọn lửa bên dưới cũng sắp tàn. Mộ Dung Phong thấy bốn đĩa thức ăn bên cạnh đều lạnh ngắt, liền đi vào bên trong, dưới ánh đèn màu, chiếc mành lụa trên cửa ánh lên ánh tím âm u, chiếc màn trân châu trên giường cũng lờ mờ phát ra ánh sáng tím hồng.

Tĩnh Uyển đợi quá lâu, đã mặc cả quần áo đi ngủ, Mộ Dung Phong khẽ khàng, giở chăn ra định đắp cho cô, cô tỉnh giấc, thấy anh mĩm cười nói: “Sao em lại ngủ quên chứ, anh ăn cơm chưa?” Mộ Dung Phong đáp: “Anh ăn rồi lần sau đừng đợi anh, cẩn thận đau dạ dày đó”. Cô vừa nói vừa ngồi dậy, vì tóc cô buông ra, xõa xuống hai bên mai, đang định đưa tay lên vuốt, anh đã vén giúp cô với sự yêu thương vô hạn: “Đồ ăn đều nguội rồi, em muốn ăn gì, anh bảo họ đi làm”.

Tĩnh Uyển nói: “Em muốn ăn bánh ga tô hạt dẻ ở Tường Vi Mộc.” Tường Vi Mộc là nhà hàng Tây ở Thừa Châu, thị trấn Thanh Bình cách Thừa Châu hơn hai trăm cây số, cô nói muốn ăn món đó chỉ là nói đùa với anh, Mộ Dung Phong hơi do dự, lấy chiếc áo khoác vải gabardine(*)  màu tím đỏ của cô trên giá xuống: “Nào,chúng ta đi mua bánh ga tô”. Tĩnh Uyển cười nói: “Đừng đùa nữa đã đến chín giờ tối rồi, không đi nghỉ ngay đi, ngày mai lại không dậy sớm được”. Mộ Dung Phong nói: “Sáng mai anh không có việc”. Anh khoác áo cho cô, Tĩnh Uyển bị anh kéo ra ngoài, nói: “Nửa đêm rồi anh định đi đâu đây?”.

Mộ Dung Phong “suỵt”một tiếng: “Đừng làm ồn chúng ta trốn ra ngoài”. Tuy nói là trốn, vừa ra khỏi cửa đã gặp cảnh vệ tuần tiểu, thấy hai người họ vội vàng hành lễ. Mộ Dung Phong  cũng không để ý đến họ, khoác tay Tĩnh Uyển đi ra ngoài, khi cảnh vệ đi báo cáo với Thẩm Gia Bình, họ đã ra ngoài nhà xe. Lái xe thấy họ cũng rất kinh ngạc, lại đều động một đống người cho xem”. Mộ Dung Phong không đáp, bỗng bế bỗng cô lên, còn chưa kịp phản ứng cô đã bị anh ôm vào trong xe. Cô vừa tức, vừa buồn cười, anh đóng cửa xe, đích thân ngồi vào vị trí lái xe, khởi động xe.

Xe lao ra ngoài, thị trấn Thanh Bình vẫn còn mấy cửa hàng chưa tắt đèn, ánh đèn vàng vọt chiếu trên con đường lát đát, vì thời tiết lạnh, ánh sáng ấy dường như cũng lạnh lẽo. Thứ ánh sáng màu vàng nhạt hai bên đường đó giống như món chanh đông lạnh cô thích ăn, lại giống như đá trong trà chanh, dần dần tan đi thấm trong màn đêm từng chút một. Chiếc xe xuyên qua ánh đèn, không lâu sau đã bỏ lại thị trấn sau lưng. Cô quay đầu lại chỉ thấy ánh đèn lác đác lác đác, càng ngày càng xa, ngạc nhiên hỏi: “Chúng ta đi đâu thế?”

Anh cười nói: “Chẳng phải nói đi mua bánh ga tô sao?”

Tĩnh Uyển ngỡ anh nói đùa, vì bình thường anh cũng thích tự mình lái xe đi dạo, liền mỉm cười: “Đi một vòng rồi về thôi.” Xe men theo con đường đi thẳng về phía Bắc, hai hàng đèn đơn độc bên đường, phía trước là bóng tối, một lúc sau lại rẽ sang đường lớn, xe cộ đi lại như thoi đưa hóa ra đều là xe vận chuyển quân nhu, vô cùng náo nhiệt. Vì buổi sáng đau lòng mệt mỏi, lúc này xe đang lắc lư, Tỉnh Uyển bất giác ngủ thiếp đi.

  Cô ngủ một giấc khi tỉnh dậy, xe vẫn tiến về phía trước bên ngoài cửa trời vẫn tối mù mịt, thỉnh thoảng có xe đi lướt qua,ánh đèn lóe lên trong chốc lát rồi vụt qua. Cô thầm kinh ngạc, gọi một tiếng: “Bái Lâm”. Anh lái xe nên không quay đầu lại, chỉ hỏi cô: “Tỉnh rồi à, có lạnh không?” “Không lạnh, đây là đâu?”. Anh dịu dàng nói: “Đã đi qua thành Lý An rồi, hai tiếng nửa là đến Thừa Châu”.

Tỉnh Uyển quá kinh ngạc, một lúc lâu không nói nổi, cuối cùng anh quay đầu lại liếc cô một cái: “Phu nhân anh nửa đêm lái xe như thế này đáng được thưởng chứ”.Tim cô ấm áp vô cùng, cô vươn người hôn mặt anh, anh chầm chậm dừng xe bên đường,t ắt máy xe nâng mặt cô lên dịu dàng hôn, rất lâu rất lâu sau mới buông ra, hơi thở cô hơi gấp, hai má nóng ran, tay vẫn nắm chặt lấy tà áo anh, trong bóng tối, mắt anh long lanh tỏa sáng.

Mặt cô vẫn áp vào ngực anh, tim anh đập thình thịch, thình thịch, dịu dàng như âm thanh hay nhất thế giới. Giọng nói của cô nho nhỏ, giống như nói mơ: “Bái Lâm, em chỉ có anh thôi.” Anh hôn tóc cô, hơi thở ấm áp của cô phả vào mặt cô. Anh nói: “Anh cũng chỉ có em”.

  Hai bên đường đều là đồng không hiu quạnh, xung quang tối đen như mực, bầu trời đầy sao như đinh mực rơi vãi lung tung, như muốn rắt lên hết đầu người vậy. Xa xa nghe thấy tiếng xe đi đến gần, ầm ầm vang lên, cuối cùng đèn xe lóe lên, vụt qua xe họ. Nghe tiếng xe đó đi xa dần xa dần , bầu trời đầy sao dường như cũng xa dần, chỉ có một ảo giác vĩnh hằng, cả thế giới chỉ còn lại chiếc xe này của họ, chỉ còn lại anh và cô.

Trời chưa sáng họ đã đến Thừa Châu, vì cổng thành chưa mở, họ dừng xe ở dưới bức tường thành tránh gió, Tĩnh Uyển thấy vẽ mặt anh mệt mỏi, nói: “Anh ngủ một giấc đi.” Cô đưa áo khoác cho anh, anh lái xe lâu như vậy, thật sự cũng rất mệt, gần như nghiêng đầu là ngủ. Tĩnh Uyển đắp áo khoác cho anh, còn mình lặng lẽ nằm bên cạnh. Phía đông dần dần lóe lên ánh sáng trắng mờ mờ, có người ở quê kéo xe chở hàng chuẩn bị vào thành bán, chiếc xe một bánh lọc cọc lọc cọc, chất đầy rau củ, vỏ bí đao vẫn còn phấn, những quả tròn tròn được rửa rất sạch sẽ, chất một đóng cao ngất, cô nhìn từ xa tưởng là táo, sau mới biết là củ cải đỏ. Một bé gái, vi khoảng bốn năm tuổi ngồi trên giá trước xe, vì thời tiết lạnh nên cô bé mặc một chiếc áo bông vải hoa, khuôn mặt lạnh đỏ ửng, đôi mắt long lanh nhìn cô. Cô mỉm cười với đứa bé đó, nó cũng mĩm cười với cô, quay lại chỉ cho cha mình “ô tô”.

  Mặt trời sắp mọc, ngoài thành lác đác người vào thành cho kịp buổi chợ sớm, người đẩy xe người kéo xe, người gánh quang gánh, chỉ cách cô một lần cửa kính xe, từ xa cũng có thể thấy niềm vui bình dị của họ. Mộ Dung Phong ngủ rất say, tuy ngủ trên xe không thoải mái, nhưng gương mặt anh khoan thai mà bình yên, cô muốn đưa tay ra vuốt ve đôi lông mày rậm của anh, giống như mỗi sáng gọi anh dậy, nhưng hôm nay không được, người bên ngoài có lẽ sẽ nhìn thấy, trong xe chỉ có hơi thở của anh, chậm rãi ổn định, âm thanh đó khiến người ta bình yên, cô gần như cũng sắp ngủ thiếp đi.

Cửa thành chậm chạp mà nặng nề phát ra âm thanh xịch xịch, xe một bánh lọc cọc lọc cọc đẩy qua xe họ, bé gái đó ở phía sau quay đầu lại cưới với cô. Mặt trời cũng đã mọc, nắng xuyên qua cửa kính chiếu vào mặt anh, nắng sớm mùa thu mong manh như có như không, qua cửa kính nhen lên chút ấm áp. Lúc anh ngủ trông hơi trẻ con, khóe miệng cong cong nhướn lên, giống như trẻ nhỏ mơ thấy kẹo. Cô hơi không nỡ, gọi nhỏ một tiếng: “Bái Lâm”.Thấy anh không phản ứng, lại gọi thêm lần nửa mới: “ừ” một tiếng mơ màng lẩm bẩm: “Bảo họ đợi chút”.

Tỉnh Uyển thấy hơi buồn cười, đưa tay ra đẩy anh: “Dậy dậy đây không phải ở nhà đâu”.Anh giờ mới nghiêng người ngồi dậy, uể oải xoay người, rồi quay người lại cười nói với cô: “Ai nói đây không phải là nhà, không phải chúng ta đi về nhà rồi sao?” Tuy nói thế, họ đến Tường Vi Mộc ăn sáng, lại gói hai phần đem về, vì thời gian gấp rút không kịp về soái phủ, chỉ bơm thêm xăng rồi lập tức quay về lại Thanh Bình.

Mộ Dung Phong cười nói với cô: “Thế này cũng coi chúng ta qua nhà mà không vào nhỉ?” Từ sau khi kết hôn với anh, cô chưa về nhà chồng hành lễ, trong lòng hơi rung động, không biết là vui hay buồn. Anh nói: “Đợi đánh trận xong chúng ta có thể về nhà được rồi”.Cô thẫn thờ nói: “Đi lại xa xôi thế này chỉ để ăn bánh ga tô hạt dẻ, ngốc thật”. Anh rút một tay ra nắm tay cô: “Ở bên em, anh thích làm những việc ngốc nghếch thế này”.

  Câu nói đó quen tai như vậy, cô cười ngẩn ngơ, không nhớ ra từng nghe ở đâu, cô rút tay ra: “Chuyên tâm lái xe đi, lái nhanh như thế mà chỉ dùng một tay”. Sáng sớm trên đường rất ít xe, chỉ có xe chở quân nhu ầm ầm đi qua. Đồng hoang xa xôi bên ngoài, mây mù bao phủ, bên ngoài cửa sổ thỉnh lướt qua thôn làng nhà cửa, cây táo trước nhà ai đó đã phớt đỏ lốm đốm. Rơm rạ chất đầy trên mặt đất, rạ cây cao lương chất thành ngọn núi nhỏ. Thỉnh thoảng có trẻ con trong thôn dắt trâu, đứng ngay ra giữa ruộng nhìn xe qua đường.

Cảnh sắc con đường này tuy rất bình thường nhưng vì hai người biết đó là phút an nhàn hiếm có, nên trong lòng vui vẻ như đã lén lút làm gì đó phạm pháp. Cô nói: “Hành dinh Thanh Bình chắc chắn đã loạn lên hết rồi”. Anh cười nói: “Kệ đi dù sao đã cố gắng quay về, cùng lắm là họ lải nhải vài câu”.



Chương 21.2


Kết quả là họ vừa ra khỏi thành Lý An không lâu, từ xa đã nhìn thấy phía trước bị chặn đường. Đại đội vệ binh vác súng đứng thẳng ,đang kiểm tra xe qua lại quần áo của cảnh vệ bằng vải nỉ màu xanh thẫm, nhìn là nhận ra đội cận vệ Mộ Dung Phong cười nói: “Bày trận lớn thế không biết có phải thu tiền mãi lộ không?”. Tĩnh Uyển lườm anh một cái: “Anh còn cười nữa chắc chắn là tìm chúng ta”. Mộ Dung

Phong cười ha ha, giảm tốc độ dừng xe lại.

  Quả nhiên là đích thân Thẩm Gia Bình dẫn người đợi ở đây, vì họ đuổi theo suốt dọc đường, biết hai người đi về hướng Thừa Châu, nhưng không ngờ lại đi xa như vậy, nên đành lập bốt đợi ở đây. Mộ Dung Phong thấy Chu Cử Luân tuy là thư kí, nhưng thật ra từ nhỏ Mộ Dung Phong đã theo ông học mưu lượt quân sự, tuy không chính thức truyền nghiệp nhưng cũng được coi là thầy. Từ trước đến nay ông là trợ tá đắc lực, lời nói rất có trọng lượng. Mộ Dung Phong cũng rất kính nể ông, cho nên mới gọi ông là thầy, thật ra trong lòng anh rất ngại, Thẩm Gia Bình đã mở cửa xe, Mộ Dung Phong đi xuống, cười với Chu Cử Luân, nói: “Chu tiên sinh cũng đến rồi”. Anh nghĩ nhất định Chu Cử Luân sẽ mắng một bài dài, hành động của anh quả thật nông nổi, đàng cố gắng chịu trận. Ai ngờ vẻ mặt Chu Cử Luân nghiêm túc, chỉ đi lên một bước, nói: “Cậu Sáu, xảy ra chuyện rồi”.

Tim Mộ Dung Phong chùng xuống, vì đại cục tiền tuyến đã định, gần như đã cầm chắc chín phần, không thể có sự thay đổi quá lớn, cho nên anh mới nhất thời đưa Tĩnh Uyển đi Thừa Châu. Không ngờ chỉ một đêm không về, Chu Cử Luân đã nói một câu như vậy, anh liền buột miệng hỏi: “Xảy ra chuyện gì? Dĩnh quân lấy lại được Phụ Thuận? hay là Hộ Quốc quân để mất cửa Đức Thắng?” Tuy hỏi thế nhưng anh biết chiến cục đã định, hai nơi đó đều không thể có chuyện, ngoài hai chuyện đó, chuyện khác đều không liên quan đến đại cục.

  Quả nhiên Chu Cử Luân lắc đầu, vẻ mặt hơi ưu phiền: “Không phải Dĩnh Quân. Mời Cậu Sáu lên xe tôi sẽ báo cáo với Cậu Sáu”.Tỉnh Uyển đã xuống xe, thấy Mộ Dung Phong hơi chau mày, lập tức vô cùng lo lắng. Anh quay đầu lại nhìn cô, nói: “Em ngồi sau xe, anh và Chu tiên sinh có việc”.

Cô gật đầu lái xe lái xe đến bên cạnh, cô nhìn Mộ Dung Phong và Chu Cử Luân lên xe, còn mình cũng lên chiếc xe sau. Xe của cảnh vệ tiền hô hậu ủng đưa họ về.

Họ về đến thị trấn Thanh Bình vào buổi trưa, trên đường vất vả, Tỉnh Uyển thấy rất mệt, tắm xong nói chờ hong khô tóc, ai ngờ ngồi trên so fa ngủ thiếp đi. Lúc tỉnh dậy trời đã tối, trong căn phòng tối om, cô lần mò bật đèn nhìn đồng hồ, hóa ra đã mười giờ tối. Cô đi ra ngoài hỏi Tôn Kính Ngư, mới biết từ lúc về Mộ Dung Phong vẫn chưa họp xong. Tôn Kính Ngư nói: “Phu nhân chưa ăn tối, tôi bảo nhà bếp làm chút đồ ăn nhẹ nhé”.

Cô vốn rất khỏe mạnh nhưng hai ngày nay cứ nghe nói đến cơm là thấy ngán, đành nói: “Bảo nhà bếp nấu chút mì đi”.Tôn Kính Nghi vâng lời ra đi, một lát sau bưng lên một bát mì nóng hỏi, một bát nuớc canh đen sánh, ngoài ra còn có bốn đĩa dưa muối. Cô ngồi xuống nhìn mới biết canh đen sánh đó là nước sốt, món mì nước sốt ở phía bắc gồm mì luộc sẵn, ngoài ra chuẩn bị nước sốt rưới lên. Trong nước sốt đó ngoài thịt gà xé phay, ruốc, lươn, giăm bông, còn cả hải sâm các loại, vị tanh của đồ biển xông thẳng vào mũi, cô chỉ thấy như tắc ở cổ, cực kì buồn nôn, vội vàng bỏ thìa xuống, đẩy bát nước sốt đó ra thật xa, đứng dậy đi ra mở cửa sổ cho gió đêm mát rượi thổi vào, cô mới cảm thấy dể chịu hơn một chút.

  Bị giày vò như thế, cuối cùng cô chỉ ăn một nửa bát mì với dưa muối, sửa soạn qua loa rồi lên phòng ngủ. Cô nhớ Mộ Dung Phong nên ngủ không ngon, mơ mơ tỉnh tỉnh đến tận sáng mới thật sự chìm vào giấc ngủ.

Chiều hôm sau Mộ Dung Phong mới về, vì đêm trước không ngủ đêm sau lại thức thâu đêm, trong mắt anh vần lên toàn tia máu. Dáng vẻ giống như mệt mỏi đến cực điểm, sau khi về cơm cũng không ăn, nằm lên giường ngủ luôn, nghe tiếng ngáy nho nhỏ của anh. Tĩnh Uyển thấy vô cùng đau lòng, cúi người xuống tháo giầy, lại đắp chăn cho anh, còn mình đứng trước cửa sổ là áo sơ mi cho anh.

Cô chưa là xong mấy cái áo, Tôn Kính Ngư đã gọi khe khẽ bên ngoài: “Phu nhân”. Cô vội đi ra, hóa ra là Hà Tự An đến, bình thường anh luôn rất kính cẩn với cô, hành lễ rồi mới nói: “Phiền phu nhân gọi Cậu Sáu dậy”. Đương nhiên là việc quân cấp thiết, cô hơi chần chừ, Hà Tự An đã giải thích: “Trong cuộc tổng tuyển cử của nước bạn chúng ta xảy ra chuyện, bây giờ thái độ của bên cầm quyền không tốt cho chúng ta. E rằng về sau chiến cục phía bắc sẽ rất khó khăn cho chúng ta. Nếu điều binh từ tuyến Nam về,vậy thật sự sẽ phí hết công sức, bây giờ điện báo của họ đã đến rồi…”.

Cô đang kinh ngạc, định hỏi tiếp,Mộ Dung Phong, trong phòng đã tỉnh, hỏi: “Ai ở bên ngoài thế?” Cô đáp: “Là Hà tiên sinh đến” Anh cứ thế mặc luôn đồ ngủ, đi giày xong liền bước ra, bình thường họ nói chuyện cô không làm phiền, cho nên quay vào bên trong. Không biết vì sao cô cứ miên mang nghĩ đến lời nói của Hà Tự An, đờ đẫn một lúc lâu, chợt ngửi thấy mùi khét, mới nhớ ra mình đang là quần áo. Chân tay lóng ngóng thu dọn, chiếc bàn là đó rất nóng, cô lại không quen làm việc này, vội vàng muốn nhấc lên, nhưng lại chạm vào tay, cô kêu thất thanh “á” một tiếng, chiếc bàn là rơi bịch xuống đất.Mộ Dung Phong ở bên ngoài nghe thấy tiếng la của cô lập tức xông ngay vào, thấy cô đứng đó không biết phải làm sao, anh cuống quýt, hỏi: “sao thế”.

Tuy cô đau nhưng cố chịu đựng,nói: “không sao chỉ bỏng một chút thôi”.Anh nâng tay cô lên xem, vết bỏng đã phồng rộp, có vẻ bỏng không nhẹ, anh quay đầu lại hét lên: “Tôn Kính Nghi mau lấy mỡ chồn đến đây” Thấy chiếc khăn mặt treo trên giá bên cạnh, anh vội vàng thấm ướt phủ lên giúp cô, đến khi Tôn Kính Nghi đem mỡ chồn đến bôi, tay cô dể chịu hơn nhiều.

Cô rất xấu hổ: “Em thật ngốc chút việc cỏn con cũng không làm được”. Anh nói: “Mấy việc này vốn không cần em làm, tự em cứ thích trổ tài”. Tuy ý trách móc, nhưng giọng điệu đầy thương xót. Trong lòng cô ngọt ngào, mỉm cười nói với anh: “Hà tiên sinh còn đợi anh ở bên ngoài đó, mau đi ra đi đừng để lỡ việc”.

Anh “ừ” một tiếng lại dặn dò cô: “Đừng thích trổ tài nữa”. Cô giậm chân: “Cả ngày chê em lắm chuyện, anh còn lắm chuyện hơn em”. Anh vốn vì tình hình nguy cấp, luôn khó chịu không vui, thấy cô giận dỗi vớ vẫn như thế, dáng vẻ yểu điệu dễ thương rung động lòng người, nên không nhịn được mỉm cười.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 18-5-2013 17:11:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 22


Vì đã vào đông chiến sự ngày càng cấp bách. Thừa quân tuy đánh đến thành Càn Bình, nhưng vì chính phủ nước ngoài ra mặt, nên không thể không tạm đình chiến, chỉ bao vây Càn Bình, cuộc điều đình do chính phủ nước ngoài bắt đầu đàm phán. Vì nước bạn chuyển qua ủng hộ chính phủ Xương Nghiệp, nên Mộ Dung Phong rất đau đầu, tình hình đàm phán cũng bị mắc ở đó. Tuy Càn Bình đã nắm trong tay, nhưng vì chịu sự kìm hãm trong ngoài, Thừa quân không thể động đậy được. Không chỉ chiến sự ở phía Nam mà chiến sự giữa tuyến Bắc và nước Nga cũng vì có một số nước uy hiếp nên phải liên quan, không thể không kiêng kỵ vài phần.

Cho nên không chỉ Mộ Dung Phong, ngay cả đám trợ lí cũng sốt ruột. Hôm đó sau khi cuộc họp kết thúc, các thư kí ai cũng bận rộn, chỉ có Hà Tự An và Chu Cử Luân chưa đi. Mộ Dung Phong vốn không thích ngồi lâu, lúc này nửa ngồi nửa nằm trên sofa, gác chân lên bàn trà hút thuốc, điếu hút chưa được một nửa đã vứt đi, lát sau châm một điếu khác, lúc sau lại dúi vào chiếc gạt tàn thủy tinh, trong đó đã chứa đầy tàn thuốc lá. Hà Tự An ho một tiếng nói: “Cậu Sáu, Tự An có mấy câu không biết nên nói hay không?”.

Mộ Dung Phong nói: “Tôi thấy mấy hôm nay cậu cứ ấp a ấp úng, rốt cuộc có chuyện gì?” Hà Tự An nói: “Bây giờ tình hình tuy không xấu lắm, nhưng cứ mắc kẹt thế này sẽ gây bất lợi cho chúng ta. Cho dù dành được Càn Bình, đại cục phải nghe theo sự sắp đặt của chính phủ Xương nghiệp quả thật rất vô vị.” Mộ Dung Phong “ừ” một tiếng ,nói: “Nội các Xương Nghiệp do Lý Trọng Niên nắm giữ, cái tên đó có thù với chúng ta đã lâu, bâygiờ chắc đang cười với nỗi đau của người khác”. Trong lòng anh phiền não, cứ dùng chân đá mấy cái chụp bằng sa tanh thêu hao trắng trên bàn trà, đôi giày quân đội bằng da trên chân, anh đã bị sa tanh chà sáng bóng, đám chụp bằng sa tanh đã bị nhuốm vết bẩn lớn, biến thành màu nâu đất. Chu Cử Luân là một người nghiện thuốc, chỉ ngồi bên hút thuốc không hề nói gì.

Hà Tự An nói: “Nội các tuy là của Lý Trọng Niên, nhưng không nắm tiền và lương thực, hắn ta cũng khó mà d0i được một bước. Nếu Trình gia Ủng Nam chịu ủng hộ cậu Sáu, không những nguy cơ trước mắt được giải quyết mà đại sự sau này còn xuôi chèo mát mái”. Mộ Dung Phong vốn đã buồn phiền, đá mạnh vào bàn trà phát ra tiếng lạch cạch: “Đừng vòng vo cậu có cách gì hả, thuyết phục Trình Doãn Chi ủng hộ tôi?”

Hà Tự An hơi nhuớn người về phía trước, trong mắt thấp thoáng tia nhìn kì lạ: “Cậu Sáu TRình gia có một tiểu thư khuê nữ, nghe nói tuy từ nhỏ lớn lên ở nước ngoài, nhưng nhân phẩm tướng mạo đều rất xuất sắc, hơn nữa rất có tài, Trình gia có bốn anh em, Trình Doãn Chi gọi tiểu thư này là Trình Gia nhất kiệt…” Hà Tự An còn chưa nói xong,đã thấy ánh mắt Mộ Dung Phong sắc nhọn, như băng như tuyết phóng tới, anh ta không hề chần chừ nói tiếp: “Cậu Sáu kết thông gia là cách nhanh gọn nhất lúc này, nếu kết thông gia với Trình gia, thiên hạ này không phải thuộc về Cậu Sáu sao?”

Khóe miệng Mộ Dung Phong hơi chùng xuống: “Nếu Mộ Dung Phong tui tiến thân nhờ phụ nữ, không phải khiến thiên hạ chê cười hay sao?”.

Giọng điệu anh đã cực kì gay gắt, Hà Tự An không hề do dự chút nào: “Đây là kế sách tạm thời, đại trượng phu thất thời mới là tuấn kiệt, Cậu sáu xưa nay không phải là người bảo thủ, hôm nay sao lại nói vậy?” Mộ Dung Phong im lặng một lúc, cười lạnh một tiếng: “Kế sách ạm thời, không phải là cậu giấu đầu hở đuôi sao?”

Hà Tự An nói: “Kẻ làm đại sự không câu nệ tiểu tiết”. Chỉ nghe “rầm” một tiếng, Mộ Dung Phong đá chiếc bàn trà đi xa mấy tấc: “Đây là tiểu tiết sao, hôn nhân là chuyện đại sự, muốn tôi lấy ra để giao dịch, không đời nào.”

Hà Tự An dù sao cũng trẻ tuổi, huống hồ xưa nay chuyện công tư của Mộ Dung Phong đều tham gia, tuy thấy anh tức giận, anh ta vẫn cứng đầu nói: “Cậu Sáu nói đây là giao dịch không sai, là giao dịch số một, cái đem giao dịch chính là thiên hạ. Tình hình hiện nay tuy chúng ta thắng chắc Dĩnh quân trận này, nhưng chiến tranh với Nga ở phía bắc đã bị siết chặt, chính phủ Xương Nghiệp của Lý Trọng Niên lại là chính phủ quốc tế được công nhận hợp pháp. Cho dù giải quyết được chiến sự phía bắc, Tống Thái Tổ từng nói: “Cạnh giường của ta sao có thể để người khác ngủ?” chẳng lẽ Cậu Sáu cam tâm chia nửa giang sơn cho chính phủ Xương Nghiệp? Nếu tiếp tục dùng binh đối phó Xương Nghiệp, một là không có thời cơ mượn cớ hợp lý, khó tránh khỏi miệng lưỡi bọn nước ngoài, có khi còn xảy ra biến cố. Hai là sau trận chiến này, nhiều năm qua quân ta không đủ thực lực, đối đầu với Xương Nghiệp, về sau sao biết được cục diện thế nào? Ba là chiến tranh không tốt lành, hiện nay trong và ngoài nước đều đang hô hào hòa bình, phản đối chiến tranh, Cậu Sáu xưa nay yêu quân như con, có thể nhẫn tâm nhìn hàng vạn binh lính, lại lao vào biển lửa, chết ở sa trường sao?” Hà Tự An nói một thôi một hồi, dừng một lát lại nói: “Trình Doãn Chi là người thông minh, nhất định có thể hiểu được nổi khổ của Cậu Sáu. Cậu Sáu và Trình gia đều có thứ mình muốn, làm sao Trình gia không chấp nhận chứ? Không mất một binh một tốt mà có thể bình định Giang Nam, không gây chiến tranh muôn dân thiên hạ còn gì may mắn bằng?”

Mộ Dung Phong yên lặng không nói, Hà Tự An thấy anh không nói gì, cảm thấy chắc thêm mấy phần, liền nói: “Trình tiểu thư xuất thân cao quí, nhất định thông tình đạt lý, còn ở chổ Doãn tiểu thư, sau này Cậu Sáu yêu thương cô ấy nhiều hơn một chút, Doãn tiểu thư nhất định sẽ hiểu được”.

Mộ Dung Phong cảm thấy huyệt Thái Dương giật giật ,càng lúc càng dữ dội, đau đầu như búa bổ, nói: “Tôi muốn nghỉ một lát”. Hà Tự An đứng dậy nói: “Vậy Tự An cáo từ trước”.

Trong phòng chỉ bật một chiếc đèn điện, chút ánh sáng xanh chiếu trong căn phòng rộng lớn, ghế sô fa màu tím, trải nệm gấm rất dày, chiếc nêm gấm đó cũng màu hồng thêu kim tuyến, dưới ánh đèn nhợt nhạt màu tím giống như máu đọng, ngay cả hoa văn kim tuyến rực rở như thế cũng giống như một lớp bụi. Mộ Dung Phong vốn phiền lòng, mở hộp thuốn bằng bạc “cạch” một tiếng sau đó đóng lại, một lúc sau lại “cạch” một tiếng rồi mở ra. Chu Cử Luân nãy giờ không nói gì, lúc này vẫn ung dung hút thuốc, Mộ Dung Phong cuối cùng không chịu được, vứt hộp thuốn lên bàn trà, khoanh tay đi lại mấy bước trong phòng. Chu Cử Luân giờ mới chậm rãi gõ chiếc tẩu thuốc hai lần, nói: “Thiên hạ đã nằm trong tay sao Cậu Sáu cứ do dự chứ?”.

Vẽ mặt Mộ Dung Phong phức tạp khó đoán, dừng chân đứng đó, rất lâu sau chỉ thở dài một tiếng.

Tỉnh Uyển xưa nay ham ngủ, hai ngày nay vì tinh thần mệt mỏi, cho nên chưa tới mười giờ đã lên giường nghỉ ngơi. Cô đang ngủ rất say,bỗng mơ hồ thấy đôi môi ấm nóng áp lên môi mình, hơi thở phả lên trên cổ hơi ngưa ngứa, liền co mình lại : “Đừng đùa.” Anh cứ hôn triền miên không chịu thôi, cô chỉ mơ màng mở mắt ra: “Sao tối nay về sớm thế?” Mộ Dung Phong “ừ” một tiếng dịu dàng nói: “Mai anh không có việc gì đưa em đi xem lá đỏ nhé? Nghe nói lá đỏ ở núi Nguyệt Hoàn đã đỏ hết rồi.” Tĩnh Uyển cười nói: “Không có việc gì tự nhiên ân cần thế?”Anh cười ha ha ôm cô qua một lằn chăn: “Vậy anh nhất định sẽ nghĩ việc gì đó”. Cô ngủ rất ấm hai má ửng hồng, tuy trừng mắt nhìn anh, nhưng ánh mắt lại lấp lánh như ánh nước, anh hôn cô say sưa, trong môi miệng chỉ có sự ngọt ngào của cô, hơi thở cô dần dần rối loạn, đưa tay ra nắm lấy tà áo anh. Cuối cùng anh bỏ cô ra,a nh đã thay quần áo ngủ, tóc cũng hơi rối. Anh rất ít khi bình tĩnh ôn hòa như thế, khiến cô có cảm giác yên bình kì lạ. Anh chống người chăm chú quan sát cô, giống như mấy ngày liền không gặp, lại giống như muốn nhìn kĩ cô có khác gì ngày thường hay không.

Chăn bông quá ấm, cô hơi nóng, trách móc nói: “Sao nhìn người ta thế, là muốn ăn thịt ấy, hiếm khi về sớm thế này ngủ sớm thì hơn”.Mộ Dung Phong cười: “Anh không quen ngủ sớm”. Tĩnh Uyển đẩy anh: “Dù sao cũng kệ anh, em phải ngủ rồi”.Mộ Dung Phong nói: “Vậy anh cũng ngủ”. Tĩnh Uyển cuốn chăn, nhưng không giữ được bị anh kéo ra, cô “hừ” một tiếng: “Anh đắp chăn của anh ấy…”. Những lời phía sau đều bị vùi trong nụ hôn nóng bỏng. Anh kẹp chặt lấy cô, dường như muốn ép cô vào bản thân mình, cô hơi khó thở, anh cắn lấy da thịt mềm mại của cô, tình cảm dường như bộc phát không thể khống chế, anh làm cô đau, cô khẽ rên một tiếng, anh lại coi như không biết, chỉ điên cuồng muốn nuốt gọn cô.

Đêm yên tĩnh đến cực điểm, có thể lờ mờ nghe tiếng bước chân cảnh vệ bên ngoài tường, xa  xa vẳng lên một tiếng chó sủa, tiếng tí tách nhỏ bên cạnh nghe như quen thuôc gần gũi, lúc tỉnh dậy anh thẫn thờ một lúc rồi mới nhận ra, hóa ra là chiếc đồng hồ đó của mình. Sau khi đưa nó cho cô, cô luôn đem nó bên người, cô đã quen đặt chiếc đồng hồ đó ở dưới gối, anh muốn lấy ra xem giờ, nhưng lại chạm phải kim loại lạnh lẽo, hóa ra là khẩu súng ngắn của mình. Anh đặt súng xuống dưới gối, đưa tay ra như thể vô tình chạm tóc cô, trơn muợt mà thật dày, có mùi hoa nhài nhàn nhạt, là mùi hương dầu gội đầu Paris.

Cô ngủ rất say như một đứa trẻ vô tri, hơi thở đều đều. Anh nhổm người lên nhìn cô, chăn bông hơi tuột ra, lộ ra bờ vai trắng nõn, mềm mại như ngọc. Anh chầm chậm hôn lên vai cô, cằm anh lún phún râu, chọc vào khiến cô hơi động đậy, cô sợ ngứa nên sợ nhất là anh dùng râu chọc cô. Từ rất xa truyền đến tiếng chim kêu lách chách,trời đã sắp sáng rồi.

Hôm nay anh không bận việc gì nên ngủ rất muộn mới dậy, ăn trưa với Tĩnh Uyển xong anh liền đến núi Nguyệt Hoàn ngắm lá đỏ. Buổi sáng trời vốn âm u, đến gần trưa màu trời vẫm ảm đạm như hoàng hôn.Trên núi chỉ có một con đường đá, xe lái đến lưng chừng núi thì họ xuống xe. Gió trên núi rất to, thổi thốc lông cổ chiếc áo da rái cá quét vào mặt cô, ngưa ngứa khiến cô phải dùng tay để giữ. Cảnh vệ đã được bố trí vác súng đứng hai bên đường núi ngoằn ngoèo, từ xa trông như những chấm đen nhạt nhòa.

Khắp núi lá đỏ đã chuyển sang màu đỏ ối, xung quanh đều cháy lên một ngọn lửa rực rở, lá cây phong và cây thích rơi đầy đất, lá rụng tích thành một lớp dày trên mặt đường, giẫm lêm êm ru, không phát ra tiếng động. Anh nắm tay cô hai người lặng lẽ đi về phía trước, các cảnh vệ đương nhiên rất biết điều, chỉ theo sau từ xa. Một bên đường có một cây rẻ quạt rất lớn, những chiếc lá rẻ quạt nhỏ, vàng rực rụng kín gốc cây, cô cúi xuống nhặt một chiếc lá, lại ngẩng đầu lên nhìn ngọn cây chọc trời đó, xung quanh là một trời lá đỏ, chỉ có một cây rẻ quạt này lẻ loi lá vàng, bỗng nhiên ngẩn ngơ nói: “một cây to như vậy lại đứng cô độc ở đây, thật đáng thương”.

Mộ Dung Phong vốn không cảm thấy gì, bỗng nghe cô nói một câu như thế chỉ thấy trong lòng như sóng động, anh quay mặt đi nhìn lên núi: “ở đó không phải có một ngôi miếu sao?” Tĩnh Uyển thấy một góc tường màu vàng, nhạt ẩn hiện sau tán cây,nói: “hình như là một ngôi miếu, chúng ta đi xem xem”.

Tuy cô đi một đôi giày bằng đế nhung nhưng đi một lúc đã cảm thấy không nhấc chân lên nổi, cứ lê từng bước một, cảm thấy hai chân như nặng ngàn cân. Anh thấy cô đi lại vất vả, nói: “anh cõng em nhé”. Cô quở trách nói: “vậy ra là cái gì chứ?” Anh cười nói: “không phải Trư Bát Giới còn cõng cô dâu sao?”.Cô tươi cười hớn hở: “anh còn thích làm Trư Bát Giới à,em không cản anh đâu”.Anh cũng không kìm được: “em là đồ xấu xa, không chú ý nói một câu liền bị em bắt được”.Anh đã quỳ xuống: “nào”.Cô do dự một lát, cảnh vệ phía trước đã lên miếu, cảnh vệ phía sau còn ở con đường núi phía dưới, trong rừng chỉ có tiếng chim non véo von, xa xa lờ mờ hình bóng cảnh vệ lướt qua, cô vốn ham vui cười tựa vào lưng anh, ôm lấy cổ anh.

Anh cõng cô lên từng bậc, những bậc thang lát đá xanh, uốn lượn từ trong rừng lên cao, cô ôm chặt lấy cổ anh ,trên đầu là những cây lá đỏ đỏ rực, vừa giống như vô số ngọn lửa cháy giữa không trung, lại vừa giống như hoa mùaxuân, nở rực rở tươi thắm. Màu trời ảm đạm âm u, trông như sắp mưa, những đám mây xám xịt như sắp ập xuống. Anh đi từng bước lên bậc thang, mỗi bước đi đều lắc lư, nhưng vai anh rộng phẳng, có thể để cô dựa dẫm như thế. Cô hỏi: “trước đây anh từng cõng ai chưa?” Anh nói: “chưa,hôm nay là lần đầu đấy”.Cô ôm anh càng chặt hơn: “vậy anh phải cõng em cả đời”.

Cô ở phía sau không nhìn được mặt anh, anh đi từng bước trên bậc đá, chắc khó đi hơn, cho nên giọng nói hơi kì lạ: “được,anh cõng em cả đời”

Trên núi có một ngôi miếu quan âm, không hề có người xuất gia trụ trì, chỉ có người trong núi mỗi dịp lễ tết đến thắp hương mà thôi. Các cảnh vệ đã kiểm tra trong và ngoài miếu xong liền lui ra xa, anh nắm lấy tay cô vào miếu,bên trong tượng Bồ Tát tôn nghiêm, tuy nước sơn vàng đã bị bong ra nhưng khuôn mặt từ bi của Bồ Tát vẫn vậy. Cô tiện tay lấy một cây hương, cắm vào trong lư hương đá, thành khẩn vái ba vái. Anh nói: “không ngờ em còn tin cái này?”.

Mặt cô đỏ bừng: “Em vốn không tin bây giờ bỗng hơi tin rồi”.

Anh hỏi: “vVậy em nguyện ước điều gì, đến lúc đó anh còn đưa em đi trả nguyện”. Mặt cô hơi đỏ: “Em không nói cho anh biết” Anh “ồ” một tiếng nói: “vậy anh biết rồi, em nhất định là cầu xin Bồ tát phù hộ cho hai chúng ta”. Mặt cô đỏ rần rần, lườm trách móc: “Vậy anh cũng nên vái lạy đi”.Anh nói: “anh không tin cái này,vái làm gì?” Cô kéo nhẹ gấu áo anh: “Thấy phật thì vái cũng là điều nên làm”. Hôm nay anh thật sự không nỡ làm phật ý cô, thấy cô nói vậy liền qùy xuống chiếc đệm bụi bặm, vừa cúi đầu xuống, liền thấy cô cũng cúi đầu xuống vái, giọng cầu khấn tuy nhỏ, nhưng truyền đến tay anh nghe rất rõ ràng: “Mong Bồ tát phù hộ con và Bái Lâm không bao giờ xa nhau”.

Bụi trên đất xọc lên, anh ho một tiếng đưa tay nắm lấy tay cô, tay cô mềm mại ấm áp, cô hỏi: “Anh sao thế, tay lạnh vậy? Bảo anh mặc áo khoác lại không chịu ,nhất định vứt ở trên xe.” Anh nói: “Anh không lạnh” Anh lại cúi người xuống phủi bụi trên chiếc sườn xám cuả cô, rồi đứng dậy nói: “Đi thôi”.

Sau miếu là một khoảng sân lát đá xanh, mấy căn phòng cho tăng ni đã xiêu vẹo từ lâu, vô cùng đổ nát, có một cây hoa cúc dại trong khe đá, nở ra mấy bông hoa màu vàng nho nhỏ, lay động trong gió khiến người ta thương xót. Vì gió lớn cô kéo chặt áo khoác, anh ôm chặt lấy cô, chỉ nghe thấy gió ào ào, khí lạnh thấu xương. Cô không kìm được dựa vào anh, anh ôm cô vào lòng, mùi tóc cô nhàn nhạt, lẫn vào áo anh. Anh nói nhỏ: “Tĩnh Uyển có một việc anh muốn thương lượng với em”.

Cô ngẩng đầu lên nhìn anh: “Việc gì thế? Cảm thấy hơi lạnh trên mặt, những bông tuyết đang lác đác rơi xuống cô “a” lên một tiếng: “Tuyết rơi rồi”.

Những bông tuyết lác đác bị gió cuốn đi tạt vào người, anh khẽ hôn lên tóc cô, gió trong núi thổi mạnh,môi anh cũng lạnh buốt. Anh nói: “Tình hình không tốt đánh xong với Dĩnh quân, anh định tuyên chiến với Xương Nghiệp”. Cô “hả” một tiếng nho nhỏ, anh nói: “em đừng lo tuy không nắm chắc nhưng anh rất có lòng tin, chỉ cần tuyến Bắc ổn định lại, Xương Nghiệp chỉ là vấn đề sớm muộn”. Cô biết rõ hoài bão của anh, tuy rất lo lắng, nhưng không hề khuyên can, chỉ quay mặt đi nhìn tuyết lặng lẽ rơi xuống cành lá.

Anh nói: “Trận chiến này với Xương Nghiệp…Tĩnh Uyển…anh muốn đưa em ra nước ngoài, đợi tình hình ổn định lại, rồi đón em về”.Cô không nghĩ ngợi gì nhiều: “Em không đi em muốn ở bên cạnh anh”.Tay anh lạnh lẽo, gần như không chút ấm áp: “Tĩnh Uyển anh biết ý của em, nhưng anh không yên tâm. Em ở bên anh đương nhiên là tốt, nhưng anh hi vọng em để anh yên tâm”.

Tuyết rơi dày thành tiếng, rơi càng lúc càng nhiều trên cành lá cây, rơi vào mặt hơi đau đau, anh bỗng ôm lấy cô thặt chặt: “Tĩnh Uyển em đồng ý với anh, cho anh chút thời gian, đợi tình hình ổn định lại anh lập tức đón em về”.Trong lòng cô vạn phần không nỡ, biết rõ sự nguy hiểm anh phải đối mặt sau này, nhưng có lẽ đúng như anh nói, khi cô bình yên rồi, có lẽ sẽ khiến anh yên tâm. Huống hồ mặt cô lại đỏ lên, nói: “Được rồi, vậy em về nhà”

Anh mới hiểu ra “nhà” cô nói là nhà ở Thừa Châu, thấy đôi mắt như nước hồ thu của cô đang nhìn mình, sự chân thành nồng cháy trong ánh mắt như một con dao, chậm rãi từ tốn róc anh ra, từng nhát từng nhát một. Anh gần như muốn tránh ánh mắt đó: “Tĩnh Uyển, em về Thừa Châu không tiện lắm…dù sao cũng chưa chính thức cưới hỏi, tình hình trong nhà em cũng biết, anh không muốn em chịu ấm ức, anh cho người đưa em đến Nhật Bản, đợi tình hình ổn định, anh lập tức đi đón em về”.

Cô biết Mộ Dung phủ là gia đình kiểu củ, qui tắc nhiều, thị phi cũng lắm, bản thân mình chưa chính thức cưới gả, đến Thừa Châu dù sao cũng không tiện. Nếu sống ở bên ngoài thị phi càng nhiều, có lẽ tránh ở nước ngoài lại hay hơn. Nghĩ đi nghĩa lại thấy anh chăm chú nhìn mình với vẻ thương yêu vô hạn dáng vẻ đó tham lam gần như muốn dùng ánh mắt khắc cô lại, cô bản tính dịu dàng, không nỡ làm khó anh nữa, nói: “Được thôi nhưng anh phải đồng ý với em một việc”.

Tim anh thắt lại, buột miệng hỏi: “Việc gì?”.

Cô mĩm cười nói: “Hôm nay anh phải hát một bài cho em nghe”.

Khóe miệng anh hơi cong lên, dáng vẻ đó giống như mỉm cười, nhưng trong mắt lại ánh lên vẻ thê  lương: “Anh không biết hát”. Nơi mềm yếu nhất trong tim cô hơi đau đớn. Một con người mạnh mẽ như anh, lại không che giấu được sự vô vọng của ly biệt trong nước mắt, sau này vạn trùng hiểm nguy, việc bản thân cô có thể làm, cũng chỉ là để anh yên tâm. Cô gượng cười, lắc nhẹ cánh tay anh: “em mặc kệ, hôm nay anh phải hát một bài cho em nghe”. Anh nghe tiếng tuyết rơi rả rích như gõ vào trong tim anh. Chỉ thấy đôi mắt đen láy trong sáng của cô phản chiếu hình bóng của mình, trong nụ cười tràn ngập sự say đắm, khiến anh nhớ đến rất lâu rất lâu trước đây, vào cuối xuân cả khu vờn đều là cánh hoa bay,giống như tuyết, bệnh của mẹ rất nghiêm trọng. Anh đi thăm bà hôm ấy tinh thần bà rất tốt, dưới cửa sổ phía Nam vô số cánh hoa đang bay qua, tình cờ bay vào trong cửa sổ, trong phòng sực mùi thuốc, chỉ nghe thấy mẹ ho vài tiếng, lúc đó bà đã rất gầy, những ngón tay khẩn khiu bà nhẹ nhàng hỏi anh vài chuyện. Anh học được khúc nhạc từ mấy người cảnh vệ, hát cho bà nghe bà tựa trên chiếc gối lớn, cười nghe anh hát hết bài, ai ngờ đó là lần đầu tiên mẹ nghe anh hát cũng là lần cuối cùng.

Đã nhiều năm như vậy, anh không còn hát cho người khác nghe nữa, anh nói: “anh thật sự không biết hát”. Cô lại không chịu buông tha: “Em sắp đi rồi ngay cả việc nhỏ như vậy anh cũng không đồng ý với em sao?”. Anh thấy cô tuy cười nhưng trong ánh mắt vẫn là sự hoảng loạn bất lực,cuối cùng anh mềm lòng, cười nói: “Em muốn anh hát vậy anh sẽ hát”.

Tuyết rơi càng lúc càng dày, trắng xóa như rắc muối ,bồng bềnh bồng bềnh, gió đem theo bông tuyết đập vào hai người. Anh ôm chặt lấy cô dường như muốn dùng hơi ấm của mình, để che chắn gió lạnh cho cô,hát nhỏ bên tay cô: “Ra khỏi Nghi Sơn có một con đường nhỏ,cây đào trồg đối diện cây liễu.Chàng trồng cây đào nàng trồng cây liễu,cô gái nhỏ cây đào không nở hoa cây liễu nở hoa”. Gió lạnh ù ù xọc thẳng vào trong miệng,giọng anh tan đi trong gió:nước sông dâng nhấn chìm mỏm đá,đứng trên núi cao trên đỉnh mỏm đá.Đứng trên đài cao trông xa,cô gái nhỏ, cô gái nhỏ sao nàng không đến…”

Trong tiếng gió vô số bông tuyết đang rơi, như  kết thành một tấm rèm tuyết giữa trời đất,giọng anh dần dần nhỏ đi,anh cứ ôm chặt lấy cô như thế, trong mắt Tĩnh Uyển ngấn lệ,cô nói: “Anh nhất định phải sớm sai người đi đón em…đến lúc đó em…”câu nói nghẹn trong miệng, cuối cùng cũng không nỡ để anh lưu luyến hơn truớc khi đi,cô chỉ nói: “Em đợi anh đến đón em”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 18-5-2013 17:48:24 | Chỉ xem của tác giả
PHẦN 3: NẾU KHÔNG CÓ EM
Chương 23


Vì lúc đi quá vội ,Tĩnh Uyển chỉ đem theo ít hành lý tùy thân, như quần áo đồ dùng các loại. Tuy thế vẫn là Hà Tự An đích thân đưa cô đi,từ Phụ Thuận đi xe riêng đến thẳng Khinh Xa, sau đó từ cảng Khinh Xa đi tàu hỏa về phía Nam đến Huệ Cảng chuyển sang đi tàu biển. Chiếc tàu biển đó là tàu chở khách sang trọng,đi về giữa Huệ Cảng và Nhật Bản,đoàn của Tĩnh Uyển bao mấy phòng đặc biệt,ngoài cảnh vệ đi cùng còn có hai hầu nữ do tứ phu nhân phái đến sau khi Mộ Dung Phong điện báo về nhà ở Thừa Châu.Một trong số đó là Lan Cầm,vốn từng hầu hạ Tĩnh Uyển lúc ở Thừa Châu,Lan Cầm là người nhanh nhẹn đương nhiên việc gì cũng chu đáo.



Hà Tự An đích thân đi kiểm tra phòng,lại sắp xếp hành lý,cuối cùng mới đến gặp Tĩnh Uyển. Vì trên đường vất vả nên Tĩnh Uyển hơi mệt mỏi ngồi trên ghế sôfa, nhìn bến cảng ồn ào bên ngoài cửa sổ,nơi đó đều là người đến tiễn bạn bè, người thân. Gần đây cô hơi phát tướng,nhìn hơi tròn trịa mũm mĩm,lúc này cô mặc một chiếc sườn xám gấm màu xanh đen đậm in hình hoa chìm,vải gấm sẩm màu đó càng làm nổi bật làn da trắng ngần hơn,trên khuôn mặt trắng như ngọc,đôi mắt đen trắng rõ ràng như soi gương.Hà Tự An xưa nay luôn trấn tĩnh,không hiểu vì sao lần này do dự giây lát,cuối cùng vẫn nói với cô: “Phu nhân sáng nay nhận được điện báo, đã chiếm được Càn Bình rồi.”



Tĩnh Uyển chậm rãi “ồ”một tiếng, giống như dần dần tỉnh táo,cũng không biết là vui hay buồn,vẻ mặt chỉ ngẩn ngơ.Hà Tự An nói: “Phu nhân yên tâm, Cậu Sáu nhất định có kế hoạch,sẽ không làm khổ người nhà phu nhân”.Trong tim Tĩnh Uyển chua xót,lúc lâu sau mới nói: “Cha tôi đã có tuổi rồi, đối với…đối với sự bồng bột của tôi…”, cô chỉ nói nửa câu liền không nói tiếp nữa. Hà Tự An thấy trong mắt cô hơi ngấn lệ,vội nói: “Cậu Sáu xưa nay tôn trọng Doãn tiên sinh,bây giờ càng không thể bạc đãi ông. Huống hồ quân kỉ nghiêm minh,chưa từng gây rối các nơi, phủ nhà của phu nhân càng được bảo vệ đặc biệt”.



Tĩnh Uyển nghĩ đến tính cách kiên cường cuả cha, e rằng trong vòng một năm hay nửa năm tuyệt đối không thể tha thứ cho cô, mà Mộ Dung Phong tấn công Càn Bình, người nhà cô, anh nhất định sẽ chăm sóc đặc biệt, cô chỉ sợ cha không chịu hiểu còn gây thêm chuyện. May mà cô sắp ra nước ngoài, nếu không thì cô cùng quân đội và Mộ Dung Phong vào thành Càn Bình sẽ càng khiến cha khó xử hơn. Cô chỉ mong mình ở nước ngoài mấy tháng, đợi cha nguôi giận sẽ gặp mặt nhau. Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng tâm trạng rối loạn,trăm mối lo âu.



Hà Tự An nói: “Nếu phu nhân có việc gì hãy dặn dò Tự An. Tự An về nhất định sẽ nói với Cậu Sáu”. Tĩnh Uyển lắc lắc đầu: “Tôi cũng chẳng có việc gì, anh bảo anh ấy đừng lo lắng cho tôi là được”. Hà Tự An thấy cô không có gì dặn dò, sau khi lui ra ngoài lại gọi cảnh vệ trưởng Tôn kính Nghi ra một bên, cẩn thận dặn dò một hồi,đến tận mấy phút đến khi tàu chạy mới cáo từ Tĩnh Uyển xuống tàu.



Vì thời tiết đẹp tàu đi hai ngày đã đến vùng biển quốc tế. Tĩnh Uyển hay say sóng, gần đây sức khỏe không tốt lắm, cho nên phân nửa thời gian nghĩ ngơi trong phòng. Hơn nữa vì Mộ Dung Phong là nhân vật quan trọng, thân thế lẫy lừng nên Tĩnh Uyển không thích lộ mặt, sợ gặp phải phiền phức trên tàu.Chỉ lúc hoàng hôn cô mới lên boong tàu đi dạo với Lan Cầm.



Đến sáng sớm ngày thứ ba, mọi người vừa ăn sáng xong,hàng ngày vào lúc này Tôn Kính Nghi đều đến phòng Tĩnh Uyển xin chỉ thị, thấy hôm nay cũng chẳng có việc gì đặc biệt. Mới nói được hai câu bỗng nghe thấy đài phát thanh trên tàu thông báo đầu máy hơi nước trên tàu bị sự cố, hiện tại chỉ có thể cố gắng di chuyển, phải lập tức quay lại. Tôn Kính Nghi nghe thấy câu này, không hiểu vì sao sắc mặt hơi biến đổi. Tĩnh Uyển chỉ nghĩ là bị lỡ hành trình thấy Tôn Kính Nghi hình như rất lo lắng, liền cười nói: “Đây cũng là chuyện bất đắc dĩ, không sao đâu,nếu không được đợi đến Huệ Cảng, chúng ta đáp chuyến tàu Jessica của Mỹ đi cũng vậy mà”. Cô không hề biết là tâm trạng lo lắng của Tôn Kính Nghi là lo lắng cho sự an toàn của cô hay là điều gì khác Lần này cô đi, Mộ Dung Phong đưa cô hai mươi vạn lộ phí, lại đưa thêm mười vạn tiền tiêu vặt, với số tiền đó dù ở trong nước hay ở Nhật Bản đều có thể lập một sản nghiệp tương đối giàu có, vé tàu trị giá vài trăm đồng thật sự không đáng nhắc tới. Huống hồ tình hình này đa phần công ty tàu biển đều bồi thường, cho nên cô không quan tâm lắm.



Tàu giảm tốc độ lại đi trên biển bốn ngày mới quay lại Huệ Cảng. Tàu vào cảng lâp tức kéo xuống xưởng sửa chữa, khách trên tàu được công ty bố trí nhà nghĩ.Khách quí bao phòng như Tỉnh Uyển thì được ở khách sạn Huệ Cảng do người nước ngoài mở. Đến nước này Tôn Kính Nghi đành cố gắng sắp xếp ổn thỏa đưa Tỉnh Uyển đến khách sạn,lập tức phái người báo cho Mộ Dung Phong.



Tỉnh Uyển ở trên tàu một tuần,hầu hết thời gian cũng chẳng ăn được gì,tinh thần đã rất kém,giờ được tắm nước nóng trong khách sạn, lại ngủ một giấc,ngày hôm sau tỉnh dậy thấy thoải mái thực sự. Ăn cơm trưa xong cô liền gọi Lan Cầm: “Sao khách sạn không đưa báo đến?”. Chúng ta lênh đênh trên biển bảy ngày,giống như ngoại thế đào viên,chẳng biết chút thế sự nào rồi”.



Lan Cầm thấy cô hỏi đến báo, thầm giật mình,mặt vẫn tươi cười nói: “Em đi hỏi Tây Tể, có phải là đưa sót hay không?”.Lan Cầm mượn cớ đi ra, lập tức đi tìm Tôn Kính Nghi, ai ngờ Tôn Kính Nghi khó khăn lắm mới gọi điện được đến Ô Trì, giờ anh đang nghe điện, Lan Cầm đành đợi trong phòng một lát.



Tĩnh Uyển thấy Lan Cầm đi hơn mười phút vẫn chưa thấy quay về, liền nói với một hầu nữ khác tên Tiểu Quyên: “Em đi xem Lan Cầm ra sao, nếu không có báo ngày hôm nay thì thôi, bảo cô ấy về”. Tiểu Quyên vâng lời đi ra, Tĩnh Uyển ở một mình trong phòng, vì đường dẫn hơi nước quá ấm áp, luôn khiến cô cảm thấy khó thở,cô nhìn bầu trời bên ngoài cửa sổ,lấy áo khoác mặc vào xuống vườn hoa đi dạo.



Thời tiết rất lạnh trời âm u ảm đạm, mây đen kịt đè xuống nửa bầu trời, thấp đến mức dường như lúc nào cũng muốn sập xuống. Gió bấc tuy không lạnh nhưng vừa rét vừa buốt, khiến người ta thấy lạnh thấu xương, cô mặc áo khoác rồi nhưng vẫn thấy run rẩy .Vừa đi qua hòn non bộ thấy một chiếc ghế đá, vì hòn non bộ chắn gió, ở đây rất yên tĩnh, lại ấm áp, Tĩnh Uyển thấy trên ghế đó có một tờ báo, liền tiện tay cầm lên,phủi phủi bụi trên ghế,đang định ngồi xuống bỗng nhiên thấy dòng tít trên đầu trang,in chữ đỏ rất bắt mắt ,hàng chữ đó hiện rõ trong đồng tử của cô: “Mộ Dung Phong thông báo”, cô không kìm được đọc tiếp: “Đối với chuyện gia đình của Bái Lâm, bạn bè trong và ngoài nước có rất nhiều người chất vất, vì chưa thông báo rộng rãi, lần này xin thông báo như sau: Người vợ lẽ họ Doãn được lấy trong lúc theo quân, vốn không hề có hôn ước, hiện Bái Lâm đã cắt đứt quan hệ. Giờ Bái Lâm không hề có vợ, tin đồn thất thiệt khiến nhiều người người ngờ vực, nên đăng thông báo này”.



Cô chỉ cảm thấy từng chữ trên báo như đang chuyển động,trong tai chỉ có tiếng gió rít, giống như vô số âm thanh đâm vào, lại giống như hàng ngàn hàng vạn con chim đen đập cánh bay về  phía cô, xung quanh chỉ còn lại tiếng vọng ù ù. Tờ báo rơi xuống khỏi tay, chân cô cũng như mất cảm giác, chỉ biết đờ đẫn đứng đó, cô nắm chặt một thứ,thứ đó cắm sâu vào lòng bàn tay, sự đau đớn ở lòng bàn tay khiến cô tỉnh lại.



Cô đau đớn như gặp ác mộng, trái tim như co lại,chỉ là đau thắt từng cơn, ngực trào lên vị tanh, cô cúi người xuống, nơi sâu thẳm nhất trong cơ thể đang co giật đau đớn, tay cô yếu ớt buông xuống. Đây lại không phải ác mộng mà là thật. Hòn non bộ thô ráp đằng sau áp vào lưng cô, cô thẫn thờ tựa vào đó, nhờ thế mới có sức lực đứng dậy, mở tay ra mới biết thứ mình đang nắm chặt là chiếc đồng hồ của Mộ Dung Phong, nó vẫn đang tích tắc tích tắc chạy.



Từ xa xa Lan Cầm thấy cô đứng đó,rảo bước đi tới: “Phu nhân người sao thế?”



Cô mím chặt môi, ánh mắt giống như mặt nước hồ trong như chiếc hồ nhỏ trước mặt, có một lớp hơi nước mỏng,toát ra sự lạnh lẽo: “Tôn Kính Nghi đâu? Bảo anh ta đến gặp tôi”. Lan Cầm vừa nhìn tờ báo vứt trên đất, tim liền thắt lại nói: “Ở đây gió mạnh phu nhân vẫn nên về phòng gọi Tôn cảnh vệ đến nói chuyện thì hơn”.Tĩnh Uyển không nói không rằng, mặc kệ Lan Cầm đỡ về phòng, Tôn Kính Nghi nghe thấy tin này, giống như sét đánh ngang tai, đành vác mặt đến gặp cô.



Tĩnh Uyển không hề trách móc anh, chỉ nói rất nhỏ: “Bây giờ Cậu Sáu của mấy người ở đâu?”. Tôn Kính Nghi thấy sự tình bại lộ, đành nói: “Nghe nói Cậu Sáu giờ ở Ô Trì”. Ô Trì là một đô thị có tiếng nhất ở phía Nam Vĩnh Giang, cũng là thành phố phồn hoa nhất trong nước, có câu nói “Quỳnh lâu trên trời, Ô Trì dưới đất”. Khóe mắt Tĩnh Uyển giật giật: “Được vậy chúng ta cũng đến Ô Trì”. Tôn Kính Nghi nói: “Phu nhân Cậu Sáu cũng là bất đắt dĩ. Cậu Sáu đối với phu nhân thế nào chẳng lẽ phu nhân không biết?”.Tĩnh Uyển hơi ngẩng mặt lên: “Anh ấy bất đắc dĩ, vậy là ai ép anh ấy? Anh ấy đăng thông báo như thế là vì sao?”. Tôn Kính Nghi đáp: “Xin phu nhân hiểu cho Cậu Sáu hiện nay cục diện nguy hiểm, Cậu Sáu để phu nhân lánh tạm ra nước ngoài cũng là sợ phu nhân lo lắng”.



Tĩnh Uyển hơi nhếch môi lên, giống như đang cười: “Vậy cậu thành thật nói cho tôi biết anh ấy muốn lấy ai?”. Cô tuy giống như cười nhưng trong đáy mắt thấp thoáng nổi đau, toát lên sự lạnh lẽo tuyệt vọng. Tôn Kính Nghi ấp úng không nói, Tĩnh Uyển nói: “Anh không cần che dấu cho anh ấy nữa, anh ấy đã đăng thông báo cắt đứt quan hệ với tôi, hiển nhiên coi cuộc hôn nhân của chúng tôi không tồn tại, thanh minh rõ ràng cho bản thân như thế, chẳng lẽ không phải vì lấy người khác sao?”.



Tôn Kính Nghi ấp úng một lúc lâu, mới nói: “Xin phu nhân nghĩ cho toàn cục”. Tĩnh Uyển cười lạnh, bỗng nhiên đứng dậy mở cửa sổ ra: “Tôn Kính Nghi sự việc cũng đã đến đây, Doãn Tĩnh Uyển tôi cũng muốn biết sự thật, nếu anh không để tôi đi hỏi Mộ Dung Phong rõ ràng, tôi nói cho anh biết anh phòng được nhất thời, chứ không phòng nổi cả đời, nếu bây giờ tôi nhảy xuống, Cậu Sáu nhà anh không trút giận lên anh sao?”.



Tôn Kính Nghi rối tung rối mù, biết tính cô cương quyết nói làm là làm, nếu mình cố chấp không để cô đi Ô Trì, cô phẫn nộ tìm đến cái chết, anh ăn nói sao trước mặt Cậu Sáu? Một việc khó khăn như thế này, tiến thoái lưỡng nan đành nắm tay nói: “Xin phu nhân đừng có ý nghĩ đó, để Kính Nghi đi xin chỉ thị”.



Tĩnh Uyển cũng biết không có mệnh lệnh của Mộ Dung Phong, anh ta nhất định không dám để cô đi cho nên nói: “Vậy thì đi gọi điện cho Cậu Sáu nhà anh, nói bây giờ tôi muốn gặp anh ta, hỏi trực tiếp rõ ràng, sau này nhất định không làm phiền anh ta nữa”.

Mô Dung Phong nhận được điện thoại của Tôn Kính Nghi, trái tim liền chùng xuống, bất ngờ cảm thấy hơi sợ hãi. Nhưng nghĩ lại Tĩnh Uyển đã biết sự tình, nếu mình trực tiếp phân tích quan hệ lợi hại cho cô ta biết, có lẽ còn có cách chuyển biến,nếu tránh không gặp tính khí cô mạnh mẽ có khi thật sự sẽ chết còn hơn sống nhục. Anh vô cùng tức giận mắng Tôn Kính Nghi vô dụng, Tôn Kính Nghi nghe anh giáo huấn cũng chỉ cuối đầu im lặng. Mộ Dung Phong tuy cáu gắt một hồi, cuối cùng vẫn nói: “Cô ấy đã muốn gặp tôi cậu hãy đưa cô ấy đến Thừa Châu, xong việc ở đây tôi lập tức về Thừa Châu”.



Sau khi anh dập điện thoại không biết trút giận vào đâu,tiện tay cầm gạt tàn thuốc bên cạnh điện thoại ném xuống đất.Các cảnh vệ thấy anh nổi giận lôi đình cũng im lặng nín thở.Thẩm Gia Bình cố gắng nói: “Cậu Sáu bớt giận sắp đến giờ hẹn với Trình gia rồi, Cậu Sáu nên đi thay quần áo thì hơn”



Mộ Dung Phong quát um lên: “Thay cái gì mà thay, mặc áo dài không đi gặp người khác được sao?”. Thẩm Gia Bình biết tính khí anh ta, đành cười nói: “Hôm nay có mấy vị khách nữ, Cậu Sáu xưa nay nho nhã…”.Mộ Dung Phong không chịu nổi anh ta lải nhải, phải đứng dậy đi thay âu phục.



Trình Gia có một cơ ngơi ở Ô Trì nằm ngay trên đường Ái Đạt của Ô Trì, trước sau đều có vườn hoa rộng, đặt tên theo tổ tiên Trình thị là “Trĩ Viên”. Vì Ô Trì mùa đông ấm áp, cho nên đến cuối thu đầu đông hàng năm Trình gia đều đến Trĩ viên tránh rét.Trong hoa viên thấp thoáng mấy căn nhà kiểu Tây, một trong số đó mang kiến trúc Tây Ban Nha tinh xảo,chính là nơi ở của hai tiểu thư nhà Trình gia tại Ô Trì.



Vị tiểu thư nhỏ nhất của Trình gia – Trình Tích Chi hiện nay mới mười lăm tuổi, đang tuổi nghịch ngợm.Cô rón ren đi vào phòng chị gái Cẩn Chi thấy Cẩn Chi ngồi trên chiếc ghế sôfa kiểu Pháp nghe đài phát thanh quốc tế, mấy tạp chí tiếng anh vứt ở một bên, liền hỏi: “Chị ơi sao vẫn chưa thay quần áo?”.Cẩn Chi không đề phòng giật bắn mình: “Con bé này đi như mèo ấy”.Tích Chi cười hì hì nói: “Vì chị đang không tập trung nên mới bị em dọa, chẳng lẽ chị đang nghĩ…” Cẩn Chi không để cô nói tiếp, liền đưa tay ra véo má cô: “Em về nước chưa được nửa tháng đã học thói quen xấu của người trong nước rồi”.Tích Chi nói: “em còn chưa nói hết,là chị tự nghĩ đấy chứ”.Cẩn Chi mĩm cười: “chị cũng không nói thói quen xấu gì,chẳng phải không phải em tự nghĩ ra à?.Tích Chi làm mặt quỷ,đang định nói tiếp thì nghe người làm nói: “đại thiếu phu nhân đến rồi”.



Trình gia là gia đình kiểu mới,tất cả thiếu gia ,tiểu thư đều lớn lên ở nước ngoài,nhưng vì mẹ mất sớm nên người dâu cả nắm mọi việc hết trong gia đình,cho nên mấy chị em đều rât tôn trọng cô.Cẩn Chi và Tích Chi đều đứng dậy,thấy đại thiếu phu nhân đều cười gọi một tiếng: “chị cả”.



Trình Doãn Chi lấy đại tiểu thư Mục Y Dạng của Mục gia,vì hai nhà có quan hệ thông gia,từ nhỏ đều lớn lên cùng nhau,cho nên sau khi Mục Y Dạng được gả vào Trình gia,mấy chị em Trình gia không thay đổi cách xưng hô,vẫn gọi cô là chị,càng thân thiết hơn. Lúc này Mục Y Dạng mỉm cười nói: “đúng giờ là đức tính tốt đẹp của nhà vua,Cẩn Chi sao em vẫn chưa thay quần áo?”.Cẩn Chi từ nhỏ lớn lên ở nước ngoài,vốn thoải mái phóng khoáng: “Em mặc thế này không được sao?”Cô luôn thích quần áo kiểu Tây,lúc này mặc một chiếc sườn xám bằng gấm lụa,màu bạc thêu chữ phúc đẹp tinh xảo.Mục Y Dang quan sát kỹ nói: “như thế này cũng rất đẹp ,Cẩn Chi nhà ta mặc gì cũng đẹp hết”. Tích Chi ở lại với Cẩn Chi ,Mục Y Dạng đi xuống nhà trước. Trình Doãn Chi đang ngồi đang ngồi hút thuốc trong phòng khách,anh ta là trí thức Tây học, thấy vợ xuống lầu lập tức hỏi: “Cẩn Chi chuẩn bị xong chưa?”.



Mục Y Dạng nói: “Nó sắp xong rồi”, lại nói: “Anh nhiệt tình như vậy thiệt khiến người ta khó chịu”. Trình Doãn Chi cười khổ một tiếng: “Phu nhân bây giờ cả em cũng nói thế sao? Người ngoài đều nói anh dùng em gái đi nịnh bợ Mộ Dung Phong, anh thật sự cười không nổi khóc không xong”. Mục Y Dạng đáp: “Em thấy anh sắp cười từ trong lòng cười ra rồi, nếu không thì Mộ Dung Phong đến xin cưới, sao anh có thể vội vàng đồng ý?”.Trình Doãn Chi nói: “Anh đâu có như em nói, anh chỉ nói với cậu ta, chúng ta là gia đình kiểu mới, hôn nhân đại sự vẫn phải hỏi Cẩn Chi, Cẩn Chi gật đầu đồng ý coi như việc này mới được quyết định.”



Mục Y Dạng nói: “Không phải vì anh khuyên Cẩn Chi sao?”, cô dừng lại một lúc nói tiếp: “Dù sao về hôn sự này em vẫn luôn giữ ý kiến”.



Trình Doãn Chi cười một tiếng: “Cẩn Chi không ngốc đức lang quân như ý đó, thiên hạ tìm đâu được người thứ hai. Ngoài việc gia thế hơi kém một chút, năng lực tướng mạo, tuổi tác đều gì cũng tốt…”. Mục Y Dạng nói: “Được rồi em biết ý của anh, bây giờ anh ta bình định mười sáu tỉnh Giang Bắc, sau này tiền đồ ngày càng rộng mở, anh ta cầu hôn Cẩn Chi, anh đương nhiên chấp nhận. Em là nghĩ cho Cẩn Chi, nghe nói người này rất nhiều tình nhân, em sợ đến lúcđó khổ cho Cẩn Chi.



Trình Doãn Chi cười nói: “Con người em lo bò trắng răng, Cẩn Chi tuy tỏ ra bình thản, chỉ yêu cầu anh ta làm một việc, như thế đã đủ thể hiện thủ đoạn của Cẩn Chi rồi”.



Mục Y Dạng nói: “Không phải là bắt anh ta đăng báo cắt đứt quan hệ với người con gái họ Doãn kia sao? Chính vì anh ta đồng ý với Cẩn Chi, chịu làm việc đó em mới thấy sợ hãi. Hơn nữa dù Doãn tiểu thư đó thân phận như thế nào, dù không phải là người vợ chính thức, chỉ là thiếp đi theo quân đội, nhưng vẫn là cùng chung hoạn nạn, hơn nữa vị tiểu thư này vì anh ta mà ra nước ngoài, ngay cả đường lùi cũng cắt đứt, anh ta phụ bạc như vậy, thật khiến người ta sợ hãi, người đàn ông như thế làm sao có thể khiến người ta yên tâm?”.



Trình Doãn Chi nhất thời không thể phản bác, đành nói: “Thành đại sự sao có thể có lòng dạ đàn bà, em đúng là suy nghĩ đàn bà”. Mục Y Dạng nói: “Suy nghĩ đàn bà của chúng em chính là suy nghĩ có tình có nghĩa, đương nhiên là khác hẳn với suy nghĩ thành đại sự vô tình vô nghĩa của đàn ông các anh”. Trình Doãn Chi xưa nay rất tôn trọng phu nhân mình, nghe Mục Y Dạng nói vậy sợ cô giận nên bèn cười nói: “Bây giờ là xã hội mới dân chủ, chỉ cần Cẩn Chi thấy được, chúng ta là anh chị thì còn có thể nói gì chứ?”.



Mục Y Dạng nói: “Cẩn Chi xưa nay luôn mang chí lớn, em không lo nó thiệt thòi. Ôi chỉ là Cẩn Chi trẻ tuổi thứ muốn lúc này chưa chắc là tthứ nó muốn sau này.

Sau khi ăn tối xong, Mộ Dung Phong cùng mấy chị em Trình thị đến khách sạn quốc tế khiêu vũ. Cẩn Chi từ hồi trung học đã là hoa khôi của trường nữ sinh, thú tiêu khiển thời thượng như vậy đương nhiên là sành sỏi, Mộ Dung Phong cũng không hề kém cạnh, dĩ nhiên hai người thu hút vô vàng ánh mắt trên sàn nhảy. Tích Chi ngồi một bên uống nuóc hoa quả, nói với Trình Tín Chi: “Anh Tư xem chị và Cậu Sáu Mộ Dung đẹp đôi biết bao”.



Trình TÍn Chi nhìn đôi Tiên Đồng Ngọc Nữ cũng không kìm được mỉm cười. Sau khi điệu nhạc kết thúc Mộ Dung Phong,Trình Cẩn Chi không về chỗ ngồi mà chỉ thấy Mộ Dung Phong dẫn Trình Cẩn Chi ra ban công. Khi anh đến khách sạn quốc tế đã có cảnh vệ mặc thường phục đi theo bên cạnh ,lúc đó có bốn cảnh vệ đi theo sau. Hai người canh ở cửa ban công hai người khác lại đi đi lại lại trên hành lang, cách một lúc lại nhìn về phía ban công.



Tích Chi thấy cảnh đó, bỗng nhiên phì cười, nói với Mục Y Dạng: “Chị dâu hai người họ hẹn hò, đằng sau luôn có người theo sau, e rằng một câu riêng tư cũng không nói được, chị hai chắc chắn rất không thoải mái”.Trình Doãn Chi nói: “có gì mà không thoải mái, đúng là trẻ con không hiểu chuyện”.



Trên ban công xung quanh đều là cửa sổ kính, vì là đầu đông cửa sổ đều đóng, đường dẫn hơi ấm phả lên, hoa hồng trên ban công nở đỏ rực rở,Cẩn chi mĩm cười nhìn anh: “Tối nay hình như anh không tập trung lắm?”. Anh nói: “Tuyến bắc chưa đình chiến, báo cáo chiến sự liên tiếp gửi đến, tình hình quân lúc tốt lúc  xấu cho nên anh muốn đính hôn xong sẽ lập tức về Thừa Châu”.



Cẩn Chi nói: “Anh có việc phải làm đó là điều đương nhiên”. Bình thường cô không đặc biệt thân mật với anh, hôm nay lại giống như một phụ nữ bình thường, bàn bạc với anh các chi tiết lặt vặt trước đính hôn.Tiệc rượu, quần áo, khách khứa, đồ lễ…đầy đủ mọi thứ. Mộ Dung Phong đành nhẫn nại nghe, vì cô sống ở nước ngoài nhiều năm, thường nhất thời không nghĩ ra từ đành buộc miệng nói tiếng anh, lúc đó càng lưu loát hơn. Tiếng Trung của cô mang theo chút âm điệu phương Nam, kèm theo chút êm tai của tiếng Anh, giọng nói đó thật là mềm mại dễ thương. Vì trên áo cô dùng chiếc gài áo bằng vàng trắng ghim một đóa lan Ý, anh chợt thẫn thờ, dường như có mùi hương hoa nhài bay đến, nhưng rõ ràng đang là mùa đông. Anh tỉnh táo lại cười nói với cô: “chỉ cần em vui thế nào cũng được”.



Cẩn Chi vẫn cười: “con người anh không có tính hết thẩy,đều nghe theo người khác thế này,lễ đính hôn của hai người,sao anh lại nói chỉ cần em vui,chẳng lẽ anh không vui?”. Mộ Dung Phong nói: “anh đương nhiên vui, chẳng lẽ anh thuận theo em, em cũng không thích sao?”.Không biết vì sao Cẩn Chi thấy hơi thất vọng, cô vô thức quay mặt,dưới ban công là con phố phồn hoa nhất, một bên con đường sát khách sạn có hàng ô tô nhỏ màu đen đang đậu,xếp hàng dài đến tận đầu phố ngoài cận vệ của Mộ Dung Phong đem đến còn một số cảnh sát được cục cảnh sát thành phố Ô Trì phái đến.Người đi đường và xe cộ bình thường đã chặn ở bên ngoài phố từ trước, cô thấy cảnh tượng oai nghiêm tột cùng đó, không kìm được mỉm cười: “đương nhiên là em vui rồi”.



Lễ đính hôn được tổ chức đơn giản,không hề có đại tiệc khách khứa,chỉ mời một số bạn bè thân thích.Nhưng vì cuộc hôn nhân này rất ầm ĩ,cho nên báo lớn báo nhỏ đều đưa tin lên trang nhất,nói là: “Nam bắc kết thông gia”.



Mộ Dung Phong đáp máy bay riêng về Thừa Châu,sân bay Thừa Châu mới xây dựng không lâu,tât cả đều mới nguyên.Anh vốn không quen ngồi máy bay,vừa xuống máy bay sắc mặt vô cùng xấu.Hà Tự An đến sân bay đón anh,trước tiên báo cáo tình hình chiến cục mới nhất ở tuyến bắc,Mộ Dung Phong hỏi vài chuyện đại sự quân chính,cuối cùng mới hỏi: “phu nhân đâu?”.



Hà Tự An sững lại một lúc,mới hiểu ra anh hỏi Tĩnh Uyển,liền nói: “phu nhân do Tôn Kính Nghi bảo vệ và đưa tiễn,hôm qua đã lên tàu hỏa,chiều mai chắc sẽ đến Thừa Châu.Tôi đã sắp xếp chỗ nghĩ tại khách sạn Sông Tỉnh”.Mộ Dung Phong nói: “không cần sắp xếp chổ ở gì hết,đợi cô ấy đến thì đón về nhà”



Nhà anh nói đương nhiên là chỉ đại soái phủ.Hà Tự An hơi kinh ngạc nói: “Cậu Sáu ,e rằng bên Trình gia sẽ biết được,vậy không được hay cho lắm…”.Mộ Dung Phong nói: “Trình gia muốn tôi đăng thông báo tôi cũng đã đăng rồi,nhưng cô ấy rốt cuộc là người của tôi,tôi không thể vứt bỏ cô ấy mà không lo được”.Hà Tự An nói: “Cậu Sáu ,việc đã đến nước này hà tất phải làm hỏng chuyện?”. Mộ Dung Phong vốn đã không vui,đi đường lại mệt mỏi, cứ nghĩ đến Tĩnh Uyển là trong lòng trỗi dậy một cảm giác phức tạp khó nói thành lời,sắc mặt sầm xuống.Chu Cử Luân đi máy bay về cùng anh,thấy vậy không ổn,liền gọi: “Cậu Sáu!”.Mộ Dung Phong xưa nay nể mặt ông,người vừa là thầy vừa là bạn nên nhẫn nhịn nói: “đây là việc nhà của tôi các vị không cần lo lắng”.



Chu Cử Luân nói: “Việc nhà của Cậu Sáu ,chúng tôi quyết không can thiệp.Nhưng kết thông gia với Trình gia đương nhiên Cậu sáu hiểu được chuyện nào quan trọng hơn .Nói cho cùng Trình gia yêu cầu đăng thông báo,đúng là đòn phủ đầu ra oai với Cậu Sáu,chúng ta cũng nên cho họ biết thế nào là lợi hại”.Ông dừng lại một lúc,nói: “còn việc sắp xếp cho Doãn tiểu thư thế nào,mong Cậu Sáu suy nghĩ kỹ lưỡng”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách