Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: thaonguyen1501
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại - Xuất Bản] Hậu Cung Chân Hoàn Truyện | Lưu Liễm Tử

[Lấy địa chỉ]
51#
 Tác giả| Đăng lúc 15-4-2016 11:07:37 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 14 (1)
Bệnh dịch


Thái hậu cùng Hoàng hậu và các phi tần thắp hương cầu khấn nhưng chẳng hề được trời xanh rủ lòng thương. Thái y viện chẩn bệnh rồi chữa bệnh nhưng chỉ như muối bỏ biển, không sao giải quyết được mối họa khẩn cấp, người bị nhiễm bệnh càng lúc càng đông, người chết cũng càng lúc càng nhiều. Huyền Lăng hết sức lo lắng, thân hình gầy gò hẳn đi.

Bao hương liệu quý giá ở Đường Lê cung hoàn toàn biến mất, khắp nơi đều bị bao phủ bơi mùi khét của lá ngải và thương truật. Khúc Vĩnh hàng trước cửa cung liên tục được đổ rượu trắng cay sè, về sau đến giấm ăn cũng được sử dụng, đặt ở các góc trong cung điện, đun sôi sùng sục để đuổi dịch bệnh.

Thế nhưng bất hạnh là My Trang bị giam lỏng trong Tồn Cúc đường cũng bị lây nhiễm căn dịch bệnh đáng sợ này.

Lúc tôi chạy đến điện Quân Chiêu của Phùng Thục nghi thì Phùng Thục nghi đã hết sức hoảng loạn, kéo tay tôi ngồi xuống, bảo: “Hôm qua vẫn còn khỏe mạnh, sáng sớm hôm nay Phương Nhược đến báo rằng ăn thứ gì cũng ói hết ra, người nóng bừng, đến buổi trưa thì bắt đầu mê sảng rồi!”

Tôi kinh hãi hỏi: “Thái y đâu? Đã đi mời thái y chưa?”

Phùng Thục nghi lắc đầu, bảo: “Thẩm Thường tại bị giam lỏng, vốn đã phải chịu cảnh bị xa lánh, coi thường, bệnh dịch lại dễ lây lan, vào giây phút sống còn thế này, có tay thái y nào dám đến chữa trị cơ chứ? Ta đã sai người đi mời ba, bốn lượt mà chẳng có ai bước chân đến, muội nói phải làm thế nào đây?”

Phương Nhược sốt ruột chẳng biết phải làm sao mới phải, giọng bắt đầu nghẹn ngào: “Nô tỳ đã cố hết sức rồi, vốn định đi cầu xin Hoàng thượng, nhưng bọn họ nói Hoàng thượng bận việc, không gặp ai cả. Thái hậu, Hoàng hậu và các vị nương nương đều đang cầu phúc ở Thông Minh điện, chẳng tìm được ai có quyền quyết định.”

Tôi quay đầu chạy ngay về phía Tồn Cúc đường, Phùng Thục nghi thấy vậy thì càng hốt hoảng, vội vã kéo tôi lại, khuyên: “Muội điên rồi sao… Nếu lỡ nhiễm phải bệnh dịch thì biết làm sao chứ?”

Tôi đáp: “Bất kể tình hình như thế nào muội vẫn phải đi xem thử một phen rồi mới tính tiếp.” Nói xong, tôi thoát khỏi Phùng Thục nghi rồi chạy ra ngoài. Phùng Thục nghi vốn hết sức sợ hãi bệnh dịch nên không dám chạy theo kéo tôi lại.

Tôi chạy ào vào bên trong, chẳng bị ai ngăn lại, đến trước cửa dẫn vào nội thất, Phương Nhược sống chết không cho tôi bước vào, chỉ để tôi đứng ngoài cửa sổ nhìn vào trong. Nàng ta nức nở: “Thường tại đã rơi vào tình cảnh này, tiểu chủ phải biết bảo trọng thân thể mới được, nếu không thì chẳng thể trông cậy vào ai nữa đâu.” Trong lòng chấn động, tôi thốt lên: “Được, ta chỉ nhìn một chút thôi.”

Trong phòng, ánh sáng lờ mờ, chỉ có một chậu than tỏa hơi nóng nhè nhẹ. Mùa đông năm ngoái, tỷ tặng than chống lạnh cho tôi, năm nay không ngờ lại đến lượt tôi làm chuyện này cho tỷ. Tấm màn trước giường buông rủ, bên trên bụi bám không ít, nhìn xám xịt, ủ ê. Chỉ thấy đằng sau màn có một bóng người hết sức gầy yếu đang nằm dài, không còn bộ dạng đẫy đà như xưa nữa. My Trang xem ra ngủ không được yên giấc, cứ húng hắng ho.

Tôi vô cùng lo lắng, không nỡ nhìn tiếp, vội vã quay người ra ngoài, dặn dò Phương Nhược: “Phiền cô cô chăm sóc cho My Trang giúp, ta đi xin ý chỉ của Hoàng thượng.”

Thế nhưng tôi không gặp được Huyền Lăng, khổ sở chờ đợi, mắt ngắm bóng nắng di chuyển cả nửa ngày trời, tôi mới thấy Lý Trường bước ra, hắn nhăn mặt cười bồi với tôi. “Tiểu chủ, xin người đừng bực bội, bệnh dịch đã lan truyền ra đến dân gian, Hoàng thượng hết sức nóng ruột, đang thương nghị cách giải quyết với các đại thần, thực sự không có thì giờ tiếp kiến tiểu chủ.”

Tôi bèn hỏi: “Chừng nào Hoàng thượng mới có thể gặp ta?”

Lý Trường thưa: “Chuyện này nô tài cũng không rõ nữa. Chuyện quốc gia đại sự, nô tài thật không dám đoán bừa.”

Tôi biết một khi không gặp được Huyền Lăng, đi cầu xin Hoàng hậu, cũng phải chờ Huyền Lăng đồng ý, nếu cứ tùy tiện xông vào thì cũng chẳng giải quyết được vấn đề. Tôi cắn răng quay đầu bỏ đi, vịn vào tay Lưu Chu rảo bước một đoạn dài, nhìn thấy dưới chân tường sơn đỏ không có ai qua lại, tôi mới cho phép mình được rơi lệ. My Trang, My Trang, muội không thể đến cứu tỷ rồi! Chẳng lẽ tỷ phải ôm nỗi oan ức mà chết ở trong Tồn Cúc đường hay sao?

Trong lúc chẳng biết nên làm gì, tôi chợt nghe thấy có tiếng bước chân đang tiến lại gần, bèn lau đi vết lệ trên mặt, chầm chậm bước từng bước như chẳng có chuyện gì xảy ra.

Tiếng bước chân đó càng lúc càng gần, rồi kẻ đó chợt quỳ xuống đằng sau tôi, trầm giọng thưa: “Vi thần Ôn Thực Sơ thỉnh an Tiệp dư tiểu chủ.”

Tôi không gọi hắn đứng dậy, chỉ cười lạnh. “Đại nhân cao sang là thế mà cũng đặt chân đến chỗ hèn này hay sao? Hiện giờ ta muốn gặp ngài một lần cũng thật khó khăn. Hôm nay không biết ngọn gió lành nào thổi ngài đến đây vậy?”

Hắn cúi đầu, thưa: “Tiểu chủ nói vậy, vi thần thực tình không dám nhận. Nhưng dẫu có xảy ra bất cứ chuyện gì, cũng xin tiểu chủ đừng quá buồn phiền.”

Tôi ngoảnh mặt đi, gió đầu xuân hơi lành lạnh, lẫn mùi thảo dược thổi tới khiến mặt tôi cóng lại. Tôi dịu giọng: “Ôn đại nhân, là ta đau lòng quá nên hồ đồ, ngài đừng trách nhé, xin hãy đứng dậy trước đã.”

Ôn Thực Sơ ngẩng đầu, tha thiết thưa: “Vi thần không dám!”

Tôi chợt nảy ra một ý, hỏi: “Ôn đại nhân có phải đang bận chuyện giải quyết bệnh dịch, không có chút thời gian rảnh rỗi?”

“Vâng!”

Tôi im lặng một lát rồi lên tiếng: “Nếu như ta có chuyện muốn nhờ Ôn đại nhân, trong lúc cực kỳ bận bịu, liệu Ôn đại nhân có thể cố hết sức dành chút thời gian giúp đỡ ta không? Ta phải nói trước với đại nhân, nếu chuyện này thành công thì chưa chắc đã có công, nếu bị người phát hiện còn mang tội lớn, sẽ ảnh hưởng đến tương lai, thậm chí cả tính mạng của Ôn đại nhân. Nhưng nếu chuyện không thành thì chỉ e lòng ta vĩnh viễn không bao giờ thôi cắn rứt. Đại nhân có thể lựa chọn nên giúp ta hay không.”

“Vậy thần xin hỏi Tiệp dư tiểu chủ, nếu như vi thần đồng ý đi làm chuyện này, tiểu chủ có an tâm hơn được chút nào không?”

Tôi gật đầu. “Nếu ngài chịu giúp ta, ta đương nhiên sẽ an tâm hơn, chuyện thành hay không là do ý trời, nhưng không thể không nỗ lực hết sức mình được.”

Hắn không cần suy nghĩ, đáp ngay: “Được, chỉ cần tiểu chủ an lòng, vi thần sẽ dốc hết sức mình, xin tiểu chủ cứ dặn dò.”

Tôi hạ giọng: “Thẩm Thường tại ở Tồn Cúc đường đã nhiễm phải bệnh dịch, chỉ sợ tính mạng chỉ còn trong sớm tối. Ta muốn mời ngài đi cứu chữa cho tỷ ấy, chỉ có điều tỷ ấy là cung tần đang bị giam lỏng…”

Hắn gật đầu, bình tĩnh thưa: “Bất kể người đó là ai, chỉ cần tiểu chủ ra lệnh thì vi thần sẽ cố hết sức.” Nói xong, hắn khom người hành lễ rồi xin cáo lui. Tôi đưa mắt nhìn hắn đi được vài bước, không kìm được, gọi với: “Ngài cũng phải cẩn thận!”

Hắn dừng bước, quay đầu lại nhìn tôi, ánh mắt lộ vẻ vui mừng và cảm động, im lặng hồi lâu chẳng nói gì. Tôi sợ hắn hiểu lầm, vội vã ngoảnh mặt đi, bảo: “Đại nhân đi thôi!”

My Trang nhiễm phải bệnh dịch, đám thị vệ, cung nữ canh gác né tránh còn không kịp, ai nấy đều tìm lý do để lười biếng, việc canh gác càng lúc càng lơi lỏng. Nhân lúc đêm khuya, Phương Nhược bèn sắp xếp cho Ôn Thực Sơ vào chẩn bệnh.

Ôn Thực Sơ chỉ có thể lén lút chữa bệnh cho My Trang, thuốc thang không đủ, đồ ăn thức uống lại không đảm bảo, bệnh của My Trang chẳng đỡ hơn chút nào. Tôi lo lắng vạn phần thì Tiểu Liên Tử đêm khuya dẫn người đến báo tin, đem lại cho tôi một tin cực tốt.

Tôi lập tức xin gặp Huyền Lăng ngay trong đêm đó. Cánh cửa sơn đỏ nạm vàng chạm trổ hoa văn của Ngự thư phòng luôn khép kín, nay được mở ra giữa đêm đen như mực, tiếng kẽo kẹt kéo dài khiến tim tôi chẳng hiểu vì sao mà thót lại. Chuyện này thành hay không có liên quan trực tiếp đến chuyện sống sót của My Trang.

Tôi đang định quỳ xuống hành lễ thì Huyền Lăng giơ tay kéo tôi lại, hỏi: “Chuyện gì vậy? Sao lại xin gặp trẫm gấp thế?”

Tôi im lặng một lát, đưa mắt nhìn bốn phía, Huyền Lăng bèn ra lệnh: “Các ngươi không cần ở lại hầu hạ nữa, trẫm và Tiệp dư nói chuyện một lát.”

Lý Trường lập tức dẫn người lui xuống. Huyền Lăng thấy không còn ai nữa bèn bảo: “Nàng nói đi.”

Tôi giơ tay vỗ vỗ hai tiếng, chỉ trong chốc lát, Tiểu Liên Tử đứng hầu bên ngoài dẫn theo một người tiến vào. Người này vẻ mặt phong trần, tóc tai rối bời, râu ria đầy mặt, quần áo bám đầy bụi đất, quỳ mọp xuống, toàn thân run lẩy bẩy.

Tôi lạnh lùng lườm hắn một cái rồi bảo: “Trước mặt Hoàng thượng, còn không chịu ngẩng lên sao?!” Huyền Lăng không hiểu chuyện gì, nhìn sang tôi, tôi không nói một lời. Kẻ đó nghe tôi nói vậy thì giật thót người, run lẩy bẩy nhưng cuối cùng cũng từ từ ngẩng lên, không phải Lưu Bản thì còn ai vào đây nữa!

Huyền Lăng nhận ra hắn, không khỏi ngẩn người, ánh mắt trở nên lạnh băng, gằn giọng lạnh lùng hỏi: “Sao lại là ngươi?”

Lưu Bản sợ đến mức lập tức cúi xuống, không dám nói gì.

Tôi nhìn sang Huyền Lăng, chầm chậm thưa: “Thần thiếp từ đầu đến cuối không hề tin rằng Thẩm Thường tại vì tranh sủng mà giả vờ mang thai, do đó ngầm cho người tìm kiếm Lưu Bản mất tích, cuối cùng, trời chiều lòng người, tìm được hắn ở biên giới Vĩnh Châu, liền bắt hắn, đưa về kinh thành.” Tôi bình tĩnh nói tiếp: “Ngày đó, Phục Linh có lẽ cũng biết vài manh mối, nhưng đã bị đánh chết rồi. Lưu Bản chuyên an thai cho Thẩm Thường tại thời gian dài, khúc mắc bên trong hẳn chẳng có ai rõ ràng hơn hắn.”

Huyền Lăng im lặng hồi lâu, lạnh lùng bảo Lưu Bản: “Trẫm sẽ không nghiêm hình bức cung nhà ngươi, nhưng nếu về sau trẫm biết được hôm nay những lời ngươi nói có nửa câu không thực, trẫm sẽ cho nhà ngươi sống không bằng chết.”

Lưu Bản giật bắn người, toàn thân run lẩy bẩy không sao kiềm chế nổi.

Tôi chợt dịu dàng mỉm cười, nói với Lưu Bản: “Lưu đại nhân có thể im lặng không khai, chỉ có điều, nếu không chịu khai, ta sẽ đuổi ngài ra khỏi cung. Có lẽ ngài còn chưa ra khỏi kinh thành thì đầu đã lìa khỏi cổ rồi!”

Nơi đầu của Lưu Bản áp xuống nền nhà để lại dấu mồ hôi lờ mờ, lấp lánh phản chiếu dưới ánh nến sáng rực bên trong điện. Tôi bất giác dùng khăn tay che mũi miệng, nghe nói lúc bị phát hiện, Lưu Bản đang trà trộn vào đám ăn mày để tránh bị truy sát, có thể tưởng tượng ra lúc ấy hắn nhếch nhác, hoảng loạn thế nào. Hiện giờ hắn sợ hãi đến mức toàn thân toát mồ hôi, mùi cơ thể hôi hám khiến người ta khó chịu, không sao chịu đựng nổi.

Tôi thực sự không chịu được nữa bèn thuận tay bỏ thêm một thìa đầy hương liệu vào trong lò hương, sau đó mới cảm thấy dễ chịu đôi chút.

Giọng của Lưu Bản khàn khàn, hắn run rẩy thưa: “Thẩm Dung hoa quả thật không hề mang thai.”

Huyền Lăng bực bội: “Chuyện đó trẫm biết rồi!”

Hắn lại dập đầu thật mạnh hai lượt rồi thưa: “Thực ra Thẩm Thường tại không hề biết là mình chưa hề mang thai.” Hắn ngẩng lên, mắt đỏ ngầu lóe lên vẻ sợ hãi. “Lúc thần khám thai cho tiểu chủ thì tiểu chủ đúng là chưa có kinh nguyệt, lại có triệu chứng chóng mặt, ói mửa, nhưng mạch không phải là hỷ mạch, mà là do ảnh hưởng của thuốc. Trước khi thần bắt mạch cho tiểu chủ, thần đã nhận được lệnh là bất kể mạch của tiểu chủ thế nào thì đều phải bẩm báo là hỷ mạch.”

Ánh mắt Huyền Lăng lạnh băng, y trầm giọng hỏi: “Nhận lệnh à? Nhận lệnh của kẻ nào?!”

Lưu Bản do dự hồi lâu, ấp úng không dám trả lời. Tôi cười lạnh hai tiếng, bảo: “Người ta đã muốn giết ngươi, ngươi còn muốn che giấu đến chừng nào nữa? Muốn nuốt trong bụng đem theo xuống dưới âm phủ làm quỷ à?”

Lưu Bản nghe vậy cực kỳ hoảng loạn, cuối cùng cũng thốt ra được hai từ: “Hoa Phi.”

Mặt Huyền Lăng biến sắc, nhìn Lưu Bản chằm chằm, bảo: “Nếu nhà ngươi nói dối nửa câu…”

Lưu Bản liều mạng dập đầu, thưa: “Thần không dám, thần không dám. Vi thần biết mình có tội. Ngày hôm đó, Hoa Phi nương nương ban ngân lượng cho thần, lệnh cho thần rời kinh thành tránh nạn, nói là có người ở bên ngoài thành tiếp ứng. Ai ngờ vừa mới ra ngoài đã có người đuổi theo truy sát, khiến thần trốn chạy như chó nhà có tang.”

Tôi và Huyền Lăng đưa mắt nhìn nhau, sắc mặt của y xanh lè, bên trong đôi mắt ẩn chứa lửa giận. Tôi biết y hết sức tức giận, bèn khẽ vung tay lệnh cho Tiểu Liên Tử đưa Lưu Bản lui xuống rồi mới bưng một chén trà đưa đến tận tay Huyền Lăng, dịu giọng khuyên: “Hoàng thượng bớt giận.”

Huyền Lăng bảo: “Lời của Lưu Bản liệu có chỗ nào không thật hay không?”

Tôi chậm rãi thưa: “Hoàng thượng ngẫm nghĩ xem, thực ra chuyện của Thẩm Thường tại hôm đó có nhiều điểm đáng nghi, chỉ khổ là không có chứng cứ mà thôi. Hiện giờ hồi tưởng lại tình cảnh lúc đó, nếu mấy hôm trước quả thật Thẩm Thường tại có kinh nguyệt thì quần lót và váy dính máu muốn vứt đi lúc nào chẳng được, vì sao nhất định chọn lúc có mặt Hoàng thượng, Hoàng hậu và các phi tần để vứt, thế thì chẳng phải quá hớ hênh hay sao? Hơn nữa Thẩm Thường tại từng nhắc đến đơn thuốc giúp dễ mang thai của Giang thái y, vì sao lúc cần tìm thì chẳng thấy đâu nữa? Nếu quả thật không có đơn thuốc ấy thật thì Thẩm Thường tại nhắc đến nó làm gì, chẳng phải là ngu xuẩn quá sao?” Tôi nói một hơi những nghi ngờ giấu kín trong lòng lâu nay, xúc động đến mức thở hổn hển, cố hết sức điều hòa hơi thở, bảo y: “Chỉ e là Hoàng thượng không tin nhưng thần thiếp thực sự đã nhìn thấy đơn thuốc đó, đọc qua thì không phát hiện ra có chỗ nào đáng ngờ.”

Giọng của y lạnh buốt: “Hoa Phi… giỏi lắm! Đơn thuốc có thể chứng minh sự vô tội của Thẩm Thường tại hẳn đã bị trộm mất, chỉ e là không khỏi dính dáng đến ả cung nữ Phục Linh kia.” Giọng y chậm lại, lộ chút hối hận: “Hôm đó trẫm nhất thời giận dữ giết chết ả, nếu thẩm vấn kỹ càng thì đâu đến nỗi dây dưa đến tận hôm nay.”

Tôi hạ giọng hỏi: “Hoàng thượng định làm thế nào?”

Y không trả lời tôi, chỉ thở dài. “Là trẫm nghi oan cho Thẩm thị rồi… Thả nàng ta ra thôi, khôi phục địa vị cho nàng ta.”

Tôi buồn bã thưa: “Chỉ e nhất thời vẫn chưa thả ra được.”

Y kinh hãi hỏi lại: “Chẳng lẽ nàng ta…”

Tôi lắc đầu. “My tỷ tỷ không hề nghĩ quẩn mà làm liều. Chỉ là sau khi bị giam lỏng, quá ưu tư nên thân thể gầy yếu, không may bị nhiễm bệnh dịch, hiện giờ không biết tình trạng thế nào nữa.” Nói đến đây, tôi không giấu được nỗi bi thương, nghẹn ngào mãi không thôi.

Y thoáng ngẩn người. “Trẫm chỉ mới giam lỏng nàng ta thôi, nàng ta đúng là hay nghĩ quẩn!”

Tôi nức nở thưa: “Hoàng thượng giáng chức, giam lỏng My tỷ tỷ không phải là hình phạt quá nặng, nhưng người trong cung có ai mà không nhìn sắc mặt của Hoàng thượng mà làm việc đâu, Hoàng thượng đã không để ý đến tỷ tỷ nữa, thế là đám nô tài kia càng ra sức hành hạ tỷ ấy.”

Y khẽ hít vào một hơi lạnh, ra lệnh: “Trẫm sẽ lập tức lệnh cho thái y đến chữa bệnh cho Thẩm Dung hoa, trẫm muốn Dung hoa khỏe mạnh trở lại.” Nói xong, y định gọi Lý Trường vào.

Tôi kéo tay áo của Huyền Lăng, thưa: “Xin Hoàng thượng tha thứ cho tội đại bất kính của thần thiếp. Thần thiếp thấy Thẩm Dung hoa bệnh nặng nên đã lén nhờ vả một vị thái y đi chữa bệnh rồi!”

Huyền Lăng quay lại nhìn tôi, hỏi: “Thật ư?”

Tôi gật đầu. “Xin Hoàng thượng xử phạt thần thiếp!”

Y đỡ tôi đứng dậy. “Nếu không phải nàng liều chết làm chuyện này thì chỉ e trẫm rất có lỗi với Thẩm Dung hoa rồi!”

Tôi rơi nước mắt, lắc đầu. “Không liên quan đến Hoàng thượng, chỉ là kẻ ác quá xảo trá, che lấp mắt thánh của Hoàng thượng.” Tôi không hài lòng với thái độ giận dữ của Huyền Lăng hôm đó, nhưng dù gì y cũng là bậc quân vương, sao tôi có thể chỉ trích y được?

Y bị từ “kẻ ác” làm cho chấn động, hậm hực bảo: “Hoa Phi dám lừa gạt trẫm như vậy, đúng là không chấp nhận được.” Y bước ra cửa, lệnh cho Lý Trường đứng hầu bên ngoài: “Đến Thái y viện truyền chỉ, giết chết hai gã Giang Mục Dương và Giang Mục Y, quở trách Hoa Phi, hàng chức làm Tần, trừ bỏ phong hiệu.” Nhưng rồi y ngẫm nghĩ một lát rồi nói lại: “Khoan đã, trừ bỏ phong hiệu, hàng chức xuống Quý tần.”

Lý Trường giật bắn mình, suýt tưởng mình nghe lầm, trừ bỏ phong hiệu là sự nhục nhã lớn nhất đối với hậu phi, thậm chí còn nặng hơn chuyện bị hàng chức. Lý Trường không hiểu vì sao Huyền Lăng đột nhiên tức giận đến mức này, lại không dám lộ vẻ kinh ngạc, đành đưa mắt nhìn tôi, không dám rời đi.

Tôi vốn nghe rõ ràng là hàng chức Hoa Phi xuống chức Tần, trừ bỏ phong hiệu, nhưng ngay sau đó lại chỉ hàng chức xuống Quý tần, đang không dằn được lửa giận nhưng thoáng nghĩ đến chuyện chiến sự tây nam khẩn cấp, đành cố nuốt cơn giận xuống. Tôi lại nghe Huyền Lăng nói tiếp: “Trước tiên hãy đến Sướng An cung, nói là trẫm khôi phục chức Dung hoa cho Thẩm thị, cần tập trung chữa trị cho nàng ta trước.”

Lý Trường vội vàng vâng dạ rồi nhanh nhẹn dẫn theo mấy tay tiểu nội giám cùng đi truyền chỉ.

Cho đến khi chẳng còn ai khác, Huyền Lăng cứ nhìn tôi, ngần ngừ hồi lâu rồi hỏi: “Hoàn Hoàn, có phải nàng cố ý an bài Lưu Bản nói như vậy không?”

Tôi nhất thời chưa kịp hiểu ý của y, “hử” một tiếng rồi hỏi lại: “Gì cơ?”

Y không nói tiếp nữa, chỉ cười gượng: “Chẳng có gì!”

Lúc đó tôi mới vỡ lẽ, đầu óc buốt giá, suýt không giấu được nụ cười lạnh lùng nơi khóe môi, chăm chăm nhìn thẳng vào y. “Hoàng thượng cho rằng thần thiếp đã lệnh cho Lưu Bản vu oan Hoa Phi nương nương hay sao?” Trong lòng phẫn nộ, giọng nói bất giác trở nên cứng cỏi: “Trong mắt Hoàng thượng, thần thiếp là người vì tranh giành sủng ái mà hạ mình vu oan cho người khác hay sao? Thần thiếp không dám, mà cũng chẳng thèm làm vậy. Nếu thật sự thần thiếp giật dây Lưu Bản vu oan cho Hoa Phi để cứu Thẩm Dung hoa thì đã làm như vậy từ sớm rồi, không cần đợi đến hôm nay, khi mà tính mệnh của Thẩm Dung hoa bị đe dọa thế này.” Tôi nhún gối thưa: “Nếu Hoàng thượng không tin tưởng thần thiếp thì Lý công công hẳn vẫn chưa kịp đi xa đâu, Hoàng thượng có thể thu hồi ý chỉ.”

Sắc mặt của y thay đổi theo từng lời của tôi, cuối cùng y cũng cảm động, nói: “Hoàn Hoàn, là trẫm quá đa nghi rồi! Nếu trẫm không tin nàng thì đã không trừng phạt Hoa Phi.”

Tôi hết sức đau lòng, buột miệng nói: “Nếu Hoàng thượng tin tưởng thần thiếp thì khi nãy đã không hỏi thần thiếp như vậy.”

Sắc mặt của y lập tức sa sầm, quát: “Hoàn Hoàn!”

Tôi giật mình, lập tức ngẩng đầu đón nhận ánh mắt thoáng vẻ lạnh lùng của y. Tôi mỉm cười đầy thê lương, khóe môi chua xót đến mức không sao động đậy nổi, quay đầu, chầm chậm quỳ xuống, thưa: “Thần thiếp lỡ lời…”

Giọng của y chùng xuống: “Nàng biết thế thì tốt, đứng dậy đi!” Nói xong, y chìa tay ra kéo tôi đứng dậy.

Tôi vô thức né tránh y, rút tay vào trong tay áo, chỉ cung kính thưa: “Tạ ơn Hoàng thượng.”

Cánh tay chìa ra của y cứng lại, y thở dài thật khẽ. “Mộ Dung Quý tần hầu hạ trẫm đã lâu, chu đáo cẩn thận. Trước giờ tuy có chút nghênh ngang nhưng chuyện ngày hôm nay, trẫm… thật sự rất thất vọng!”

Tôi im lặng cúi đầu, hồi lâu mới thưa: “Thần thiếp hiểu mà!”

Y không nói gì thêm, ngẩng đầu ngắm trời sao cao nhất. Đêm khuya đầu xuân se se lạnh, theo từng hơi thở, từ miệng y thoát ra từng luồng khí trắng lờ mờ, như có như không.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

52#
 Tác giả| Đăng lúc 15-4-2016 11:10:18 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 14 (2)
Bệnh dịch


Cung đăng chụp lụa đỏ khẽ đong đưa trong gió, tựa như bóng quỷ lặng lẽ mờ ảo, khiến lòng người không khỏi lạnh giá. Cuối cùng y cũng lên tiếng: “Bên ngoài trời lạnh, vào trong với trẫm thôi!”

Tôi lẳng lặng theo sau y, đang định bước vào thư phòng bên chái tây, chợt nghe thấy giọng nữ vang dội kinh động cả màn đêm yên tĩnh. Giọng nói khí thế mười phần, vừa kiêu ngạo vừa uy nghiêm thế kia chỉ có thể thuộc về nàng ta, Hoa Phi.

Tôi và Huyền Lăng liếc nhìn nhau, nơi đáy mắt y thoáng lộ vẻ bất ngờ và chán ngán. Tôi thì chỉ bất ngờ, theo lý thì Lý Trường chưa thể kịp đến cung của Mộ Dung Thế Lan truyền chỉ được, sao nàng ta lại nhanh chóng biết tin mà chạy ào đến đây? Chẳng lẽ có gì sơ sót ở chỗ Lưu Bản hay sao? Đang lúc nghi ngờ thì tôi thấy Lý Trường chạy vào, thưa: “Bẩm Hoàng thượng, Hoa… Mộ Dung Quý tần xin được diện thánh.”

Huyền Lăng chẳng muốn nói nhiều, chỉ hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Lý Trường cúi đầu, thưa: “Nô tài vừa mới đến Sướng An cung tuyên chỉ, chưa kịp đến Thái y viện đã thấy Mộ Dung Quý Tần dẫn theo hai vị thái y Giang Mục Dương và Giang Mục Y sang đây, muốn xin vào diện thánh.” Hắn chần chừ một lát rồi thêm: “Mộ Dung Quý tần hình như có chuyện gấp.”

Huyền Lăng hỏi: “Ngươi đã tuyên ý chỉ của trẫm với nàng ta chưa?”

Lý Trường thưa: “Vẫn chưa ạ. Mộ Dung Quý tần hết sức vội vã, không cho nô tài kịp nói gì.”

Huyền Lăng nhìn sang tôi rồi bảo Lý Trường: “Nếu vẫn chưa tuyên chỉ thì đừng gọi Quý tần, Quý tần mãi như thế, trước hết ngươi hãy dẫn bọn họ vào đây!”

Lý Trường khom người lui ra rồi nhanh chóng dẫn bọn họ vào trong. Hoa Phi tựa hồ chưa biết tin, vẻ mặt hớn hở, nhưng tôi lại thấy sắc mặt vui vẻ của nàng ta hết sức kỳ dị.

Huyền Lăng lệnh cho bọn họ đứng dậy, vẫn tiếp tục xem tấu chương, không thèm ngẩng đầu, giọng lạnh lùng: “Gấp gáp muốn xin gặp trẫm là có chuyện gì?”

Hoa Phi tựa hồ chẳng để ý đến vẻ lãnh đạm của Huyền Lăng, hớn hở thưa: “Hoàng thượng có tin mừng rồi. Thần thiếp nghe nói hai vị thái y Giang Mục Dương, Giang Mục Y đã nghĩ ra phương thuốc có thể chữa khỏi bệnh dịch nên cố ý dẫn hai vị thái y đến bẩm báo với Hoàng thượng.”

Huyền Lăng nghe xong, vui mừng khôn xiết, đứng bật dậy, tấu chương trong tay rơi soạt xuống án, hỏi lại: “Thật thế sao?!”

Nụ cười của Hoa Phi dưới ánh nến chói lọi càng thêm rực rỡ mê người, nàng ta hớn hở thưa: “Đúng vậy. Nhưng thần thiếp không mấy tinh thông y thuật, xin thái y giải thích cho Hoàng thượng vậy.”

Giang Mục Y bước ra, thưa: “Âm dương bốn mùa chính là nơi bắt đầu và kết thúc của vạn vật, là gốc rễ của sinh tử. Nếu đi ngược lại sẽ chuốc lấy tai vạ, hại đến sinh trưởng, nếu thuận thì bệnh tật không thể xâm hại. Gió, lạnh, nóng, ấm, khô, lửa, sáu mối họa này theo mũi miệng vào trong người, khí tà ‘chưa tới đã tới’, ‘nên tới mà chưa tới’, ‘tới rồi không đi’, ‘tới mà quá nhiều’ đều có thể sinh ra khí bệnh, xâm phạm đến tim phổi, thực quản, xung đột khắc chế ngũ tạng, trở thành bệnh dịch truyền nhiễm. Khí bệnh lên xuống ngược xuôi, trong đục hòa lẫn. Một khi khí tà bị hun nóng, biến thành hơi ẩm nóng tích tụ bên trong, hun đốt hết lần này đến lần khác. Khi khí tà gặp lạnh sẽ biến thành hơi lạnh ẩm, lá lách và dạ dày bị ảnh hưởng, không hoạt động được. Dương khí trong lá lách bị tiêu diệt, sau đó nguyên khí cạn khô khiến cho mất đi khí dương. Nếu không kịp chữa trị thì người sẽ bị hao tổn nguyên khí, mất đi âm dương [1].”

[1] Tác giả chú: trích từ Tứ khí điều thần đại luận trong Tố Vấn, có thay đổi đôi chút.

Hắn ta lải nhải một tràng dài, Huyền Lăng mất kiên nhẫn xua tay. “Không cần khoe khoang chữ như thế, chỉ nói chỗ nào quan trọng thôi!”

Giang Mục Dương thấy Giang Mục Y giải thích quá rối rắm bèn xen vào: “Khí tà của bệnh dịch theo mũi miệng tiến vào người, đa phần là do thức ăn, nước uống không sạch sẽ, khiến các cơ quan nội tạng như lá lách, dạ dày và ruột bị tổn thương. Bọn thần lật dò vô số sách vở và phương thuốc cổ, mới nghiên cứu ra một phương thuốc mới, gọi là thuốc cấp cứu bệnh dịch. Lấy hoắc hương diệp, hương nhu, đàn hương, mộc hương, trầm hương, đinh hương, bạch chỉ, hậu phác, đu đủ, phục linh, hồng đại kích, nấm sơn từ, cam thảo, lục thần khúc, băng phiến, bộ hà, hùng hoàng, thiên kim tử sương chế thành, tính ấm xua đi khí ẩm, ấm gan bổ thận, điều dưỡng nguyên khí.”

Huyền Lăng “à” một tiếng, vừa ngẫm nghĩ vừa hỏi: “Phương thuốc này, các thái y ở Thái y viện đã xem qua chưa? Thấy có thể dùng được hay không?”

Giang Mục Dương thưa: “Đã xem qua rồi. Đã cho mấy nội giám mắc bệnh dùng thử, quả thực là có tác dụng.”

Khuôn mặt Huyền Lăng dần lộ vẻ vui mừng, y liên tục vỗ tay khen: “Hay lắm! Hay lắm!”

Đang lúc nói chuyện, Hoa Phi khẽ kêu “ôi chao” một tiếng, người lảo đảo muốn ngã. Tôi đứng ở ngay sau nàng ta, giơ tay đỡ lấy. Hoa Phi thấy là tôi, mắt lộ vẻ chán ghét, khéo léo đẩy tay tôi ra, miễn cưỡng hành lễ thưa: “Thần thiếp thất lễ…”

Cung nhân đứng kế bên đỡ lấy Hoa Phi, muốn mời nàng ta ngồi xuống, Hoa Phi không chịu. Huyền Lăng thấy vậy bèn hỏi: “Đang yên đang lành, nàng cảm thấy không khỏe ở chỗ nào?”

Giang Mục Y thừa cơ thưa: “Nương nương nghe bọn vi thần bảo là trong sách cổ có thể có phương thuốc để chữa trị bệnh dịch, mấy ngày liền thức trắng tìm kiếm trong sách vở. Chắc là do vậy nên thân thể mới mệt mỏi.”

Lúc này mặt Hoa Phi tái nhợt, quầng mắt thâm đen, quả nhiên là bộ dạng không nghỉ ngơi đầy đủ. Huyền Lăng nghe vậy hơi giật mình, bước tới đỡ lấy Hoa Phi, ép nàng ta ngồi xuống, bảo: “Ái phi phải chịu khổ cực rồi!”

Hoa Phi kéo tay áo của Huyền Lăng, đôi mắt đẹp lấp lánh ánh lệ. “Thần thiếp biết mình ngu độn, không xứng hầu hạ Hoàng thượng, chỉ biết làm cho Hoàng thượng bực mình.” Giọng của nàng ta càng lúc càng nhỏ nhẹ dịu dàng, thỏ thẻ đến mê người: “Cho nên chỉ biết tìm mọi biện pháp hy vọng giúp Hoàng thượng bớt ưu phiền.”

Nàng ta dùng khăn tay khẽ thấm nước mắt, chẳng để ý đến sự có mặt của hai vị thái y. Huyền Lăng thấy không tiện, bèn gọi mấy nội giám lại, bảo: “Theo Giang thái y ra ngoài, trước tiên hãy đưa thuốc đến Tồn Cúc đường cho Thẩm Dung hoa rồi hãy phân phát cho các cung nhân bị nhiễm bệnh dịch trong cung.”

Giang Mục Dương và Giang Mục Y chứng kiến cảnh này vốn đã hết sức lúng túng, nghe lệnh của Huyền Lăng thì như được ân xá, vội vàng lui xuống.

Hoa Phi ngẩn người, hỏi lại: “Thẩm Dung hoa?”

Huyền Lăng bình tĩnh đáp: “Đúng vậy. Trẫm đã hạ chỉ khôi phục lại địa vị cho Thẩm thị, chuyện lúc trước là trẫm trách lầm nàng ta.”

Vẻ ngạc nhiên của Hoa Phi lập tức biến mất, nàng ta cúi người, thưa: “Vậy thì thật là oan ức cho Thẩm gia muội muội rồi, Hoàng thượng phải bù đắp cho muội muội thật nhiều mới được.” Nói xong, nàng ta quay sang mỉm cười với tôi: “Cũng mừng cho Chân Tiệp dư. Tỷ muội các ngươi cuối cùng cũng có thể yên tâm rồi!”

Tôi cười nhạt, chăm chăm nhìn thẳng vào đôi mắt như chẳng có chút cảm xúc của nàng ta. “Đa tạ Hoa Phi nương nương quan tâm.”

Hoa Phi liếc tôi một cái, giọng nói càng dịu dàng, quyến rũ, khiến người nghe mềm nhũn đến tận xương: “Thần thiếp không dám cầu xin Hoàng thượng tha thứ cho sự lỗ mãng lúc trước của thần thiếp, chỉ xin Hoàng thượng đừng giận dữ vì thần thiếp, để tránh ảnh hưởng đến long thể. Thần thiếp vốn chỉ là thân phận rơm rác, nhỏ nhoi không đáng kể gì. Sức khỏe của Hoàng thượng ảnh hưởng đến chiến sự tây nam, gắn liền với vạn dân thiên hạ.”

Huyền Lăng thở dài, bảo: “Được rồi! Chuyện hôm nay nàng đã lập công lớn, nếu phương thuốc này có thể chữa khỏi bệnh dịch thì đúng là phúc đức cho thiên hạ. Trẫm không phải là người thưởng phạt không công bằng.” Hoa Phi nghe vậy òa khóc nức nở như rúc hẳn vào lòng Huyền Lăng, Huyền Lăng bèn hạ giọng an ủi nàng ta.

Tôi gần như không tin nổi, Hoa Phi nghênh ngang trước mặt mọi người lại có thể ủy mị, sướt mướt đến mức này. Chỉ cảm thấy vô cùng đau lòng, gượng gạo, thấy Huyền Lăng và Hoa Phi thân mật như vậy, khóe mắt tôi cay cay, tôi ngoảnh mặt đi, không muốn nhìn cảnh này nữa.

Tôi lẳng lặng thi lễ rồi im lặng cáo lui. Huyền Lăng thấy tôi muốn rời đi, môi mấp máy nhưng cuối cùng cũng không nói gì. Y vẫn ôm chặt Hoa Phi, dịu giọng an ủi nàng ta. Thảm trải vừa mềm mại vừa dày dặn, chân bước lên không một tiếng động, tôi khẽ khàng đóng cửa điện lại. Bên ngoài, Lý Trường đứng hầu, sốt ruột xoa tay, thấy tôi bước ra thì như gặp được cứu tinh, vội hỏi: “Tiểu chủ … Ý chỉ của Hoàng thượng muốn xử lý hai vị Giang thái y và Hoa Phi nương nương có cần phải tuyên đọc nữa không?” Thấy vẻ mặt của tôi không được vui, hắn vội hạ thấp giọng: “Lẽ ra nô tài phải vào trong hỏi Hoàng thượng, nhưng bên trong…” Hắn bĩu bĩu môi, hất mặt về phía điện phía tây: “Xin tiểu chủ thương hại nô tài.”

Tôi hạ giọng bảo: “Xem tình hình thì không cần ngươi đi một chuyến nữa đâu. Nếu có đi thì hẳn sẽ là mang theo ý chỉ tấn phong đấy!”

Tôi đột nhiên cảm thấy nghèn nghẹn nơi lồng ngực, trong lòng uất ức không chịu nổi, vịn vào tay Lưu Chu đi thẳng ra ngoài. Gió đêm ào ào thổi qua tai, tua rua tinh xảo của đôi hoa tai phỉ thúy kêu leng keng trong gió, tiếng châu ngọc va chạm vào nhau phát ra âm thanh trong trẻo vui tai. Trong một thoáng, tôi tựa hồ chỉ nghe thấy âm thanh vui tai ấy, không muốn nghe bất cứ động tĩnh gì khác ở xung quanh.

Đương nhiên y làm vậy là đúng, hay có thể nói, trước giờ y chưa từng làm sai. Y nhất định phải quan tâm đến thiên hạ và thắng lợi nơi tiền tuyến. Nhưng dẫu y luôn luôn đúng, tôi vẫn ấp ủ nỗi bất mãn với hành vi của y, dù ngoài mặt tôi luôn giữ vẻ vâng lời, trầm lặng.

Ngày hôm sau, lúc ghé thăm tôi, Huyền Lăng chỉ nói một câu: “Trẫm phải nghĩ đến đại cục.”

Tôi đang cầm chung tổ yến trong tay, khẽ dùng thìa khuấy khuấy rồi thưa: “Vâng, thần thiếp hiểu rõ.”

Tôi thấy quầng mắt của y thâm đen chẳng kém gì Hoa Phi hôm qua, thầm cười nhạt, nghe nói Hoa Phi đêm qua nghỉ lại thị tẩm ở phòng phía đông Nghi Nguyên điện, xem ra y cũng chẳng được ngủ yên.

Trong hậu cung, tương lai và vinh dự của nữ nhân đều nằm bên gối của nam nhân, còn đại cục của nam nhân lúc nào cũng gắn liền với chuyện giường chiếu. Hai lòng quấn quít làm một, có lẽ đã dập tắt được khói lửa chiến tranh, hoặc có lẽ, tôi không biết có nên dùng cách nói này hay không, đã kết thúc một vụ giao dịch ăn ý.

Quả nhiên Huyền Lăng ngáp dài mấy bận, cuối cùng chính y cũng cảm thấy ngượng ngùng, bảo tôi: “Nàng yên tâm di, hiện giờ đang lúc cần dùng người, không có biện pháp nào khác. Chuyện của Thẩm Dung hoa trẫm không quên đâu, cũng sẽ không dễ dàng bỏ qua.”

Tôi tủm tỉm cười, thản nhiên thưa: “Giữ gìn long thể an khang cho Hoàng thượng là chuyện quan trọng, thần thiếp chẳng có gì mà không an tâm cả.”

Mấy ngày sau đó, Huyền Lăng chẳng hề đặt chân vào Đường Lê cung của tôi. Thuần Nhi cùng tôi chầm chậm dạo bước trong Thượng Lâm uyển, ngắm hoa hạnh vừa nở. Hoa đang độ nở rộ, tươi đẹp, lộng lẫy, như ráng hồng, khiến cho đình đài, lầu gác chung quanh cũng nhuốm sắc đỏ. Tôi vẫn mặc bộ y phục cũ, váy áo xanh, nước hồ, tuy hợp với mùa xuân nhưng lại trông có phần lạc lõng trước màu hồng rực rỡ của hoa hạnh.

Thuần Nhi bĩu môi lên tiếng: “Hoàng thượng lâu như vậy rồi chẳng hề ghé qua, chẳng lẽ đã quên tỷ tỷ và muội rồi hay sao?” Thuần Nhi hái một đóa hoa hạnh rồi tự ướm lên tóc, quay sang tôi, cười hì hì, hỏi: “Có đẹp không?”

Tôi véo véo má nàng ta, cười, bảo: “Có quên tỷ thì cũng không quên được muội đâu, đồ quỷ con lanh lợi!”

Thuần Nhi cuối cùng cũng cài hoa vào mép tóc, đi lên một bước, đá tung vào lớp hoa rụng phủ đầy mặt đất, cất tiếng cười khẽ. “Hoàng thượng không đến cũng tốt, đến rồi dẫu thoải mái cách mấy thì vẫn có bao nhiêu quy củ ràng buộc, chẳng có gì vui vẻ cả.”

Tôi vội che miệng của nàng ta lại, mắng: “Càng lúc càng điên khùng, lời như vậy có thể nói bậy bạ được sao? Cẩn thận, nếu có người nghe thấy sẽ phạt muội tội khi quân đấy!”

Thuần Nhi vội vã nhìn xung quanh, hồi lâu mới nhận ra chẳng có ai khác, mới vỗ vỗ ngực, cười bảo: “Tỷ tỷ lại dọa muội rồi! Chúng ta đi thăm Đỗ Lương viện thôi, bụng của nàng ta bây giờ căng phồng rồi!”

Tôi gật đầu, cùng nàng ta đi một chuyến.

Lúc này, gió nhẹ lướt qua, thổi cho hoa rơi lả tả, cánh hoa đỏ rực bay bay, mấy cánh hoa lướt qua tay áo và vạt váy, cũng có vài cánh rơi xuống bờ vai, khẽ lay động rồi cuối cùng cũng rơi xuống đất.

Tôi ngẩng đầu ngắm hoa hạnh đầy trời, thầm nhủ một mùa xuân mới lại đến.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

53#
 Tác giả| Đăng lúc 15-4-2016 13:05:28 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 15
Hoa nhà ai nở ong bướm động lòng


Trong lòng không được vui vẻ, khiến thân thể có phần hao gầy, tôi uể oải chẳng muốn ăn uống gì. Bức Xuân sơn đồ chưa thêu được mấy mũi, tôi đã cảm thấy vô cùng chán nản, gạt nó sang một bên rồi đi ra, nằm gục xuống giường.

Nửa đêm nghe tiếng mưa lạnh tạt vào cửa sổ, tí tách rả rích khiến người phiền não, tôi không sao ngủ ngon giấc. Sáng thức dậy, tôi càng thấy bực bội, tựa hồ có thứ gì đó nghẹn lại nơi lồng ngực, lúc hầu hạ tôi thay y phục, Hoán Bích giật mình khuyên: “Tiểu thư, hay là mời thái y đến xem mạch đi thôi, sắc mặt của người nhìn tệ lắm!”

Tôi cố ngồi dậy rồi bảo: “Không cần đâu. Chắc tại hai hôm nay trời lúc nóng lúc lạnh nên bị cảm một chút, bây giờ mời thái y đến sẽ trễ giờ thỉnh an Hoàng hậu, khó tránh khỏi bị người gièm pha nói là ta giả vờ giả vịt. Đợi sau khi thỉnh an Hoàng hậu quay về, uống một chén nước gừng nóng là ổn thôi!”

Hoàn Bích có chút lo âu, quan sát tôi rồi thưa: “Vậy để nô tỳ gọi thêm hai người đi cùng với tiểu thư.”

Sau khi chuẩn bị xong xuôi, tôi bèn đi đến cung của Hoàng hậu để thỉnh an, không ngờ hôm nay Huyền Lăng cũng có mặt, thỉnh an xong, ngồi xuống, nói chuyện phiếm một hồi, Huyền Lăng thấy mọi người đã đến đông đủ bèn chỉ sang Hoa Phi bảo: “Bệnh dịch trong cung đã sơ bộ được ngăn chặn, không thể không nói đến công lao của Hoa Phi. Từ hôm nay trở đi, trẫm khôi phục quyền phụ trợ quản lý lục cung cho Hoa Phi.” Nghe những lời này, tôi càng thấy khó chịu, chỉ biết siết chặt lấy chung trà trong tay, thầm cảnh cáo mình tuyệt đối, tuyệt đối không được nổi giận.

Hoa Phi yểu điệu đứng dậy, thưa: “Tạ ơn Hoàng thượng!”

Sắc mặt của nàng ta hết sức tươi tỉnh, làn da trơn nhẵn, hồng hào, cứ như thể biết trước Huyền Lăng sẽ khôi phục quyền lực cho mình nên cố ý ăn diện đẹp đẽ, đường hoàng, hết sức kiều diễm. Huyền Lăng dặn dò: “Hoa Phi, nàng phải biết tuân thủ bổn phận của phi tử, giúp đỡ Hoàng hậu.”

Câu nói này như mũi tên bắn thẳng vào tim, tôi suýt cắn nát môi, chuyện tôi không muốn xảy ra nhất cuối cùng cũng đến. Bao tâm huyết bỏ ra trước đây coi như uổng phí hết cả. Tôi cố hết sức kiềm chế cơn giận trào dâng trong lòng, theo mọi người đứng dậy chúc mừng Hoa Phi. Hoàng hậu chỉ bình tĩnh mỉm cười. “Chúc mừng Hoa Phi muội muội!”

Hoa Phi hết sức đắc ý, liếc qua liếc lại, vô cùng phấn chấn. Thế nhưng Hoàng hậu chưa kịp dứt lời, Huyền Lăng đã tủm tỉm cười nhìn sang Phùng Thục nghi, nói: “Thục nghi tiến cung cũng được năm sáu năm rồi phải không?” Y dừng lại một lát. “Thục nghi Phùng thị tính tình hiền thục, nhã nhặn giữ lễ, vào cung đã lâu, hành vi cung kính, phong làm chính nhị phẩm phi, ban hiệu Kính.”

Đột nhiên được phong phi, Phùng Thục nghi bất giác ngẩn người, Huyền Lăng bảo: “Sao rồi, vui mừng đến phát ngốc rồi ư, đến tạ ơn mà cũng quên mất?”

Phùng Thục nghi lúc này mới bừng tỉnh, vội vã khuỵu gối tạ ơn, Huyền Lăng lại ra lệnh: “Nghi thức phong phi sẽ được tổ chức vào ngày Hai mươi sáu tháng này. Kính Phi, nàng và Hoa Phi vào cung cùng một năm, cũng là bậc lão luyện trong cung rồi. Nàng phải giúp đỡ Hoa Phi, cùng nàng ta quản lý hậu cung, chia sẻ nỗi vất vả của Hoàng hậu.”

Phùng Thục nghi trước giờ không được sủng ái nhiều, không thể sánh vai so bì với Hoa Phi được. Hôm nay được đột ngột phong phi, lại có thêm quyền phụ trợ quản lý hậu cung, đúng là niềm vui ngoài sức tưởng tượng, nàng ta vô cùng hớn hở. Nhưng tính nàng ta vốn cẩn thận, chỉ kín đáo tủm tỉm cười rồi hành lễ tạ ơn.

Trước tình thế như vậy, sắc mặt của Hoa Phi lập tức xịu xuống. Tôi suy nghĩ một thoáng đã hiểu ngay, tôi vào cung chưa được bao lâu, đương nhiên không thể phong phi để đối chọi với Hoa Phi được. Huyền Lăng sợ Hoa Phi đắc thế, bèn chọn Phùng Thục nghi để chia quyền với nàng ta, giữ được sự cân bằng trong hậu cung.

Tôi bèn cười tươi như hoa, thưa: “Chúc mừng Kính Phi nương nương.” Lời xưng tụng này thực lòng hơn rất nhiều so với câu nịnh hót Hoa Phi khi nãy.

Sau khi tiễn Huyền Lăng rời đi, mọi người cũng ra về. Hoa Phi vừa lấy lại được đại quyền, mọi người đành phải nhường nàng ta đi trước.

Tôi ngồi trên kiệu mềm, đám nội giám khiêng kiệu bước đi chỉnh tề đều như đếm. Tôi nửa mừng nửa lo, mừng cho Phùng Thục nghi được phong phi, lo vì Hoa Phi được khôi phục địa vị, khí thế hung hãn, chỉ e Phùng Thục nghi không đủ sức kháng cự lại.

Lòng tôi cứ rối loạn như bị ai giày vò, đến tiếng hoàng oanh ríu rít trên cành xuân cũng làm tôi bực bội, tôi bèn bảo: “Đến Tồn Cúc đường thăm Thẩm Dung hoa.”

Tiểu Doãn tử giật bắn mình, vội vã khuỵu gối hành lễ rồi thưa: “Tha cho nô tài nhiều chuyện, Dung hoa tiểu chủ chưa khỏi hẳn, chúng ta không nên ghé qua. Huống gì tiểu chủ người sáng nay thức dậy không được khỏe lắm, hay là trở về cung nghỉ ngơi đã!”

Tôi đáp: “Ta không sao. Với lại có gì phải sợ cơ chứ, đốt thêm nhiều lá ngải là được. Đám cung nhân kia chẳng phải cũng ở bên cạnh hầu hạ hay sao?”

Tiểu Doãn Tử cười bồi. “Nói là nói vậy, nhưng tiểu chủ thân thể ngàn vàng…” Thấy tôi nghiêm mặt lại, cuối cùng hắn không dám nói gì thêm, lập tức quay đầu đi về phía Tồn Cúc đường.

Phùng Thục nghi được phong làm Kính Phi, tuy thánh chỉ vẫn chưa chính thức ban xuống nhưng Huyền Lăng đã ra khẩu dụ, nhất thời mọi người trong hậu cung đều đến Quân Chiêu điện của nàng ta để chúc mừng, Tồn Cúc đường bên cạnh càng thêm vắng vẻ. Lúc tôi tiến vào thì thấy bên trong cũng an tĩnh, đã khôi phục vẻ ngoài tao nhã như xưa, không còn chút uể oải, suy sụp. Mấy ả tiểu cung nữ vây quanh lò sắc thuốc, mùi lá thuốc bốc lên nức mũi, chúng thấy tôi đến vội đứng dậy thỉnh an.

Bước vào trong, tôi thấy Phương Nhược đang đứng hầu, Bạch Linh và Thải Nguyệt ở sau lưng. Tôi tủm tỉm cười. “Nghe nói Hoàng thượng cố ý dặn dò cô cô ở lại đây hầu hạ cho đến khi My tỷ tỷ khỏi hẳn, thật khổ cực cho cô cô quá!”

Phương Nhược mỉm cười, thưa: “Tiểu chủ nói vậy, nô tỳ thật không dám nhận.” Rồi chỉ sang phía giường ngủ. “Dung hoa tiểu chủ hôm nay đã khỏe nhiều rồi, tiểu chủ đến đúng lúc lắm!”

Tôi hỏi lại: “Thật ư?” Rồi không thèm để ý gì đến Tiểu Doãn Tử méo mặt nháy mắt ra hiệu, tôi ngồi ngay xuống bên giường. “Tỷ tỷ hôm nay trông khỏe hơn nhiều rồi!”

Sắc mặt của My Trang đã tươi tỉnh hơn hẳn ngày trước, cố nhướng mắt miễn cưỡng với tôi. Tôi sợ tỷ tức giận, bèn không nhắc gì đến chuyện Hoa Phi khôi phục địa vị, chỉ chọn những chuyện vui kể cho tỷ ấy nghe.

My Trang lẳng lặng nghe tôi kể chuyện, tôi mỉm cười bảo: “Phùng Thục nghi trở thành Phùng Kính Phi, tỷ cũng ổn rồi, giờ lại khôi phục địa vị Dung hoa.”

Nụ cười của My Trang đầy vẻ chán nản, tỷ dùng ngón tay búng vào hoa văn trên gối, bảo: “Là Dung hoa hay không thì có gì quan trọng cơ chứ, chẳng khác gì Thường tại, chỉ là một cách xưng hô mà thôi. Tỷ thực sự quá mệt mỏi…”

Tôi cho rằng tỷ bệnh tật sinh nản lòng, lại chịu rất nhiều oan khuất trong lúc bị giam lỏng nên mới nói những lời tự thương thân mình thế này, tôi bèn cố ý khuyên: “Sắc mặt của tỷ tỷ đã khá hơn nhiều rồi, hay là đứng dậy ra ngoài đi dạo một lát. Thời tiết bên ngoài đang đẹp, không khí lại trong lành.”

My Trang vẫn uể oải đáp: “Tỷ lười ra ngoài lắm, gặp người khác là phiền. Ở nơi này yên tĩnh tốt hơn.”

Đang lúc nói chuyện, Ôn Thực Sơ tiến vào bắt mạch thỉnh an, bất ngờ nhìn thấy tôi cũng có mặt, hắn có chút ngượng ngùng, không biết nên vào hay nên cáo lui. Tôi cười, bảo: “Ôn thái y khách sáo quá, lúc trước gặp ta đâu có thái độ thế này. Ta vẫn chưa kịp cảm tạ ngài, bệnh của My tỷ tỷ cũng nhờ ngài mát tay chữa trị.”

Ôn Thực Sơ thưa: “Tiểu chủ đã có lệnh, vi thần vốn phải hết sức hết lòng. Huống gì vi thần không dám kể công, đều là nhờ các bậc danh y ở Thái y viện tìm được phương thuốc hay, vi thần mới có thể giúp đỡ hai vị tiểu chủ.”

Tôi tủm tỉm cười. “Ôn thái y chữa bệnh mát tay, người trong thái y viện ai mà không biết chứ, đại nhân không cần quá khiêm tốn như vậy!”

Hắn mỉm cười, khiêm tốn nói vài câu rồi ngồi xuống xin My Trang chìa tay ra để bắt mạch. Năm ngón tay của My Trang để móng dài ba phân, sơn màu đỏ nhạt của hoa kim phượng. Phương Nhược bước đến, đặt một chiếc khăn lụa lên cổ tay của My Trang.

Ôn Thực Sơ vừa đặt tay bắt mạch, My Trang mặt thoáng ửng hồng, khuôn mặt vẫn còn vương nét bệnh tật, lại bị sắc đỏ tươi của tấm rèm ánh vào, đôi má ửng đỏ kỳ lạ chẳng khác gì trong lúc mê man sốt nặng. My Trang giơ cánh tay kia lên vuốt phẳng tóc mai, bảo: “Ngươi vào mà chẳng báo trước một tiếng, ta tóc tai rối bời thế này, đúng là thất lễ quá!”

Nghe vậy, Ôn Thực Sơ càng không dám ngẩng lên, khẽ ho hai tiếng che giấu vẻ ngượng ngùng, thưa: “Tiểu chủ là bệnh nhân, vốn không cần để ý đến chuyện này, huống hồ Hoàng thượng đã ra lệnh cho vi thần thường xuyên đến bắt mạch.” Hắn lộ vẻ lo âu. “Là sơ sót của vi thần.”

My Trang thấy bộ dạng của hắn như vậy liền bảo: “Thôi đi, mấy ngày trước ta bệnh quá nặng, bề ngoài xấu xí còn hơn thế này, ngươi cũng nhìn thấy rồi!”

Tôi che miệng cười, bảo: “Tỷ tỷ dẫu có bệnh thì cũng là một bệnh mỹ nhân. Tây Thi có bệnh đau ngực, nhưng Đông Thi chẳng phải cũng ngay ngáy muốn bắt chước nhăn mặt hay sao? Chuyện đó cho thấy mỹ nhân dẫu bệnh hay không bệnh thì cũng đều đẹp cả.”

My Trang cười đến thở hổn hển, Ôn Thực Sơ nghe vậy cũng đỏ mặt. Tôi bèn mỉm cười, nói: “Vị Dung hoa tỷ tỷ này của ta vốn là người đoan trang, cẩn thận, chú trọng vẻ bề ngoài, theo lý mà nói, khi thái y đến bắt mạch cho bọn ta thì phải ngồi ở bên ngoài rèm. Chỉ có điều, một là căn bệnh này phải nhìn, nghe, hỏi, sờ mới được, hai là thái y cũng đã chăm sóc cho tỷ tỷ nhiều ngày, cũng tính là quen thuộc. Chúng ta không cần cứng nhắc tuân theo những lễ tiết vô nghĩa ấy.”

Ôn Thực Sơ hỏi thêm vài câu về chuyện ăn uống, giữ ấm, rồi thưa: “Chỉ ăn mỗi cháo trắng, rau xanh tuy thanh đạm vừa miệng nhưng chung quy lại chẳng mấy bổ dưỡng. Huống hồ tiểu chủ dạ dày không được khỏe, cần phải chú trọng bồi dưỡng thêm.”

My Trang đáp: “Những món dầu mỡ béo ngậy không sao cho vào miệng được, cũng chẳng muốn ăn.”

Ôn Thực Sơ dịu giọng khuyên nhủ: “Thuốc uống vào vốn đã làm tổn thương dạ dày nếu không có hứng ăn uống thì công hiệu của thuốc không được cao đâu.” Hắn ngẫm nghĩ một lát rồi bảo: “Vậy vi thần sẽ tìm vài món dược thiện cho tiểu chủ.” Nói xong, hắn nhìn sang tôi: “Tinh thần của Tiệp dư tiểu chủ cũng không được tốt lắm, hãy lấy rễ sâm nấu với gà ác, vừa bổ âm dưỡng nhan, lại bổ máu nữa!”

Khuôn mặt mệt mỏi của My Trang lộ nét cười như có như không. “Việc gì mà phải tiết kiệm như thế, dùng cả củ sâm rừng là được, chẳng phải là không ăn nổi, sao cứ nhăm nhăm chọn mỗi rễ sâm cơ chứ?”

Ôn Thực Sơ cười bồi. “Dung hoa tiểu chủ chưa biết đấy thôi, Tiệp dư tiểu chủ vốn thiếu máu sâm rừng chỉ bổ khí, sử dụng không hợp. Giờ đang là mùa xuân, không so được với mùa đông, dùng sâm rừng chẳng những không hợp vị với gà ác mà thân thể của tiểu chủ cũng chẳng thể chịu nổi. Nhưng mà ‘khí là chủ đạo của máu’, ‘máu là mẹ của khí’ hai thứ này gắn kết chặt chẽ không thể tách rời, dùng rễ sâm lại bổ dưỡng cho cả khí và máu.”

My Trang bảo: “Nghe ngươi nói cũng có lý đấy! Vậy ngươi xem thử xem, ta nên ăn thứ gì mới phải?”

Ôn Thực Sơ thưa: “Hạt cẩu kỳ, nhân ý dĩ, củ từ bổ lá lách lợi khí, nụ hoa hồng nấu với cháo gạo tẻ có thể làm giảm đau dạ dày và khí nóng ở gan, rất phù hợp với tiểu chủ.”

Tôi lên tiếng: “Cảm ơn ngươi đã căn dặn chu đáo!”

My Trang lúng liếng nhìn sang tôi, ho khan hai tiếng rồi mới cười nhạt. “Muội đấy, lúc nào cũng khiến người khác sẵn sàng dốc hết tâm sức cho mình. Ôn thái y thấy có đúng như vậy không?”

Ôn Thực Sơ chỉ thưa: “Chỉ là bổn phận của vi thần mà thôi!” Nói xong, hắn cáo lui ra đến cửa, tự tay đóng lại cánh cửa sổ đang mở hờ, dặn dò Thải Nguyệt: “Mấy hôm nay gió vẫn còn lạnh, sáng sớm và chiều tối đừng mở cửa sổ, tiểu chủ nhà cô không chịu nổi đâu, giữa trưa mở hé ra để có thông khí là đủ rồi!”

Thải Nguyệt mỉm cười, thưa: “Đại nhân đúng là còn chu đáo hơn cả bọn tôi nữa. Hiện giờ Hoàng thượng đã đặc biệt hạ chỉ cho ngài đến chữa bệnh cho tiểu thư bọn tôi, coi như cũng có thể đến thăm công khai rồi, mấy ngày trước đúng là vất vả, khổ sở không ít.”

Ôn Thực Sơ chỉ mỉm cười rồi quay đầu lại, thưa: “Tiệp dư tiểu chủ dặn đi dặn lại là phải hết lòng chăm sóc cho tiểu chủ nhà cô, ta dám không hết lòng hay sao?”

Tôi nghe bọn họ nói chuyện, quay đầu lại thì thấy My Trang ngẩn ngơ ngồi tựa vào gối, không nói tiếng nào. Tôi cho rằng tỷ nói khá lâu nên thấy mệt, bèn đắp chăn cho tỷ, định khuyên tỷ ngủ thêm một lát. My Trang nhìn tôi, hỏi: “Sắc mặt của muội không được tốt lắm, vì sao vậy?”

Tôi vội chối ngay: “Không có gì đâu, chẳng qua là đêm ngủ không yên mà thôi!”

My Trang nghiêng người, bảo: “Có nhiều lý do khiến cho đêm ngủ chẳng yên, muội không chịu nói thì thôi. Tỷ tuy ngồi dưới giếng thật nhưng không phải không biết tí gì về tình hình bên ngoài đâu. Vị kia mấy ngày nay hẳn là vinh quang, náo nhiệt lắm đấy! Chỉ có điều muội cũng phải chú ý giữ gìn sức khỏe.” Nói xong, tỷ dừng lại rồi hỏi: “Nghe nói Lăng Dung cũng không được khỏe lắm, phải không?”

Tôi không muốn tỷ lo lắng thêm, bèn đáp: “Phong hàn mà thôi, không có gì đáng lo lắm!”

My Trang bảo: “Tuy nói là bệnh dịch không còn đáng sợ nữa nhưng không thể coi thường bệnh phong hàn đâu. Nàng ta nhờ giọng ca mà được sủng ái, bị khàn giọng thì không ổn đâu.”

Tôi đáp: “Muội cũng đã dặn dò nàng ta phải chú ý cẩn thận rồi. Chỉ có điều đã đưa bao nhiêu thuốc sang mà chẳng thấy có tác dụng gì, chỉ e là do bình thường cơ thể của nàng ta vốn đã yếu ớt sẵn.”

Tôi thấy tỷ có vẻ mệt mỏi, không tiện ngồi lâu, bèn lên tiếng cáo từ. My Trang bảo: “Muội về đi, không có chuyện gì thì cũng đừng sang đây nhiều, lỡ dính phải bệnh khí của tỷ thì không tốt đâu. Tỷ cũng sợ gặp người khác lắm, trong lòng cứ nghèn nghẹn, khó chịu.”

Tôi ngẫm nghĩ một lát rồi cười bảo: “Cũng được, tỷ cứ tĩnh dưỡng cho khỏe. Lần tới tỷ sang thăm muội chứ chẳng cần muội sang thăm tỷ làm gì.”

Tôi đi ra đến ngoài thì gặp Ôn Thực Sơ đang chỉ cách cho cung nữ pha chế thuốc, hắn thấy tôi bèn khom người hành lễ, tôi đưa mắt ra hiệu cho hắn rồi vịn tay Lưu Chu chầm chậm rời đi. Quả nhiên chẳng bao lâu sau đã thấy hắn hối hả đuổi kịp, tôi mỉm cười. “Khi nãy không tiện nói chuyện, đành phiền đại nhân đi thêm một chuyến.” Tôi từ từ thu lại nụ cười, nghiêm mặt hỏi: “Giang Mục Dương, Giang Mục Y vốn sở trường phụ khoa và chăm sóc trẻ nhỏ, sao đột nhiên lại biết cách trị liệu dịch bệnh kia chứ, mà lại thành thạo đến mức này? Thật không khỏi khiến người ta sinh lòng nghi ngờ. Lại nói Hoa Phi thức suốt đêm giúp tra cứu y thư. Hoa Phi có biết chút văn chương nhưng nói về y thuật thì chỉ e nàng ta đau đầu, nhức óc không chịu nổi.”

Ôn Thực Sơ trầm ngâm hồi lâu rồi chậm rãi thưa: “Nếu vi thần nói phương thuốc chữa dịch bệnh này quá nửa xuất phát từ tay của vi thần, tiểu chủ có tin không?”

Tôi đáp: “Ta tin. Ngươi quả thực có năng lực. Nhưng vì sao phương thuốc này lại lọt vào tay bọn họ?”

Hắn thưa: “Vi thần chỉ mới viết ra được quá nửa mà thôi, vì chưa nghĩ được chu toàn nên chưa dám tự tiện sử dụng, chỉ cất trong hộc tủ ở Thái y viện rồi lại bận bịu chăm sóc Thẩm Dung hoa, chỉ e là bọn họ nhìn thấy bèn chiếm làm của riêng. Bọn họ hẳn cũng đã thêm vài vị thuốc, chỉ là không thông thạo cho nên phương thuốc không khỏi có phần quá mạnh. Do đó, thần có sửa đổi lại, cho Thẩm Dung hoa uống loại hòa dịu hơn một chút.”

Tôi gật đầu. “Ngươi làm vậy không sai. Lúc này, bọn họ lập được công lớn, ngươi có nói ra thì cũng chẳng ai tin, ngược lại còn khiến người ta hiểu lầm là ngươi sốt ruột muốn kể công. Ngươi an tâm đi, chuyện này ta đã có toan tính riêng.” Tôi tủm tỉm cười. “Nếu phương thuốc quá nửa là do ngươi nghĩ ra thì quá tốt rồi! Chim hết vất cung, đại nhân ngài sắp được nổi danh rồi.”

Vài ngày sau đó, tôi lại đến cung của Hoàng hậu để thỉnh an. Ngoài vườn của Phượng Nghi cung trồng rất nhiều loại hoa cỏ, hiện giờ thời tiết ấm áp, mẫu đơn, thược dược tranh nhau khoe sắc, cả vườn rực rỡ sắc màu. Nhất là hoa mẫu đơn từng cụm nở rộ, như gấm thêu, đa phần đều là loại quý hiếm như Diêu hoàng, Ngụy tử, Nhị kiều.

Mọi người đi theo Hoàng hậu đứng dưới chái hành lang ngắm hoa, xuân ấm hoa nở, chim hót líu lo, hương thơm ngập tràn, các phi tần thướt tha, quyến rũ, thỏ thẻ nói cười, hết sức náo nhiệt.

Hoa Phi vùng dậy, Kính Phi được sắc phong, Đỗ Lương viện mang thai, ba người họ đương nhiên cực kỳ nổi bật, không ai sánh bằng. Trong số đó, Đỗ Lương viện là cao quý nhất. Ai cũng biết thực ra chỉ có cái bụng của nàng ta là cao quý mà thôi, nhưng về sau mẹ quý nhờ con, tiền đồ rộng mở.

Hoàng hậu chỉ cho Đỗ Lương viện ngồi xuống, lại còn dặn cung nữ đem đệm lông ngỗng ra đặt xuống ghế. Hoàng hậu tươi cười dặn dò: “Ngươi đã mang thai được bốn tháng rồi, phải hết sức cẩn thận.”

Đỗ Lương viện tạ ơn xong liền ngồi xuống cùng ngắm hoa với mọi người. Tôi đứng gần Đỗ Lương viện, thoáng ngửi thấy mùi phấn son trên người nàng ta hết sức ngọt ngào, dễ chịu, bèn mỉm cười khen: “Mùi hương này thơm thật đấy, hình như không phải là loại trong cung hay dùng.”

Đỗ Lương viện cười khẽ, không giấu được vẻ kiêu căng tự đắc. “Mũi của Tiệp dư tỷ tỷ thính thật đấy, đó là hương do Hoàng thượng ban cho ta tháng trước. Thái y nói ta đang mang thai, tối kỵ dùng các loại phấn son có thành phần xạ hương cho nên Hoàng thượng lệnh cho Yên chi phường điều chế loại mới cho ta, nghe nói là dùng hoa lài và nước cất từ hoa, thêm vào bột gạo trắng mà thành, tên cũng rất độc đáo, gọi là Mị hoa nô, vừa không ảnh hưởng đến thai nhi, lại khiến cho da mặt trơn bóng, ta hết sức vừa lòng.”

Nàng ta huênh hoang nói một tràng dài, ít nhiều gì cũng có ý khoe khoang, sao tôi không hiểu, bèn nói vuốt theo: “Nói như vậy thì đúng là món tốt khó có được, Hoàng thượng đúng là hết mực quan tâm đến muội muội.”

Đỗ Lương viện bảo: “Nếu tỷ tỷ thích thì ta sẽ tặng cho tỷ tỷ một ít.”

Tôi cười nhạt. “Vật này là do Hoàng thượng tặng riêng cho muội muội, thân làm tỷ tỷ sao lại nỡ lấy cơ chứ?”

Đỗ Lương viện đưa một trái quýt cho thị nữ bóc giúp, miệng nói: “Vậy cũng đúng, dù gì cũng là tâm ý của Hoàng thượng, không thể tùy ý tặng được. Tỷ tỷ đã khách sáo như vậy thì muội muội cũng không miễn cưỡng tỷ tỷ phải nhận đâu.”

Trong lòng bực dọc nhưng ngoài miệng tôi vẫn bình thản “ừ” một tiếng, Hân Quý tần đứng bên không kìm được, cười lạnh một tiếng, bảo: “Đã là tâm ý của Hoàng thượng thì Đỗ Lương viện ngươi hãy giữ cho kĩ, tốt nhất là đặt lên hương án mà thờ, chứ thoa lên mặt thì gió thổi nắng hong, vậy chẳng phải là làm cạn hết tâm ý của Hoàng thượng hay sao?” Nói xong, nàng ta không thèm để ý đến Đỗ Lương viện đang giận đến sững người, kéo tôi bỏ đi, vừa đi vừa lầm bầm trong miệng: “Ai mà chẳng mang thai được cơ chứ, bản cung nhìn bộ dạng tự đắc của ả ta chẳng vừa mắt chút nào.”

Tôi vội khuyên: “Hân tỷ tỷ bớt giận đi mà, hiện giờ người ta đang vênh vang như thế, tỷ việc gì phải khổ sở bực dọc với người ta?”

Hoàng hậu thấy Hân Quý tần lầm bầm gì đó bèn hỏi: “Hân Quý tần nói gì vậy?”

Cẩn Phi ở bên nghe được những lời của tôi và Hân Quý tần bèn vội nói tránh sang chuyện khác: “Trời ấm áp thật, hay là Hoàng hậu cho người đưa Tùng Tử ra tắm nắng một lát đi!”

Hoàng hậu mỉm cười. “Cẩn Phi thích con mèo Tùng Tử này thật, lần nào đến cũng ôm nó suốt. Chân Tiệp dư trước giờ đến chạm vào cũng không dám.” Nói xong, nàng ta bèn lệnh cho cung nữ Hội Xuân ôm Tùng Tử đến.”

Tôi mỉm cười, thưa: “Thần thiếp vốn nhát gan, khiến Hoàng hậu nương nương chê cười rồi. Nhưng mà Tùng Tử trong tay của Cẩn Phi nương nương quả thật là rất ngoan ngoãn.”

Hoàng hậu cũng cười. “Đúng vậy! Con mèo này cũng biết nhìn người lắm.”

Cẩn Phi cười bồi. “Nương nương lại nói đùa rồi, là nương nương khéo dạy dỗ nó mới đúng, vừa không sợ người lại không cắn người.”

Chỉ trong chốc lát, Hội Xuân đã ôm Tùng Tử đi tới, dưới ánh mặt trời, bộ lông của Tùng Tử bóng loáng như bôi mỡ, Kính Phi cười bảo: “Hoàng hậu nương nương quả thật mát tay, nuôi mèo thật khéo, nhìn bộ lông của nó chẳng khác gì gấm đoạn.”

Hội Xuân đưa con mèo đến tận tay Cẩn Phi, Kính Phi lên tiếng: “Muội nhớ Cẩn Phi tỷ tỷ trước đây cũng từng nuôi một con mèo tên là Hắc Thủy, cũng lanh lợi lắm, chỉ là sau đó chẳng hiểu vì sao lại biến mất, tỷ tỷ rất biết cách cưng nựng mấy con vật nhỏ này.” Nói đến đây, nàng ta không khỏi lấy làm lạ. “Con mèo này sao hôm nay lại không chịu ở yên như thế, coi bộ khá là nóng nảy.”

Cẩn Phi vuốt ve phần lưng uốn lượn của Tùng Tử, cười, bảo: “Cũng chẳng trách nó không chịu ở yên, đang là mùa xuân mà!” Nói đến đây thì có phần ngượng ngập, nàng ta vội chữa lời: “Ta vốn rất thích nuôi mèo, nhưng sau đó sinh được hoàng trưởng tử, thái y dặn dò không nên nuôi nữa, thế là ta bèn thả nó đi.” Lúc nói chuyện, ngón tay của Cẩn Phi lay động, trên móng tay có đeo hộ giáp uốn khúc chạm rồng mạ vàng, đính đầy ngọc bích, lấp lánh vui mắt dưới ánh mặt trời.

Tôi mỉm cười, nói xen vào: “Người ta thì hay nuôi mèo nuôi chó, Kính Phi tỷ tỷ chỉ thích nuôi những loại khác hẳn bình thường. Lần trước muội đến điện Quân Chiêu của tỷ tỷ, vừa bước vào đã giật bắn cả mình, trong hồ pha lê của Kính Phi tỷ tỷ có nuôi một con rùa to đùng.”

Kính Phi cười, bảo: “Chẳng qua là tỷ thích nó vì nó yên tĩnh, lại dễ nuôi, cho ăn thứ gì là ăn thứ đó. Tỷ vốn không muốn bỏ công sức nuôi vật gì, tay chân vụng về, có muốn nuôi cũng chẳng nuôi được.”

Tôi bảo: “Kính Phi tỷ tỷ nói mình tay chân vụng về thì muội muội đây không biết mình thuộc loại gì nữa. Kính Phi tỷ tỷ tự bêu xấu mình như vậy, muội ngu ngốc, vụng về hơn tỷ tỷ gấp mười lần, xem ra còn tệ hại không nước nào nói nổi.” Mọi người đang ríu rít trò chuyện, thấy tôi nói vậy không kìm được, phá lên cười.

Hoa Phi vốn đang thích thú ngắm nghía mấy cụm thược dược, nghe thấy bên này nói chuyện bèn nhìn tôi, khẽ “hừ” một tiếng. “Phùng Thục nghi vẫn còn chưa chính thức phong phi, Tiệp dư ngươi lại luôn miệng gọi Kính Phi, Kính Phi, đúng là quá sức ton hót nịnh nọt.” Nàng ta cười một tiếng rồi liếc xéo Phùng Kính Phi. “Về sau lẽ nào không có cơ hội để gọi, việc gì mà phải gấp gáp như vậy chứ?” Nói xong, nàng ta che miệng cười khúc khích.

Trong vườn giờ chỉ nghe thấy mỗi tiếng cười sảng khoái, đắc ý của nàng ta vang vọng, tôi đang định cãi lại thì cổ họng chợt nghẹn đắng, trước mắt tối đen, chỉ thấy sao bay khắp chốn, không khỏi phải hít sâu một hơi để giữ bình tĩnh. Kính Phi quay đầu không đáp, các phi tần khác cũng thu lại nụ cười, ngượng ngập không biết nên cư xử thế nào mới phải.

Hoàng hậu hái một đóa mẫu đơn màu hồng, cười, bảo: “Hoa Phi ngươi cũng bắt bẻ hơi quá rồi. Có chính thức phong phi hay không thì cũng quan trọng gì chứ, chỉ cần trong lòng Hoàng thượng phong nàng ta là Kính Phi là đủ rồi, người nói có phải không?”

Vẻ mặt Hoa Phi cứng ngắc, nàng ta ngẩng đầu, đáp: “Là đúng mà không đúng. Có phúc thì chẳng sợ chờ đợi, chỉ e có kẻ vô phúc, chỉ kém một giây, một phút thôi, cuối cùng cũng chẳng được gì.”

Hoàng hậu chẳng hề tức giận, chỉ tươi cười bảo Kính Phi: “Hôm nay đã là Hai mươi ba rồi, chỉ còn hai, ba ngày nữa là đến lúc sắc phong, ngươi cũng nên chuẩn bị đi.” Lại bảo Hoa Phi: “Kính Phi làm gì mà vô phúc cơ chứ, nàng ta vào cung cùng một ngày với Hoa Phi, hiện giờ chẳng những được phong phi mà chẳng bao lâu sau còn phải giúp muội muội quản lý mọi chuyện trong hậu cung. Muội muội có người hỗ trợ, đó là phúc của muội muội. Bản cung lại càng có phúc, được hưởng thanh nhàn.” Vừa dứt lời, mọi người đã luôn miệng xưng tụng Hoàng hậu phúc đức sâu dày.

Hoa Phi cũng không đáp lời, chỉ cười lạnh một tiếng, chằm chằm nhìn vào đóa mẫu đơn màu hồng phấn trên tay Hoàng hậu, bảo: “Hoa mẫu đơn này nở đẹp thật đấy, chỉ là màu hồng phấn suy cho cùng vẫn là loại thứ cấp, không xứng được tôn trọng, thậm chí còn chẳng bằng thược dược, tuy chẳng phải hoa vương nhưng đỏ tươi chói mắt mới đúng là màu sắc đáng trọng.” Hoa Phi vừa nói xong, mọi người ai cũng thót tim nhưng không tiện bình phẩm gì. Lúc này trên đầu Hoa Phi đang cài một bông thược dược đỏ tươi, càng tôn thêm nhan sắc diễm lệ và đôi mắt lúng liếng quyến rũ của nàng ta.

Mọi người đều biết màu hồng phấn là dành cho vợ lẽ, vợ cả chỉ dùng màu đỏ tươi, đỏ sẫm, lúc này Hoa Phi cài hoa đỏ, trong tay Hoàng hậu lại là hoa màu hồng, tôn ti đảo loạn, nhất thời mọi người đều im phăng phắc, không ai dám tùy tiện mở miệng nói chuyện.

Hoàng hậu đang cầm đóa mẫu đơn, vứt đi không được mà giữ cũng không xong, hết sức bối rối, còn Hoa Phi lại lộ vẻ vênh vang tự đắc. Tôi bình tĩnh lên tiếng: “Thần thiếp lúc nhỏ có đọc được một bài thơ của Lưu Vũ Tích, giờ đọc có lẽ rất hợp cảnh, xin phép được bêu xấu trước mặt Hoàng hậu và các vị tỷ tỷ vậy.”

Hoàng hậu đang bối rối, thấy tôi lên tiếng giải vây bèn thuận miệng bảo: “Ngươi đọc đi!”

Tôi chậm rãi ngâm: “Ngoài sân thược dược đẹp riêng mình, sen trước ao tranh một chút tình. Duy chỉ mẫu đơn là quốc sắc, nở hoa chính lúc rộn kinh thành [1].”

[1] Nguyên tác: “Đình tiền thược dược yêu vô cách, trì thượng phù cừ tịnh thiểu tình. Duy hữu mẫu đơn chân quốc sắc, hoa khai thời tiết động kinh thành.” Dịch thơ: Điệp Luyến Hoa.

Thơ chưa ngâm xong, Hoàng hậu đã mỉm cười hài lòng, tiện tay cài đóa mẫu đơn lên vạt áo. “Hay cho câu Duy chỉ mẫu đơn là quốc sắc! Tôn ti vốn nằm trong lòng người, thược dược có đỏ cách mấy thì cũng quá diêm dúa lòe loẹt, không thể sánh với mẫu đơn quốc sắc thiên hương.” Thấy Hoa Phi mặt hơi lộ vẻ tức giận, nàng ta bèn cười. “Hôm nay đến đây ngắm hoa, Hoa Phi muội muội sao lại có vẻ bực bội như thế? Đừng có nghĩ quẩn quá mà làm mất hứng!”

Hoa Phi cố nén giận, thi lễ rồi quay người muốn bỏ đi, ai ngờ đi quá nhanh, chuỗi trân châu đeo trên cổ bị móc vào cành hoa, soạt một tiếng đứt rời, trân châu rơi xuống đất như mưa rào. Chuỗi trân châu đó hạt nào hạt nấy to bằng đầu ngón tay cái, tròn vành vạnh hết sức quý giá.

Hoa Phi không phát hiện ra, nghe Tào Tiệp dư đứng đằng sau “ôi chao” một tiếng mới quay người lại, vừa khéo đạp trúng vạt váy của Đỗ Lương viện đang đứng tránh sang bên nhường đường. Đỗ Lương viện không đứng vững, chân bất giác trượt đi, giẫm phải mấy hạt trân châu rơi vãi, người loạng choạng, miệng la oai oái cứu mạng. Kính Phi luôn miệng ra lệnh: “Còn không mau chạy lại đỡ!” Trong lúc bối rối, cũng may có nội giám lanh lợi chạy lại đỡ Đỗ Lương viện, còn Kính Phi lại bị va phải một cú mạnh.

Mắt thấy thai rồng không bị ảnh hưởng, may mắn thoát nạn, cả Hoàng hậu và Kính Phi đều thở phào nhẹ nhõm. Tim tôi đập thình thịch, đưa mắt nhìn một lượt thì thấy Cẩn Phi đứng một bên, lặng lẽ vuốt ve bộ lông của Tùng Tử, tựa như chẳng hề nhìn thấy cảnh tượng hỗn loạn vừa diễn ra.

Tôi thấy bất an, Hoàng hậu ôm ngực niệm: “A di đà Phật! Cũng may Đỗ Lương viện không có chuyện gì!” Lời nói chưa dứt, đột nhiên Cẩn Phi kêu thét một tiếng, Tùng Tử ở trong tay nàng ta gào lên the thé rồi phóng thẳng ra xa. Mọi người chưa nhìn rõ chuyện gì xảy ra thì đã thấy Tùng Tử lao thẳng về phía Đỗ Lương viện. Con mèo này bình thường ăn uống bồi bổ, to mập, khỏe mạnh cho nên sức vồ của nó vừa nhanh vừa mạnh, bộ dạng hung hãn khiến chẳng ai dám ngăn cản.

Trân châu rơi vãi đầy đất, có mấy tần phi sớm đã trượt chân té ngã, khắp vườn ồn ã tiếng khóc lóc, kêu gào, hết sức rối loạn. Đám nội giám cung nữ hết nâng người này lại đỡ người nọ, không biết làm thế nào mới phải.

Tùng Tử phóng tới quá đột ngột, mọi người nhất thời không kịp phản ứng, chính Đỗ Lương viện cũng sợ đến phát ngốc. Tôi biết ngay là tình hình không ổn, vốn đang đứng trong góc khuất, lúc này càng cần phải bước tránh đi. Đột nhiên, lưng tôi bị ai đó dùng sức đẩy mạnh, cả người lảo đảo ngã nhào, hướng thẳng về phía bụng của Đỗ Lương viện và Tùng Tử đang hùng hổ xông tới. Tôi sợ đến mức gần như không kêu nổi thành tiếng, Đỗ Lương viện mặt mày khiếp hãi. Cái bụng hơi nhô lên của nàng ta nhìn gần chẳng hiểu sao lại khiến tôi cảm thấy thật thiêng liêng. Tôi sợ hãi, chợt nghĩ bên trong hẳn là có một đứa bé hết sức đáng yêu. Chưa kịp nghĩ gì thêm, tôi bèn hạ quyết tâm, lách người sang một bên, rồi ngã đánh rầm xuống đất. Ngay sau đó, ai đó ngã đè lên cánh tay tôi, nặng quá, đau quá… Mặt tôi tựa hồ như bị vật gì bén nhọn cào vào, đau ngói, buốt rát. Tôi đau đến mức suýt òa khóc, đành nghiến răng chịu đựng. Cũng trong lúc đó, tiếng kêu kinh hãi vang lên…
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

54#
 Tác giả| Đăng lúc 15-4-2016 13:36:47 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 16 (1)
Quý tần


Thân hình nằm đè lên tay tôi nhanh chóng được người nâng dậy, vô số giọng nói chân thành lẫn giả dối rối rít quan tâm hỏi han Đỗ Lương viện: “Sao rồi? Có bị thương chỗ nào không?” Lại có kẻ vội vàng chạy ra đi mời thái y. Cả đám người vây quanh nàng ta hỏi han ân cần, hầu như chẳng ai để ý xem tôi có bị thương hay không. Tôi nằm gục dưới đất, mũi ngập ngụa mùi bùn đất và hương cỏ dại, nhìn thấy rõ mồn một sắc trắng trong suốt của từng cọng rễ cỏ, hoa rơi đầy mặt đất đỏ như máu. Tôi vùng vẫy cố ngồi dậy, cánh tay đau nhói như muốn gãy rời, thực sự không sao đứng nổi. Kính Phi và Thuần Nhi vội chạy tới, mỗi người một bên cẩn thận đỡ tôi đứng dậy rồi ngồi xuống. Thuần Nhi xót ruột đến mức ứa cả nước mắt, nức nở: “Chân tỷ tỷ, tỷ không sao chứ?”

Tôi thò tay sờ thử chỗ đau trên mặt, máu dính vào tay, màu đỏ tươi đọng trên ngón tay trắng muốt, phảng chút mùi tanh, tôi bất giác cảm thấy sợ hãi. Tôi trước giờ rất chú trọng nhan sắc, nay bị thương, tuy không nghiêm trọng lắm nhưng cũng không tránh khỏi đau lòng.

Kính Phi cũng cảm thấy xót xa cho tôi, chăm chú nhìn kĩ một hồi rồi nhỏ giọng an ủi: “Hẳn là khi nãy bị Tùng Tử cào phải, cũng may là vết thương không sâu, chắc không có chuyện gì đâu. Ôi chao, nếu lỡ để lại sẹo thì biết làm sao?”

Làm sao ư? Tôi chỉ biết cười khổ, hiện giờ trong mắt người khác tôi chỉ là một tần phi không biết tự lượng sức mình, tranh sủng với Hoa Phi để rồi thất bại thảm hại, có gì đáng phải quan tâm đâu cơ chứ!

Vết thương nơi cánh tay đau nhức đến mức tôi toát mồ hôi lạnh. Ánh xuân sáng rỡ càng khiến tôi đầu váng mắt hoa, khó khăn lắm mới thốt ra được ba từ: “Không sao đâu!”

Thuần Nhi sợ đến mức mặt tái nhợt, kéo tay áo của tôi, nức nở: “Tỷ tỷ đừng dọa muội mà!”

Tay áo vừa động, cánh tay lập tức nhói đau theo, Kính Phi thấy mặt tôi trắng nhợt bèn quát Thuần Nhi dừng tay. Thuần Nhi sợ đến mức không dám nhúc nhích, chỉ thút tha thút thít đứng yên bên cạnh tôi.

Hoàng hậu vô cùng tức giận, vừa an ủi, dặn dò Đỗ Lương viện đừng lo lắng, vừa cao giọng cấm các phi tần không được làm loạn. Nàng ta quay người mới nhìn thấy tôi đang ngồi xiêu vẹo một bên, vội gọi người: “Chân Tiệp dư cũng không được ổn, mau đỡ Tiệp dư và Đỗ Lương viện vào điện phụ nằm nghỉ, gọi thái y vào chuẩn mạch.”

Khó khăn lắm tôi mới được đặt lưng nằm nghỉ trên giường ở điện phụ, lúc này cũng cảm thấy đỡ hơn đôi chút. Người đến bắt mạch là Chương Di, người đứng đầu Thái y viện. Hoàng hậu sợ Đỗ Lương viện bị động thai nên nóng ruột gọi ngay hắn tới bắt mạch, rồi nhìn sang tôi vẻ bất lực và an ủi. Tôi lập tức ngoan ngoãn thưa: “Xin thái y cứ bắt mạch cho Lương viện muội muội trước, thai rồng là quan trọng hơn cả.”

Hoàng hậu nghe vậy thì thoáng lộ vẻ hài lòng tán thưởng. Chương Di im lặng bắt mạch, Đỗ Lương viện sắc mặt lộ vẻ lo lắng, sốt ruột nhưng thần thái không có gì là mệt mỏi. Bốn bề im lặng không một tiếng động, không biết là do quan tâm đến cái thai của Đỗ Lương viện hay là đang ấp ủ mưu sâu kế độc không thể để lộ cho người khác biết. Tôi cố gắng chịu đựng cơn đau tê tái nơi cánh tay, lắng nghe tiếng tí tách phát ra từ đồng hồ cát. Bên ngoài ánh xuân huy hoàng, tôi nằm nghiêng trên giường, mắt hoa lên, chỉ cảm thấy ánh xuân cách tôi quá xa, quá xa, thò tay với mãi mà chẳng tới. Bên tai vẳng lại giọng nói khô khan có chút vui mừng của Chương Di: “Lương viện tiểu chủ không có gì đáng lo, thai rồng cũng an ổn, không bị thương tổn. Đúng là hết sức may mắn! Chỉ là tiểu chủ bị hoảng sợ một phen, vi thần kê vài đơn thuốc an thần, uống vào là khỏe ngay.”

Hoàng hậu cũng thở phào nhẹ nhõm, liên tục niệm Phật mấy câu rồi mới lên tiếng: “Vậy thì bản cung cũng yên tâm rồi, nếu không thì chẳng có mặt mũi nào nhìn Hoàng thượng và liệt tổ liệt tông, tội lỗi khôn xiết!”

Sắc mặt của những người khác hết sức phức tạp, không sao diễn tả được, một lát sau, Tần Phương nghi mới cười, bảo: “Chung quy là Đỗ tỷ tỷ phúc lớn, không có chuyện gì là tốt rồi!” Mọi người lúc này mới tươi cười mở miệng an ủi Đỗ Lương viện.

Hoàng hậu lại bảo: “Chân Tiệp dư bên kia cũng bị té ngã, chỉ e đã bị thương, thái y sang xem thử xem thế nào.”

Chương Di khom người vâng mệnh, xem xét tỉ mỉ rồi thưa: “Vết thương trên mặt của tiểu chủ chỉ ở ngoài da mà thôi, thoa ít thuốc là ổn. Chỉ là cánh tay cũng bị thương, phải chịu khó uống thuốc đúng giờ.” Hắn lại ngồi xuống bắt mạch cho tôi. Ánh mặt trời rọi qua song cửa, đổ bóng kỳ dị trên bộ râu hơi ngả sang màu trắng của hắn. Hắn đột ngột đứng dậy, tươi cười thưa: “Chúc mừng tiểu chủ!”

Thuần Nhi sốt ruột hét ầm lên: “Ngươi nói nhảm nhí cái gì thế, tay của Chân tỷ tỷ bị thương đến vậy mà còn chúc mừng?”

Tôi ngẩn người, tựa như thoáng hiểu ra, niềm vui bất giác tràn ngập đáy lòng nhưng vẫn chưa dám tin là thật, hỏi lại hắn: “Ngươi nói là…”

Hắn vái một vái sát đất. “Chúc mừng tiểu chủ, tiểu chủ đã mang thai được gần hai tháng rồi!” Tôi vừa bất ngờ vừa vui sướng, lập tức ngồi thẳng người dậy, cánh tay bị kéo lê đau nhói. Tôi đau quá không chịu nổi kêu lên một tiếng, Hoàng hậu vui vẻ ra mặt, lên tiếng trách móc: “Ngươi đã có thai rồi mà sao vẫn cứ hấp tấp, vội vàng như thế?” Nói xong, nàng ta hỏi kĩ lại thái y: “Thật thế ư?”

Chương Di thưa: “Thần hành y đã mấy chục năm, cũng nắm chắc được mấy phần. Bẩm Hoàng hậu, chỉ có điều Tiệp dư tiểu chủ thân thể yếu ớt, khi nãy lại vừa té ngã, bị hoảng sợ một phen, cái thai có phần không được ổn định lắm. Để thần viết vài phương thuốc an thai bồi bổ để tiểu chủ dùng, rồi nằm yên tĩnh dưỡng thì hẳn sẽ không có gì đáng ngại nữa.”

Hoàng hậu tươi cười, bảo: “Vậy thì phải phiền thái y khổ cực một phen rồi. Bản cung tin tưởng giao Chân Tiệp dư và đứa bé trong bụng nàng ta cho ngươi đó.”

Chương Di thưa: “Vi thần nhất định sẽ tận tâm tận sức.”

Hoàng hậu ngồi xuống bên cạnh tôi, ôn hòa an ủi: “Y thuật của Chương thái y rất giỏi, ngươi cứ an tâm đi!”

Tôi tủm tỉm cười, thưa: “Hoàng hậu hết lòng chiếu cố, thần thiếp vô cùng cảm kích.”

Kính Phi cũng vui vẻ nói: “Thế là tốt rồi. Hôm nay kinh hãi một phen, kết quả là Đỗ Lương viện không bị gì, Chân muội muội lại có tin cui, đúng là song hỷ lâm môn.”

Hoàng hậu luôn miệng phụ họa: “Đúng, đúng thế, Kính Phi, ngày mai ngươi cùng bản cung đến Thông Minh điện cảm tạ trời đất. Cẩn Phi, Hoa Phi cũng đi theo.”

Cẩn Phi nhướng mắt mỉm cười coi như đồng ý. Hoa Phi cười hết sức miễn cưỡng, thưa: “Thần thiếp hai hôm nay người không được khỏe, sẽ không đi đâu.”

Hoàng hậu tỏ vẻ không hài lòng, chợt nghe thấy một giọng nói yếu ớt vang lên: “Tỷ tỷ thân thể không được khỏe, Hoa Phi cũng không cảm thấy thoải mái hay sao?”

Hoa Phi bị người khác chặn ngang, lập tức sa sầm nét mặt, quay đầu lại nhìn rồi bảo: “Bản cung tưởng là ai kia… Đoan Phi nương nương đúng là nhanh chân thật!”

Mọi người nghe tiếng đồng loạt quay đầu thì thấy Đoan Phi đang bước tới. Nàng ta chẳng để ý gì đến lời của Hoa Phi. Hoàng hậu cười, bảo: “Đúng là khách quý, sao muội cũng đến đây? Hôm nay đúng là ngày lành, nhìn sắc mặt của muội cũng khỏe lên nhiều.”

Đoan Phi được thị nữ nâng đỡ, khó khăn lắm mới hành lễ xong, thưa: “Đều là nhờ vào hồng phúc của nương nương cả. Thái y dặn dò thần thiếp chịu khó đi dạo nhiều một chút dưới ánh mặt trời mùa xuân, không ngờ vừa mới đến Thượng Lâm uyển đã nghe thấy có chuyện lớn xảy ra ở chỗ của nương nương. Thần thiếp trong lòng không yên, cho nên nhất định phải ghé qua xem sao.”

Hoàng hậu đáp: “Chẳng có gì đâu, chỉ là sợ bóng sợ gió một phen mà thôi!”

Hoàng hậu có phần ngại ngùng, Đoan Phi thân mang trọng bệnh, tuy nói cười với nàng ta nhưng không cho nàng ta tiến lại gần tôi và Đỗ Lương viện. Đoan Phi cũng biết điều, chỉ hỏi thăm hai, ba câu rồi cáo từ.

Tôi nhún mình hỏi thăm Đoan Phi, nàng ta chỉ lạnh nhạt “ừ” một tiếng. Tôi để ý thấy nàng ta tuy tập trung nói chuyện với Hoàng hậu, chẳng hề nhìn sang tôi nhưng tay trái để bên hông đối diện tôi nắm chặt thành nắm đấm, cho đến lúc cáo từ mới kín đáo thò một ngón tay từ trong tay áo ra, chỉ thẳng về phía tôi, sau đó tay phải vuốt ve chiếc vòng cổ bằng vàng hình trăng khuyết đeo trước ngực, tựa hồ như vô ý liếc sang tôi một cái.

Tôi ban đầu chỉ cảm thấy lạ, cúi đầu ngẫm nghĩ rồi hiểu ra ngay.

Đoan Phi vừa bước chân đi. Huyền Lăng nhận được tin lập tức chạy ào tới nhanh như một làn gió, đi thẳng đến giường của tôi, siết chặt tay tôi, chăm chú quan sát hồi lâu rồi ánh mắt dần dừng lại nơi bụng dưới của tôi. Y cứ ngẩn ngơ ngắm tôi, chẳng để ý đến sự có mặt của mọi người, đột ngột ôm chầm lấy tôi, thốt lên: “Tốt quá! Hoàn Hoàn, thật là tốt quá!”

Tôi bị cử chỉ của y làm cho giật mình, đảo mắt nhìn sang thì thấy Hoàng hậu cúi đầu mân mê vạt áo như chẳng hề nhìn thấy, Hoa Phi mặt xanh lè, những người khác cũng lộ vẻ bất ngờ. Tôi vừa thẹn thùng vừa bối rối, vội đẩy y ra rồi thưa: “Hoàng thượng đè lên tay của thần thiếp này.”

Nửa tháng không gặp, Huyền Lăng đã gầy đi đôi chút. Y vội vã buông tôi ra, thấy trên mặt tôi có hai vết cào, vẫn còn rỉ máu, bèn đưa tay vuốt ve má tôi, âu yếm hỏi: “Sao lại bị thương thế này?”

Tôi trong lòng chua xót, nghiêng đầu che đi vết thương trên mặt, thưa: “Thần thiếp xấu xí, không dám nhìn mặt Hoàng thượng.”

Y không nói gì, lại thấy cánh tay của tôi có bôi thuốc cao, quay đầu để ý Đỗ Lương viện cũng đang uể oải nằm dài. Y bèn cau may, quát hỏi: “Chuyện gì xảy ra vậy?”

Giọng điệu của y không hề nghiêm khắc, nhưng ánh mắt sắc như dao, nhìn đến đâu tần phi cũng cúi thấp đầu im phăng phắc. Đỗ Lương viện bị một phen khiếp hãi, thấy Huyền Lăng đến nơi mà chẳng hề để ý đến mình, sớm đã ôm một bụng uất ức. Nghe Huyền Lăng hỏi vậy, nàng ta bèn nức nở kể lể đầu đuôi mọi chuyện.

Huyền Lăng vừa nghe đã nổi cơn thịnh nộ. Y chưa kịp nói gì, đám Cẩn Phi, Hoa Phi đã đồng loạt quỳ xuống. Huyền Lăng chẳng thèm nhìn bọn họ, quay sang hỏi Hoàng hậu: “Hoàng hậu thấy thế nào?”

Hoàng hậu bình tĩnh thưa: “Chuyện hôm nay hẳn là các muội muội đều không có ý gây họa.” Hoàng hậu dừng lại một chút, nhìn sang Hoa Phi rồi hời hợt buông một câu: “Hoa Phi ư, chuỗi trân châu không buộc chắc thì không thể trách nàng ta được.”

Huyền Lăng nhướng cao mày nhưng cuối cùng cũng không phản đối, chỉ lạnh lùng hạ lệnh: “Chuỗi trân châu ư? Đuổi ngay tên làm chuỗi hạt ra khỏi cung, vĩnh viễn không được phép quay trở lại. Nếu còn bị đứt thêm lần nào nữa thì chém đứt cổ hắn cho trẫm.”

Hoa Phi tỉnh bơ như chẳng liên quan đến mình, Cẩn Phi quỳ bên cạnh đã sợ đến mức run lẩy bẩy, khác hẳn với vẻ trấn tĩnh, tự nhiên ngoài vườn khi nãy. Cẩn Phi nghẹn ngào thưa: “Thần thiếp thực tình không cố ý, lúc ấy hộ giáp trên ngón tay của thần thiếp chẳng hiểu sao lại vướng vào bộ lông của Tùng Tử, hẳn là đã làm nó đau nên nó sợ hãi nhảy ra, suýt chút nữa đã làm Đỗ Lương viện bị thương.” Cẩn Phi nức nở không dứt: “Tùng Tử cào vào bàn tay thần thiếp, thần thiếp không giữ được nó, để nó phóng ra ngoài. Cũng may có Chân Tiệp dư xả thân cứu đỡ, nếu không tội thần thiếp thật lớn.” Nói xong, nàng ta chìa tay ra, trên tay phải quả nhiên có hai vết cào rõ mồn một trên bàn tay được chăm sóc kĩ càng, vừa trắng muốt vừa mềm mại.

Huyền Lăng hờ hững hỏi: “Con súc sinh Tùng Tử là do ai nuôi?”

Hoàng hậu kinh hãi vội vã quỳ xuống, thưa: “Thần thiếp có tội. Tùng Tử là do thần thiếp nuôi chơi, trước giờ vẫn ngoan ngoãn, hôm nay đột nhiên phát cuồng như vậy đúng là lỗi của thần thiếp.” Nói xong, nàng ta quay đầu, cao giọng hạ lệnh cho cung nhân bên cạnh: “Tìm con súc sinh ấy, đánh chết nó cho ta, không ngờ lại gây họa lớn thế này, tuyệt đối không thể để cho nó sống nữa!”

Cẩn Phi sợ đến mức không dám ho he một tiếng, chỉ nghe thấy tiếng gào thê lương của Tùng Tử nhỏ dần. Huyền Lăng thấy Hoàng hậu nói như vậy thì không tiện trách phạt thêm nữa, lườm Cẩn Phi một cái rồi bảo: “Ngươi cũng bị thương nhưng mối họa hôm nay cũng từ ngươi mà ra, phạt nửa năm bổng lộc, quay về cung sám hối đi!” Cẩn Phi mặt tái nhợt, hổ thẹn vô cùng, cúi đầu nức nở không dứt.

Hoàng hậu thở dài, bảo: “Chuyện hôm nay đúng là xảy ra liên tiếp, không sao ứng phó kịp. Nhưng mà Chân Tiệp dư nhà ngươi cũng quá vô tâm đi, đến chuyện mình mang thai mà cũng không biết, lại còn xông ra cứu người. Cũng may là ngươi không bị thương, nếu như có chút xíu gì không ổn thì sẽ ảnh hưởng đến đại sự huyết mạch của hoàng gia đấy.”

Tôi xấu hổ cúi đầu, Hoàng hậu quay sang trách mắng đám Cận Tịch: “Bảo các ngươi hầu hạ tiểu chủ chu đáo, tiểu chủ mang thai là việc lớn như thế mà cũng hồ đồ chẳng rõ. Nếu như hôm nay có gì sơ sót, bản cung sẽ tống hết các ngươi đến phục dịch ở Bạo thất!”

Hoàng hậu rất ít khi tức giận như vậy, tôi không khỏi phải lên tiếng giải thích giúp bọn họ: “Không liên quan gì đến bọn chúng, là do thần thiếp sơ sót không để ý. Trong người cảm thấy mệt mỏi thì cứ nghĩ là mùa xuân nên mới uể oải, kinh nguyệt trễ nửa tháng, thần thiếp trước giờ thân thể không được khỏe lắm, cũng coi đó là chuyện thường. Huống hồ bệnh dịch trong cung vẫn chưa hết hẳn, thần thiếp không muốn làm phiền đến thái y.” Tôi lại cười, nói thêm: “Thần thiếp thấy các vị tỷ tỷ mang thai đều khó chịu buồn nôn, thần thiếp chưa hề cảm thấy như vậy bao giờ.”

Tào Tiệp dư tươi cười bảo tôi: “Ai cũng khen muội muội thông minh, cuối cùng cũng có chỗ khờ dại. Triệu chứng ốm nghén ở mỗi người khác nhau, tùy thuộc vào thể chất của từng người, lúc tỷ mang thai Ôn Nghi công chúa, phải đến tháng thứ tư, thứ năm thì mới bị ốm nghén nặng cơ.”

Hoa Phi cũng hớn hở thưa với Huyền Lăng: “Hoàng thượng không có nhiều con cái, Đỗ Lương viện mang thai chưa được bao lâu, nay Chân Tiệp dư cũng có tin mừng, điều này cho thấy trời cao đã ban phúc cho Đại Chu chúng ta. Thần thiếp xin chúc mừng Hoàng thượng.”

Lời của Hoa Phi vừa khéo đúng ý của Huyền Lăng, quả nhiên y nghe xong vui mừng khôn xiết. Hân Quý tần cũng nói góp vào: “Lúc thần thiếp mang thai Thục Hòa công chúa, thái y từng đinh ninh dặn dò rằng ba tháng đầu tiên cần phải đặc biệt cẩn thận chú ý, hiện giờ Tiệp dư cần phải tĩnh dưỡng cho thật tốt, trên người vẫn mang thương tích mà.”

Mọi người nhao nhao lên tiếng phụ họa, đa phần là an ủi, khích lệ tôi. Chỉ có Cẩn Phi đứng ở một bên, nức nở không ngớt. Hoàng hậu ra lệnh: “Đưa Tiệp dư muội muội về cung trước, lệnh cho thái y chăm sóc chu đáo.”

Huyền Lăng bảo Hoàng hậu: “Hôm nay là ngày Hai mươi ba rồi, ngày Hai mươi sáu là ngày sắc phong cho Kính Phi. Trẫm lệnh cho Lễ bộ cùng ngày sắc phong Tiệp dư Chân thị làm Hoàn Quý tần, là chủ nhân Đường Lê cung, Hoàng hậu hãy lo liệu mọi thủ tục, lễ nghi còn lại.”

Hoàng hậu mỉm cười nhìn sang tôi, bảo: “Làm thế là phải, tuy có hơi gấp rút một chút nhưng thần thiếp nhất định sẽ lo liệu ổn thỏa. Huống hồ còn có Hoa Phi giúp đỡ nữa mà, Hoàng thượng có thể an tâm được rồi!” Phải nói là Hoa Phi giỏi tiết chế, vẫn giữ được nụ cười nhàn nhạt trên môi trước mặt Huyền Lăng.

Huyền Lăng mỉm cười hài lòng, cầm tay tôi, đỡ tôi đứng dậy, bảo: “Trẫm sẽ cùng nàng về cung.”

Nằm nghiêng trên giường, tôi nhìn Huyền Lăng sai phái đám Cận Tịch hết sang đông lại sang tây, gọi Lưu Chu bưng trà cho tôi, lát sau lại lệnh Hoán Bích đặt thêm hai chiếc gối để tôi nằm dựa vào cho thoải mái, rồi lại bảo Tinh Thanh đóng cửa sổ không để gió luồn vào ảnh hưởng đến tôi, còn gọi Tiểu Doãn Tử đi lấy chăn tơ tằm loại mềm mại hơn cho tôi đắp. Y khiến cho mọi người trong phòng tay chân luống cuống, nhưng ai cũng mím môi, cười thầm.

Tôi đẩy đẩy y, bảo: “Thần thiếp đâu đến nỗi ẻo lả dễ vỡ như thế! Làm nhộn nhạo khiến người chẳng được yên.”

Y vỗ vỗ đầu, hiểu ra: “Trẫm đúng là hồ đồ rồi, nàng đang dưỡng thai, đặc biệt ngại ồn ào.” Y bèn lệnh cho bọn Cận Tịch và Tiểu Doãn Tử: “Các ngươi lui ra hết đi!”

Tôi vội xen vào: “Ôi chao, Hoàng thượng đuổi hết bọn họ đi thì lấy ai hầu hạ thiếp nữa!”

Y cầm tay tôi, nhẹ nhàng đặt lên đó một cái hôn rồi dịu giọng: “Để trẫm hầu hạ nàng, thế có được không?”

Tôi cười, bảo: “Hoàng thượng nói vậy sao được chứ? Người không biết sẽ tưởng là thần thiếp kiêu kỳ, ngông cuồng mất.” Tôi chỉnh lại mũ miện bằng vàng hơi bị lệch qua một bên sau lúc chạy vội vàng khi nãy, khuyên y: “Hoàng thượng chẳng phải là lần đầu tiên nghe tin có phi tần mang thai, sao lại cao hứng đến mức này? Hiện giờ Đỗ Lương viện cũng đang mang thai mà.”

Y ôm lấy vai tôi, bảo: “Con của chúng ta, ai mà bì kịp được cơ chứ?” Y khẽ xoa xoa cánh tay bị thương của tôi. “Nàng cũng ngốc thật đấy, có không mang thai nhưng cứ xông tới cứu Đỗ Lương viện, khiến thân thể bị thương thì biết làm sao đây?”

Tôi đưa mắt nhìn cánh hoa đào cắm trong chiếc bình đặt trên trác, hoa nở rực rỡ, tủm tỉm cười, đáp: “Không phải thần thiếp cứu nàng ta, thần thiếp chỉ cứu cốt nhục của Hoàng thượng trong bụng nàng ta mà thôi!”

Y cảm động, ôm chặt lấy tôi, hàm râu lún phún của y khẽ cọ cọ vào má tôi ngưa ngứa, y dịu giọng: “Đồ ngốc! Nàng ta có mang thai thì cũng chẳng sánh được với địa vị của nàng trong lòng trẫm.”

Tôi cúi đầu nhìn, tấm chăn gấm trơn màu đỏ tươi trên có thêu hình chim phượng đậu trên cành ngô đồng bằng chỉ vàng, chỉ bạc rực rỡ, nữ nhân trong cung đều tin rằng mẫu thêu này mang ý nghĩa vợ chồng đồng lòng, gắn bó với nhau. Những mũi thêu chi chít, màu sắc chói lọi, nhìn lâu chói cả mắt, khóe mắt chợt cay cay. Đỗ Lương viện không thể so sánh với tôi, vậy Hoa Phi thì sao?

Huyền Lăng càng áp sát vào tôi, mùi hương Thiên cung xảo trên người y càng nồng đượm. Phòng tôi trước giờ luôn đốt hương nhưng cũng không át được mùi hương đậm đặc này. Thiên cung xảo là loại phấn thơm quý hiếm mà Hoa Phi ưa thích nhất, ngoài nàng ta, không ai có được.

Tôi lặng lẽ nín thở, cố không muốn ngửi thấy mùi hương của Hoa Phi lưu lại trên người y.

Y hoàn toàn chẳng hay biết gì, giọng càng lúc càng dịu dàng: “Trẫm biết mấy ngày nay nàng chịu nhiều uất ức vì chuyện của Hoa Phi.”

Tôi mỉm cười, tỏ vẻ không mấy để tâm. “Thần thiếp có gì mà uất ức cơ chứ, Hoàng thượng tấn phong Phùng Thục nghi làm phi, thần thiếp hiểu ý của người mà.”

Y đáp: “Nàng thông minh lắm, Nhược Chiêu cũng là kẻ biết điều, nàng ta tự hiểu vì sao mình được phong phi, trẫm rất yên tâm về nàng ta.”

Tôi thưa: “Kính Phi tỷ tỷ đối xử với thiếp rất tốt, tính tình lại trầm tĩnh, thần thiếp cũng rất yên tâm.”

Chúng tôi đang nói chuyện, Cận Tịch bưng chén tổ yến vào. Huyền Lăng đích thân cầm chén bón cho tôi uống, bảo: “Hiện giờ nàng đã là Quý tần rồi, theo quy chế thì phải cải tạo Oánh Tâm đường thành Oánh Tâm điện, chỉ là nàng đang mang thai, tạm thời không tiện động thổ sửa chữa.”

Tôi chầm chậm uống mấy thìa tổ yến rồi thưa: “Ở thế này đã rất tốt rồi, chỉ cần đổi tên đường thành điện là đủ. Hiện giờ quốc khố cũng khó khăn, tiết kiệm được chút nào thì cứ tiết kiệm. Có nhiều việc khác cần chi tiêu, nơi ở của thần thiếp chỉ là chuyện nhỏ, không đáng kể.”

“Chiến sự ở Tây Nam liên tục thắng lợi, anh trai của nàng góp sức không ít, anh dũng giết địch, liên tục phá mười đội quân, đến Nhữ Nam vương cũng có mấy phần e ngại y. Đợi chiến sự thành công, trẫm sẽ phong nàng làm Hoàng Phi, xây một tòa điện mới cho nàng ở.”

Tôi mỉm cười, lắc đầu. “Đường Lê cung đã là quá tốt rồi, thần thiếp cũng chẳng cần chức phi gì gì đó, chỉ cần sống bình an mãi thế này cùng Hoàng thượng và con của chúng ta.”

“Trẫm sẽ bảo vệ nàng và con của chúng ta.” Y hôn lên trán tôi, an ủi: “Nàng yên tâm đi! Trẫm đã giao binh mã cánh phải của Tây Nam đại quân cho anh trai nàng quản lý, để đảm bảo không xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Nói chung y không hề phụ lòng trông đợi của trẫm, đạt được thành tựu đáng kể như thế ngay dưới mũi của Nhữ Nam vương và họ Mộ Dung.”

Tôi gật gật đầu. “Chuyện của ca ca, thần thiếp cũng nghe ngóng được đôi chút, đây cũng là chuyện khiến thần thiếp lo lắng. Ca ca muội… chỉ cần tiến ra chiến trường là chẳng còn quan tâm gì đến tính mạng của mình.”

Y ngẫm nghĩ một lát rồi đáp: “Đó cũng là điều khiến trẫm coi trọng y. Chỉ có điều nhà họ Chân của nàng chỉ có mỗi mình y nối dõi, trẫm sẽ cho y sớm quay về kinh đô thành hôn.” Y hạ giọng, nói nhỏ bên tai tôi: “Nàng không cần phải sợ bất cứ chuyện gì, chỉ cần bồi dưỡng cho tốt rồi bình an sinh hạ hài tử là được.”

Tôi nhẹ nhàng vuốt ve vùng bụng vẫn còn phẳng lì của mình, bàn tay của y vừa to vừa ấm, đặt lên bàn tay của tôi. Tôi gần như không sao tin nổi có một sinh linh bé bỏng đang nằm trong bụng mình, thật là bất ngờ và đột ngột quá!

Tôi chầm chậm nhắm mắt lại, cuối cùng thì y cũng là phụ thân của đứa bé trong bụng tôi, nói cho cùng thì y vẫn còn quan tâm đến tôi. Tôi vừa cảm thấy được an ủi vừa cảm thấy bất lực, ngồi dựa vào vai y, cành hoa đào đặt trên án nở rộ lộng lẫy.

Hơi thở của y mỗi lúc một dồn dập, tai tôi nóng bừng, tôi đẩy y ra. “Thái y đã dặn dò, ba tháng đầu tiên phải đặc biệt cẩn thận.”

Mặt y hơi đỏ, tôi rất hiếm khi thấy y lộ vẻ ngây ngô thế này, trong lòng chợt cảm thấy an bình, thoải mái. Y đứng dậy, cầm bình trà trên trác lên, uống một hơi dài, bình tĩnh lại rồi mới quay sang cười với tôi. “Là trẫm không tốt, trẫm quên mất!” Y chợt ngẩn ra, giọng có chút hoan hỷ và hoài niệm: “Hoàn Hoàn, dạo gần đây, trẫm không thấy nàng mỉm cười vui vẻ thế này.”

Tôi ngẩng đầu rồi lại cúi xuống, chầm chậm đáp lời y: “Hoa Phi nương nương mỹ lệ vô song, Hoàng thượng còn nhớ được nụ cười của thần thiếp như thế nào sao?” Tôi không kìm được bao uất ức mấy ngày qua, một giọt nước mắt chầm chậm ứa ra nơi khóe mắt.

Y im lặng rồi lau khô dấu lệ nơi khóe mắt của tôi, dùng giọng dịu dàng mà kiên định an ủi tôi: “Trẫm sẽ không để nàng đau lòng thêm lần nào nữa.” Tôi gật đầu, đau lòng hay không vốn không phải do y, chỉ có điều y có lòng như vậy thì cũng tốt rồi.

Tôi có chút ngượng ngùng: “Mấy ngày sắp tới, thần thiếp không thể hầu hạ Hoàng thượng được, Hoàng thượng cũng không thể cứ ở bên cạnh thần thiếp mãi được, hay là Hoàng thượng đến nghỉ ở chỗ của nương nương nào khác đi!”

Y vẫn ôm tôi vào lòng, bảo: “Trẫm sẽ không làm phiền nàng nữa, chỉ lẳng lặng ở cạnh bên nàng thế này thôi, vậy có được không?”

Tôi cũng rất trân trọng giây phút an bình, yên ổn này, quấn quýt cạnh y hồi lâu, chợt nhớ ra ám hiệu của Đoan Phi trước lúc rời đi, bèn mỉm cười, khuyên y: “Đỗ Lương viện hôm nay cũng bị hoảng sợ một phen, Hoàng thượng cũng nên ghé qua thăm nàng ta.”

Y ngẫm nghĩ một lát rồi bảo: “Cũng được, ngày mai trẫm sẽ ghé thăm nàng.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

55#
 Tác giả| Đăng lúc 15-4-2016 13:38:17 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 16 (2)
Quý tần


Đêm dần về khuya, lúc chiều trời đổ mưa, đến tối thì lại tạnh khô, nửa vầng trăng khuyết ở góc trời, mông lung mờ ảo, giống như có một lớp sương mỏng bao phủ. Đằng sau sảnh không thắp đèn, ánh trăng nhàn nhạt xuyên qua rèm cửa màu ráng trời gần như trong suốt, rọi bóng lờ mờ lên người tôi. Ngoài vườn, mấy đóa hoa lê vừa hé nở đong đưa, ẻo lả dưới ánh trăng. Dưới cửa sổ, đóa mẫu đơn Thiên diệp diêu hoàng tỏa hương thơm ngát, mùi hương xuyên qua cửa sổ, ùa vào phòng.

Đúng là sắc xuân tháng Ba, hương thơm đầy trời, đến tận đêm khuya cũng không suy chuyển chút nào. Cận Tịch lặng lẽ ngồi bên tôi dưới ánh đèn. “Nương nương, nô tỳ đã theo lệnh của người mở sẵn cửa ngách, Đoan Phi nương nương sẽ ghé qua đây thật sao?”

Tôi đáp: “Có hay không thì ta cũng không biết nữa, ta chỉ đoán chừng như vậy mà thôi!” Tôi mỉm cười nhìn Cận Tịch. “Nếu nàng ta không tới thì chúng ta cùng ngắm trăng, như thế cũng tốt mà!”

Cận Tịch mỉm cười. “Nương nương hẳn là đang vui vẻ lắm!”

Tôi cười, đáp: “Ta được tấn phong làm Quý tần, quản lý sự vụ một cung, ngươi hầu hạ bên cạnh ta, cũng được thăng lên làm chính ngũ phẩm ôn nhân, chẳng phải cũng đáng vui mừng sao?”

Cận Tịch thưa: “Nô tỳ cũng nhờ phúc của nương nương và tiểu hoàng tử mà thôi!”

Tôi bảo: “Mới có hơn một tháng thôi, làm gì đã biết là công chúa hay hoàng tử cơ chứ?”

Cận Tịch vươn tay dùng thìa bạc khêu tim nến. “Hoàng thượng tuy không nói ra miệng nhưng trong lòng thì khao khát muốn có thêm một hoàng tử lắm, hiện giờ hoàng trưởng tử lại…” Nàng ta không nói thêm nữa, nhìn sang tôi. “Nương nương hôm nay xông ra cứu Đỗ Lương viện như vậy, nô tỳ sợ đến thót cả tim, đúng là quá nguy hiểm, người và Đỗ Lương viện lại chẳng thân mật cho lắm!” Tôi hiểu ý thắc mắc trong lời nói của nàng ta.

Tôi chậm rãi vuốt ve hình thêu phức tạp trên vạt áo, trầm ngâm hồi lâu rồi mới nói: “Nếu như ta nói có người đẩy ta ra đó, ngươi có tin hay không? Ta đoán kẻ đẩy ta vốn có ý ép ta đâm thẳng vào bụng của Đỗ Lương viện, một khi Đỗ Lương viện sảy thai, vậy thì ta trở thành đầu sỏ tội phạm rồi!” Tôi cười lạnh. “Đúng là độc kế, một mũi tên hạ hai con chim!”

Cận Tịch nghe tôi giải thích không hề cảm thấy bất ngờ, hẳn là nàng ta đã đoán như thế. “Tranh đấu chốn hậu cung, phi tần mang thai lúc nào cũng là mục tiêu của mọi người, hôm nay là Đỗ Lương viện, ngày mai không chừng lại là nương nương đó.”

Tôi vuốt ve chiếc vòng tay bạch ngọc sáng lấp lánh trên cổ tay, bình thản tự giễu: “Chỉ e đêm nay vì chuyện ta mang thai mà có rất nhiều người không thể ngủ yên.”

Cân Tịch nói hùa theo: “Dẫu không có chuyện nương nương mang thai, bọn họ cũng không ngủ được vì cái thai của Đỗ Lương viện rồi!”

Đang nói chuyện, tôi chợt nghe thấy Tiểu Doãn Tử đứng bên ngoài nhỏ giọng thưa: “Nương nương, đến rồi!”

Tôi đưa mắt ra hiệu cho Cận Tịch, nàng ta bèn đứng dậy, ra mở cửa, chỉ thấy cửa kẽo kẹt mở ra, hai nữ nhân khoác áo choàng màu lục sẫm lách người tiến vào. Bên dưới chiếc nón rộng vành là sa che mặt màu đen nhạt phất phơ, mềm mại, nhìn thoáng qua cứ tưởng là cung nữ phụng mệnh đi ra ngoài buổi đêm. Một người trên tóc cài một chiếc lược hình chim sẻ vàng đính bảo thạch, phía cuối gắn một chuỗi tua rua, cọ vào mạng che mặt loạt xoạt. Tôi bèn mỉm cười, lên tiếng: “Đoan Phi nương nương quả nhiên đúng hẹn.”

Người này vén mạng che mặt lên, để lộ khuôn mặt ủ ê bệnh tật, nhàn nhạt mỉm cười. “Bản cung đúng là vô dụng, đường từ Phi Hương điện đến đây chẳng xa xôi gì, thế mà phải đi lâu như vậy mới đến.”

Tôi vội mời nàng ta ngồi xuống, ra hiệu cho Tiểu Doãn Tử ra ngoài canh gác. Nàng ta thấy tôi vẫn chưa tẩy trang mặc áo ngủ, bèn gật gù khen: “Quý tần cũng thông minh đấy, hiểu ngay ám hiệu của bản cung.”

Tôi đáp: “Tần thiếp chẳng qua chỉ đoán mò mà thôi, nương nương dùng tay chỉ trăng, giơ một ngón tay ra, do đó thần thiếp đoán rằng nương nương sẽ đến vào khoảng canh một khi trăng lên, cho nên mới thắp đèn chờ sẵn.” Tôi đợi nàng ta uống xong chén trà, nghỉ ngơi một lát rồi mới hỏi: “Nương nương đến thăm lúc đêm hôm, không biết có phải vì chuyện xảy ra hồi sáng hay không?”

Nàng ta mím môi không đáp, tôi biết nàng ta cố kỵ Cận Tịch đứng bên, bèn giải thích: “Lúc này, người ở trong phòng không phải là tâm phúc của tần thiếp thì cũng là tâm phúc của nương nương, nương nương cứ nói thẳng ra.”

Nàng ta thoáng trầm tư rồi đặt một sợi tơ mảnh trắng muốt trên có xỏ hai hạt trân châu xuống trước mặt tôi, bảo: “Xin Quý tần để ý quan sát cho kĩ.”

Tôi không hiểu nàng ta có ý gì, bèn cầm sợi tơ đưa lên trước ánh nến xem đi xem lại mấy lượt rồi nghi hoặc hỏi lại: “Hình như đây là chuỗi hạt mà Hoa Phi đeo hôm nay?” Vừa nói xong, tôi lập tức hiểu ra, sợi tơ dùng để xỏ trân châu đa phần được bện từ tám hay mười sáu sợi nhỏ, để bảo đảm có thể chịu được sức nặng của các hạt châu. Chuỗi hạt mà Hoa Phi đeo hôm nay, hạt châu nào cũng vừa to vừa tròn, ít nhất cần đến mười sáu sợi tơ nhỏ bện thành mới có thể giữ được chúng, thế nhưng sợi tơ trước mặt tôi chỉ được bện từ bốn sợi tơ nhỏ, tôi thầm kinh hãi, lên tiếng hỏi Đoan Phi: “Nương nương nhặt được trong vườn ở cung của Hoàng hậu hay sao?”

Đoan Phi nửa cười nửa không, đáp: “Không sai, ai cũng bận bịu để ý đến Đỗ Lương viện và ngươi, thứ này là bản cung nhặt lấy.” Nàng ta khẽ uống một ngụm trà, chậm rãi tiếp: “Hoa Phi đúng là cẩn thận mấy cũng vẫn sơ sót.”

Tôi hơi nhướng mày, hờ hững thốt lên: “Hèn gì chuỗi hạt trân châu của Hoa Phi vừa móc phải cành hoa đã đứt ngay. Nàng ta đúng là cố ý mà!”

Sợi dây tơ xỏ hai hạt trân châu còn sót lại tỏa ánh sáng lạnh lùng dưới ánh nến. Tôi nhớ lại tình cảnh nguy hiểm trong vườn của Hoàng hậu hôm nay, nếu như Đỗ Lương viện giẫm phải mấy hạt trân châu vương vãi dưới đất rồi ngã lăn ra thì hậu quả không sao tưởng tượng được… Tôi bất giác thò tay vuốt ve bụng dưới của mình, hiện giờ trong bụng của tôi có một sinh mệnh nhỏ bé đang lớn dần, thỏ chết cáo thương, tôi cảm thấy kinh hồn bạt vía…

Tôi bất giác sinh lòng cảm kích Đoan Phi, thành khẩn thưa: “Đa tạ nương nương nhắc nhở!”

Ánh mắt dịu dàng của nàng ta dừng lại nơi bụng dưới của tôi, vẻ mặt cũng trở nên ôn hòa, hồi lâu sau, nàng ta mới xuýt xoa: “Bản cung một là muốn nhắc nhở ngươi, hai là… đứa bé trong bụng ngươi vô tội. Con trẻ là tâm huyết, tinh hoa của người mẹ, bản cung nhìn cảnh mà không nỡ lòng, coi như là tích phúc cho đứa bé này vậy.”

Tôi hết sức cảm động, Đoan Phi có lãnh đạm tránh đời đến đâu nhưng vẫn thật lòng yêu thương con trẻ, không hề giận chó đánh mèo, dẫu đó là Ôn Nghi công chúa, con của Tào Tiệp dư, người mà nàng ta khinh ghét. Tôi đứng thẳng người dậy, cung kính hành lễ với nàng ta. “Tần thiếp đa tạ nương nương đã rủ lòng thương đứa trẻ trong bụng.”

Mắt của Đoan Phi hơi đỏ nhưng nàng ta lập tức dùng khăn tay che mất, bình tĩnh đáp: “Đã nói đến mức này, bản cung cũng không ngại cho ngươi biết một chuyện nữa, nghe nói chuỗi hạt này là do Tào Tiệp dư dâng cho Hoa Phi đấy!”

Tôi ngẫm nghĩ hồi lâu, càng nghĩ càng cảm thấy đến giữ vẻ mặt tươi cười cũng thật sự khó khăn, mũi hộ giáp vốn được mài vừa nhọn vừa sắc, tôi khẽ vạch vạch lên đường viền hoa của chiếc khăn trải bàn. “Tào Cầm Mặc còn khó chơi hơn Hoa Phi nhiều. Người này như một lưỡi dao vô hình, tần thiếp mấy lần giao chiến với nàng ta, suýt chút nữa thì bị thua thiệt!”

Đoan Phi khẽ cười. “Nếu nói Hoa Phi là hổ dữ thì Tào Cầm Mặc chính là vuốt sắc của con hổ dữ đó. Nhưng ả ta nói cho cùng cũng chưa hoàn toàn chiến thắng khi giao đấu với nhà ngươi, phải không?” Đoan Phi đột nhiên thu lại nụ cười, nghiêm mặt, nói tiếp: “Chỉ cần biết lưỡi dao đang nằm trong tay kẻ nào thì dẫu vô hình hay cố ý đều có thể cẩn thận né tránh. Chỉ sợ mình bị hãm hại mà vẫn không biết đối thủ là kẻ nào thì mới thực sự đáng sợ.”

Vì phải gằn từng tiếng nên khuôn mặt tái nhợt của Đoan Phi chợt ửng đỏ, nàng ta cố kìm nén không ho thành tiếng, cổ họng nghẹn cứng, thở hổn hển, thị nữ đứng hầu bên cạnh lập tức lấy một viên thuốc, đưa cho nàng ta uống.

Tôi hỏi: “Nương nương rốt cuộc là mắc bệnh gì thế, sao lâu như vậy mà vẫn chưa khỏi? Tần thiếp có biết một vị thái y chẩn mạch rất giỏi, hay để tần thiếp giới thiệu chữa trị cho nương nương?”

Đoan Phi lúc này hơi thở có phần bình tĩnh trở lại, xua tay. “Không cần Quý tần phí tâm. Năm xưa cơ thể bản cung bị tổn thương, hiện giờ thuốc thang vô hiệu, chỉ có thể nghỉ ngơi, an dưỡng mà thôi.”

Nghe nàng ta trả lời như vậy, tôi cũng không tiện khuyên thêm. Tiễn Đoan Phi ra về theo lối cửa ngách xong, nhất thời tôi và Cận Tịch không ai mở miệng nói chuyện, chỉ trầm lặng. Cũng bởi chúng tôi hiểu rõ hoàn cảnh hiện giờ hiểm ác đến mức nào, đâu đâu cũng là dao kiếm.

Cận Tịch hầu hạ tôi thay áo đi ngủ, nửa quỳ trên bục đặt trước giường, khuyên tôi: “Nương nương không cần lo lắng nhiều, như vậy sẽ ảnh hưởng đến tinh thần. Một khi đã biết là Hoa Phi và Tào Tiệp dư bày trò, chúng ta để ý hơn một chút, binh đến tướng đỡ là được.”

Tôi dựa vào chiếc gối mềm, bảo: “Đoan Phi lúc đó không có mặt trong vườn nên chỉ biết một mà thôi, chẳng lẽ lúc đó ta không chú ý quan sát xung quanh hay sao?”

Cận Tịch hơi ngạc nhiên, hỏi lại: “Ý của nương nương là…”

“Hoa Phi làm đứt chuỗi hạt, suýt chút nữa đã khiến Đỗ Lương viện trượt ngã, khó khăn lắm mới đứng vững được nhưng Tùng Tử trong tay Cẩn Phi lại đột nhiên náo loạn xông ra ngoài, như thế chẳng phải là kỳ quái lắm sao? Đương nhiên, mùa xuân, con mèo nào tính tình cũng nóng nảy hơn nhưng Tùng Tử đã được dạy dỗ cẩn thận, vì sao vừa lọt vào tay nàng ta đã làm người khác bị thương được?”

Cận Tịch đang gấp quần áo cho tôi, nghe thấy vậy, tay không khỏi sững lại. “Ý của nương nương là…”

Tôi cúi xuống, bảo: “Cẩn Phi là phi tần duy nhất trong hậu cung có con trai…”

Cận Tịch thưa: “Nhưng bình thường xem ra Cẩn Phi nương nương hết sức cẩn thận, dè dặt, chỉ cầu an thân mà thôi!”

Tôi thở ra một hơi, bảo: “Cũng mong là ta quá đa nghi mà thôi! Ta chỉ cảm thấy Hoàng thượng không có nhiều con trai nối dõi, nếu quả thực có người cố ý muốn hãm hại thì tuyệt nhiên không phải là tác phẩm của một người đâu.” Tôi ngẫm nghĩ một lát rồi hỏi: “Ngươi thấy Đoan Phi thế nào? Thực ra nàng ta lánh đời đã lâu, thực tình không cần nhúng tay vào vũng nước đục này.”

Cận Tịch cất đám y phục đã gấp ngay ngắn vào trong rồi chậm rãi thưa: “Nô tỳ vào cung đã lâu, tuy không có mấy dịp tiếp xúc với Đoan Phi nương nương nhưng nô tỳ cảm thấy Đoan Phi nương nương không giống như là có ý hãm hại nương nương. Nhưng mà Đoan Phi nương nương cũng tuyệt đối không phải là người dễ bị lấn át.”

Tôi nghiêng người nằm xuống. “Đúng thế, do đó ta hết sức cung kính với nàng ta, luôn giữ đúng lễ nghi. Ta cũng biết, người trong cung làm chuyện gì cũng có mục đích riêng, chắc hẳn Đoan Phi giúp đỡ ta một phần cũng là vì bất hòa với Hoa Phi.”

Cận Tịch đáp: “Đúng thế thật!” Nói xong, nàng ta thổi tắt ngọn nến rồi cũng nằm xuống ngủ, chỉ còn lại ánh trăng bồng bềnh trước giường, xen lẫn bóng hoa lay động.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

56#
 Tác giả| Đăng lúc 15-4-2016 14:02:08 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 17 (1)
Thư ngân giao


Sáng sớm hôm sau tôi vừa đến thỉnh an Hoàng hậu thì Hoàng hậu đã tươi cười hạ lệnh cho cung nhân ngăn tôi lại, nói: “Hoàng thượng đã bảo rồi, không để cho ngươi hành lễ nữa, cứ ngồi yên ở đó là được.” Tôi đành phải vâng theo, Hoàng hậu lại nói tiếp: “Sáng nay, Hoàng thượng đích thân báo cho Thái hậu tin ngươi mang thai, Thái hậu rất vui mừng, lát nữa ngươi hãy theo bản cung đi thỉnh an Thái hậu.”

Tôi cúi đầu vâng dạ. Đến Di Ninh cung, Thái hậu rất vui vẻ, đang đích thân cầm bình nước tưới cho hoa cỏ ngoài vườn, thấy tôi và Hoàng hậu cùng đến thì càng vui mừng, rửa tay rồi cùng vào bên trong.

Tôi theo lễ đứng hầu trước mặt Thái hậu. Thái hậu nói: “Người khác đứng đó còn được, ngươi đang mang thai, hãy ngồi xuống đi!”

Lúc ấy, tôi mới tạ ơn rồi ngồi xuống. Thái hậu hỏi Hoàng hậu: “Ngày hôm sau là ngày sắc phong rồi phải không, đã chuẩn bị đến đâu rồi?” Nói xong, bà liếc nhìn tôi rồi nói với Hoàng hậu: “Quý tần có thể tính là chủ tử thực sự rồi, phải thi hành lễ sắc phong, chỉ có điều ngày quá cận kề, không khỏi có phần vội vã.”

Tôi vội đứng dậy, thưa: “Thần thiếp không dám đòi hỏi gì quá đáng, tất cả đều nghe theo ý chỉ của Thái hậu và Hoàng hậu.”

Thái hậu nói: “Ngươi cứ ngồi xuống đi, ai gia biết ngươi là người hiểu chuyện, chỉ có điều, tuy thời gian cấp bách thật nhưng không thể làm mất thể diện được.”

Hoàng hậu cười bồi. “Mẫu hậu an tâm. Thần thiếp đã chuẩn bị đâu vào đó cả rồi. Chỉ có lễ phục và mũ miện cho lễ sắc phong Hoàn Quý tần là không làm kịp, thần thiếp bèn lệnh cho Lễ bộ dùng tạm lễ phục và mũ miện của Kính Phi lúc được tấn phong thục nghi, sửa lại một ít là xong.”

“Được!” Thái hậu gật đầu, nói: “Hoàng hậu làm vậy rất tốt, việc gấp thì phải tòng quyền, lại không ảnh hưởng đến lễ nghi.” Nói xong, bà ra hiệu cho cung nữ bưng ra chiếc mâm bạc có lót một tấm lụa đỏ rực, bên trên đặt một chiếc trâm hợp hòa như ý bằng vàng ròng có khắc hoa văn hình hoa sen, chữ song hỷ và hình dơi, ở đầu trâm có chạm hình Hợp hòa nhị tiên, nhìn kĩ thì chính là cây trâm mà Thái hậu từng ban cho My Trang lúc tỷ ấy mang thai. Ngày đó, Huyền Lăng trong cơn tức giận đã ném nó xuống đất khiến một góc trâm bị vỡ, hiện giờ đã dùng ngọc bích chạm lại như cũ. Thái hậu vẫy tay gọi tôi bước tới gần rồi tươi cười, nói: “Lúc Đỗ Lương viện mang thai, ai gia ban cho nàng ta một đôi vòng hương châu ngọc bích, bây giờ thì ban cho ngươi chiếc trâm hợp hòa như ý bằng vàng ròng này vậy.”

Tim tôi chợt giật thót, lập tức nghĩ đến bao nhiêu tai họa My Trang gặp phải khi tưởng là mình mang thai, chỉ cảm thấy cây trâm này có chút không may mắn. Nhưng trong lúc tôi đang ngẩn người, Thái hậu đã cài cây trâm lên mái tóc của tôi rồi cười, khen: “Đúng là đẹp thật!”

Tôi vội định thần, nhún mình tạ ơn. Hoàng hậu cười, nói: “Mẫu hậu đúng là thương Hoàn Quý tần quá. Năm xưa Cẩn Phi mang thai, mẫu hậu chỉ thưởng cho nàng ta một miếng ngọc bội.”

Cứ như vậy trò chuyện hồi lâu, Thái hậu còn dặn dò tôi mấy chuyện giữ thai, bồi bổ rồi mọi người mới chia tay, ai về cung người nấy.

Quay trở lại Oánh Tâm đường, tôi đang định thay bộ y phục thường ngày thì phát hiện trên bàn trang điểm có rất nhiều chai lọ, nổi bật nhất là một chiếc hộp nhỏ bằng ngọc đen, bề mặt nhẵn nhụi có vẽ hình hoa cúc bằng bột phấn màu xanh biếc. Tôi mở ra xem thì hóa ra là một hộp thuốc mỡ trong suốt, có mùi hương thơm mát, bất giác lên tiếng hỏi: “Đây là thứ gì?”

Cận Tịch mỉm cười, thưa: “Đây là Ngọc lộ quỳnh chi cao, Hoàng thượng vừa sai người đưa đến, nghe nói dùng để trị sẹo rất tốt.” Lại chỉ sang một chiếc hộp nhỏ màu hồng khác. “Đây là Phục nhan như ngọc sương, dùng để cầm máu.” Nàng ta lần lượt mở từng chiếc lọ, giải thích cho tôi, đa phần đều là thuốc để chữa vết thương trên mặt, tất cả đều do Huyền Lăng ban tặng.

Tôi ngồi xuống trước gương, vuốt ve vết thương trên mặt. Cũng may hôm qua Tùng Tử không đâm thẳng vào người tôi, lực đạo giảm đi đôi chút nên vết cào này cũng không sâu lắm. Chỉ có điều, hai vết thương đỏ sậm nằm ngang bên dưới tai trái, nhìn thật đáng sợ, chẳng khác gì hai vết máu bẩn trên mặt tuyết trắng trong.

Cận Tịch trầm lặng hồi lâu rồi thưa: “Chuyện hôm qua, đến giờ nô tỳ nghĩ lại vẫn còn thấy sợ. Nương nương đã mang thai rồi, về sau chuyện gì cũng phải thật cẩn thận mới được!”

Tôi “ừ” một tiếng rồi đưa mắt nhìn nàng ta, nàng ta hiểu ý, đáp ngay: “Thức ăn nước uống của nương nương, nô tỳ sẽ đặc biệt để ý. Hôm qua Hoàng thượng đã điều một tay đầu bếp từ Ngự thiện phòng sang đây, chuyên lo liệu nấu nướng cho nương nương, tuyệt đối không qua tay bất cứ kẻ nào khác. Thuốc mà nương nương dùng cũng do một tay Chương thái y chuẩn bị. Chương thái y là người lão luyện, từng trải, hẳn là sẽ không sơ sót gì đâu.”

Nghe vậy tôi mới an tâm, thay chiếc áo ngắn tay bằng sa mỏng màu khói lam nhạt, dưới vận chiếc váy lụa màu hồng đào thướt tha, dịu dàng. Ngắm hoa một hồi, tôi cảm thấy hơi mệt bèn ngả người xuống giường quý phi nghỉ ngơi một lát. Trong lúc mơ màng, tôi cảm thấy trước mặt thấp thoáng có bóng người đang ngồi, mở mắt nhìn kĩ, thân hình gầy guộc đó chính là Lăng Dung.

Nàng ta mỉm cười. “Thấy tỷ tỷ ngủ ngon quá, muội muội không dám đánh thức tỷ dậy.”

Tiết trời mùa xuân se lạnh, Lăng Dung chỉ mặc chiếc áo màu xanh sẫm đơn giản, nhìn kĩ mới thấy hoa văn chìm màu trắng xanh. Nàng ta búi tóc thành hình xoắn ốc đơn giản nhất, trên có cài chiếc trâm bạc hình hoa phẳng chạm mã não đỏ sậm và vài đóa châu hoa li ti màu trắng bạc, trông càng giống liễu mềm đong đưa trong gió, yếu ớt đáng thương.

Nàng ta vừa dứt lời, tôi bất ngờ kinh hãi đến biến sắc mặt. Lăng Dung vốn nhờ tiếng ca mà được sủng ái, giọng nói uyển chuyển tựa chim hoàng oanh líu lo, không ngờ trận phong hàn này lại nặng đến mức khiến cổ họng của nàng ta bị hỏng nặng, giọng khàn khàn khó nghe chẳng khác nào ống sáo bị rè.

Lăng Dung tựa hồ cũng nhìn ra vẻ kinh ngạc của tôi, nét mặt sa sầm như tự thương thân mình rồi chậm rãi lên tiếng: “Làm tỷ tỷ giật mình rồi! Bộ dạng Lăng Dung thế này thực sự là không nên ra khỏi cửa.”

Tôi vội nắm lấy tay nàng ta, hỏi: “Sao chỉ bị bệnh phong hàn thôi mà lại tệ như thế này chứ? Thái y cũng không chữa được sao?”

Nàng ta khẽ gật đầu, mắt hơi đỏ, miễn cưỡng mỉm cười, đáp: “Thái y nói bị bệnh phong hàn dây dưa không dứt nên dùng thuốc nặng một chút, kết quả là cổ họng thành ra thế này.”

Tôi tức giận nói: “Thái y gì mà hồ đồ như vậy! Muội vốn đã ốm yếu, sao có thể sử dụng loại thuốc hổ lang đó chứ? Giờ biết phải làm sao đây? Tỷ phải lập tức bẩm báo với Hoàng hậu, đuổi tay thái y đó đi!” Nói xong, tôi liền xoay người ngồi dậy, tìm hài mang vào.

Lăng Dung vội cản tôi lại, khuyên: “Tỷ tỷ đừng đi mà, là do muội sốt ruột muốn khỏi bệnh sớm nên mới nhờ thái y dùng thuốc nặng, không liên quan đến thái y đâu.”

Tôi thở dài. “Nhưng giọng muội thành ra thế này… Hoàng thượng nói thế nào?”

Lăng Dung cười khổ, vuốt ve vạt áo rồi thờ ơ đáp: “Bệnh phong hàn vừa khỏi được hai hôm, Hoàng thượng có triệu muội đến Nghi Nguyên điện ca hát, chỉ tiếc là muội không cất tiếng hát được, Hoàng thượng liền lệnh cho muội chịu khó nghỉ ngơi, cứ lặp lại hai lần như vậy, Hoàng thượng không triệu muội đến nữa.” Giọng nói của nàng ta hết sức lãnh đạm, bình hòa, tựa hồ đang thao thao kể chuyện của một người chẳng liên quan đến mình.

Tôi giật mình hỏi lại: “Chuyện xảy ra lúc nào? Thế mà tỷ chẳng hay biết gì cả.”

Lăng Dung bình tĩnh đáp: “Chẳng phải chuyện tốt đẹp gì, sao phải để mọi người biết chứ!”

Tôi không khỏi đau lòng. “Nhưng như vậy thì khổ cho muội quá!”

Hai người chúng tôi ngồi đối diện nhau hồi lâu, ai cũng ôm bầu tâm sự của riêng mình. Lăng Dung đột nhiên mỉm cười, nói: “Cứ mãi nói chuyện của muội khiến cho tỷ tỷ đau lòng, suýt quên lý do muội ghé qua hôm nay.” Nàng ta đứng dậy, nhún mình hành lễ: “Nghe nói tỷ tỷ đã mang thai, muội muội trước tiên xin chúc mừng tỷ tỷ!”

Tôi cười, nói: “Tỷ muội ta mà còn khách sáo làm gì cơ chứ?”

Lăng Dung lại nói tiếp: “Hôm qua nghe nói tỷ tỷ bị thương, muội sợ hết hồn, không biết nên làm sao mới phải. Muội vốn định lập tức chạy đến thăm tỷ tỷ nhưng lại vừa uống thuốc nên không thể ra gió, đành nhẫn nhịn đợi đến giờ mới sang được, tỷ tỷ đừng trách muội nhé! Tỷ tỷ đã đỡ hơn chút nào chưa?”

Tôi đang soi gương chải mái tóc dài bồng bềnh như mây, nghe nàng ta nhắc đến chuyện kinh hãi hôm qua, trong lòng hậm hực, gõ mạnh chiếc lược “cộp” một tiếng xuống bàn trang điểm bằng gỗ hoa lê, dư âm dai dẳng. Lăng Dung vội lên tiếng khuyên nhủ: “Tỷ tỷ đừng tức giận, con súc sinh Tùng Tử đó đã bị đánh chết rồi, nghe nói Đỗ Lương viện bị sợ hãi một phen, để trả hận, nàng ta lệnh cho người băm nát cả bốn móng vuốt của nó.”

Tôi đặt chiếc lược xuống, nói: “Tỷ không hận Tùng Tử, tỷ hận là có kẻ sai khiến Tùng Tử đâm bổ vào người tỷ.”

Lăng Dung ngẫm nghĩ hồi lâu rồi lên tiếng: “Sau khi dò hỏi đầu đuôi câu chuyện, muội muội suy nghĩ cả nửa ngày trời, nếu chuyện này không phải là bất trắc ngoài ý muốn thì nhất định có người xúi giục. Chỉ là muội vẫn không hiểu, các vị nương nương và tiểu chủ đều có mặt ở đó, vì sao Tùng Tử trong tay Cẩn Phi chỉ nhào vào người Đỗ Lương viện, chẳng lẽ trên người Đỗ Lương viện có gì khác thường hay sao?”

Tôi cúi đầu suy nghĩ hồi lâu rồi vỡ lẽ kêu lên: “Tỷ từng ngửi thấy mùi hương trên người Đỗ Lương viện rất đặc biệt, nghe nói là Hoàng thượng ban cho nàng ta hồi tháng trước, chỉ mỗi mình nàng ta là có mùi hương ấy mà thôi.”

Lăng Dung đáp: “Thế thì đúng rồi. Cẩn Phi nương nương am hiểu cách huấn luyện mèo, các nương nương, tiểu chủ khác nếu sinh được con trai thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoàng trưởng tử. Cẩn Phi nương nương là mẹ ruột của hoàng trưởng tử, đương nhiên sẽ không chịu ngồi yên. Đó chỉ là suy đoán của muội muội mà thôi, nhưng sau này tỷ tỷ phải thật cẩn thận mới được. Hôm qua là Đỗ Lương viện, về sau chỉ e bọn họ sẽ chăm chăm nhắm vào tỷ.”

Tôi thấy nàng ta nói cũng có lý, không khỏi cảm thán Lăng Dung ngây thơ thuở trước nay tư duy đã sắc bén hơn rồi. Tôi bất giác chăm chú nhìn nàng ta một hồi rồi gật đầu đồng ý.

Lăng Dung thấy tôi nhìn như vậy thì có chút ngượng ngùng, bối rối thưa: “Lời của muội muội chỉ là suy nghĩ hồ đồ của bản thân, tỷ tỷ có gì mà không biết cơ chứ? Muội muội chẳng khác gì giở trò múa búa trước cửa Lỗ Ban [1].”

[1] Có nghĩa là múa rìu qua mắt thợ.

Tôi chậm rãi thốt lên: “Nếu không phải muội gần gũi với tỷ thì đương nhiên đã chẳng nói những lời này rồi, sao lại hồ đồ cơ chứ!”

Nghe vậy, Lăng Dung hơi cúi thấp đầu, lúc ngẩng lên thì trên môi đã nở một nụ cười bình đạm. Nàng ta nhích người lại gần, quan sát vết thương của tôi rồi nói: “Đã bắt đầu lên da non rồi, chỉ cần không lưu lại sẹo thì tốt!”

Tôi sờ vào vết thương trên mặt, nói: “Không có gì đáng lo đâu, thái y đã xem qua rồi, Hoàng thượng cũng ban thuốc mỡ cho tỷ, chắc chỉ cần bôi vài ba hôm là lành lại thôi.”

Lăng Dung hơi ngẩn người, nhìn qua đám thuốc mỡ Huyền Lăng ban thưởng cho tôi rồi nói: “Thuốc do Hoàng thượng ban thưởng thì hẳn là thứ tốt rồi, chỉ có điều một là tỷ tỷ đang mang thai, không phải loại thuốc nào cũng có thể tùy ý sử dụng, hai là thuốc của Hoàng thượng có vài loại là do phiên bang tiến cống, chưa hẳn đã hợp với thể chất của chúng ta, tỷ tỷ nói như vậy có đúng không?”

Tôi nghĩ một lát, thấy cũng có lý, bèn gật đầu, nói: “Muội nói vậy cũng đúng!”

Nàng ta lấy một chiếc hộp sứ tròn nhỏ bằng men có vẽ hoa tinh cảo từ trong tay áo ra, nói: “Hộp Thư ngân giao này là loại thuốc gia truyền của nhà Lăng Dung. Nghe đồn năm xưa ái phi Đặng phu nhân của Ngô chủ Tôn Hòa bị ngọc như ý làm bị thương ở mặt, cũng nhờ vào loại thuốc này mà giữ được nhan sắc. Theo phương thuốc cổ thì lấy keo xương cá, hổ phách, bột trân châu, tủy rái cá, ngọc vụn và mật ong tán nhỏ, trộn với nhau, thêm vào nước hoa đào để lắng rồi chế thành.” Nàng ta kể vanh vách từng thứ một. “Hoa đào và bột trân châu làm sáng và ẩm da, giúp làn da thêm đẹp, keo xương cá, mật ong giúp da bóng láng, ngọc vụn và hổ phách làm liền vết thương, phẳng vết sẹo, trong đó thì tủy rái cá là quý giá nhất, có tác dụng làm mờ sẹo.”

Nắp hộp sứ được vẽ hình hoa nở bốn mùa bằng mực vàng, nét vẽ hết sức tinh xảo. Bên trong hộp là thuốc mỡ màu trắng muốt gần như trong suốt, mùi hương thơm mát. Chạm tay vào thì thấy mát lạnh. Tôi không khỏi kinh ngạc. “Những thứ khác không nói đến, tủy rái cá vốn rất hiếm có, chỉ e trong cung cũng chẳng tìm được. Rái cá chỉ sinh sống ở sông Phú Xuân, bản tính nhút nhát, thấy có người đến là nhảy ngay xuống hốc đá dưới đáy nước, rất khó bắt. Chỉ vào dịp tế cá hằng năm, đám rái cá vì tranh đoạt bạn tình nên thường đấu đá nhau, có con vì thế mà chết, xương vụn nằm lại trong hốc đá, lúc đó mới lấy được một ít tủy xương. Còn phải chọn đúng thời điểm, nếu không thì chỉ còn lại bụi xương mà thôi, tuy cũng có tác dụng nhưng dược lực kém tủy xương rất nhiều.”

Nghe tôi nói xong, Lăng Dung tủm tỉm cười, khen: “Tỷ tỷ biết nhiều hiểu rộng, nói đâu đúng đó. Muội vốn còn định thêm vào chút hương liệu để mùi hương ngọt ngào hơn, nhưng nghĩ tới chuyện tỷ tỷ đang mang thai, không tiện dùng hương liệu nên dùng hoa tươi để điều chỉnh mùi hương, như thế thì tỷ tỷ sẽ không ngửi thấy mùi thuốc nữa.” Nói xong nàng ta đưa chiếc hộp sứ đến sát mũi tôi. “Tỷ tỷ ngửi thử xem có thích không?”

Tôi khẽ hít một hơi, quả nhiên mùi hương rất nồng nàn, tựa như đang đứng giữa biển hoa trong Thượng Lâm uyển ngày xuân. Tôi hài lòng mỉm cười. “Thích thì thích lắm đấy, chỉ là quý giá quá, tỷ sao dám nhận cơ chứ?”

Lăng Dung đặt tay lên tay tôi, tha thiết nói: “Thứ gì của Lăng Dung cũng là của tỷ tỷ, chỉ cần vết sẹo của tỷ tỷ lành lại thì muội đã an tâm lắm rồi. Chẳng lẽ tỷ tỷ muốn thấy muội lúc nào cũng phập phồng lo lắng hay sao?” Lăng Dung sốt ruột, giọng nói càng thêm khàn khàn.

Tôi nghe mà đau lòng, lại thấy nàng ta tha thiết như vậy, đành nhận lấy cho nàng ta vui lòng.

Lăng Dung lại dặn dò thêm: “Mặt tỷ tỷ đang bị thương, hiện giờ đang độ xuân sang, phấn hoa dính nhiều tro bụi, bệnh dịch chưa hết hẳn, trong cung chỗ nào cũng đốt lá ngải, bụi bặm bay khắp nơi, nếu không cẩn thận dính phải thì sẽ ảnh hưởng đến vết thương đang lên da non. Hơn nữa, loại Thư ngân giao này sau khi thoa lên mặt thì kỵ ra gió, tỷ tỷ nhớ che mặt lại thì tốt hơn.”

Tôi vô cùng cảm kích tấm chân tình của nàng ta, mỉm cười, nói: “Muội đúng là chu đáo thật, thái y cũng nói vết thương trên mặt tỷ kỵ bụi bặm và phấn hoa.”

Ánh mắt Lăng Dung chợt buông lơi một thoáng, tựa như từng tầng mây mù được vén lên, trong sáng ung dung. Nàng ta cười, nói: “Như thế thì tốt quá. Tỷ tỷ nghỉ ngơi cho khỏe, muội muội xin cáo từ trước!”

Ăn xong bữa tối, rảnh rỗi chẳng biết làm gì, tôi vừa cầm kim lên thêu được mấy mũi Xuân sơn đồ thì Bội Nhi chạy lại châm trà rồi thưa: “Nương nương giờ vẫn còn thêu món này sao? Vừa ảnh hưởng đến mắt lại vất vả nữa, cứ giao cho nô tỳ làm là được.”

Đúng lúc đó, Hoán Bích bước vào đổi hoa tươi cắm trên án, nàng ta vội chạy tới, dặn dò: “Tiểu thư uống ít trà thôi, Cận Tịch cô cô đã dặn rồi, nước trà không tốt cho thai nhi, đừng uống là tốt nhất.” Lại đề nghị: “Hay là làm vài thứ thức uống bổ dưỡng? Tổ yến, mật ong hay là nước sương?”

Bội Nhi đỏ bừng mặt, lầu bầu vỗ vào đầu mình. “Xem nô tỳ hồ đồ quá nên quên mất, cô cô đã dặn dò hết rồi. Cô cô còn dặn phòng bếp khi nấu ăn không được cho các loại hương liệu như hồi, hạt tiêu, vỏ quýt, ớt, ngũ vị hương, rượu cũng không được dùng nhiều, tránh xối mỡ.”

Tôi mỉm cười, nói: “Cận Tịch có phần quá cẩn thận rồi, dùng một chút thì hẳn chẳng sao đâu.”

Hoán Bích đổi nước mật ong cho tôi, đợi đến khi ấm ấm rồi mới dâng lên. “Tiểu thư được sủng ái cả một năm trời mới mang thai, chẳng những Hoàng thượng và Thái hậu hết sức trân trọng, mọi người trong cung chúng ta cũng hầu hạ cẩn thận, chỉ mong tiểu thư có thể bình an sinh hạ tiểu hoàng tử. Tiểu thư nên nghỉ ngơi dưỡng sức thì hơn, tay trái bị thương rồi, mấy việc khâu vá này cứ giao cho đám cung nhân làm là được. Huống hồ thêu thứ này cũng chẳng hợp thời chút nào.” Tôi nghe nàng ta khuyên răn tha thiết, nghĩ đến chuyện từ khi bị tôi răn dạy xong, nàng ta quả nhiên không còn xử sự hai lòng nữa. Tiểu Liên Tử ngầm để ý lâu nay cũng chưa phát hiện ra điểm gì không ổn, cho nên tôi cũng dần an tâm giao một số việc cho nàng ta làm, không còn chú ý đề phòng nữa.

Thêu Xuân sơn đồ vốn là để rèn luyện tâm tính, giữ cho tâm bình khí hòa, hiện giờ thì chẳng cần làm thế nữa, tôi bèn chiều theo ý nàng ta. “Không thêu thứ này cũng được, chỉ là cứ nằm dài mãi thì bực bội, khó chịu quá!”

Hoán Bích mím môi cười, nói: “Tiểu thư nếu cảm thấy buồn chán thì chẳng bằng cắt may vài ba bộ quần áo cho trẻ con, thêu thùa cẩn thận, tiểu hoàng tử ra đời là có thể mặc ngay.”

Lưu Chu đứng bên cũng nói góp vào: “Đúng vậy, bây giờ là phải bắt đầu khâu vá rồi, đợi đến khi bụng của tiểu thư được sáu, bảy tháng, thân thể nặng nề thì làm gì cũng không tiện.”

Tôi bị bọn họ thuyết phục, lập tức sai người xuống kho chọn vài tấm vải mềm mại, rồi mấy người chúng tôi ngồi quanh đèn, bắt đầu cắt may y phục.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

57#
 Tác giả| Đăng lúc 15-4-2016 14:04:04 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 17 (2)
Thư ngân giao


Thức dậy sớm, tôi nghe thấy tiếng chim oanh líu lo bên ngoài cửa sổ. Thuần Nhi lại ghé sang thăm tôi, tôi cùng nàng ta ăn sáng xong bèn ngồi xuống nói chuyện phiếm.

Thuần Nhi nói: “Nghe nói lúc tỷ tỷ lâm bồn thì mẹ đẻ có thể vào cung bồi bạn với tỷ tỷ, có thật vậy không?”

Tôi đáp: “Đúng thế! Đến tháng cuối thì Hoàng thượng sẽ ban ân chỉ xuống.”

Thuần Nhi cúi đầu thở dài một hơi. Nàng ta trước giờ vốn vô tâm, càng không cần nói đến chuyện có tâm sự gì, cả ngày chỉ cười hì hì đùa giỡn như đứa trẻ, bây giờ lại biết thở dài, thật khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Thuần Nhi xòe tay ra đếm: “Lâu lắm rồi muội không được gặp mẹ, tỷ tỷ thì thích rồi, chỉ cần đứa bé trong bụng lớn một chút là được gặp mẹ.”

Tôi thấy vẻ khao khát đáng thương của nàng ta, không khỏi cảm thấy xúc động, nghĩ đến ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, trong lòng chợt chua xót. Thuần Nhi nhỏ hơn tôi hai tuổi, là con gái út trong nhà, mười ba tuổi vào cung, đến giờ vẫn chưa được gặp người nhà, bảo sao nàng ta không khỏi thương tâm.

Cận Tịch thấy tôi và Thuần Nhi đều có vẻ buồn bã, sợ tôi đau lòng bèn chạy lại khuyên nhủ: “Thuần tiểu chủ sau này cũng sẽ mang thai giống như nương nương chúng tôi thì chẳng phải cũng có thể gặp lại phu nhân rồi sao? Tiểu chủ sống tốt trong cung, phu nhân ở nhà cũng cảm thấy yên tâm, phải vậy không?” Nàng ta mỉm cười, nói tiếp: “Hơn nữa, thức ăn trong cung lại ngon hơn hẳn những món bên ngoài.” Nói xong, nàng ta cười hì hì, lệnh cho Phẩm Nhi bưng món bánh bột ấu ngào sữa nóng hổi ra.

Thuần Nhi không nhìn thấy thì thôi, vừa nhìn thấy đồ ăn ngon thì lập tức sáng mắt, không còn nghĩ đến chuyện thở vắn than dài nữa. Tôi quả thực rất hâm mộ tính cách đơn thuần, ngây thơ của Thuần Nhi, chỉ cần có đồ ăn ngon thì phiền não cách mấy cũng bị vứt ra ngoài. Sách vở thường nói đến “tâm tư trong sáng”, hẳn là muốn chỉ kiểu người có tính tình giống Thuần Nhi đây. Suy nghĩ nhiều quá sẽ khiến bản thân mình phiền muộn trước tiên.

Tôi cười, nói với nàng ta: “Nghe Thúy Vũ, cung nữ của muội nói muội thích ăn bánh thơm củ ấu, tỷ bèn dặn nhà bếp chuẩn bị cho muội, thêm một ít sữa bò vào, rất mềm, muội ăn thử xem có thích không?”

Thuần Nhi luôn miệng vâng dạ rồi nhanh như chớp ăn hết cả một đĩa, thế mà vẫn thèm thuồng, liếm liếm ngón tay, nói: “Làm ngon hơn chỗ muội nhiều!”

Tôi thương hại nhìn sang nàng ta rồi cười, nói: “Nếu muội thích thì tỷ sẽ dặn nhà bếp chuẩn bị sẵn cho muội mỗi ngày, nhưng phải nhớ là không được ăn quá no.”

Thuần Nhi cười hì hì vâng theo, nhìn chằm chằm vào bụng dưới của tôi, ngẩn ngơ một hồi, sau đó nàng ta mới cẩn thận sờ sờ vào đó, hỏi: “Chân tỷ tỷ, thực sự trong bụng của tỷ đang có một đứa bé sao?”

Tôi cười, đáp: “Đúng vậy, là một đứa bé còn rất rất nhỏ, chân tay còn chưa dài ra nữa.”

Thuần Nhi ngẩn ra. “Nhỏ đến thế cơ à!” Rồi vội vàng tháo hộ giáp trên tay xuống.

Tôi cười, hỏi: “Muội làm gì vậy?”

Thuần Nhi chống cằm, đáp: “Đứa bé còn nhỏ như vậy, muội sợ hộ giáp quá nhọn làm tổn thương nó.”

Tôi cười đến mức suýt phun cả nước trong miệng ra, khó khăn lắm mới dừng lại được, bảo: “Làm sao bị thương được chứ? Muội thương đứa nhỏ như vậy, tỷ sẽ cho nó làm cháu của muội, có được không?”

Hàng lông mi dài cong vút của Thuần Nhi chớp chớp, hai mắt linh động như hai hạt châu, nàng ta sung sướng kêu lên: “Thật sao? Muội có thể làm dì của nó ư?” Nói xong, nàng ta vội vã tháo miếng ngọc bội dương chi trắng muốt trên cổ xuống. “Vậy muội tặng trước lễ vật này, về sau đứa bé phải gọi muội là dì đấy!”

Tôi đáp: “Hẳn rồi, đã nhận lễ vật thì không thể chối bay chối biến được nữa!” Tôi vuốt ve bụng, nói: “Con à, con xem dì của con thương con chưa kìa, con còn chưa ra đời mà lễ vật đã đến nơi rồi.”

Thuần Nhi cúi sát xuống bụng tôi, nói: “Cục cưng à cục cưng ơi, con phải lớn nhanh nhanh lên nhé, đợi con lớn rồi, dì sẽ để dành cho con những món bánh ngọt ngon lành nhất. Bánh đậu xanh, bánh hạt dẻ, bánh đậu hai màu, bánh đậu cuộn, mứt trái vải, mứt đào sợi, bánh xốp hồ đào, bánh táo cuộn, mứt lê cuộn, đó đều là những món ăn ngon nhất trần đời, dì sẽ nhường cho con ăn hết, sẽ không giành ăn với con đâu, con tha hồ mà ăn để trở thành một cục cưng mập mạp nhé!”

Tôi nói theo: “Còn nữa, dì của con về sau sẽ sinh thật nhiều bé cưng khác để làm bạn với con, con có thích không?”

Thuần Nhi giậm chân, cười, mắng tôi: “Tỷ tỷ không biết xấu hổ, lấy muội ra làm trò đùa.” Nói xong thì vén rèm, chạy thẳng ra ngoài.

Tôi cứ tưởng nàng ta sẽ chạy biến mất, ai ngờ lại thò đầu vào, mặt đỏ bừng, chần chừ hồi lâu rồi mới lí nhí hỏi tôi: “Muội sinh bảy, tám đứa nhỏ để chơi trốn tìm với con của tỷ, thế đã đủ chưa?”

Tôi nghe vậy thì không nhịn được cười, lỡ tay làm đổ chén nước mật ong xuống váy, ướt đẫm. Cận Tịch trước nay đoan trang, giờ cũng vừa tủm tỉm cười vừa giúp tôi thay y phục. Tiểu Doãn Tử cười đến bò lăn ra đất. Lưu Chu ôm bụng, những người khác đều quay đi, che miệng cười. Tôi cố nhịn cười, nói: “Đủ rồi, thế là đủ rồi, nhiều hơn thì bọn ta không sao lo nổi đâu.”

Thuần Nhi thấy bộ dạng của chúng tôi như vậy thì biết mình đã lỡ lời, bất giác mặt càng đỏ, chỉ biết quay người bỏ chạy.

Buổi trưa, mặt trời ấm áp, tôi bèn ngồi nghiêng trên sạp trước cửa sổ noãn các phía tây đọc sách để giết thời gian, trên người đắp một chiếc chăn mỏng bằng tơ màu xanh nhạt óng ả, bên dưới lót tấm thảm mềm vằn lông hổ dày hơn một tấc, vừa êm ái vừa ấm áp, tấm rèm vải dệt màu xanh nhạt thêu chỉ vàng được vén lên bằng móc bạc, trên sạp chất chồng ba, bốn chiếc gối lông ngỗng, vỏ bằng đoạn trắng muốt trên có thêu hoa hợp hoan, mềm mại, dễ chịu. Đọc được nửa quyển sách, tôi khép hờ mắt ngủ thiếp đi. Sau một giấc say sưa, tỉnh lại thì trời đã gần tối. Tôi lờ mờ nghe thấy bên ngoài có tiếng Tiểu Liên Tử đang nói chuyện với ai đó, hình như là giọng của Ôn Thực Sơ. Lúc này trong nhà chẳng có ai khác, cửa sổ nửa khép nửa mở, gió chiều mang theo hương hoa từ hành lang len vào khiến tấm rèm chao đảo như gợn mặt nước, những hoa văn thêu chỉ vàng liên miên như ánh mặt trời lấp lánh. Tôi lười chẳng buồn ngồi dậy, vẫn ngả người trên sạp, xoay người về phía cửa sổ, lắng nghe tiếng nói chuyện bên ngoài.

Chỉ nghe Tiểu Doãn Tử thưa: “Thất lễ với đại nhân rồi, nương nương nhà chúng tôi vẫn đang ngủ, không biết đại nhân có chuyện gì gấp không?”

Ôn Thực Sơ đáp: “Không sao, ta đứng chờ ngoài hành lang cũng được. Ta nghe nói nương nương có tin vui nên đến thỉnh an thôi.”

Tiểu Doãn Tử bèn thưa: “Vậy thì phiền đại nhân đứng chờ ở đây, nô tài xin cáo lui trước!”

Bên ngoài yên tĩnh được một lát, cửa sổ vốn được ánh nắng chiều vàng nhạt chiếu rọi, tôi chợt nghe có tiếng bước chân rón rén tiến lại gần rồi cảm thấy trước mắt tối lại. Hơi hé mắt, tôi bỗng nhìn thấy Ôn Thực Sơ đang đứng trước cửa sổ, cách hai tầng rèm cửa sổ và màn giường, hắn đưa mắt nhìn tôi đến thất thần, lẳng lặng chẳng thốt lên tiếng nào.

Đôi mi dài cong vút vội vã cụp xuống, tôi như đang ngủ, hắn cũng tưởng là tôi đang ngủ say. Được một lát, hắn nhẹ nhàng đặt tay lên tấm rèm cửa, hắn không tiến lại gần, cũng không vén rèm lên để ngắm dung nhan lúc ngủ của tôi, chỉ lẳng lặng đứng đó ngắm nhìn tôi, ánh mắt đầy vẻ quyến luyến. Thực ra, cách một tấm rèm chỉ vàng, hắn không thể nhìn thấy tôi rõ ràng được.

Tôi cảm thấy có chút khó xử, nhưng lại không tiện ngồi dậy mở miệng trách mắng, dù gì cũng phải để lại cho hắn chút thể diện để về sau còn gặp gỡ trò chuyện. Thực sự thì hắn đối xử với tôi rất tốt. Vào cung được hơn một năm, nếu ban đầu tôi không được hắn tận tình chăm sóc thì chỉ e cuộc sống sẽ không được thoải mái, dễ chịu như bây giờ.

Chỉ là tôi không muốn vì một chữ “tình” mà nợ người ta quá nhiều. Tình ý mà hắn trao tặng, tôi không thể và cũng không muốn đón nhận và đền đáp. Đương nhiên tôi chỉ còn cách dùng công danh, lợi lộc để trả ơn hắn, coi như không uổng phí công hắn vất vả vì tôi.

Chỉ có điều, hắn lẽ ra phải hiểu rõ, hoa lựu rực lửa trong cung chiếu rọi đôi mắt của tôi, cũng thắp sáng ánh mắt của hắn, nhưng bên trong và bên ngoài bức tường cung đỏ, là sự khác biệt trên trời dưới đất. Hắn có vấn vương ra sao thì cuối cùng cũng là si tâm vọng tưởng. Huống gì lòng tôi thế nào thì trước khi tôi vào cung, hắn đã biết rõ mồn một. Những lời khiến người ta nghe đau lòng, tôi thực sự không muốn lặp lại lần thứ hai.

Tôi bèn xoay người, đổi tư thế ngủ thêm lần nữa, quay lưng về phía y, giả vờ vô ý huơ tay đẩy thanh như ý bằng ngọc dùng để giữ yên giấc ngủ xuống đất. “Choang” một tiếng, ngọc vỡ tan tành, hắn tựa hồ kinh hãi, vội vã lùi ra xa. Cận Tịch nghe tiếng thì hốt hoảng chạy vào, thấy tôi vẫn ngủ say bèn rón rén dọn dẹp các mảnh ngọc vỡ rồi lui ra ngoài.

Hồi lâu sau, nghe thấy bên ngoài không còn tiếng động, tôi mới cao giọng hỏi: “Ai ở bên ngoài?”

Hoán Bích chạy vào, đỡ tôi ngồi dậy, đặt thêm hai chiếc gối lông ngỗng sau lưng tôi rồi thưa: “Tiểu thư tỉnh rồi sao? Vừa nãy Ôn Thực Sơ đại nhân có ghé qua.”

Tôi vờ lấy làm lạ, hỏi: “Sao không mời hắn vào?”

Hoán Bích cười, thưa: “Đại nhân vốn định vào thỉnh an tiểu thư nhưng nghĩ tiểu thư vẫn còn đang ngủ, Tồn Cúc đường lại cho người sang truyền lời, nói là đến giờ chẩn mạch bình an rồi, mời Ôn đại nhân sang đó.”

Tôi nói: “Vậy cũng phải! Hoàng thượng đã chỉ định Ôn thái y chữa bệnh cho Thẩm Dung hoa, hắn đã gánh vác trách nhiệm, không dễ gì thoát thân. Hắn tới có chuyện gì không?”

Hoán Bích lấy hai tờ giấy từ trong người ra, thưa: “Ôn đại nhân nghe nói tiểu thư bị thương ở mặt, có viết hai phương thuốc đưa đến, nói là nếu lỡ để lại sẹo thì dựa vào phương thuốc này điều chế phấn bôi, có thể che khuất được vết sẹo.”

Tôi đón lấy giở ra xem, một là phương thuốc chế phấn trân châu, lấy hạt hoa nhài tím giã nhỏ lấy nhân, chưng lên chế thành bột, còn loại thứ hai là phấn ngọc trâm, lấy hoa ngọc trâm cắt phần cuống rồi dồn hồ phấn bình thường vào, sau đó chưng chín chế thành phấn ngọc trâm, kế bên còn có hàng chữ nhỏ chú thích kĩ càng, phấn trân châu dùng vào mùa xuân, phấn ngọc trâm dùng vào mùa thu, ngoài ra dùng sương sớm đọng trên lá sen hòa với phấn rồi thoa lên mặt, sẽ làm tăng thêm hiệu quả… Tờ thứ hai viết phương thuốc chế dược hoàn, chọn lấy nguyên cọng cỏ ích mẫu tươi tốt vào tiết Đoan ngọ, trên cỏ không được dính chút bụi đất nào, sau khi hong nắng cho khô thì nghiền thành bột mịn lọc qua rây, thêm vào lượng nước và bột mì phù hợp, vò lại thành viên phơi khô. Chọn một chiếc lò bằng bùn vàng ba tầng kín gió, dùng lửa lớn nung khô trong vòng nửa canh giờ, sau đó để lửa riu riu hầm từ từ, khoảng một ngày một đêm, lấy dược hoàn ra, đợi cho nguội hẳn thì bỏ vào bát gốm nghiền thành bột để dùng. Chùy để nghiền cũng cần chọn lựa kĩ càng, chùy ngọc là tốt nhất, sau đó đến chùy bằng sừng hươu, ngọc, sừng hươu đều có tác dụng làm mịn da, làm mờ vết sẹo và vết nám.

Tôi lại nói: “Có hỏi thăm sức khỏe của Thẩm Dung hoa thế nào không?”

Hoán Bích giòn giã đáp ngay: “Nô tỳ đã hỏi rồi. Ôn đại nhân nói tiểu chủ vẫn ổn, chỉ là vẫn chưa xuống giường được, cần phải tĩnh dưỡng. Tiểu thư chỉ để ý đến người khác, chính mình cũng thế thôi!”

Tôi xem qua từng phương thuốc rồi tủm tỉm cười. “Cũng khổ công cho hắn lúc nào cũng lo lắng cho ta. Đợi đến tối, lệnh cho Tiểu Liên Tử theo phương thuốc này đi lấy dược về chế phấn thôi!”

Hoán Bích “vâng” một tiếng rồi lui xuống.

Ngày Hai mươi sáu tháng Ba theo lịch là ngày tốt nhất trong vòng nửa năm nay, tôi và Phùng Thục nghi đều được thụ phong vào ngày này. Từ sáng sớm tinh mơ, Oánh Tâm điện đã bận bịu tíu tít. Đám cung nữ và nội giám bưng lễ vật và nghi trượng chuyên dùng cho ngày lễ lớn đi qua đi lại như con thoi, lối đi lát đá trước điện được trải thảm lông cừu dài đỏ thắm, xe Địch phượng ngọc lộ chuyên dùng cho phi tần lúc được sắc phong đã đứng đợi trước cổng Đường Lê cung.

Tôi ngồi ngay ngắn trước bàn trang điểm, vừa rửa mặt, tắm rửa xong, nội giám hầu cận Huyền Lăng là Lưu Tích Thọ đã đích thân đến đưa y phục và trang sức cần mặc trong lễ sắc phong. Theo đúng lễ chế, trong lễ sắc phong, Hoàng hậu chải tóc theo kiểu Lăng văn, phi chải kiểu Vọng tiêu cửu hoàn, quý tần chải kiểu Tham loan, các cung tần còn lại chải tóc cao kiểu Như ý, cung nhân thì chải theo kiểu Phụng thánh. Tôi bèn vấn tóc lại theo kiểu Tham loan vừa đoan trang vừa hòa nhã.

Người phụng chỉ chải tóc cho tôi là lão cô cô Kiều thị. Bà ta mỉm cười, thưa: “Trán của nương nương cao thật, nô tỳ từng chải đầu cho nhiều vị nương nương, nhưng trán của nương nương là cao nhất, hiện giờ người lại đang mang thai, đúng là có nhiều phúc đức, người thường chẳng ai sánh kịp.”

Nữ nhân trong cung đều tin rằng trán càng cao thì phúc đức càng nhiều. Tôi trong lòng vốn đã vui sướng, nghe bà ta nói chuyện bùi tai thì càng thêm hoan hỷ, bèn hạ lệnh thưởng tiền cho bà ta.

Trâm hoa cài đầu tổng cộng có sáu cây, chia làm một đôi thoa hình chữ phúc bằng vàng nạm san hô đỏ, một đôi trâm thiên bảo khánh nghi, nổi bật nhất là đôi bộ dao phượng bằng vàng ròng có đính chuỗi hạt ngọc phỉ thúy và hạt trai. Bộ dao vốn chỉ dành riêng cho người từ địa vị quý tần trở lên, tuy Huyền Lăng sớm đã ban thưởng cho tôi nhưng hôm nay mới có thể sử dụng công khai. Chiếc bộ dao đính đầy hoa vàng hoa bạc chạm rỗng, lấy trân châu, hình dơi bằng đá thanh kim có đính phỉ thúy làm cán, treo những chuỗi hạt ngọc trai được chế tạo tinh xảo, buông rủ đến tận tai. Những đóa cung hoa sáu cánh trên đôi trâm thiên bảo khánh nghi, hoa cài đầy phỉ thúy đính hạt châu lấp lánh, hoa tai dài buông rủ khẽ lay động. Như thế còn chưa đủ, giữa búi tóc còn cài thêm một đôi hoa cài đầu bằng ngọc đỏ đính chuỗi trân châu to bằng hạt gạo, một đôi hoa cài đầu phỉ thúy khảm san hô hình tùng thạch hồ lô, một đôi hoa cài ở thái dương hình phương hồ tập thụy.

Trang điểm xong, tôi hơi nghiêng đầu, bất giác thốt lên: “Nặng thật!”

Lưu Chu đứng bên cười hì hì, thưa: “Hiện giờ mới chỉ được phong là quý tần mà tiểu thư đã chê trang sức trên đầu nặng rồi, về sau trở thành quý phi thì biết làm thế nào? Nghe nói lúc tấn phong quý phi thì chỉ riêng trâm cài đầu đã có đến mười sáu cây rồi đấy.”

Tôi quay đầu giận mắng: “Nói nhảm gì đó!”

Kiều cô cô mỉm cười, khuyên: “Cô nương nói vậy là rất đúng! Nương nương sinh hạ hoàng tử rồi, chẳng lẽ còn sợ không có ngày được phong làm quý phi sao? Trong hậu cung, có ai không biết Hoàng thượng yêu thương nương nương nhất cơ chứ?”

Tôi chỉ cười mà không đáp, dang hai tay ra để bọn họ thay lễ phục. Loan y bằng tơ tằm mỏng hai lớp màu đỏ thêu thụy thảo vân nhạn, tay áo rộng, vạt áo dài chấm đất, khăn quàng vai dệt bằng chỉ vàng thêu hoa, tua rua buông rủ, đồ án chim loan bảy màu thêu dài dằng dặc, từ trước ngực quàng lên vai rồi buông rủ đến tận vạt váy, bồng bềnh như mây. Tay áo được thêu nổi sợi vàng, đường viền thêu hoa chi chít rộng cả tấc, hơi lộ ra mười ngón tay búp măng. Ngang eo chít thắt lưng bằng lụa, trên cánh tay có khoác thêm tấm lụa màu đỏ ánh bạc lấp lánh.

Tự ngắm mình trong gương, tôi thấy mình đúng là có phong thái vô cùng đoan trang, mỹ lệ.

Phong quý tần khác hẳn với những lần sắc phong trước. Lúc trước, mỗi lần sắc phong chỉ cần Huyền Lăng nói một tiếng hoặc ban thánh chỉ thông báo cho lục cung là đủ. Các phi tử từ quý tần trở lên mới có thể coi là chính thức có địa vị cao quý trong chốn hậu cung, cần phải tế bái Thái miếu, nhận kim sách, kim ấn, kim ấn của chính nhất phẩm tứ phi được gọi là Kim bảo. Có điều, Thái miếu chỉ được mở vào những dịp tế trời, phong hậu hay những dịp lễ tết quan trọng, còn bình thường, phi tần được sắc phong chỉ cần tế bái tượng trưng trước Thái miếu từ trong cung là được.

Giờ lành đến, tôi quỳ sau lưng Kính Phi Phùng thị, tế bái trước Thái miếu từ trang trọng, nghiêm túc, nghe Ti cung nghi đọc qua lời mừng bằng văn biền ngẫu bốn sáu, chính phó sứ của lễ sắc phong là Hộ bộ thượng thư Lý Liêm Cơ và Hoàng môn thị lang Trần Hy Liệt cầm tráp sơn đỏ chạm vàng khắc hoa văn long phượng, trên có phủ khăn lụa đỏ nhũ vàng, ban xuống kim sách bốn trang, Kính Phi thì được kim sách tám trang. Sau đó đến lượt hộp gấm nhỏ đựng kim ấn, trên kim ấn bằng vàng có khắc chữ triện, rộng bốn tấc chín phân, dày một tấc hai phân, trên có núm hình chim loan. Kính Phi và tôi ba lần tung hô vạn tuế rồi sau đó đến Chiêu Dương điện vái lạy Hoàng đế, Hoàng hậu.

Hoàng hậu Chu thị mặc lễ phục thêu trăm phượng màu tía ánh vàng, tay áo rộng, ngồi ngay ngắn bên cạnh Huyền Lăng. Nơi tay áo và cổ áo để hở, lộ ra đường viền của lớp áo giữa bằng sa màu vàng đỏ, váy dài màu vàng hoa hạnh thêu chỉ vàng buông thõng mềm mại, choàng vai bằng vải sa trắng có thêu hoa văn bách bảo màu vàng hạnh, dài thướt tha, càng làm tăng thêm phong thái đoan trang, hiền hòa… Vẻ mặt vừa nghiêm túc vừa kính cẩn, Hoàng hậu cao giọng nói: “Kính Phi Phùng thị, Hoàn Quý tần Chân thị được hưởng ân trời, nhận điềm lành trong cung, từ nay về sau phải biết tu đức sửa thân, hậu cung hài hòa, kính cẩn hầu hạ thánh thượng, sinh con nối dõi.”

Tôi và Kính Phi cúi đầu bái tạ ba lượt, cung kính vâng theo: “Được Hoàng hậu dạy bảo, vui mừng khôn siết.”

Ngẩng lên, tôi nhìn thấy chiếc áo bào màu vàng rực thêu chín rồng bằng chỉ vàng của Huyền Lăng, vạt áo có thêu hoa văn sóng nước chập chùng. Ngẩng đầu lần nữa, đón lấy ánh mắt chăm chú, ấm áp như gió xuân của y, trong lòng tôi ấm áp, không khỏi bốn mắt nhìn nhau, mỉm cười vui sướng từ tận đáy lòng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

58#
 Tác giả| Đăng lúc 15-4-2016 15:04:46 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 18
Hoa lê


Đầu tháng Tư vốn là lúc hoa hải đường chớm nở, khí đất ở Đường Lê cung hơi lạnh nên đây cũng là lúc hoa lê ngoài vườn đồng loạt nở rộ. Bởi vết thương trên mặt vẫn chưa lành hẳn, không tiện ra ngoài, lại mang thai gần hai tháng nên tôi càng lúc càng lười biếng, cả ngày ngủ gà ngủ gật trên sạp, hoặc ngồi hoặc nằm để giết quãng thời gian rảnh rỗi dài dằng dặc. Huyền Lăng thỉnh thoảng đến bồi bạn với tôi, nhưng chỉ kể vài chuyện thú vị để chọc tôi cười. Theo lời dặn dò của thái y, y không nghỉ lại ở cung của tôi. Các món đồ chơi cùng vàng bạc, lụa là không ngừng được đưa tới Đường Lê cung. Tiểu Doãn Tử thường hay đùa rằng: “Hoàng thượng còn ban thưởng thêm nữa thì bọn nô tài chẳng những bưng bê đến mỏi cả tay mà trong cung này cũng hết chỗ chứa.” Thế nên tôi chỉ chọn vài thứ mình thích để lại ngắm nghía, ngoài ra, tôi còn theo địa vị, chọn một số món tặng cho Hoàng hậu, phi tần, số còn lại được chuyển vào kho ở Ẩm Lục hiên.

Một ngày nọ, tiết trời sáng sủa, ấm áp, vừa gội đầu xong, tôi bèn tiện tay vấn thành búi lỏng, dùng đôi trâm hình trăng non bằng thủy tinh tím dài hơn tấc để cố định lại. Sau khi thoa Thư ngân giao do Lăng Dung tặng lên vết sẹo, tôi lại lấy lụa giao mỏng để che mặt. Lụa giao nhẹ kín, mềm mại, có thể chắn được gió bụi lại không cản trở tầm nhìn, dùng làm khăn che mặt thì rất thích hợp.

Tôi lệnh cho người chuyển sạp quý phi xuống dưới gốc lê sau sảnh, nghiêng người ngồi đó thêu chiếc yếm dành cho trẻ con. Nền vải màu vàng hoa hạnh, chỉ thêu màu đỏ hoa lựu, thêu hình bách tử bách phúc, mỗi đường kim mũi chỉ đều đong đầy niềm vui của lần đầu tiên làm mẹ cùng quyến luyến dành cho đứa trẻ trong bụng tôi. Thêu được vài mũi, khóe môi tôi bất giác cong lên, thấp thoáng nét cười vui sướng, an lành…

Thêu đã mệt, ngước mắt lên thấy hoa lê nở rộ như những cụm mây trắng muốt bồng bềnh, những đóa hoa trắng như tuyết chi chít trên cành, duyên dáng, yêu kiều rọi bóng xuống chiếc váy đỏ tươi, lộng lẫy của tôi, đỏ đỏ trắng trắng vô cùng mỹ lệ, chói mắt. Mỗi khi gió thổi qua, những cánh hoa tựa như vô số mảnh lụa trắng phất phơ rơi xuống, ngát hương, rơi trên vạt áo như có một lớp tuyết sương tinh khiết.

Có một đứa trẻ đang hình thành trong bụng, lòng tôi như mềm đi vì hạnh phúc, đến y phục cũng chọn loại có màu sắc sặc sỡ. Lúc trước, tôi thích những màu nhạt tao nhã nhưng giờ lại mê màu đỏ tươi, tựa như màu hạnh phúc không cần che giấu. Chiếc váy lụa phủ dài từ sạp quý phi buông rủ xuống đất, phong thái như ráng chiều bềnh bồng.

Rượu có thể giải sầu, nhưng giờ thì nó lại giúp tôi thêm phần hứng thú. Tôi gọi Cận Tịch: “Đi mang rượu lại đây!”

Cận Tịch bưng Lê hoa bạch lại, tươi cười thưa: “Nô tỳ biết con sâu rượu của nương nương lại trỗi dậy rồi. Mấy ngày trước, vết thương trên tay chưa lành, không được động đến rượu, bây giờ thoải mái một chút cũng không sao. Rượu này được chế từ hoa lê hái năm ngoái, chôn dưới đất trong vò sứ đến hôm qua là được đúng một năm, nương nương nếm thử xem sao.”

Mắt ngắm hoa lê băng thanh ngọc khiết, miệng nhấm nháp Lê hoa bạch đúng là rất thú vị, tôi nâng chén uống cạn một hơi. Cận Tịch mỉm cười rời đi, để tôi lại một mình tự rót tự uống, ung dung, nhàn tản.

Khu vườn yên tĩnh, hoa nở hoa rơi không một tiếng động, đúng là chút bình yên hiếm có trong kiếp phù sinh. Uống được mấy chung, hơi rượu từ từ dâng lên khắp người. Tôi bèn uể oải xoay người, nhắm mắt dưỡng thần.

Có tiếng bước chân rón rén lại gần tôi, là bước chân của nam giới, không cần nghĩ cũng biết đó là y, trừ y ra, trong hậu cung này còn nam nhân nào có thể đường hoàng tiến vào cung của tôi thế này cơ chứ? Tôi cố ý không đứng dậy nghênh tiếp, vẫn nằm yên vờ ngủ, muốn xem y sẽ làm gì.

Y ra hiệu bảo Cận Tịch im lặng không cần thỉnh an, vẫy tay cho nàng ta lui xuống rồi một mình ngồi xuống cạnh tôi. Gió nhẹ hiu hiu thổi, hoa lê rơi lả tả như mưa. Trong lúc mơ màng, có một đóa hoa lê rơi xuống trán tôi. Y khẽ “ồ” lên một tiếng, hơi thở nóng hổi ập thẳng vào mặt, môi y chạm vào trán tôi, khẽ hôn lên cánh hoa vừa rơi.

Y giở tấm sa trên mặt tôi ra, nụ hôn lướt nhẹ từ trán đến khóe môi, nhả cánh hoa đang ngậm vào miệng tôi. Y cúi xuống hôn lên xương quai xanh và phần vai để hở của tôi, cách một lớp cánh hoa lành lạnh, râu của y cọ cọ khiến mặt tôi ngưa ngứa. Tôi không nhịn được nữa, mở to mắt, khẽ cười thành tiếng. “Tứ lang thích ăn hiếp người ta…”

Mắt Huyền Lăng đong đầy ý cười, y nhéo mũi tôi, nói: “Ta biết là nàng vờ ngủ mà, giả vờ mà cũng không đúng, lông mi cứ động đậy mãi.”

Tôi nhõng nhẽo: “Rõ ràng thiếp là người thành thực mà, tứ lang chỉ biết ăn hiếp người thành thực mà thôi!”

Y chăm chú quan sát vết sẹo trên mặt tôi rồi cười, nói: “Hình như đã nhạt hơn một ít rồi!”

Tôi vội dùng tay che vết sẹo rồi quay đầu vờ giận dỗi. “Bây giờ thiếp đã giống như Vô Diệm, Đông Thi rồi, tứ lang đừng nhìn nữa!”

Huyền Lăng cười, hỏi: “Dược cao trẫm ban cho nàng, nàng có dùng không? Đợi vài ba ngày nữa là sẽ lành sẹo thôi. Tuyệt thế dung nhan của Hoàn Hoàn, không biết trên đời này còn ai có thể sánh bằng?”

Tôi chợt nảy ra một ý tinh nghịch, mỉm cười, nói: “Hoàn Hoàn có một muội muội tên là Ngọc Nhiêu, có thể xưng là quốc sắc, tuyệt đối không kém thần thiếp đâu.”

“Vậy ư?” Huyền Lăng lộ vẻ hứng thú, hỏi. “Còn có người sánh được với Hoàn Hoàn cơ à? Trẫm phải xem thử mới được.”

Tôi vờ sốt ruột: “Vậy thì không được đâu, tứ lang mà thấy nhan sắc của muội muội thì nhất định sẽ vội vàng nạp làm phi ngay! Khi đó, trong lòng chẳng còn chỗ nào cho Hoàn Hoàn nữa.”

Y thấy tôi nóng nảy như vậy thì vẻ đùa cợt càng thêm đậm. “Có thể khiến nàng ăn nhiều dấm chua như vậy thì nhất định là một bậc giai nhân tuyệt thế rồi. Xem ra trẫm quả thật phải nạp thêm tân phi mất. À, nàng nghĩ xem, nên phong muội muội của nàng là gì nào? Quý nhân? Quý tần? Hay là trực tiếp phong phi?”

Tôi không nhịn được nữa, phá lên cười đến gập cả người, khó khăn lắm mới dừng lại được, nói: “Muội muội của Hoàn Hoàn năm nay vừa tròn bảy tuổi, mong bệ hạ vui lòng nhận lấy.”

Huyền Lăng vờ tỏ vẻ đột nhiên hiểu ra, choàng tay ôm lấy tôi đặt lên gối, cắn vào tai tôi, mắng: “Đồ a đầu ranh mãnh!”

Tôi cười đến co rúm cả người, cố né tránh y. “Đừng làm loạn, thái y nói phải tĩnh dưỡng, không được cử động tùy tiện mà.”

Y đặt tôi nằm ngay ngắn xuống sạp quý phi, cúi người áp sát mặt vào bụng tôi, lộ vẻ chăm chú lắng nghe. Cảnh tượng trước mắt vừa gần gũi vừa ấm áp, y trông hệt như một người chồng yêu thương, trân trọng vợ con. Tôi không kìm lòng được, giơ tay vuốt ve cổ y. Hoa nở hương ngan ngát, tôi nghĩ bụng, cuộc đời yên bình, hoàn hảo hẳn là như thế này đây.

Khóe môi tôi bất giác nhếch lên, để lộ nụ cười tươi rói, khẽ lên tiếng: “Giờ có nghe được gì đâu cơ chứ?”

Y đột ngột đứng dậy, ôm ngang người tôi, xoay liền mấy vòng, cho đến khi đầu tôi choáng váng thì phá lên cười: “Hoàn Hoàn, Hoàn Hoàn! Nàng đã mang thai đứa con của chúng ta rồi, nàng có biết là trẫm vui sướng đến nhường nào không?”

Tôi cười khúc khích, tiếng cười khiến hoa rơi lả tả như tuyết, tỏa hương ngào ngạt. Tôi ôm chặt lấy cổ y, dịu giọng thỏ thẻ: “Vâng, thiếp cũng hạnh phúc vô cùng.”

Y thuận tay nhặt mấy cánh hoa lê rơi trên gối, ướm lên ấn đường của tôi rồi nói: “Hoa lê trắng trong có thể sánh bằng với tuyết, hoa rơi giữa lông mày như chẳng có màu sắc gì, có thể thấy làn da của Hoàn Hoàn còn trắng hơn cả tuyết.”

Tôi mỉm cười tựa vào ngực y, cầm một nắm hoa lê trong lòng bàn tay, quả nhiên trong trắng như chẳng có gì, tôi bèn hài lòng mỉm cười, nói: “Con gái của Tống Vũ đế Nam triều là Thọ Dương công chúa, ban ngày ngồi chơi ở Hàm Chương điện, ngoài vườn mai đỏ đang nở rộ, một đóa hoa rơi xuống ngay giữa ấn đường của nàng ta, năm cánh hoa xòe ra đều đặn, vô cùng mỹ lệ, cung nhân phủi đi không được, ba ngày sau rửa mặt mới trôi. Nữ nhân trong cung nhìn thấy đều luôn miệng thán phục, bèn nhao nhao bắt chước, vẽ hình hoa mai trên trán để tôn lên vẻ đẹp, gọi là Mai hoa trang. Chỉ có điều màu hoa lê quá nhạt, không tiện vẽ lên trán, đúng là đáng tiếc thật.”

Huyền Lăng nói: “Nếu muốn vẽ thật thì cũng chẳng khó gì.” Nói xong, y dắt tay tôi đi vào nhà sau, ngồi xuống trước gương đồng, ướm một đóa hoa lê lên ấn đường của tôi rồi cầm bút lông chấm vào son môi đỏ thắm mà vẽ thành hình dáng đóa hoa, lại lấy phấn bạc tô điểm nên nhị hoa. Vẽ xong, y tủm tỉm cười, hỏi: “Hoàn Hoàn, nàng thấy thế nào?”

Tôi nhìn vào gương ngắm nghía, quả nhiên màu sắc rực rỡ, nhiều nét quyến rũ, hơn hẳn vẻ cứng nhắc của hoa cài đầu, ngược lại còn có thêm phong thái dịu dàng, uyển chuyển, bèn hài lòng đáp: “Đẹp thì đẹp thật, chỉ có điều hoa lê màu trắng, dùng son môi đỏ để vẽ hoa thì lại không giống rồi!”

Y ngắm tôi một lát rồi nói: “Vậy thì trẫm cũng bó tay rồi, chỉ có thể làm được thế này thôi. Chỉ có điều, nếu quả thực vì màu trắng mà không thể vẽ lên trán để trang điểm thì đúng là uổng phí thật!”

Tôi mỉm cười. “Chuyện tốt khó đi thành đôi, độc chiếm được một vẻ đẹp vốn đã là chuyện không dễ dàng rồi!”

Huyền Lăng bèn nói: “Nếu chỉ cần đẹp là được thì trang điểm vốn chỉ lấy ý tứ chứ chẳng phải cầu cho thật giống. Cách trang điểm thế này gọi là Giảo lê trang, có được không?”

Mắt tôi lúng liếng đưa tình, nụ cười đầy hân hoan. “Tứ lang vẽ rồi lại đặt tên, đúng là phong nhã thật!”

Y cũng lộ vẻ vui sướng, tự đắc, nói: “Vậy trẫm lệnh cho nàng ngâm một câu thơ có nhắc đến hoa lê để trợ hứng.”

Buổi trưa cửa cung đóng chặt, tôi chăm chú nhìn hoa lê bên ngoài cửa sổ, không nghĩ nhiều đã thuận miệng đọc một câu: “Xuân đã sắp tàn sân quạnh quẽ. Hoa lê đầy đất cửa cài then [1].”

[1] Bài Xuân oán của Lưu Phương Bình. Dịch thơ Phụng Hà. Nguyên tác: “Tịch mịch không đình xuân dục vãn, lê hoa mãn địa bất khai môn.”

Vừa đọc xong câu thơ, tôi lập tức giật mình, không khỏi có phần gượng gạo, thầm trách mình lỡ lờ, trước mặt quân vương sao có thể đọc một câu thơ thương thân trách phận như vậy được? Huống gì đây lại là tâm tình của tần phi bị thất sủng, đột ngột đọc ra thế này đúng là điềm không may.

Nhưng Huyền Lăng chẳng hề để ý, chỉ nói: “Đúng là vào tiết xuân, cửa cung đóng chặt, hoa lê lại nở đầy, chỉ có điều có trẫm và nàng sóng vai ngồi cạnh nhau, sao có thể nói là quạnh quẽ được? Tuy hợp cảnh nhưng chẳng hợp thời, phải phạt mới được.” Y quay đầu nhìn thấy một bình Lê hoa bạch đang uống dở trên án dưới cửa sổ, bèn thuận tay cầm lấy, nói: “Phạt nàng uống một chén rượu.”

Tôi đón lấy chén rượu, tươi cười uống một ngụm rồi nhìn thẳng vào mắt y. “Bữa ăn uống rượu cho say…

Y lập tức tiếp lời: “Hẹn ngay chung sống đến ngày tóc sương [2].” Nói xong, choàng tay qua tay tôi, cùng uống cạn một hơi.

[2] Bài thơ Nữ viết kê minh 2 trong Thi kinh của Khổng Tử, dịch thơ Tạ Quang Phát, nguyên tác: “Nghi ngôn ẩm tửu, dữ tử giai lão.”

Y cười tủm tỉm, hỏi tôi: “Là tư thế uống rượu giao bôi phải không?”

Thâm cung tĩnh lặng thật, nhưng cũng không đến nỗi hoàn toàn quạnh quẽ, trong cảm giác tịch mịch vẫn còn những giây phút yên bình, hạnh phúc thế này. Trong lòng tôi trào lên cảm giác ngọt ngào khôn xiết, hơi rượu khi nãy vẫn còn lâng lâng, nay lại uống thêm nữa, bất giác hai má ửng hồng, bóng ở trong gương như mây màu chiếu rọi, hoa đào soi bóng.

Tôi gục người trên án, mỉm cười, nói với y: “Thần thiếp đã đọc thơ xong rồi, đến lượt tứ lang đấy. Đừng quên là phải có hai chữ hoa lê nhé!”

Y nghĩ một lúc, mặt lộ nụ cười ranh mãnh, chậm rãi đọc: “Chăn uyên ương ấy một đêm, hoa lê một gốc đè lên hải đường [3].”

[3] Bài Nhất thụ lê hoa của Tô Đông pha. Nguyên tác: “Uyên ương bị lý thành song dạ, nhất thụ lê hoa áp hải đường.” Dịch thơ: Mặc Nhiên Đường.

Tôi nghe xong thì xấu hổ đến nỗi mặt nóng bừng, cười phì một tiếng. “Đúng là người chẳng đàng hoàng chút nào!”

Y cố nhịn cười, hỏi lại tôi: “Sao lại thế?”

Gái xoan lấy lão làm chồng, tóc sương lại có má hồng kề bên [4]. Như thế mới tính là hoa lê một gốc đè lên hải đường chứ!”

[4] Nguyên tác: “Thập bát tân nương bát thập lang, thương thương bạch phát đối hồng trang.” Dịch thơ: Mặc Nhiên Đường.

Y nói: “Trẫm nguyện chung sống đến ngày tóc sương, dung nhan của Hoàn Hoàn không thay đổi, trẫm già nhưng vẫn tráng kiện, chẳng phải đúng là gái xoan lấy lão làm chồng ư?” Y choàng tay ôm bổng tôi lên rồi nhẹ nhàng đặt tôi nằm xuống giường, tôi hiểu ý của y bèn đẩy tay y ra. “Không cho làm bậy!”

Y cúi đầu, ý cười càng đậm. “Khi nãy vừa lôi muội muội của nàng ra trêu trẫm, giờ hãy mở mắt ra xem trẫm làm thế nào để xử trí a đầu ranh mãnh nhà nàng…”

Tôi vừa cười vừa cố né tránh y. “Ôi chao! Tứ lang sao lại thù dai đến thế?”

Y giữ chặt lấy hai tay tôi, ôm tôi vào lòng. “Quân tử báo thù mười năm chưa muộn mà.”

Màn gấm rèm hoa nửa khép nửa mở, vừa khéo hướng thẳng ra phía hoa lê trắng trong như trăng sáng bên ngoài cửa sổ. Vô số cánh hoa và tơ liễu mềm mại quấn quýt, phất phơ bay giữa không trung. Tôi mơ màng nhớ lại vẻ đẹp của nhụy hoa lê cùng màu hồng nhạt ở giữa những cánh hoa, phong thái thanh thoát mê người như băng như ngọc, thực ra chúng cũng rất giống hoa hạnh buổi đầu tôi và Huyền Lăng tình cờ gặp gỡ.

Ánh mặt trời vàng óng luồn qua nhành cây kẽ lá, những đóa hoa trắng muốt nở rộ động lòng người. Gió lướt êm ru qua cửa sổ, hoa lê phấp phới bay trong tĩnh lặng. Bên trong nhà cũng im phăng phắc, động tác của y dịu dàng, nhẹ nhàng, như sợ làm tổn thương đến sinh mệnh tuy yếu ớt nhưng vẫn đang vùng lên mạnh mẽ trong bụng tôi. Ánh mặt trời ấm áp chiếu rọi, gió mát hắt hiu, cánh hoa xòe nở, lúc ôm lấy thân thể y, tôi suýt đã chìm vào giấc ngủ an bình, say sưa giữa biển hoa lê trắng như tuyết.

Ngày hôm sau, sau buổi chầu sớm, Huyền Lăng lại ghé thăm tôi. Tôi vừa uống xong thuốc dưỡng thai, đang nằm ườn lười biếng trong chăn, mùi hương ngọt ngào của An tức hương thắp trong phòng tối qua vẫn chưa phai hẳn, diềm màn thêu chi chít hình dơi như ý cùng vô số chữ vạn, phối với tấm màn tơ tiêu hồng nhạt với tua rua buông rủ, nhìn sao cũng thấy lộ vẻ lả lơi, uể oải.

Huyền Lăng bước vào phòng, y vừa hạ triều liền thay y phục, lúc này chỉ mặc chiếc áo dài bằng lụa mỏng thêu chỉ vàng, càng tôn lên đôi mắt đen sắc sảo, phong thái hiên ngang. Y thấy tôi tóc tai rũ rượi nằm đó thì cười, nói: “Càng ngày càng lười biếng, mặt trời lên ba con sào rồi mà nàng vẫn nằm dài.”

Tôi đáp: “Người ta tuân theo ý chỉ của người và Thái hậu, ngoan ngoãn nghỉ ngơi, thế mà còn bị châm chọc, mỉa mai. Thiếp đang phiền cả ngày nằm dài quá buồn chán đây.” Nói xong, tôi làm bộ muốn đứng dậy hành lễ, y vội ngăn tôi lại, cười nói: “Được rồi, trẫm mới đùa có một câu mà nàng đã tưởng thật rồi, ngoan ngoãn nằm yên nghỉ ngơi đi!”

Tôi không kìm được, cười. “Đó là lời vàng của Hoàng thượng đích thân nói ra đấy, lát nữa đừng có quên mất rồi lại chỉ trích thần thiếp nữa nhé!”

Y véo véo mũi tôi, đá tung đôi giày đang mang, để lộ đôi tất bằng đoạn màu lam thêu rồng bằng chỉ vàng, kéo chăn lên, cười hì hì, nói: “Trẫm cũng nằm nghỉ với nàng một lát!”

Tôi lấy chiếc gối sa mới màu lá sen non bên trong có cánh hoa cúc dại và thược dược đặt dưới cổ y, rồi thuận thế rúc vào nách y, ngắm nghía đôi tất. “Đôi tất này thêu tinh xảo quá, hình như là do An muội muội làm thì phải.”

Y cúi đầu ngắm kĩ một lát rồi đáp: “Trẫm cũng không nhớ rõ nữa, hình như là thế. Tài may vá, thêu thùa của nàng ta không tệ.”

Tôi không biết nói gì thêm, đành hỏi: “Hoàng thượng khi nãy từ đâu đến đây?”

Y thuận miệng đáp: “Sang thăm Thẩm Dung hoa.”

Tôi tủm tỉm cười. “Nghe nói tỷ tỷ đã khỏe rồi, có thể ngồi dậy được, một ngày hai lượt sai người sang thăm hỏi thiếp.”

Y lấy làm lạ, nói: “Vậy ư? Lúc trẫm tới thì nàng ta vẫn chưa ngồi dậy được để tiếp giá mà?”

Trong lòng tôi vô cùng nghi hoặc. Hôm qua Thải Nguyệt đến vấn an, nói rằng My Trang có thể xuống giường đi lại được rồi, chỉ là không thể ra khỏi cửa mà thôi. Xem ra vì chuyện bị giam lỏng mà tỷ ấy vẫn có chút oán hận Huyền Lăng, không muốn ngồi dậy tiếp đón, tôi bèn nói vuốt đuôi: “Bệnh tình của tỷ tỷ vốn hay thay đổi, bệnh dịch đâu phải dễ dàng chữa khỏi đâu.”

Y “à” một tiếng, không nói gì thêm, hồi lâu sau mới lên tiếng: “Nhắc đến bệnh dịch, trẫm lại nghĩ tới một chuyện bực cả mình.”

Tôi thỏ thẻ khuyên: “Hoàng thượng đừng tức giận mà, có thể kể cho thần thiếp biết được không?”

Ngón tay cái và ngón trỏ của y giữ lấy một góc chăn gấm, chậm rãi kể: “Hôm trước trẫm nghe Kính Phi nói, hai tên Giang Mục Dương và Giang Mục Y chữa bệnh dịch tuy có chút kết quả nhưng lại ngấm ngầm nhận tiền hối lộ của không ít cung nữ và nội giám. Kẻ có tiền thì được chữa trước, kẻ không có tiền thì chẳng được nhìn ngó đến, bị bỏ mặc cho tự sinh tự diệt. Đúng là hèn hạ mà!”

Tôi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: “Người hành nghề y có tấm lòng như cha mẹ, hành động như thế thực sự là có y thuật mà không có y đức. Thần thiếp thực sự coi thường loại người như thế.” Tôi yên lặng một lát rồi hỏi: “Hoàng thượng còn nhớ chuyện bọn họ hãm hại Thẩm Dung hoa khi xưa không?”

Lông mày Huyền Lăng chau lại nhưng vẫn chẳng biết làm sao. “Trẫm không quên đâu, chỉ có điều hiện giờ bệnh dịch chưa hết, vẫn chưa giết chúng được.”

Tôi hơi ưỡn người dậy, thưa: “Thần thiếp xin tiến cử với Hoàng thượng một người có thể chữa khỏi bệnh dịch, thái y Ôn Thực Sơ.”

Y “ồ” lên một tiếng, ánh mắt lập tức lấp lánh có thần, hứng thú nói: “Nàng nói rõ hơn đi!”

“Ôn thái y chữa bệnh cho tỷ tỷ rất hiệu quả, hơn nữa thần thiếp nghe nói phương thuốc của hai tên Giang Mục Dương và Giang Mục Y vốn xuất phát từ tay của Ôn thái y. Hoàng thượng nghĩ kĩ mà xem, hai tên Giang Mục Dương, Giang Mục Y vốn thiện trường chữa bệnh cho đàn bà và trẻ con, vì sao đột nhiên lại biết cách chữa bệnh dịch cơ chứ? Tuy nói người học y thuật thứ gì cũng biết một chút, nhưng dẫu có bắt đầu nghiên cứu từ đầu thì cũng chỉ biết võ vẽ mà không thể tinh thông. Hơn nữa, Ôn thái y vốn thiện trường chữa bệnh ôn dịch mà.”

Huyền Lăng im lặng suy nghĩ hồi lâu, nói: “Trẫm phải gặp tay Ôn Thực Sơ này một lần mới được, nếu đúng như lời nàng nói thì hai tên Giang Mục Dương, Giang Mục Y tuyệt đối không thể tha mạng.”

Tôi gối lên ngực y, dịu giọng thưa: “Hoàng thượng nói đúng lắm. Chỉ có điều, hiện giờ bệnh dịch trong cung có dấu hiệu chuyển biến tốt, người trong cung ai cũng cho rằng đó là công lao của bọn chúng, nếu bây giờ lấy cớ ăn hối lộ mà giết hai tên ấy, chẳng những người trong lục cung dèm pha Hoàng thượng vì nhỏ bỏ lớn, không để ý đến đại cục, mà e là ngự sử bên ngoài cũng nghe ngóng được tin tức, ảnh hưởng xấu đến thanh danh. Hoàng thượng, người thấy sao?”

“Nói cho cùng bọn chúng cũng là người của Hoa Phi, trẫm không thể không dè chừng Hoa Phi và gia tộc sau lưng nàng ta.” Y khẽ cười lạnh. “Nếu muốn giết thì thiếu gì cách cơ chứ? Đương nhiên không để người đời dèm pha rồi!”

Thân là quân vương, nhẫn nhịn, kiềm chế càng nhiều, tương lai khí oán bốc lên càng mạnh mẽ, bởi vì lòng tự phụ và tự tôn của họ vốn hơn xa người thường. Tôi đạt được mục đích, mỉm cười nhàn nhạt, dùng tay che lỗ tai, lắc đầu giận dỗi. “Cái gì mà giết hay không giết cơ chứ, thần thiếp nghe mà giật cả mình. Hoàng thượng không được nói như vậy nữa!”

Y vỗ về bờ vai tôi. “Được rồi, chúng ta sẽ không nói chuyện này nữa. Ngày Mười hai tháng Tư là sinh nhật mười bảy tuổi của nàng, chiến sự tây nam không ngừng đưa về tin thắng trận, nàng lại đang mang thai, trẫm sẽ lệnh cho bộ lễ tổ chức sinh nhật thật náo nhiệt cho nàng, vậy có được không?”

Tôi lúng liếng đưa mắt lườm y rồi dịu dàng thưa: “Hoàng thượng quyết định là được rồi!”

Y lại chìm trong suy tư, chầm chậm thốt lên hai chữ: “Hoa Phi…” nhưng rồi không nói thêm gì nữa.

Tôi chợt nghĩ ra một ý, hỏi: “Mấy ngày nay Hoàng thượng ở lì bên chỗ Hoa Phi, vì sao nàng ta chẳng có tin vui gì vậy?”

Y vẫn đang trầm tư, thuận miệng trả lời tôi: “Nàng ta sẽ không có con đâu.”

Tôi lấy làm lạ, hỏi: “Thần thiếp nghe nói Hoa Phi từng bị sẩy thai, có phải vì thế mà thân thể bị tổn thương không?”

Y tựa như nhận ra mình lỡ lời, bèn lờ đi câu hỏi của tôi, chỉ mỉm cười cho qua chuyện, hỏi thăm tình hình ăn uống, nghỉ ngơi của tôi.

Huyền Lăng bầu bạn với tôi một buổi rồi đi thăm Đỗ Lương viện. Tôi đưa mắt nhìn theo bóng y rời đi rồi mới mang hài, khoác áo ngồi dậy. Cận Tịch hầu hạ tôi uống một chén nước mơ cho tỉnh táo rồi khẽ khàng thưa: “Vào lúc này, nương nương khuyên Hoàng thượng giết chết hai tên họ Giang đó thì có phải là quá gấp gáp không?”

Tôi cười lạnh một tiếng, tay đùa nghịch chén nước, nói: “Không gấp đâu. Ta đã nói với ngươi rồi, lần trước trong cung của Hoàng hậu có người muốn đẩy ta đâm vào người Đỗ Lương viện, tuy không biết là ai nhưng có thể thấy tâm tư độc ác. Hiện giờ ta đang mang thai, càng là cái gai trong mắt bọn họ, trận dịch bệnh này đã đem lại không ít lợi ích cho hai tên họ Giang, địa vị của chúng ở Thái y viện được đề cao. Ôn đại nhân ở lì bên chỗ Thẩm Dung hoa, Chương Di là kẻ không mấy lanh lợi, ngộ nhỡ bị tên họ Giang giở trò gì với thuốc thang thì chúng ta chẳng phải là ngồi yên chờ họa hay sao? Chẳng bằng sớm giải quyết bọn chúng cho xong.” Hộ giáp dài gõ leng keng vào chiếc bát sứ, phá vỡ bầu không khí yên tĩnh của gian phòng, tôi chậm rãi nói tiếp: “Thực ra thì Hoàng thượng cũng nhẫn nhịn chúng lâu rồi, nếu không phải lúc cần dùng người thì sớm đã giết chết bọn chúng.”

Cận Tịch cười nhạt. “Kính Phi khuyên can Hoàng thượng rất đúng lúc. Nhưng mà cũng phải nhờ hai tên Giang Mục Dương, Giang Mục Y chịu chui đầu vào bẫy nữa.”

Tôi mỉm cười. “Đó là chuyện đương nhiên, loại người tham lam như bọn chúng chỉ cần có kẻ lấy vàng bạc ra làm mồi nhử là chúng động lòng ngay. Hoàng thượng chỉ tạm thời nhẫn nhịn bọn chúng thôi, bọn chúng đắc chí, vênh váo như thế đúng là tự tìm đường chết mà!”

Hai ngày sau, bên ngoài cung truyền đến tin tức rằng hai người Giang Mục Dương, Giang Mục Y trên đường rời cung về nhà bị cường đạo giết chết, đến đầu cũng bị cắt mất. Hoàng đế thương tình bọn họ đã khổ cực chữa bệnh dịch bèn ban cho trăm lượng bạc trắng để lo tang sự, coi như là khen thưởng, lại lệnh cho Ôn Thực Sơ tiếp nhận việc chữa trị dịch bệnh. Nhất thời trong cung và ngoài cung đều xưng tụng thánh thượng thương yêu thần tử, tấm lòng nhân hậu.

Lúc nhận được tin, tôi đang đứng dưới cửa sổ tỉa nhánh hoa hạnh, chỉ bình thản mỉm cười. Cũng nhờ vào trận dịch bệnh này, Ôn Thực Sơ công thành danh toại, coi như là chút báo đáp của tôi cho tình ý thuở xưa của hắn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

59#
 Tác giả| Đăng lúc 15-4-2016 15:19:34 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 19
Ngày sinh


Ngày Mười hai tháng Tư là sinh nhật của tôi, từ khi tin Huyền Lăng muốn tổ chức tiệc mừng cho tôi được truyền ra ngoài, cửa Đường Lê cung suýt nữa bị đạp đổ. Từ tôn quý như Hoàng hậu đến nhỏ nhoi như canh y cấp bậc thấp nhất, không kẻ nào không đích thân đến chúc mừng và tặng lễ vật hậu hĩnh. Hoa Phi vốn bất hòa với tôi nhưng lễ nghĩa ngoài mặt thì vẫn luôn mười phần tròn vẹn. Đến thượng cung, nội giám hầu hạ trong cung cũng đi theo nịnh nọt, bợ đỡ người trong cung của tôi. Hậu cung vốn thiện trường thượng đội hạ đạp, xu phụ kẻ được sủng ái, huống hồ tôi vừa được phong làm quý tần, lại đang mang thai, đương nhiên là vinh quang vô cùng tận.

Vó ngựa xuân dập dồn, hoa Trường An ngắm hết [1]. Hai câu thơ này có thể tóm gọn được nỗi đắc ý của tôi lúc này.

[1] Bài thơ Đăng khoa hậu của Mạnh Giao. Nguyên tác: “Xuân phong đắc ý mã đề tật, nhất nhật khán tẫn trường an hoa.”

Gặp mặt đẩy đưa, tươi cười ứng đối quá nhiều không tránh khỏi mệt mỏi, chán nản, tôi ba lần bảy lượt muốn đi chơi thuyền ngoài hồ Thái Dịch cho khuây khỏa, nhưng Lưu Chu và Hoán Bích đều hết lòng khuyên can, nhanh mồm nhanh miệng bảo rằng mặt hồ gió lớn, nếu bị cảm thì không ổn. Nghĩ lại cũng đúng, tháng Tư ngoài hồ không có hoa sen, chỉ có cảnh đền rồng gác phượng chạm trổ cầu kỳ, dẫu mỹ lệ cách mấy cũng không so sánh được với nét đẹp tự nhiên. Cứ như vậy mấy lần liền, tôi cũng chẳng buồn ra khỏi cửa nữa.

Một ngày trước hôm sinh nhật, Huyền Lăng đích thân mang lễ vật đến chỗ tôi, một chiếc đệm đan tổ văn bằng vàng, một tấm gấm uyên ương nghìn vàng, một hạt bất dạ châu treo trước gối, một tấm đệm lông báo xanh tẩm hương, hai con long hương ác ngư, bốn chiếc vòng liên hoàn vàng ròng, một chiếc váy giáng tiêu, ba tấm lót tay hương vân la, một hộp bích ngọc cao, tám tấm cung đoạn mới đủ màu cùng các món đồ chơi từ nước ngoài tiến cống.

Tôi dù gì vẫn còn trẻ, ân sủng của quân vương ban xuống quá nhiều, sống ở lầu vàng gác bạc, khắp nơi đều là cảnh phồn hoa, lòng tham hư vinh chẳng kém bất kỳ thiếu nữ nào. Nhìn những món quà trân quý chưa từng thấy bao giờ chiếu rọi lấp lánh khiến cả căn phòng của tôi sáng rỡ như ban ngày, trong lòng tôi đương nhiên hết sức vui sướng. Nhưng điều khiến tôi hạnh phúc hơn cả là sự hết lòng của Huyền Lăng. Y vui vẻ kể: “Lâu lắm rồi, trẫm có đọc Phi Yến ngoại truyện, rất tò mò liệu Thành đế có thực sự ban cho Phi Yến nhiều bảo vật thế này không. Trẫm nghĩ bụng, Thành đế ban cho Phi Yến được thì trẫm cũng có thể ban cho nàng được, do đó bèn lệnh cho người đi khắp nơi tìm kiếm, chỉ mong lấy được của nàng một nụ cười.”

Tôi nhoẻn cười ngọt ngào, bảo y: “Tên của những món đồ này thần thiếp chỉ mới được biết qua sách sử, cứ cho đó là lời đồn không thực, không ngờ trên đời này quả thực có tồn tại.”

Y khoác tấm áo giáng tiêu lên người tôi, thốt lên đầy cảm xúc: “Ngày mai nàng mặc chiếc áo này nhé, nhất định sẽ khiến tất cả mọi người bị mê hoặc.”

Tấm áo giáng tiêu có thêu hình đuôi phượng màu tím bạc, từng sợi lông vũ màu xanh khổng tước tỏa ra hào quang yếu ớt lập lòe dưới ánh nắng mặt trời chiếu rọi, nhất định sẽ hết sức rực rỡ, chói mắt. Tôi khẽ cười thành tiếng. “Cần gì phải mê hoặc mọi người cơ chứ. Hoàn Hoàn không tham lam đâu, chỉ cần mê hoặc được mình tứ lang là đủ.”

Y giả vờ ngã lăn ra, cất tiếng cười lớn. “Trẫm đã bị nàng mê hoặc từ lâu rồi!”

Đến tối, kiểm tra lại lễ vật từ các cung, các phủ đưa đến, Cận Tịch thưa: “Chỉ mình Thanh Hà vương phủ là không có lễ vật thôi!”

Đã lâu lắm rồi tôi chưa hề nghe lại cái tên này, cũng chưa từng cố ý nhớ đến. Hiện giờ tình cờ nghe thấy, lại có liên quan đến ngày sinh của tôi, tôi chẳng thèm để ý đến, tiếp tục tập viết theo mẫu chữ, miệng bảo: “Lục vương cởi mở thoải mái, đương nhiên là chẳng quan tâm đến những lễ nghi phàm tục này.”

Cận Tịch chỉ cười. “Nô tỳ nghe nói vương gia cư xử hết sức đặc biệt, không làm thì thôi, đã làm thì khiến ai nấy không khỏi kinh ngạc, vượt ngoài sức tưởng tượng của mọi người.”

Tôi chấm bút vào mực, nghĩ lại chuyện xưa, bất giác mỉm cười. “Vậy ư?” Rồi bỏ qua chẳng thèm để ý đến nữa.

Bữa tiệc sinh nhật của tôi được tổ chức ở Trọng Hoa điện trong Thượng Lâm uyển. Nơi này lầu gác huy hoàng, phong cảnh mê người, vừa uống rượu vui chơi vừa có thể thưởng thức cảnh đẹp như họa, đúng là hứng thú, thoải mái không sao kể xiết. Chỉ có chút thiếu sót nhỏ nhoi là Trọng Hoa điện cách hồ Thái Dịch xa quá, không thể ngắm được cảnh hồ nước.

Ngày hôm đó, tôi hoàn toàn độc chiếm sân khấu, tiếp đãi hậu phi, mệnh phụ, thoăn thoắt không ngơi nghỉ. Trong điện chen chúc bóng người, ai cũng giữ vẻ tươi cười với tôi. Tôi không có thời gian để ý tới việc đằng sau vẻ mặt ân cần đó có bao nhiêu là chân tâm, bao nhiêu là nguyền rủa. Kẻ chân tâm thì nhất định có thể cùng tôi chia sẻ niềm hạnh phúc hôm nay, còn nguyền rủa thì bao vinh quang và đắc ý của tôi sẽ khiến bọn họ khó chịu hơn nhiều. Đối với tôi mà nói, đó là cách báo thù hay nhất.

Sau những lời chúc tụng là đến tiếng đàn sáo véo von, vũ cơ múa may quay cuồng, mọi người mời nhau thưởng thức rượu ngon, nhắm tốt. Các vũ cơ xinh đẹp cười tươi như hoa, mắt đưa tình lúng liếng, giữa tiếng sênh ca nhạc đệm, tay ngọc uốn lượn, thân hình thướt tha. Tấm lụa bảy màu phấp phới tung bay khắp điện, mềm mại tựa sóng nước, dập dờn lấp lánh.

Sau khi khỏi bệnh, đây là lần đầu tiên My Trang xuất hiện trong một buổi tiệc lớn thế này. Sức khỏe của tỷ đã khôi phục lại như xưa, chỉ là thân thể hơi gầy gò, vẻ mặt càng trầm tĩnh, chẳng khác gì mặt hồ phẳng lặng không gợn sóng, lẳng lặng ngồi nơi bàn tiệc một mình uống rượu.

My Trang hiện giờ không còn phong thái đắc ý, phấn khởi của ngày xưa. Vinh sủng cùng vận may thay đổi không ngừng, lúc này lúc khác, chẳng bao giờ có thể giữ chặt trong tay. Hẳn là tỷ đã hiểu được điều đó, cho nên dẫu được khôi phục lại địa vị cũ thì tính tình của tỷ cũng càng lúc càng kín đáo, cứ như thể chẳng muốn ai để ý đến mình vậy.

Chỉ mình tôi cảm nhận được, lửa giận ấm ức vẫn đang phừng phừng bốc cháy trong nội tâm của tỷ.

Rượu uống đến dở say, ca vũ xem cũng phát chán. Nhìn quanh một lượt, không thấy Thanh Hà vương Huyền Thanh trên bàn tiệc, cũng chẳng ai biết y đang ở chốn nào. Huyền Lăng chỉ cười xòa, chẳng mấy quan tâm. “Vị lục đệ này của trẫm chẳng biết đang đi đến nơi nào rồi!”

Tôi càng chẳng muốn quan tâm đến, y và tôi chẳng qua chỉ là em chồng chị dâu, dẫu y là người duy nhất từng chứng kiến và an ủi nỗi đau ẩn giấu trong lòng tôi, dẫu trong lòng y đang ấp ủ chút tình ý không thể giãi bày với tôi, tôi chỉ có thể vờ như không hay biết, chẳng khác gì đối xử với Ôn Thực Sơ.

Người trong núi chừ, như đỗ nhược thơm,tôi vốn không phải là đỗ nhược lặng lẽ nở rộ trong u cốc nơi núi cao, mà là đóa hải đường bị hái cầm trong tay ven dao trì của bậc đế vương. Hoa thơm cũng đã có chủ, huống gì là người cơ chứ! Đều là chuyện không thể nào thay đổi được, không có sức thay đổi, mà cũng chẳng cần thay đổi làm gì.

Chỉ có điều, vào những lúc cảm thấy đau lòng và mất mát trước bao chuyện thị phi trong cung, tôi không khỏi dằn vặt, nhớ nhung đóa tịch nhan tinh khiết nơi góc đài Đồng hoa cùng bó hoa sen cuối mùa trong đêm ngoài hồ Thái Dịch, mùi hương ngọt ngào, thơm ngát đến cực điểm ngay trước lúc lụi tàn vẫn còn như đang ngưng đọng phảng phất nơi chóp mũi.

Sau một thoáng ngẩn người, tôi để ý thấy giữa đám người náo nhiệt, chính phi của Nhữ Nam vương là Hạ thị ngồi yên trong góc, vẻ mặt ưu sầu không thốt tiếng nào. Tôi bèn bước lên, hạ giọng hỏi thăm: “Vương phi trong người không được khỏe sao?”

Nàng ta thấy là tôi, có chút ngượng ngùng rồi cố nhỏ giọng đáp lời: “Thiếp thân thất lễ, căn bệnh đau ngực lại tái phát rồi!”

Tôi gật đầu hiểu ý, lấy cớ cần thay áo, kéo tay nàng ta ra chỗ khuất ở điện phụ, đỡ nàng ta ngồi xuống. Hạ thị áy náy xin lỗi tôi: “Sinh nhật của nương nương mà thiếp thân làm nương nương mất hứng quá!”

Tôi tủm tỉm cười, ôn hòa an ủi: “Vương phi đừng nói như vậy, ai mà chẳng có lúc đau bệnh cơ chứ, uống thuốc đầy đủ là khỏe lại ngay thôi.” Lại hỏi: “Vương phi ngày thường vẫn hay dùng thuốc Thiên vương bảo tâm đan phải không?” Nàng ta gật đầu nói phải. Tôi bèn lập tức vẫy tay lệnh cho Lưu Chu quay về lấy thuốc, bảo nàng ta: “Vương phi chịu khó đợi chút, thuốc lập tức sẽ được đưa tới ngay.” Nói xong, tôi đích thân rót nước ấm ra cho nàng ta uống.

Nàng ta nửa cảm kích nửa lo âu. “Phiền đến tay ngọc của nương nương, thiếp thân thực lòng không dám nhận.”

Tôi đáp: “Bên ngoài kia, bản cung và vương phi là quân thần, bên trong lại là thân thích, sao lại nói khách sáo phiền hay không phiền cơ chứ? Vương gia chinh chiến sa trường, vương phi lẽ ra nên biết trân trọng sức khỏe mới phải.”

Tôi đột nhiên để ý đến ấn đường nàng ta, trên có vẽ mấy nét đỏ nhạt, hệt như Giảo lê trang trên ấn đường của tôi, bất giác tò mò hỏi: “Bên ngoài cung cũng có nhiều người thích kiểu vẽ này ư?”

Nàng ta dịu dàng mỉm cười. “Hiện giờ trong cung và những nơi khác đều thịnh hành Giảo lê trang này, coi đó là đẹp, chẳng những vì muốn bắt chước nhan sắc của nương nương mà còn để cầu cho phu thê hòa thuận, đúng là một đoạn giai thoại đẹp.”

Tôi dẫu không có tính khoe khoang nhưng nghe những lời như vậy thì không khỏi sinh lòng cao hứng tự đắc.

Thuốc nhanh chóng được mang tới, Hạ thị dùng thuốc xong, quả nhiên sắc mặt tươi hơn nhiều. Nàng ta cười, thưa: “Thường nghe nói nương nương được Hoàng thượng sủng ái nhất, không ngờ người lại hiền hậu thế này, hèn gì Hoàng thượng hết lòng yêu thương người.” Nhữ Nam vương tính tình ngay thẳng, lạnh lùng, thế mà vương phi lại là một người hết sức hòa nhã, dịu dàng, khiến tôi hết sức bất ngờ.

Cứ như thế hai bên trò chuyện liên miên, Hạ thị vốn cũng khỏe mạnh, nhưng sau khi sinh thế tử thì mắc phải bệnh đau ngực, không sao chữa khỏi. Tôi cũng đang mang thai, vừa nhắc đến chuyện con cái thì không khỏi hứng thú, vui vẻ trò chuyện khá lâu, hai người chúng tôi hết sức ăn ý với nhau.

Nhữ Nam vương là thế lực mạnh nhất sau lưng Hoa Phi, tôi trước giờ đều hết sức cố kỵ, không ngờ hôm nay cơ duyên xảo hợp, có dịp gặp mặt trò chuyện với Hạ thị, hai bên lại cũng hợp ý. Nhưng dẫu hợp ý đến đâu, nàng ta cũng là chính phi của Nhữ Nam vương, tôi tuy tỏ vẻ thân mật nhưng cũng ngầm giữ chút khoảng cách. Đến lúc Huyền Lăng sai người đến gọi, tôi bèn hẹn với nàng ta năng vào cung gặp gỡ trò chuyện, rồi hai người chúng tôi mới chia tay nhau.

Trở lại bàn tiệc, tôi liền thấy có cung nhân đến mời: “Lục vương gia có chuẩn bị lễ vật chúc mừng ngày sinh của Quý tần nương nương ở bên hồ Thái Dịch, xin mời Hoàng thượng và nương nương cùng đi xem thử.”

Huyền Lăng cười, nói: “Lão lục có nhiều ý tưởng hay ho, không biết lần này lại nghĩ ra trò gì đây? Chúng ta cùng đi xem thử nào!”

Thế là mọi người xúm xít, túm năm tụm ba đi về phía bờ hồ Thái Dịch. Từ xa nhìn lại, thấy ở ven hồ có màn che gấm thêu giăng trên cao, khẽ phất phơ theo gió, hết sức đẹp mắt. Chỉ có điều chúng đã che khuất cảnh quan hồ Thái Dịch, vẻ ngoài xa hoa thật nhưng chẳng nhìn thấy gì bên trong.

Bốn bề im lặng một cách kỳ lạ, tôi nghi hoặc nhìn sang Huyền Lăng, y cũng lộ vẻ chẳng hiểu gì, chỉ tươi cười đứng nhìn. Đột nhiên trên bầu trời có đến mấy trăm mấy ngàn cánh diều, hình chữ phúc, hình chữ thọ, hình chim ưng, bươm bướm, chuồn chuồn, con rết, chim nhạn, chim yến, lồng đèn, có thứ làm bằng lụa, có thứ làm bằng giấy, dát vàng dát bạc, có món đứng riêng lẻ, có loại đứng thành đôi, xỏ thành chuỗi, phát ra âm thanh, tỏa ra ánh sáng, bay lượn đầy trời, sắc màu chói lọi, khiến người nhìn hoa cả mắt. Bốn bề vang lên tiếng thở dài thán phục, tấm tắc khen ngợi, liên miên không dứt.

Tôi đang mở to mắt ngắm nghía thì đột nhiên Cận Tịch tiến lại thỉnh an rồi vui vẻ thưa: “Chúc mừng nương nương, xin người hãy thả diều cầu phúc.” Nói xong bèn đặt sợi dây diều vào tay tôi. Nói thả diều chỉ là cho có, chứ nội giám sớm đã căng dây sẵn cho tôi rồi, tôi chỉ cần dùng tay kéo là được. Tôi tươi cười kéo dây đi, cánh diều chập choạng rồi bay vút lên cao, thì ra là một cánh diều hình chim phượng cực lớn, màu sắc sặc sỡ, phong thái huy hoàng, lấp lánh chói mắt. Nó rất hợp với chiếc áo giáng tiêu có thêu hình đuôi phượng màu tím bạc đang khoác trên người tôi, cả hai chiếu rọi tôn lên vẻ đẹp của nhau. Tiếng hoan hô khen ngợi ồn ã bên tai, tôi bất giác nở nụ cười thỏa mãn.

Đột nhiên một tiếng huýt sáo trong trẻo vang lên, những tấm màn gấm thêu bao quanh hồ Thái Dịch soạt một tiếng đồng loạt rơi xuống đất. Cảnh tượng trước mắt thực sự vượt ngoài sức tưởng tượng, mọi người vốn đang xuýt xoa trước những cánh diều bay đầy trời nay đồng loạt im phăng phắc. Cảnh đẹp như vậy nằm ngay trước mắt khiến người xem không khỏi nín thở hồi hộp.

Đang độ tháng Tư, đến lá sen cũng chưa có, hồ Thái Dịch hôm trước chỉ là mảng nước xanh thoáng đãng. Nhưng vào giờ phút này, trên mặt hồ xanh biếc đã nổi lên vô số hoa sen trắng muốt, thanh tao, tựa như những chiếc chén bằng dương chi bạch ngọc, bồng bềnh trôi nổi. Ánh ban mai lấp lánh, hơi sương đọng trên cánh hoa phản chiếu ánh long lanh, đẹp như ráng mây, chói lọi như gấm đoạn. Gió cùng sen uyển chuyển, lá xanh dập dờn, sóng nước nhấp nhơ, phản chiếu bóng người xen lẫn bóng hoa, yểu điệu mê người khó mà tưởng nổi.

Ngước mắt nhìn ra xa, tôi thấy Huyền Thanh chầm chậm bước tới, trong tay không cầm nhạc cụ nào, chỉ lấy tay đặt giữa môi, huýt sáo khúc Phượng hoàng vu phi. Phượng hoàng tung cánh, hòa giọng véo von [2], đó có thể nói là giấc mộng của tất cả nữ nhân trên thế gian này. Điệu nhạc mà y huýt sáo cũng hết sức trong trẻo mà giản đơn, tựa gió mát hiu hiu từ mặt hồ thổi lại, chao mình một thoáng giữa khoảng yên tĩnh đầy thán phục, từng khúc từng khúc ngấm sâu vào lòng người. Phượng hoàng tung cánh, đối với y là một điều đơn giản mà y luôn cố chấp theo đuổi. Đối với tôi, đó chính là một giấc mơ tươi đẹp của thời thiếu nữ, không thích hợp để tiếp tục đắm chìm trong chốn thâm cung này. Tôi đã chứng kiến một mảnh mộng vỡ tan trên người My Trang rồi.

[2] Nguyên tác: “Phượng hoàng vu phi, hòa minh khanh thương”, trích từ Tả truyện – Trang công, ý chỉ phu thê tình thâm gắn bó.

Tiếng huýt sáo của y dần chùng xuống rồi tắt hẳn, điệu nhạc chấm dứt, y bèn chầm chậm bước tới trước mặt tôi và Huyền Lăng, nụ cười mỉm hướng về tôi nhàn nhạt, bình thản. Y đã bỏ bao nhiêu công sức vào món lễ vật này, cho nên chỉ dùng một câu chúc tụng cực kỳ vô vị: “Tiểu vương xin lấy hoa sen đầy hồ chúc mừng sinh nhật Hoàn Quý tần.”

Tôi thấy y chúc mừng sinh nhật của mình long trọng như vậy, chợt nhớ lại bức tranh cắt giấu trong túi gấm của y hôm đó, trong lòng sớm đã cảm thấy bất an, nhưng dù gì cũng đang ở trước mặt bàn dân thiên hạ, tôi bèn giữ vẻ mặt khách sáo, nền nã. “Vương gia vất vả rồi, bản cung hết sức cảm kích!”

Vừa dứt lời, Huyền Lăng đã cất tiếng cười lớn đầy sảng khoái. “Trẫm chỉ dặn dò ngươi nghĩ ra trò gì hay ho, mới lạ để chúc mừng ngày sinh của Hoàn Quý tần, không ngờ ngươi lại tài hoa như vậy, khiến trẫm cũng phải giật mình ngạc nhiên.” Nghe y nói như vậy, tôi mới an tâm.

Nụ cười của Huyền Thanh hết sức ôn hòa nhưng ánh mắt lại đầy xa cách. “Thần đệ chẳng qua là kẻ phú quý nhàn rỗi, chỉ thông hiểu những trò thế này. Hoàng thượng cũng biết mà, nếu không thì đã không nhờ thần đệ lo liệu giúp.”

Huyền Lăng nghe vậy thì cười lớn vẻ đắc ý, nhưng tôi nghe thì không khỏi động lòng. Huyền Thanh lộ vẻ bất cần như vậy nhưng trong lòng hẳn cũng rất băn khoăn, con trai của Ngọc Ách phu nhân chinh chiến sa trường, còn bản thân y là con trai được tiên hoàng yêu thương nhất, nay chỉ biết dốc lòng vào chuyện viển vông, lo liệu tổ chức ngày sinh nhật cho sủng phi của hoàng huynh. Hẳn là không thể không sinh lòng thương cảm.

Dung nhan của tôi ẩn giấu sau lớp lụa giao mỏng nhẹ, khóe môi nhếch lên lộ nét cười nhàn nhạt thấu hiểu. “Chỉ có điều, không biết vương gia làm thế nào mà có thể khiến cho hoa sen nở rộ vào tiết trời này được?”

Y nhìn sang tôi, trong mắt lóe lên chút tình ý dịu dàng, nhàn nhạt khó mà phát giác. “Củ sen đã được trồng sẵn từ sớm, đưa nước suối nóng ở bên ngoài gần cung nhất vào hồ Thái Dịch, hoa sẽ nở ngay thôi.”

Ánh mắt tôi lướt qua người y rồi dừng lại nơi Huyền Lăng, tôi cảm kích lên tiếng: “Đa tạ Hoàng thượng!” Giọng nói tràn đầy hoan hỷ, nụ cười hết sức quyến rũ. Vào giây phút này, cuộc đời tôi tựa hồ chẳng có gì không vừa ý cả.

Người tôi cảm ơn là Huyền Lăng. Đương nhiên tôi cũng biết Huyền Lăng chỉ dặn dò một tiếng, còn Huyền Thanh mới là kẻ vất vả dốc lòng làm nên. Cánh diều bay đầy trời không nói làm gì, còn hoa sen ư? Tôi chợt nhớ đến khoảng thời gian cuối tháng Tám năm ngoái và bó hoa sen nở rốn tận phút cuối cùng.

Y đương nhiên vẫn còn nhớ rõ.

Nhưng tôi lại không thể nói thêm điều gì, cũng không thể có cử chỉ nào khác lạ. Trong mắt người ngoài, y chẳng qua là một kẻ dòng dõi hoàng tộc từng gặp tôi trong buổi yến hội cung đình, bỏ công sức ra nhiều đến thế cũng chỉ vì Huyền Lăng. Nhưng những điều tôi hiểu và cảm nhận được thì người ngoài không thể nào biết được. Thế là tôi chỉ có thể lướt mắt nhanh như làn gió nhìn qua y một thoáng rồi khẽ gật đầu. Y nhìn lại tôi rồi mỉm cười với hoa sen nở đầy hồ.

Chúng tôi chẳng có chút gì liên quan đến nhau.

Thực ra tận đáy lòng, tôi cũng cảm thấy sợ hãi. Không có giờ nào phút nào mà tôi không ghi nhớ sâu sắc thân phận của mình, bởi vì ghi nhớ, bởi vì từng vô tình phát hiện ra bí mật như có như không của Huyền Thanh, bởi vì biết rõ thứ tình ý mà tôi khao khát nhưng chẳng bao giờ đạt được ấy, y có thể dễ dàng trao cho người vợ tương lai chưa hề biết mặt, tôi không khỏi tự thương thân mình, cố ý giữ khoảng cách với y.

Huyền Thanh khác hẳn với Ôn Thực Sơ. Tình cảm của Ôn Thực Sơ dành cho tôi, bởi vì tôi luôn biết rõ, luôn chẳng để ý đến, cho nên đối với tôi, hắn chẳng khác gì một chiếc lá bình thường trên cây, biết nó có tồn tại là đủ. Còn khi nào mọc, khi nào rụng thì chẳng mấy quan tâm, dẫu cho có một hôm nào đó hắn đột nhiên biến mất. Cũng vì thế mà tôi chẳng hề sợ hãi, chỉ là không muốn hắn nghĩ vẩn nghĩ vơ, chẳng đem lại điều gì tốt đẹp cho mình, cho người.

Còn Huyền Thanh ư, y là em trai của phu quân tôi, cơ hội gặp gỡ về sau còn quá nhiều. Hơn nữa, y lại hiểu được tôi, cũng hiểu không nên đem lại phiền phức cho tôi. Chỉ khi nào tôi đau lòng không kìm nén được thì mới cất tiếng an ủi một, hai câu. Chỉ có thế mà thôi!

Thái độ kìm nén và thông hiểu của y khiến cho tôi có chút động lòng và đồng cảm.

Hôm nay Huyền Lăng vui lòng đắc ý, cao giọng nói: “Chiến sự tây nam báo tin thắng trận, đại quân đã ban sư hồi triều. Trẫm đương nhiên phải luận công ban thưởng, thăng chức cho các tướng sĩ.” Y quay đầu nhìn tôi, tươi cười vui vẻ. “Ngày mà anh trai Chân Hành của nàng hồi triều, trẫm sẽ phong cho y làm Phụng Quốc tướng quân, tứ hôn cho y và Tiết thị, được không?” Ân huệ cao quý như vậy, tôi đương nhiên chỉ biết tạ ơn. Huyền Lăng cao giọng nói lớn, mọi người có mặt đều nghe rõ mồn một, tôi đảo mắt nhìn quanh, chợt thấy mặt Lăng Dung ngồi cạnh Lưu Thận tần biến sắc rồi sau đó lại lập tức trơ ra, trầm lặng như cũ.

Có lẽ đến giờ, Lăng Dung đã đủ trưởng thành để hiểu rõ, mối tình thiếu niên vương vấn đến tôi cũng chẳng tỏ tường giữa nàng ta và ca ca cuối cùng cũng phải chấm dứt bên trong hậu cung giữa bốn bức tường đỏ thắm. Lạnh lẽo thê lương, ai lo đời người nấy, chẳng cần nhớ lại làm gì.

Tôi không khỏi cảm thấy đau lòng nhưng Hoàng hậu đã vui vẻ nói tiếp ngay: “Ngươi đã là Quý tần, phụ thân vốn là quan lớn trong triều, nữ quyến trong nhà cũng phải được phong thưởng mới phải. Bản cung đã ban phượng dụ, phong mẹ của người làm chính tam phẩm Bình Xương quận phu nhân.” Trong lúc nói chuyện, nàng ta đưa mắt nhìn lướt qua khuôn mặt trang điểm kĩ càng của Hoa Phi.

Mẫu thân của Hoa Phi vốn là chính tam phẩm Hà Nội quận phu nhân, Hoa Phi từng ỷ được sủng ái, vòi vĩnh Huyền Lăng phong mẹ của mình làm chính nhị phẩm phu nhân, đó chính là vinh dự mà chỉ có gia quyến của tứ phi có được nên bị Hoàng hậu ra sức phản đối, cuối cùng phong thưởng không thành. Vì chuyện này, Hoa Phi hết sức mất mặt, lúc nào cũng ra mặt chống đối Hoàng hậu. Hiện giờ mẫu thân của tôi dễ dàng có được cáo phong, nàng ta tự nhiên sẽ trút hết cơn giận lên đầu tôi.

Còn đối với tôi, ngày hôm nay, vinh dự và hào quang đã đạt đến cực điểm.

Ngẩng cao đầu nhìn quanh, hoa sen nở rộ đầy hồ, lá sen xanh ngắt nối tiếp nhau, cánh hoa trong ngần dưới ánh mặt trời, làn nước mềm mại, dập dờn, phản chiếu vô số tia sáng mỹ lệ lấp lánh, hào quang chuyển động lung linh.

Ở nơi đây, cuộc đời của tôi muôn hồng nghìn tía, cẩm tú vô song.

Hoa tươi trên gấm, lửa cháy thêm dầu, những ngày tốt đẹp hẳn là như thế này đây.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

60#
 Tác giả| Đăng lúc 15-4-2016 15:36:59 | Chỉ xem của tác giả
Tập 2-Chương 20
Lỡ cánh diều


Từ khi có đứa bé này trong bụng, sinh mệnh mới lạ và mạnh mẽ lúc nào cũng khiến tôi vừa vui sướng vừa kinh ngạc. Ngày thường rảnh rỗi, tôi hay đặt tay lên bụng, khẽ khàng, dè dặt, e ngại sức nặng của bàn tay sẽ chèn ép đứa bé. Dần dần, đó đã trở thành thói quen của tôi, vừa là hành động biểu lộ tình yêu vừa là để bảo vệ đứa bé trong bụng.

Ánh mặt trời mùa xuân xuyên qua màn cửa bằng lụa băng tiêu trắng xóa rọi vào phòng. Loại lụa tiêu này mỏng như cánh ve, chất lụa lại trong suốt như băng tuyết, cũng nhờ vậy mà Oánh Tâm điện sáng sủa rạng rỡ, đặc biệt. Ánh mặt trời uể oải buông rủ lên mấy cành hoa bích đào màu đỏ nhạt đang chớm nở cắm trong chiếc bình sứ hình mỹ nhân nhún vai đặt trên án, màu hoa tươi đẹp khiến người ta càng ngắm càng say.

Tôi dùng mấy món điểm tâm bày trên bàn rồi tiện tay lấy một quyển sách ra đọc.

Thuần Nhi bíu tay vào thành cửa sổ, thò đầu ra ngắm cảnh xuân miên man ở bên ngoài. Nhìn hồi lâu, nàng ta chợt bĩu môi lầm bầm: “Bốn bề toàn tường là tường, chẳng có gì đáng xem cả.”

Nàng ta thấy tôi cũng đang ngồi thần ra bèn hào hứng rủ rê: “Hôm nay mặt trời ấm áp thật, tỷ tỷ cùng muội đi thả diều nhé? Muội vẫn còn giữ hai cánh diều dịp sinh nhật của tỷ tỷ hai hôm trước đấy!”

Tôi đặt sách qua một bên, cười, nói: “Tính muội lúc nào cũng ưa náo nhiệt, chẳng hôm nào chịu ở yên cả. Nghe nói hôm qua bên muội chơi trò tung hứng còn làm vỡ mất chiếc bình phong bằng sứ mà Hoàng thượng ban thưởng nữa.”

Thuần Nhi lè lưỡi. “Hoàng thượng chẳng trách muội đâu.” Rồi cười hì hì quấn chặt lấy tôi, vòi vĩnh: “Tỷ tỷ ra ngoài đi dạo cho khuây khỏa, cứ ở lì trong nhà thế này thì người cũng lười biếng đi, không biết đứa cháu trai của muội sau này có phải là một gã lười chảy thây không đây?”

Tôi không nhịn được cười, nhìn ra ngoài cửa sổ thì thấy đúng là sắc xuân tươi đẹp, bèn nói: “Cũng được, cả ngày tỷ cũng chẳng có gì để làm.” Cảnh xuân như vẽ, tôi lẽ nào không muốn dạo bước thưởng thức cơ chứ, chỉ là sợ vết thương dính phải bụi bẩn, thêm vào chuyện của Đỗ Lương viện khiến tôi luôn nơm nớp trong lòng. Tôi bèn gọi nhiều người theo cùng, lấy mạng sa che kín mặt rồi mới cùng Thuần Nhi ra ngoài.

Chọn được một khoảng đất trống trong Thượng Lâm uyển, Thuần Nhi bắt đầu thả diều. Nàng ta thả diều rất khéo, gần như không cần đám tiểu nội giám giúp đỡ mà diều đã bay lên cao tít, hẳn là lúc nhỏ ở nhà cũng chơi trò này quen rồi. Giữa đám cỏ thơm um tùm, chỉ nghe thấy tiếng cười giòn giã, trong trẻo của nàng ta hệt như tiếng chuông gió leng keng dưới mái hiên. Nàng ta thấy cánh diều bay tít trên cao thì vừa phá lên cười vừa cất tiếng hò hét, vẻ vô cùng đắc ý.

Nàng ta đương nhiên là đắc ý rồi, trong số các phi tần được sủng ái, nàng ta là người nhỏ tuổi nhất. Huyền Lăng đối xử với nàng ta rất khoan dung, thêm vào tôi đang mang thai không thể thường xuyên hầu hạ y, Thuần Nhi lại ở ngay bên cạnh nên Huyền Lăng cũng thường ghé qua chỗ của nàng ta. Gần đây Huyền Lăng còn nói với tôi rằng, đợi Thuần Nhi tròn mười sáu tuổi thì sẽ sắc phong nàng ta làm tần.

Tôi ngẩng đầu nhìn cánh diều trên bầu trời cao trong vắt, nhớ đến một buổi trưa mùa xuân thuở còn thơ, tôi ở nhà tập thêu thùa may vá, chán chường đến mức chỉ muốn nằm vật ra ngủ, đầu gật gà gật gù như gà mổ thóc, khi ấy nghe ca ca đột nhiên mở cửa sổ khuê phòng của tôi, thò nửa đầu vào, cười hì hì rủ rê: “Muội muội, chúng ta trốn ra khỏi phủ đi thả diều nhé?”

Gió xuân nhuộm xanh nhành dương liễu, năm này tháng nọ, tuổi thơ đi qua nhanh tựa như cát chảy qua kẽ tay. Dường như vừa mới cùng ca ca đi thả diều một chuyến, hái hoa phượng tiên ngoài vườn nhuộm móng tay, lén ngáp dài khi thầy giáo không để ý, đứng dưới giàn nho mở to mắt đếm hỷ thước, ngắm Ngưu Lang và Chức Nữ gặp gỡ đêm Thất tịch, thế mà những năm tháng vô tư lự đó đã lặng lẽ trôi qua tự lúc nào.

Hiện giờ, tôi cũng sắp trở thành mẹ rồi. Tôi tủm tỉm cười nhìn sang Thuần Nhi. Trong số phi tần ở hậu cung, chỉ mình nàng ta có tính tình cởi mở thế này, tựa như một tia nắng xuân tươi đẹp, còn tôi đã dần thu mình thành một vầng trăng khuya, dẫu vẫn trong sáng đấy nhưng đã thuộc về màn đêm, trở nên mịt mờ, khó đoán.

Tôi cúi đầu vuốt ve phần bụng đã hơi nhô lên. Nếu con tôi có được sự hoạt bát và trong sáng như Thuần Nhi thì tốt, chỉ có điều không thể quá ngây thơ được. Công chúa thì thôi không nói nhưng nếu là hoàng tử thì quá ngây thơ không phải là một tính cách thích hợp.

Đang vui vẻ chìm đắm trong dòng suy nghĩ, tôi chợt nghe Thuần Nhi hoảng hốt kêu lên, dây diều trong tay bị đứt, cánh diều bay vụt đi mất. Thuần Nhi sốt ruột vội vã chạy đi tìm, tôi bèn gọi Tiểu Lợi Tử, dặn dò: “Mau đuổi theo tiểu chủ nhà ngươi, tìm diều cho tiểu chủ.”

Tiểu Lợi Tử đáp “vâng” một tiếng, co giò định chạy theo thì Thuần Nhi giẫm chân, bĩu môi quát: “Không cho đứa nào theo sau! Tỷ tỷ, bọn chúng đi theo chỉ làm vướng chân muội thôi!” Tính tình Thuần Nhi vẫn còn trẻ con, lúc nổi giận thì vô cùng hùng hổ, cho nên mấy cung nhân đành đứng lại, chần chừ nhìn sang tôi. Tôi nhìn cánh diều rơi xuống ở một nơi không quá xa, lại không ép được nàng ta, đành chiều ý cho nàng ta muốn làm gì thì làm, dặn dò mấy tiểu nội giám theo sau ở đằng xa.

Liễu rủ xiên xiên, gió nhẹ thổi khiến mặt hồ gợn sóng lăn tăn, mấy sợi tơ liễu trắng như nhung lơ lửng hững hờ, một gốc bích đào nở hoa đỏ rực soi bóng ven hồ, mỗi lần gió lướt qua, hoa bay phấp phới đầy trời, hương thầm theo nước chảy xuôi. Thuyền hoa bập bềnh, cầu ngọc vắt ngang, lâu đài đình các chập chùng tựa những hạt châu. Tôi ngắm cảnh một hồi thì cảm thấy mệt, bèn ngồi xuống tảng đá dưới gốc cây bích đào nghỉ ngơi.

Ánh xuân mê người nhưng không biết đằng sau bức màn mê hoặc ấy có bao nhiêu nỗi đe dọa kinh người. Tôi chợt nhớ lại tình cảnh nguy hiểm lúc ngắm hoa trong cung Hoàng hậu, nhớ tới đôi tay đẩy tôi từ đằng sau.

Sau khi chuyện xảy ra, vừa công khai quan sát, vừa dò la hỏi han nhưng tôi vẫn không điều tra được tông tích của kẻ đó. Cũng khó trách, lúc ấy tình hình rối loạn, ai lại đi chú ý xem đôi tay của kẻ nào đẩy tôi vào nguy hiểm cơ chứ?

Thế nhưng tôi không phải là không đoán được kẻ đó là ai. Nhớ lại tình cảnh hôm đó, mùi hương từ vạt áo rất quen thuốc, kẻ đó đã quên không che giấu chi tiết tưởng như vụn vặt này. Tôi vẫn nhẫn nhịn không để lộ ra, một là vì không có chứng cớ xác thực, hai là, tương lai tôi còn muốn lợi dụng kẻ này.

Khóe mắt tôi chợt loáng thoáng nhìn thấy một bóng người mặc áo màu đỏ bạc. Chưa kịp mở miệng, Cận Tịch đứng bên cạnh đã cung kính thỉnh an: “Tào Tiệp dư an hảo!” Đảo mắt nhìn kĩ, tôi vừa khéo nhìn thẳng vào đôi mắt hẹp dài, sâu thẳm của nàng ta.

Tào Cầm Mặc chỉ mặc chiếc áo trong màu trắng bạc vẽ hoa văn châu báu, bên ngoài khoác áo mỏng bằng sa thêu nổi màu đỏ anh đào nhàn nhạt, tay cầm chiếc khăn tay màu xanh nhạt, yêu kiều mỉm cười, nhún mình thỉnh an tôi: “Hoàn Quý tần kim an!”

Tôi chìa tay làm hiệu đỡ nàng ta đứng dậy. “Tào tỷ tỷ đứng dậy đi, việc gì phải khách sáo thế!”

Nàng ta tươi cười, mắt mày lúng liếng. Thực ra nhan sắc của nàng ta chỉ thuộc hạng trung nhưng nụ cười lại rất mực dịu dàng, thêm vào cách ăn mặc đơn giản nhưng không kém phần diễm lệ khiến nàng ta có nét quyến rũ riêng. Nàng ta tủm tỉm cười, thưa: “Không ngờ lại tình cờ gặp Quý tần nương nương ở đây.”

Tôi mời nàng ta cùng ngồi xuống, ra hiệu cho đám Cận Tịch lùi ra xa đứng hầu, không để bọn họ nghe thấy cuộc nói chuyện của chúng tôi. Tôi cười, nói: “Tỷ tỷ sao lại xa cách với muội như thế, cứ gọi muội muội là được.”

Nàng ta thấy tôi đuổi người hầu đi, chỉ ngồi riêng với mình thì mặt hơi lộ nét cười. “Muội muội từ khi mang thai đến giờ thì rất ít khi ra khỏi cửa, lúc nào cũng cẩn thận, sao lúc này lại dám đuổi đám người hầu ra xa vậy?”

Tôi hơi nghiêng mắt, khẽ cười, đáp: “Tào tỷ tỷ nói đùa rồi, sao muội lại không yên lòng cơ chứ? Tỷ tỷ và muội đang ở chung một chỗ, lỡ muội có xảy ra chuyện gì thì đương nhiên là lỗi của tỷ tỷ, tỷ tỷ nhất định sẽ dốc sức lo lắng cho muội muội. Huống hồ…” Tôi tủm tỉm cười, ánh mắt như vô tình nhìn lướt qua nàng ta. “Nơi này làm gì có người dám đẩy muội cơ chứ!”

Tào Tiệp dư hơi ngẩn ra nhưng mặt lại không hề biến sắc, vẫn cười tươi như hoa. “Muội muội đúng là biết nói đùa, ai dám đẩy muội cơ chứ, chỉ e thò một ngón tay ra còn không có gan nữa là…” Nàng ta vờ kêu lên kinh ngạc: “Chẳng lẽ muội muội từng bị kẻ nào đó đẩy một cái hay sao?” Nàng ta đặt tay trước mặt, làm bộ sợ hãi. “Thân làm tỷ tỷ mà chẳng hay biết gì hết, muội muội đã kể cho Hoàng thượng nghe chưa?”

Nàng ta không để lộ chút sơ hở, có một thoáng tôi còn ngờ vực rằng mình đã hoài nghi nhầm người, nhưng nghĩ kĩ lại, tôi vẫn khẳng định dự đoán của mình là đúng. Vật Huyền Lăng ban thưởng cho tôi, tôi lại lén tặng cho nàng ta, nàng ta sao dám tặng cho người khác nữa chứ? Mùi mật hợp hương tôi không thể nào nhầm được.

Nghĩ đến đây, tôi chẳng thèm trả lời câu hỏi của nàng ta, chỉ thờ ơ tán gẫu vài câu: “Ôn Nghi công chúa dạo gần đây sức khỏe thế nào?”

Nàng ta lập tức sinh lòng cảnh giác, như gà mẹ xù lông bảo vệ con, đáp: “Quý tần muội muội thật có lòng, Ôn Nghi chỉ ho húng hắng một chút, không có gì đáng ngại.”

Tôi vờ như vô ý, nói: “Vậy thì tốt. Chỉ cần không lặp lại chuyện dùng lầm bột củ sắn, thân thể ngàn vàng của công chúa nhất định sẽ không sao đâu.”

Vẻ mặt của nàng ta lập tức đông cứng lại, không còn trấn tĩnh như nãy giờ nữa, nàng ta gượng gạo đáp: “Hoàng thượng đã xử lý tên Tiểu Đường dám làm lẫn bột củ sắn, tương lai hẳn sẽ không còn chuyện như thế xảy ra nữa.”

Tôi mỉm cười dịu dàng. “Cũng mong là như thế. Hiện giờ muội sắp làm mẹ nên cũng rất hiểu tấm lòng của người mẹ. Tào tỷ tỷ nuôi dưỡng công chúa cũng chẳng dễ dàng gì, nghe nói lúc công chúa ra đời, tỷ tỷ bị sinh khó, đúng là nguy hiểm vạn phần.”

Nàng ta hơi đổi sắc mặt. “Làm mẹ đúng là không dễ chút nào, giờ nào phút nào cũng phải lo lắng cho con, chỉ cần công chúa có chút gì đó không ổn, tỷ cũng cảm thấy khó chịu như tim bị móc ra vậy, nguyện chịu hết mọi khổ sở thay con.”

Tôi gật đầu, nhìn thẳng vào mắt nàng ta. “Tào tỷ tỷ là người thông minh, đương nhiên biết nên nuôi dưỡng công chúa thế nào, chuyện này không cần muội muội nhiều lời. Chỉ là muội muội muốn dặn dò tỷ tỷ một câu, được người giúp đỡ là tốt nhưng phải xem đó là loại người nào trước đã, phải không? Nếu không, chính mình tự chuốc lấy tổn thương, có khổ cũng không nói ra được.”

Nàng ta ngẩn người, mặt lộ vẻ không vui. “Tỷ tỷ ngu đần, lời nói của Quý tần muội muội, tỷ đây chẳng hiểu gì cả.”

Tôi dùng khăn tay phủi những cánh hoa rơi trên người, mỉm cười, chậm rãi thốt lên: “Tỷ tỷ đã không hiểu thì muội muội lại càng chẳng biết gì. Chỉ là muội muội hiểu được một chuyện, Hoa Phi nương nương ngày đó đi khám xét Tồn Cúc đường, nhất định là có người ở đằng sau thuận nước dong thuyền, tuy không phải vì giúp đỡ muội nhưng muội cũng vô vùng biết ơn người đó.” Thấy nàng ta biến sắc mặt, nụ cười của tôi càng thêm tươi. “Muội muội còn biết thêm một chuyện nữa, tiếp tay cho giặc thì chẳng có kết quả tốt đâu, nhưng bỏ tối theo sáng lại là biện pháp bảo vệ bản thân tốt nhất. Tỷ tỷ đương nhiên có nghe qua câu ‘chim khôn chọn cây lành mà đậu’ rồi mà!”

Nàng ta sầm mặt, sau đó trở lại bình thường. “Đâu tối đâu sáng vẫn còn chưa biết được.” Nàng ta im lặng hồi lâu, tựa như có chút chần chừ, cuối cùng cũng thốt lên một câu: “Muội mau đi xem thử đi!” Nói xong liền vội vàng rời đi.

Tôi nghe mà chẳng hiểu gì, thấy mặt trời đã ngả về tây, chợt nhớ ra đám người theo sau Thuần Nhi đi tìm diều đã lâu như vậy mà chưa có ai quay về. Lúc này, ánh chiều tà rực lửa, rọi lên cành bích đào, trông như máu tươi nhỏ xuống. Trong lòng tôi cảm thấy bất an, lập tức gọi người tìm kiếm khắp nơi.

Chẳng mấy chốc thì tìm được Thuần Nhi.

Lúc đêm xuống, Cận Tịch quay về bẩm báo, khuôn mặt không giấu được vẻ kinh hãi và bi thương. Tôi nghe tiếng bước chân nặng nề của nàng ta thì đã cảm thấy lo lắng nhưng vẫn chưa nghĩ đến điều tệ hại nhất, cùng lắm thì Thuần Nhi phạm lỗi gì đó rồi bị phi tử khác đánh mắng mà thôi.

Thế nhưng Cận Tịch vẫn lặng lẽ đứng đó, im lặng đầy bi thương, còn điện phụ nơi ở của Thuần Nhi đã vang lên tiếng gào thét và nức nở nghẹn ngào.

Tôi loạng choạng ngã phịch xuống ghế.

Cận Tịch chỉ bẩm báo một câu: “Phương Lương viện bị chết đuối trong hồ Thái Dịch, lúc tìm thấy thì tay vẫn nắm chặt một cánh diều bị rách.”

Tôi gần như chẳng biết gì nữa, nước mắt nóng hổi không ngừng chảy dọc xuống hai bên má. Sao tôi có thể ngờ được cơ chứ! Buổi trưa Thuần Nhi còn khỏe mạnh, hoạt bát, nay đã trở thành một thi thể lạnh băng trong hồ Thái Dịch. Thuần Nhi, nàng ta mới mười lăm tuổi! Hỏi tôi làm sao tin được đây? Làm sao có thể chấp nhận được?

Chẳng bao lâu trước đó, nàng ta còn thả diều trong Thượng Lâm uyển, đòi chơi tung hứng làm vỡ chiếc bình phong, còn đợi năm tròn mười sáu tuổi sẽ được tấn phong làm tần, còn vừa ăn những món đồ ngọt do tôi chuẩn bị riêng vừa nói đùa, nàng ta còn nói muốn làm dì của đứa bé trong bụng tôi… Ngọc bội lễ vật vẫn còn ở đây, thế mà nàng ta lại đột ngột rời đi…

Cận Tịch thấy sắc mặt của tôi không tốt bèn vội vã lay lay tôi. Lúc đầu tôi vẫn không chịu tin, cho đến khi bên ngoài báo tin thi thể của Thuần Nhi đã được đưa đến Duyên Niên điện, tim tôi đau nhói như bị dao đâm, òa lên khóc thành tiếng, đẩy người hầu rồi chạy thẳng ra ngoài.

Cận Tịch thấy không ngăn tôi lại được bèn vội vã gọi người theo cùng. Tôi vừa chạy đến trước cửa điện thì Tiểu Doãn Tử đã quỳ trước mặt tôi chặn đường, lo lắng đến nỗi mặt tái nhợt. “Nương nương! Nương nương! Không đi được đâu! Hoàng thượng nói người đang mang thai, không nên tận mắt chứng kiến nên mới đưa thi thể đến Duyên Niên điện! Nương nương!”

Trong lúc hắn nói, Cận Tịch đã đuổi đến nơi, liều mạng ôm chặt lấy hai chân tôi, van vỉ: “Nương nương xin suy nghĩ kĩ, đi như thế này sẽ làm kinh động Hoàng thượng, xin nương nương nghĩ đến đứa con trong bụng, thực sự không nên chứng kiến những chuyện này!”

Gió đêm thổi rát cả hai mắt tôi, nước mắt chảy ròng ròng, bị bọn họ dìu quay trở về phòng ngủ. Tôi không nói được tiếng nào, chỉ siết chặt chiếc dương chi ngọc bội mà Thuần Nhi tặng, âm thầm nức nở. Huyền Lăng nghe tin lập tức đi đến an ủi tôi, không cho tôi ra ngoài, y cũng rất đau lòng, không ngừng than thở. Tôi trằn trọc không sao ngủ được, vô cùng hối hận, lẽ ra không nên cùng nàng ta ra ngoài thả diều, lại càng không nên dung túng cho nàng ta một mình đi tìm diều lạc, mà chỉ để nội giám lẳng lặng đi theo sau đằng xa. Huyền Lăng chẳng biết an ủi thế nào, đành lệnh cho thái y kê thuốc an thần cho tôi, tôi mới ngủ yên được.

Huyền Lăng cho phép tổ chức lễ tang hết sức long trọng, truy phong Thuần Nhi làm tần, lại ra lệnh phát tang theo lễ của quý tần.

Tôi miễn cưỡng trấn tĩnh lại, không để ý đến sự ngăn trở của Huyền Lăng, đi đến Duyên Niên điện túc trực bên linh cữu của Thuần Nhi. Bên trong đại điện mờ mờ ảo ảo, cờ phướn trắng phất phơ, mùi nhang khói nặng nề bao phủ, ánh nến mang vẻ âm u. Đám cung nhân trong cung Thuần Nhi nức nở khóc lóc, quỳ rạp dưới đất đốt giấy vàng giấy bạc cho nàng ta, mấy cung tần có địa vị thấp hơn Thuần Nhi cũng thỉnh thoảng gào khan vài ba câu.

Tôi nhìn thấy cờ phướn và rèm tang trắng muốt thì trong lòng chua xót, nước mắt rơi lã chã. Nén bi thương thắp một nén nhang, tôi vẫy tay ra hiệu cho mấy cung tần đang có mặt. “Các ngươi cũng mệt rồi, lui xuống trước đi!”

Bọn họ vốn chẳng mấy thân thiết với Thuần Nhi, thấy nàng ta còn nhỏ tuổi mà đã được sủng ái thì không khỏi ghen ghét, dèm pha, chỉ là không thể trái lệnh vua trực bên linh cữu mà thôi, sớm đã mong cơ hội rời khỏi đây rồi, nay nghe tôi ra lệnh như thế thì vội hành lễ rồi ai về cung người nấy.

Đằng sau màn che là thi thể của Thuần Nhi, mặt mũi sưng phù vì bị ngâm nước, không thấy có vẻ đau đớn, vẫn bình tĩnh, khoan thai như đang chìm trong giấc ngủ.

Tôi đau đớn khôn xiết, nắm chặt khăn tay, òa khóc thành tiếng. Đêm về khuya, trừ tiếng nức nở ra thì bốn bề tĩnh lặng. Chợt có một bóng người lết gối đến trước mặt tôi, níu lấy vạt áo tôi, đau khổ dập đầu. “Xin nương nương giúp đỡ cho tiểu thư nhà con.”

Tôi nhìn kĩ, chẳng phải là thị nữ Thúy Vũ cùng vào cung với Thuần Nhi hay sao? Tôi vội kéo nàng ta dậy. “Chuyện gì vậy? Ngươi từ từ nói.”

Thúy Vũ không chịu đứng dậy, nhìn quanh không thấy có ai mới dám thưa: “Bẩm nương nương, tiểu thư nhà con bị người ta hại chết!”

Cái chết của Thuần Nhi xảy ra quá đột ngột, trong lòng tôi sớm đã nghi ngờ, bèn hỏi lại Thúy Vũ: “Chuyện này không thể nói bậy bạ được đâu.”

Hai mắt Thúy Vũ mở trừng, cố nén đau thương, dập đầu thật mạnh hai cái, thưa: “Tiểu thư nhà con từ nhỏ lớn lên bên sông nước, rất giỏi bơi lội, tuyệt đối không thể chết đuối được. Nô tỳ thực sự cảm thấy cái chết của tiểu thư rất kỳ lạ!”

Tôi vốn quá đau lòng trước cái chết đột ngột của Thuần Nhi, khóc đến mụ cả người. Sau đó dần bình tĩnh lại, thần trí thanh minh được một chút, tôi bắt đầu cảm thấy có nhiều điểm đáng ngờ, bèn gọi đám nội giám theo sau Thuần Nhi hôm đó lại hỏi chuyện. Bọn họ đều thưa là sau khi Thuần Nhi nhặt được diều thì chạy quá nhanh, đi qua đình Tri Xuân thì chẳng thấy bóng dáng đâu, tìm mãi chẳng được, cho đến khi phát hiện ra nàng ta nằm dưới hồ Thái Dịch.

Ai cũng nói nàng ta trượt chân ngã xuống nước, nhưng giờ ngẫm kĩ lại thì thực sự đáng ngờ. Tôi chợt nhớ đến câu nói có ý nhắc nhở của Tào Tiệp dư, cây nến trắng trước mắt như nhòe đi, trong lòng giật thót ớn lạnh: nàng ta hẳn đã biết trước chuyện gì rồi!

Hoặc có thể nàng ta xuất hiện trong Thượng Lâm uyển chỉ để cầm chân tôi, không để tôi phát hiện ra Thuần Nhi đi lâu mà vẫn chưa về.

Lửa hận bừng lên trong lòng, tôi trúng kế điệu hổ ly sơn rồi… Nhưng tôi cũng biết có tra hỏi Tào Tiệp dư thì cũng chẳng ích gì.

Tôi cố hết sức kìm nén cơn hận, hỏi lại Thúy Vũ: “Ngươi có chứng cớ gì không?”

Hai mắt Thúy Vũ đỏ ngầu, vẻ không cam lòng, hậm hực nghiến răng. “Không có!”

Tôi vô cùng thất vọng, sau thất vọng là cảm giác uất ức, không cam lòng thay cho Thuần Nhi. Nàng ta mới mười lăm tuổi, bé nhỏ như nụ hoa sắp nở, vốn nên sống cuộc sống vô tư lự, vui vầy bên cha mẹ mới phải.

Tôi im lặng hồi lâu, cố gắng kìm nén bao bi thương và hận thù sôi sục trong tim, đỡ Thúy Vũ dậy, tôi chậm rãi hít sâu một hơi, nói: “Lúc này không có chứng cứ, tuyệt đối không thể nói bừa, ngươi hãy về cung của ta hầu hạ, chúng ta sẽ chờ đợi thời cơ.”

Thúy Vũ rơi lệ không nói gì, nhưng cuối cùng cũng chẳng biết làm gì khác.

Bên ngoài điện là bóng đêm vô tận, đến vầng trăng rằm tròn vành vạnh cũng không thể soi sáng được bóng đêm nặng nề cùng nỗi bi thương sinh ly tử biệt. Hậu cung rộng lớn, an tĩnh như một ngôi mộ, phảng phất hơi lạnh thấu xương, là hơi lạnh tích tụ từ bao oan hồn. Đến hai ngọn cung đăng thắp sáng bên ngoài Duyên Niên điện cũng chẳng khác gì ánh ma trơi, là đôi mắt không chịu khép lại của quỷ hồn. Trong mắt tôi trào dâng nỗi căm hận vô bờ, nhìn sang thi thể của Thuần Nhi, tôi gằn từng tiếng: “Nếu quả thực tiểu thư nhà ngươi bị người ta hãm hại, bản cung nhất định sẽ báo thù cho nàng ta, tuyệt không để nàng ta chết oan!”

Ngày phát tang, Hoàng hậu và phi tần các cung đều đến Duyên Niên điện. Tôi cố nén bi thương, lấy lễ phục đã chuẩn bị sẵn thay cho Thuần Nhi.

Hoàng hậu thấy tôi thay y phục mới cho Thuần Nhi xong, đứng bên cạnh tôi không ngừng nhỏ lệ, khẽ lên tiếng than thở: “Phương Lương viện còn nhỏ tuổi đã phải vào cung, bây giờ đang thuở xuân thì, lại được Hoàng thượng thương yêu, vì sao không thể nán lại hầu hạ Hoàng thượng mà đột ngột rời đi thế này? Đúng là khiến người ta đau lòng mà!…”

Hoa Phi cũng than thở: “Trẻ tuổi thế này, đáng thương thật!”

Đám Hoa Phi, Cẩn Phi, Kính Phi và Tào Tiệp dư đều lau nước mắt. Tôi đã nín khóc từ lâu, lạnh lùng nhìn Hoa Phi đứng ở đằng xa vừa lau lệ vừa nức nở, chỉ cảm thấy vô cùng chán ghét và căm hận.

Lúc này, chỉ dụ của Huyền Lăng đã ban xuống, lệnh cho Lễ bộ thông báo cho lục cung: “Lương viện Phương thị, thông minh, hiền lành, hành xử cẩn thận, cung kính thuần lương, hiểu lễ nghĩa, dung mạo xinh đẹp. Giờ đây gặp vận rủi, đột ngột qua đời, Hoàng thượng luyến tiếc, tổ chức tang lễ long trọng. Đặc biệt phong thưởng, làm gương thục đức, truy phong Thuần Tần… Nghi lễ mai táng theo lệ quý tần.” Lại lệnh bảy ngày sau đưa quan tài đến lăng thái phi, chôn cùng với Đức Phi, Hiền Phi quá cố và những phi tần mất sớm.

Người thương đã mất, Huyền Lăng chỉ có thể làm được đến đó mà thôi. Đám cung tần thân phận thấp kém không ngừng xì xào, mừng thay cho Thuần Nhi: sau khi chết, lễ tang trọng đại như vậy cũng không uổng kiếp này! Nhưng tôi chỉ mong ước Thuần Nhi không có cái địa vị hư danh đó thì tốt hơn nhiều. Thoáng ngẩn ngơ, dường như nàng ta vẫn ở trong cung của tôi, chỉ vào một gốc hải đường, ngoẹo đầu cười hì hì, hỏi: “Tỷ tỷ, muội hái một cành nhé, được không?”

Tôi biết chính là do nàng ta gây ra, liền đưa mắt nhìn thẳng về phía Hoa Phi, ngón tay siết chặt, một sinh mệnh sống bên cạnh tôi đã bị tước đi, nếu như quả thực có ai đó khiến Thuần Nhi mất mạng, tôi nhất định, nhất định sẽ đòi bằng được món nợ này!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách