Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 10406|Trả lời: 49
Thu gọn cột thông tin

[Dân Quốc] Không Kịp Nói Yêu Em | Phỉ Ngã Tư Tồn [Hoàn]

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 13-5-2013 18:29:11 | Xem tất |Chế độ đọc
Không kịp nói yêu em | Phỉ Ngã Tư Tồn



Tên tác phẩm: Không kịp nói yêu em
Tác giả: Phỉ Ngã Tư Tồn
Dịch giả: Keichan (Huyền Trang)
Độ dài (không bắt buộc): 32 chương
Thể loại: Ngôn tình Trung Quốc
Tình trạng sáng tác (Đã hoàn thành hay chưa hoàn thành):
Nguồn: http://bjchjpxjnh.wordpress.com/ ... oi-yeu-em-chuong-4/



Giới thiệu sơ lược:

Không Kịp Nói Yêu Em là câu chuyện cảm động về mối tình đầy ngang trái giữa Tĩnh Uyển và Mộ Dung Phong. Giữa giang sơn và người đẹp, người anh hùng luôn phải chọn một. Lựa chọn đó sẽ đem lại hạnh phúc hay đau khổ cho Tĩnh Uyển và Mộ Dung Phong?
***
Trên chuyến tàu trở về nhà, Doãn Tĩnh Uyển đã gặp gỡ và giúp đỡ Mộ Dung Phong. Phút tạm biệt, anh để lại cho cô chiếc đồng hồ vàng khắc hai chữ “Bái Lâm”, và duyên phận của hai người cũng bắt đầu từ đó.
Hứa Kiến Chương – người bạn thanh mai trúc mã và cũng là chồng chưa cưới của Doãn Tĩnh Uyển bị Thừa Quân bắt xử, khép vào tội chết do buôn hàng cấm, mà Mộ Dung Phong chính là Cậu Sáu Mộ Dung – đại soái của Thừa Quân, Tĩnh Uyển đã một mình vượt đường xa xôi, nắm giữ hy vọng mong manh tìm đến nhờ Mộ Dung Phong giữ lại mạng sống cho Hứa Kiến Chương… Hai người trùng phùng ở đây, rồi lại ly biệt.
Hôn lễ của Tĩnh Uyển và Kiến Chương sắp diễn ra, Mộ Dung Phong vượt địch tuyến, bất chấp nguy hiểm để đến gặp Tĩnh Uyển, để nói cho cô biết rằng anh thực sự yêu cô: “Anh điên rồi mới thích em đến thế”. Họ gặp gỡ tạm thời, sau đó lại chia xa.
Trái tim đã chiến thắng lý trí, trước hôn lễ, Tĩnh Uyển đã trốn nhà ra đi, cùng với chiếc đồng hồ vàng khắc tên Bái Lâm, vượt đường sá xa xôi, bom đạn thời chiến, trèo đèo lội suối, chỉ để được gặp Mộ Dung Phong, chỉ muốn ở bên Mộ Dung Phong. Và họ đã được bên nhau như thế.
Nhưng rồi, “quốc gia vạn dặm, quan sơn như tuyết, loạn thế kinh mộng, nửa đời phồn hoa”, giữa giang sơn và người đẹp, người anh hùng luôn phải chọn một.
Là Tĩnh Uyển hay là thiên hạ đại cục?
Là tình yêu hay là lý tưởng?
Lựa chọn đó sẽ đem lại hạnh phúc hay đau khổ cho Tĩnh Uyển và Mộ Dung Phong?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 13-5-2013 22:49:45 | Xem tất
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 13-5-2013 22:58:17 | Xem tất
Lời dẫn


Tàu hỏa rít lên một tiếng còi hơi kéo dài, trong tiếng vang ầm ầm, đoàn tàu chầm chậm đi vào ga Vĩnh Tân, hơi nước trắng nhạt phả ra trong gió lạnh, hành khách trong toa hơi nhốn nháo, bởi vì cửa toa không được mở ra tức thì như bình thường. Vĩnh Tân xưa nay là thành phố quân sự quan trọng, đại bản doanh phía Nam của Thừa Quân được đóng tại đây, lúc này lính gác dày đặc trên sân ga, trước tình hình căng thẳng, vẫn xem như là chuyện thường, chỉ vác súng đứng nghiêm chỉnh như thế, tự nhiên khiến người ta cảm thấy hoảng sợ.

Cửa toa cuối cùng cũng mở ra, nhưng không cho mọi người đi lại, vệ binh vác súng trên vai canh gác ở từng cửa toa tàu, những người trong toa không kìm được nhìn những người đó với ánh mắt sợ hãi, khác với họ, đám lính gác mặc bộ quân phục màu xanh thẫm đinh thúc ngựa trên ủng sáng loáng, lưỡi lê trên khẩu súng trong tay phát ra ánh sáng trắng lóa. Họ canh phòng toa tàu một cách lãnh đạm mà lặng lẽ, trong lòng Thập Thúy run lên, biết đó là cảnh vệ của Thừa Quân – Đáng lý ra họ không ở trong thành phố Vĩnh Tân này, không biết là xảy ra chuyện gì nữa?

Người đi đầu là một người đàn ông mặc thường phục, chậm rãi từ đầu toa bước tới, ánh mắt lướt qua tất cả những cô gái trẻ, không khí dường như ngừng lại, Thập Thúy nhìn vào ánh mắt ánh ta, không kìm được run lên, anh ta đi thẳng đến, giọng nói tuy rất khách sáo, nhưng trong lời nói lại lộ ra sự độc đoán không cần nghi ngờ: “Tiểu thư phiền đi với chúng tôi một chuyến.”

Thập Thúy không biết có chuyện gì, khuôn mặt tái nhợt đi, Hà Gia Chỉ kêu lên: “Mấy người làm gì vậy?” Khẩu khí người đó vẫn lạnh lùng, không thèm đếm xỉa đến tới anh, chỉ nhìn Thập Thúy: “ Phiền cô đi với chúng tôi một lát”. Dù Thập Thúy đã quen nhìn Thừa Quân nhưng trong lòng cũng lo lắng không yên. Gia Chỉ bước lên trước một bước, cao giọng chất vấn: “Mấy người có còn coi vương pháp ra gì không hả? Ở đâu ra cái việc bắt người ngang nhiên giữa ban ngày ban mặt thế này chứ?” Người đó đã được cảnh cáo không được thô lỗ, trong lòng vô cùng tức giận, nhưng chỉ gượng cười, nói: “Vương pháp đương nhiên là có, đây là cơ mật quân sự, nếu anh đã không biết điều, tôi sẽ cho anh biết thế nào là vương pháp”. Anh ta nghiêng đầu về phía sau, những tên cảnh vệ đi phía sau liền kéo súng mở chốt an toàn, ngắm thẳng vào hai người, những người trong toa tàu đều sợ đến mức im như thóc, Thập Thúy vội vàng đáp: “Tôi đi với các anh”.

Gia Chỉ vẫn còn muốn nói cô ấn ấn vào tay anh, ra hiệu anh đừng tranh cãi nữa, Gia Chỉ biết rõ Thập Thủy có quan hệ với người trong Thừa Quân, cho nên không sợ. May mà mấy người đó cũng còn lịch sự, không hề xô đẩy, cũng không chửi mắng, chỉ là trước nòng súng đen kịt ấy, không ai dám phản kháng.

Trong sân ga đã có mấy chiếc xe đang đơi sẵn, lúc này Thập Thủy mới phát hiện ra còn có sáu, bảy cô gái trẻ khác cũng bị ép xuống tàu giống như mình, tuổi tác đều sàn sàn, họ không biết vận mệnh nào đang đợi mình, tròn mắt sợ hãi nhìn tên lính gác đang giương súng ấy.

Thập Thúy và ba cô gái trẻ khác bị lệnh cho lên chiếc xe phía sau, chiếc xe chạy ra khỏi nhà ga, tim cô đập thình thịch, những con đường trong thành phố Vĩnh Tân vẫn rất phồn hoa, nhưng vì Thừa Quân và Dĩnh Quân liên tục giao chiến, giữa phố cũng bố trí trạm gác, chỉ là lúc này phòng bị nghiêm ngặt hơn bình thường, cô nhìn thấy cô gái ngồi đối diện, ánh mắt mơ hồ nhìn ra ngoài, hai tay nắm chặt lấy nhau, trên bàn tay trắng nõn mềm mại đó, có thể nhìn thấy rõ ràng những mạch máu nhỏ bé. Tuy cô cảm thấy hơi bất an, nhưng thấy cô gái ấy hoảng sợ tuyệt vọng như thế, không kìm được nhẹ nhàng an ủi: “Yên tâm, chắc không có việc gì đâu”. Thật ra giống như cô tự an ủi bản thân hơn.

Khóe miệng cô gái đó hơi run run lên, tựa như đang mỉm cười, nhưng trong nụ cười ấy chất chứa sự hoảng hốt vô bờ bến. Chiếc xe đi không lâu liền rẽ vào một cái sân vườn, cạnh cổng có trạm gác như thường lệ, cảnh vệ vừa nhìn thấy xe lập tức dựng thẳng súng hành lễ. Thập Thúy nhìn chiếc xe đi vào cổng lớn, hai bên đường là những cây gỗ cao lớn, dưới bầu trời xanh thẳm quang đãng của một ngày đông, đường vân của những cây đó rõ ràng như vết rạn nứt trên tảng băng, ánh nắng chiếu vào nhưng không có một chút ấm áp.


Chiếc xe dừng lại, tất cả bọn họ bị đưa vào tòa nhà. Đó là tòa nhà nhỏ theo phong cách phương Tây, đi vào từ phía cửa ngách, căn phòng được bài trí theo phong cách phương Tây đơn giản mà thời thượng, ghế sofa màu xanh đen, trên bàn thậm chí còn đặt một bình hoa cúc cắt cành, ống dẫn không khí ấm tỏa ra mùi hương nhè nhẹ. Người đưa họ vào tuy mặc quân phục, nhưng nói chuyện lại rất khách sáo: “Xin các tiểu thư đợi ở đây một lát”. Anh ta dung từ “xin”, sự lo lắng không yên trong lòng họ dần dần dịu lại, người đó nói xong liền đi ra ngoài, chỉ còn lại bảy, tám người bọn họ ở trong phòng đứng nhìn nhau.

Cửa phòng một lần nữa được mở ra, lần này lại là một người hầu gái, bưng một khay trà và rót trà cho mọi người, nhưng không ai dám uống, chỉ cầm tách trà đứng đó, vẫn nhìn nhau sợ hãi, giống như một đàn cừu non đợi bị giết mổ. Giữa căn phòng ấm áp, chỉ một lát sau, huyết mạch tê dại đều như được sống lại. Thập Thúy cầm chiếc tách thủy tinh đó, tay chân đã ấm trở lại, vừa quay mặt đi liền thấy cô gái lúc nãy ngồi đối diện trên xe với cô, yếu ớt ngồi tựa ở góc tường, cơ thể run lên. Trong lòng Thập Thúy thấy đáng thương, đi lại gần nhìn thấy mặt cô ấy đầm đìa mồ hôi, không kìm được hỏi: “Cô sao thế?”.

Cô gái đó chỉ lắc đầu, không nói gì. Thập Thúy thấy cô ấy loạng choạng như sắp ngã, vội vàng đỡ cô ấy ngồi lên ghế sofa, những ngươi còn lại cũng chú ý đến họ, chỉ mở to đôi mắt sợ hãi nhìn. Thập Thúy thấy lòng bàn tay cô ấy toàn là mồ hôi lạnh nhơm nhớp, không kìm được hỏi: “Có phải là cô ốm rồi đúng không?”.

Cô gái đó vẫn lắc đầu, Thập Thúy thấy sắc mặt cô ấy tái nhợt, đôi môi khô nẻ, chỉ yếu ớt nắm chặt túi xách trong tay, bàn tay run lên. Cô vốn là y tá, thấy cô ấy yếu ớt như vậy, Thập Thúy không kìm được cởi áo khoác của mình ra, khoác lên cho cô ấy, cô gái đó mới khẽ nói: “Cảm ơn”. Cuối cùng bàn tay cũng không còn sức, chiếc túi xách rơi xuống. Thập Thúy vội vàng nhặt lên, hỏi cô ấy: “ Cô tên gì?”. Khóe miệng cô ấy hơi run rẩy một lát, nói: “ Tôi họ Doãn”. Thập Thúy đáp: “Tôi tên là Nghiêm Thập Thúy”. Cô gái đó lại run lên một chút, chính vào lúc đó bỗng nhiên nghe thấy ngoài hành lang truyến đến tiếng giày da nện xuống mặt đất, rõ ràng là có người đi về phía này, người trong phòng vô cùng sợ hãi tròn mắt nhìn về phía hai cánh cửa.

Tim Thập Thúy cũng nảy lên, cánh cửa cuối cùng được mở ra, một chàng trai nho nhã thanh tú đi vào, tuy nhiên thường phục, nhưng ánh mắt lại sắc lẹm. Thập Thúy run lên bần bật, chỉ thấy ánh mắt anh ta lướt qua khuôn mặt của từng người, cuối cùng dừng lại trên người Doãn tiểu thư đó, nơi đáy mắt thấp thoáng nụ cười, lời nói cũng lộ ra sự khách khí và ôn hòa: “Doãn tiểu thư, cuối cùng đã đón được cô rồi – mời cô đi theo tôi”.


Doãn tiểu thư đó dường như muốn đứng dậy, cô ấy nhúc nhích, lại giống như không còn chút sức lực nào nữa. Thập Thúy cũng không dám đi lên phía trước đỡ cô ấy, cô ấy yếu ớt, nhỏ bé giống như một bông hoa cúc tàn, thở gấp mà không có sức, chỉ nắm chặt lấy tấm ren phủ trên tay vịn của ghế sofa, dường như ở đó tập trung toàn bộ sức lực, cơ thể hơi run lên. Vào lúc đó, hành lang lại truyền đến tiếng bước chân hỗn loạn, một đám người vây lấy một người, người cầm đầu mặc quân phục, chỉ là không đội mũ, mái tóc dày đen nhánh, tôn lên khuôn mặt tuấn tú với khí khái anh hùng, tuổi chỉ khoảng hai mươi bảy, hai mươi tám, giữa đôi lông mày toát lên một khí chất lạnh lùng. Người phía trước nhìn thấy anh ta đi vào, gọi một tiếng: “Cậu Sáu!”

Về cách gọi Mộ Dung Phong giữa tiểu thuyết và phim truyền hình có sự khác biệt. Trong bản phim truyền hình, Mộ Dung Phong được gọi là “Tư thiếu”/Cậu Tư, còn trong tiểu thuyết là “Lục thiếu”/ Cậu Sáu.

Đầu Thập Thúy ù đi, hoàn toàn không hề nghĩ rằng lại có thể gặp được Mộ Dung Phong, bởi vì trong chính tỉnh phía Bắc này, không ai không biết Cậu Sáu Mộ Dung Phong danh tiếng hiển hách này, từ lúc Mộ Dung Thần qua đời, chính anh ta là người đảm nhận chức vụ Đốc quân Thừa Châu, trên thực tế đã trở thành thống soái Thừa quân, chẳng trách trong thành phố Vĩnh Tân lại canh gác như vậy, hóa ra anh ta chuyển từ hành dinh Đốc quân Thừa Châu sang đại bản doanh phía Nam, Mộ Dung Phong lại nhìn chằm chằm vào Doãn tiểu thư đang ngồi thu mình ở một góc trên sofa, lát sau mới nặng nề thốt ra từng chữ một: “Doãn Tĩnh Uyển”. Doãn Tĩnh Uyển cúi gằm mặt thu mình trong nơi sâu nhất của chiếc sofa đó, vờ như không nghe thấy. Khóe miệng anh ta hơi chùng xuống, bỗng nhiên anh ta đi lên phía trước kéo cô dậy, cô vốn đã yếu ớt, nhẹ bẫng như người giấy, bất lực nhìn anh, trong ánh mắt mơ hồ chỉ có vầng sáng màu vàng phát ra từ chiếc quân hàm lạnh lẽo bóng loáng trên áo anh, giọng nói của anh như sấm mùa hè, ầm ầm dội đến: “Cô nói cho tôi biết…”. Toàn thân anh ta như toát ra sự lạnh lẽo, người trong phòng đều nhìn anh vô cùng sợ hãi, dáng vẻ đó của anh tựa như dã thú trong cảnh khốn cùng, ánh mắt dường như bắn ra lửa: “Cô làm gì đứa bé rồi hả?”.

Cô thở gấp gáp mà yếu ớt, bởi vì tay anh nắm chặt đến nỗi không thở nổi, người bên cạnh lo lắng gọi: “Cậu Sáu!”. Mộ Dung Phong bất ngờ quay đầu lại: “Chết tiệt, câm miệng lại hết cho tôi!”. Người đó là Hà Tự An, người thân cận nhất của Mộ Dung Phong, anh biết rõ tính cách người chủ này của mình, nghe vậy liền im lặng không nói thêm gì nữa, Mộ Dung Phong lại hung hãn nhìn Doãn Tĩnh Uyển: “Mau nói đi!”.

Doãn Tịnh Uyển yếu ớt như một làn khói mỏng manh, chỉ hà một hơi là có thể tan biến, cô lại cười, nụ cười nhẹ nhàng hiện trên gương mặt, trên khuôn mặt tái nhợt yếu đuối đó, dường như nở một đóa hoa, cô nói rất nhẹ, nhưng từng từ lại giống như là sấm chớp: “Anh vĩnh viên cũng đừng có mơ mộng hão huyền nữa”. Anh tím mặt tức giận, gân xanh trên trán nổi lên, trong mắt ngoài sự phẫn nộ không thể khống chế còn dần dần lộ ra sự tuyệt vọng, bàn tay nắm lấy cổ cô bất giác thu lại, cô hít thở trở lại, nụ cười trên mặt lại rạng rỡ hơn, cho đến lúc cười “khì khì” thành tiếng. Thập Thúy chỉ cảm thấy tình cảnh này vừa kỳ lạ vừa đáng sợ, cơ thể Mộ Dung Phong vẫn hơi run run, trong ánh mắt chỉ có sự tuyệt vọng như sắp chết, bỗng nhiên anh nới tay, Doãn Tĩnh Uyển vốn đã yếu đuối đến cực điểm loạng choạng dựa vào thành ghế sofa vẫn đứng không vững, anh ta bỗng nhiên tát mạnh một cái, “bốp” một tiếng rất vang, cô giống như một con rối không có sức lực, mềm đi ngã xuống nền nhà, nằm đó không động đậy, Mộ Dung Phong điên lên như tuyệt vọng, thu tay về lấy ra khẩu súng ở thắt lưng lên đạn “lạch cạch” một tiếng, ngắm thẳng vào đầu cô.

Người đứng bên cạnh thấy tình thế gay go, vội vàng khuyên ngăn nói: “Cậu Sáu, Doãn tiểu thư tỉnh lại hỏi rõ ràng rồi xử lý sau cũng chưa muộn, xin Cậu Sáu suy nghĩ lại”. Ngón tay giữa Mộ Dung Phong đặt trên cò súng, chỉ hơi hơi run lên. Mái tóc dài của cô rối tung xõa ra nền nhà, giống như là đám mây bị gió thổi tan đi, cô nằm đó, giống như đã chết, không chút sinh khí. Anh nghĩ đến đôi mắt lúc nãy của cô, cũng giống như đã chết rồi, không còn ánh sáng linh động nữa, có chăng chỉ là sự tuyệt vọng như vực sâu không đáy, sự tuyệt vọng lạnh lẽo mà thản nhiên, lúc nhìn thấy anh, giống như là mờ mờ hư vô, như chưa từng tồn tại. Sự lạnh lẽo hư vô ấy khiến người ta phát điên, cô tàn nhẫn như thế – cô biết đâm nhát chí mạng mới có hiệu quả như thế. Trong lồng ngực anh dường như có một con dao sắc nhọn chầm chậm khoét vào, máu nóng chảy ra ào ạt, cô cố sức ép anh xuống cái vực sâu tuyệt vọng đó.

Anh thờ ơ nhìn cô gái nằm trên sàn ngay cả thở cũng khó khăn đó, cô nằm ở đó yếu ớt đến tột cùng, nhưng câu nói nhẹ nhàng lúc nãy của cô, lại rõ ràng đẩy anh xuống địa ngục tối tăm, anh có chết cũng phải khiến cô cùng chết! Cô đã tàn nhẫn như thế, anh cũng phải khiến cô xuống địa ngục cùng anh, chịu sự giày vò không bờ bến suốt đời suốt kiếp này. Anh chầm chậm nới lỏng cò súng chầm chậm bỏ súng xuống.
Anh thong thả nói: “Đưa mấy người này đi, gọi bác sĩ đến”.

Hà Tự An vâng một tiếng, đưa mắt ra hiệu xung quanh, liền có người đưa mấy cô gái còn lại ra ngoài. Thập Thúy vốn đi cuối cùng, to gan quay đầu lại liếc nhìn, lại nhìn thấy Mộ Dung Phong bế Doãn Tĩnh Uyển lên. Doãn Tĩnh Uyển lúc đó hôn mê không biết gì, mái tóc dài rối tung của cô xõa trên khuỷu tay anh, khuôn mặt trắng bệch lại lờ mờ có vết nước mắt. Thập Thúy không dám nhìn tiếp, đi nhanh ra khỏi phòng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 13-5-2013 23:01:44 | Xem tất

Gần tối gió lạnh thổi vào từ cửa sổ tàu đang mở, chiếc váy dài thêu ren tinh xảo màu đỏ phất phơ như cánh hoa trong gió, mái tóc dài cũng bị thổi tung lên, nhưng lại không nỡ đóng cửa. Bên ngoài cửa sổ là cảnh hoàng hôn ảm đạm, tất cả đều như cách một lớp kính mờ, những đồng bằng, những căn nhà, những dãy núi xa xa lướt nhanh qua trong mơ hồ, tiếng bánh xe xình xịch nhưng vì đã nghe quen ngược lại không hề cảm thấy ồn ào.

Tiếng ồn ào nổi lên, Doãn Tĩnh Uyển liền quay đầu lại nhìn vào cửa toa, chú Phúc, người giúp việc đi theo nói: “Đại tiểu thư, tôi ra ngoài xem sao”. Chú Phúc làm việc rất thận trọng, lần này đi rất lâu không quay lại, Minh Hương người đi cùng cô sốt ruột, nói: “Cái chú Phúc này, làm việc lúc nào cũng lề mà lề mề, lâu như vậy mà vẫn chưa về. Đây là ở trên tàu hỏa, có khi chú ấy đi xem kịch rồi cũng nên?”. Doãn Tĩnh Uyển phì cười, nói: “Xem kịch cũng không thể bỏ lại chúng ta được”. Một lúc sau, vẫn không thấy chú Phúc quay lại, lúc đó Doãn Tĩnh Uyển mới hơi lo lắng, đây là lần đầu tiên cô xa nhà, Minh Hương chỉ là một cô bé, mọi việc đều do chú Phúc lo liệu. Lại đợi thêm một lúc nữa vẫn chưa thấy chú Phúc quay lại, trong lòng Doãn Tĩnh Uyển sợ xảy ra chuyện, nói với Minh Hương: “Chúng ta đi tìm chú Phúc thôi”.

Họ bao hai căn phòng hạng nhất trong toa tàu, trưởng toa đương nhiên là ân cần niềm nở, vừa thấy họ ra ngoài lập tức đi đến từ hàng lang đầu bên kia: “Tiểu thư, người của Dĩnh quân đang rà soát tàu, tiểu thư nên quay về phòng thì hơn”. Minh Hương bĩu môi nói: “Từ lúc tàu ra khỏi thành Ký Nguyên, họ soát đi soát lại giống như cái lược chải bảy, tám lần, cho dù là con rận cũng bị họ nhặt ra từ lâu rồi, còn soát cái gì mà soát hả?”. Doãn Tĩnh Uyển sợ xảy ra sự cố, nói: “Minh Hương, nói ít thôi”. Trưởng toa đó cười nói: “Chắc chỉ là soát tội phạm nào đó, nghe nói trong toa hạng ba đã bị soát hơn chục lần rồi, kéo từng người ra một, cũng không tìm được người”. Minh Hương “ôi chao” một tiếng, nói: “Hóa ra là tìm người à, mình còn tưởng tìm vàng bạc châu báu chứ”.

Trưởng toa đó nói lỡ miệng, cũng liền cười xòa nói tiếp: “Cũng chỉ đoán họ đang tìm người mà thôi – việc như vậy ai biết chứ”. Doãn Tĩnh Uyển nói với Minh Hương: “Vậy chúng ta quay lại thôi”. Cô lại nói với trưởng toa: “Nếu thấy chú Phúc, người làm của chúng tôi, thì bảo ông ấy mau quay lại”, vừa nói, vừa đưa mắt ra hiệu, Minh Hương liền lấy ra một đồng đưa cho trưởng toa, trưởng toa nhận lấy, đương nhiên vui không kể xiết, luôn miệng nói: “Tiểu thư yên tâm”.

Họ quay về phòng, một lúc sau, chú Phúc mới quay lại, đóng cửa phòng lại, bấy giờ mới hơi tỏ ra lo lắng, nói thật nhỏ với Doãn Tĩnh Uyển: “Đại tiểu thư, xem ra tình hình này không ổn”. Doãn Tĩnh Uyển đưa mắt ra hiệu cho Minh Hương, Minh Hương liền canh ở cửa phòng, chú Phúc nói: “Không biết người của Dĩnh quân đang tìm nhân vật quan trọng nào, soát từng toa tàu nhiều lần như vậy, bây giờ chỉ còn toa tàu hạng nhất này chưa tìm thôi. Tôi thấy dáng vẻ của họ, có vẻ không soát đến cùng không chịu thôi, chỉ sợ chúng ta sớm muộn gì cũng không trốn được nữa”. Doãn Tĩnh Uyển nói: “Bây giờ vẫn chưa ra khỏi ranh giới Dĩnh quân, chúng ta có giấy thông hành đặc biệt, chắc sẽ không có sai sót đâu, mong đừng thêm phiền phức gì nữa”.

Tuổi cô tuy không lớn, chú Phúc thấy cô bình tĩnh kiềm chế, không khỏi thầm thán phục, nghe thấy trưởng toa rung chuông ở hành lang, là tín hiệu dùng bữa, liền hỏi: “Đại tiểu thư đến toa ăn, hay là gọi người đưa cơm vào trong?”. Doãn Tĩnh Uyển nói: “Đến toa ăn, cứ chết dí ở trong phòng sẽ sinh bệnh mất”. Nói cho cùng trẻ tuổi vẫn có chút tính khí trẻ con, chỉ ngồi một ngày tàu hỏa đã cảm thấy ngột ngạt, do đó chú Phúc ở lại trông hành lý, cô và Minh Hương đến toa ăn trước.

Trong toa ăn thật ra cũng ngột ngạt như thế, tất cả các cửa sổ chỉ kéo hở một khe, vì tàu hỏa đang đi, sức gió rất mạnh, khiến khăn trải bàn trên bàn ăn hơi lật lên, giống như có một bàn tay vô hình nâng lên rồi lại hạ xuống. Thức ăn trên tàu đương nhiên chẳng ra gì, cô đi du học từ nước ngoài về đã ăn ngán đồ Tây, chỉ nhằm vào bát canh củ cải ngọt đó, ăn hai cái bánh quy, đợi Minh Hương ăn xong, gọi thêm một phần cho chú Phúc. Tính cách Minh Hương hoạt bát, đi trước dăm bước, cô vừa ra khỏi toa ăn, bỗng nhiên thấy mấy người xông vào từ đầu toa bên kia, hai người trước chặn ở cửa toa, một người khác gọi trưởng toa sang một bên nói chuyện, những người còn lại ánh mắt như mũi tên, dò xét tứ phía trong toa tàu.

Trong toa tàu hạng nhất đương nhiên đều là người có tiền có quyền, mấy người đó còn đang đàm phán với trưởng toa, Doãn Tĩnh Uyển coi như không liên quan đến mình, nhìn một cái rồi đi về phòng, Minh Hương mang cơm về phòng cho chú Phúc, cô ngồi xuống rót cho mình một cốc trà, đang cầm sách lên, bỗng nghe thấy cửa phòng bị đẩy ra, ngẩng đầu lên nhìn, là một thanh niên tuấn tú rắn rỏi, chỉ hơn hai mươi tuổi, thấy cô cười áy náy nói: “Xin lỗi, tôi vào nhầm phòng”.

Cô thấy anh mặt mày xán lạn, rõ ràng là một công tử nhanh nhẹn, trong tích tắc, người đó bỗng nhiên quay đầu lại hỏi cô: “Cô mới từ Nga về?”. Cô kinh ngạc sợ hãi, ánh mắt nhìn xuống, nhìn thấy trên bìa cuốn sách của mình viết một hàng chữ tiếng Nga mới hơi thở phào nhẹ nhõm, nói: “Tiên sinh, cách bắt chuyện của anh không hay chút nào”. Anh không hề lúng túng, ngược lại cười rất ung dung nói: “Tiểu thư, tôi cũng mới từ Nga về cho nên mới muốn bắt chuyện với cô”.

Cô bất giác mỉm cười, đang định nói tiếp, bỗng nhiên đầu kia toa tàu có tiếng ồn ào lớn, cô không nén được đứng dậy đi về bên đó, hóa ra mấy người của Dĩnh quân và trưởng toa đang thương lượng không bên nào chịu bên nào, hai người ép trưởng toa sang một bên, những người còn lại bắt đầu lục soát từng căn phòng. Cô nhìn mấy người đó mời hết hành khách nam đi một mình ra khỏi toa, kiểm tra từng người, trong lòng bất giác âm thầm kinh ngạc, bỗng nhiên nghe thấy người bên cạnh nói nhỏ như thì thầm, nhưng là tiếng Nga: “Помогите мне” (giúp tôi).

Cô kinh ngạc quay đầu lại, dưới ánh đèn trần vàng vọt, ánh mắt anh sâu thẳm khó lường, đen như sắc đêm ngoài cửa sổ, không nhìn ra bất cứ đầu mối nào. Trong chớp mắt cô đã hiểu, hóa ra tình cảnh trên cả quãng đường này đều là vì anh mà ra, rốt cuộc anh là ai? Cô không nên gây bất cứ phiền phức nào, nhưng anh gần cô đến thế, trên người có mùi thuốc lá vị bạc hà nhạt nhạt, giống như mùi trên người Hứa Kiến Chương, gần gũi quen thuộc. Người soát tàu đã ở gần khoảng ba mét, chỉ cách họ một căn phòng, cô hơi chần chừ, anh nhẹ nhàng đẩy ra, kéo cô vào trong phòng. Trái tim cô đập thình thịch, hỏi nhỏ: “Anh là ai?”.

Anh đưa ngón trỏ lên, ra hiệu im lặng, đã có người gõ mạnh cửa phòng, cái khó ló cái khôn anh nằm lên giường, thuận thế kéo cô ngồi xuống giường, đồng thời tiện tay cầm cuốn sách của cô lên, cô không kịp có bất cứ phản ứng gì, cửa phòng đã bị mở ra. Cô đứng bật dậy, anh cũng giống như bị giật mình, đặt sách xuống quát hỏi: “Làm cái gì thế?”.

Mấy người đó quan sát hai người họ không rời, trong lòng cô như có người đánh một tràng trống dồn dập, anh lại vô cùng trấn tĩnh, kệ đám người đó dò xét. Mấy người đó nhìn ngó một lát, nói với người dẫn đầu: “Anh ra đây”. Anh biết không trốn được nữa, hoặc là bây giờ bị lục soát, hoặc đến bến sau bị giải xuống tàu, chỉ cần thân phận bại lộ, đều là kiếp nạn khó thoát, tuy lòng như lửa đốt, ánh mắt lại vẫn như không, ung dung thản nhiên nhìn Doãn Tĩnh Uyển một cái, chầm chậm đứng dậy.

Doãn Tĩnh Uyển thay đổi suy nghĩ, cười nói: “Các vị quan lớn hãy khoan, chúng tôi là thương nhân chân chính, không biết nhà tôi mắc tội gì, mấy vị quan lớn muốn đem anh ấy đi đâu?”. Vừa nói, vừa lấy giấy thông hành đặc biệt ra, người dẫn đầu nghe nói họ là vợ chồng, sắc mặt hơi dịu lại, cầm lấy giấy thông hành đó xem, liền nở một nụ cười: “Hiểu nhầm, hiểu nhầm, làm phiền hai vị rồi”, rồi chầm chậm lui ra ngoài, ánh mắt lại vẫn chăm chú nghi ngờ nhìn hai người, tiện tay giúp họ đóng cửa phòng, cửa lại không đóng kín, chừa lại một khe hở.

Mồ hôi lạnh đã toát dưới lần áo trong của cô, thấy tình thế bất lợi, không biết nên làm thế nào mới ổn, anh bỗng nhiên đi tới kéo cô vào lòng, không đợi cô phản ứng lại, anh đã bất ngờ hôn cô. Cô cực kỳ hoảng sợ, dường như tất cả máu đều ào ào chảy lên não. Sự tiếp xúc xa lạ mà nóng bỏng ấy, cảm giác chưa từng có, hơi thở và sức nóng lạ lẫm trên môi, cô vùng vẫy theo bản năng, lại bị sức lực của anh siết lấy không thể động đậy. Cô chưa từng tiếp xúc thân mật như vậy với đàn ông, hơi thở của anh lấp đầy mọi thứ, giống như thiên la địa võng không thể trốn chạy. Cô cảm thấy bản thân mình bị cuốn vào trong gió lốc, không thể nghe thấy gì, không thể nhìn thấy gì, cảm giác duy nhất là sự nóng bỏng trên môi, cùng với sự cướp đoạt gần như thô bạo của anh. Cánh tay anh bỗng nhiên buông ra, cô lập tức tát một cái không hề suy nghĩ, tay anh vừa bỏ ra đã nắm lấy cổ tay cô, nói nhỏ: “Xin lỗi”.

Cô quay đầu lại, thấy cửa phòng đã khóa, giờ mới hiểu ra, chỉ là quá phẫn nộ, giơ tay tát thêm một cái, anh lại không hề tránh, chỉ nghe “chát” một tiếng, tay đã tát mạnh vào mặt anh. Cô thấy anh ra tay lần đầu tiên, đã biết dù thế nào mình cũng đánh không lại anh, nhưng không ngờ anh lại không hề ngăn cản mình tát lần thứ hai, hơi thảng thốt, chỉ thấy trên mặt anh dần dần hiện lên vết ngón tay, anh lại chỉ mỉm cười, nói: “Cảm ơn cô”.

Cô hừ một tiếng, nói: “Coi như anh may mắn, tôi đang có cửa, có giấy thông hành trong tay, mới có thể đuổi đám người đó đi, nếu không thì vẫn bị anh liên lụy”. Thật là quỷ ám, ma xui quỷ khiến mới giúp đỡ anh, thấy vết ngón tay mờ mờ trên mặt anh, cô thấy hơi có lỗi, “này” một tiếng, hỏi: “Anh tên là gì?”.

Anh nghĩ một lát. Nói: “Tôi họ Lục, Lục Tử Kiện”. Cô cười tươi: “Trùng hợp thế, tôi họ Ngũ, Ngũ Tử Tư”.

Anh biết cô biết rõ bản thân mình báo tên giả, cố ý trêu chọc như thế, lúc đó chỉ mỉm cười, nói: “Có thể đi cùng tàu với tiểu thư, cũng coi như là có duyên phận, tuy đại ân không thể cảm tạ hết, nhưng vẫn xin hỏi quê quán tiểu thư, hôm khác sẽ đến nhà cảm tạ”. Cô thấy giữa hàng lông mày của anh ẩn hiện sự lo âu, nói: “Bỏ đi, tuy anh mạo phạm tôi, cũng là bất đắc dĩ, tôi cũng đã tát anh một cái, chúng ta coi như hòa”. Tuổi cô tuy nhỏ, nhưng tính khí rộng rãi cởi mở, anh hơi chần chừ, nhưng không truy hỏi nữa. Cô nhìn thấy ánh đèn dần tắt bên ngoài cửa sổ, nói: “Hết đêm nay, đợi qua địa giới của Dĩnh quân, tôi đoán anh sẽ không sao nữa”. Anh thấy cô thông minh nhanh trí như vậy, khóe môi hơi mấp máy, muốn nói lại thôi, nhưng cô lại đoán được ý nghĩ của anh: “Dù sao tôi đã bị thiệt lớn rồi, thiệt thêm chút nữa cũng chẳng sao, đưa Phật đưa đến Tây Thiên, để anh nhớ đến cái ân huệ lớn lao này của tôi cả đời. Mấy người bên ngoài nhất định vẫn chưa đi, thế nào cũng phải đến Dư Gia khẩu mới chịu xuống xe”. Cô vừa nói, vừa chăm chú nhìn sắc mặt anh, nhắc đến Dư Gia Khẩu, đôi lông mày anh hơi chau lại, đó là tuyến giáp giới của hai quân Thừa – Dĩnh, hai quân Thừa – Dĩnh mấy năm nay đánh đánh ngừng ngừng, nửa năm nay tuy nói là đình chiến, nhưng hai bên đều đóng trọng binh ở Dư Gia Khẩu, đại bản doanh phía Nam của Thừa quân trú trong thành Vĩnh Tân cách Dư Gia Khẩu không xa.

Cô gọi Minh Hương đến ngồi cùng mình, tuổi Minh Hương tuy nhỏ hơn cô, nhưng đã đi xa nhà mấy lần rồi, thấy có người lạ, Minh Hương thông minh không hề dò hỏi. Hai người họ chen chúc trên một chiếc giường, anh tựa người trên chiếc giường đối diện nhắm mắt nghỉ ngơi, nửa đêm tàu đến Dư Gia Khẩu, anh không xuống tàu, trong lòng cô thầm thấy lạ. Cô vốn dĩ nửa đêm không ngủ, cực kỳ mệt mỏi, đến ba, bốn giờ sáng, không chịu được ngủ thiếp đi, vừa chợp mắt một lát, trong mơ hồ bỗng cảm thấy có người đi lại, gượng mở mắt ra, tàu đã dừng, chỉ không biết là đến bến nào. Bên ngoài đèn đuốc sáng trưng, trên sân ga toàn là người đứng gác. Cô chợt mở to mắt, anh đã mở cửa phòng, đứng ở cửa bỗng nhiên lại quay đầu lại, trong bóng tối lặng lẽ nhìn một lát. Cô không biết anh đang nhìn gì, trong nháy mắt, anh đã quay đầu rời đi.

Tất cả mọi người trên tàu đều đang ngủ, dường như chỉ có một mình cô thức, bốn bề chìm trong tĩnh lặng, chỉ nghe thấy tiếng nói chuyện lúc có lúc không trên sân ga, tiếng bước chân lộn xộn, tiếng động cơ ô tô… xen lẫn tiếng tích tắc đơn điệu, rất lâu sau, cô mới phát hiện ra âm thanh đơn điệu đó phát ra từ bên cạnh chiếc gối của mình, chẳng trách thấy gần như vậy. Đưa tay ra, nhờ ánh đèn xuyên qua rèm cửa trên sân ga, nhận ra là một chiếc đồng hồ quả quýt vàng tinh xảo, dây đồng hồ nhỏ bé uốn lượn bên cạnh gối, cô nắm nó trong tay, nghe tiếng tích tắc tích tắc trĩu nặng như một trái tim không an phận, tàu đã lại chầm chậm khởi động.

Buổi trưa, đến ga Quý An, sau khi dừng lấy thêm nước, mãi mà tàu không chạy, chú Phúc sau khi đi thăm dò về, nói: “Người của nhà ga nói sẽ có xe riêng đến, nên phải đợi đã”. May mà cũng không phải đợi lâu, xe riêng đã tới. Cuối cùng đến chiều cũng tới được Thừa Châu, nhưng lại không thể vào ga, mà chỉ có thể dừng lại ở trạm dừng xe nhỏ của Cừ Giang bên ngoài thành Thừa Châu, Doãn Tĩnh Uyển lờ mờ đoán ra tình thế khác lạ, nhưng việc đã đến nước này, đành tùy cơ ứng biến. Hành khách xuống xe ở Cừ Giang, ở đó không có ô tô, may mà cách thành không xa lắm, nên có người đi bộ, có người gọi xe kéo đi vào thành.

Vào thành càng cảm thấy tình hình kỳ lạ, Thừa Châu là căn cứ chính của Thừa quân, hành dinh đốc quân được đặt ở đây, cảnh giới trong thành nghiêm ngặt, tất cả các cửa hàng đều đang xếp hàng, ô tô nườm nượp, quân đội điều động, rõ ràng là đã xảy ra chuyện lớn. Chú Phúc tìm một thương gia bên đường hỏi thăm, rồi thở hồng hộc chạy về nói với Doãn Tĩnh Uyển: “Đại tiểu thư, xảy ra chuyện rồi, đại soái Mộ Dung bệnh nặng, Cậu Sáu quay về hạ lệnh toàn thành giới nghiêm, chỉ sợ lại phải đánh trận”.

Doãn Tĩnh Uyển lo lắng, nói: “Chúng ta tìm một nơi để ở trước đã”. Trong lòng cô lờ mờ cảm thấy không ổn, Mộ Dung Phong, con trai duy nhất của đốc quân Thừa châu Mộ Dung Thần, cảnh vệ và thuộc cấp chính quy của Thừa quân đều gọi anh ta là “Cậu Sáu”, vì trước anh ta có năm người chị, Mộ Dung Thần hơn bốn mươi tuổi mới có một người con trai, đương nhiên yêu quý Mộ Dung Phong như con mắt mình, anh ta đã kịp quay về, hạ lệnh giới nghiêm toàn thành, chứng tỏ bệnh tình của Mộ Dung Thần vô cùng nguy cấp.

Quả không sai, sáng sớm hôm sau, Thừa quân liền đánh điện thông báo toàn quốc, công bố tin qua đời của Mộ Dung Thần. Hóa ra Mộ Dung Thần trúng gió đột tử đã được bốn ngày, nhưng vì Mộ Dung Phong xuống phía Nam chọn mua quân nhu, nên mấy thuộc cấp thân tín của nhà Mộ Dung lo lắng tình hình chấn động, chủ trương không phát tang, đợi Mộ Dung Phong về Thừa Châu mới công bố.

Doãn Tĩnh Uyển bảo chú Phúc đi mua tờ báo không kìm được sự lo lắng, chú Phúc nói: “Nhìn tình hình này, chắc còn rối loạn một thời gian nữa, chỉ sợ chuyển hàng không thuận tiện”. Doãn Tĩnh Uyển do dự chốc lát, nói: “Ở thêm hai ngày nữa, đã tới thì an tâm ở lại. Chưa biết chừng tình hình có thể ổn định lại”. Thấy chú Phúc có vẻ hơi không đồng tình, cô liền nói: “Cháu nghe nói Cậu Sáu này từ nhỏ đã lớn lên trong quân đội. Sự biến Dư Gia Khẩu năm đó, anh ta đang luyện binh trong đại bản doanh phía Nam, không ngờ cận kề tình cảnh nguy hiểm, cuối cùng lấy ít thắng nhiều, một người mười bảy tuổi đã làm được việc lớn như thế, bây giờ tất nhiên có thể dẹp yên tình hình”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-5-2013 00:00:02 | Xem tất
Chương 2




Giới nghiêm toàn thành Thừa Châu thêm vào tổ chức tang lễ, quả thật hơi có vài phần khiến người ta lo sợ. Họ ở trong quán trọ, ngoài ăn cơm, không hề xuống lầu, Doãn Tĩnh Uyển quá buồn chán, liền ở trong phòng chơi bài với Minh Hương. Mộ Dung Phong quả nhiên làm việc quyết đoán dứt khoát, trong vài ngày liền quân đội hùng hậu áp sát, ép Dĩnh quân không dám manh động, hai bên giằng co vài ngày, tình thế thật sự dần dần yên ổn trở lại.

Tuy vậy, Doãn Tĩnh Uyển vẫn nghe theo lời chú Phúc, chỉ chọn mua một nửa số hàng vận chuyển đi trước, còn họ quay về Càn Bình. Thành Càn Bình vốn dĩ là cố đô của triều trước, bây giờ tuy không còn là khu vực dẫn đầu, nhưng vẫn là bảo vật tinh hoa, là thành phố phồn thịnh, tất nhiên không giống với những địa phương lân cận.

Họ Doãn là gia tộc danh giá ở quận Càn Bình, đại tộc trâm anh mấy đời, sau này dần dần lụn bại. Căn nhà này của họ từ lúc ông cố bỏ nghiệp văn theo nghề buôn bán, nên mới phồn thịnh trở lại, đến đời Doãn Sở Phàn cha của Doãn Tĩnh Uyển, thì việc làm ăn càng lớn, chỉ là ít con cái có mỗi cô con gái nên Quý Như Ngọc, được nuôi như con trai, lần này tự cô muốn đến phía Bắc, cha mẹ không cản được, đành đồng ý. Nhận được điện báo của cô, họ đã phái lái xe đến bến tàu đón.

Doãn gia nhà cao cửa rộng xây theo kiểu cũ, con đường xi măng mới láng thông thẳng đến tận trong khu nhà, bác Trương, người làm chăm hoa lan đằng sau cổng vòm, vừa nhìn thấy ô tô đi vào, liền kêu ầm lên: “Đại tiểu thư về rồi”. Bác Ngô, bác Lý trong nhà trên đều chạy ra đón, hớn hở giúp cô xách hành lý, lại dìu cô đi vào. Doãn gia vốn là khu nhà cũ, nhà trên mới sửa, khung cửa sổ bằng kính lớn trong suốt sáng lóa hướng về phía Nam, cô vừa bước vào, nhìn thấy mẹ đang bước từ gian trong ra, ánh nắng chiếu vào bộ sườn xám gấm màu xanh ngọc mẹ cô đang mặc, ánh lên chữ Thọ nhỏ thêu bằng chỉ bạc, tuy cô không nhìn rõ vẻ mặt của mẹ, nhưng trong lòng mừng rỡ vô hạn, cô cất tiếng gọi: “Mẹ”. Doãn phu nhân nói: “Con về rồi đó à”, rồi kéo tay cô với vẻ thương xót, chăm chú nhìn cô một lượt, lại nói: “Cha con luôn oán trách, nói ông ấy đã chiều con quá, chiến tranh loạn lạc, con gái một thân một mình chỉ sợ con xảy ra chuyện”. Doãn Tĩnh Uyển thấy cha cũng đã đi ra, tươi cười rạng rỡ nói: “Có thể xảy ra chuyện gì chứ, không phải là con yên ổn trở về rồi sao?”. Doãn Sở Phàn vốn đang hút tẩu thuốc, lúc này mới nở một nụ cười, nói: “Về là tốt rồi, về là tốt rồi”.

Lần đi xa này, tuy có chút hoảng sợ nhưng may không nguy hiểm, người nhà vô cùng lo lắng, thấy cô trở về bình an vô sự mới thở phào nhẹ nhõm, cô vốn du học nước ngoài về, bản thân cảm thấy trên thế giới không có gì là không thể, chút nguy hiểm này chỉ coi như là truyền kỳ thú vị, trước mặt cha mẹ ngậm miệng không nói, chỉ chọn những tin thú vị trên đường đi để kể, Doãn phu nhân thì không nói gì ông Doãn Sở Phàn nghe thấy, cũng hơi tán thưởng. Doãn phu nhân liền quở trách: “Xem ông chiều nó kìa, tối qua còn oán trách hôm nay lại tha cho nó”. Đang nói chuyện, bác Ngô bên cạnh bước lên hỏi: “Số va ly đại tiểu thư mang về, nên thu dọn thế nào đây?”.

Bấy giờ Doãn Tĩnh Uyển nhớ ra, nói: “Con đem rất nhiều đồ về đấy. Đồ da ở phương Bắc rẻ lắm, mẹ, con mua cho mẹ tấm da rái cá hàng cao cấp, đủ làm một chiếc áo khoác”. Cô bảo người lấy chiếc va ly lớn nhất ra, mở từng cái cho cha mẹ xem, ông Doãn Sở Phàn thấy bên trong có một hộp gấm, tiện tay mở ra, hóa ra là một củ nhân sâm già rất tốt, liền nói: “Lần sau đừng đem đồ này về, nguy hiểm lắm”. Doãn Tĩnh Uyển tươi cười nói: “Con chỉ đem một củ nhân sâm về, chẳng lẽ có thể nói con vận chuyển thuốc lậu chắc?”. Tiếp đó cô lấy ra một hộp giấy in hoa nổi, nói: “Con cũng đem đồ về hộ Kiến Chương này”. Doãn phu nhân mắng yêu: “Thật không lễ phép, ngay cả một tiếng anh cũng không gọi, Kiến Chương này Kiến Chương nọ, người ta nghe thấy thì ra gì chứ”. Mẹ cô còn nói: “Anh Hứa của con nghe nói hôm nay con về, bảo chiều sẽ đến thăm con đấy”. Doãn Tĩnh Uyển nghe thấy, vặn vặn người, nói: “Con rất ổn, cần anh thăm làm cái gì”.

Doãn phu nhân cười không nói, Doãn Tĩnh Uyển khiến bà cười đến rũ ra, cô lại hơi quở trách một tiếng: “Mẹ”. Doãn phu nhân nói: “Mau đi tắm rửa thay quần áo, lát nữa ăn cơm”.

Đi vào một sân vườn, mới là phòng ngủ của Doãn Tĩnh Uyển, bác Ngô đã chuẩn bị sẵn nước tắm cho cô, Minh Hương giúp cô thu dọn một ít hành lý lặt vặt đem về. Tắm xong, Minh Hương đã giúp cô đặt đồ trang sức lên bàn trang điểm, cô ngồi xuống chải tóc, bỗng nhiên nhìn thấy chiếc đồng hồ quả quýt đó được đặt trên bàn, viên đá nhỏ trên nắp lấp lánh xinh đẹp dưới ánh đèn. Cô biết đây chính là đồng hồ của Patek Philippe(*), giá không rẻ, có lẽ anh muốn dùng nó để cảm ơn? Trên tàu thời gian vội vã không xem kỹ liền cất đi, lúc đó cảm thấy chiếc đồng hồ này cực kỳ tinh xảo, dựa vào ánh đèn chỉ nhìn thấy trên nắp có khắc một hàng chữ màu vàng, đưa ra trước đèn hóa ra là hai chữ “Bái Lâm”. Cái tên này quen quen, hình như đã nghe thấy ở đâu, bỗng nhiên Minh Hương nói: “Đại tiểu thư, Hứa thiếu gia đến rồi”. Trong lòng cô mừng rỡ, vội vã nhét chiếc đồng hồ vào ngăn kéo, lại soi gương sửa tóc, rồi mới đi ra.

Hứa Kiến Chương đang nói chuyện với Doãn Sở Phàn trong phòng khách, sắc trời tối dần, trong phòng khách bật đèn tường, Tĩnh Uyển nhìn thấy hình bóng quen thuộc đứng trước cửa sổ, nhanh nhẹn như cây ngọc trước gió, có lẽ là đi ra quá vội, tim cô cứ đập thình thịch. Hứa Kiến Chương đã nhìn thấy cô, hơi gật đầu cười nói: “Tĩnh Uyển xa nhà một chuyến, cũng ra dáng người lớn rồi”. Tĩnh Uyển vênh mặt lên, nói: “Em vốn dĩ là người lớn mà, chẳng lẽ em vẫn là trẻ con sao?”. Cô vừa quở mắng vừa giận dỗi, bông hoa tai ngọc phỉ thúy hình chiếc lá thu sàn sạt cọ vào cổ áo, Doãn phu nhân nói: “Con bé này không biết lớn bé gì, may mà anh Hứa của con không phải người ngoài, làm gì có ai nói móc như con hả?”. Bà nói tiếp: “Nói chuyện với anh Hứa của con đi, mẹ đi xem xem cơm chuẩn bị thế nào rồi”.

Bà đứng dậy đi xem người làm thu dọn phòng ăn, Doãn Tĩnh Uyển thấy ông Doãn Sở Phàn cũng mượn cớ bỏ đi, liền cười nói với Hứa Kiến Chương: “Em mang về cho anh một hộp xì gà”. Hứa Kiến Chương thấy cô thay Âu phục, màu ráng chiều rất nhạt, dưới ánh đèn, cô mềm mại xinh đẹp như một bông hoa rẻ quạt, liền hỏi nhỏ vặn lại: “Không phải em bảo anh đừng hút thuốc sao?”. Doãn Tĩnh Uyển nghe thấy anh nói vậy, cũng không kìm được cười tươi, dừng lại một lát mới nói rằng: “Trên đường em cứ nghĩ, thực ra mùi thuốc lá cũng rất dễ chịu”.

Anh nghe thấy cô nói như vậy, cũng không nhịn được cười.

Hai nhà Hứa – Doãn vốn có quan hệ nhiều đời, Doãn phu nhân giữ Hứa Kiến Chương ở lại ăn cơm, nói chuyện đến rất muộn mới về. Sáng sớm hôm sau, Doãn phu nhân vừa dậy thấy Tĩnh Uyển đã dậy rồi, nói: “Sao không ngủ thêm chút nữa?”. Tĩnh Uyển vội vàng đáp: “Anh Hứa hẹn con đi xem chợ hoa”. Doãn phu nhân biết đôi trẻ này tiểu biệt trùng phùng, tất nhiên sẽ có chỗ đi của chúng, cũng chỉ cười không hỏi.

Hứa Kiến Chương tự mình lái xe đến đón cô, cô vừa lên xe anh liền hỏi: “Em ăn sáng chưa?”. Tĩnh Uyển đáp: “Vẫn chưa”. Hứa Kiến Chương nói: “Anh biết ngay là chưa mà, em thích ngủ như vậy, hiếm khi dậy sớm như hôm nay, chắc chắn không kịp ăn rồi”. Tĩnh Uyển nói: “Không hỏi việc ăn uống thì lại nói em thích ngủ, anh coi em là gì hả?”. Hứa Kiến Chương thấy cô có ý quở trách, ánh mắt lưu chuyển có một cảm giác lay động lòng người, cười nói: “Anh chuộc lỗi với em, có được không? Hôm nay anh đưa em đi ăn một món đảm bảo em chưa từng ăn”.

Xe men theo con phố dài đi về phía Nam, sau đó lại rẽ về phía Tây đi rất lâu, đi qua con phố nhỏ, cuối cùng dừng lại ở một con ngõ, Hứa Kiến Chương nói: “Chỗ này cách chợ hoa cũng gần, chúng ta đi bộ qua đó nhé, tiện đường ăn sáng”. Tĩnh Uyển theo anh xuống xe, thật ra vẫn còn rất sớm, trong ngõ tĩnh lặng, cửa ngõ có hai cây hòe già, hoa hòe rơi đầy đất, người giẫm lên, nát vụn đi không thành tiếng.

Hứa Kiến Chương đi phía trước, Tĩnh Uyển bỗng nhiên gọi anh: “Kiến Chương”. Anh quay mặt lại, ánh mặt trời chiếu đúng vào mặt anh, ánh sáng như vụn vàng, mày mắt thanh tú, trong lòng cô trào lên cảm giác hơi ngọt ngào, giống như con gió sớm lướt qua, nhè nhẹ mềm mềm, anh đã đưa tay ra, cô khoác lấy cánh tay anh, gió sớm hơi lạnh, nhưng mang theo mùi hương hoa hòe ngào ngạt.

Đi ra khỏi ngõ là một con phố xiên, trên phố có hàng ăn nhỏ, bán bún Qua Cầu Vân Nam(*). Cô chưa từng đến ăn ở cửa hàng kiểu này, quả nhiên thấy rất mới mẻ, bún được đưa lên, lại có bốn đĩa thịt, cá, đậu Hà Lan, đậu phụ được thái rất mỏng. Cô vừa cầm đũa lên gắp, bỗng nghe Kiến Chương nói: “Cẩn thận bỏng”. May mà anh cảnh báo, nếu không thì cô bị bỏng thật, không ngờ bát canh không hề bốc hơi lại có thể nóng như vậy, cô nhúng chín từng miếng cá, miếng thịt để ăn, lát sau trên mặt đã lấm tấm mồ hôi, lấy khăn tay ra lau, thấy trên trán Kiến Chương cũng vậy, cô liền đưa khăn tay cho anh, anh chỉ mỉm cười nhận lấy. Bên ngoài ánh nắng rất đẹp, ở phía xa xa người quét rác cầm chiếc chổi lớn, quét phố soạt soạt, âm thanh truyền đến đứt quãng, giống như có người cầm chiếc lông nhẹ nhàng quét qua tai, ngứa ngứa dễ chịu, ánh mặt trời màu vàng nhàn nhạt chiếu vào bức tường trắng nhà đối diện, chỉ thấy xung quanh đều tĩnh lặng, như năm tháng lặng lẽ.

Chợ hoa mùa xuân vốn rất náo nhiệt, đến mùa này mà họ lại đi sớm, cảm thấy hơi quạnh quẽ. Rất nhiều chủ sạp vẫn chưa bày hoa ra, hai người men theo con phố đi về phía trước, ngắm nghía cả đường, lan Hạ Sơn đã qua mùa, không có nhiều chủng loại, cả chợ hoa đều là hoa lựu đúng mùa, có một loại lựu nhiều lá cánh kép, nụ hoa chi chít xen giữa tán lá màu xanh, giống như chiếc nút vải đỏ cộm lên, lúc hoa nở chắc hẳn giống như hàng vạn ngọn đuốc rực cháy, còn cả cúc Tây Dương, từng bông hoa trắng như thủy tinh, vô cùng đẹp đẽ.

Hứa Kiến Chương biết cô thích náo nhiệt, cùng cô xem cây thuốc, lại mua một bình hoa lựu cánh kép, nói: “Cái này tuy nhỏ bé, để vào phòng em sẽ rất hợp, đợi hoa nở nhất định rất đẹp”. Bản thân cô cũng chăm chú chọn một bình hoa trà, Hứa Kiến Chương thấy buồn cười: “Chúng mình đúng là ngốc, bao nhiêu hoa do thợ trồng hoa trồng, lại còn muốn mua thêm về”. Cô cũng thấy buồn cười, nói: “Đi cùng anh, cứ luôn làm việc ngốc nghếch như thế”.

Họ đi ra từ chợ hoa, lại đi về phía Kỳ Ngọc Trai xem đồ cổ thư họa, Hứa Kiến Chương vốn là khách quen, người làm ở Kỳ Ngọc Trai đương nhiên tiếp đãi chu đáo, vừa ngồi xuống, pha trà thượng hạng trước lại thêm bốn đĩa điểm tâm, mới mỉm cười nói: “Hứa thiếu gia đến thật đúng lúc, vừa có một chiếc nghiên rất đẹp”. Người đó lại nói: “Doãn tiểu thư đã lâu không đến nơi nhỏ này rồi”, rồi hỏi thăm quý phủ, rất chu đáo lễ phép.

Người làm lấy mấy thứ ra cho Hứa Kiến Chương xem trước, Tĩnh Uyển uống nửa tách trà, thấy người làm trên quầy đang kiểm tra vài đồ ngọc cổ, trong đó có một chuỗi ngọc màu đỏ, sắc đỏ tươi thắm, mờ ảo như có ánh sáng rực rỡ lưu chuyển, cô không kìm được nhìn chăm chú. Người làm thấy vậy vội cầm đến cho cô xem kỹ. Người đó thấy cô thích, đứng bên cạnh nói: “Doãn tiểu thư thật có mắt nhìn, đồ như thế này vốn là đồ trong cung, qua tay nhiều người cho đến nay, giá tiền không quan trọng, nếu Doãn tiểu thư thích cũng coi như là có duyên”.

Hứa Kiến Chương thấy cô có vẻ khá thích thú, liền nói với người làm: “Cậu nói giá đúng đi, lát nữa đến lấy tiền”. Người làm vâng một tiếng, rồi ra quầy hỏi giá. Tĩnh Uyển có tính khí đại tiểu thư, nghe nói là đồ trong cung, biết rằng chắc chắn không rẻ nhưng thật sự rất thích, cũng không hỏi bao nhiêu tiền, mừng rỡ lấy xuống thử. Soi soi chiếc gương bằng gỗ cây lê mang phong cách cổ trên bàn, hôm nay cô mặc bộ Âu phục màu đỏ anh đào, cổ áo hình tim nho nhỏ, đeo chuỗi ngọc đó lên, khiến làn da trắng như tuyết, ánh sáng viên ngọc lấp lánh, nhìn vào gương càng thích hơn. Bỗng nhiên nghe Hứa Kiến Chương nói bên tai: “Có giống đậu đỏ không?”.

Cô vốn không cảm thấy, nghe thấy lời anh nói trong lòng ngẫm lại, thấy thật ngọt ngào, khi thấy hai khuôn mặt tươi cười trong gương, ở đó như có gió xuân thổi vô hạn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-5-2013 00:02:40 | Xem tất
Chương 3


Tĩnh Uyển và Hứa Kiến Chương chơi đến tận tối, xem xong phim mới về, đến nhà đã mười giờ hơn. Doãn gia vì làm ăn với người nước ngoài, ít nhiều học được chút phong cách phương Tây, Tĩnh Uyển tuy là một tiểu thư, nhưng buổi tối mười giờ về nhà cũng là bình thường. Bác Ngô nghe thấy tiếng còi xe đã ra ngoài đón lấy túi xách. Tĩnh Uyển đi vào, thấy trong phòng vẫn sáng đèn nên hỏi: “Mẹ cháu đã ngủ chưa?”.

Bác Ngô nói: “Bà Triệu và Tôn nhị phu nhân, còn cả bà Tần đến đánh bài”. Tĩnh Uyển nghe nói có khách, bèn đi vào phòng, quả nhiên thấy trong phòng khách kiểu Tây bày một bàn mạt chược, bà Tần ngồi nhìn ra cửa, ngẩng đầu lên nhìn thấy cô, nói: “Đại tiểu thư về rồi”. Cô tươi cười gọi một tiếng: “Bác Tần”. Cô lại chào bà Triệu và Tôn nhị phu nhân rồi đứng sau lưng mẹ xem bài. Doãn phu nhân hỏi: “Ăn tối chưa? Nhà bếp đang chuẩn bị chút điểm tâm đấy”. Tĩnh Uyển nói: “Buổi tối con ăn đồ Tây, bây giờ vẫn không thấy đói”. Doãn phu nhân nói: “Cha con ở trong phòng đọc sách, nói con về thì vào gặp ông ấy”. Tĩnh Uyển vâng lời liền đi ra.

Cô vừa đi đến cửa phòng đọc sách, liền ngửi thấy mùi thuốc nồng nặc, nói: “Cha, cha coi chừng cháy nhà đấy”. Ông Doãn Sở Phàn vẫn luôn cưng chiều cô con gái này, thấy cô về, liền cười, nói: “Con bé này, chỉ biết nói linh tinh”. Bỗng nhiên nhớ ra một chuyện, ông liền nghiêm mặt nói: “Cha muốn hỏi con một chuyện đây”. Nhìn vào con gái, ông nói: “Lúc chiều số hàng đã về tới nơi, cũng thuận lợi nhưng sao con kẹp bốn thùng thuốc Tây ở giữa? Chẳng may bị soát ra, thì làm sao?”.

Tĩnh Uyển nghe thấy ông hỏi chuyện này, vẫn không lo lắng hốt hoảng, nói: “Con nghe Kiến Chương nói, chỗ anh ấy rất thiếu thuốc Tây, dù sao là đi một chuyến rất xa, con liền đem về giúp anh ấy một ít”. Doãn Sở Phàn không kìm được nói: “Con nói quá ngây thơ, chẳng may bị lục soát ra sẽ phải ngồi tù, con thật là trẻ con không biết trời cao đất dày, Kiến Chương nhìn người lớn, hóa ra làm việc cũng hồ đồ, sao có thể để con làm việc này?”.

Tĩnh Uyển nghe ông nói vậy, vội vàng biện bạch: “Chuyện này không liên quan đến anh Hứa chút nào, là con tự mình quyết định, đến bây giờ anh ấy còn chưa biết, cha muốn mắng thì mắng con ấy, không liên quan đến người khác”. Doãn Sở Phàn vốn dĩ rất tức giận, thấy hai mắt con gái nhìn mình lo lắng đến muốn khóc, ông chỉ có một cô con gái, chẳng lẽ nỡ đánh mắng thật sao? Không kìm được liền mềm lòng, hừ một tiếng nói: “Con phải chịu khổ mới hiểu được tốt xấu”. Ông lại nói tiếp: “Nếu Kiến Chương biết, nhất định cũng sẽ giáo huấn con một trận, con cứ đợi mà xem”.

Ngày hôm sau Hứa Kiến Chương nghe thấy việc này, quả nhiên nói với cô: “Em cũng quá liều lĩnh rồi, chuyện này chẳng may bị phát hiện không phải là chuyện đùa đâu”. Tĩnh Uyển mỉm cười, nói: “Làm sao có thể bị phát hiện được, mỗi lần anh nhập hàng, không phải đều rất thuận lợi sao?”. Hứa Kiến Chương nói: “Sao có thể so sánh như thế chứ, em là một cô gái”. Tĩnh Uyển liền bĩu môi ra, nói: “Trong thâm tâm anh vẫn khinh thường con gái, trước đây anh khen em còn hơn đàn ông, hóa ra đều là giả”. Hứa Kiến Chương thấy cô hơi tức giận, biết cô xưa nay thích mềm mỏng, nên chỉ có thể nói lý lẽ với cô, do đó nhẹ nhàng nói: “Em biết anh không có ý đó, bình thường anh đi nhập hàng, đều là qua cửa có người quen nhiều năm, lấy được giấy phép của quân đội, trên đường đều có người coi sóc, đương nhiên không có người soát, em làm việc tùy tiện như thế, nguy hiểm lắm”.

Tĩnh Uyển thấy anh nói có lý, lại thấy khuôn mặt lo âu của anh, chung quy là vì lo lắng cho bản thân mình, nên nói: “Làm sao em biết ở giữa có đường dây chứ, coi như em sai rồi”. Bản tính cô bướng bỉnh, không dễ dàng nhận sai, nói như vậy coi như đã nhận lỗi, Hứa Kiến Chương cũng chỉ cười nói: “Em cũng là có lòng tốt, vốn là nghĩ cho anh”. Cô cũng liền cười, nói: “Anh biết là được rồi”.

Hai người họ nói chuyện trong phòng khách, giọng nói hơi nhỏ, Doãn phu nhân đích thân bưng lên món điểm tâm hình tim của phương Tây, thấy đôi trai gái đang tâm tình, nhoẻn miệng cười, lại lặng lẽ lui xuống, quen chân liền đi đến phòng sách ở sau vườn, ông Doãn Sở Phàn đang đeo kính lão xem sổ sách, thấy vợ bưng điểm tâm vào, giả giọng kịch nói: “Cảm phiền phu nhân, hạ quan xin nhận”. Doãn phu nhân chau mày: “Xem ông kìa, trong nhà có khách, nếu bị nhìn thấy thì ra cái gì?”. Ông Doãn Sở Phàn nói: “Không phải là Hứa Kiến Chương đến rồi sao? Tôi tới chào hỏi một câu”. Doãn phu nhân nói: “Bọn trẻ đang nói chuyện, ông đi ra làm phiền gì chứ, hơn nữa cậu ta tới nhà ta suốt, lại là bề dưới, ông không ra cũng chẳng thất lễ”. Liền gọi người làm rót trà, cùng chồng ăn điểm tâm ở phòng sách. Doãn Sở Phàn ăn hai miếng bánh, lại châm thuốc, Doãn phu nhân nói: “Tính khí Tĩnh Uyển không tốt, làm khó cho Kiến Chương phải nhường nhịn nó, huống hồ chúng ta lại nhìn chúng nó trưởng thành, hai nhà biết rõ nguồn gốc. Ôi, chỉ đáng tiếc cha của Kiến Chương qua đời quá sớm, chuyện kinh doanh Hứa gia đều do cậu ta lo liệu, đứa trẻ này quả thật là người già dặn khôn khéo hiếm có. Lần trước Hứa phu nhân nửa thật nửa giả, bóng gió nói chuyện cưới xin với tôi, tôi chỉ ậm ừ qua loa cho xong”. Doãn Sở Phàn gõ gõ đầu thuốc vào gạt tàn, nói: “Tĩnh Uyển còn ít tuổi, trước mắt quan hệ hai đứa tuy rất tốt, nhưng phải đợi đến năm sau, đợi Tĩnh Uyển qua sinh nhật mười tám tuổi mới được đính hôn”.

Mấy ngày sau, Doãn phu nhân đến Hứa phủ đánh bài với Hứa phu nhân, tìm cơ hội nói chuyện riêng, khéo léo để lộ ra ý đó, Hứa phu nhân sớm đã nhắc khéo đến hôn sự, nay nhận được đáp án xác thực, đương nhiên hết sức vui mừng. Tĩnh Uyển và Hứa Kiến Chương cũng lờ mờ biết được ý của cha mẹ, hai nhà họ tuy là gia đình kiểu cũ, nhưng bây giờ có chút tác phong phương Tây, cha mẹ đã chịu ủng hộ như thế, hai người đương nhiên cũng vui mừng.

Thời gian dần trôi, đó là thứ dễ dàng qua đi nhất. Xuân đi thu đến, chớp mắt đã là Tết Âm lịch, qua tháng Giêng, thời tiết ấm dần, hoa đỏ lá xanh, mùa xuân lại về. Hứa gia và họ Doãn sớm đã bàn bạc, nghe ý kiến của hai trẻ, ấn định tổ chức lễ đính hôn theo kiểu Tây vào tháng năm, nhưng hai nhà Hứa – Doãn đều là đại gia tộc, người thân bạn bè đông đảo, việc phải chuẩn bị đương nhiên cũng rất nhiều, từ giữa tháng tư đã bắt đầu mua sắm thêm đồ đạc, lên danh sách khách mời, Hứa gia sơn sửa vôi ve nhà trong nhà ngoài.

Hứa gia buôn bán thuốc, cuối tháng tư đúng là lúc bắt đầu bệnh dịch, thời kỳ dược liệu cháy hàng. Hàng năm vào lúc này, Hứa Kiến Chương sẽ tự mình đến phía Bắc nhập hàng, năm nay vì việc riêng trong nhà, vốn định gọi mấy người bạn làm ăn cũ đi, nhưng hai quân Thừa – Dĩnh vừa mới đình chiến, tình hình dần ổn định, Hứa Kiến Chương sợ trên đường xảy ra sai sót gì, cuối cùng vẫn quyết định tự mình đi một chuyến.

Tĩnh Uyển nghe nói vào lúc này anh còn phải đi xa, tuy không nỡ nhưng cũng không có cách nào, huống hồ mình luôn tôn trọng anh tuổi trẻ có triển vọng, một mình gánh vác đại nghiệp của gia đình, cho nên tuy lưu luyến, cuối cùng vẫn không ngăn cản. Trước khi Hứa Kiến Chương đi một ngày, Doãn phu nhân bày tiệc rượu tại nhà để tiễn anh, Tĩnh Uyển vốn là người rất thích náo nhiệt, hôm đó lại buồn bã không nói, chỉ cúi đầu ăn cơm. Doãn phu nhân gắp thức ăn cho Hứa Kiến Chương, miệng nói: “Tĩnh Uyển là như thế, tính khí trẻ con, một lát nữa là ổn thôi”. Hứa Kiến Chương nhìn Tĩnh Uyển, thấy cô gẩy từng hạt cơm, dáng vẻ lại giống như rất hốt hoảng, trong lòng rất không nỡ. Ăn xong, người làm đem trà lên, Doãn phu nhân mượn cớ, liền cùng ông Doãn Sở Phàn rời đi.

Hứa Kiến Chương thấy Doãn Tĩnh Uyển cầm tách trà thủy tinh nhưng không uống, chỉ nhìn lá trà bên trong tách dập dềnh dập dềnh. Anh ho nhẹ một tiếng, nói: “Tĩnh Uyển, em có trách anh không?”. Tĩnh Uyển nói: “Sao em có thể trách anh chứ, dù sao chỉ là hai tuần, anh lại quay về rồi”. Anh đưa tay ra, nắm lấy tay Tĩnh Uyển, nói: “Em đừng lo lắng, tuy mới đánh nhau xong, nhưng hai quân Thừa – Dĩnh đánh nhau nhiều năm như vậy, chúng ta vẫn kinh doanh rất tốt đấy thôi”.

Tĩnh Uyển nói: “Em biết cả mà”. Trong phòng khách chỉ bật một chiếc đèn tường, ánh sáng yếu ớt chiếu vào chiếc sườn xám lụa màu chu sa của cô, cô có một đôi mắt rất sáng, dưới ánh đèn, đôi mắt đó lay động như nước, chỉ ngân ngấn lệ nhìn anh, anh cảm thấy trái tim mình đập thình thịch, không kìm được bàn tay nắm hơi mạnh, cô đi giày cao, đứng không vững, cơ thể nhào về phía trước, liền bị anh ôm vào trong lòng, nụ hôn nóng bỏng ập đến, trong lòng cô rối như tơ vò. Tuy họ qua lại đã lâu, Hứa Kiến Chương lại là người lễ tiết kiểu cũ, ngoài nắm tay ra không dám tùy tiện mạo phạm cô. Nụ hôn ngày hôm nay rõ ràng là do tình cảm rối loạn, cả cơ thể cô mềm đi, chỉ cảm thấy cảm giác này xa lạ đến cực điểm, mùi hương bạc hà nhàn nhạt đó lại thân thuộc đến vô cùng, cảm thấy giống như đã mơ một giấc mơ, lâu dài như trời đất, mà cũng giống như khoảnh khắc thoáng qua, anh đã buông tay ra, giống như hơi hối hận, lại càng giống như thích thú, trong đôi mắt tình cảm sâu đậm vô hạn, đắm đuối nhìn cô.

Cô liền tựa đầu vào ngực anh, anh vỗ nhè nhẹ lên vai cô, nói nhỏ: “Nửa tháng sau là anh về thôi mà, nếu thuận lợi, mười ngày sẽ xong cũng nên”.

Ngày hôm sau anh khởi hành, vừa đến Thừa Châu, liền đánh điện về báo bình an, mấy ngày sau lại gửi một bức điện báo về, Tĩnh Uyển thấy mấy chữ ít ỏi trên bức điện, viết rằng: “Công việc thuận lợi, sáng mùng chín tháng năm lên tàu về Càn Bình”. Cô cũng hết lo lắng.

Đến ngày mùng tám tháng năm, cô định sáng sớm hôm sau đến bến tàu đón Hứa Kiến Chương, cho nên đi ngủ rất sớm. Nhưng tối mùa xuân, thời tiết ngột ngạt, trong bình hoa cắm bó hoa hồng và hoa huệ lớn, mùi hương nồng gắt, khiến người ta nhất thời không ngủ được, cô trằn trọc trên giường một lúc lâu, cuối cùng mơ màng thiếp đi.

Trong chốc lát lại dường như đứng trong phòng khách rộng lớn, bốn bề không có một ai, xung quanh chỉ là một khoảng tĩnh lặng. Tuy cô xưa nay can đảm, nhưng nhìn nơi trống trải đó trong lòng cũng hơi sợ hãi. Bỗng nhiên thấy có người đi lại từ phía bên kia, rõ ràng là Kiến Chương, cô chạy lên kéo gấu áo anh, hỏi: “Kiến Chương, sao anh không để ý đến em?”. Người đó quay đầu lại, nhưng hóa ra không phải là Kiến Chương, mà là một khuôn mặt xa lạ rất hung ác, cười độc địa: “Hứa Kiến Chương không sống được rồi”. Cô quay đầu lại nhìn, quả nhiên thấy ngoài cửa hai lính hộ vệ đang kéo Hứa Kiến Chương, trên người anh toàn là máu, hai lính hộ vệ kéo anh giống như kéo một túi đồ, trên đất toàn là dấu máu, trên nền gạch xanh hiện lên một vệt đen sẫm, cô đuổi theo, hai lính hộ vệ đó đi rất nhanh, chớp mắt đã không thấy ba người, cô hốt hoảng òa khóc, chỉ nắm lấy người đó kêu lớn: “Anh trả Kiến Chương cho tôi, anh trả Kiến Chương cho tôi”.

Cô đau đớn khóc thất thanh như thế, bỗng chốc tỉnh dậy chỉ thấy xung quanh yên ắng, trong phòng bật một chiếc đèn nhỏ, ánh sáng xuyên qua chiếc rèm hạt ngọc trai, rõ ràng là trong phòng ngủ của mình, chỉ nghe thấy tiếng tích tắc tích tắc của chiếc đồng hồ để bàn trên đầu giường, mới biết hóa ra là ác mộng. Nhưng vẫn còn khóc thút thít, tim đập thình thịch, cả người đã toát mồ hôi lạnh đầm đìa, chiếc áo ngủ lụa mỏng ướt đẫm dính vào người, cảm giác thật lạnh lẽo. Cô nhớ lại tình cảnh trong mơ, nó đáng sợ đến cực điểm, trong lòng sợ hãi chầm chậm cuộn vào trong chăn, nói với bản thân: “Là nằm mơ, hóa ra chỉ là nằm mơ, may mà chỉ là nằm mơ”. Cô tự an ủi mình như thế, lát sau lại mơ màng ngủ thiếp đi.

Cô nửa đêm ngủ không ngon, nhưng sau đó lại ngủ rất sâu, đang lúc ngủ ngon, bỗng nhiên nghe thấy mẹ gọi tên mình, vội vâng lời ngồi dậy, mặc áo vào, Doãn phu nhân đã đẩy cửa, trên tay cầm một bức điện báo, khuôn mặt vô cùng lo lắng, chỉ nói: “Tĩnh Uyển, con không được lo lắng đấy, Kiến Chương xảy ra chuyện rồi”. Chiếc áo cô đang mặc một nửa, vừa mới xỏ một ống tay áo vào, nghe mẹ nói câu này như sét đánh giữa trời quang, cả người đờ đẫn.

Thuốc Tây vốn là mặt hàng bị cấm vận nhất của Thừa quân, nhưng Hứa gia kinh doanh thuốc nhiều năm, có giao hảo với rất nhiều nhân vật quan trọng trong Thừa quân, những năm trở lại đây làm ăn luôn thuận lợi, không ngờ Mộ Dung Phong vừa mới dẫn quân dẹp yên chín tỉnh phía Bắc, quay lại liền chỉnh đốn nghiêm ngặt, mà mặt hàng bị nhắm vào nhất chính là thuốc Tây. Mộ Dung Phong thiếu niên đắc chí, làm việc sấm rền gió cuộn, vừa bắt tay vào việc này, lập tức đem một nguyên lão trong Thừa quân ra xử lý, vị nguyên lão đó bị cách chức xét xử, sau đó từ trên xuống dưới, bắt tất cả những người bị nghi có liên quan đến việc vận chuyển trái phép thuốc Tây, Hứa Kiến Chương bị liên lụy, người và hàng vừa mới ra khỏi Thừa Châu đã bị bắt lại giam giữ, hiện tại bị nhốt trong nhà giam, không rõ sống chết.

Doãn phu nhân vốn nghĩ Tĩnh Uyển sẽ khóc, không ngờ cô không hề khóc, ánh mắt tuy hốt hoảng, một lúc sau liền dần dần trấn tĩnh lại, hỏi: “Bác Hứa biết rồi ạ?”. Doãn phu nhân nói: “Bức điện báo này chính là bà ấy bảo bà Hà đưa đến, nghe bà Hà nói, Hứa phu nhân đã rất hoảng loạn, chỉ biết khóc thôi”.

Hứa Kiến Chương tuy có hai người em trai, nhưng tuổi đều còn nhỏ, việc lớn trong nhà đều do anh quyết định, sự việc này xảy ra Hứa gia mất đi trụ cột, đương nhiên rối như tơ vò. Tĩnh Uyển “ồ” nhẹ một tiếng, hỏi: “Cha con nói thế nào ạ?”. Doãn phu nhân nói: “Cha con vừa mới nghe tin, liền đi gặp tổng tham mưu trưởng Vương, mong là có thể nghĩ được cách nào đó”.

Vị tổng tham mưu trưởng Vương mà Doãn Sở Phàn đi gặp vốn là người của Thừa quân, hiện tại là tổng tham mưu trưởng tài vụ ở nội các, nghe ý của Doãn Sở Phàn, không nói gì, liên tục lắc đầu nói: “Nếu là việc khác đều dễ nói, nhưng sự việc hiện tại, dù anh ta là ai, chỉ sợ trước mặt Cậu Sáu cũng không nói được. Ông ít nhiều đã từng nghe nói tính khí người đó, đã nói một là một, hai là hai, năm đó lúc đại soái còn sống, cũng chỉ có đại soái có cách với cậu ta, bây giờ cậu ta đang chấn chỉnh việc cấm vận, chỉ sợ đang giết để răn đe, trước mắt không thể đi vuốt râu hùm được, tôi khuyên ông về trước, đợi qua đợt này sự việc bình ổn lại, hãy nghĩ cách”.

Doãn Sở Phàn nghe đến đây, quả thật không có cách cứu vãn, đành thất vọng đi về.Tĩnh Uyển thấy cha phân tích từng quan hệ tốt xấu, chỉ lặng lẽ không nói. Doãn Sở Phàn an ủi cô nói: “Tuy vận chuyển trái phép thuốc Tây là trọng tội quân sự, nhưng Hứa gia có giao hảo với rất nhiều người trong Thừa quân, tính mạng Kiến Chương chắc không phải lo lắng, đến lúc đó tốn thêm chút tiền đút lót, của đi thay người vậy”. Cô vẫn im lặng không nói, trong lòng lo lắng, cơm trưa cũng không ăn liền về phòng mình.

Cô biết cha an ủi mình, ngồi trước bàn trang điểm, mà tâm trạng cứ thấp thỏm bất an. Vừa hay trước bàn trang điểm có đặt một tờ báo từ mấy ngày trước, trên báo đăng tin Mộ Dung Phong dẹp yên chín tỉnh phía Bắc, trong bức ảnh chụp buổi duyệt binh ở Bắc đại bản doanh, người đó cưỡi ngựa, dáng vẻ anh tuấn hiên ngang, đúng là một anh hùng trác việt phi phàm giữa vạn quân. Người này trẻ như vậy, đã tay nắm nửa giang sơn, không ngờ là nhân vật lợi hại hơn cả cha anh ta, cách làm việc của anh ta quả có cứng rắn hơn người. Mộ Dung Phong đã hạ quyết tâm phải chính đốn cấm vận, khó mà không giết để răn đe, Kiến Chương va phải họng súng của anh ta, chỉ e là lành ít dữ nhiều.

Cô sững sờ nhìn tờ báo đó, bỗng nhìn thấy lời dẫn của một cụ già trong nội các, nói là “Mộ Dung Bái Lâm thiếu niên anh hùng”, trong lòng bất ngờ, chỉ cảm thấy hai từ “Bái Lâm” đó vô cùng quen thuộc, giống như mình đã thấy ở đâu, nhưng không nhớ ra. Cô ngồi ở đó cố gắng suy nghĩ, bỗng nhiên một tia sáng lóe lên, cô kéo ngăn bàn ra, lật tìm xung quanh mà không tìm thấy.

Cô mở hết tất cả ngăn kéo ra, cuối cùng tìm thấy chiếc đồng hồ vàng đó ở ngăn kéo phía dưới tủ quần áo, mở ra xem, trên nắp hai chữ “Bái Lâm” rành rành. Cô liền tựa vào tủ quần áo, trong lòng đã có tính toán, chỉ nghĩ bất kể phải hay không phải, bất kể có được hay không cũng phải cố gắng hết sức thử xem sao.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-5-2013 01:04:23 | Xem tất
Chương 4

Tĩnh Uyển cẩn thận nghĩ lại một lượt từ đầu dến cuối, thay bộ quần áo, đến phòng nói với mẹ: “Con đi thăm bác Hứa một lát”. Doãn phu nhân gật đầu nói: “Nên qua đó xem xem, khuyên bà ấy đừng quá sốt ruột”. Liền gọi xe trong nhà đưa Tĩnh Uyển đến Hứa gia.

Hứa gia cũng là căn nhà lớn kiểu cũ, giờ đã xế hiều, ánh mặt trời cuối xuân nghiêng nghiêng chiếu xuống tường, không khỏi có phần tiêu điều. Hứa phu nhân nghe người làm báo lại, sớm đã ra ngoài đón từ xa, trong phòng đã bật đèn, bà mặc một chiếc sườn xám lụa nhàu Hồ Châu màu xanh sẫm, nổi bật dưới ánh đèn vàng, vẻ mặt trông càng mệt mỏi, vàng vọt hơn. Tĩnh Uyển thấy vậy lòng càng đau buồn. Hứa phu nhân đi mấy bước, kéo tay cô chỉ gọi một tiếng “Tĩnh Uyển”. Dáng vẻ đó lại giống như sắp rớt nước mắt. Tĩnh Uyển thật sự sợ bà khóc, khi ấy bản thân cô cũng sẽ không kiềm chế được khóc lớn, gượng gọi một tiếng “Bác gái”, rồi đỡ tay bà ngồi xuống ghế sofa.

Hứa phu nhân lấy ra chiếc khăn tay lau nước mắt, chỉ nói: “Thế này sao được chứ? Kiến Chương vừa xảy ra chuyện, chẳng khác gì trời sụp xuống”. Tĩnh Uyển nói: “Bác đừng quá lo lắng, giữ gìn sức khỏe quan trọng hơn, chuyện của Kiến Chương cũng chỉ là phải tốn chút tiền mà thôi, không biết bác có biết bây giờ Kiến Chương có những người bạn nào còn có thể giúp được không ạ?”. Hứa phu nhân nói: “Chuyện bên ngoài bác không hiểu nhiều, e rằng chỉ có ông Liêu biết”. Tĩnh Uyển liền hỏi: “Có thể mời Liêu tiên sinh đến đây nói chuyện được không ạ?”. Hứa phu nhân sớm đã hồn bay phách lạc, thấy sắc mặt cô trấn tĩnh, trong lòng mới dần dần được yên tâm một chút, nghe cô nói vậy liền lập tức sai người đi mời.

Vị Liêu tiên sinh đó là nhân viên thu chi lâu năm của Hứa gia, từng cùng Hứa Kiến Chương làm rất nhiều việc, nghe nói Hứa phu nhân mời, ông liền lập tức đến ngay. Tĩnh Uyển thường ngày cũng có quen biết ông, gọi ông một tiếng “chú Liêu”, nói “Chú Liêu, trước mắt phải nhờ chú nghĩ thật kỹ, Kiến Chương còn bạn bè nào ở trong Thừa quân có thể giúp đỡ được không?”. Liêu tiên sinh chần chừ một lát nói: “Việc lần này liên lụy rất lớn, mấy người tôi biết đều đã không giúp được rồi”. Tĩnh Uyển hỏi: “Vật có cách nào khác không? Ví dụ không phải là trực tiếp tìm người giúp đỡ, chỉ là tìm cách gặp mặt Cậu Sáu, có cách nào không?”.

Liêu tiên sinh nghe vậy, giật bắn mình, lấy mũ trên đầu xuống hoài nghi nói: “Tìm gặp Cậu Sáu – đấy không phải chuyện đơn giản, cậu ta là thống soái Thừa quân, là Tuần duyệt sứ (*) của chin tỉnh, muốn gặp mặt cậu ta đâu phải dễ dàng. Cho dù gặp được rồi, cũng có ích gì chứ?”.
(*) Tuần duyệt sứ: Thời kỳ quân phiệt Bắc Dương, gọi người quản lý hai tỉnh trở lên là Tuần duyệt sứ.

Tĩnh Uyển nói: “Cha cháu có một người bạn, có chút giao hảo với Cậu Sáu, có thể nhờ cậy được, chỉ là nhiều năm không gặp, bây giờ Cậu Sáu quyền cao chức trọng, ngồi ở ngôi cao, sợ rằng không dễ gặp, nếu có thể gặp mặt nhờ vả chút tình cũ, biết đâu có thể có hiệu quả”.

Lưu tiên sinh nghe thấy cô bình tĩnh như thế, cân nhắc nói: “Muốn gặp Cậu Sáu quả thật không có cách nào, nhưng có một cửa không biết có được hay không?”. Tĩnh Uyển nói vội: “Mong chú nói rõ”. Hứa gia vốn có quan hệ khá tốt với một vị sư đoàn trưởng họ Từ của Thừa quân, mà vị sư đoàn trưởng họ Từ này chính là em họ của Đào Đoan Nhân, anh rể thứ ba của Mộ Dung Phong. Liêu tiên sinh thành thật nói: “Tìm vị sư đoàn trưởng Từ đó giúp đỡ, có lẽ có thể gặp được tam tiểu thư nhà Mộ Dung”. Tĩnh Uyển lặng lẽ gật gật đầu, Liêu tiên sinh lại nói: “Nghe nói Mộ Dung gia là gia đình kiểu cũ, các tiểu thư đều không được phép hỏi chuyện bên ngoài, chỉ e gặp được Mộ Dung tiểu thư cũng vô ích”. Tĩnh Uyển nghĩ một lát, nói với Liêu tiên sinh: “Trước mắt cũng chỉ có nước này thôi. Có thể nhờ chú viết một bức thư cho sư đoàn trưởng Từ, giới thiệu người bạn đó của cha cháu, mong ông ấy giúp đỡ từ bên trong, để người bạn đó của cha cháu có thể gặp mặt. Mộ Dung tiểu thư”. Liêu tiên sinh đương nhiên đồng ý. Hứa phu nhân lập tức sai người đem bút nghiên đến, Liêu tiên sinh viết một bức thư dài, nói rõ quan hệ lợi hại, rồi mới đưa cho Tĩnh Uyển.

Hứa phu nhân mắt ngấn lệ nhìn cô, hỏi: “Người bạn đó của lệnh tôn thật sự có thể giúp đỡ sao?”. Tĩnh Uyển nghĩ một lát, nói: “Thật ra cũng chẳng chắc chắn bao nhiêu, nhưng người đó nhất định sẽ cố hết sức giúp chúng ta”.

Tĩnh Uyển về đến nhà trời đã muộn, Doãn phu nhân thấy dáng vẻ cô vội vã, liền gọi cô lại hỏi: “Con ăn cơm chưa?”. Tĩnh Uyển đáp: “Con ăn cơm với bác Hứa gia rồi, bác ấy trông thật đáng thương, thật sự là ăn không nổi”. Doãn phu nhân khẽ than một tiếng nói: “Con cũng đừng quá lo lắng, cha con đã nghĩ cách rồi”. Tĩnh Uyển nói: “Ngày mai con đi tìm bạn học của con, cha cậu ấy vốn qua lại mật thiết với người của Thừa quân, biết đâu có thể có cửa”. Doãn phu nhân gật gật đầu, nói: “Chúng ta có bệnh phải cầu tứ phương”. Tĩnh Uyển không biết vì sao, gọi nhỏ một tiếng: “Mẹ”. Doãn phu nhân nhìn cô với vẻ yêu thương vô hạn, bà nói: “Con xem con kìa, chỉ vất vả mộ tngày, đã lo lắng đến tiều tụy”. Tĩnh Uyển không kìm được xoa mặt, gượng cười nói: “Mẹ, con đi ngủ trước đây, sáng sớm ngày mai dậy còn phải đi tìm người bạn học đó nữa”.

Sáng sớm hôm sau, Tĩnh Uyển đi ô tô ra ngoài, Doãn phu nhân ở nhà, không biết vì sao tâm trạng bất an, bà chỉ nghĩ là vì đang lo lắng chuyện của Kiến Chương. Đợi đến trưa, lái xe ô tô quay lại, nhưng không thấy Tĩnh Uyển đâu. Lái xe nói: “Đại tiểu thư bảo tôi đợi cô ấy ở cửa, đợi đến tận bây giờ, tôi tưởng đại tiểu thư đã thuê xe về rồi”. Doãn phu nhân nghe vậy, vừa sốt ruột vừa lo lắng, vội gọi điện kể với Doãn Sở Phàn, bà lại nghĩ có lẽ là ở chỗ bạn học, bà gọi điện hỏi hết người này đến người khác, họ đều nói cô khong đến chỗ mình. Đến lúc trời đã tối, Tĩnh Uyển vẫn chưa quay về, vợ chồng họ Doãn lòng như lửa đốt, đến phòng con gái xem, thiếu mấy bộ quần áo, trên bàn trang điểm lại đặt một bức thư. Doãn phu nhân xem xong, gần như ngất đi, Doãn Sở Phàn bình tĩnh hơn một chút, bàn tay cầm tẩu thuốc run run, ông vội vàng gọi điện cho người quen ở ngân hàng, quả nhiên sáng sớm nay Tĩnh Uyển đã rút một khoản tiền lớn, vợ chồng họ Doãn thấy sự việc quá đột ngột, hối hận không kịp.

Tối đó trăng rất đep, Tĩnh Uyển nằm ở giường mềm trên tàu, rèm cửa sổ không kéo kín, qua một khe hở hẹp, cô ngắm vầng trăng khuyết đó, trên bầu trời tối ánh trăng hơi đỏ, giống như có ai dùng móng tay cấu một vết, để lại một vết nho nhỏ nhàn nhạt. Tàu đi rất nhanh, giữa khoảng tranh tối tranh sáng mảng trăng khuyết ấy luôn ở nơi đó, giống như chạy theo đoàn tàu vậy. Tâm trạng cô lên xuống không yên, dứt khoát ngồi dậy lấy chiếc đồng hồ quả quýt từ trong túi áo ra, cẩn thận tìm kiếm chữ khắc trên mặt đồng hồ. Cảm giác tinh tế truyền từ đầu ngón tay đến tận trong đáy tim, “Bái Lâm” – nếu thật sự là anh, vậy có lẽ cô có hy vọng, dẫu sao anh cũng nợ cô một ân tình.

Trong lòng hơi yên tâm, cô lại ngủ tiếp, ánh trăng tối đến mức gần chuyển sang màu đỏ sẫm, từ trên gối nhìn lên, nó giống một vệt son trên tách thủy tinh, nhòe đi như sắp tan ra, và cô lại ngủ thiếp đi.

Vừa ra khỏi ga Thừa Châu, cô mới cảm thấy bầu không khí là lạ. Cô thân gái một mình, đành thuê một chiếc xe kéo đến nhà trọ, trên đường đi cô hỏi phu kéo xe: “Sao hôm nay trên đường nhiều cảnh vệ thế, xảy ra chuyện gì rồi sao?”. Phu kéo xe đáp: “Người ta đổ xô đi xem hành hình phạm nhân đấy”. Không biết vì sao tim cô đập loạn nhịp, hỏi: “Là phạm nhân gì?”. Phu kéo xe đó nói: “Là người vận chuyển hàng cấm trái phép”. Cô gần như muốn ngừng thở, thất thần mấy giây liền, mới lắc đầu thật mạnh, hỏi: “Chỉ là vận chuyển hàng cấm trái phép thôi, sao có thể xử nặng như thế chứ?”. Phu kéo xe đó đáp: “Cái đó cũng không rõ”.

Cô đến nhà trọ, không kịp tắm rửa liền thuê một chiếc ô tô đến phủ của sư đoàn trưởng Từ, may mà trời còn sơm vị sư đoàn trường đó vẫn chưa ra ngoài, người coi cửa để cô đợi ở phòng khách, người hầu đưa thư của Liêu tiên sinh vào, không lâu sau sư đoàn trưởng Từ đích thân đi ra. Vừa thấy Tĩnh Uyển, đương nhiên ông ta kinh ngạc vô cùng, dò xét từ trên xuống dưới hồi lâu, mới hỏi: “Người Liêu tiên sinh nhắc đến trong thư chính là cô?”.

Tĩnh Uyển không biết tình hình như thế nào, cố gắng trấn tĩnh, hơi mĩm cười nói: “Tôi họ Doãn, quả thật không dám giấu, Hứa Kiến Chương là chồng chưa cưới của tôi, sư đoàn trưởng Từ nhất định là biết rất rõ mục đích tôi đến đây”. Vị sư đoàn trưởng Từ đó lại dò xét cô một lượt, bỗng nhiên đứa ngón tay lên khen ngợi: “Tiểu Hứa có con mắt nhìn, Doãn tiểu thư gan dạ sáng suốt”. Bỗng ông ta thở dài, lắc đầu nói: “Nhưng đáng tiếc, đáng tiếc”.

Ông ta liên miệng nói hai tiếng đáng tiếc, trong lòng Tĩnh Uyển lạnh đi, không kìm được hỏi: “Chẳng lẽ người bị hành hình hôm nay là…”. Ông ta nói: “Hóa ra Doãn tiểu thư đã nghe nói rồi?”. Trái tim Tĩnh Uyển chỉ chực nhảy ra ngoài, không khỏi lớn tiếng hỏi: “Vận chuyển hàng cấm tuy là trọng tội, nhưng sao có thể không xét xử mà đã giết người chứ?”. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Chuyện bên trong thật sự là một lời khó nói hết. Người bị hành hình hôm nay so với Kiến Chương, nói thẳng ra là có lai lịch hơn rất nhiều”. Tĩnh Uyển nghe thấy câu này, trong lòng bỗng chốc thở phào, cơ thể cũng yếu ớt đến mức gần như đứng không vững, trong lòng chỉ nghĩ, tạ ơn trời đất hóa ra không phải anh, hóa ra là vẫn chưa muộn.

Chỉ nghe sư đoàn trưởng Từ nói: “Doãn tiểu thư không phải người ngoài, tôi cũng nói thật. Người bị hành hình hôm nay là cháu đích tôn của Từ Trị Bình – thống chế Vọng Châu. Từ thống chế vì chuyên này mà lật mặt với Cậu Sáu, ép Cậu Sáu hạ lệnh trước mặt một thuộc cấp của chín tỉnh, tất cả người bắt được lần này đều giết hết không tha”.

Tĩnh Uyển không ngăn được cơn rùng mình. Sư đoàn trưởng Từ nói: “Cậu Sáu đã nói những lời đó trước mặt mọi người, vậy chắc chắn sẽ không xoay chuyển, tôi khuyên Doãn tiểu thư về Càn Bình trước thì hơn”.

Tĩnh Uyển nghe nói người bị hành hình hôm nay là cháu của thống chế một tỉnh, đã biết hy vọng rất mong manh. Lại nghe nói Cậu Sáu hạ lệnh như thế trước mặt thuộc cấp, cô nghĩ cho dù mình là ân nhân cứu mạng của anh ta e rằng anh ta cũng không thể thu hồi mệnh lệnh, nếu không uy tín ở đâu? Anh ta là một thống soái trẻ tuổi, tuy không ít cấp dưới là thuộc cấp cũ của Mộ Dung gia, nhưng khó đám bảo có người trong lòng thật ra không phục, anh ta vì áp chế thuộc cấp quyết không thể có chút sai sót nào. Việc này anh ta đã làm đến nước này, cũng là cưỡi lên lưng cọp, e rằng cho dù là người thân của chính mình, Cậu Sáu cũng sẽ theo luật mà làm.

Cô nghĩ trước nghĩ sau, nhưng việc đã đến nước này vẫn phải liều một phen. Do đó cô nói với sư đoàn trưởng Từ: “Tôi vẫn muốn gặp Mộ Dung tiểu thư một chút, không biết sư đoàn trưởng có tiện sắp xếp không?” Sư đoàn trưởng Từ đó được hưởng lợi không ít từ Hứa gia bao năm nay, lần này sự việc xảy ra, ông ta sớm đã muốn cứu giúp Hứa Kiến Chương, chỉ là trong lòng muốn mà không đủ khả năng thôi. Nghe cô nói muốn gặp Mộ Dung tiểu thư, việc này bản thân có thể giúp được, ông ta lập tức vui vẻ đồng ý, nói: “Cơ hội thì sẵn có, để chúc mừng sinh nhật ba mươi tuổi của tam tiểu thư, Đào gia tổ chức tiệc mời khách mấy ngày liền, khách khứa rất đông, tôi sẽ đưa cô vào, cũng không để ý đến đâu”.

Tĩnh Uyển cảm ơn, sư đoàn trưởng Từ nói: “Doãn tiểu thư thân gái yếu ớt, lại có thể vạn dặm đến cứu, tôi là bạn của Kiến Chương, chẳng lẽ không nên góp chút sức mọn sao?”. Tĩnh Uyển thấy ông ta tuy là người thô lỗ, nhưng tính cách thẳng thắn, sẵn lòng giúp đỡ lúc hoạn nạn, trong lòng cô thầm cảm kích.

Đào Đoan Nhân vô đảm nhiệm chức vụ quan trọng trong Thừa Quân, hoa viên lớn nhất trong phủ và tòa lầu xây bằng gạch đỏ mới được tu sửa rất bắt mắt, xa xa đã nhìn thấy. Tĩnh Uyển thấy trên một nửa con phố trước Đào phủ xe đã đỗ kín, đông như trẩy hội, khí thế phi thường. Sư đoàn trưởng Từ bảo Từ phu nhân đi cùng, hai vợ chồng dẫn cô vào Đào Phủ. Khách nam đều được tiếp đãi ở bên ngoài, Từ phu nhân dẫn Tĩnh Uyển vào sân trong, hóa ra bên trong còn có phòng khách rất hoành tráng, trước phòng rực rỡ gấm hoa, bày những chậu hoa đương mùa như thược dược và mẫu đơn… đều nở những bông to, rực rỡ đua sắc trên nền lá xanh mướt.

Trong phòng khách toàn là khách nữ, đều là các thiếu phu nhân, tiểu thư cao quý, váy áo họ mặc còn đua nhau khoe sắc hơn cả hoa trong phòng khách, trước cửa phòng khách có một sân khấu nhỏ, trên sân khấu diễn viên đang hát ê a, dưới sân khấu, các phu nhân, tiểu thư người thì xem kịch, người thì nói chuyện, cười nói tíu tít, kèm theo tiếng đàn sáo trên sâu khấu réo rắt. Tĩnh Uyển chứng kiến sự phồn hoa đến mức này, tuy sinh ra, lớn lên trong sự phú quý, nhưng cô vẫn cảm thấy xa xỉ khó nói nên lời. Từ phu nhân thấy cô nhìn lên sân khấu, liền cười với cô, hỏi: “Doãn tiểu thư cũng thích nghe kịch sao? Hôm nay tiết mục áp chót là Hạnh ân và Giấc ngủ xuân của diễn viên nôi tiếng Kỷ Ngọc My, kịch của ông chủ Kỷ là đệ nhất thiên hạ, bình thường không diễn tại nhà”. Tĩnh Uyển trả lời ầm ừ một đôi câu, Từ phu nhân liền đưa cô xuyên qua phòng khách, lại vào một sân vườn nữa, sân vườn đó trồng mấy cây ngô đồng, con đường đá nho uốn lượn dưới bóng tán cây. Bà đưa Tĩnh Uyển men theo con đường đó đi qua hòn non bộ, tiếng cười nói đàn sáo phía trước nhạt nhòa dần đi, giờ mới nghe thấy tiếng ồn ào từ căn nhà phía sau.

Từ phu nhân chưa đi vào phòng đã cười nói: “Nhân vật chính đâu? Người đến chúc mừng sinh nhật đến rồi này”. Người đánh bài trong nhà đều quay đầu lại nhìn bà Từ, hóa ra người ngồi ghế đầu tiên, trên người mặc chiếc áo gấm rất đẹp, tóc vấn kiểu Như Ý, một phụ nữ kiểu xưa xinh đẹp chính là Mộ Dung tam tiểu thư, cô gọi Từ phu nhân một tiếng “chị họ”, cười nói: “Cô gái chị họ đưa đến là ai thế, thật xinh đẹp”. Tĩnh Uyển giờ mới thoải mái gọi: “Tam tiểu thư”, lại tự giới thiệu: “Tôi họ Doãn, tam tiểu thư cứ gọi tôi là Tĩnh Uyển”. Cô ấy lấy ra một chiếc hộp nhỏ, nói: “Sinh nhật tam tiểu thư, tôi chuẩn bị trước chút quá nhỏ, mong tiểu thư không chê”.

Mộ Dung tam tiểu thư thấy thái độ của cô khiêm tốn nhã nhặn, nói chuyện lại thoải mái, không biết vì sao cảm thấy khá vui vẻ, nói: “Doãn tiểu thư khách sáo quá rồi”. Cô ấy bảo người hầu nhận quà, lại kêu Từ phu nhân và Tĩnh Uyên đánh bài. Tĩnh Uyên từ chối qua loa rồi ngồi cùng đánh tám vòng. Cô vốn ngồi phía trên Mộ Dung tam tiểu thư, cô đến chuẩn bị trước, lại cố gắng đoán ý qua sắc mặt và lời nói, so với những quân bài mình không hợp cạ, Mộ Dung tam tiểu thư cần quân nào, cô liền đánh quân đó, hết tám vòng rồi lại đánh tám vòng, Mộ Dung tam tiểu thư đã thắng hơn hai ngàn đồng. Từ phu nhân bên cạnh giúp Mộ Dung tam tiểu thư xem bài, tươi cười như hoa, nói: “Tam tiểu thư may mắn thật, trước khi mở tiệc đã thắng một sô kha khá rồi phải không, e rằng tám vòng này đánh không hết đã phải mở tiệc rồi”. Mộ Dung tam tiểu thư nói: “Hôm nay là ngày chính, Cậu Sáu đã nói là sẽ đến, đợi cậu ấy đến mới bắt đầu”.

Tĩnh Uyển nghe thấy vậy, cười hỏi: “Cậu Sáu có đến sao? Nói ra tôi và Cậu Sáu từng có duyên gặp mặt, không biết Cậu Sáu còn nhớ hay không?”. Vừa nói, cô vừa làm như vô ý, tiện tay lấy chiếc đồng hồ quả quýt ra xem giờ. Mộ Dung tam tiểu thư tinh mắt, đã nhận ra ngay đó là chiếc đồng hồ Mộ Dung Thần đặt làm riêng cho Mộ Dung Phong vào lần sinh nhật hai mươi tuổi của anh, chỉ không biết vì sao nó lại ở trên tay người phụ nữ này. Nghĩ lại một chút, cô đoán chắc là được cậu em phong lưu này tặng làm kỷ niệm rồi. Vị Doãn tiểu thư tướng mạo xuất chúng như vậy, chẳng trách ngay cả chiếc đồng hồ này nó cũng tặng cô ấy. Trong lòng suy nghĩ, vị Doãn tiểu thư này thua mình nhiều tiền như vậy, hóa ra là có chủ ý. Cô đã quen với việc này, tuy thầm buồn cười nhưng cũng không vạch trần chỉ nói: “Mấy hôm trước tôi còn nói với chị cả, Cậu Sáu nhà chúng ta cũng sắp theo kịp mấy minh tinh điện ảnh rồi”. Tĩnh Uyển nghe cô nói một câu không mặn không nhạt như thế, cũng không tiếp lời, chỉ cười thật tươi.

Mộ Dung tam tiểu thư thắng cô không ít tiền, trong lòng nghĩ đây vốn là chuyện thuận nước xuôi thuyền, hơn nữa Mộ Dung Phong xưa nay lại có tật xấu này, bản thân cô thay người ta làm mối cũng không phải là lần đầu. Vừa tính toán trong lòng vừa đánh bài, đợi đến lúc bên ngoài giục mở tiệc, cô mới đứng dậy đi ra.

Bữa tiệc này Tĩnh Uyển cứ thấp thỏm, ăn cũng không yên, tuy là bào ngư vi cá cũng chỉ thấy nhạt như nước ốc. Phòng trên vốn là tiệc cơ động (*), dùng bữa xong rời đến phòng sau dùng tra, kịch mới dừng, lại có mấy diễn viên lên thuyết thư (**), đang rất náo nhiệt, bỗng nhiên một cô bé dáng vẻ nhanh nhẹn đi lên, nói nhỏ với cô: “Doãn tiểu thư, tam tiểu thư chúng tôi mời cô đến phòng sau dùng trà”. Tim cô nhảy lên, cô đứng dậy liền theo người hầu đó ra phía sau, đi qua một cánh cửa màu đỏ nhỏ, bên trong là một căn phòng vô cùng yên tĩnh, trước phòng trồng vài cây hoa lê, lúc này lá đã sum suê đầy cành.
(*) Tiệc cơ động: Ai đến trước thì ăn trước, đến sau ăn sau (ND)
(**) Thuyết thư: Loại hình biểu diễn các loại khí khúc như binh thư, bình thoại, đàn từ… (ND)

Người hầu mở cửa ra, nói nhỏ: “Tiểu thư đợi ở đây một lát”. Tĩnh Uyển nhìn căn phòng đó, tuy bố trí kiểu cũ nhưng cũng rất nhã nhặn. Trong phòng bày một bộ đồ dùng bằng gỗ tư đàn kiểu đời Minh rất tinh xảo. Cô ngồi trên ghế đợi một lát, nghe a hoàn đó đã đi rất xa, xung quanh yên lặng không tiếng động, từ xa lờ mờ truyền đến chút âm thanh tiệc tùng náo nhiệt, khiến trong phòng càng trở nên yên tĩnh hơn. Bỗng nhiên nghe thấy bên ngoài phòng truyền đến tiếng giày da, tim cô đập thình thịch, người cũng bất giác đứng lên, cô vốn rất to gan, đến lúc này lại bỗng trở nên sợ hãi, nghe thấy tiếng bước chân càng ngày càng gần liền nấp sau tấm rèm màu xanh nước biển.

Người đó đi thẳng vào phòng, gọi hai tiếng “Ngọc My”, hỏi: “Ngọc My, có phải em không, đừng trốn nữa”. Cô nghe thấy giọng nói của một chàng trai trẻ, không biết có phải là Mộ Dung Phong không, trái tim chỉ chực nhảy ra khỏi lồng ngực, cô đứng yên đó không động đậy. Lại nghe thấy người đó nói: “Được rồi, đừng đùa nữa, mau ra đi. Khó khăn lắm anh mới thoát thân để đến được, lát nữa họ không thấy anh lại đến tìm đấy”.

Tĩnh Uyển rối loạn, chốc lát trong đầu có vô số ý nghĩ, chỉ nghe thấy người đó nói: “Em còn không ra, anh phải đi rồi đấy”. Cô chần chứ không nhúc nhích, chỉ nghe anh nói: “Ngọc My, em thật sự không ra, vậy anh đi thật đây”. Một lúc sau, liền nghe thấy tiếng bước chân xa dần, xung quanh lại trở nên yên ắng, người đó đi thật rồi. Cô không biết vì sao thở phào một tiếng, chầm chậm bước ra khỏi chiếc rèm, thấy trong phòng không có ai, trong lòng cô rối như tơ vò, không biết phải  làm thế nào.

Chính trong giây phút tim đập loạn nhịp đó, bỗng có người ôm eo cô từ phía sau, cô giật mình hoảng hốt, đầu óc quay cuồng, bị người khác đè lên chiếc giường nhỏ, hơi thở ấm ấm phả vào tai, cảm giác vừa mềm vừa ngứa đó khiến cô vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Lại nghe thấy giọng nói của người đó kề sát bên cạnh, hóa ra người đó chỉ giả vờ bỏ đi, lúc này bất ngờ đè cô xuống, cười lớn nói: “Đồ láu lỉnh, em cứ nghịch ngợm như vậy, hôm nay anh nhất định phải cho em biết tay”. Trên người anh có mùi hương bạc hà thoang thoảng, pha trộn mùi đàn ông lạ lẫm, còn cả mùi khói thuốc súng nhàn nhạt xộc vào mũi, cô ra sức vùng vẫy, một tay anh đè cô xuống, một tay xô mái tóc rối của cô, đang muốn hôn lên môi cô thì nhìn rõ mặt cô, anh không kìm được sững sờ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-5-2013 18:24:33 | Xem tất
Chương 5

Mặt anh kề sát mặt cô, nên cô nhìn rõ đôi chân mày rậm của anh. Với ánh mắt sắc bén nhìn thẳng vào mặt cô, tuy anh vô cùng kinh ngạc vì tình cảnh này rất khó xử, trong ánh mắt anh hiện lên vẻ ngượng ngùng khó nói, nhưng trong giây lát, sự ngượng ngùng đó đã được thay bằng vẻ mặt rất ung dung, ánh mắt sắc bén đó vẫn dò xét cô, dường như muốn tìm cái gì đó trên mặt cô. Cô cũng cố gắng nhớ lại bức ảnh xem hôm trước, nhưng ảnh chụp trên báo nhìn không rõ, cô nhìn anh thật kỹ, cũng không dám chắc anh có phải là Mộ Dung Phong không. Hơi thở ấm nóng của anh phả lên mặt cô, bây giờ cô mới phát hiện tư thế của hai người cực kỳ mờ ám, dẫu sao cô vẫn là một tiểu thư, bất giác đỏ mặt tía tai, đưa tay ra đẩy anh nói: “Ối, anh mau đứng lên”.

Anh cũng tỉnh táo lai, vội vàng buông tay ra, vừa mới đứng dậy, bỗng nghe thấy tiếng bước chân lộn xộn bên ngoài cửa. Rõ ràng có người đi về phía bên này, tiếp theo có người gõ cửa rầm rầm gọi: “Cậu Sáu! Cậu Sáu!”. Người bên ngoài cửa đều cười ha ha, nghe giọng nói xem chừng có khoảng ba, bốn người. Chỉ nghe thấy một giọng nói sang sảng: “Cậu Sáu, lần này bị chúng tôi bắt được rồi nhé, mới uống được một nửa đã bỏ chạy, không nể mặt anh em chúng tôi quá rồi”. Tĩnh Uyển giật bắn mình, cơ thể hơi động đậy, anh sợ cô đi mở cửa, bất ngờ đưa tay ra che miệng cô, nói nhỏ: “Đừng làm ồn”. Anh xuất thân quân ngũ, ra tay rất mạnh, Tĩnh Uyển bị anh bịt miệng đến suýt nghẹt thở, vội vàng gật đầu tỏ ý đã hiểu, anh mới buông tay ra.

Loáng thoáng nghe thấy bên ngoài có người nói: “Mấy vị thống chế không ăn cơm ở nhà trên, chạy đến đằng sau này làm gì vậy?”. Giọng nói sang sảng lúc trước cười haha, nói: “Đào tư lệnh không biết đấy thôi, mới uống được một nửa, Cậu Sáu lại mượn cớ bỏ trốn, mãi vẫn không quay lại, chúng tôi tìm đến đây, nhất định phải mời cậu ấy về để phạt cậu ấy một hũ rượu”.

Đào tư lệnh chính là Đào Đoan Nhân – anh rể thứ ba của Mộ Dung Phong, tư lệnh đóng giữ Thừa Châu, anh ta là nhân vật lợi hại ra sao, giờ cũng biết được tiền đồ mở rộng thế nào, anh ta chỉ mỉm, chỉ nói: “Đây là một căn phòng bỏ không, bình thường không có người ở, Quan thống chế có gọi nửa này cũng không có ai thưa đâu, Cậu Sáu chắc chắn không ở đây, chỉ bằng các vị đi chỗ khác tìm xem”.


Quan thống chế tuy là người thô lỗ, nhưng lăn lộn trong hai giới quân đội chính trị nhiều năm nay, đối nhân xử thế rất khéo léo, thấy Đào Đoạn Nhân đã nói vậy, không muốn làm mất mặt chủ, liền cười cười nói: “Vậy chúng tôi đi chỗ khác tìm”. Đi được hai bước, bỗng nhiên anh ta cười hì hì dừng chân, quay đầu lại nói: “Không được, Đào tư lệnh, hôm nay là ngày vui của tam tiểu thư, trong phủ đông người, chúng ta không thể để người khác lẻn vào, chẳng may có kẻ xấu làm kinh động đến khách quý thì làm sao?”, lại cất cao giọng, gọi: “Người đâu!”.

Một tùy tùng của anh ta liền “dạ” một tiếng, chỉ nghe thấy Quan thống chế nói: “Đem khóa đến đây, khóa cửa này lại rồi đưa chìa khóa cho Đào tư lệnh giữ”. Lời nói chưa dứt, mấy người đều cười ầm lên, ai cũng vỗ tay khen hay. Đào tư lênh tuy thấy hơi bất hợp lý, nhưng mấy vị thống chế này đều là thuộc cấp cũ của Mộ Dung gia, từ nhỏ nhìn Mộ Dung Phong lớn lên, bình thường đùa với anh quen rồi, huống hồ bây giờ có tí hơi men, đành cười nhìn tên hầu đó lấy một chiếc khóa lớn khóa cửa lại. Quan thống chế cầm lấy chìa khóa, tận tay tha vào túi áo Đào tư lệnh, vỗ nhè nhẹ túi áo nói: “Đào tư lệnh, đây đã là căn phòng bỏ không, chắc bên trong cũng chẳng có đồ gì quý giá, đương nhiên giờ cũng không dùng đến chiếc chìa khóa này, chúng ta đi uống rượu thôi”.Dứt lời anh ta nói cười với mấy thống chế khác, ồn ào kéo Đào tư lệnh đi.

Tĩnh Uyển ở trong phòng nghe thấy họ đã đi xa, đi lên phía trước đẩy cửa bên ngoài thật chặt, sao có thể đẩy ra được chứ? Cô quay đầu lại nhìn Mộ Dung Phong, anh vẫn rất bình thản, cười cười với cô: “Thật xin lỗi, lúc nãy tôi nhận nhầm người, mạo phạm quá rồi!”. Cô chỉ nói: “Đâu có”. Vừa dứt lời liền cảm thấy không ổn, nhưng nếu giải thích chỉ e càng nói càng rối, trong phòng chỉ bật một chiếc đèn nhỏ, cô đứng trước cửa sổ, cửa sổ treo một tấm rèm nhung màu vàng, trong ánh sáng lờ mờ, nhìn nó giống như màu xanh, càng làm nổi bật chiếc sườn xám màu trắng bạc của cô, những nếp gấp ánh lên lấp lánh, trong cô như bông hoa lan trên cành, lay động trong màn mưa mênh mang. Anh bỗng động lòng, buột miệng nói: “Là cô?”.

Cô sững sờ một lát: “Đúng… là tôi”.

Dáng vẻ anh vẫn rất ung dung, cười nói: “Chúng ta đây là duyên phận gì chứ, sao mỗi lần gặp cô đều là lúc thảm hại nhất của tôi. Trong lòng cô rối bời, nhất thời không biết nói gì, anh đi lại đẩy đẩy cửa, làm sao đẩy nổi, anh không kìm được nói: “ Đám người này có tí rượu vào là đùa nghịch không biết trời đất là gì?” Thấy cô nhìn mình, anh lại cười cười, an ủi cô: “Đừng lo, lát nữa sẽ có người đến thả chúng ta ra”. Thấy cô hình như hơi thấp thỏm không yên, anh nghĩ lại, rồi đi bật hết mấy chiếc đèn trong phòng, xung quanh bỗng nhiên sáng rõ, anh thấy đôi mắt trong veo như nước hồ thu long lanh của cô nhìn anh, ánh mắt ấy chuyển động trong vắt như gương.

Lại nói đến Đào Đoan Nhân quay về phòng tiệc lớn phía trước, uống vài ly rượu mấy vị thống chế rồi nhân lúc người khác không để ý, vẫy tay gọi một tùy tùng đến, khi anh ta lén lấy chìa khóa ra đưa cho người đó, bỗng một bàn tay thò vào túi, ấn chìa khóa xuống. Đào Đoan Nhân ngẩng đầu lên nhìn, chính là Quan thống chế, anh ta cười ha ha nói với Đào Đoan Nhân: “Đào tư lênh vội gì chứ?”.

Đào Đoan Nhân nói: “Đùa đủ rồi, đừng đùa nữa”. Quan thống chế cười hà hả, thấp giọng nói: “Bây giờ Cậu Sáu ở trong căn phòng đó e rằng còn sung sướng hơn nhiều so với chúng ta bị chuốc rượu ở đây”. Đào Đoan Nhân cười một tiếng, đáp: “Đùa là đùa, nhốt mãi như thế còn ra gì chứ?” Một vị thống chế khác cầm một hũ rượu đến, tự mình rót một chén cho Đào Đoan Nhân nói: “Đào tư lệnh yên tâm, vẫn còn sớm mà, hiếm có hai ngày rảnh rỗi này, để Cậu Sáu thoải mái nghỉ ngơi đi”. Người khác cũng mồm năm miệng mười đến chuốc rượu khuyên bảo, Đào Đoan Nhân không có cách nào, đành cùng họ càn quấy tiếp.

Mộ Dung Phong cứ tưởng không quá một tiếng đồng hồ sẽ có người đến, ai ngờ mãi lâu, trời tối dần, xung quanh vẫn yên lặng như tờ, chỉ nghe thấy tiếng cười nói văng vẳng ở nhà trên, Mộ Dung Phong đi lại hai bước trong phòng, kéo rèm cửa lên xem, lại quay qua nhìn Tĩnh Uyển, Tĩnh Uyển nghĩ, cứ bị nhốt ở đây như vậy cũng sẽ khó xư, cứ tiếp tục thế này, cũng chẳng tiện nói gì, nói: “Cậu Sáu cứ tự nhiên”.

Cô vốn không có ý gì nhưng vừa nói ra, bản thân cũng cảm thấy rất ngại, anh cũng không nhịn được cười, nói: “Tuy trèo cửa sổ ra rất dễ dàng, nhưng tôi luôn thất lễ trước mặt tiểu thư”. Cô nói: “Tùy cơ ứng biến, có gì mà thất lễ chứ”. Anh nghe cô trả lời thoải mái, trong lòng nghĩ đám thống chế này tửu lượng đều cao, nếu uống đến mức ai ai cũng say như chết, mình thật sự bị nhốt ở đây một đêm thì còn ra thể thống gì? Anh đưa tay lên đẩy cửa sổ ra, thấy xung quanh không có ai, hai tay ấn lên bệ cửa, liền nhảy qua cửa sổ, chạm đất không tiếng động.

Anh quay đầu lại nói với Tĩnh Uyển: “Cô đợi ở đây một lát, tôi gọi người đến mở cửa”. Tĩnh Uyển thấy anh định quay người đi, trong lòng rất lo lắng. Cô khó khăn lắm mới gặp được anh, anh đi rồi, muốn gặp lại càng khó hơn, vậy lại buột miệng nói: “Không, tôi đi với anh”. Cô thấy một chiếc ghế đẩu nhung trước bàn dài dưới cửa sổ, bê đến giẫm lên, có điều tà dưới của sườn xám hơi chật, làm sao có thể nhảy cửa sổ ra như anh? Cô không nghĩ gì, liền xé tà dưới sườn xám, chỉ nghe một tiếng “xoạc”, chỗ xẻ của sườn xám đã rách ra. Anh thấy cô giẫm lên cửa sổ, trong lòng rất hốt hoảng, đưa tay ra theo bản năng muốn đỡ lấy, cô lại không để ý, thuận theo cửa sổ nhảy xuống, nhanh nhẹn lanh lẹ rồi đứng vững, lại lấy khăn tay phủi phủi bụi sau tà váy, vẻ mặt điềm nhiên như chỉ là mới vươn người hái nhành hoa, ngẩng đầu lên nở một nụ cười rất đẹp với anh.

Anh cố gắng kìm chế không nhìn về phía vết rách đó, chỉ là trong lòng thấy kỳ lạ, sợ không quản nổi ánh mắt mình, đành ho một tiếng nói: “Mời tiểu thư đi bên này”. Tĩnh Uyển lúc này mới nói nhỏ: “Tôi họ Doãn, Doãn Tĩnh Uyển”. Anh “ừ” một tiếng, đưa tay ra nói: “Doãn tiểu thư hân hạnh”. Tay cô rất lạnh,anh nhớ lại lúc nhỏ mình cầm chiếc dùi bằng ngọc Dương Chi để niệm Phật của mẹ, nắm trong lòng bàn tay cũng lành lạnh như thế, giống như hễ lơi là sẽ tuột xuống đất vỡ nát nên luôn cố gắng giữ thật cẩn thận. Anh thấy bộ đồ của cô đã hỏng, như thế này cũng không thể gặp ai, trong lòng liền có tính toán.

Anh đi phía trước, Tĩnh Uyển rớt sau anh hai ba bước, không biết anh đưa mình đi đâu, từ vườn hoa đó men theo hành lang rẽ mấy lần, lại đi qua rất nhiều sân, đằng sau lại là một căn nhà nhỏ kiểu Tây, trước căn nhà đó có một bóng đèn điện sáng trắng, chiếu vào một cây liễu rất lớn, gió đêm thổi qua, hàng ngàn chiếc lá rủ xuống lan can nhỏ màu đỏ, như tranh như hoa.

Tĩnh Uyển không có tâm trạng nào mà ngắm cảnh, Mộ Dung Phong đi vào phòng, gọi một tiếng: “Chị ba”. Hóa ra đây là nơi ở của Mộ Dung tam tiểu thư, anh nghĩ rằng lúc này chị ba đang tiếp khách ở phía trước, ai ngờ vừa đúng lúc Mộ Dung tam tiểu thư về phòng thay đồ, nghe thấy giọng anh, vội vàng đi từ trên lầu xuống, thấy là hai người bọn họ, chưa nói gì đã nhoẻn miệng cười. Mộ Dung Phong cũng chẳng ngờ chị mình lại ở đây, chỉ định gọi người hầu đem một bộ quần áo đếnn, lúc này đành nói với chị: “Chị ba bảo người đem một bộ quần áo đến để cô ấy thay trước đi”. Trên trần nhà của căn phòng đó treo bốn chiếc đèn chùm thủy tinh rất lớn, Mộ Dung tiểu thư nghe thấy câu này, liền nhìn về phía người Tĩnh Uyển, lập tức thấy vết rách dài ở tà dưới, không thể nhịn nổi, nét cười chầm chậm lộ nơi khóe mắt: “Chị có một bộ sườn xám mới may, mặc hơi chật, vẫn chưa đem đi sửa. Doãn tiểu thư gầy hơn chị, chắc sẽ mặc vừa”. Cô gọi người làm dẫn Tĩnh Uyển đi thay quần áo, Tĩnh Uyển đi hai bước, bỗng nhiên nhớ ra, quay đầu lại nói với Mộ Dung Phong: “Phiền anh đợi tôi một lát, tôi còn có chuyện muốn nói với anh”.

Mộ Dung Phong còn chưa đáp lại: “Mộ Dung tam tiểu thư đã phì cười, vỗ tay Tĩnh Uyển nói: “Em yên tâm đi đi, chị thay em trông nó, đảm bảo nó không đi đâu được hết”. Tĩnh Uyển thấy cô nói vậy, biết rõ cô đã hiểu nhầm, nhưng chuyện này cũng không dễ biện bạch, đành cười cười trước, rồi đi thay quần áo.

Lúc cô thay xong quần áo đi ra, chỉ thấy một mình Mộ Dung Phong ngồi ở đó hút thuốc, xung quanh yên lặng như tờ, ngay cả người hầu cũng không biết đi đâu. Anh thấy cô đi ra, tiện tay dập điếu thuốc xuống gạt tàn, anh tuy xuất thân từ gia đình kiểu cũ, nhưng cũng là nhân vật thời thượng trong xã hội thượng lưu, hiểu các lễ tiết phương Tây, anh đứng dậy kéo ghế giúp cô, cô cảm ơn ngồi xuống, đang do dự mở lời như thế nào, anh đã hỏi: “Doãn tiểu thư là người Càn Bình phải không?”.

Trong lòng Tĩnh Uyển vốn rối loạn cực độ, thấy Mộ Dung Phong nhìn mình, tuy anh là nhân vật nắm đại quyền trong tay, nhưng vị trẻ tuổi nên không hề đem lại cho người khác cảm giác hung hổ dọa người, ngược lại cô thấy ánh mắt rất ôn hòa, do đó ôn tồn nói: “Cậu Sáu, thật không muốn giấu, tôi đến là có việc muốn cầu xin”. Mộ Dung Phong “ồ” một tiếng nói: “Tôi vốn nợ ân cứu mạng của Doãn Tiểu Thư, có gì xin hãy nói thẳng đừng ngại!”. Tĩnh Uyển liền nói rõ sự việc với anh, sau đó nhìn anh không chớp mắt, anh hơi chau mày, lập tức nói: “Doãn tiểu thư, cô từng giúp tôi lúc nguy nan, đại ân đó suốt đời không quên. Nhưng việc này thứ lỗi tôi thật sự không thể đồng ý với cô”.

Cô vốn còn ôm chút hy vọng, nghe anh từ chối thẳng thừng như vậy, trong mắt không kiềm được lộ ra ánh nhìn đau lòng, tuyệt vọng. Anh cảm hấy rất có lỗi, hỏi: “Doãn tiểu thư, thật vô cùng xin lỗi, tôi quả thật bất lực”.Cô “ừ” một tiếng nói: “Ngay cả anh cũng đã bất lực, vậy thì thật sự không có cách nào rồi”.

Tuy anh chỉ gặp cô vài lần, nhưng đã cảm thấy cô gái trước mặt thật nhanh nhẹn, thẳng thắn không hề tầm thường, là một người quyết đoán, không thua kém đấng mày râu. Bây giờ nhìn cô tuyệt vọng, mới thấy được vẻ yếu đuối của con gái, khiến người ta không nén nổi thương xót, nghĩ lại một lát, lại nói: “Thế này đi, cô ở lại đây hai ngày, tôi sắp xếp đưa cô đi dạo xung quanh, nếu có chuyện gì khác tôi có thể giúp, xin hãy cứ nói”. Cô lắc đầu nói: “Ngoài chuyện này, tôi không có việc gì muốn nhờ anh giúp nữa”.

Trong chốc lát, căn phòng chìm trong yên lặng, rất lâu sau, anh mới hỏi: “Vị Hứa tiên sinh đó, chắc là người thân của Doãn tiểu thư phải không?”. Tĩnh Uyên nói: “Anh ấy là vị hôn phu của tôi”. Anh lại im lặng, một lát sau nói: “Tôi rất xin lỗi, hy vọng Doãn tiểu thư có thể hiểu được khó khăn của tôi”. Tĩnh Uyển khẽ gật gật đầu nói: “Tôi hiểu, anh muốn khống chế mười một sư đoàn chín tỉnh, quả thật không dễ dàng. Huống hồ trong hai phe phái, phe bao thủ hành động mưu đồ, lúc này anh không thể đi sai một bước”. Cô hơi mỉm cười, nhưng ánh mắt lạnh tanh: “Tôi chỉ nghĩ đó là điều đương nhiên, anh mới hai mươi lăm tuổi, con nối nghiệp cha, những thuộc cấp dưới quyền chắc chắn có công cao hơn chủ, nén giận không phúc, xúi bẩy đến xem trò cười, nếu không phải anh mới đánh thắng một trận, e rằng người không phục còn nhiều hơn. Từ xưa đến nay, trên thế giới này sự việc cũng chỉ thế mà thôi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-5-2013 19:02:24 | Xem tất
Chương 6


Mộ Dung Phong nghe những lời đó, trong lòng dường như có sóng động, một lát sau bỗng mỉm cười: “Doãn tiểu thư từ xa đến, cũng phải để tôi hết lòng tiếp đãi, ngày mai tôi muốn mời Doãn tiểu thư đến nhà tôi ăn bữa cơm, không biết Doãn tiểu thư có vui lòng đến dự không?”.

Tĩnh Uyển từ chối hai câu rồi cũng nhận lời. Mộ Dung Phong lại hỏi: “Không biết Doãn tiểu thư hiện giờ ở đâu, ngày mai tôi phái người đến đón”. Tĩnh Uyên liền nói cho anh biết tên nhà trọ, anh hơi chau mày, lập tức cười nói: “Thừa Châu là nơi hẻo lánh, không thể so được với cố đô Càn Bình phồn hoa, quán trọ đó e rằng sẽ làm khổ tiểu thư rồi, chị Ba và Doãn tiểu thư rất có duyên, chị ấy cũng rất hiếu khách. Nếu Doãn tiểu thư không chê, có thể chuyển về đây ở không?”

Tĩnh Uyển nghe anh mời mình về ở trong Đào phủ, trong lòng đương nhiên thấy kỳ lạ, do dự một lát thấy ánh mắt ánh sáng ngời, nhìn thẳng vào mình, đôi mắt đó giống như bầu trời đêm sâu thăm thẳm. Cô nhất thời liền quyết định, nói: “E rằng làm phiền chị ba anh, vậy ngại lắm”.

Môi anh hé nụ cười, nói: “Chị ấy là người rất hiếu khách, Doãn tiểu thư yên tâm”. Anh vừa nói vừa ấn chuông gọi người, vì biết anh ở đây cho nên không phải là người hầu của Đào gia mà là tùy tùng của anh đi vào đợi lệnh, anh liền nói cho tùy tùng địa chỉ quán trọ, dặn dò: “Đi lấy hành lý của Doãn tiểu thư”, lại nói: “Nói với chị ba tôi một tiếng, bảo là tôi có việc mời chị ấy đến”.

Mộ Dung gia là gia đình kiểu cũ, sau khi Mộ Dung Thần qua đời, Mộ Dung Phong là người đứng đầu thực chất, Tam tiểu thư tuy nhiều tuổi hơn anh, nhưng nghe anh phái người tìm mình một lát sau liền đến ngay. Mộ Dung Phong nói với cô: “Chị ba, em thay chị mời Doãn tiểu thư ở lại đây”. Tam tiểu thư cảm thấy hơi bất ngờ, nhưng lập tức cười nói: “Chị đương nhiên là tán thành rồi, Doãn tiểu thư chịu vui lòng đến thì tốt quá”. Cô nồng nhiệt nắm lấy tay Tĩnh Uyển: “Chị chỉ sợ Doãn tiểu thư chê chỗ chị buồn chán”, lại nói tiếp: “Nếu Doãn tiểu thư không chê, ở căn nhà phía Tây có được không?”. Tuy chỗ đó hơi nhỏ, nhưng lầu trên lầu dưới, xung quanh đều là hoa viên, rất yên tĩnh, hơn nữa phía trước có một cổng, nếu có việc ra vào, ví dụ như lên phố, cũng không cần đi quá xa cổng chính”.

Đào gia vốn là khu biệt viện kín cổng cao tưởng, phòng trống rất nhiều, Tam tiểu thư tự mình đưa Tĩnh Uyển đi xem phòng, sự niềm nở ấy khác hắn vừa lúc mới gặp. Căn nhà đó tuy để trống, nhưng hàng ngày đều có người quét dọn sạch sẽ, không một chút bụi. Dưới lầu là phòng khách và hai phòng nhỏ, thêm một căn bếp, trên lầu có mấy phòng ngủ, một trong số đó rất rộng rãi, thiết kế kiểu phương Tây, Tam tiểu thư dặn dò Lan Cầm, một nha hoàn làm việc ở nhà trên đến dọn chăn đệm mới tinh, trải trên chiếc giường lò xo kiểu Tây, nói: “Tất cả đều sạch sẽ, Doãn tiểu thư cứ yên tâm”. Cô lại chỉ Lan Cầm nói: “Con bé này cũng khá ngoan ngoãn, Doãn tiểu thư không đem theo người đến, để nó đến hầu hạ Doãn tiểu thư đi”.

Tĩnh Uyển đương nhiên luôn miệng cảm ơn, phòng ngủ đó có ô cửa sổ dài sát đất kiểu Tây, đầy cửa là đi ra ban công. Bầu trời đầy sao lấp lánh, những ánh sao lẻ loi chiếu vào nơi tối nhất của bóng cây. Gió thổi qua, lá cây lay động, cô nhìn về con phố bên ngoài tường không xa, đối diện lại là bờ tường đá granite, nhìn trông âm u tĩnh mịch, lờ mờ có thể thấy các căn nhà nối tiếp không ngừng, không có những chóp nhà cao cao, có vẻ đó là một tòa nhà rất lớn với lớp lớp các căn nhà.

Con đường được chiếu sáng nhờ những ngọn đèn hơi ga, soi rõ lưới điện mắc trên bờ tường đối diện, trên lưới điện buộc rất nhiều dây thép gai, trên tường cắm đầy những mảnh thủy tinh vỡ. Chỗ góc rẽ có một ngọn đèn đường, bên dưới là một trạm gác cảnh sát, dưới bờ tường cách không xa lại có một vệ binh vác súng đi đi lại lại, rõ ràng bên trong bờ tường ấy là một nơi rất quan trọng. Cô không kìm được hỏi: “Đó là chỗ nào thế?”. Tam tiểu thư nhoẻn miệng cười nói: “Đó là hành dinh đốc quân”. Tĩnh Uyển bất giác “ồ” lên một tiếng, hóa ra đó chính là hành dinh đốc quân tuần duyệt sứ chính tỉnh mà người ta gọi là “Đại soái phủ”, hóa ra căn nhà này và soái phủ chỉ cách nhau một con phố, chẳng trách Tam tiểu thư lại sắp xếp như vậy.

Trưa ngày hôm sau Mộ Dung Phong sai người đến đón cô. Người đến đón tuy mặc quân phục nhưng thái độ rất nhã nhặn ôn hòa, thấy Tĩnh Uyển thì lịch sự giới thiệu: “Chào Doãn tiểu thư, tôi là Thẩm Gia Bình, đội trưởng vệ quân của Cậu Sáu, Cậu Sáu phái tôi đến đón Doãn tiểu thư”.

Tuy cô đã có sự chuẩn bị nhưng trong lòng ít nhiều vẫn thấp thỏm bất an, cô kiêu ngạo gan dạ hơn người, ngồi trên xe cuối cùng cũng trấn tỉnh lại. Đào phủ và soái phủ vốn không xa nhau, đi một lát đã đến, ô tô đi thẳng vào trong, đi thêm một đoạn rất xa rồi mới dừng lại. Đã có người hầu đợi sẵn đi lên mở cửa giúp cô, hóa ra ô tô dừng lại ở trước một tòa nhà gạch xanh rất lớn, trước lầu là vườn hoa kiểu Tây, giữa mùa xuân cành lá sum sê tươi tốt, vô cùng đẹp đẽ. Người làm dẫn cô vào bên trong, trên đường đi xuyên qua một phòng khách như cung điện, đi qua hành lang là một phòng khách thiết kế theo kiểu Tây, nền trải một tấm thảm, giẫm lên mềm mại không phát ra tiếng động, trên thảm là hình hai đóa hoa phù dung rất lớn, bộ ghế sofa giống như nhụy hoa ở giữa. Cô vừa ngồi xuống liền có người bưng trà lên.

Cô vừa uống trà vừa đợi một lát, bỗng nghe thấy bên ngoài bức bình phong có người vừa nói chuyện vừa đi vào: “Thật xin lỗi, để Doãn tiểu thư đợi lâu”. Chính là Mộ Dung Phong, ở nhà anh mặc áo sơ mi dài, khí thái anh hùng lại thêm vài phần nho nhã. Cô thướt tha đứng dậy, anh thấy cô hôm nay mặc váy dài kiểu phương Tây, càng trở nên duyên dáng, thấy cô thoải mái đưa tay ra, anh vội vàng bắt tay với cô: “Vốn định tự mình đi đón Doãn tiểu thư, nhưng buổi sáng có chút việc đột xuất cho nên đến muộn, mong Doãn tiểu thư thông cảm”.

Tĩnh Uyển nói: “Cậu Sáu là quản lý quân sự chính trị của chín tỉnh, trăm công nghìn việc, tôi mới là người đến làm phiền, vô cùng có lỗi”. Mộ Dung Phong ngồi xuống  nói chút chuyện phong cảnh Thừa Châu, không lâu sau liền có người làm đến báo: “Nhà bếp xin ý kiến Cậu Sáu, đã chuẩn bị xong hết rồi ạ”. Mộ Dung Phong nói: “Vậy ăn cơm trước đi”. Anh đứng dậy, đột nhiên nói: “Doãn tiểu thư cứ ngồi đó, tôi đi một lát rồi quay lại”. Không lâu sau, Mộ Dung Phong liền thay một bộ Tây phục đến, cười nói: “Hôm nay mời Doãn tiểu thư thử tài nghệ nấu đồ Tây của nhà chúng tôi”. Tĩnh Uyển thấy anh thay Âu phục, càng trở nên phóng khoáng phong lưu, nhưng dẫu sao trẻ tuổi, cũng thích thời thượng giống các công tử phong lưu bình thường. Lại nghe anh nói là ăn đồ Tây, cô liền đáp: “Cậu Sáu khách sáo quá rồi”.

Nhà bếp của Mộ Dung phủ đương nhiên không hề tầm thường, nấu ăn cũng rất đúng kiểu. Tuy chỉ có hai người ăn cơm, nhưng có một đống người hầu hạ rất niềm nở. Vừa mới đưa lên món chính thứ hai, bỗng một người hầu đến báo cáo: “Cậu Sáu, sư đoàn trưởng Thường xin gặp”.

Mộ Dung Phong nói: “Mời ông ấy vào đi”.

Một lát sau, người hầu liền dẫn vị sư đoàn trưởng Thường đó vào, Tĩnh Uyển thấy người này khoảng trên dưới năm mươi tuổi, dáng vẻ oai phong vừa mở miệng là tiếng vang như chuông đồng, ông ta gọi một tiếng: “Cậu Sáu”. Sự đoàn trưởng Thường nhìn thấy Tĩnh Uyển, thầm ngạc nhiên, đôi mắt chỉ lo dò xét. Vì ông ta là thuộc cấp cũ của Mộ Dung Thần nên xưa nay Mộ Dung Phong gọi là “chú Thường”, anh hỏi: “Chú Thường chắc vẫn chưa ăn cơm, ngồi xuống ăn chút nhé”. Vị sư đoàn trưởng Thường đó giận dữ đùng đùng đi đến, vì có mặt người ngoài nên một bụng tức giận mà cố kìm nén không xả ra, khó chịu nói: “Cảm ơn Cậu Sáu, tôi ăn rồi. Cậu Sáu có thể nói chuyện riêng với tôi vài câu được không?”.

Mộ Dung Phong nói: “Có gì chú cứ nói đi, Doãn tiểu thư không phải người ngoài”. Vì anh chưa kết hôn hên xưa nay không tiếp nữ giới ở nhà, sư đoàn trưởng Thường ngẫm nghĩ, cảm thấy vị Doãn tiểu thư này nhất định là người đặc biệt, ông là thuộc cấp cũ theo Mộ Dung Thần chinh chiến nhiều năm, nhiều lúc xin chỉ thị quân sự trước trưởng kỷ của Mộ Dung Thần, tứ phu nhân được Mô Dung Thần yêu chiều nhất trong những năm cuối đời luôn ở bên cạnh châm thuốc giúp ông, họ coi như không thấy bà – bây giờ cũng coi như không thấy Tĩnh Uyển, liền mở miệng nói: “Quân lương Cậu Sáu đồng ý điều động, đến bây giờ vẫn chưa tới Thượng Hả”. Mộ Dung Phong đáp: “Trước mắt quân lương thiếu hụt, chú cũng biết đấy”. Sư đoàn trưởng Thường hỏi: “Vậy tại sao Cậu Sáu lại phát hơn một ngàn bột mì cho Lưu Tử Sơn?”. Mộ Dung Phong nói: “ Lưu Tử Sơn dẫn quân trấn giữ Thượng Hải, đối đầu với Dĩnh quân, đương nhiên phải ổn định lòng quân tiền tuyến”.

Sư đoàn trưởng Thường hỏi lại: “Chẳng lẽ Thường Đức Quý tôi không phải đang dẫn quân đối đầu với Dĩnh quân sao? Tại sao Cậu Sáu điều quân lương cho Thượng Hải, lại không chịu cho Thượng Hà chúng tôi?”. Mộ Dung Phong cũng không tức giận, mỉm cười nói: “Chú Thường đừng nóng, đợi đợt quân lương này đến, cháu lập tức điều động đến cho chú”. Thường Đức Quý hừ một tiếng, nói: “Cậu Sáu nhất bên trọng nhất bên khinh như vậy, thiên vị Lưu Tử Sơn, thật khiến huynh đệ già chúng tôi đau lòng”. Mộ Dung Phong lạnh nhạt nói: “Chú Thường đa nghi quá, đều là đồng bào một quân, sao cháu lại nhất bên trọng nhất bên khinh chứ?”. Thường Đức Quý lại hừ một tiếng, nói: “Cậu Sáu từ nước ngài về, thích chơi mấy thứ đồ Tây, Lưu Tử Sơn biết chút ít về phương Tây, Cậu Sáu liền nhìn hắn ta bằng con mắt khác. Đồ của người Tây hoa hòe hoa sói, chỉ nhìn đẹp mắt. Đánh trận vẫn nên một súng một đạn, là thật nỗ lực mới có thể thắng được. Cậu Sáu chỉ nghe họ xúi bẩy lung tung, sớm muốn có ngày hối hận không kịp!”.

Mộ Dung Phong nói: “Chú Thường hà tất phải nổi nóng, chú cần quân lương, cháu chuyển đến cho chú là được rồi”. Thường Đức Quý vẫn “hừ” mộ tiếng nói: “Vậy tôi sẽ đợi”. Nói xong câu này, ông ta lại tiếp: “Cậu Sáu ăn ngon miệng, tôi xin cáo từ”.

Sau khi ông ta đi, Tĩnh Uyển nghe tiếng dao ăn quẹt trên đĩa bạc của Mộ Dung Phong, âm thanh rất rõ ràng, anh đặt dao dĩa xuống. Anh thấy cô nhìn mình liền cười cười nói: “Họ đều là người thô lỗ cầm quân đánh trận, bình thường nói chuyện đều như thế, khiến Doãn tiểu thư chê cười rồi”.Tĩnh Uyển nhẹ nhàng đáp: “Cậu Sáu đã coi tôi là bạn, hà tất phải khách sáo thế?”. Mộ Dung Phong nói: “Chung quy vẫn rất thất lễ, vốn là muốn giúp Doãn tiểu thư tẩy trần, ai ngờ lại mất hứng thế này”. Anh lại nói tiếp: “Buổi tối đại kịch viện Quốc Quang có vở Võ Gia Pha của ông chủ Ngụy, không biết Doãn tiểu thư có chịu nể mặt tôi không, coi như tôi mượn hoa dâng Phật, mượn kịch hay của ông chủ Ngụy để tạ lỗi với tiểu thư”.

Anh nói khách sáo như vậy, Tịnh Uyển không dám từ chối, nói: “Chỉ là tôi có một yêu cầu quá đáng, mong Cậu Sáu đồng ý. Tôi muốn đi thăm Hứa Kiến Chương một lát”. Mộ Dung Phong đáp: “Đây là lẽ thường tình của con người, sao nói là yêu cầu quá đáng chứ, việc này tôi có thể sắp xếp”. Anh lập tức gọi người đem giấy mực đến, vội vã viết lệnh trên bàn ăn, lại gọi người chuẩn bị xe, dặn dò: “Đưa Doãn tiểu thư đến nhà tù Đông Thành”.

Nhà tù Đông Thành ở ngoại thành, ngồi trong xe nhìn cây cối hai bên đường không ngừng lùi lại phía sau, cô cảm thấy con đường như thế đi mãi không đến đích. Bây giờ đang là mùa xuân hai bên đường bằng phẳng tĩnh mịch, xanh tươi như dệt, nhưng cô không có tâm trạng nào mà ngắm cảnh. Khó khăn lắm mới thấy bức tường cao của nhà tù, trong lòng càng trở nên buồn bã.

Trưởng nhà tù nhìn thấy bức lệnh của Mộ Dung Phong, đương nhiên vô cùng cung kính, đưa cô vào căn phòng làm việc của mình, lại đích thân pha trà xong mới dặn dò người đi đưa Hứa Kiến Chương đến. Tĩnh Uyển làm gì có tâm trạng uống trà, cô vừa nghe thấy tiếng bước chân vẳng lại từ hành lang, trong lòng đã rối bời bời. Chỉ nghe thấy tiếng lạch cạch mở cửa, hai lính canh dẫn Hứa Kiến Chương vào, quần áo trên người cũng coi như gọn gàng, chỉ là không cạo râu, gương mặt tiều tụy đến mức vàng vọt, hai xương gò má nhô lên rất cao. Không ngờ mấy ngày không gặp, một công tử phong độ đã thành tù nhân, Tĩnh Uyển đi lên một bước nắm tay anh, muốn nói chuyện, khóe miệng hơi run, chưa nói nổi một tiếng nào, nước mắt đã lã chã lăn xuống.

Trưởng nhà tù thấy tình cảnh này, liền cùng hai lính canh lui ra. Tĩnh Uyển chỉ cảm thấy tủi thân, khó nói thành lời, làm sao cũng không ngăn được nước mắt, Hứa Kiên Chương cũng rất buôn, một lát sau mới gượng nói: “Em đừng khóc”. Tĩnh Uyển giờ mới dần thôi khóc, lấy khăn tay ra lau khóe mắt nói: “Anh tạm thời chịu đựng thêm mấy ngày nữa, em đang cố gắng nghĩ cách. Vừa nãy em đã xin trưởng tù đổi giúp anh một căn phòng tốt hơn, quan tâm tới anh hơn một chút”. Hứa Kiến Chương giờ mới hỏi: “Sao em lại đến”. Tĩnh Uyển sợ anh lo lắng, nói: “Cha đến tìm đường giúp, em cứ nằng nặc đòi theo cha”. Hứa Kiến Chương nghe cô nói cha đi cùng mới hơi yên tâm. Tĩnh Uyển lại đưa quần áo mình đem đến cho anh, ngoài ra có một tùi tiền nặng, nói: “Anh ở đây chắc chắn cần dùng rất nhiều tiền, nếu không đủ thì bảo người đưa thư, em lại đem đến cho anh”.

Hứa Kiến Chương nói: “Làm khó em rồi”. Anh sợ cô lo lắng, cố gắng cươi tươi nói: “Thật ra người ở đây cũng quan tâm đến anh, ăn uống cũng không quá tệ. Em đừng quá lo lắng, xem em kìa, gầy quá rồi”. Tĩnh Uyển vốn đã hơi an lòng, nghe anh nói thế, mắt lại hoe đỏ: “Anh yên tâm, em nhất định nghị cách cứu anh ra”. Hai người họ bỗng nhiên gặp mặt, có quá nhiều điều không biết phải nói từ đâu, Tĩnh Uyển thấy bên ngoài cửa lính canh và người theo hầu đưa mình đến thỉnh thoảng ngó vào trong phòng, rất nhiều lời không tiện nói, lại sợ Hứa Kiến Chương lo lắng, lung tung, chỉ nói đã tìm được người giúp đỡ, có hy vong được thả, để Hứa Kiến Chương yên tâm.

Cô ra khỏi nhà tù, lúc quay lại soái phủ, trời đã xế chiều, xe vẫn đi thẳng vào bên trong mới dừng lại. Cô xuống xe, xung quanh là cây cối rậm rạp um tùm, trời dần dần xầm tối, ánh chiều tà hắt trên lá cây, khiến người ta càng có cảm giác u buồn. Người hầu của soái phủ biết cô là khách quý của Mộ Dung Phong, làm gì có ai không nịnh bợ, họ niềm nở cười nói: “Doãn tiểu thư đến vườn hoa ngồi một lát được không? Cậu Sáu đang họp lát sau sẽ đến ngay”.

Cô ngồi uống trà ở hoa viên, vừa ngồi được một lúc,đột nhiên bên ngoài cửa có một giọng nói yểu điểu của con gái gọi: “Anh”. Cô quay đầu lại nhìn, là một cô gái khoảng hai mươi tuổi, tướng mạo tuy không phải rất đẹp, nhưng thanh tú, vừa nhìn đã biết là một tiểu thư rất thông minh. Cô này thấy trong hoa viên có người lạ liền dừng bước, Tĩnh Uyển không biết thân phận cô, cũng không tiện xưng hô, đành cười cười, chào hỏi qua loa. Đang trong lúc do dự thì nghe tiếng giày da ngoài hành lang, chính là Mộ Dung Phong đang đến.

Cô gái đó vừa nhìn thấy anh, liền gọi một tiếng: “Anh Sáu”. Tĩnh Uyển thấy làm lạ, chưa từng nghe nói anh còn có một cô em gái như thế này. Mộ Dung Phong giới thiệu hai người cho nhau, hóa ra cô gái này chính là Triệu Thù Ngưng – em họ của Mộ Dung Phong, cậu Mộ Dung Phong qua đời từ sớm. Mộ Dung phu nhân đem cô cháu gái này về nuôi ở Mộ Dung gia, sau khi Mộ Dung phu nhận qua đời, Mộ Dung Phong nhớ thương mẹ, coi cô em họ này như em ruột, cho nên Triệu Thù Ngưng lớn lên trong Mộ Dung phủ.

Lúc này Mộ Dung Phong hỏi: “Thù Ngưng, buổi tối anh mời Doãn tiểu thư đi nghe kịch, em có đi không?”. Thù Ngưng cười nói: “Xem ra, anh Sáu muốn mời khách rồi, tối em hẹn bạn đi xem phim, không thể đi được”. Lúc nói chuyện, mắt cô không nhịn được nhìn Tĩnh Uyển dò xét, Mộ Dung Phong hỏi: “ Là phim gì thế, ngay cả Võ Gia Pha của Ngụy Sương Hà em cũng không nghe mà lại muốn đi xem phim đó?”. Thù Ngưng đáp: “Là một bộ phim tình yêu của nước ngoài, tên là Sai đến cùng, nghe nói rất hay đấy”. Mộ Dung Phong bật cười: “Cái tên này kỳ quái thật, hình như đã từng nghe tên rồi”.

Cô ấy không đi nghe kịch, sau bữa cơm Mộ Dung Phong và Tĩnh Uyển ngồi xe ô tô đến Quốc Quang. Đại kịch viện Quốc Quang là kịch viện sang trong nhất phía Bắc, không hề thua kém với đại kịch viện Càn Trung của Càn Bình. Vì hôm nay là lần đầu Ngụy Sương Hà lên sân khấu biểu diễn tại Thừa Châu, nên những người mê kịch, diễn viên nghiệp dư, cùng với quan to, người giàu thích nghe kịch đã đợi ở trong kịch viện từ lâu, khắp lầu trên lầu dưới đã ngồi kín ghế, toàn là đầu người đen kịt.

Mộ Dung Phong đương nhiên có phòng bao ở đại kịch viên, cận vệ đã bố trí canh gác đâu vào đấy, anh khoác tay Tĩnh Uyển lên lâu, tất cả cảnh vệ đứng nghiêm vác súng hành lễ, âm thanh đồng loạt âm vang như tiếng sấm rền, ngay cả nền nhà cũng hơi rung rung, hai phòng bên vốn dĩ có không ít thuộc cấp trong quân đội, thấy anh đi vào, tất cả hô một tiếng đứng dậy, lần lượt hành lễ. Tĩnh Uyển chỉ thấy trên lầu dưới lầu, mấy trăm con mắt đều nhìn vào mình, cô tuy thoải mái phóng khoáng những cũng cảm thấy khó chịu, trong lòng hơi hối hận, không ngờ trong kịch viện này có nhiều tướng lĩnh Thừa quân đến thế.
Họ ngồi xuống, mấy nhân vật quan trọng trong Thừa quân đến chào Mộ Dung Phong, tuy họ đều mặc thường phục nhưng vẫn theo lễ nghi quân đội, Mộ Dung Phong cười nói: “Được rồi, quay về nghe kịch hết đi, tôi khó khăn lắm mới đến nghe kịch một lần, mấy người cứ bày trò như thế có để ông chủ Ngụy hát không?”. Tiếng chiêng trống trên sân khấu dần dần nổi lên, Tĩnh Uyển tuy nghe nói vở Võ Gia Pha của Ngụy Sương Hà nổi tiếng thiên hạ, nhưng cô có bao chuyện phải lo nghĩ, làm sao nghe nổi chứ? Mắt nhìn lên sân khấu, tâm hồn sớm đã không biết bay về phương nào.

Đang trong lúc thất thần, Lan Cầm đã gọt xong một quả táo, đưa cho Tĩnh Uyển trước, Tĩnh Uyển liền nhường cho Mộ Dung Phong cười nói: “Doãn tiểu thư không cần khách sáo, đồ lạnh như vậy, buổi tối tôi không dám ăn”. Mộ Dung Phong nghe xong câu này mới nhận lấy, tiện tay lại đưa cho Thẩm Gia Bình đứng đằng sau lưng.

Trên sân khấu, Ngụy Sương Hà đang hát đến câu: “Tay cầm cung vàng đạn bạc, bắn rơi chiếc áo lụa đẫm máu. Mở áo lụa ra xem, mới biết chị ba bị giày vò. Vội vã trở về không quản ngày đêm, vì sự đoàn viên của hai vợ chồng họ”.

Mộ Dung Phong liền nói: “Tên Tiết Bình Quý này cò có chút lương tâm, qua mười tám năm vẫn chưa quên Vương Bảo Xuyến”. Tĩnh Uyển liền nói:  “Loại lương tâm này không cần cũng được. Hắn ở Tây Lương lấy công chúa Đại Chiến, mười tám năm vinh hoa phú quý, bỏ lại người vợ đã kết tóc se tơ, không thèm màng đến. Đến bây giờ nghĩ ra, cảm thấy nên quay về thăm, hắn ta coi phụ nữ trên thế giới này là cái gì chứ?”. Mộ Dung Phong nói: “Phụ nữ thời xưa cũng có điều khó xử của họ, mười tám năm đợi chờ, trinh tiết đó khiến người ta khâm phục, cho nên mới có kết thúc viên mãn làm hoàng hậu”. Tĩnh Uyển cười một tiếng, nói: “Loại đàn ông vong ân bội nghĩa như Tiết Bình Quý, vì giang sơn hoàng vị mà bỏ rơi cô ấy, cuối cùng cò vờ vĩnh cho cô ấy làm hoàng hậu, đấy mới là sự giả tạo thật sự. Đây cũng là sự thảm thương của phụ nữ thời xưa, nếu đổi là phụ nữ bây giờ, chắc chắn sẽ ném áo vàng mũ phượng vào người hắn, hiên ngang ra đi”.

Mộ Dung Phong đang định nói, vừa hay khúc: “Tây Bì nước chảy” hát xong, lầu trên lầu dưới hoan hô như sấm. Hai người cũng vỗ tay theo, Ngụy Sương Hà nhìn về phía căn phòng bao, đương nhiên vô cùng nỗ lực. Họ tiếp tục nghe kịch, trên lan can của căn phòng bao đặt đầy hạy dưa, đậu phộng, mứt hoa quả, mứt kẹo, trà, điểm tâm… Mộ Dung Phong vô cùng khách sáo, tự mình bưng tách trà đến nói: “Doãn tiểu thư, mời dùng trà”. Tĩnh Uyển vội vàng nhận lấy, luôn miệng cảm ơn. Đúng lúc đó, bỗng đằng sau lưng có người phì cười: “Hai người này, thật là khách sáo đến mức giả tạo. Trong kịch nói nâng khay ngang mày, tôn trọng nhau như khách, có lẽ chính là như thế này đây”.

Mộ Dung Phong quay đầu lại nhìn, cười vì gọi một tiếng “Dì”, hỏi “Dì tư đến lúc nào thế?”. Tĩnh Uyển đã đứng dậy, thấy quý phu nhân đó khoảng hơn ba mươi tuổi, dung mạo rất xinh đẹp, đôi mắt thanh tú dưới hàng lông mày đen, dường như có thể câu hồn đoạt phách, chưa nói đã tươi cười. Tĩnh Uyển nghe thấy cách xưng hô của Mộ Dung Phong, cô đoán là Hàn thị tứ phu nhân được yêu chiều nhất lúc Mộ Dung Thần còn sống, mọi việc Mộ Dung gia đều do bà chủ trì, phân nữa thân phận là bà chủ gia đình, vì thế Mộ Dung Phong rất tôn trọng bà. Lúc bà nắm lấy tay Tĩnh Uyển, cẩn thận dò xét cô một lượt, mới trả lời câu hỏi của Mộ Dung Phong: “Dì đến từ lúc nào hả? Chính là lúc hai người nâng khay ngang mày, làm bộ làm tịch đó”.

Mộ Dung Phong biết rõ bà hiểu nhầm, nhung không hiểu vì sao trong lòng rất hài lòng, chỉ cười ầm ờ: “Mời dì ngồi ạ”. Tứ phu nhân đáp: “Dì đang định về nhà, đi ngang qua đây, từ xa đã thấy cảnh vệ đứng từ cửa kịch viện đến tận phố, dì biết ngay cậu ở đây,cho nên đến xem xem”. Vì bà là trưởng bối cho nên Tĩnh Uyển rất khách sáo, đích thân bưng chiếc ghế bên cạnh đến nói: “Mời dì ngồi ạ”. Tứ phu nhân “ôi chao” một tiếng, cứ cười đến mức đôi mắt như ánh trăng đang chảy, luôn miệng nói: “Không dám, không dám”. Tĩnh Uyển giờ mới phát giác ra mình lỡ lời, ngại đến mức chỉ muốn độn thổ. Mộ Dung Phong thấy tính cảnh này, liền nói chen vào: “Kịch đang hay, dì nghe hết rồi về cùng chúng con nhé”. Tứ phu nhân là một người rất nghịch ngợm, thấy thế thuận miệng đáp: “Đúng thế, kịch đang hay, hai người từ từ nghe đi, dì đánh mạt chược cả ngày rồi muốn về nghỉ ngơi, không ở đây để người ta ghét đâu”. Tĩnh Uyển nghe từng câu chữ mang hai nghĩa đó của bà, bản thân lại nói sai một câu, chỉ yên lặng không nói. Mộ Dung Phong thấy mặt cô ửng đỏ, xinh đẹp rung động lòng người, tron lòng không nỡ để cô khó xử, cười nói: “Dì không chịu tha cho chúng con phải không? Kịch trên sâu khấu hay như vậy, dì cũng không chịu nghe mà muốn giễu cợt con?”
Tứ phu nhân nhoẻn miệng cười, nói: “Dì đi, dì đi ngay đây”. Đi đến cửa phòng, bà lại quay lại nhìn, cười nói: “Hai đứa từ từ nghe kịch đi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-5-2013 19:11:33 | Xem tất
Chương 7

Nghe hết buổi kịch hôm đó, khi Tĩnh Uyển quay về Đào phủ đã khoảng mười một giờ. Cô ngủ muộn, nhưng trong lòng có tâm sự nên dậy từ rất sớm. Tuy cô đã tỉnh, nhưng biết quy tắc của Đào phủ, ngoài Đào tư lệnh cần phải ra ngoài làm việc, những người khác đều ngủ đến ít nhất là mười giờ mới dậy. Cho nên cô nằm đó, nghĩ lại từng chuyện cảm thấy tất cả giống như một bộ phim, chiếu lại một lượt trước mắt, nghĩ đi nghĩ lại cứ cảm thấy không yên, khó khăn lắm chịu đựng đến mười giờ mới đánh răng rửa mặt. Cô ở nhờ tại Đào phủ, đương nhiên đối đãi với trên dưới đều khách sáo, người dưới vì cô rộng rãi, lại biết cô là khách quý của Cậu Sáu và Tam tiểu thư cho nên vô cùng nịnh bợ. Lan Cầm vừa thấy cô dậy, vội cười hỏi: “Doãn tiểu thư muốn ăn gì ạ? Phu nhân chúng tôi hôm qua đánh bài thâu đêm, vừa mới đi ngủ, cho nên trong bếp có chuẩn bị sữa bò và bánh ngọt”. Tĩnh Uyển nói: “Ăn chút gì cũng được, dù sao cũng còn sớm, tôi cũng chưa muốn ăn”.

Lan Cầm liền gọi bếp đem sữa bỏ và bánh ngọt đến, Tĩnh Uyển uống hai ngụm sữa tươi nóng, chợt nghe thấy điện thoại trong phòng đổ chuông, cô đang thắc mắc là ai gọi đến, Lan Cầm đã đi nghe, rồi trở lại nói với cô: “Doãn tiểu thư, là Cậu Sáu”. Cô đi nghe điện thoại, Mộ Dung Phong rất khách sáo nói: “Hôm nay thời tiết rất đẹp, tôi muốn mời Doãn tiểu thư ra khỏi thành đi săn, không biết Doãn tiêu thư có vui lòng đến không?”.

Cô không ngờ sáng sớm anh đã gọi điện đến vì điều này, cô nghĩ một lát rồi đồng ý. Mộ Dung Phong đích thân đến đón cô, anh không vào trong, chỉ đứng ngoài xe đợi. Lan Cầm đưa cô đến cánh cổng nhỏ, từ xa xa anh đã thấy cô mặc một chiếc áo thun mùa xuân bó sát màu vàng nhạt,bên dưới mặc một chiếc quần ca rô màu xám, màu sắc tươi sáng như thế, cô mặc vào trông thật thanh thoát khí thái, phong lưu dễ thương vô cùng, đặc biệt giống như một đóa hoa nghênh xuân xinh đẹp đón gió. Tuy anh đã nhìn quen hàng trăm, hàng ngàn cô gái xinh đẹp như muôn hồng ngàn tia, trăm hoa đua sắc, nhưng cũng không kìm được nhìn cô chăm chú, ánh mắt sáng rỡ. Cô lên xe, thấy ánh mắt anh nhìn xuống, nhìn vào đôi giày da dê của mình, liền cười giải thích: “Tôi nghĩ lúc về có lẽ phải đi bộ, cho nên đi giày da”. Giờ anh mới tỉnh táo lại, ho nhẹ một tiếng,nói: “Nếu Doãn tiểu thư không ngại, chúng ta ra ngoại thành cưỡi ngựa”.

Tiết trời đương lúc cỏ xanh oanh liệng, vó ngựa nhẹ phi. Mộ Dung Phong vốn hơi lo lắng, đích thân giúp Tĩnh Uyên kéo chặt hàm thiếc và dây cương, đưa tay ra đỡ cô, ai ngờ cô nhanh nhẹn như chim yến, chớp mắt đã leo lên lưng ngựa, Mộ Dung Phong từ nhỏ trong quân đội, lớn lên trên lưng ngựa, thấy vậy cũng không khỏi cảm thấy người như cô thật hiếm có, thấy tư thế cô đoan trang, liền đưa dây cương cho cô, nói: “Không ngờ cô biết cưỡi ngựa”. Cô quay đầu lại tươi cười nói: “Lúc ở Saint Petersburg có môn cưỡi ngựa, tôi cũng chỉ học chút ít thôi”. Yên ngựa chọn cho cô rất mềm mại, con ngựa đó trắng muốt, trên đầu có một dấu son to bằng đồng tiền, trông rất đẹp, cô vừa nhìn thấy con tuấn mã ấy trong lòng đã thích, phi một vòng xa lên trước, Mộ Dung Phong và cận vệ lần lượt lên ngựa.

Cô phi ngựa một mạch đến ba bốn dặm, cảm thấy mệt rồi ghìm dây cương lại, mấy cận vệ xa xa phía sau, chỉ có Mộ Dung Phong đuổi theo, thấy cô chạy chậm dần, anh cũng ghìm ngựa, đi song song với cô, ung dung mặc ngựa chậm rãi đi về phía trước. Cô quàng một chiếc khăn lụa màu vàng nhạt, nút thắt để tuột, gió vừa thổi qua, chiếc khăn đó mỏng manh mềm mại, bất ngờ bị cuốn bay đi mất, cô “ôi chao” một tiếng. Mộ Dung Phong đang cưỡi ngựa phía sau cô, mắt lẹ tay nhanh, túm lấy chiếc khăn, cảm thấy nó thật mềm mại, hương thơm nhè nhẹ bay đến, cũng không biết là nước hoa gì, cơn gió đó thổi chiếc khăn tung bay trên tay anh, mùi hương đó càng như ngấm vào xương tủy.

Tĩnh Uyển nhìn vẻ mặt anh, bất giác trong lòng sợ hãi, lập tức cười mỉm đưa tay nhận lấy chiếc khăn lụa, nói: “Cậu Sáu, cảm ơn nhiều”. Cô đã tự nhiên như thế, Mộ Dung Phong vội vàng khép lại tâm trạng ấy, nói: “Doãn tiểu thư khách sáo rồi”. Anh quay đầu lại huýt sáo gọi cận vệ, mấy cận vệ đó quất ngựa phi tới, bụi bay mù mịt, vây lấy hai người rồi cùng phi về phía trước.

Họ ra khỏi thành, đến tận lúc hoàng hôn mới trở lại thành Thừa Châu, Tĩnh Uyển cưỡi ngựa một ngày, sau đó là học bắn súng, loại súng Mauser do Đức sản xuất là nặng nhất, cô lại khoe tài hiếu thắng, không chịu thua kém người khác ngày hôm nay quả thật rất mệt. Họ đi ba bốn chiếc ô tô, lính hộ vệ đứng trên bàn đạp, tiền hô hậu ủng, xe chạy thẳng vào con phố trước cổng nhỏ của Đào phủ rồi mới dừng lại. Thẩm Gia Bình ngồi ở chiếc xe phía sau, xuống trước mở cửa xe cho Mộ Dung Phong vừa mới đưa tay ra, qua cửa kính xe thấy Mộ Dung Phong ra hiệu bằng mắt, Thẩm Gia Bình tinh mắt đã nhìn thấy Tĩnh Uyển tựa đầu vào vai Mộ Dung Phong, anh cũng không dám nhìn nhiều, vội vàng lui lại, quay người đi dặn dò tất cả cận vệ tản đi canh gác xung quanh.
Chiều tà chậm rãi như bức rèm buông xuống, bốn bề một khoảng mênh mang. Vì hai bên con phố đều là nhà sâu tường cao, cho nên không có nhiều người và xe đi lại, Thẩm Gia Bình sai người chặn hai đầu phố, xung quanh càng trở nên yên tĩnh hơn, xa xa nghe thấy tiếng xe kéo chạy qua, tiếng chuông đồng hồ leng keng leng keng rồi xa dần, xa dần. Đèn hơi ga bỗng sáng lên, một chút ánh sáng vàng vọt chiếu xuyên qua cửa xe, Mộ Dung Phong không dám nhúc nhích, cẩn thận gần như nín thở, chỉ cảm thấy mùi hương tóc thoang thoảng, rất lâu sau mới phát hiện trên tóc mai cô cài một bông hoa nhài, hoa trắng nho nhỏ, giống như một chiếc khuy áo màu bạc, tỏa hương trên mái tóc đen tuyền như ngọc.

Anh chưa bao giờ ngồi yên, không nhúc nhích chút nào như vậy, cánh tay phải dần dần tê dại đi, đáng nhẽ cực kỳ khó chịu nhưng lại giống như bị kiến bò, ngứa ngáy kỳ lạ. Cửa xe kéo xuống một nửa, gió lùa trong xe, tóc cô lướt trên mặt anh, càng có cảm giác hơi ngứa, nhưng ngứa đến tận trong tim. Trong giấc mơ cô vẫn hơi chau mày, khóe môi hơi chùng xuống, trên môi thoa một chút son Max Factor, trong ánh sáng lờ mờ xuyên qua từ cửa xe, làn môi ấy sáng bóng lên như mật. Anh không dám nhìn nữa, quay mặt đi nhìn ra ngoài, trên tường Đào phủ leo đầy cây mây, anh nhìn rất lâu, mới nhận ra đó là hoa lăng tiêu, có mấy cành hoa nở sớm, màu vàng tươi đẹp, một khối nõn nà, giống như chiếc cốc đá trên án thư của anh, mờ ảo lấp lánh. Nghe thấy tiếng bước chân đi lại nhè nhẹ của cảnh vệ và tiếng gió thổi cành hoa lay động, buổi tối mùa xuân không có ánh trăng, anh cũng không muốn động đậy, dường như lâu dài cùng trời đất, tình nguyện cứ ngồi mãi như thế.

Đào phủ vẫn chưa ăn cơm tối, Tam tiểu thư và mấy vị phu nhân buổi chiều bắt đầu đánh mười sáu vòng, đến bảy, tám giờ tối bác Lý ở nhà trên đến hỏi Tam tiểu thư: “Phu nhân, nhà bếp hỏi lúc nào thì ăn cơm tối?”. Tam tiểu thư ngẩng đầu lên nhìn đồng hồ trên tường, liền “ôi chao” một tiếng nói: “Hóa ra đã muộn vậy rồi, đánh bài cũng không cảm thấy đói”. Một vị phu nhân khác họ Hà liền cười nói: “Đào phu nhân thắng tiền, đương nhiên không thấy đói rồi”. Mọi người đều cười, Tam tiểu thư vừa cười vừa quay đâu lại dặn dò bác Lý: “Đi xem xem, nếu Doãn tiểu thư về rồi thì mời cô ấy đến ăn cơm.”

Bác Lý vâng rồi đi, trong phòng trên vẫn đánh bài, dưới Tam tiểu thư là phu nhân Từ thống chế, Tư phu nhân liền hỏi: “Doãn tiểu thư đó có phải vị tiểu thư hôm qua cùng đi nghe kịch với Cậu Sáu không?” Tam tiểu thư cười cười, không trả lời. Hà phu nhân liền nói: “Nghe nói rất xinh đẹp”. Một vị Trác phu nhân khác cười nói: “Bạn gái Cậu Sáu có cô nào là không xinh đẹp chứ?”. Tam tiểu thư nhoẻn miệng cười nói: “Dù sao Cậu Sáu nhà chúng tôi vẫn chưa có thiếu phu nhân, cho nên cậu ấy có bạn gái cũng là chuyện rất bình thường”. Đang nói chuyện bác Lý đã quay lại, Tam tiểu thư buột miệng hỏi: “Doãn tiểu thư về rồi sao?”. Bác Lý đáp: “Về rồi ạ”, rồi lại nói tiếp: “Lúc tôi đến, Doãn tiểu thư lên lầu thay quần áo rồi, nhưng Cậu Sáu ở dưới lầu, bảo phu nhân không cần đợi Doãn tiểu thư ăn cơm, cậu ấy mời Doãn tiểu thư ăn tối”.

Tam tiểu thư nghe thấy Mộ Dung Phong đến, liền hỏi: “Cậu Sáu còn nói gì không?” Bác Lý đáp: “Cậu Sáu không nói gì khác”. Tam tiểu thư nghĩ một lát, cảm thấy vẫn không nên đi làm phiền hai người đó, do vậy liền bảo nhà bếp dọn cơm nước. Phụ nữ vốn là chúa tò mò, trong phòng ăn Từ phu nhân không nhịn được hỏi: “Xem ra Doãn tiểu thư này không hề tầm thường”. Tam tiểu thư cười nói: “Tầm thường hay không tầm thường làm sao nói rõ ràng được chứ?”. Cô càng lấp lửng như thế, mấy vị phu nhân lại càng khẳng định hơn, trong lòng cứ suy đoán.

Chuyện kiểu này vốn được lan đi rất nhanh, hơn nữa mấy ngày liền Mộ Dung Phong mời Tĩnh Uyển đi xem phim, khiêu vũ, ăn cơm, hai người ở bên nhau như hình với bóng, hành động của anh vốn có rất nhiều người chú ý nên càng không giấu được. Tĩnh Uyển vì có việc muốn xin giúp đỡ, huống hồ Mộ Dung Phong luôn đối xử với cô rất khách sáo, cho nên không dám từ chối. Cô vì việc của Hứa Kiến Chương mà nóng ruột nóng gan, lòng như lửa đốt, cho nên không có tinh thần vui đùa, Mộ Dung Phong bèn nghĩ cách khiến cô cười. Vì cô muốn học bắn súng, ngày hôm đó anh đặc biệt được cô đến thao trường tập bắn.

Từ Trị Bình vốn vì việc đóng quân mà đến tìm Mộ Dung Phong, đợi rất lâu ở hành dinh đốc quân mới biết Mộ Dung Phong đã đến thao trường, ông ta liền ngồi xe đến thao trường. Thao trường đó là Mộ Dung Thần xây dựng lúc còn sống, sàn lát đá trắng, nhìn không thấy điểm cuối, vốn dùng lúc vào lúc duyệt binh, bình thường cũng dùng làm nơi luyện bắn súng của cảnh vệ. Vì Mộ Dung Phong ở đây, bốn bề đều có lính canh, cách không xa, có vệ binh vác súng đứng im.

Từ Trị Bình từ xa đã thấy dưới chân tường thành có cắm bia bắn. Thẩm Gia Bình ở bên cạnh Mộ Dung Phong lắp sẵn đạn, Mộ Dung Phong nhận lấy súng, nói với Tĩnh Uyên: “Loại súng này sức giật nhỏ hơn chút, nhưng tay vẫn phải nắm thật chắc”. Anh từ nhỏ ở trong quân đội, từ nhỏ nghịch súng ống, vừa đưa tay lên, chỉ nghe thấy một tiếng “đoàng”, người phụ trách xem bia đã reo hò, hết lên: “Hồng tâm! Hồng tâm!”. Anh đưa súng cho Tĩnh Uyển: “Em thử đi!”. Thấy cô dùng hai tay cầm súng, anh cúi đầu giúp cô ngắm chuẩn: “Thấp một chút, thấp hơn một chút nữa, được, bắn”.

Tĩnh Uyển tuy có sự chuẩn bị, nhưng lúc bóp cò, sức giật của súng quá mạnh, khẩu súng trong tay gần như không giữ vững, Mộ Dung Phong đưa tay ra giúp cô nắm chắc súng, quay đầu lại thấy Từ Trị Bình, mới chào một câu: “Chú Từ đến rồi à”. Từ Trị Bình lại hành lễ rất quy tắc: “Cậu Sáu”. Mộ Dung Phong hỏi: “Chú Từ có việc gì?”. Từ Trị Bình nói: “Từ mùa đông năm ngoái, người Nga phái người đóng quân tại dọc tuyến đường sắt càng ngày càng nhiều, hôm trước người Nga lại nói muốn tăng thêm lượng quân đóng giữ, theo tôi thấy, đám người Nga này không yên phận, chúng ta phải có phòng bị”. Mộ Dung Phong “ồ” một tiếng. nói: “Vậy chú Từ có dự định gì?”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách