Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 4443|Trả lời: 84
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại - Xuất Bản] Hậu Cung Chân Hoàn Truyện | Lưu Liễm Tử

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 22-3-2016 15:38:51 | Xem tất |Chế độ đọc
Giới thiệu


Thể loại: Cổ đại, cung đấu
Tác giả: Lưu Liễm Tử
Dịch giả: Hồ Thanh Ái
Tình trạng sáng tác: đã hoàn (8 tập)
Nhà xuất bản: Văn Học


Tập 1-Văn án:
Nếu không có tình yêu, sủng hạnh của đế vương cũng chẳng bền hơn giấy mỏng là bao. Nhưng tình yêu của bậc đế vương là thứ hiếm hoi nhất, thiếu thốn nhất trong hậu cung rộng lớn. Nữ nhân trong cung sẵn sàng vì địa vị, vinh hoa, ân sủng đi lấy lòng Hoàng đế, nhưng vì tình yêu thì... có ai nghe nói đến hay chưa...?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 22-3-2016 16:10:34 | Xem tất

RE: [Cổ Đại - Xuất Bản] Hậu Cung Chân Hoàn Truyện | Lưu Liễm Tử (Tập 1-Chương 1)

Tập 1-Chương 1
Vân ý xuân sâu


Ngày đầu tiên tôi vào cung, trời vô cùng quang đãng. Ngày Hai mươi tháng Tám âm lịch năm Càn Nguyên thứ mười hai là một ngày hoàng đạo. Đứng giữa sân Tử Áo Thành mênh mông có thể nhìn thấy bầu trời trong veo, xanh ngắt tựa ngọc bích, không một gợn mây, thỉnh thoảng lại có chim nhạn kết bầy bay qua.

Hồng nhạn bay cao, nghe đâu là điềm lành.

Vô số xe ngựa chuyên dùng chở tú nữ xếp hàng chỉnh tề trước cửa Dục Tường, ai nấy đều im lặng. Tôi cùng các tú nữ đứng chung một chỗ, đông như trảy hội, nhìn ai cũng muôn hồng nghìn tía, mặt phấn mày ngài, mùi son phấn sực lên nức mũi. Rất ít người lên tiếng, chỉ tập trung để ý xiêm y, son phấn của mình có ổn không, hoặc tò mò đưa mắt, kín đáo quan sát các tú nữ đứng bên.

Tuyển tú là vận mệnh của mọi thiếu nữ nhà quan. Ba năm một lần, sau khi trải qua nhiều vòng thi tuyển sẽ chọn ra những cô gái tài sắc song toàn vào hoàng cung, bổ sung cho hậu cung.

Đợt tuyển tú này đối với tôi chẳng có gì quan trọng, tôi chỉ đi cho có mà thôi. Cha đã bảo, con gái nhà chúng ta quen được nuông chiều quá rồi, sao chịu được cảnh tù túng nơi cung đình kia chứ! Thôi thôi, cứ tìm cho nó một người chồng tốt là đủ rồi.

Mẹ thường bảo với dung mạo và gia thế như con gái ta, chưa tính đến nhân phẩm tài tình, thì chồng nó nhất định phải là người tốt nhất. Trước nay tôi cũng nghĩ như vậy, Chân Hoàn tôi nhất định phải được gả cho người đàn ông tốt nhất trên đời, cây liền cành, chim liền cánh, sống yên vui đến bách niên giai lão, thế là đủ hạnh phúc rồi. Tôi không thể hạ mình với lựa chọn thấp hơn được.

Hoàng đế tuy có cả thiên hạ nhưng chưa hẳn đã là người đàn ông tốt nhất như ý tôi. Vì chí ít, ông ta cũng không thể một lòng chung thủy với tôi.

Vì vậy, tôi chẳng thèm chăm chút đến y phục. Mặt chỉ thoa một lớp phấn mỏng, cung trang kiểu mới nhất, vải màu xanh nhạt thêu chim nhạn tung cánh, cắt may theo đúng quy củ, trên xiêm dưới váy, cả màu sắc lẫn kiểu cách đều rất bình thường, không nổi bật cũng không kém sắc. Trên đầu cài xiên một đóa phù dung trắng vừa hái rồi vấn thêm chiếc trâm bích ngọc thất bảo linh lung, bên dưới có đính tua rua làm từ tơ bạc xỏ những hạt châu li ti, khéo léo khoe thân phận cao sang, đủ để người ta thấy tôi không phải con gái nhà nghèo, dễ bị coi thường.

Tôi chẳng việc gì phải phí công sức, tôi đang đợi Hoàng thượng "gạt thẻ" bỏ chọn.

Nơi xem mặt tú nữ là điện Vân Ý, chính điện của cung Trường Xuân trong Tử Áo Thành. Tú nữ chia làm tổ sáu người, được thái giám dẫn vào xem mặt, số còn lại đứng chờ nơi Đông và Tây Noãn các của Trường Xuân cung. Hình thức xem mặt rất đơn giản, chỉ cần dập đầu trước Hoàng thượng và Hoàng hậu rồi đứng dậy nghe lệnh, Hoàng thượng có thể hỏi vài ba câu hoặc có thể chẳng hỏi câu nào, nói lời tạ ơn là đủ. Sau đó, Hoàng thượng sẽ quyết định "gạt thẻ" hay "giữ lại". "Gạt thẻ" nghĩa là bị loại, "giữ lại" là được chọn, người được chọn sẽ tạm thời về nhà, đợi ngày lành tháng tốt thì tiến cung làm phi tần.

Hoàng thượng đã thành thân từ lâu, cũng có không ít cơ thiếp. Lần tuyển tú này chủ yếu là mở rộng quy mô tuyển chọn phi tần, bổ sung hậu cung, sinh con đẻ cái cho Hoàng thượng.

Tú nữ đứng chật kín cả gian phòng nhưng tôi chỉ quen Thẩm My Trang, con gái của Thẩm Tự Sơn, đô đốc Tế Châu. Phủ đệ nhà tôi nằm kề nhà ngoại của tỷ ấy trong kinh thành. Tôi và tỷ ấy lớn lên bên nhau từ nhỏ nên rất thân thiết. Tỷ ấy vừa nhìn thấy tôi từ xa đã mỉm cười, bước đến, cầm lấy tay tôi, vui mừng, ân cần hỏi han: “Hoàn muội, muội cũng đến đây là tỷ an tâm rồi. Lần trước nghe bà ngoại nói muội bị phong hàn, giờ đã khỏe hẳn chưa?"

Tôi yểu điệu đứng dậy, đáp: "Chỉ còn ho khan vài ba tiếng thôi, muội khỏe hơn nhiều rồi, cảm ơn tỷ đã lo lắng cho muội! Đường sá xa xôi, chắc tỷ cũng vất vả nhiều!"

Tỷ ấy gật đầu, chăm chú ngắm nhìn tôi hồi lâu rồi mỉm cười. "Tỷ đến kinh thành hai ngày trước, có thời gian nghỉ ngơi nên khỏe nhiều rồi. Hôm nay muội ăn vận mộc mạc thế này càng để lộ nhan sắc xuất chúng, không ai bì kịp"

Tôi đỏ mặt, bối rối đáp: "Chẳng phải tỷ cũng là mỹ nhân hay sao? Tỷ nói vậy làm muội mắc cỡ quá!"

Tỷ ấy mỉm cười không nói, những ngón tay thon dài lướt qua gò má tôi. Lúc này tôi mới ngắm kĩ, tỷ ấy mặc một chiếc áo màu hồng tía thêu hoa cúc nghìn cánh, chân váy kiểu Bách Điệp Như Ý màu xanh lơ, mái tóc đen nhánh búi ngược đỉnh đầu, đính thêm một dây kim phượng tết sợi vàng, trán dán một đóa hoa vàng, đôi hoa tai hồng ngọc lấp lánh tỏa sáng, thần sắc rất ung dung, trầm tĩnh.

Tôi mỉm cười, cất tiếng khen ngợi: "Mới mấy ngày không gặp mà tỷ càng lúc càng xinh! Hoàng thượng mà thấy nhất định sẽ không thể quên được."

My Trang đưa tay lên môi, ra hiệu cho tôi im lặng, nhỏ giọng khuyên: "Cẩn trọng một chút! Lần tuyển tú này có rất nhiều người xuất sắc, nhan sắc của tỷ cũng chỉ ở mức trung bình thôi, chưa chắc đã trúng tuyển."

Tôi biết mình lỡ lời nên không nói thêm nữa, chỉ thủ thỉ với tỷ ấy vài chuyện gia đình.

Chợt nghe đằng xa có tiếng chung trà rơi xuống đất đánh "choang" một tiếng. Tôi và My Trang cùng quay đầu nhìn về phía đó, chỉ thấy một tú nữ vận xiêm y bằng gấm màu lục sẫm, đầu cài đầy châu ngọc đang một tay vén váy, tay kia ra sức lôi kéo một tú nữ khác, miệng quát: “Ngươi mù hả? Dám hất cốc trà nóng giãy đó vào người ta! Muốn chết à? Ngươi là tú nữ nhà nào?"

Nàng tú nữ bị nàng ta túm chặt kia ăn vận tầm thường, mặt thanh mày tú, yểu điệu, thướt tha. Lúc này, nàng ta co rúm người, không biết phải xử trí ra sao, đành cụp mắt, hạ giọng đáp: "Tôi là An Lăng Dung. Gia phụ... gia phụ... là... là..."

Tú nữ kia thấy vóc dáng nàng ấy có vẻ tầm thường, sớm đã không coi ra gì, hung hãn nói: "Chẳng lẽ chức quan của cha mình cũng không nói ra miệng được sao?"

An Lăng Dung bị dồn vào đường cùng, mặt tái mét, giọng lí nhí như muỗi kêu: "Gia phụ là... An Bỉ Hòe, Huyện thừa huyện Tùng Dương."

Tú nữ kia nghênh mặt vẻ khinh miệt, "hừ" một tiếng. "Đúng là xuất thân nghèo hèn, bần tiện! Bảo sao không có chút phép tắc!"

Bên cạnh có người xen vào nhắc nhở An Lăng Dung: "Ngươi biết chưa, người ngươi vừa lỡ đắc tội chính là Hạ Nguyệt Tinh, con gái rượu của Tham quân ti sĩ Tân Phù đấy!"

An Lăng Dung hoảng hốt, vội vàng khom người thi lễ, tạ tội với Hạ thị: "Lăng Dung lo lắng không biết lát nữa phải diện kiến thánh giá thế nào, trong lòng bất an nên lỡ tay hắt nước trà lên người Hạ tỷ. Lăng Dung xin tạ tội với tỷ, mong tỷ lượng thứ!"

Vẻ mặt Hạ thị cau có, nàng ta chau mày, nói: "Ngươi mà cũng đòi gặp thánh giá à? Đúng là mơ tưởng hão huyền! Muốn ta bỏ qua chuyện này cũng được thôi, chỉ cần ngươi quỳ xuống, dập đầu xin lỗi ta.”

Sắc mặt của An Lăng Dung lập tức trắng bệch, khóe mắt ngấn lệ, dáng vẻ run rẩy, bất lực khiến người đứng ngoài phải sinh lòng thương cảm. Các tú nữ vây quanh không ai chịu đứng ra khuyên Hạ thị giúp nàng ta. Ai cũng có chung suy nghĩ đời nào Hoàng thượng lại tuyển con gái của một tay huyện thừa làm phi tần nhưng Hạ thị kia thì có vẻ chắc chắn trúng tuyển. Kẻ cao người thấp rành rành trước mắt, ai lại muốn vì con gái của một huyện thừa cỏn con mà đắc tội với con gái rượu của Tham quân ti sĩ kia chứ! Xem ra lần này, nhất định An thị phải chuốc nhục một phen rồi.

Tôi thấy chướng tai gai mắt với kiểu ỷ thế hiếp đáp người này, bất giác chau mày. My Trang thấy vậy, vội giữ chặt tay tôi, nhỏ giọng khuyên nhủ: "Ngàn vạn lần đừng chuốc rắc rối vào người!"

Tôi đời nào chịu nghe, gạt tay tỷ ấy ra, rẽ đám đông bước lên, kéo An thị đến bên người rồi quay sang, dịu giọng nói với Hạ thị: "Chỉ là một bộ xiêm y thôi, Hạ tỷ đừng tức giận. Ta có đem theo vài bộ xiêm y, tỷ xuống chái sau thay nhé! Hôm nay là ngày đại tuyển, tỷ ổn ào như vậy, e rằng sẽ làm kinh động đến thánh giá, chỉ vì chuyện cỏn con này mà để Hoàng thượng nổi giận thì sao tỷ muội chúng ta gánh vác nổi đây? Mà kể cả hôm nay thánh giá không hay biết chuyện này đi chăng nữa thì sau này, ắt hẳn chuyện cũng truyền đến tai người khác, lúc đó, thanh danh hiền đức của tỷ sẽ bị ảnh hưởng. Vì một bộ xiêm y mà làm to chuyện chẳng phải mất nhiều hơn được hay sao? Mong tỷ hãy suy nghĩ kĩ!"

Hạ thị ngẫm nghĩ giây lát, vẻ mặt vẫn khó đăm đăm nhưng không còn kích động như lúc trước nữa, chỉ "hừ" một tiếng rồi bỏ đi. Các tú nữ dần tản ra, tôi mỉm cười với An thị. "Chân Hoàn khua môi múa mép, An tỷ đừng chê cười! Hoàn muội thấy tỷ chỉ có một mình, hay tỷ sang làm bạn với muội và My Trang tỷ tỷ nhé? Chúng ta có thể chăm sóc cho nhau để không phải cảm thấy thấp thỏm, bất an nữa."

An Lăng Dung có vẻ rất cảm kích, yểu điệu cúi đầu tạ ơn: "Đa tạ tỷ đã mở lời giúp đỡ! Tuy Lăng Dung xuất thân nghèo hèn nhưng nguyện cả đời không bao giờ quên ơn này của tỷ!"

Tôi mỉm cười. "Thuận dịp mà thôi, mọi người đều là tỷ muội chờ tuyển tú, việc gì phải tính toán như vậy!"

Nàng ta hơi ngần ngừ. "Chỉ có điều, tỷ vì muội mà đắc tội với kẻ khác, chẳng phải tự chuốc lấy phiền não vào người sao?"

My Trang rảo bước tiến lên, trách tôi: "Đây là cấm địa hoàng cung, muội cứ ngang ngược như vậy, tỷ lo lắng lắm!" Rồi mỉm cười nói với An thị: "Muội nhìn bộ dạng liều lĩnh của Hoàn muội kìa, có giống người muốn trúng tuyển không? Không biết sợ đắc tội với người khác là gì nữa!"

Tôi liếc mắt quan sát cách ăn vận của An thị, xiêm y tinh tươm, thơm mùi vải mới nhưng chất liệu lại hết sức bình thường, chắc hẳn được mua từ một cửa tiệm bình thường, không có gì đặc biệt. Trang sức chẳng có gì ngoài hai cây trâm bạc trơn không đính châu báu cài ngay ngắn trên tóc và chiếc vòng vàng loại thường đeo trên tay. Giữa đám tú nữ ăn diện lộng lẫy, cao sang, nàng ta có vẻ quá đỗi mộc mạc. Tôi khẽ cau mày, thấy cây hải đường rộ hoa bên góc tường bèn thuận tay cầm chiếc kéo trên bàn, cắt lấy ba bông rồi cài lên tóc mai cho Lăng Dung, nàng ta lập tức kiều diễm thêm mấy phần. Tôi còn tháo đôi hoa tai ngọc bích xuống đeo cho nàng ta, nói: “Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân. Thấy tỷ ăn vận bình thường nên bọn người kia mới trông mặt mà bắt hình dong, coi thường tỷ. Đôi hoa tai này coi như lễ vật gặp mặt của muội hôm nay, hy vọng nó có thể giúp tỷ trúng tuyển."

An thị cảm động đến rơi nước mắt. "Muội khiến tỷ phải tốn kém rồi, muội xuất thân nghèo hèn, hẳn sẽ bị "gạt thẻ" thôi, không chừng còn làm phụ lòng mong đợi của tỷ."

My Trang an ủi nàng ta: "Trước giờ anh hùng không hỏi xuất thân. Muội xinh đẹp như hoa, việc gì phải quá tự ti như thế!"

Đang nói chuyện thì có thái giám đến truyền An Lăng Dung và vài tú nữ khác vào điện. Tôi mỉm cười, khích lệ nàng ta rồi nắm tay My Trang, quay về chỗ cũ tiếp tục chờ đợi.

Vừa mới ngồi xuống, một tiểu cung nữ đã đến dâng trà. Tôi và My Trang đều lấy một đĩnh bạc vụn từ hà bao ra thưởng cho nó, cung nữ đó hớn ha hớn hở tạ ơn rồi lui xuống. My Trang thấy cung nữ lui xuống rồi mới thốt lên, vẻ lo lắng: "Ban nãy, muội nhanh mồm nhanh miệng quá, không sợ đắc tội với cung tần mới hay sao?"

Tôi bưng chung trà, chậm rãi thổi tan hơi nóng trên miệng chung, thấy mọi người xung quanh không ai để ý mới ung dung đáp lời My Trang: "Chẳng lẽ muội lại không hiểu tỷ quan tâm muội thế nào. Nhưng tỷ nghĩ kĩ lại xem, Hoàng thượng tuyển tú, gia thế đương nhiên rất quan trọng nhưng công, dung, ngôn, hạnh vẫn đứng hàng đầu. Hạ Nguyệt Tinh tuy xuất thân vương giả nhưng với đức hạnh của nàng ta, chắc chắn không lọt được vào mắt xanh cuả Hoàng thượng. Dẫu ả ta có vào được cung thì e là cũng sẽ chết già thôi, sao phải sợ đắc tội kia chứ?"

My Trang gật gù tán thành, tủm tỉm cười. "Muội nói có lý đấy, chẳng trách từ nhỏ muội đã được cha muội coi trọng, còn khen muội là "nữ Gia Cát”. Quả thực, An thị cũng rất đáng thương."

Tôi mỉm cười. "Đó chỉ là một lẽ. Với nhan sắc và gia thế của tỷ thì nhập cung là chuyện đương nhiên. An thị tuy xuất thân không cao nhưng tiến thoái có lễ, bề ngoài yểu điệu có nét quyến rũ riêng, khả năng trúng tuyển còn cao hơn cả Hạ thị. Muội vốn không có ý tiến cung, nếu An thị trúng tuyển, tỷ ở trong cung cũng có người bầu bạn. Đương nhiên lần này có rất nhiều mỹ nhân, An thị có thể trúng tuyển được hay không cũng khó mà nói chắc, đây chẳng qua chỉ là ý kiến của Hoàn muội mà thôi!"

Sắc mặt My Trang biến đổi, nắm chặt lấy tay tôi, than thở: "Hoàn muội, cảm ơn muội đã phí tâm vì tỷ! Chỉ có điều, muội xinh đẹp như vậy, lại không có ý tiến cung, nếu lấy phải một người có gia cảnh tầm thường thì đúng là minh châu lấm bùn rồi!"

Tôi không nói gì, chỉ cười nhạt một tiếng. "Mỗi người một chí. Huống hồ Hoàn muội ngu dốt, không quen cuộc sống chốn cung đình, chỉ hy vọng tỷ có thể thẳng bước đường mây."

Lần này có rất nhiều tú nữ đến dự tuyển, đợi đến lượt tôi và My Trang vào điện diện thánh thì đã là hoàng hôn, trăng treo nhành liễu. Quá nửa số tú nữ đã sớm trở về chỉ còn lại lác đác mười mấy người nôn nóng chờ đợi trong Noãn các. Trong điện đã thắp đèn, từ ngự tọa đến cổng đại điện bày hai hàng đuốc Hà Dương, phải đến mấy trăm ngọn, ngọn nào cũng to bằng cườm tay, thân đuốc trộn thêm vụn trầm hương, ánh đuốc sáng ngời, tỏa mùi hương đậm mà thanh.

Tôi, My Trang và bốn tú nữ khác chỉnh trang y phục, nghiêm túc bước vào, nghe theo khẩu lệnh của nội giám dẫn đường, quỳ xuống hành lễ, sau đó đứng dậy, cúi đầu đứng sang một bên, chờ đến lượt nội giám Ti lễ gọi tên rồi từng người bước ra tham kiến thánh giá. Giọng một nội giám già nua nghèn nghẹn gọi tên từng người:

"Nghiệp Phương Xuân, con gái của Diêm đạo Giang Tô - Nghiệp Giản, mười tám tuổi."

"Tôn Diệu Thanh, em gái của Chức tạo Tô châu – Tôn Trường Hiệp, mười bảy tuổi.

"Phó Tiểu Đường, con gái của Tri phủ Tuyên thành Phó Thư Bình, mười ba tuổi."

Tôi cúi gằm, nhìn chằm chằm xuống chân, sàn điện lát gạch đá xanh ba thước, vuông vắn, xếp san sát không chút kẽ hở, chính giữa sáng bóng như gương, bốn cạnh khắc hoa văn tứ hỷ như ý. Tôi chăm chú lắng nghe tiếng các tú nữ được xướng tên trước mình quỳ bái đúng phép tắc, chéo áo, vạt váy cùng châu báu trên đầu khẽ va vào nhau kêu leng keng. Tôi tò mò liếc sang bên cạnh, thấy mấy tú nữ căng thẳng đến mức hai tay run lẩy bẩy, trong lòng bất giác cười thầm.

Tôi không kìm được lén quan sát Hoàng đế và Hoàng hậu đang ngồi trên bảo tọa. Điện Vân Ý rộng rãi, thoáng đãng, tường nóc, xà ngang và cột nhà đều khắc đủ kiểu hoa văn mây bay sặc sỡ, tươi đẹp chứ không phải hoa văn long phụng thường thấy trong cung. Người đang ngồi trên bảo tọa vàng ròng chạm trổ cửu long, kim bào rực rỡ chính là quân chủ đời thứ tư của triều Đại Chu, Huyền Lăng. Trên đầu ông ta đội mão thông thiên, mười hai chuỗi hạt bạch ngọc rủ xuống trước mặt, che khuất khuôn mặt rồng, không thể nhìn rõ đường nét và vẻ mặt của ông ta. Lúc này, ông ta hơi ngả người qua một bên, thoáng lộ vẻ mệt mỏi, chắc ngắm tú nữ cả ngày nên hoa mắt mất rồi, nghe họ thỉnh an cũng chỉ gật đầu lấy lệ rồi không thèm hỏi một lời, vung tay cho họ lui xuống. Thương thay cho các tú nữ, hồi hộp cả ngày trời, không dám cả ăn trưa để giữ gìn hoa dung nguyệt mạo, thấp thỏm chờ đến lượt dự tuyển, thế mà lại bị "gạt thẻ" một cách dễ dàng như vậy. Hoàng hậu ngồi phía bên phải bảo tọa của Hoàng đế mão châu áo phượng, tướng mạo trang nghiêm. Nhan sắc của bà ta đoan trang, mỹ lệ, khuôn mày, ánh mắt hiền hòa, tuy mệt mỏi sau một ngày vất vả nhưng vẫn kiên nhẫn ngồi thẳng, khí thế không chút suy chuyển.

"Thẩm My Trang, con gái của Đô đốc Tế châu Thẩm Tự Sơn, mười sáu tuổi."

My Trang bước ra khỏi hàng, dáng vẻ uyển chuyển, cúi đầu nhún mình chào, giọng trong như oanh hót: "Thần nữ Thẩm My Trang tham kiến Hoàng thượng, Hoàng hậu! Nguyện Hoàng thượng vạn tuế, vạn phúc, Hoàng hậu thiên tuế cát tường!"

Hoàng đế ngồi thẳng người, giọng nói có chút hứng thú: "Từng đọc qua sách gì rồi?" Sảnh điện mênh mông, giọng nói của Hoàng đế hòa lẫn trong tiếng vọng mơ hồ, trống trải, từ xa nghe loáng thoáng như có như không, ong ong như trong ảo cảnh.

My Trang vẫn tao nhã, lễ độ đáp: "Thần nữ ngu dốt, rất ít đọc sách, mới chỉ xem qua Nữ tắc và Nữ huấn, biết sơ vài ba chữ."

Hoàng đế "ừ" một tiếng. "Hai quyển ấy dạy đạo hiền đức cho nữ giới, không tồi!"

Hoàng hậu cũng hiền hòa phụ họa: "Nữ tử thường hay coi may vá, thêu thùa làm trọng, ngươi biết được vài ba chữ đã là quá tốt rồi!"

My Trang nghe thấy vậy thì không dám tỏ rõ vẻ vui mừng, chỉ tủm tỉm cười, đáp: "Đa tạ Hoàng thượng, Hoàng hậu đã tán thưởng!"

Giọng Hoàng hậu ẩn nét cười, ra lệnh cho nội giám Ti lễ: "Còn không mau ghi tên tuổi để giữ lại!"

My Trang lui xuống, xoay người đứng cạnh tôi, thở phào một hơi rồi nhìn tôi mỉm cười. My Trang nền nã, khéo léo, dung mạo lại xuất chúng, tỷ ấy trúng tuyển là chuyện đương nhiên, tôi chưa hề lo lắng về chuyện đó.

Đang mải nghĩ thì nội giám Ti lễ gọi đến tên tôi:

“Chân Hoàn, con gái Thị lang Lại bộ Chân Viên Đạo, mười lăm tuổi."

Tôi bước lên hai bước, yểu điệu vái chào, cúi đầu xưng: "Thần nữ Chân Hoàn tham kiến Hoàng thượng, Hoàng hậu! Nguyện Hoàng thượng vạn tuế vạn phúc, Hoàng hậu thiên tuế cát tường!"

Hoàng thượng "à" khẽ một tiếng, hỏi: "Chân Hoàn? Là chữ "hoàn" nào?"

Tôi cúi đầu, buột miệng đáp: "Thái Thân có viết bài từ, trong đó có câu: "Hoàn hoàn nhất niễu Sở cung yêu [1]", đó chính là khuê danh của thần nữ." Lời vừa thốt ra khỏi miệng, tôi đã hối hận ngay. Thế là hỏng bét, chỉ vì nhanh mồm nhanh miệng khoe tài mà tôi đã đọc ra một câu thơ trong sách, chỉ e đã khiến Hoàng đế để ý tới mình. Hối hận quá, hối hận quá!

[1] Chỉ người con gái lưng ong uyển chuyển, mềm mại.

Quả nhiên Hoàng đế vỗ tay, cười, nói: "Rất tinh thông thi thơ, Chân Viễn Đạo thật biết dạy con gái, chỉ không biết ngươi có xứng với cái tên đó không. Ngẩng lên xem nào!"

Tôi biết không thể tránh được, hối hận đã khoe khoang tài năng, đành ngẩng lên, hy vọng Hoàng đế đã nhìn ngắm quá nhiều mỹ nhân, sẽ không cảm thấy hứng thú với cách ăn mặc, trang điểm cứng nhắc của tôi.

Hoàng hậu ra lệnh: "Bước lên phía trước!" Bà ta vừa nói vừa liếc mắt ra hiệu, nội giám đứng bên lập tức hiểu ý, cầm một chung trà hắt xuống trước mặt tôi. Tôi không hiểu lý do tại sao, đành vờ như không nhìn thấy, giẫm lên vũng nước, tiến thêm hai bước.

Hoàng hậu mỉm cười, khen: "Đoan trang lắm!"

Hoàng đế giơ tay, khẽ vén mười hai chuỗi hạt bạch ngọc trước mặt, ngẩn người giây lát rồi khen: "Mềm mại uyển chuyển, quyến rũ mảnh mai. Ngươi quả là xứng với cái tên này thật!”

Hoàng hậu cũng nói: "Trang điểm cũng hết sức thanh tân, so với Thẩm thị ban nãy hệt như đào hồng liễu lục, tôn lên nét đẹp của nhau."

Tôi cúi đầu thật thấp, mặt nóng bừng, chắc đã đỏ ửng tựa ráng chiều rồi, đành im lặng không nói thêm tiếng nào. Cảm thấy ánh nến trước mặt lờ mờ, đong đưa tựa vàng chảy, hương thơm ngây ngất phảng phất mãi nơi chóp mũi.

Hoàng đế vui vẻ gật đầu, ra lệnh cho nội giám Ti lễ: "Ghi lại tên của nàng ta, giữ lại."

Hoàng hậu quay sang, cười nói với Hoàng đế: "Hôm nay tuyển được mấy cung tần đều tuyệt sắc cả, có người tinh thông thi thơ, có kẻ hiền đức dịu dàng, đúng là giúp cho hậu cung thêm hòa thuận, vui vẻ."

Hoàng đế tủm tỉm cười, không đáp.

Trái tim tôi chợt trĩu nặng, người đàn ông ngồi ngay ngắn tít trên cao kia sẽ là người chồng để tôi nương tựa suốt cuộc đời này hay sao?! Tôi khom người thi lễ, lẳng lặng trở về hàng. Thấy My Trang mỉm cười rạng rỡ chúc mừng, tôi chỉ biết mỉm cười đáp lại. Trong lòng tôi rối loạn, không biết phải đối diện với kết quả bất ngờ này như thế nào. Đợi đến khi nhóm tú nữ chúng tôi kiến giá xong, theo lời chỉ dẫn của nội giám dẫn đường, dẫu có trúng tuyển hay không thì đều phải đồng loạt dập đầu tạ ơn, sau đó nối đuôi nhau đi ra ngoài.

Vừa ra khỏi điện Vân Ý, bỗng nghe sau lưng đánh "rầm" một tiếng, quay người lại nhìn, thì ra là tú nữ Nghiệp Phương Xuân, con gái của Diêm đạo Giang Tô. Sắc mặt nàng ta tái nhợt, trán đẫm mồ hôi, ngất xỉu. Chắc không được "giữ lại" nên nàng ta thương tâm quá độ, khí uất dâng trào.

Tôi thở dài một hơi, thốt lên: "Muốn được giữ lại thì lại không thể ở, không muốn ở lại thì cứ phải ở!"

Sau đó, Nghiệp Phương Xuân được nội giám, cung nữ hầu hạ trước cổng điện đỡ ra ngoài.

My Trang đỡ lấy đóa phù dung suýt rơi khỏi tóc tôi, nhẹ giọng khuyên: "Muội than thở như vậy làm gì, được vào cung là phúc lớn đấy, biết bao người ao ước mà chẳng được. Huống chi hai tỷ muội ta cùng lúc tiến cung, có thể giúp đỡ nhau nhiều hơn. Nội giám đã đi tuyên chỉ, Chân bá bá chắc hẳn vui mừng lắm!"

Những ngón tay tôi bíu chặt lấy dây hoa mai thắt chồng rủ xuống váy, im lặng không nói tiếng nào. Một hồi lâu sau, tôi mới khẽ đáp: "My tỷ, muội thực lòng không cố ý như vậy đâu!"

Trang My kéo tay áo tôi, dịu dàng an ủi: "Tỷ hiểu mà! Tỷ đã nói ngay từ đầu, với tài sắc của muội, muội có cố gắng mấy cũng không thể tránh được." Tỷ ấy ngừng giây lát, thu lại nét cười rồi nghiêm túc nói thêm: "Huống chi với tư chất của tỷ muội chúng ta, lẽ nào lại chịu nương nhờ loại người tầm thường ấy?"

My Trang còn muốn tiếp tục khuyên nhủ tôi thì một cung nữ cầm đèn gió, tiến đến dẫn chúng tôi ra khỏi cung. Ả cung nữ này mặt mày tươi rói, nhún mình thi lễ với chúng tôi: "Cung hỷ hai vị tiểu chủ đã trúng tuyển cung tần!" Tôi và My Trang e dè mỉm cười đáp lại, lấy bạc thưởng cho nàng ta, nắm tay nhau, chầm chậm bước ra khỏi cổng Dục Tường.

Bên ngoài cổng Dục Tường chỉ còn chơ vơ vài chiếc xe ngựa đứng đợi, chiếc đèn lưu ly treo trước xe ngựa đang lắc lư trong gió. Đợi trên xe ngựa là hai hầu gái thân cận của tôi, Lưu Chu và Hoán Bích. Hai muội ấy thấy chúng tôi ra đến nơi, liền vội vã cầm áo choàng, nhảy xuống xe ngựa, chạy tới nghênh đón. Hoán Bích đỡ lấy cánh tay tôi, dịu giọng an ủi: "Chắc tiểu thư mệt mỏi lắm rồi!" Lưu Chu cẩn thận khoác chiếc áo choàng gấm lên người tôi.

My Trang được tỳ nữ Thải Nguyệt đỡ lên xe. Tỷ ấy cho xe chạy đến cạnh xe tôi, vén rèm, ân cần dặn dò: "Cô cô dạy lễ nghi mấy hôm nữa sẽ đến phủ chúng ta hướng dẫn lễ nghi trong cung. Trước khi nhận được thánh chỉ chính thức tuyên chúng ta vào cung, tỷ muội ta tạm thời không có dịp gặp gỡ, muội nhớ giữ gìn sức khỏe đấy nhé!"

Tôi gật đầu vâng dạ, Lưu Chu và Hoán Bích cùng đỡ tôi lên xe. Bên dưới, các cung nữ cũng cung kính cúi đầu đứng hầu, trang nghiêm hô to: "Kính tiễn hai vị tiểu chủ."

Tôi vén rèm, quay đầu nhìn lần nữa, bầu trời chiều như chia làm hai nửa, một nửa như bị nhuốm mực tàu, tỏa ánh huyền âm u, nửa còn lại tràn ngập ánh chiều tà huyền ảo như vàng ròng, chẳng khác nào tấm gấm thêu hoa bảy màu. Dưới ráng mây rực rỡ, mơ màng ấy, Tử Áo thành rực rỡ chói lọi, lầu các thâm nghiêm lộ ra khí thế không sao diễn tả được, để lại trong tôi một ấn tượng vô cùng sâu sắc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 28-3-2016 13:10:22 | Xem tất

RE: [Cổ Đại - Xuất Bản] Hậu Cung Chân Hoàn Truyện | Lưu Liễm Tử (Tập 1-Chương 2)

Tập 1-Chương 2
Ngày về chẳng hẹn


Xe chưa đến trước cửa phủ Thị lang đã loáng thoáng nghe thấy tiếng trống, tiếng nhạc và tiếng pháo nổ đì đùng. Lưu Chu giúp tôi vén góc rèm xe, dưới ánh đèn lồng đỏ chói, cả con đường huy hoàng như trong mộng. Từ xa, tôi đã thấy mọi người trong nhà, già trẻ lớn bé đang đứng trước cổng chính chờ đợi, mắt tôi chợt cay sè, dòng lệ chực trào nhưng giữa chốn đông người, đành cố nuốt ngược trở lại.

Thấy xe ngựa của tôi đi đến, tôi tớ, tỳ nữ trong nhà xúm xít chạy lại, chìa tay đón đỡ. Nhìn vẻ mặt của cha mẹ không biết đang vui hay đang buồn, bề ngoài thì cười tươi như hoa nhưng ánh mắt lại rưng rưng lệ. Tôi vừa định nhào vào lòng mẹ thì thấy mọi người đồng loạt quỳ xuống, cung kính hô lớn: “Thần Chân Viễn Đạo cùng toàn gia quyến tham kiến tiểu chủ!”

Tôi lập tức sững sờ, lúc này mới nhớ ra mình đã là cung tần do Hoàng thượng tuyển chọn, hai ngày sau sẽ nhận được thánh chỉ xác định danh phận phẩm cấp này. Chỉ trong vòng một ngày, thế giới của tôi đã biến hóa đảo điên như vậy. Trong lòng tôi sầu khổ, nước mắt tuôn rơi lã chã, chìa tay đỡ cha mẹ đứng dậy.

Cha vội xua tay ngăn lại. “Tiểu chủ không thể làm như vậy, sẽ không hợp với khuôn phép!”

Hoán Bích vội dâng khăn tay lụa, tôi chấm nước mắt, cố giữ giọng thật bình tĩnh, nói: “Đứng lên đi!”

Lúc này, mọi người mới dám đứng dậy, vây quanh đỡ tôi tiến vào trong phủ. Đến lúc chỉ còn người thân trong nhà tham dự gia yến, cha vẫn khăng khăng ép tôi ngồi lên ghế trên.

Tôi lập tức quỳ xuống, ứa nước mắt van xin: “Con gái bất hiếu, đã không thể hầu hạ, phụng dưỡng cha mẹ, lại còn để cha mẹ phải kính cẩn tuân theo khuôn phép, trong lòng thực sự bất an!”

Cha mẹ vội chạy lại, đỡ tôi đứng dậy, tôi cương quyết quỳ tại chỗ, tiếp tục khuyên: “Xin cha mẹ cho con gái nói hết lời! Tuy nay con đã là người của hoàng gia nhưng đạo hiếu không thể bỏ được. Xin cha mẹ cho phép con trước khi tiến cung vẫn được hầu hạ cha mẹ theo lễ xưa, nếu không, con thà quỳ ở đây, mãi mãi không đứng dậy!”

Nghe đến đây, mẹ tôi đã nước mắt như mưa, cha gật đầu, rưng rưng nói: “Được, được rồi! Chân Viễn Đạo ta sinh được đứa con gái có hiếu như con đúng là không uổng kiếp này.” Thế rồi, cha ra hiệu cho hai em gái của tôi là Ngọc Dao và Ngọc Nhiêu đỡ tôi đứng dậy, ngồi vào mâm cơm.

Tôi tâm phiền ý loạn lại vất vả cả ngày, chẳng thể ăn nổi, liền chào cha mẹ rồi quay về phòng nghỉ ngơi.

Lưu Chu và Hoán Bích đã chuẩn bị sẵn chăn đệm. Tôi tuy mệt mỏi nhưng không buồn ngủ chút nào, chỉ thay áo ngủ định nằm xuống chợp mắt cho có thì cha đã đích thân bưng một chén tổ yến đường phèn đến thăm tôi.

Cha gọi “Hoàn con” một tiếng, lệ đã lưng tròng. Tôi ngồi bên cạnh cha, ngả đầu lên tay ông, nghẹn ngào khóc thành tiếng. Cha an ủi tôi: “Con của ta, khuya thế này cha còn đến đây là vì có mấy câu muốn dặn dò con. Tuy con mới mười lăm tuổi nhưng từ nhỏ đã có chủ ý riêng của mình. Lúc bảy tuổi đã biết chê tên Ngọc Hoàn không hay, coi chữ “ngọc” quá tầm thường, tên con gái nào cũng có, nghe thật thông tục, đòi bỏ bằng được. Khi lớn lên, chuyện gì cha cũng chiều theo ý con. Giờ con phải vào cung hầu hạ Hoàng thượng, không thể ngang ngạnh làm theo ý mình được nữa. Gặp chuyện gì con cũng phải biết nhìn trước tính sau, suy nghĩ cẩn thận, phải trầm tĩnh như My Trang mới được!”

Tôi gật đầu vâng lời cha. “Con biết rồi, chuyện gì cũng phải có chừng có mực, đúng khuôn phép.”

Cha thở dài một tiếng. “Cha vốn không muốn để con vào cung nhưng chuyện đã không thể tránh được, đành thuận theo mà thôi! Hậu cung bao đời nay luôn là chốn nhiều thị phi, huống hồ hôm nay tuyển tú ở điện Vân Ý, Hoàng thượng có vẻ để ý nhiều đến con, e rằng về sau sẽ có thêm nhiều rắc rối nữa, con nhất định phải cẩn thận bảo toàn bản thân mình.”

Tôi nén lệ an ủi cha: “Không phải cha vẫn thường khen con gái là nữ Gia Cát, thông minh hơn người sao? Cha hãy yên tâm!”

Vẻ mặt cha vẫn đầy ưu tư, không yên lòng dặn dò thêm: “Đã tồn tại được ở trong hậu cung thì thử hỏi có ai mà không thông minh kia chứ? Cha chỉ lo dung mạo con tuyệt sắc, tài nghệ song toàn, chưa vào đến cung đã được Hoàng thượng để ý tới, khó tránh khỏi bị người trong cung ghen tỵ, ám toán. Nếu con mang hết tài trí ra đấu đá, chỉ e càng chuốc vạ vào thân. Con hãy nhớ kĩ, nếu không thể có được ân sủng thì phải biết thu mình lại, giấu giếm tài năng. Cha không cần con giành được vinh hoa phú quý, chỉ cầu cho hạt ngọc trên tay cha được sống bình an đến già là đủ rồi!”

Tôi trịnh trọng nhìn thẳng vào mắt cha, chậm rãi nói từng tiếng: “Con cũng không cầu được Thánh thượng sủng ái, chỉ mong sống trọn đời yên bình không sóng gió trong cung, bảo vệ cả nhà họ Chân ta và tính mệnh của chính con là đủ.”

Đôi mắt đầy vẻ yêu thương, cha xót xa than thở: “Thương con còn nhỏ đã phải vào cung chịu khổ sở, cha thực sự không nỡ lòng nào!”

Tôi dùng mu bàn tay lau khô nước mắt, trầm giọng an ủi: “Chuyện đã đến nước này, con chẳng còn đường lui nữa, chỉ còn nước đi thẳng về phía trước thôi!”

Cha thấy tôi nói vậy cũng an lòng đôi chút, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi cất giọng dò hỏi: “Người con dẫn theo vào cung vừa phải là tâm phúc, vừa phải lanh lợi, tháo vát. Con đã nghĩ kĩ xem nên dẫn ai theo chưa?”

Tôi hiểu ý của cha, bèn đáp: “Chuyện này con đã nghĩ kĩ rồi. Lưu Chu nhanh trí, Hoán Bích tỉ mỉ, con muốn dẫn hai đứa nó cùng vào cung.”

Cha thoáng thở phào, bảo: “Vậy cũng tốt! Bọn chúng theo hầu con từ nhỏ, cho chúng đi cùng con, cha cũng an tâm.”

Tôi cúi đầu, đáp lời: “Để chúng ở nhà thì tương lai cũng gả cho kẻ hầu thôi, dù cha có lòng muốn giúp, chúng cũng chẳng có đường thoát nào tốt hơn, nếu làm quá thì lại khiến mẹ nghi ngờ, cả nhà không được yên ổn.” Khuôn mặt nhuốm màu sương gió của cha thoáng lộ chút áy náy và hổ thẹn, tôi không nỡ nhìn cha như vậy, dịu giọng khuyên: “Chúng theo con vào cung, tuy vẫn là nô tỳ nhưng tương lai nhất định sẽ có cơ hội kết hôn với một người đàn ông tốt.”

Cha buông tiếng thở dài, nói: “Chuyện đó cha biết, còn phải chờ xem số phận của chúng nó thế nào.”

Tôi nói tiếp: “Cha yên tâm, con với chúng nó thân thiết như tỷ muội, con sẽ không bạc đãi chúng đâu!”

Tiễn cha đi rồi, tôi thổi tắt nến, gian phòng chìm trong bóng tối.

Sáng sớm hôm sau, Lưu Chu, Hoán Bích đánh thức tôi dậy rửa mặt. Tôi đột nhiên nghĩ ra một chuyện, đang định ra ngoài thì chợt nhớ tôi giờ đã là tiểu chủ, không thể tùy ý rời phủ được nữa. Tôi bèn gọi một đứa tiểu a hoàn lại, dặn dò: “Ngươi ra ngoài nghe ngóng xem An Lăng Dung con gái của An Bỉ Hòe, Huyện thừa huyện Tùng Dương có trúng tuyển đợt tuyển tú lần này hay không và hiện giờ đang ở nơi nào. Kín đáo một chút rồi về đây cho ta biết!”

Nó vâng dạ rồi chạy ra ngoài, hơn nửa ngày sau mới về, bẩm với tôi: “Thưa tiểu chủ, An tiểu thư đã trúng tuyển hiện giờ đang ở khách điếm Liễu Ký tại ngõ Tĩnh Bách phía thành Tây. Nhưng nghe nói nàng ta chỉ dẫn theo một bà dì lên kinh dự tuyển, trong tay cũng chẳng có mấy đồng, nghe nói hôm qua, đến tiền thưởng cũng không đủ để chi trả, phải nói khó với ông chủ khách điếm cho khất.” Tôi cau mày, thế thì chẳng ra sao cả, có tiểu chủ nào đã trúng tuyển mà vẫn ở trọ kia chứ? Hai ngày tới, nếu nội giám tuyên chỉ và cô cô dạy lễ nghi nhìn thấy cảnh đó thì sau này tiến cung, nàng ta còn mặt mũi nào nhìn ai nữa!

Tôi ngẫm nghĩ một lát rồi lệnh cho Phân Nhi: “Đi mời lão gia sang đây!”

Chưa hết một tuần hương, cha đã đến. Mặc cho tôi ra sức ngăn cản, ông vẫn hành lễ với tôi rồi mới ngồi xuống cạnh bàn. Hành lễ xong, ông lại trở về là người cha cưng chiều con gái, chuyện trò vui vẻ như thường.

Tôi nói với cha: “Thưa cha, con gái có chuyện cần bàn với cha. Hôm qua, con có quen một tú nữ, từng ra tay giúp đỡ nàng ta một phen. Giờ nàng ta may mắn trúng tuyển thành tiểu chủ, có điều xuất thân nghèo hèn, gia đình khó khăn, hiện giờ vẫn còn ở trọ tại khách điếm, hoàn cảnh hết sức thảm thương. Con định mời nàng ta đến nhà ta ở tạm, không biết ý của cha thế nào?”

Cha vuốt râu, trầm ngâm một lát rồi nói: “Con đã muốn vậy thì có gì mà không được chứ? Ta lệnh cho ca ca con đến đón nàng ta là được.”

Chạng vạng, chiếc kiệu nhỏ đón An Lăng Dung và bà dì của nàng ta đã đến trước phủ. Từ sớm, mẹ đã lệnh cho người hầu quét dọn sạch sẽ Xuân Cập hiên [1] ở kế bên, chuẩn bị sẵn quần áo, trang sức, lại phái thêm mấy a hoàn sang hầu hạ họ.

[1] Hiên: phòng.

Dùng xong bữa tối, ca ca hớn hở cùng Lăng Dung ghé sang Khoái Tuyết hiên nơi tôi đang ở. Lăng Dung vừa nhìn thấy tôi, nước mắt lưng tròng, định quỳ xuống bái tạ. Tôi vội đứng dậy, đỡ lấy nàng ta, mỉm cười khuyên: “Tỷ muội chúng ta vốn ngang hàng, sao muội phải hành lễ trịnh trọng với tỷ như vậy?”

Lưu Chu nhanh nhảu hiểu ý, lập tức mời Lăng Dung: “Mời Lăng Dung tiểu chủ và cô cô đây ngồi!” Lăng Dung nghe thấy vậy thì cùng dì mình là Tiêu thị ngồi xuống.

Lăng Dung thấy ca ca tôi đứng bên thì gượng gạo dùng tay áo chậm nước mắt, nức nở: “Lăng Dung nhờ ơn Chân tỷ thương xót mới có chỗ gửi thân an toàn giữa chốn kinh thành, mai sau tiến cung sẽ không bị kẻ khác coi thường, ân đức này Lăng Dung thực không biết lấy gì đền đáp!”

Dì Tiêu cũng hết lời cảm kích tôi.

Ca ca tôi đứng bên cười, kể: “Lúc mới đến khách điếm kia, ông chủ ở đó còn muốn giữ Lăng Dung tiểu chủ lại để đầu cơ kiếm lợi, cương quyết không để cho họ rời đi, kết quả là bị ba quyền bốn cước của ta nện cho một trận.”

Tôi vờ tức giận, mắng: “Trước mặt Lăng Dung tiểu chủ, sao ca ca lại nói mấy chuyện đấm đá, lôi quyền cước công phu ra dọa người cơ chứ!”

Lăng Dung nín khóc, mỉm cười, có chút thẹn thùng. “Không sao. Cũng may Chân thiếu hiệp đây đã ra tay giúp đỡ!”

Tôi mỉm cười vặn lại: “Thiếu hiệp cái gì chứ? Chẳng qua chỉ thiếu điều dọa dẫm bọn ta phát hoảng mà thôi!”

Mọi người cùng phá lên cười.

Đêm dần khuya, tôi đưa Lăng Dung về phòng, ánh trăng dịu dàng như nước rót xuống lan can. Tôi chân thành dặn dò Lăng Dung: “Lăng Dung, ở nhà tỷ, muội đừng ngại, cứ coi như đang ở nhà của muội vậy, đừng gò bó mình làm gì. Thiếu thứ gì muội cứ nói với ta, a hoàn, hầu gái không chịu nghe lời, muội cũng cứ nói với ta, đừng một mình chịu uất ức, để mặc bọn họ coi trời bằng vung!”

Lăng Dung hết sức cảm động, nắm chặt tay tôi. “Lăng Dung xuất thân hèn mọn, không biết tu kiếp nào mà có phúc như vậy, được tỷ đem lòng thương yêu, nay mới có thể an tâm vào cung. Lăng Dung chỉ có tấm lòng chân thành này báo đáp cho tỷ, suốt đời suốt kiếp nguyện ở bên giúp đỡ tỷ trong cung cấm!”

Lòng tôi chợt ấm lại, siết chặt tay nàng ta, chân thành nói: “Muội muội ngoan…”

Một ngày sau, nội giám trong cung đến tuyên chỉ, cha dẫn mẹ, tôi, ca ca và hai tiểu muội ra sảnh chính tiếp chỉ, nội giám tuyên đọc:

“Ngày Hai mươi hai tháng Tám năm Càn Nguyên thứ mười hai, tổng quản Nội vụ phủ vâng lệnh Kính sự phòng, phụng chỉ: sắc phong Chân Hoàn, mười lăm tuổi, con gái Lại bộ thị lang Chân Viễn Đạo làm tòng lục phẩm Quý nhân, ban hiệu Hoàn, nhập cung vào ngày Mười lăm tháng Chín. Khâm thử!”

Chẳng biết lúc này tôi cảm thấy vui hay buồn, chỉ lẳng lặng tiếp chỉ, tạ ơn.

Một người đàn bà lớn tuổi, ăn vận theo kiểu cung nữ được đưa tới, vẻ ngoài thanh tú, hàng mày, đuôi mắt rất đỗi hiền hòa. Tôi biết đó là cô cô dạy lễ nghi, bèn khẽ nhún người chào: “Cô cô!”

Bà ta sững người, chắc hẳn không ngờ tôi lại cư xử lễ phép như vậy, bèn vội vàng quỳ xuống thỉnh an tôi. “Nô tỳ Phương Nhược, tham kiến Quý nhân tiểu chủ!” Theo quy định của triều đình, cô cô dạy lễ nghi có thân phận đặc biệt, lúc hướng dẫn lễ nghi trong cung cho tiểu chủ thì không cần dập đầu hành lễ, do vậy, lần đầu tiên gặp mặt chỉ cần quỳ gối thỉnh an là đủ.

Cha sớm đã chuẩn bị đầy đủ tiền tài, lễ vật để biếu nội giám đến tuyên chỉ. Mẹ cũng chu đáo, lo chuyện Lăng Dung đến ở nhờ, vốn riêng chẳng có là bao nhưng đến phiên nàng ta, bà cũng chuẩn bị lễ vật cho công công.

Nội giám nhận lễ xong, lại sang Xuân Cập hiên kế bên tuyên chỉ:

“Ngày Hai mươi hai tháng Tám năm Càn Nguyên thứ mười hai, tổng quản Nội vụ phủ vâng lệnh Kính sự phòng, phụng chỉ: sắc phong An Lăng Dung, mười lăm tuổi, con gái Huyện thừa Tùng Dương, An Bỉ Hòe làm tòng thất phẩm tuyển thị, nhập cung vào ngày Mười lăm tháng Chín. Khâm thử!”

Lăng Dung và dì Tiêu nghe xong mừng đến khóc òa. Vì tôi và Lăng Dung ở cùng chỗ nên Phương Nhược cô cô dạy lễ nghi cho cả hai.

Tuyên chỉ xong, cô cô và nội giám được mời vào uống trà. Riêng cô cô còn được chuẩn bị phòng ở tươm tất, khoản đãi tận tình.

Người hầu ra ngoài nghe ngóng tin tức cũng đã trở về. Vì mới vào cung nên chức vị của các tiểu chủ trúng tuyển không cao, đều dưới bậc chính ngũ phẩm tần. My Trang được sắc phong làm tòng ngũ phẩm Uyển nghi, nhập cung cùng ngày với tôi. Lần này có tổng cộng mười lăm tiểu chủ trúng tuyển, chia làm ba đợt tiến cung. Tôi, Lăng Dung và My Trang thuộc đợt cuối cùng.

Tôi cảm thấy có chút an ủi. Chẳng những được vào cung trễ hai ngày, ba người chúng tôi còn có thời gian quen thân, sau khi vào cung sẽ dễ dàng hiểu và giúp đỡ nhau, không đến mức cảm thấy lẻ loi, cô độc.

Tôi và Lăng Dung sau khi nhận lễ sắc phong thì bắt đầu ở riêng, tách biệt với mọi người. Tuy vẫn ở trong phủ Lại bộ thị lang nhưng Khoái Tuyết hiên và Xuân Cập hiên, nơi chúng tôi ở bị phong tỏa hoàn toàn. Bên ngoài có thị vệ từ trong cung phái đến bảo vệ, bên trong có nội giám và cung nữ hầu hạ, nam nhân không có việc gì thì tuyệt đối không được phép tiến vào. Chỉ có cô cô dạy lễ nghi theo sát chỉ đạo chúng tôi, đợi đến ngày Mười lăm tháng Chín thì tiến cung.

Sau khi được sắc phong, khuôn phép nghiêm cẩn hẳn, trừ thị tỳ thân cận được phép dẫn theo vào cung là có thể hầu hạ bên người, ngay cả cha và ca ca nếu muốn gặp tôi cũng phải quỳ ngoài cửa, cách bức rèm mà nói chuyện. Mỗi ngày mẹ và tiểu muội được gặp tôi một lần nhưng vẫn phải giữ đúng phép tắc, thỉnh an tôi.

Lăng Dung và tôi đều là cung tần nên có thể thường xuyên gặp gỡ và cùng học lễ nghi.

Xem ra Lăng Dung nhẹ nhõm, dễ chịu hơn tôi nhiều. Không có người thân ở gần, không phải trơ mắt nhìn cảnh cha mẹ, huynh muội quỳ xuống hành lễ với mình.

Trước nay, triều Đại Chu luôn coi trọng trật tự quân thần, quân là chủ đạo của thần. Phong hiệu “Hoàn Quý nhân” cho thấy tôi đã là người của thiên tử, tuy chỉ là một cung tần bậc thấp sắp vào cung nhưng cha mẹ, huynh muội vẫn phải quỳ xuống vái lạy tôi. Mỗi lần nhìn thấy cha quỳ bên ngoài bức rèm thỉnh an tôi, miệng cung kính bẩm thưa: “Hoàn Quý nhân cát tường, nguyện Quý nhân tiểu chủ phúc thọ an khang”, sau đó khom người nói chuyện với tôi, tôi không sao chịu nổi, lòng nghẹn ngào, vừa khó chịu vừa đau xót.

Sau mấy lần như vậy, tôi đành tránh mặt không gặp cha nữa, mỗi ngày đều nhờ Ngọc Dao và Ngọc Nhiêu hỏi thăm cha, không quên dặn dò cha chú ý giữ gìn sức khỏe.

Mỗi ngày tôi đều dậy thật sớm, cùng Lăng Dung nghe Phương Nhược giảng giải phép tắc trong cung. Theo lệ thường, buổi trưa sau khi ngủ dậy sẽ luyện tập lễ nghi tư thế đứng, đi, thỉnh an, dùng bữa… Tôi và Lăng Dung đều rất thông minh, vừa học đã hiểu nên chẳng mấy chốc đã thành thạo. Lúc rảnh rỗi, chúng tôi thường nghe Phương Nhược kể chuyện trong cung. Phương Nhược từng làm nữ quan bên cạnh Thái hậu, tính tình nhún nhường mà thẳng thắn, nhiệt tình, chu đáo. Bà ta rất ít khi đề cập đến chuyện kín trong cung nhưng ngày ngày trôi qua, sáng chiều ở chung, tuy chỉ trao đổi vài ba lời vụn vặt nhưng tôi cũng phần nào hiểu được tình hình trong cung.

Hoàng đế Huyền Lăng năm nay hai mươi lăm tuổi, đã thành thân với Chu Nhu Tắc từ mười hai năm trước là cháu họ của đương kim Thái hậu. Hoàng hậu tuy lớn hơn Hoàng thượng hai tuổi nhưng dung mạo đoan trang, thanh nhã, đương thời được xưng tụng là “dịu dàng đức độ, mỹ lệ sáng cả Tiêu Phòng”, cùng Hoàng thượng án đặt ngang mày, yêu thương đằm thắm, rất được lòng người trong hậu cung. Ai ngờ thành thân được năm năm, Hoàng hậu qua đời vì sinh khó, đến tiểu hoàng tử mới ra đời cũng không cứu sống được. Hoàng thượng vô cùng thương tâm, truy phong tên thụy là Thuần Nguyên Hoàng hậu. Sau đó chọn em gái của Hoàng hậu, cũng là cháu họ của Thái hậu, là Quý phi Chu Nghi Tu kế nhiệm Hoàng hậu. Đương kim Hoàng hậu tuy không phải quốc sắc thiên hương nhưng tính tình khoan dung, Hoàng thượng cũng rất kính trọng. Chỉ có điều Hoàng thượng còn trẻ, sau khi Thuần Nguyên Hoàng hậu mất, người cũng có không ít các sủng phi. Hiện giờ, người được sủng ái nhất là Hoa Phi Mộ Dung Thế Lan ở cung Mật Tú. Nghe đồn nàng ta dung mạo nghiêng nước nghiêng thành, rất được lòng Hoàng đế, trong cung không ai dám phản kháng, đừng nói đến các phi tần bình thường, ngay đến Hoàng hậu cũng phải nhường nhịn nàng ta.

Theo lý mà nói, Hoàng hậu là cháu họ của Thái hậu, Thái hậu niệm tình họ hàng hoặc muốn củng cố địa vị của họ ngoại thì không thể nhắm mắt làm ngơ mà ngồi yên được, nhưng Thái hậu cũng giỏi giang chẳng kém gì các đấng mày râu. Lúc Hoàng đế mới lên ngôi vẫn còn rất non trẻ, Thái hậu đã buông rèm nghe chính sự suốt ba năm ròng, dùng thế “sét đánh không kịp bưng tai” đoạt lại quyền hành từ tay Nhiếp chính vương rồi đích thân xử chết hắn, diệt sạch bè đảng của hắn, thế lực của hắn bị tiêu trừ không sót một mống, nên lúc này giang sơn mới thái bình, thịnh trị như vậy. Chỉ có điều, sau khi diệt trừ toàn bộ bè đảng của Nhiếp chính vương, Thái hậu bệnh nặng, hẳn là do lao lực quá độ nên muốn quy ẩn dưỡng già. Từ đó trở đi, trừ những dịp lễ tết trọng đại, bà đều ở trong điện Thái hậu, đóng kín cửa, chuyên tâm thờ Phật tuyệt không nhúng tay vào chuyện triều đình và hậu cung nữa, giao mọi việc cho Hoàng đế và Hoàng hậu xử lý.

Tần phi trong cung chia thành tám phẩm, mười sáu cấp. Tôi, My Trang và Lăng Dung là cung tần bậc thấp, không phải chính vị trong cung đình nên chỉ được xưng là “tiểu chủ”, sống ở các lầu viện trong cung, không được ở điện chính. Chỉ những người có cấp vị từ chính tam phẩm Quý tần trở lên mới được phép xưng là “chủ tử” hay “nương nương”, có tư cách trở thành chủ vị trong cung đình, sống ở điện chính, quản lý mọi việc trong một cung. Phi tần giữ chức chủ vị trong hậu cung tuy không thiếu nhưng từ lúc đương kim Hoàng hậu từ Quý phi được sắc phong làm Hoàng hậu, bốn vị trí chính nhất phẩm phi: Quý, Thục, Đức, Hiền vẫn luôn để trống chờ người. Phương Nhược cô cô từng chân thành nói riêng với tôi rằng, với tư chất và dung mạo của tiểu chủ, được lòng tin yêu của Thánh thượng, ngồi lên chức tứ phi, an hưởng vinh hoa phú quý là chuyện trong tầm tay. Tôi chỉ tủm tỉm cười rồi nói lảng sang chuyện khác.

Từ khi thánh chỉ ban xuống, mẹ và Ngọc Dao tất bật chuẩn bị quần áo, trang sức cho tôi đem vào cung, không thể đem quá nhiều vì dễ lộ vẻ hèn mọn, nhưng cũng không thể đem quá ít vì sẽ làm mất thể diện khiến người khác xem thường, thêm vào đó, trang phục cũng phải vừa tinh tế vừa nền nã. Bận bịu lựa chọn cái này cái kia cũng tốn không ít thời gian. Lăng Dung đến ở nhà tôi, ai nấy đều coi nàng ta như người trong nhà nên đương nhiên nàng ta cũng được chuẩn bị như tôi.

Vì không thể gặp My Trang, cũng không thể tùy ý gặp gỡ người nhà nên tình cảm giữa tôi và Lăng Dung ngày càng gắn bó. Hai chúng tôi dính nhau như hình với bóng, coi nhau như chị em ruột, đến một cây trâm ngọc cũng thay phiên nhau dùng.

Nhưng tâm tình của tôi chẳng thoải mái chút nào, trong lòng nóng nảy, lo âu, mụn nhọt mọc đầy hai bên mép. Lăng Dung và dì Tiêu thấy vậy thì sốt ruột, lấy bài thuốc dân gian ở quê nhà thoa lên mép cho tôi, nhờ vậy cái mụn mới từ từ xẹp xuống.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 28-3-2016 15:07:02 | Xem tất

[Cổ Đại - Xuất Bản] Hậu Cung Chân Hoàn Truyện | Lưu Liễm Tử (Tập 1-Chương 3)

Tập 1-Chương 3
Đường Lê


Đêm cuối trước khi vào cung, theo lệ thường, người nhà có thể gặp gỡ, tiễn đưa, cha mẹ cùng ca ca và hai tiểu muội đến thăm tôi. Phương Nhược nhanh chóng dẫn đám người hầu lui ra ngoài, trong phòng chỉ còn lại gia đình tôi nghẹn ngào trong nước mắt.

Sau ngày hôm nay, tôi sẽ phải ở trong thâm cung cả đời, muốn gặp lại gia đình cũng khó.

Tôi gạt lệ nhìn sang Ngọc Dao và Ngọc Nhiêu. Ngọc Dao vừa tròn mười hai tuổi, vẻ ngoài tuy không bằng tôi nhưng trông cũng rất thanh tú, chỉ có điều tính tình quá ôn hòa đến mức nhu nhược, hay do dự, thiếu quyết đoán, chỉ e tương lai chẳng làm nên chuyện gì. Ngọc Nhiêu còn nhỏ, mới bảy tuổi nhưng ánh mắt đã toát lên sự thông minh, tính tình lại cởi mở, hoạt bát và hết sức lanh lợi. Cha mẹ nói muội ấy giống hệt tôi lúc nhỏ, vì thế tôi rất thương yêu muội, muội cũng hết mực thân thiết với tôi.

Ngọc Dao cố nén cơn nức nở, đỡ lấy tay mẹ mà nước mắt tuôn rơi. Ngọc Nhiêu vẫn chưa hoàn toàn hiểu chuyện, chỉ ôm chặt lấy cổ tôi, khóc òa. “Tỷ đừng bỏ A Nhiêu mà đi!”

Hai tiểu muội còn nhỏ tuổi, chưa thể lo lắng, gánh vác chuyện gia đình, cũng may đại ca Chân Hành tuổi trẻ tài cao, tuy chỉ hơn tôi bốn tuổi nhưng văn võ song toàn, ba tháng nữa sẽ tòng quân trấn thủ biên cương, kiến công lập nghiệp vì quốc gia.

Tôi ngẩng đầu nhìn mẹ, tuổi mẹ đã ngoại tứ tuần nhưng nhờ cuộc sống yên bình, ăn sung mặc sướng nên trông trẻ hơn nhiều so với tuổi thực. Nhưng chỉ trong ba tháng, con trai cả và con gái rượu đều phải rời đi, vẻ mặt mẹ đậm nét ưu sầu, tóc mai hai bên thái dương cũng ngả màu tuyết trắng. Mẹ liên tục dùng khăn tay chấm dòng nước mắt lăn trên má nhưng nước mắt trào ra như suối, không sao lau hết được.

Trong lòng tôi xót xa, tôi rưng rưng dòng lệ, ôm lấy mẹ, khuyên nhủ: “Mẹ à, con vào cung sẽ không phải chịu khổ, uất ức gì đâu. Đại ca đi kiến công lập nghiệp, chẳng bao lâu sẽ trở về. Dù sao thì mẹ vẫn còn hai muội muội hầu hạ dưới gối mà!”

Mẹ ôm chặt tôi, nghẹn ngào mãi không thôi.

Hồi lâu sau, mẹ lau nước mắt, dặn dò: “Ngày thường nghe người ta nói “cung cấm sâu như biển”, giờ thì cũng đến lượt máu mủ ruột thịt nhà ta rồi! Hoàn con đi chuyến này phải biết tự thương lấy thân mình, cư xử với Hoàng hậu và phi tần càng phải chú ý cẩn thận, nhịn được thì cứ nhịn, đừng tranh chấp, gây sự với người ngoài, nhất là Hoa Phi nương nương đang rất được sủng ái. Tương lai nếu con có phúc được Hoàng thượng sủng ái thì tốt nhưng mẹ chỉ cần con sống thật vui vẻ, thoải mái, vậy nên tính mạng là vô cùng quan trọng, dù thế nào đi chăng nữa, con cũng phải lo bảo toàn thân mình trước.”

Tôi cười gượng, vâng dạ: “Mẹ cứ yên tâm, con nhớ kĩ rồi ạ! Con cũng mong cha mẹ giữ gìn sức khỏe.”

Vẻ mặt cha vô cùng bi thương, trầm lặng không nói một lời, cuối cùng cha chỉ nghiêm túc dặn dò tôi một câu: “Hoàn con, về sau là vinh hay nhục đều dựa vào chính bản thân con. Đương nhiên vinh nhục của cả Chân gia này đều gắn liền với con.”

Tôi gật đầu vâng dạ, khi ngẩng lên chợt thấy ca ca có chút tư lự nhưng hồi lâu vẫn không nói gì. Tôi biết ca ca không phải người hay do dự, nhất định là có chuyện gì đó cực kỳ quan trọng, liền lên tiếng: “Cha mẹ cứ đưa hai muội đi nghỉ trước đi, con còn có vài lời muốn nói với đại ca.”

Cha mẹ dặn dò mãi, cuối cùng mới bịn rịn rời đi.

Đại ca không ngờ tôi lại chủ động giữ huynh ấy lại nói chuyện nên có chút bất ngờ. Tôi dịu dàng cất tiếng: “Bây giờ có chuyện gì thì huynh có thể nói được rồi đấy!”

Huynh ấy thoáng do dự một lát rồi rút tờ hoa tiên [1] trong tay áo ra, mặt giấy còn thoảng mùi thảo dược thơm mát, tôi vừa ngửi đã biết ngay người viết là ai. Cuối cùng, đại ca cũng chịu mở miệng: “Ôn Thực Sơ nhờ huynh trao cho muội. Huynh suy nghĩ, đắn đo hai ngày trời, không biết có nên đưa cho muội hay không.”

[1] Hoa tiên: tên một loại giấy viết thư thời xưa.

Tôi lạnh nhạt liếc qua tờ hoa tiên rồi nói: “Huynh à, hắn đã hồ đồ, huynh cũng hồ đồ theo hay sao? Lén lút trao đổi thư từ với cung tần của Thiên tử là tội lớn đến nhường nào?”

Giọng huynh ấy dần bé đi, có chút bùi ngùi: “Huynh biết việc này phạm vào điều cấm kỵ trong cung, chỉ là tình ý của hắn…”

Tôi nghiêm mặt, lạnh lùng cất cao giọng: “Chân Hoàn muội tự biết mình không thể nhận được!” Thấy mặt huynh ấy thoáng lộ vẻ hổ thẹn, áy náy, tôi mới dịu giọng nói: “Chẳng lẽ huynh còn chưa hiểu Hoàn muội này sao? Thực Sơ hoàn toàn không phải là người mà lòng muội hướng tới, trước nay muội cũng chưa hề hướng tới bất kỳ ai.”

Huynh ấy khẽ gật đầu. “Hắn cũng biết muội không thể hứa hẹn gì với hắn, chỉ là muốn muội hiểu rõ lòng hắn mà thôi! Huynh giao hảo với Thực Sơ lâu nay, thật không nhẫn tâm thấy hắn phải khổ sở tương tư.” Huynh ấy ngừng một lát rồi đặt bức thư vào tay tôi. “Muội tự giải quyết lá thư này đi vậy!”

Tôi “ừ” một tiếng, quẳng lá thư xuống bàn, lạnh lùng nói: “Giúp muội nói với Ôn Thực Sơ, lo làm cho tốt chức thái y của hắn, đừng phí tâm vì muội nữa.”

Sư huynh chăm chú nhìn tôi. “Nhất định huynh sẽ chuyển lời của muội tới hắn. Có điều, với tính tình của hắn, e là hắn không chịu ý của muội đâu!”

Tôi chẳng mấy quan tâm, đưa tay rút một cây trâm bạc, khều khều tim nến, khẽ thổi những tàn tro vẫn còn lấp lánh ánh lửa.

“Huynh chịu chuyển lời là được rồi. Coi như nhắc nhở hắn một phen, hắn làm được thì sẽ tốt cho cả hắn và muội, không làm được thì cũng chẳng ảnh hưởng gì tới muội. Chỉ cần cho hắn biết rõ, giờ đây thân phận của muội và hắn đã khác xưa lắm rồi!” Nói xong, tôi cầm bộ trường bào màu xanh nhạt đưa tận tay đại ca, dịu giọng nói: “Đây là chiếc áo choàng muội vừa may xong, hy vọng huynh nhìn nó cũng như gặp được Chân Hoàn muội. Biên cương lạnh giá, cực khổ, trong cung cũng vất vả chẳng kém. Cả huynh và muội đều phải tự lo lấy thân mình thôi!”

Huynh ấy cầm lấy tấm áo choàng, ánh mắt đầy vẻ lưu luyến nhưng chỉ lặng lẽ nhìn tôi. Tôi sững người hồi lâu, không thốt nổi một lời, mơ hồ cảm thấy mình vẫn là đứa bé gái sáu, bảy tuổi, tóc vấn trái đào, đại ca đặt tôi ngồi trên vai, cõng tôi đi hái hoa thạch lựu nở rộ giữa tháng Năm.

Tôi định thần rồi gọi Hoán Bích dẫn đại ca rời đi. Nhìn theo bóng huynh ấy khuất dần, lòng tôi chua xót, dòng lệ không ngừng tuôn rơi.

Tôi gọi Lưu Chu đem chậu than vào, định đốt bức thư của Ôn Thực Sơ, chợt thấy đằng sau bức thư có một vết lệ loang, đọng trên mặt giấy phù dung đỏ rực như đang ứa máu, lòng tôi lại cảm thấy không nỡ. Mở ra xem thử chỉ thấy có hai hàng chữ ngắn ngủi viết theo lối Khải: “Vào cửa vương hầu sâu tựa biển, từ đó chàng Tiêu thành khách qua đường.” Nét mực run rẩy, đứt quãng, chắc hẳn lúc ấy, trong lòng người cầm bút vô cùng đau đớn, dằn vặt.

Tôi cảm thấy vô cùng tức giận, sao lại có kẻ tự tác đa tình đến thế, tôi hoàn toàn không để mắt đến hắn, sao hắn có thể là chàng Tiêu của tôi cơ chứ?! Tôi thuận tay vò nát tờ giấy rồi ném thẳng vào chậu than, tờ hoa tiên lập tức bị lưỡi lửa nuốt sạch, chẳng còn chút dấu vết.

Lưu Chu lập tức bưng chậu than ra ngoài. Hoán Bích bước lên châm trà thơm, nhỏ giọng khuyên nhủ: “Ôn đại nhân lại chọc giận tiểu thư nữa sao? Công tử ấy có ý tốt thật nhưng lại dùng không đúng chỗ. Tiểu thư đừng chấp nhặt công tử ấy làm gì!”

Tôi nhấp một ngụm trà, lòng phiền não. Trong đầu bất giác hiện rõ cảnh nửa tháng trước ngày vào cung tuyển tú, hắn đến bắt mạch bình an cho tôi. Trong cung có quy định rõ ràng, ngự y khi chưa được lệnh vua thì không được bắt mạch chẩn bệnh cho người không thuộc hoàng tộc, nhưng vì hắn qua lại nhà tôi cũng đã lâu nên lúc rảnh rỗi vẫn thường ghé qua chơi, thăm bệnh cho cả nhà. Hôm đó, hắn ngồi trong sảnh nhỏ nơi hiên tôi ở, bắt mạch xong, hắn trầm tư hồi lâu rồi đột nhiên nói: “Hoàn muội, nếu ta đến xin hỏi cưới, muội có đồng ý lấy ta không?”

Lúc ấy tôi sững người, ngượng đến chín mặt, nghiêm giọng nói: “Coi như Chân Hoàn tôi chưa nghe thấy Ôn đại nhân nói gì!”

Hắn vừa xấu hổ vừa hoảng hốt, luôn miệng xin lỗi: “Là ta không tốt, xúc phạm đến Hoàn muội, xin muội đừng giận! Thực Sơ chỉ hy vọng muội không phải vào cung ứng tuyển mà thôi!”

Tôi cố nén giận, gọi Phân Nhi: “Ta mệt rồi, tiễn khách!”, rồi nửa đuổi nửa mời hắn ra ngoài.

Trước khi rời đi, hắn chăm chăm nhìn tôi, thành khẩn van vỉ: “Thực Sơ không dám bảo đảm điều gì nhưng dư sức cam đoan suốt đời suốt kiếp sẽ đối xử với Hoàn muội thật tốt, mong muội suy nghĩ kĩ, nếu đồng ý thì cứ nhờ Hành huynh chuyển lời, ta lập tức sẽ tới cầu hôn.”

Tôi quay đi, chăm chăm nhìn vào tấm bình phong bằng gỗ mun chạm, lặng yên không đáp.

Tôi chẳng thèm để ý đến chuyện này, cũng không kể gì với cha mẹ và đại ca.

Ôn Thực Sơ quả thực không phải là mẫu người mà lòng tôi hướng tới. Tôi không thể chỉ vì không muốn tham gia tuyển tú mà tùy tiện thành thân với người khác. Nếu cuộc đời chỉ có hai lựa chọn: hoặc là vào cung hoặc là thành thân với Ôn Thực Sơ thì tôi tình nguyện vào cung. Ít nhất không phải suốt ngày đối mặt với người đàn ông như Ôn Thực Sơ, tuy quen biết từ nhỏ nhưng chẳng có chút tình cảm nam nữ nào, rồi phải ở chung với hắn đến lúc đầu bạc răng long, trở thành cặp vợ chồng không yêu thương cũng không ghét bỏ nhau, sống cuộc sống tầm thường, chán nản. Dù thế nào đi nữa, tôi không thể sống một cuộc đời giản đơn, dễ đoán như thế được, ít ra khi vào cung sẽ được thấy một phương trời khác.

Lòng tôi rối tựa tơ vò, không đi ngủ theo lời khuyên của Hoán Bích mà khoác tấm áo choàng tơ tằm, một mình thong thả đi dạo ngoài hành lang.

Ở cuối hành lang quanh co là Xuân Cập hiên, nơi Lăng Dung ở tạm, tôi nghĩ ngày mai vào cung rồi, chắc hẳn nàng ta rất muốn tâm sự riêng với dì Tiêu, bèn không đi sang chỗ nàng ta nữa mà xoay người đi ra vườn. Đột nhiên tôi cảm thấy vô cùng lưu luyến Chân phủ, nơi mình từng sống suốt mười lăm năm ròng, từng nhành cây, ngọn cỏ đều gợi lại những kỷ niệm xưa, khiến tôi không khỏi tức cảnh sinh tình.

Lững thững đi dạo hết một vòng thì trời đã về khuya, sợ Phương Nhược cô cô và đám a hoàn, người hầu sốt ruột, tôi bèn rảo bước quay về. Đi qua Hư Lãng trai, nơi đại ca tôi ở, là đến Khoái Tuyết hiên rồi. Đang đi, tôi chợt nghe thấy có tiếng loạt soạt ở cửa ngách của Hư Lãng trai, một bóng người nhỏ nhắn, yểu điệu đang đứng đó. Tôi cứ ngỡ đó là a hoàn hầu hạ ca ca,đang định cất tiếng vặn hỏi thì ngỡ ngàng nhận ra, người đó chẳng phải là Lăng Dung sao?

Tôi vội giấu mình sau một gốc cây ngô đồng, chỉ thấy Lăng Dung đang ngẩn ngơ nhìn về phía bóng lưng cao to của ca ca tôi hằn lên song cửa phòng ngủ ở Hư Lãng trai. Ánh trăng dịu dàng như nước lách qua kẽ lá ngô đồng, tựa như những đường thêu chìm rải rác trên người nàng ta, khiến nàng ta càng có vẻ yếu ớt, mảnh mai, bộ dạng ẩn nhẫn, đau lòng. Vạt áo nàng ta bị gió đêm thổi tung nhưng dường như nàng ta không hề cảm thấy lạnh. Giờ đã vào giữa tháng Chín, mấy gốc ngô đồng trồng trước Hư Lãng trai đã bắt đầu rụng lá. Đêm khuya thanh vắng, giữa tiếng lá vàng rơi xào xạc, tôi mơ hồ nghe thấy tiếng nức nở cố kìm nén của Lăng Dung, nhất thời cảm thấy buồn man mác. Dù tình cảm của Lăng Dung đối với ca ca tôi sâu đậm nhường nào thì chỉ e rằng đời này kiếp này đã định sẵn họ có duyên nhưng không có phận. Gió đêm quấn quanh người, chẳng hiểu sao tôi lại sực nhớ đến câu nói của Ôn Thực Sơ: “Vào cửa vương hầu sâu tựa biển, từ đó chàng Tiêu thành khách qua đường.” Với Lăng Dung, câu thơ này quả thực rất phù hợp.

Không biết đã ngẩn người, ngưỡng vọng bao lâu, cuối cùng, Lăng Dung cũng lặng lẽ rời đi.

Tôi ngước mắt nhìn ánh đèn trong phòng ca ca, trong lòng thầm kinh hãi, trước giờ tôi vẫn luôn tự phụ cho rằng mình thông minh hơn người, thế mà không phát hiện ra chỉ trong mười mấy ngày ngắn ngủi, Lăng Dung đã thầm sinh lòng ái mộ ca ca. Mối tình này không phải là thoáng qua mà đã thâm sâu đến mức đêm trước ngày tiến cung, nàng ta còn nhìn theo bóng ca ca mà rơi lệ. Không biết vì Lăng Dung hổ thẹn mà che giấu, hay do mấy ngày nay, tâm tình tôi không được thoải mái nên chẳng để ý nhiều đến những chuyện khác, nhưng dù sao đi nữa, tôi cũng đã quá sơ ý. Nếu lỡ ca ca và Lăng Dung quả thực xảy ra chuyện gì thì không những hại hai người họ mà còn đem tai họa lớn đến cho hai nhà An – Chân.

Tôi không khỏi sinh lòng lo lắng nhưng nghĩ kĩ lại, theo như tình hình tối hôm nay, chắc hẳn ca ca vẫn chưa biết gì về tình cảm mà Lăng Dung dành cho mình, đa phần là Lăng Dung đơn phương tình nguyện mà thôi. Nhưng tôi vẫn nên chọn thời điểm thích hợp, nhắc nhở Lăng Dung một phen, nàng ta trúng tuyển vào cung là chuyện chẳng dễ dàng gì, không nên vì việc này mà làm ảnh hưởng đến tiền đồ về sau.

Tôi quay về phòng, đêm yên bình trôi qua. Giấc ngủ của tôi vốn đã hay chập chờn, nay thêm bao tâm sự nặng nề khiến tôi càng khó ngủ. Trằn trọc hồi lâu, trời đã sáng tỏ.

Đêm cuối cùng tôi ở nhà mẹ đẻ đã trôi qua như vậy!

Ngày Mười lăm tháng Chín, trong cung cử một đoàn người đông đảo gồm chấp lễ đại thần, nội giám cung nữ nối đuôi nhau cầm nghi trượng đến đón tôi và Lăng Dung vào cung. Tuy chỉ là cung tần tiến cung nhưng nghi thức cũng hết sức phô trương, huống hồ hai vị tiểu chủ cùng ở một nhà, quan dân xung quanh đó đều xúm lại, xem cảnh náo nhiệt.

Tôi ngậm ngùi từ biệt cha mẹ, huynh muội, lên kiệu vào cung. Lúc ngồi trong kiệu, bên tai là tiếng pháo đì đùng, kèn trống rền vang nhưng tôi vẫn loáng thoáng nghe thấy tiếng nức nở nghẹn ngào của mẹ và hai tiểu muội.

Lưu Chu và Hoán Bích theo tôi vào cung, chúng là a hoàn hầu hạ bên tôi từ nhỏ. Lưu Chu nhanh nhạy, quyết đoán, có tài ứng biến, Hoán Bích tinh tế, tỉ mỉ, dịu dàng, biết cách chăm sóc người khác. Chúng đều là những phụ tá đắc lực của tôi, những ngày sống trong cung sau này thực sự không thể thiếu sự giúp đỡ chu toàn của chúng. Trong cuộc tranh đấu sinh tồn nơi cungcấm, người hầu bên cạnh không thể tin tưởng được thì chẳng khác nào đứng bên bờ vực thẳm,bất cứ lúc nào cũng phải đối diện với nguy cơ trượt ngã mà tan xương nát thịt.

Giờ lành đã tới, dưới sự hướng dẫn của chấp lễ đại thần, tôi vịn tay cung nữ bước xuống kiệu. Kiệu dừng bên ngoài cửa Trinh Thuận, vì chỉ là phi tần nhỏ bé, không phải chính cung Hoàng hậu nên chỉ có thể vào cung bằng cửa ngách.

Vừa xuống kiệu đã thấy My Trang và Lăng Dung đứng đó, lòng tôi vốn bồn chồn, bất an giờ bỗng cảm thấy yên ổn trở lại. Theo đúng lễ nghi thì không thể mở miệng nói chuyện, chúng tôi chỉ có thể nhìn nhau, mỉm cười thay cho lời chào hỏi.

Ngày hôm đó, tiết trời thật đẹp, khác hẳn hôm tuyển tú, bầu trời sâu thẳm, xanh biếc như ngọc, không hề có một gợn mây. Ánh mặt trời sớm mai tỏa hơi ấm áp, lấp lánh rực rỡ hệt như ánh vàng ròng.

Đứng ngoài cửa Trinh Thuận nhìn thẳng vào hậu cung trong Tử Áo thành, đâu đâu cũng là mái ngói cong vút, ngói lưu ly hai màu vàng kim và xanh nhạt chói lọi dưới ánh mặt trời, trong veo tựa sóng nước khiến người nhìn chói mắt, toát lên một khí thế tráng lệ, hào nhoáng, cát tường của thời thịnh thế.

Tôi tự nhủ đây chính là nơi từ nay về sau mình sẽ sống rồi bất giác ngẩng đầu nhìn bầu trời cao thăm thẳm, một bầy nhạn ríu rít bay về hướng nam, xé rách bầu trời yên bình, xanh ngắt.

Bên ngoài cửa Trinh Thuận, nội thị mặc áo đỏ sậm đứng chờ sẵn từ lâu, dưới sự bảo vệ của Loan Nghi vệ và Vũ Lâm thị vệ, họ dẫn tôi và mấy tiểu chủ còn lại đi về phía cung thất riêng của mình. Bước qua cửa Trinh Thuận, băng qua đường lớn, theo đường hẻm vòng qua phía tây, hai bên là bờ tường cung điện sơn đỏ, cao ngất tựa một con rồng đỏ cực lớn, quanh co, không sao nhìn thấy tận cùng. Bên trong là vô số đền đài cung điện, trải dài không dứt. Đi được một lúc, bằng thời gian cạn một chung trà, chúng tôi dừng lại trước một cung điện. Trên tấm biển treo cao là ba chữ lớn bằng vàng ròng: Đường Lê cung.

Đường Lê cung là cung thất rất nhỏ trong hậu cung, nằm ở góc tây nam Thượng Lâm uyển, là một nơi vô cùng tĩnh lặng, có hai tầng. Vào cửa, băng qua một mảnh sân rộng là chính điện Oánh Tâm đường, đằng sau Oánh Tâm đường có một hoa viên nhỏ. Hai bên đông tây là hai tòa điện phụ, phía nam là Ẩm Lục hiên, nơi tránh nóng mùa hè dành cho cung tần. Hành lang phía trước của chính điện và hai chái điện phụ thông với hành lang phía sau Ẩm Lục hiên, tạo thành kiến trúc tứ hợp viện. Phía trước Oánh Tâm đường có trồng hai gốc tây phủ hải đường cực lớn, tuy không phải độ trổ hoa xuân nhưng trên cành đã kết chi chít quả đỏ thắm như san hô, phối với nền lá xanh ngắt được gió sương tắm mát, nhìn cũng khá vui mắt. Trong vườn, ngay phía trước hành lang vừa được trồng thêm một hàng quế, đều là quế Ngu Châu vừa được tiến cống. Hoa nở chi chít, từng cụm vàng óng, rực rỡ lấp ló nơi kẽ lá, tỏa hương ngào ngạt đến nức mũi, từ xa ngửi thấy đã như say như mê, tâm tình sảng khoái. Hoa viên sau sảnh trồng đầy hoa lê, tiết trời đã vào thu, đợi đến mùa xuân, hoa nở trắng xóa như tuyết, tỏa hương mê người, khung cảnh tuyệt đẹp đó thật khó diễn tả bằng lời. Hèn gì nơi này được mệnh danh là Đường Lê cung, đúng là một nơi vô cùng tuyệt diệu.

Tôi đứng lặng giữa vườn hồi lâu, quét mắt nhìn đám nội giám, cung nữ đang cung kính quỳ thành hai hàng dài bên cạnh khẽ gật đầu rồi thuận miệng hỏi: “Hoa quế vừa được trồng à?”

Cung nữ đỡ tay tôi cung kính đáp lời: “Theo lệnh của Hoàng hậu, nơi ở của những Quý nhân mới vào cung được trồng thêm hoa quế, ý rằng người mới đến nội cung sẽ gặp nhiều điềm lành.”

Tôi nghĩ bụng, điềm lành thì tốt đấy, chỉ có điều Hoàng hậu làm như vậy có vẻ quá long trọng, dường như cố ý khoa trương điều gì đó. Vẻ mặt vẫn thản nhiên, tôi để các cung nữ đỡ vào chính điện, ngồi xuống.

Vào sảnh chính của Oánh Tâm đường là thấy ngay một bục cao, đằng trước tấm bình phong gỗ tử đàn chạm trổ, thêu hoa hải đường có đặt một ngai vàng chạm rồng cuộn khúc, kỷ trà, quạt tròn, lò hương, bên trên treo tấm biển bốn chữ Mậu Tu Phúc Huệ do chính tay tiên hoàng Long Khánh đế viết. Đây là nơi tiếp giá chính thức khi Hoàng thượng đến thăm.

Tôi ngồi trong sảnh chính, Lưu Chu, Hoán Bích đứng hầu hai bên. Hai cung nữ khác lập tức bước tới dâng trà. Thủ lĩnh nội giám của Đường Lê cung là Khang Lộc Hải và cung nữ quản sự Thôi Cận Tịch bước vào sảnh phía tây dập đầu thỉnh an tôi. “Nô tài là Khang Lộc Hải, thủ lĩnh nội giám chính thất phẩm chấp thủ của Đường Lê cung, tham kiến Hoàn Quý nhân, nguyện Hoàn Quý nhân như ý cát tường!” “Nô tỳ là Thôi Cận Tịch, cung nữ quản sự chính thất phẩm thuận nhân của Đường Lê cung, tham kiến Hoàn Quý nhân, nguyện Hoàn Quý nhân như ý cát tường!”

Tôi liếc mắt nhìn qua hai người họ. Khang Lộc Hải khoảng ba mươi tuổi, vừa nhìn đã biết là một tay thông minh, hai mắt đảo qua đảo lại lia lịa. Thôi Cận Tịch trên dưới ba mươi, mặt thon dài, da trắng trẻo, hai mắt đen láy thoáng nét thông minh, bộ dạng hiền hậu, vừa nhìn tôi đã thấy mến ngay.

Hai người họ quỳ bái ra mắt xong thì đến bốn tay nội giám và sáu ả cung nữ dưới quyền dập đầu chính thức ra mắt tôi rồi lần lượt báo danh. Tôi chậm rãi nhấp ngụm trà Lục An, ngắm nhìn phù điêu bằng gỗ lê chạm trổ trên xà nhà, không thốt một lời.

Trước mặt hạ nhân, tôi biết trầm lặng là một cách uy hiếp rất hiệu quả. Quả nhiên bọn họ cụp mắt, cúi đầu, không dám thở mạnh, cả Oánh Tâm đường im ắng đến mức một cây kim rơi xuống đất cũng nghe thấy tiếng.

Nhấp xong hai ngụm trà nữa, tôi mới tủm tỉm cười, ra lệnh cho bọn họ đứng lên.

Tôi đậy nắp chung trà sứ xanh, cũng không thèm nhìn bọn họ, chỉ chậm rãi nói: “Từ nay về sau, các ngươi đã là người của ta, làm việc cho ta thì lanh lợi là một phẩm chất tốt, chỉ có điều…” Tôi ngẩng đầu, lạnh lùng quét mắt nhìn bọn họ một lượt. “Làm nô tài, điều quan trọng nhất là phải trung thành, nếu lòng không hướng về chủ nhân mà chỉ nghĩ đến những trò đi ngang về tắt thì cái đầu của các ngươi sẽ khó mà lành lặn trên cổ! Đương nhiên, nếu các ngươi hết lòng trung thành, ta sẽ đối xử tốt với các ngươi.”

Sắc mặt đám người đứng bên dưới lập tức thay đổi, bọn họ luôn miệng nói: “Chúng nô tài quyết không làm bất cứ chuyện gì có lỗi với tiểu chủ, nhất định sẽ một lòng trung thành hầu hạ tiểu chủ!”

Tôi hài lòng mỉm cười, ra lệnh: ”Thưởng!” Lưu Chu, Hoán Bích lập tức lấy bạc vụn chuẩn bị từ trước ra phân phát cho bọn họ. Cả đám nội giám, cung nữ vâng vâng dạ dạ, rối rít tạ ơn.

Chiêu vừa ban ân vừa ra oai này trong tương lai chưa biết có hiệu quả gì hay không nhưng hiện thời đã đủ sức trấn áp được đám nô tài. Tôi biết về sau, muốn quản thúc bọn họ, để bọn họ ngoan ngoãn vâng lời hầu hạ phục vụ tôi thì phải làm cho bọn họ khiếp sợ trước. Tuyệt đối không thể trở thành một chủ nhân yếu đuối, bất lực bị đám người hầu lấn lướt qua mặt.

Cận Tịch bước lên khuyên: “Tiểu chủ hôm nay chắc mệt rồi, xin theo nô tỳ đi nghỉ ngơi một lát!”

Tôi lấy làm lạ, hỏi: “Không dẫn ta đi bái kiến chủ nhân của cung này sao?”

Cận Tịch vội đáp: “Tiểu chủ chắc chưa biết rồi, Đường Lê cung không có chủ nhân, hiện giờ Quý nhân là người có địa vị cao nhất.”

Tôi vừa định hỏi trong cung này còn ai ở nữa, Cận Tịch đã lanh lợi đoán được ý của tôi, bèn lên tiếng: “Ngoài ra điện phụ phía đông là nơi ở của Thuần Thường tại, vừa vào cung bốn hôm trước, điện phụ phía tây là nơi ở của Sử Mỹ nhân, vào cung đã được ba năm nay rồi. Một lát nữa thôi họ sẽ đến gặp Quý nhân tiểu chủ.”

Tôi mỉm cười đáp lại: “Ta biết rồi!”

Đằng sau cửa ngăn bằng gỗ lê chạm trúc xanh biên bức lưu ly và cửa ngăn gỗ lê chạm sen tịnh đế lưu ly là đông tây Noãn các. Buồng lò sưởi phía đông là nơi dành riêng cho Hoàng đế nghỉ ngơi mỗi khi đến thăm phi tần, buồng lò sưởi phía tây là nơi nghỉ ngơi thường ngày của tôi, buồng ngủ nằm ở sảnh sau của Oánh Tâm đường.

Cận Tịch đỡ tôi tiến vào sảnh sau. Sảnh sau được ngăn làm hai gian chính, thứ bởi vách ngăn gỗ lê khắc hoa văn vạn phúc vạn thọ chạm trổ ngọc lưu ly, bố trí hết sức lịch sự, tao nhã.

Tôi dịu giọng, hòa nhã hỏi Cận Tịch: “Thôi Thuận nhân vốn là người ở đâu? Sống trong cung bao lâu rồi?”

Nàng ta lộ vẻ hoảng hốt, lập tức quỳ xuống, thưa: “Nô tỳ không dám! Tiểu chủ cứ gọi thẳng tên của nô tỳ là được!”

Tôi đích thân đỡ nàng ta đứng dậy, mỉm cười, nói: “Không cần hoảng sợ như vậy! Ta trước giờ quen sống thoải mái, không ưa gò bó, trên danh nghĩa chúng ta là chủ tớ nhưng ngươi lớn tuổi hơn ta, từng trải chuyện đời, trong lòng ta cũng rất kính trọng ngươi. Ngươi cứ đứng dậy nói chuyện!”

Lúc này nàng ta mới chịu đứng dậy, vẻ mặt vô cùng cảm kích, cung kính thưa: “Tiểu chủ nói vậy thì nô tỳ hổ thẹn đến chết mất! Nô tỳ vốn là người Vĩnh Châu, từ nhỏ đã vào cung làm cung nữ, trước đây từng hầu hạ Khâm Nhân Thái phi. Nhờ làm việc không đến nỗi quá vụng về nên mới được điều đến đây hầu tiểu chủ.”

Tôi càng vui vẻ, ôn hòa nói: “Ngươi từng hầu hạ Thái phi, nhất định là kẻ hiểu chuyện, đáng tin cậy. Ta có ngươi hầu hạ thì tha hồ yên tâm rồi! Từ nay về sau, chuyện vặt trong Đường Lê cung phải phiền ngươi và Khang công công lo liệu rồi!”

Mặt nàng ta ửng hồng, thành khẩn thưa: “Được hầu hạ tiểu chủ là phúc đức của nô tỳ, nô tỳ nhất định sẽ cố gắng hết sức mình!”

Tôi quay đầu gọi Hoán Bích, dặn dò: “Lấy một đôi vòng vàng ra thưởng cho Thôi thuận nhân.” Rồi lệnh cho nàng ta lấy thêm một đĩnh vàng thưởng thêm cho Khang Lộc Hải.

Khang Lộc Hải được thưởng, vừa mừng vừa lo tiến vào cùng Cận Tịch cung kính tạ ơn tôi, hầu hạ tôi nghỉ ngơi xong thì lui ra lo liệu những việc vặt khác.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 29-3-2016 10:02:01 | Xem tất

RE: [Cổ Đại - Xuất Bản] Hậu Cung Chân Hoàn Truyện | Lưu Liễm Tử (Tập 1-Chương 4)

Tập 1-Chương 4
Hoa Phi Thế Lan


Tỉnh dậy sau giấc ngủ trưa, tôi vẫn còn cảm thấy hơi uể oải. Cận Tịch dẫn theo các cung nữ Phẩm Nhi, Bội Nhi, Tinh Thanh và Cúc Thanh hầu hạ tôi rời giường, thay áo. Bốn người họ vẫn còn nhỏ tuổi, Phẩm Nhi, Bội Nhi khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, Tinh Thanh, Cúc Thanh lớn hơn một chút, khoảng mười tám tuổi, đi theo Cận Tịch học lễ nghi và cách hầu hạ chủ nhân, bề ngoài cũng khá là lanh lợi.

Vừa thay y phục xong, nội giám Tiểu Ân Tử bên ngoài cửa báo vọng vào là có Sử Mỹ nhân và Thuần Thường tại đến thăm tôi.

Sử Mỹ nhân có vóc người thon thả, dung mạo xuất chúng, nhất là sống mũi dọc dừa, một vẻ đẹp mỹ lệ. Chỉ có điều, đầu mày cuối mắt nàng ta có chút ủ ê, chắc những ngày sống trong cung cũng chẳng dễ dàng gì, nàng ta cư xử với tôi khá khách sáo, thậm chí còn nịnh hót lấy lòng. Thuần Thường tại còn nhỏ tuổi, mới tròn mười ba, vóc dáng nhỏ nhắn, ngây thơ, hồn nhiên, mặt vẫn vương nét trẻ con. Mọi người khách sáo chào hỏi nhau rồi ngồi xuống uống trà.

Sử Mỹ nhân tuy có chức vị thấp hơn tôi nhưng dù sao cũng lớn tuổi hơn, lại vào cung từ lâu, tôi cư xử với nàng ta khá nhún nhường, luôn miệng gọi nàng ta là “Sử tỷ” rồi lại gọi người đem bánh ngọt ra mời mọi người cùng ăn. Thuần Thường tại còn nhỏ tuổi, lại vừa tiến cung nên vẫn rất nhút nhát, tôi bèn lệnh cho người hầu bưng cho nàng ta món trà sữa tươi, lại giới thiệu cho nàng ta mấy món kẹo ngọt, bánh ngọt, bánh rán, bánh in xốp, bánh phù dung vị ngọt, hình dáng đẹp đẽ… Nàng ta quả nhiên thích mê, chẳng mấy chốc đã thân thiết gọi tôi là “Hoàn tỷ”.

Tôi thực lòng cảm thấy mến nàng ta, nhớ tới Ngọc Dao và Ngọc Nhiêu ở nhà nên lại càng cảm thấy gần gũi. Khi họ đứng dậy cáo từ ra về, tôi còn đặc biệt dặn dò Phẩm Nhi cầm theo một gói bánh ngọt đưa cho nàng ta.

Sau khi họ rời đi, tôi mới thản nhiên nói với Cận Tịch: “Sử Mỹ nhân đúng là đẹp thật!”

Nàng ta hơi sững người, nhưng sau đó lập tức hiểu ý, nhanh chóng lướt mắt quan sát bốn phía, thấy không có ai mới bước lại gần tôi, nói khẽ: “Hoa Phi nương nương tài mạo song toàn, được sủng ái nhất trong cung đấy ạ!”

Tôi thầm khen nàng ta cẩn trọng, dè dặt, câu trả lời của nàng ta tuy ông chằng bà chuộc, chẳng liên quan gì đến lời nhận xét của tôi nhưng vô tình mà hữu ý nói cho tôi biết: Sử Mỹ nhân thực sự không được Hoàng thượng sủng ái.

Thảo nào khi nãy, vẻ mặt nàng ta nhìn tôi có chút kỳ quặc, vừa ganh tỵ lại vừa kỳ vọng, giọng điệu vô cùng khiêm tốn. Quá nửa là nàng ta hy vọng tôi được sủng ái,  để rồi nhờ ở cùng cung điện mà có thể chia sẻ chút ân sủng của Hoàng thượng. Tôi khẽ lắc đầu, chỉ cảm thấy nàng ta thật đáng thương rồi không muốn nghĩ thêm nữa.

Lúc ăn bữa tối, tôi thấy Cận Tịch dẫn theo Lưu Chu, Hoán Bích cung kính đứng hầu một bên, ngoài cửa đầy cung nữ, nội giám nhưng chẳng có một tiếng động nào, đến tiếng hít thở mạnh cũng không nghe thấy. Tôi nghĩ bụng, quy củ trong cung thật là nghiêm ngặt, không thể so với nhà thường dân.

Dùng bữa xong, cung nữ bưng một chiếc khay sơn đen đến dâng trà. Phương Nhược cô cô từng kể rằng, trong cung, sau khi dùng bữa thì chung trà dâng lên đầu tiên là để súc miệng, tẩy đi mùi thức ăn sau khi ăn. Quả nhiên lại có người bưng ống nhổ đến. Tôi súc miệng xong thì trà dùng để uống mới được dâng lên. Tôi nhấp một ngụm rồi mỉm cười, ra lệnh: “Khoan hãy dọn thức ăn xuống! Các ngươi đứng trơ ra đó làm gì, cứ ăn hết mấy món này đi! Đừng vì hầu hạ ta mà để bản thân đói ngấu.”

Mấy người hầu vội vã tạ ơn rồi bưng bát dùng bữa.

Tôi bước vào buồng sưởi, nằm nghiêng nghỉ ngơi, nhìn qua tấm đệm màu xanh lơ thêu hoa rải rác trên chiếc ghế đối diện, cõi lòng mờ mịt như nước thủy triều, rối bời, hỗn loạn chẳng khác gì những nét hoa văn vụn vặt thêu trên tấm đệm.

Một đêm bình lặng trôi qua.

Ngày hôm sau thức dậy rửa mặt, chải đầu, dùng xong bữa sáng, tôi chợt nghe ngoài cửa, Khang Lộc Hải cất giọng the thé bẩm báo có nội thị hoàng môn là Giang Phúc Hải đến truyền chỉ. Tôi vội đứng dậy, bước ra gian chính của Oánh Tâm đường tiếp chỉ, nghĩ bụng hoàng môn nội thị là nội giám chuyên phục thị Hoàng hậu, hẳn đây là ý chỉ của Hoàng hậu.

Tôi cung kính quỳ xuống nghe tuyên đọc ý chỉ: “Phụng ý chỉ của Hoàng hậu, truyền cung tần mới ba ngày sau, vào giờ Mão đến điện Chiêu Dương ở Phượng Nghi cung tham kiến Hoàng hậu và tần phi trong hậu cung.”

Phương Nhược cô cô từng nói, chỉ sau khi tham kiến hậu phi rồi mới được sắp xếp thị tẩm. Ba ngày nghỉ ngơi này coi như để cung tần mới làm quen với cuộc sống trong cung.

Tôi vội tiếp chỉ, ra lệnh cho Cận Tịch tiễn nội giám ra về.

Hoàng môn nội thị vừa đi thì có người báo Hoa Phi có ban thưởng.

Thủ lĩnh nội giám của cung Hoa Phi ở là Chu Ninh Hải tiến lên thi lễ thỉnh an, vung tay ra lệnh cho tiểu nội giám đi sau khiêng ba hộp lễ vật lớn, cười, nói với tôi: “Hoa Phi nương nương đặc biệt lệnh cho nô tài đưa số lễ vật này ban thưởng cho tiểu chủ.”

Tôi cười tươi như hoa, thưa: “Đa tạ ý tốt của nương nương! Xin công công chuyển lời tạ ân của thần thiếp đến nương nương. Mời công công ở lại uống chung trà nghỉ ngơi rồi hẵng đi tiếp!”

Chu Ninh Hải khom người, đáp: “Nô tài nhất định sẽ chuyển lời! Nô tài còn phải vội đi đến chỗ các tiểu chủ khác thật tình không có thời gian uống trà, đành phụ lòng thịnh tình của Hoàn Quý nhân rồi!”

Tôi đưa mắt ra hiệu cho Hoán Bích, nàng ta lập tức lấy hai đĩnh bạc đưa cho hắn. Tôi mỉm cười, cảm ơn: “Thật phiền công công quá! Vậy không dám cản trở việc chính của công công nữa!” Chu Ninh Hải cụp mắt, lập tức cất hai đĩnh bạc vào tay áo rồi mỉm cười cáo từ.

Phẩm Nhi và Bội Nhi mở hộp ra xem, trong hộp là trang sức bằng vàng bạc cùng lụa the gấm đoạn. Phẩm Nhi hớn hở chúc mừng tôi: “Chúc mừng tiểu chủ. Hoa chủ tử đúng là rất coi trọng tiểu chủ!”

Tôi quét mắt nhìn quanh một lượt, thấy mọi người đều lộ vẻ vui mừng, bèn lệnh cho nội giám khiêng vào kho ghi sổ.

Thấy mọi người đồng loạt lui ra, Lưu Chu mới bước lên, bẩm: “Nô tỳ vừa nghe ngóng xong, ngoài My Trang tiểu chủ không khác biệt nhiều so với tiểu thư, các tiểu chủ khác không ai được ban thưởng hậu hĩnh thế này.”

Nét cười nơi khóe môi tôi dần tan biến. Lưu Chu quan sát sắc mặt tôi, khẽ khàng thưa: “Hoa Phi nương nương ban thưởng hậu hĩnh như vậy, chắc hẳn có ý muốn lôi kéo My Trang tiểu chủ và tiểu thư người đó!”

Tôi nhìn cánh cửa sổ sơn đỏ, dán giấy vải dày ấm, trầm giọng: “Có phải ý như vậy không, vẫn còn quá sớm để phán đoán!”

Tặng thưởng của Hoa Phi vừa tới, tặng phẩm của Lệ Quý tần và Tào Dung hoa cũng tới ngay sau. Cận Tịch đã sớm cho tôi biết, Lệ Quý tần và Tào Dung hoa đều là tâm phúc của Hoa Phi, trước giờ đều do Hoa Phi dốc lòng bồi dưỡng, đề cử thăng chức, cũng chiếm được vài phần sủng ái của Hoàng đế. Tuy không thể sánh được với Hoa Phi nhưng so với những tần phi khác thì vẫn khá hơn nhiều.

Tặng phẩm của các tần phi khác lần lượt được chuyển tới, suốt buổi sáng, người ra kẻ vào tấp nập, đông như trẩy hội.

Trưa hôm đó, tôi cảm thấy mệt mỏi rã rời, bèn dặn dò ba người Cận Tịch, Lưu Chu và Hoán Bích ở gian chính tiếp nhận lễ vật, còn mình thay xiêm y, ngồi bên cửa sổ gian phụ buồng sưởi đọc sách. Đọc được một lát, thấy ánh mặt trời dần tắt, chỉ còn lưu lại vài vệt sáng lốm đốm trên mặt chiếc kỷ trà khắc hình hoa mai sơn đỏ, tôi cảm thấy có chút uể oải. Chợt nghe ngoài cửa có người báo Thẩm Tiểu nghi đến chơi, trong lòng tôi vui sướng, vội đặt sách xuống, đứng dậy tiếp đón. Vừa đến gian chính phía tây, My Trang đã tươi cười, uyển chuyển bước vào, nói: “Muội muội của ta nhàn rỗi thật đấy!”

Tôi tủm tỉm cười, đáp: “Người vừa vào cung thì có việc gì bận chứ?” Rồi vờ giận dỗi. “My tỷ không chịu đến thăm muội sớm, làm muội buồn chán đến chết!”

My Trang nghe thấy vậy bèn cười, trêu: “Muội mà buồn chán đến chết ư? Ta e là muội nhận tặng phẩm đến mỏi tay thì có!”

Nét cười của tôi nhạt đi, thấy bên cạnh chỉ còn lại mỗi Thải Nguyệt, a hoàn hầu cận My Trang, tôi mới lên tiếng giải thích: “Lẽ nào tỷ còn không hiểu muội vốn không ưa những việc này?”

My Trang kéo tay tôi ngồi xuống rồi nhỏ giọng nói: “Tỷ cũng được ban thưởng không ít, chuyện tốt thôi nhưng chỉ sợ phô trương quá khiến các cung tần mới tiến cung khác lườm nguýt!”

Tôi khẽ buông tiếng thở dài. “Muội biết chứ! Nhưng cũng chỉ biết tự lo thân mà thôi!”

Nói chuyện phiếm một lát, Khang Lộc Hải tiến vào, hỏi: “Cơm tối đã chuẩn bị xong, Quý nhân muốn dùng ngay hay đợi thêm lát nữa?”

Tôi đáp: “Cứ mang vào ngay đi, càng nóng sốt càng tốt. Ta sẽ dùng bữa với Tiểu nghi tiểu chủ.”

My Trang mỉm cười, nói đùa: ”Đến thăm muội, còn phiền muội một bữa cơm nữa!”

Tôi nhìn tỷ, nói: “Tỷ ăn cùng muội cho vui, chỉ cần nhìn tỷ thôi, muội cũng muốn ăn thêm một bát cơm rồi!”

My Trang lấy làm lạ. “Sao muội lại nói thế?”

Tôi chớp chớp mắt, giả bộ thầy đồ giảng sách, vờ vuốt râu, ngâm nga: “Tỷ chưa nghe câu cổ nhân hay nói: “Sắc đẹp cũng có thể ăn được” sao?”

My Trang phì cười, mắng yêu tôi: “Chẳng ra dáng tiểu thư con nhà lành chút nào!”

Ăn xong bữa tối, tôi và My Trang ngồi dưới đèn xem mẫu thêu.

Vừa ngẩng lên liền thấy An Lăng Dung đang cười hì hì đứng trước cửa ngăn, tôi vừa bất ngờ vừa vui mừng, vội vàng gọi nàng ta cùng ngồi xuống, rồi trách móc tại sao nội giám bên ngoài không chịu báo trước.

Lăng Dung có chút ngượng ngùng, phân bua: “Hoàn tỷ đừng trách bọn họ, là muội bảo bọn họ đừng thông báo đấy chứ, muốn gây bất ngờ cho tỷ mà, không ngờ lại làm tỷ giận, Lăng Dung sai rồi!”

Tôi vội cười, đáp: “Muội có làm sai gì đâu, muội có ý tốt đấy chứ! Tỷ chẳng qua chỉ mắng bọn họ một câu lấy lệ mà thôi, muội đừng tự trách!”

Vẻ mặt Lăng Dung lúc này mới dãn ra, mỉm cười rồi cùng ngồi xuống. Nàng ta nói với My Trang: “Khi nãy muội sang Sướng An cung thăm tỷ trước rồi định rủ tỷ sang đây thăm Hoàn tỷ, ai ngờ cung nữ trong Tồn Cúc đường nói tỷ đã sang đây từ sớm rồi, hóa ra muội đây chậm một bước.”

My Trang cười, nói: “Không chậm chút nào, vừa kịp lúc xem mẫu thêu này, Hoàn muội khéo tay lắm đấy!”

Mặt tôi thoáng ửng hồng, không thèm để ý tới lời tỷ ấy nói.

Hoán Bích rót trà bưng đến. “Mời An Tuyển thị dùng trà! Hoán Bích biết Tuyển thị không thích trà Lục An nên cố ý đổi sang trà thơm này.”

Lăng Dung mỉm cười cảm ơn. “Cảm ơn ngươi đã phí tâm để ý!”

Hoán Bích nhún người, đáp: “Lăng Dung tiểu chủ và My Trang tiểu chủ cùng tiểu thư chúng nô tỳ tình như tỷ muội ruột thịt, nô tỳ sao dám lơ là kia chứ?”

My Trang phá lên cười. “Khéo miệng quá! Quả nhiên là người hầu của muội, đúng là chủ nào tớ nấy mà!”

Mặt tôi càng đỏ hơn. “My tỷ chỉ thích đùa muội thôi! Nó lanh lợi chỗ nào kia chứ, chỉ là hầu hạ bên muội lâu ngày nên nhớ lâu hơn người khác chút thôi!”

My Trang nói: “Đương nhiên đám a đầu hầu hạ chúng ta từ nhỏ thì thân cận hơn rồi!”, rồi lại hỏi Lăng Dung: “Muội không dẫn theo a hoàn hầu cận, thế giờ muội có bao nhiêu cung nữ hầu hạ? Họ hầu hạ muội có tốt không?”

Lăng Dung đáp: “Cũng không có gì đáng chê trách nhưng bốn cung nữ hầu hạ muội thì có hai đứa mới mười hai tuổi, cũng chẳng mong bọn chúng làm được chuyện gì ra hồn. May mà muội sống cũng đơn giản nên như thế là được rồi.”

Tôi cau mày, không hài lòng nói: “Có vài người như thế thì sao đủ được? Dẫn chúng ra ngoài cũng mất mặt!”

Tôi bèn gọi Cận Tịch vào, dặn dò: “Bây giờ ngươi đi bẩm với Hoàng hậu nương nương trước, sau đó đưa một cung nữ mười tám tuổi dưới quyền ta qua bên đó hầu hạ An Tuyển thị.”

Cận Tịch vâng dạ, lát sau quay lại, bẩm: “Nô tỳ đã chọn Cúc Thanh qua đó, nàng ta từng làm việc ở Tứ Chấp khố, tính tình cũng ổn trọng.”

Tôi gật đầu cho nàng ta lui xuống rồi nói với An Lăng Dung: “Lát nữa tỷ sẽ cho nàng ta theo muội về. Muội thiếu thứ gì thì cứ sang nói với tỷ và My tỷ nhé!”

My Trang gật đầu đồng ý. “Các tỷ có thứ gì thì muội nhất định cũng có phần, yên tâm đi! Hôm nay tỷ được ban thưởng ít đồ, có mấy tấm đoạn [1] hợp với vóc dáng muội lắm, lát nữa tỷ sẽ sai người đưa sang Minh Sắt cư cho muội.”

[1] Đoạn: gấm, vóc.

Lăng Dung vô cùng cảm kích, nói: “Tình nghĩa của hai tỷ, Lăng Dung xin khắc ghi trong lòng!”

Tôi nói ngay: “Có gì đâu! Tỷ muội chúng ta phải biết giúp đỡ lẫn nhau mới phải.”

Ba người chúng tôi nhìn nhau mỉm cười, lòng hiểu lòng, sáu bàn tay siết chặt thân tình.

Ba ngày sau, mới canh tư tôi đã thức dậy, rời giường, tắm rửa thay quần áo, trang điểm xinh đẹp. Sau khi tôi vào cung, đây là lần đầu tiên gặp hậu phi trong hậu cung, lần ra mắt này rất quan trọng. Đám cung nhân ai nấy đều có phần hồi hộp, hầu hạ vô cùng cẩn thận, chu đáo.

Lưu Chu, Hoán Bích cẩn trọng trang điểm cho tôi, Bội Nhi đứng bên bưng hộp đựng trang sức, khuyên nhủ: “Lần đầu tiên tham kiến Hoàng hậu, tiểu chủ nên trang điểm kĩ càng một chút để nhan sắc nổi bật hơn các phi tần khác mới phải!” Lưu Chu quay đầu lườm nàng ta, không nói tiếng nào, nàng ta lập tức cúi gằm mặt, không dám nói gì nữa.

Tôi thuận tay vén tóc ra sau gáy, thản nhiên ra lệnh: “Chải tóc cao kiểu Như ý là được.” Đó là kiểu tóc búi bình thường và phổ thông nhất trong cung. Bội Nhi dâng hộp đựng trang sức, tôi chọn một đôi trâm đồi mồi hình hoa cúc, vừa hợp thời, màu sắc lại đơn giản, nền nã. Sau búi tóc đính thêm một cây trâm nhỏ bằng bạc nạm vàng tạo hình hoa bướm, lại chọn một bộ cung trang gấm Vân Nam óng ả, thêu hoa chìm màu đỏ nhạt, màu sắc vừa vui mắt vừa không quá nổi bật, không thể vạch lá tìm sâu mà bắt lỗi được. Tôi biết mình đã quá nổi bật trong số cung tần vừa được tấn phong, bị nhiều người lườm nguýt, lần tham kiến này có mặt Hoa Phi, thực sự không thể nổi trội quá được, càng khiêm tốn, nhún nhường càng tốt. Cận Tịch tiến vào, thấy tôi trang điểm như vậy thì mỉm cười đầy vẻ thấu hiểu. Tôi biết nàng ta cũng tán thành cách ăn mặc của tôi, trí tuệ vượt hẳn đám người hầu khác. Tôi có ý muốn đề bạt Cận Tịch, chỉ là mới ở chung với nàng ta chưa lâu, chưa biết gốc rễ, không dám tùy tiện tin người, gửi gắm trọng dụng.

Cung kiệu đã chờ sẵn trước cửa, Thuần Thường tại đã trang điểm, ăn mặc đẹp đẽ đợi tôi đi cùng. Hai người chúng tôi lần lượt lên kiệu, Khang Lộc Hải và Cận Tịch đi theo sau. Đi được hồi lâu mới nghe thấy một giọng nói the thé cất lên bên ngoài kiệu: “Đã đến Phượng Nghi cung, xin mời Hoàn Quý nhân xuống kiệu!” Sau đó, một nội giám đến vén rèm, Khang Lộc Hải tiến lên đỡ tay tôi, cùng tiến vào điện Chiêu Dương.

Trong số mười lăm tú nữ thì có tám, chín người đã ở đây, các phi tần cũng lục tục đến nơi. Mọi người theo thân phận, địa vị lần lượt ngồi xuống, trong điện im ắng không một tiếng động. Chỉ nghe thấy tiếng bước chân vội vã, tiếng ngọc bội leng keng, mùi hương ngan ngát lan tỏa, Hoàng hậu đã được đám người hầu túm tụm đưa lên ngồi trên bảo tọa. Mọi người vội vàng quỳ xuống thỉnh an, đồng loạt hô lớn: “Hoàng hậu nương nương vạn an!”

Hoàng hậu đội mũ phượng đính hạt châu và lông trĩ màu tím, vận triều phục đỏ thẫm thêu loan điểu triều phụng bằng chỉ bạc, khí độ trầm tĩnh, ung dung. Hoàng hậu mỉm cười thân thiết, lên tiếng: “Các muội đến sớm thế? Bình thân đi!”

Giang Phúc Hải hướng dẫn các cung tần vừa được tấn phong khấu đầu hành đại lễ với Hoàng hậu. Hoàng hậu nhận lễ, lại sai nội giám ban thưởng lễ vật, mọi người vội tạ ơn.

Vị trí đầu tiên bên trái Hoàng hậu để trống, Hoàng hậu cụp mắt nhìn qua, Giang Phúc Hải vội bẩm: “Đoan Phi nương nương mệt trong người, hôm nay không thể đến được.”

Hoàng hậu “ừ” một tiếng, nói: “Trước giờ Đoan Phi vốn không được khỏe, sau khi xong lễ, ngươi nhớ phái người đến hỏi thăm!”

Giang Phúc Hải nhìn sang người ngồi vị trí đầu tiên bên phải Hoàng hậu, giới thiệu: “Các tiểu chủ tham kiến Hoa Phi nương nương!”

Tôi vội đưa mắt nhìn qua Hoa Phi, đôi mắt phượng hơi nhếch xéo, lộ vẻ quyến rũ và sắc sảo. Y phục và trang sức của Hoa Phi vô cùng lộng lẫy, chỉ kém Hoàng hậu đôi chút, vóc dáng cân đối, làn da nhẵn mịn, mặt như hoa đào đẫm sương, ngón tay búp măng nõn nà, tóc chải kiểu Lũ lộc [2] lộng lẫy, phức tạp, trên có điểm trâm thoa vàng ròng và ngọc đỏ, càng thêm rực rỡ, lóa mắt. Quả thật là mỹ lệ trời sinh, quyến rũ không ai sánh nổi.

[2] Kiểu tóc gồm nhiều vòng nối tiếp nhau, càng lên cao càng nhỏ lại, hết sức phức tạp, muốn vấn kiểu tóc này phải dùng trụ để đỡ chính giữa.

Hoa Phi “ừ” một tiếng, không cho đứng dậy cũng chẳng nói tiếng nào, chỉ hững hờ nghịch nghịch chiếc nhẫn ngọc phỉ thúy khảm đá quý đeo trên ngón tay, ngắm nghía hồi lâu rồi mỉm cười, nói với Hoàng hậu: “Năm nay Nội vụ phủ dâng ngọc tệ thật, màu sắc không thuần và trong trẻo chút nào!”

Hoàng hậu tủm tỉm cười, khuyên: “Chất ngọc của chiếc nhẫn trên tay muội không tốt thì thử hỏi ngọc của ai mới tốt đây? Trước tiên hãy cho các muội đây đứng dậy đã!”

Hoa Phi lúc này mới vờ như sực nhớ ra, quay đầu nói với chúng tôi: “Ta mải nói chuyện với Hoàng hậu, quên mất các muội vẫn đang hành lễ, các muội đừng trách ta nhé! Đứng dậy đi!”

Các tiểu chủ lúc này mới dám đứng thẳng người, tôi ngoài miệng xưng “không dám” nhưng trong bụng lại nghĩ: cú ra oai phủ đầu này giỏi thật! Trừ Hoàng hậu ra, nàng ta đã khiến tất cả phi tần phải cư xử dè chừng với mình.

Hoa Phi chợt mỉm cười, cất tiếng hỏi: “Thẩm Tiểu nghi và Hoàn Quý nhân là hai người nào?”

Tôi và My Trang lập tức quỳ xuống hành lễ, miệng thưa: “Thần thiếp Tiểu nghi Thẩm My Trang, thần thiếp Quý nhân Chân Hoàn tham kiến Hoa Phi nương nương, nguyện nương nương cát tường!”

Hoa Phi cười mỉm miễn lễ, cất tiếng khen: “Hai muội quả nhiên nhan sắc hơn người, hèn gì Hoàng thượng cũng phải ghé mắt nhìn.”

Mặt tôi và My Trang lập tức biến sắc. My Trang vội đáp: “Nương nương quốc sắc thiên hương, ung dung, lộng lẫy mới thật khiến ai cũng phải dõi mắt nhìn theo!”

Hoa Phi cười khẽ. “Cái miệng nhỏ của Thẩm muội ngọt thật đấy! Nhưng nói đến quốc sắc thiên hương, ung dung lộng lẫy, chẳng phải càng giống đang nói về Hoàng hậu hay sao?”

Tôi nghĩ bụng: Hoa Phi lợi hại thật, mới mở miệng đã châm chích My Trang rồi, bèn cất tiếng bào chữa: “Hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ, nương nương ung dung lộng lẫy, bọn thần thiếp không sao bì kịp!”

Hoa Phi nghe vậy mới chịu mỉm cười hài lòng, bỏ mặc hai người chúng tôi, quay sang nói chuyện phiếm với các phi tần khác.

Ngồi phía dưới Hoa Phi là Cẩn Phi. Hoàng đế sủng ái không ít người nhưng dưới Hoàng hậu thì chỉ có Hoa Phi, Đoan Phi, Cẩn Phi là có địa vị cao nhất. Chẳng những bốn vị trí chính nhất phẩm phi là Quý, Thục, Đức, Hiền đều để trống, mà cả chức tòng nhất phẩm phu nhân cũng chỉ để cho có. Đoan Phi Tề Nguyệt Tân, con gái của Hổ Bí Tướng quân Tề Phu, nhập cung sớm nhất, là phi tần đầu tiên bên cạnh Hoàng thượng, lại được phong phi cùng ngày với đương kim Hoàng thượng, thời gian hầu hạ còn lâu hơn Hoa Phi và cả hai đời Hoàng hậu nhưng mười mấy năm nay vẫn chỉ là phi, đa phần là do chưa sinh nở lần nào lại nghe nói bà ta thân thể yếu đuối, hay đau bệnh, cả năm gặp mặt Hoàng thượng chỉ được đôi ba lần. Cẩn Phi là mẹ đẻ của hoàng trưởng tử, tuy mẹ phú quý nhờ con, được tấn phong làm phi nhưng vì hoàng trưởng tử có tư chất bình thường, không được lòng Hoàng đế nên mẹ ruột nhiều năm liền không được sủng ái. Hoa Phi chỉ mới nhập cung được ba, bốn năm lại có thể đứng đầu ba phi, đúng là được sủng ái vạn phần.

Đương kim Hoàng hậu lúc trước từng là Quý phi địa vị chỉ kém chị ruột là Thuần Nguyên Hoàng hậu, nhà họ Chu ngoài Thái hậu còn có một hậu một phi, quyền thế hiển hách khắp thiên hạ, không ai sánh bằng. Năm đó, ngang hàng với Quý phi là Đức phi và Hiền phi đều đã qua đời, nghe nói cái chết của hai bà phi này có liên quan đến việc Thuần Nguyên Hoàng hậu mất sớm. Chỉ trong một ngày ngắn ngủi, Hoàng đế mất đi một hậu hai phi cùng một hoàng tử vừa sinh ra đã qua đời. Hoàng thượng đau lòng khôn xiết, từ đó không muốn tấn phong chức vị cao cho phi tần nữa, khiến nữ nhân trong hậu cung, trừ những người sinh được con cái, đều có chức vị không cao.

Lần lượt tham kiến tất cả các tần phi, hai gối tôi mỏi nhừ. Hoàng hậu hiền hòa lên tiếng: “Các muội đều là những người thông minh, lanh lợi, từ nay về sau cùng ở trong cung nên nhớ, phải hết lòng hết sức hầu hạ Hoàng thượng, sinh con đẻ cháu cho hoàng gia. Các muội cũng phải biết đồng tâm, cư xử hòa thuận với nhau.” Mọi người cung kính vâng dạ. Hoàng hậu lại hỏi Giang Phúc Hải: “Bên Thái hậu bảo thế nào?”

Giang Phúc Hải đáp: “Thái hậu nói đã hiểu lòng hiếu thảo của các hậu phi rồi, nhưng người muốn tĩnh tâm lễ Phật, bảo nương nương và các phi tần, tiểu chủ không cần sang Di Ninh cung thỉnh an.”

Hoàng hậu gật đầu, quay sang nói với mọi người: “Các muội cũng mệt rồi, hãy lui xuống nghỉ ngơi đi!”

Chẳng mấy chốc mọi người đã đi hết, tôi và My Trang, Lăng Dung cùng quay về, chợt nghe sau lưng có người cười nói: “Khi nãy hai tỷ ăn nói lanh lợi, khéo léo thật, muội đây thực rất khâm phục!” Ba người chúng tôi quay đầu nhìn, thì ra là Lương Tài nhân cũng tiến cung lần này. Nàng ta chầm chậm bước tới, giọng đầy khiêu khích: “Hai tỷ đây cho đám nô tài mang theo nhiều tặng phẩm như vậy, trong cung còn có chỗ cất giữ hay sao?”

My Trang tủm tỉm cười, hiền hòa giải thích: “Ta và Hoàn Quý nhân đều cho rằng lẽ ra tỷ muội chúng ta nên cùng hưởng ân đức trời ban, đang định sau khi hồi cung sẽ sai người chọn thứ tốt mang đến cung của các tỷ muội khác. Không ngờ Lương muội đây đã đến trước, vậy thì muội cứ chọn thứ mình thích.” Nói xong bèn lệnh cho nội giám đưa những món Hoàng hậu đã ban thưởng đến trước mặt Lương Tài nhân.

Ai ngờ Lương Tài nhân chẳng thèm ghé mắt, chỉ thoáng cười lạnh. “Tỷ đây đúng là hiền đức thật, chẳng trách ngày tuyển tú hôm ấy Hoàng thượng cũng phải khen ngợi. Xem ra tỷ quả nhiên biết cách thu phục lòng người!”

Dẫu tính tình My Trang có hiền hậu, biết kiềm chế đến mấy nhưng khi nghe thấy những lời xỉa xói trắng trợn như thế cũng không sao nhịn được, đứng sững người, giận đến mức mặt mũi đỏ bừng. Tôi cũng thầm cảm thấy căm tức một kẻ đức hạnh như vậy không ngờ cũng trúng tuyển vào cung, đúng là phí phạm nhan sắc mỹ miều mà! Nhưng cách cư xử của tôi và My Trang đã khiến cho nhiều người để ý, nếu lại tiếp tục gây chuyện chỉ e sẽ chuốc thêm vạ vào thân. Đang lúc do dự thì My Trang níu chặt lấy tay áo của tôi, ra hiệu cho tôi đừng kích động làm bừa.

Chỉ thấy Lăng Dung ngày thường vốn nhút nhát nay lại dám bước lên, đến trước mặt Lương Tài nhân, mỉm cười thưa: “Nghe nói Lương tỷ đây xuất thân từ một gia đình dòng dõi, muội vô cùng ngưỡng mộ!”

Lương Tài nhân kiêu ngạo đáp: “Nhà ta là thế gia dòng dõi nổi tiếng ở Tam Dương, con gái của huyện thừa cỏn con nhà ngươi sao mà sánh được? Đúng là dung tục không chịu nổi mà!”

Lăng Dung không hờn không giận, vẫn giữ nụ cười mỉm đúng mực, không kiêu ngạo, không xiểm nịnh, nói tiếp: “Muội đây vốn ngưỡng mộ danh tiếng của tỷ từ lâu, chỉ tiếc là trăm nghe không bằng một thấy. Muội đây thực sự nghi ngờ lời đồn về gia thế của tỷ chỉ là lời đồn nhảm mà thôi!”

Lương Tài nhân chẳng hiểu Lăng Dung muốn nói gì, khăng khăng nói: “Ngươi không tin thì có thể đi nghe ngóng ở vùng Tam Dương…”

Tôi, Lăng Dung và My Trang không kìm được phá lên cười thành tiếng, đến đám nội giám, cung nữ ở phía sau cũng che miệng cười trộm. Không ngờ trên đời lại có kẻ ngu ngốc đến vậy, thế mà cũng được phong làm tài nhân, đúng là trò đùa của thiên hạ!

Lương Tài nhân thấy chúng tôi cười phá lên mới vỡ lẽ, mặt lập tức biến sắc, bừng bừng nổi giận, vung tay tát mạnh vào mặt Lăng Dung. Tôi nhanh nhẹn bước lên một bước giơ tay đỡ cái tát của nàng ta, ai ngờ nàng ta phản ứng cực nhanh, tay còn lại tiếp tục giơ lên cao, vung thẳng tới, tôi biết mình khó mà tránh được, hẳn phải gồng mình chịu nỗi nhục ăn tát. Thế nhưng tay nàng ta đang tát mạnh xuống thì bị người khác dùng sức giữ chặt lại, không sao động đậy được nữa.

Tôi nhìn ra sau lưng Lương Tài nhân, lập tức nhún mình hành lễ. “Hoa Phi nương nương cát tường!”

Lăng Dung, My Trang và đám cung nhân đều bất ngờ đến sững người trước hành động của Lương Tài nhân, thấy tôi hành lễ mới sực tỉnh, đồng loạt thỉnh an Hoa Phi.

Lương Tài nhân bị Chu Ninh Hải, nội giám hầu cận của Hoa Phi giữ chặt hai tay, chẳng những không thấy tình hình sau lưng mà còn không có cách nào phản kháng lại được. Nàng ta thấy chúng tôi hành lễ thỉnh an thì sợ đến hồn phi phách tán, toàn thân mềm nhũn. Hoa Phi quát lớn: “Buông ả ra!”

Hai chân Lương Tài nhân lập cập, đứng không vững, lập tức ngã xuống, dập đầu như tế sao, đến nói cũng không hết câu, chỉ biết lắp bắp van vỉ: “Hoa Phi nương nương tha mạng!”

Ba người bọn tôi cũng cúi thấp đầu, không biết Hoa Phi sẽ xử trí mình như thế nào. Hoa Phi ngồi xuống ghế do đám cung nhân khiêng tới, ung dung lên tiếng: “Mùa thu tới rồi, cảnh sắc trong cung đẹp thật! Tại sao Lương Tài nhân không chịu yên phận tận hưởng cảnh đẹp mà lại cư xử càn rỡ trong Thượng Lâm uyển như vậy cơ chứ?”

Lương Tài nhân nước mắt lưng tròng, nức nở tố cáo: “An Tuyển thị ăn nói hỗn xược, thần thiếp chỉ định dạy cho ả ta một bài học!”

Hoa Phi không thèm ghé mắt nhìn nàng ta, mỉm cười dịu dàng nói: “Ta cứ tưởng Hoàng hậu và ta đã mất rồi chứ, thế nên mới phải phiền đến Lương Tài nhân ra mặt dạy dỗ cung tần, đúng là vất vả quá!” Nàng ta liếc mắt nhìn Lương Tài nhân đang run lẩy bẩy quỳ mọp dưới đất. “Chỉ có điều, bản cung sợ ngươi không đủ sức gánh vác trách nhiệm vất vả đó, hay để Chu công công đưa ngươi đến một nơi tốt hơn nghỉ ngơi vậy!” Giọng nói của nàng ta nghe uyển chuyển, quyến rũ không kể xiết nhưng bên trong lại ẩn giấu sự đe dọa khó diễn tả thành lời.

Nàng ta ung dung tự đắc nhìn gốc phong rụng đầy lá đỏ như máu trong Thượng Lâm uyển, chậm rãi nói tiếp: “Năm nay lá phong đỏ như vậy, cứ thưởng “nhất trượng hồng” cho Lương Tài nhân thôi!”

Tôi nghe nàng ta nói mà kinh hãi, toát mồ hôi hột. “Nhất trượng hồng” là hình phạt để trừng trị phi tần, cung nhân phạm lỗi. Dùng gậy dày hai phân, dài năm thước đánh từ mông xuống chân nữ phạm, không có số gậy cụ thể, cứ đánh đến khi xương gân gãy vụn, máu thịt bầy nhầy mới dừng, từ xa nhìn lại chỉ thấy bãi máu đỏ tươi nên mới được gọi là “nhất trượng hồng”. Sau hình phạt tàn nhẫn như vậy, đôi chân của Lương Tài nhân coi như tàn phế!

Chu Ninh Hải dạ một tiếng, gọi mấy tay nội giám sức dài vai rộng đến kéo Lương Tài nhân đi. Bốn phía tĩnh lặng không ai dám ho he một tiếng, Lương Tài nhân đã ngất xỉu, không còn biết gì nữa.

Tim tôi đập thình thịch vì khiếp hãi, Hoa Phi quả nhiên thủ đoạn độc ác, cười cười nói nói vài ba tiếng đã hủy luôn đôi chân của Lương Tài nhân. Tôi càng nghĩ càng sợ, im lặng hồi lâu, mới nghe Hoa Phi cất tiếng: “Khi nãy Lương thị địa vị thấp mà dám mạo phạm bề trên, thân thể đê tiện lại dám có ý muốn loạn đánh Quý nhân, khiến ba muội đây sợ hãi. Thôi cứ lui xuống nghỉ ngơi đi!”

Mọi người như được đại xá, vội vã cáo từ, lui xuống. Chỉ nghe “ối chao” một tiếng, thì ra Lăng Dung đã sợ đến mức chân mềm nhũn. Hoa Phi cười nhạt một tiếng, ra bộ rất đắc ý.

Tôi và My Trang lập tức đỡ Lăng Dung rời đi, đi được một đoạn khá xa mới dám dừng lại. Tôi lệnh cho đám cung nhân theo hầu trở về trước rồi cùng Lăng Dung và My Trang ra Tùng Phong đình ở sâu trong Thượng Lâm uyển ngồi nghỉ ngơi. Lúc này tôi mới rút khăn lụa ra thấm khô mồ hôi lạnh rịn trên trán, chiếc khăn lụa ướt đẫm. Ngẩng đầu nhìn My Trang, tôi thấy mặt tỷ ấy cũng tái nhợt, tựa như bị bệnh nặng vừa khỏi. Còn Lăng Dung thì run bần bật, ba người đưa mắt nhìn nhau, đều cảm thấy sợ hãi khó mà diễn tả thành lời. Thật lâu sau đó, Lăng Dung mới thốt ra một câu: “Muội sợ đến phát khiếp!”

Tôi trầm ngâm một hồi rồi mới nói: “Trước giờ nghe nói Hoa Phi ỷ được sủng ái nên chẳng ai dám động vào, thật không ngờ nàng ta lại độc ác đến mức này…”

My Trang buông tiếng thở dài. “Chỉ tiếc cho Lương Tài nhân, ả ta tuy ngốc nghếch, ngạo mạn nhưng tội không đáng bị trừng phạt đến mức đó.”

Lăng Dung vội vã đưa mắt nhìn quanh, sợ bị tai mắt của Hoa Phi nghe thấy. Đến khi tin chắc bốn bể chẳng có ai khác, nàng ta mới nhỏ giọng khẽ khàng: “Hoa Phi nghiêm phạt Lương Tài nhân, tựa hồ có ý muốn lôi kéo chúng ta.”

Tôi lặng yên hồi lâu, thấy trong mắt My Trang cũng đầy vẻ ưu tư, do dự, tỷ ấy hạ giọng nói: “Về sau phải nhìn sắc mặt của người khác mà hành sự, sống thực chẳng dễ dàng gì…”

Ba người nghe tiếng gió thu cuốn lá vàng bay loạt soạt, im lặng chẳng biết nói gì nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 30-3-2016 10:19:27 | Xem tất

RE: [Cổ Đại - Xuất Bản] Hậu Cung Chân Hoàn Truyện | Lưu Liễm Tử (Tập 1-Chương 5)

Tập 1-Chương 5
Trăm kế tránh địch


Lúc tôi về lại Oánh Tâm đường, màn đêm đã buông xuống. Đám Cận Tịch thấy tôi mãi không về thì sốt ruột như kiến bò trên chảo nóng. Thấy tôi quay về, bọn họ thở phào, kể lại rằng Hoàng hậu truyền ý chỉ, từ đêm mai trở đi, cung tần vừa được tấn phong sẽ bắt đầu được thị tẩm, đặc biệt dặn dò tôi chuẩn bị cho tốt. Tôi nghe xong càng thêm phiền lòng, lo lắng, chẳng buồn ăn cơm tối, chỉ uống mấy ngụm canh rồi đi dạo ngoài sân trước Oánh Tâm đường để giải khuây.

Hoa quế Ngu Châu đang mùa nở rộ, dưới ánh trăng mờ ảo như vô số mảnh vàng vụn li ti, tỏa hương thơm ngát. Tôi chẳng còn lòng dạ nào để ngắm hoa, ngẩng đầu nhìn đền đài, mái ngói trập trùng như núi bên ngoài cửa cung, tâm trạng vô cùng nặng nề.

Thái độ của Hoa Phi với tôi và My Trang hết sức mơ hồ, tựa như có ý muốn lôi kéo chúng tôi, vừa như muốn dè chừng, giữ khoảng cách nhất định. Do vậy, nàng ta lúc ở điện Chiêu Dương thì lên giọng kẻ cả, trấn áp chúng tôi trước mặt mọi người nhưng trong Thượng Lâm uyển lại thẳng tay trừng trị Lương tài nhân cho tôi hả giận. Nhưng nàng ta hành xử cũng vô cùng giảo hoạt, rõ ràng Lương Tài nhân ra tay để dạy dỗ Lăng Dung nhưng Hoa Phi lại khăng khăng nói lý do trừng phạt Lương thị là vì ả ta đã đắc tội với tôi. Điều duy nhất có thể khẳng định là, tôi hiện giờ có không ít địch nhân. Từ thái độ của Lương Tài nhân, có thể thấy được sự ganh tỵ và bất mãn của mọi người dành cho tôi. Chỉ có điều, Lương thị kiêu ngạo nên mới trắng trợn mở miệng mắng chửi chẳng chút e dè, lại còn ra tay đánh người. Nhưng minh đao minh thương như thế ít nhất còn có thể binh tới tướng đỡ, nước tới đất ngăn, nếu lỡ ngày mai tôi là người đầu tiên được chọn thị tẩm, được Hoàng đế sủng ái, sau đó sẽ gặp phải vô số người lén lút ám toán, thế thì có đề phòng cách mấy cũng chẳng tránh được, chỉ sợ kết cục của tôi sẽ còn thê thảm hơn Lương thị nhiều!

Nghĩ đến đó, tôi rùng mình khiếp hãi. Hoa Phi tuy có thái độ không rõ ràng nhưng trước mắt chỉ là đứng ngoài xem kịch, chưa có hành động gì đối phó tôi. Nhưng nếu lỡ tôi được Hoàng thượng thương yêu, làm ảnh hưởng đến địa vị của nàng ta, chẳng phải tôi sẽ trở thành cái đinh trong mắt, gai trong thịt của nàng ta hay sao? Khi đó, nàng ta nhất định sẽ mau chóng trừ bỏ tôi để tránh họa về sau. Thế thì trong hậu cung, tôi trước sau đều thụ địch, tình hình thực không ổn. Cha mẹ muốn tôi phải tự bảo vệ thân mình, nếu tôi bị vu oan, cả nhà họ Chân cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Tôi nhìn hoa quế vàng rực rụng lả tả dưới đất, trong lòng thầm tính toán kế sách thoát thân.

Gió đêm thổi qua, tôi cảm thấy có chút lạnh rồi lại chợt ấm hẳn lên, một chiếc áo choàng gấm được khoác lên người. Tôi quay lại thì thấy Hoán Bích đứng ở sau lưng, lo lắng khuyên: “Đêm về gió lớn, tiểu thư cẩn thận kẻo cảm lạnh đấy!”

Tôi mệt mỏi mỉm cười. “Ta cảm thấy trong người có chút không khỏe, ngươi gọi Tiểu Doãn Tử đi mời thái y đến xem sao! Nhớ lấy, phải mời bằng được Ôn Thực Sơ – Ôn đại nhân.”

Hoán Bích hốt hoảng gọi Lưu Chu, đỡ tôi vào phòng rồi lệnh cho Tiểu Doãn Tử đi mời Ôn Thực Sơ đến ngay.

Chẳng mấy chốc, Ôn Thực Sơ đã đến. Tôi chỉ để Lưu Chu, Hoán Bích hầu hạ bên người, còn tất cả những người khác đều phải chờ ở bên ngoài. Ôn Thực Sơ bắt mạch xong, lại quan sát sắc mặt tôi một hồi, ánh mắt lộ vẻ nghi ngờ, hỏi: “Không biết vì sao mà tiểu chủ lại sinh bệnh?”

Tôi thản nhiên đáp: “Ta vừa bị khiếp sợ một phen, buổi tối lại hơi cảm lạnh.”

Tôi nhìn sang hắn, hắn lập tức cụp mi mắt, không dám nhìn tôi. Tôi bèn chậm rãi nói tiếp: “Ngày đó trong Khoái Tuyết hiên, đại nhân từng nói sẽ đối xử tốt với Chân Hoàn cả đời cả kiếp, không biết hôm nay câu nói đó còn có giá trị nữa hay không?”

Cơ mặt Ôn Thực Sơ co giật, hiển nhiên hắn không ngờ tôi lại hỏi câu này, lập tức quỳ xuống, thưa: “Lời này của tiểu chủ vi thần không dám nhận! Nhưng tiểu chủ biết rõ thần trước giờ luôn giữ lời hứa, huống gì…” Giọng hắn chùng xuống nhưng vẫn kiên định, thành khẩn vô cùng: “Mặc cho tiểu chủ thân ở chốn nào, tình cảm của thần đối với tiểu chủ cũng không bao giờ thay đổi.”

Tôi lập tức cảm thấy nhẹ nhõm cả người, Ôn Thực Sơ quả thật là một kẻ chung tình, tôi thực sự không nhìn nhầm người. Tôi vẫy tay ra hiệu cho hắn lại gần. “Trong cung không có chỗ cho cái gọi là tình cảm, ngươi trung thành với ta, chịu giữ lời hứa vậy là đủ rồi.” Giọng tôi càng dịu dàng hơn. “Hiện giờ ta có việc cần nhờ, không biết Ôn đại nhân có chịu giúp đỡ hay không?”

Hắn đáp: “Tiểu chủ cứ việc dặn dò!”

Mặt tôi không chút biểu cảm, chăm chăm nhìn vào ánh nến bập bùng sáng tối, hạ giọng: “Ta không muốn thị tẩm.”

Hắn giật mình kinh hãi nhưng trong chớp mắt sắc mặt đã trở lại bình thường, lên tiếng dặn dò: “Tiểu chủ cứ an tâm nghỉ ngơi, thần viết xong đơn thuốc sẽ dặn Ngự dược phòng dâng thuốc tận nơi.”

Tôi ra lệnh cho Lưu Chu: “Tiễn đại nhân quay về!”, lại dặn Hoán Bích lấy một đĩnh vàng đưa cho Ôn Thực Sơ, hắn vừa định từ chối, tôi đã nhỏ giọng khuyên: “Đó là chút lòng thành của ta, huống gì tay không ra ngoài cũng chẳng tiện chút nào!” Hắn nghe vậy mới chịu nhận lấy.

Hoán Bích hầu hạ tôi nằm xuống nghỉ ngơi. Thuốc do Ôn Thực Sơ kê nhanh chóng được đưa tới, Tiểu Ân Tử sắc ngay một tễ cho tôi uống, uống xong ngủ một giấc. Ngày hôm sau thức dậy, bệnh của tôi càng trầm trọng. Ôn Thực Sơ bẩm lên trên rằng: Hoàn Quý nhân đau tim vì kinh hãi, lại gặp gió lạnh nên phát bệnh theo mùa, cần phải nghỉ ngơi. Hoàng hậu liền phái Lưu an nhân hầu cận đến thăm tôi một phen, luôn miệng tiếc nuối tôi bệnh không đúng lúc chút nào. Tôi cố gắng đứng dậy tạ ơn nhưng lực bất tòng tâm, Lưu an nhân bèn vội vã quay về bẩm báo.

Hoàng hậu lệnh cho Ôn Thực Sơ tập trung chữa bệnh cho tôi, đồng thời cho Thuần Thường tại và Sử Mỹ nhân chuyển ra khỏi Đường Lê cung để tôi có thể yên tâm dưỡng bệnh. Tôi sai Cận Tịch đích thân đến cung Phượng Nghi tạ ơn, rồi bắt đầu cuộc sống một mình ở Đường Lê cung.

Tin tôi mắc bệnh vừa truyền ra, người trong cung ai ai cũng cười chê, cho rằng tôi tuy đẹp như hoa nhưng lại nhát như thỏ đế, nhìn được chứ chẳng dùng được. Qua đó, mọi người càng thêm phần dè chừng, sợ hãi Hoa Phi.

Mấy ngày đầu còn khá ổn, phi tần, tiểu chủ dưới cấp Hoa Phi đều đích thân đến hỏi han, Hoa Phi cũng sai cung nhân đến thăm bệnh, khá là náo nhiệt. Một tháng sau đó, bệnh của tôi vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm, vẫn tiếp tục nằm liệt giường, tần phi trong cung trước giờ ai cũng khen y thuật của Ôn Thực Sơ cao minh, hắn cũng ân cần trị liệu nhưng bệnh của tôi lúc tốt lúc xấu, tái đi tái lại. Ôn Thực Sơ đành bẩm báo lên trên rằng cơ thể tôi yếu ớt, không dám dùng thuốc mạnh, phải từ từ điều dưỡng. Điều dưỡng thế này thì hoàn toàn không có kỳ hạn. Tin tức vừa truyền ra, người đến thăm thưa dần, cuối cùng ngoài Thuần Thường tại thỉnh thoảng ghé qua thì chỉ còn My Trang, Lăng Dung và Ôn Thực Sơ là thường hay đến an ủi tôi. Ai cũng biết một tần phi bệnh mãi không dứt, dẫu nhan sắc như tiên trên trời cũng chẳng có cách nào được gặp mặt Hoàng thượng, nói gì đến thị tẩm, sủng ái! Cũng may tôi sớm đã lường trước kết quả này, tuy không khỏi than thở người trong cung chỉ biết nịnh hót, bợ đỡ nhưng cũng vui vẻ vì được thanh nhàn, ngày ngày bình yên trong cung đọc sách thêu hoa, từ từ “dưỡng bệnh”.

Tôi tuy cô độc trong Đường Lê cung nhưng vẫn nắm rõ mọi chuyện bên ngoài, nhờ có My Trang và Lăng Dung truyền tin cho biết. Chỉ có điều, bọn họ sợ ảnh hưởng đến việc dưỡng bệnh của tôi nên chỉ nói vài ba câu lấy lệ. Nhưng chỉ bằng vài câu ngắn ngủi đó tôi cũng hiểu hết được tình hình. Sau chuyện của Lương Tài nhân và chuyện tôi sợ hãi phát bệnh, sự kiêu ngạo của Hoa Phi lên đến đỉnh điểm như mặt trời giữa trưa. Trong số cung tần mới được tấn phong thì My Trang được sủng ái nhất, sau khi thị tẩm nửa tháng thì được thăng lên chức tần, ban hiệu “Huệ”. Sau đó mới tới Lương viện Lưu Lệnh Nhàn và Điềm Quý nhân Đỗ Bội Quân, nhưng vẫn chưa đâu vào đâu. Trong số các phi tần lâu năm, Hân Quý tần, Lệ Quý tần và Tần Phương nghi vẫn còn được sủng ái. My Trang mới nhập cung được một tháng, vẫn chưa đủ sức cạnh tranh ngang hàng với Hoa Phi, do đó chuyện gì cũng phải nhẫn nhịn, nhờ thế mà bình yên vô sự. Chỉ có điều, chuyện ghen ghét, tranh giành giữa các phi tần không bao giờ dứt, mọi người trong lúc kèn cựa nhau, dần quên mất một Quý nhân bệnh tật như tôi.

Thời gian thanh nhàn trôi qua được hơn một tháng thì tôi bắt đầu cảm thấy có chút thay đổi. Khang Lộc Hải và đồ đệ của hắn là Tiểu Ân Tử càng ngày càng không chịu an phận, dần không coi tôi ra gì. Tôi lệnh cho bọn họ làm việc gì, bọn họ cũng chỉ vâng vâng dạ dạ cho có chứ chẳng chịu động chân động tay. Tất cả công việc hằng ngày đều rơi vào tay tiểu nội giám Tiểu Doãn Tử và một nội giám làm việc nặng khác. Khang Lộc Hải và Tiểu Ấn Tử dẫn đầu, sau đó là vài ba cung nữ cũng bắt chước nổi loạn theo, ỷ tôi đang bệnh không có sức coi chừng thì gây chuyện, bắt đầu lên mặt cãi lại Lưu Chu và Hoán Bích.

Sáng nọ, tôi đang ngồi bên cửa sổ trong buồng sưởi phía tây uống chè lạc Cận Tịch vừa nấu thì Khang Lộc Hải và Tiểu Ấn Tử vào thỉnh an rồi quỳ phịch trước sạp, khóc lóc than vãn: “Từ nay về sau, nô tài sẽ không thể hầu hạ tiểu chủ được nữa!”

Tôi kinh hãi, vội lệnh cho bọn họ đứng dậy. Khang Lộc Hải và Tiểu Ấn Tử đứng trước mặt tôi, nức nở kể rằng Lệ Quý tần đòi đích danh bọn họ sang hầu hạ. Tôi quét mắt nhìn qua, bọn họ lập tức cúi gằm, lấy tay áo chấm khóe mắt. Tôi vừa nhìn đã thấy nơi cánh tay áo của bọn họ chẳng có dấu lệ nào, biết bọn họ giả vờ nhưng cũng chẳng thèm vạch trần làm gì, chỉ lạnh nhạt nói: “Biết rồi! Ở đó cũng tốt, phúc đức cho các ngươi, lo đi dọn dẹp đồ đạc, sau buổi trưa thì chuyển sang bên đó đi! Nhớ tận tâm hầu hạ Lệ chủ tử!” Trong lòng tôi chỉ có cảm giác chán ghét, nói xong chẳng thèm nhìn mặt bọn họ nữa mà tiếp tục nhấm nháp món chè lạc. Uống hết bát chè, tôi ngẫm nghĩ một hồi rồi gọi tất cả đám hạ nhân vào. Bọn họ quỳ chật kín cả phòng.

Tôi ôn hòa lên tiếng: “Ta bệnh cũng đã hơn hai tháng nay rồi. Mấy ngày nay tinh thần vẫn chưa tỉnh táo, e là căn bệnh này vẫn còn dây dưa lâu dài. Nô tài trong cung của ta nhiều như vậy, ta thực sự cũng không cần tất cả các ngươi hầu hạ. Nói thẳng ra, nhiều người đi qua đi lại trước mặt, ta cũng thấy phiền. Do vậy, hôm nay ta gọi các ngươi vào đây là muốn hỏi các ngươi một câu: ta định sắp xếp cho vài ba nô tài ra ngoài hầu hạ các phi tần khác, khỏi phải ngồi không ở chỗ của ta. Trong các ngươi, ai muốn chuyển đi thì cứ đến chỗ ta lĩnh một đĩnh bạc, sau đó muốn đi đâu thì đi!”

Vẻ mặt của một vài tiểu cung nữ ra chiều háo hức nhưng chẳng ai dám cử động, chỉ đưa mắt nhìn nhau.

Tôi lại khuyên thêm: “Hôm nay Lệ Quý tần đã chỉ đích danh Khang công công và Ấn công công sang hầu hạ, bọn họ thu dọn đồ đạc xong sẽ đi ngay. Các ngươi còn không chúc mừng bọn họ đi!”

Mọi người yếu ớt nói vài ba câu chúc mừng, Lưu Chu không kìm được, nghiến răng mỉa mai: “Khang công công, tiểu chủ ngày thường đối xử với ngươi không tệ, có ban thưởng thì ngươi luôn là người được lĩnh phần nhiều. Vì sao hôm nay bíu được cành cao rồi thì nói đi là đi ngay vậy?”

Tiểu Ấn Tử thấy cô nàng khí thế, hung hãn, bất giác lùi lại hai bước nhưng Khang Lộc Hải vẫn bình tĩnh, cất tiếng giải thích: ”Lưu Chu cô nương trách nhầm rồi, nô tài chẳng qua là không có quyền tự chủ. Nô tài một lòng muốn hầu hạ Hoàn Quý nhân, ai ngờ Lệ chủ tử chỉ đích danh đòi nô tài, nô tài cũng chẳng còn cách nào khác.”

Lưu Chu cười lạnh một tiếng. “Hay cho câu không có quyền tự chủ, ta lại không biết trên đời này lại có đạo lý trâu không muốn uống nước mà người ta cứ nhấn đầu ép nó uống! Nếu ngươi đã một lòng muốn hầu hạ Quý nhân thì đây chính là cơ hội để ngươi thể hiện lòng trung thành. Ngươi đi từ chối Lệ chủ tử, nói với người rằng ngươi là người hầu trung thành, không theo hai chủ. Lệ chủ tử tất nhiên sẽ không trách gì ngươi, thậm chí còn khen ngợi lòng trung thành của ngươi nữa!” Vẻ mặt Khang Lộc Hải và Tiểu Ấn Tử hết đỏ lại trắng, vô cùng xấu hổ khi bị Lưu Chu vạch mặt.

Tôi giả vờ nổi giận, mắng: “Lưu Chu, ta đương nhiên hiểu rõ “lòng trung thành” của Khang công công, đưa bạc cho hắn ta đi!”

Hoán Bích chậm rãi bước lên, đặt bạc vào tay Khang Lộc Hải, tủm tỉm cười. “Khang công công nhớ cầm cho chắc nhé! Đĩnh bạc này là do Hoàn Quý nhân mà ngươi luôn ghi nhớ trong tim ban cho đấy, nhớ cất cho kĩ, đừng để lẫn với những vật ban thưởng của Lệ Quý nhân sau này, để bày tỏ lòng trung thành “ở doanh Tào nhưng lòng vẫn ở Hán” nhé!” Lại đưa bạc cho Tiểu Ấn Tử. “Ấn công công, ngươi cũng giữ cho kĩ đi, về sau học theo lòng trung thành của sư phụ nhà ngươi, đường tương lai sẽ rộng mở.”

Khang Lộc Hải vừa giận vừa hổ thẹn ra mặt nhưng cuối cùng cũng không dám phát cáu trước mặt tôi, chắp tay làm lễ rồi kéo Tiểu Ấn Tử cun cút ra khỏi Đường Lê cung.

Tôi quay đầu nhìn đám người còn lại, cất giọng lạnh như băng: “Hôm nay ai muốn đi thì đi luôn một lượt, ta sẽ cấp thêm bạc cho các ngươi. Nếu sau này không chịu được khổ mà đòi đi thì chỉ có nước bị kéo ra Thận hình ty phạt làm khổ dịch, các ngươi suy nghĩ cho kĩ đi!”

Ánh nắng dần chếch sang phía đông, lưu lại vệt sáng trắng như tuyết trên mặt đất, phòng phía tây im phăng phắc như mặt nước ao tù. Cuối cùng cũng có một cung nữ khẽ khàng cất tiếng van xin: “Nô tỳ ngu độn, chỉ sợ không hầu hạ tiểu chủ được tốt!”

Tôi không thèm nhìn mặt ả, chỉ đưa mắt ra hiệu cho Hoán Bích. Nàng ta quăng đĩnh bạc xuống đất, “choang” một tiếng, đĩnh bạc lăn ra đằng xa. Cuối cùng ả cũng rón rén bò tới nhặt lên, rồi có thêm hai người nữa nhận lấy bạc xin ra ngoài.

Sự im lặng kéo dài hồi lâu, tôi quay người nhìn, trên mặt đất chỉ còn lại Cận Tịch, Phẩm Nhi, Bội Nhi, Tinh Thanh cùng nội giám Tiểu Doãn Tử và Tiểu Liên Tử. Tôi quét mắt nhìn kĩ từng người, thấy bọn họ cung kính quỳ dưới đất, đến thở mạnh cũng không dám, bèn trầm giọng hỏi: “Các ngươi còn có ai muốn chuyển đi nữa không?”

Cận Tịch quỳ thẳng người, nói một câu ngắn gọn: “Nô tỳ thề chết trung thành với Hoàn Quý nhân!”

Phẩm Nhi, Bội Nhi và Tinh Thanh cũng đồng thanh hô lớn: “Bọn nô tỳ thề chết trung thành với tiểu chủ, thề sẽ không làm chuyện trái đạo lý làm người!”

Tiểu Doãn Tử quỳ gối đi đến trước mặt tôi, kéo vạt áo của tôi, nức nở khóc. “Nô tài nhận đại ơn của Quý nhân, quyết không bao giờ phản bội Quý nhân!”

Tôi gật đầu. “Ngươi biết chuyện rồi sao?”

Tiểu Doãn Tử dập đầu, thưa: “Tháng trước, ca ca của nô tài mắc bệnh nằm ở Ngự Trù phòng suốt mấy ngày trời, không ai thèm để ý tới, tiểu chủ tuy đang bệnh nhưng vẫn rủ lòng thương, còn đặc biệt mời Ôn đại nhân đến chữa bệnh cho huynh ấy. Nô tài nhận đại ơn đại đức của tiểu chủ, đời này kiếp này không biết lấy gì báo đáp, chỉ biết dốc lòng dốc sức hầu hạ tiểu chủ. Chết rồi biến thành vi đà cũng phải đỡ cho tiểu chủ thành Phật.”

Tôi phá lên cười thành tiếng. “Đúng là mồm khỉ trơn như mỡ!”

Tiểu Doãn Tử đập đầu, nói: “Đó đều là những lời thật lòng của nô tài, tuyệt không dám lừa gạt tiểu chủ!”

Tôi lệnh cho hắn đứng dậy: “Còn dập nữa thì nứt đầu ra mất, không chừng lại phải nhờ Ôn đại nhân đến khám thêm một lượt.”

Mọi người nghe vậy thì phá lên cười.

Tôi lại hỏi Tiểu Liên Tử: “Còn ngươi thì sao?”

Tiểu Liên Tử nghiêm mặt, đáp: “Tiểu chủ đối xử tốt với bọn nô tài, nô tài thấy hết, ghi nhớ hết, nô tài không phải kẻ không có lương tâm!”

Lòng tôi chợt cảm thấy ấm áp, người trong cung không phải ai cũng bạc tình bạc nghĩa! Tôi ngẫm nghĩ một hồi rồi lên tiếng dặn dò: “Bây giờ đêm đã trở lạnh rồi, Tiểu Doãn Tử và Tiểu Liên Tử canh đêm ngoài hành lang suốt cũng không ổn, mau cấp cho bọn họ một chiếc chăn ấm, để bọn họ canh đêm nơi điện phụ, không cần chầu chực ngoài hành lang nữa.” Hai người vội vã tạ ơn. Tôi đứng thẳng dậy, đỡ từng người một đứng lên, dịu giọng an ủi: “Các ngươi theo hầu ta, chưa được một ngày nào hưởng phúc. Ta chỉ là một Quý nhân bệnh tật thất thế, các ngươi đối xử với ta thế này, ta cũng chẳng có cách nào hậu đãi các ngươi. Chỉ có điều, ta còn ở đây một ngày thì sẽ không để các ngươi chịu thiệt.” Mọi người đồng thanh tạ ân. Tôi quay sang nói vói Lưu Chu, Hoán Bích: “Các ngươi mau đi chuẩn bị một bàn rượu thịt ngon lành, đêm nay người trong Đường Lê cung không phân biệt trên dưới, cùng ngồi ăn chung bữa cơm!” Vừa nói dứt lời, đã thấy ai nấy dòng lệ lưng tròng, tôi không khỏi cảm thấy lòng rung động.

Đường Lê cung vốn nằm ở nơi vắng vẻ, khí trời mỗi ngày một lạnh giá nên Thuần Thường tại, My Trang và Lăng Dung rất hiếm khi đến chơi vào ban đêm. Màn đêm buông xuống, đóng cửa cung rồi thì chẳng ai tới hỏi han.

Tối đó, ăn xong cơm, ai nấy đều no say. Trong cung, đây có lẽ là lần đầu tiên trong sử sách có chuyện chủ tớ không phân biệt mà say sưa cùng nhau. Bệnh tôi cứ tái đi tái lại, đám Cận Tịch cũng không dám cho tôi uống nhiều nhưng tôi nằng nặc đòi uống cho thỏa thích, vừa uống được mấy chung đã mơ hồ nằm lăn ra ngủ.

Hôm sau tỉnh lại, mặt trời đã lên cao ba con sào, đầu tôi vẫn hơi choáng váng. Cận Tịch bèn cắt hai mảnh thuốc màu đỏ, hình tròn dán vào hai bên huyệt thái dương cho tôi, rồi lấy muối tinh để tôi chà răng, dâng trà cho tôi súc miệng. Tôi nghe thấy tiếng gió ù ù ngoài cửa sổ bèn nằm phịch xuống giường, lười biếng chẳng buồn ngồi dậy.

Từ xa đã nghe thấy có tiếng người cười cợt. “Lạnh đến đóng băng mất! Quý nhân ngủ ngon quá nhỉ!” Cận Tịch ôm gối đến để tôi tựa, thấy Tinh Thanh dẫn hai người mặc áo lông chim màu đỏ tiến vào, chính là My Trang và Lăng Dung. My Trang bước lên, đưa tay xoa mặt tôi. “Đã cảm thấy đỡ hơn chút nào chưa?”

Tôi tủm tỉm cười, đáp: “Chưa có gì thay đổi cả.”

Lăng Dung vừa cởi áo khoác vừa nói: “Tỷ dán thuốc cao, sắc mặt trông hồng hào hẳn lên.”

My Trang phá lên cười. “Cái gì chứ? Ỷ không có ai quản, càng lúc càng giống một bà điên ấy! Muội đừng có khen nó, nếu không nó lại càng thêm phần đắc ý!”

Tôi nhìn cách ăn mặc của My Trang, cười trêu: “Đây là lụa và trang sức mà Hoàng thượng vừa thưởng cho tỷ chứ gì?” Mặt My Trang hơi ửng hồng, chỉ cười cho qua chuyện. Tôi tủm tỉm cười, đưa mắt ngắm nghía đôi thoa hình dơi bằng ngọc xanh trong suốt, khen: “Đôi thoa này có vẻ rất thanh nhã, chất ngọc cũng tốt nữa!”

Lăng Dung cười, góp chuyện: “Đúng là anh hùng có kiến giải giống nhau, khi nãy muội cũng vừa khen đúng như thế. Bây giờ My tỷ được Hoàng thượng sủng ái lắm đấy!”

Mặt My Trang càng đỏ thêm, tỷ ấy nói lảng sang chuyện khác: “Tỷ đem qua cho muội mấy giỏ than thượng hạng, cung thất của muội ở nơi hẻo lánh, lại nhiều cây to, sợ mấy hôm nữa sẽ càng lạnh thêm, không tốt cho bệnh tình của muội.”

Tôi cười cười. “Muội nào có ẻo lả đến mức ấy! Phần than của muội đã được người đưa tới rồi.”

Lăng Dung khuyên: “Chắc là thứ để ngoài hành lang chứ gì! Đó là than đen, nhiều tro lắm, không thể dùng trong phòng được. My tỷ phải đi bẩm báo Hoàng hậu nương nương một tiếng mới được, đám nô tài ấy sao lại dám coi thường Hoàn tỷ như thế chứ!”

Toi vội cản lại: “Nô tài nào mà chẳng như thế! Nhưng cũng nhờ tỷ được sủng ái, bọn chúng cũng chẳng dám hoàn toàn coi thường muội, cái gì phần muội là của muội, không thiếu một li. Hơn nữa, thêm một chuyện chi bằng bớt một chuyện, chẳng phải các tỷ muội đã tặng thêm cho muội rồi sao? Tặng than sưởi ấm trong ngày tuyết rơi, tình cảm ấy trân quý biết bao, còn khiến muội vui hơn cả trăm giỏ than thượng hạng nữa ấy chứ!”

My Trang lấy làm lạ, hỏi: “Khi nãy vào đây, sao tỷ thấy cung của muội vắng vẻ đến vậy? Đến than cũng do Tiểu Doãn Tử ra mặt nhận, Khang Lộc Hải và Tiểu Ấn Tử đâu?”

Lăng Dung góp thêm: “Còn Hoàn Nhi chuyên việc dâng trà nước và hai a đầu quét dọn nữa?”

Tôi thản nhiên mỉm cười. “Khang Lộc Hải và Tiểu Ấn Tử bị Lệ Quý tần chỉ đích danh gọi qua hầu hạ, lúc bị gọi đi thì bọn chúng mới báo với muội. Còn mấy đứa kia thì bị muội đẩy đi chỗ khác rồi!”

My Trang hết sức kinh ngạc, hỏi lại: “Khang Lộc Hải và Tiểu Ấn Tử đều là người dưới quyền muội, Lệ Quý tần sao không nói với muội một tiếng đã đòi lấy bọn chúng đi? Thế mà hai tên súc sinh Khang Lộc Hải và Tiểu Ấn Tử cũng chịu đi theo ư?”, lại hỏi thêm: “Sao muội lại đẩy mấy đứa a đầu kia đi?”

“Lòng bọn chúng sớm đã không còn ở đây nữa, nôn nóng muốn tung cánh bay cao, chỉ sợ bị muội giữ lại. Loại người như vậy, nếu giữ bên người sớm muộn gì cũng gây họa, không bằng tống cổ chúng đi từ sớm.”

My Trang trầm tư. “Ý của muội là…”

Tôi nghiêm nghị giải thích: “Nô tài cần được việc chứ không cần nhiều. Nếu bọn chúng đã không có ý lưu lại chỗ muội thì chẳng bằng để bọn chúng đi. Một là có thể biết được và giữ lại nô tài thực sự trung thành, tốt với mình, hai là nơi này đông người nhiều miệng, các tỷ muội thường ghé qua chơi, đám nô tài sinh lòng phản trắc ấy nếu bị người khác mua chuộc, rồi lợi dụng chúng để đối phó với chúng ta thì muốn phòng cách mấy cũng khó mà tránh được.”

My Trang gật gù đồng ý. “Khá khen cho muội tinh ý! Tỷ chưa hề để ý đến chuyện này, xem ra quay về cũng phải chú tâm dè chừng đám nô tài của mình, Lăng Dung cũng phải cẩn thận đấy!”

Lăng Dung hạ giọng vâng dạ rồi chăm chú nhìn tôi, thở dài than thở: “Tỷ đang bệnh mà còn lao tâm khổ tứ thế này hèn gì bệnh mãi không dứt, chẳng biết có phải do nhọc lòng quá không?”

My Trang cũng lo lắng ra mặt. “Theo lý mà nói, y thuật của Ôn thái y rất giỏi, tại sao bệnh của muội cứ không khỏi hẳn thế?”

Tôi an ủi tỷ ấy: “Bệnh đến như núi đổ, bệnh khỏi như kéo tơ. Dạo này tiết trời lạnh giá nên càng khó mà khỏe lên được. Nhưng muội cũng thấy khá hơn nhiều so với mấy ngày trước rồi.” Tôi lại hỏi thêm: “Hoa Phi có hành động gì với các tỷ muội không?”

My Trang liếc nhìn Lăng Dung rồi đáp: “Vẫn như cũ thôi, ngoài mặt còn khách khí lắm.”

Tôi khẽ khàng khuyên: “Muội biết tỷ là người hiền hòa, cẩn thận, Lăng Dung lại e dè, nhút nhát, nhưng khi không nhịn được thì cũng phải làm cho ra lẽ, đừng mãi nhẫn nhục khiến nàng ta thêm phần kiêu ngạo.”

My Trang hiểu ý tôi, gật đầu rồi hỏi lại: “Lần trước tỷ gửi nhân sâm cho muội, ăn có được không?”

Tôi cười, đáp: “Cảm ơn tỷ đã quan tâm, tốt lắm!”

Khi thấy trời dần về khuya, My Trang mỉm cười, đứng dậy cáo từ: “Nói chuyện cả nửa ngày trời rồi, chắc muội cũng đã mệt. Không phiền muội nghỉ ngơi nữa, bọn tỷ đi trước đây!”

Tôi mỉm cười gọi Lưu Chu tiễn họ ra ngoài. Hoán Bích bưng thuốc vào, hơi chần chừ hỏi lại tôi: “Tiểu thư, vẫn còn uống thuốc này sao?”

Tôi đáp: “Uống chứ! Vì sao lại không uống?”

Mặt nàng ta lộ vẻ lo lắng. “Người đang khỏe mạnh uống loại thuốc này có ảnh hưởng gì đến thân thể hay không?”

Tôi tủm tỉm cười. “Không sao đâu! Thuốc của hắn sau khi uống vào chỉ khiến mặt ta có vẻ yếu ớt, thân thể hay mỏi mệt vậy thôi. Huống gì thỉnh thoảng ta mới uống một thang, không ảnh hưởng gì đâu!” Tôi nhìn nàng ta, hỏi: “Ngoài ngươi và Lưu Chu ra, không có ai khác phát hiện chuyện này chứ?”

Hoán Bích gật đầu khẳng định. “Thuốc do Ôn đại nhân kê đơn rất cao minh, không ai phát hiện ra điều gì lạ. Chỉ có điều vì sao tiểu thư lại phải khổ sở gạt cả Huệ Tần tiểu chủ và An Tuyển thị vậy?”

Tôi hạ giọng giải thích: “Chính vì họ và ta tình như tỷ muội ruột thịt nên ta mới không cho họ biết. Bất cứ chuyện gì cũng khó tránh khỏi rủi ro, một khi bị vạch trần tốt nhất là đừng nên làm liên lụy đến họ. Hơn nữa, càng nhiều người biết chuyện thì càng dễ để lộ tin tức, với mọi người, đây chẳng phải chuyện tốt đẹp gì!”

Thuốc trong chén có màu đen sậm, mùi vừa ngọt vừa chua. Tôi ngẩng đầu, một hơi uống cạn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 31-3-2016 10:17:40 | Xem tất

[Cổ Đại - Xuất Bản] Hậu Cung Chân Hoàn Truyện | Lưu Liễm Tử (Tập 1-Chương 6)

Tập 1-Chương 6
Ỷ Mai đêm tuyết


Thấm thoát tôi nhập cung đã được ba tháng trời. Gần sang năm mới, bầu không khí trong cung mỗi ngày một nhộn nhịp. Số tăng nhân đêm ngày tụng kinh cầu phúc ở điện Thông Minh càng lúc càng nhiều. Đến ngày Hai mươi lăm tháng Chạp, phần thưởng tết cũng được ban xuống. Tuy tôi chỉ là một Quý nhân nhỏ bé, bệnh tật, không được sủng ái nhưng phần thưởng cũng không ít, thêm vào tặng phẩm của My Trang, Lăng Dung và Thuần Thường tại, cũng đủ để đón năm mới sung túc rồi. Đường Lê cung tuy có phần vắng lặng nhưng bọn Cận Tịch trông cũng vui vẻ hơn hẳn, bận bịu quét dọn cung thất tinh tươm, treo đèn ngũ phúc cát tường, dán chữ phúc khắp nơi.

Tuyết lớn rơi dày suốt hai ngày liền, trời càng lúc càng lạnh giá. Tôi ủ tay trong lò ấp nóng hổi, đứng dưới cửa sổ ngắm tuyết lông ngỗng rơi lất phất đầy trời, trời đất một màu trắng xóa vô biên. Tinh Thanh bước qua mỉm cười, khuyên tôi: “Tiểu chủ đang nghĩ gì mà thất thần như vậy? Dưới cửa sổ có gió lạnh luồn vào, người cẩn thận không bị đau đầu đấy.”

Tôi cười, đáp: “Ta đang nghĩ cung chúng ta thứ gì cũng có đủ, chỉ thiếu vài gốc mai và vài gốc tùng bách. Đến mùa đông, ngoài vườn trống huơ trống hoác, chẳng có hoa cỏ cây cối gì cả, chỉ có thể đứng ngắm tuyết mà thôi!”

Tinh Thanh phân trần: “Lúc trước, khi Sử Mỹ nhân còn ở đây, nàng ta rất ghét các loại hoa cỏ, ganh tỵ hoa đẹp hơn người. Vì vậy nàng ta không ưa hoa mai, nói mùa đông chỉ có mình nó nở rộ, còn người thì lạnh cóng đến mức chân tay co rúm, mũi đỏ ửng, càng thể hiện rõ người chẳng đẹp bằng hoa. Nàng ta còn chê mùi tùng bách không thơm, nằng nặc đòi nhổ bỏ số cây đã trồng trước đây.”

Tôi cười khúc khích. “Không ngờ Sở Mỹ nhân lại thú vị đến vậy!”

Cận Tịch bước qua lườm Tinh Thanh một cái, trách móc: “Càng ngày càng không chịu quản cái miệng của nhà ngươi! Nhớ cho kĩ, nô tài không được bàn luận sau lưng chủ tử!”

Tinh Thanh thè lưỡi biện hộ: “Nô tỳ chỉ dám nói trong cung này thôi, ra ngoài tuyệt không bao giờ nói bậy!”

Cận Tịch nghiêm túc cảnh cáo: “Ở cung của mình nói quen rồi, thế nào ra ngoài cũng lỡ miệng nói càn, khi không lại chuốc họa về cho tiểu chủ.”

Tôi mỉm cười hòa giải: “Năm hết Tết đến, đừng mắng nàng ta nặng nề quá!”, lại dặn dò Tinh Thanh: “Về sau phải nhớ kĩ lời cô cô dạy, không được quên đấy nhé!”

Cân Tịch đến bên tôi, khuyên: “Quý nhân chê cảnh sắc bên ngoài không có gì đặc sắc để ngắm, hay để bọn nô tỳ cắt hoa đính lên cửa sổ vậy!”

Tôi hứng thú ủng hộ: “Ta cũng biết cắt hoa, chúng ta cùng cắt hoa rồi dán lên cửa sổ, để tăng thêm phần hân hoan.”

Cận Tịch vui vẻ vâng dạ rồi chẳng mấy chốc đã mang tới một chồng giấy màu và một xấp giấy vàng, bạc. Nữ nhân trong cung ngày dài rỗi việc thường thích thêu thùa, cắt giấy để giết thời gian, cung nữ, thái giám đa số cũng am hiểu việc này. Vì thế vừa nghe nói tôi muốn cắt hoa dán cửa sổ, mọi người đều vây quanh sập ấm, bắt đầu cắt giấy.

Hai canh giờ trôi qua, trên bàn xuất hiện thêm một chồng mẫu hoa đủ màu sắc sặc sỡ, nào là “hỷ thước đăng mai”, “nhị long hý châu”, “khổng tước khai bình”, “thiên nữ tán hoa”, “cát khánh hữu dư”, “hòa hợp nhị tiên”, “phúc lâm môn”, ngoài ra còn có hình đủ loại hoa cỏ như sen, lan, trúc, cúc, thủy tiên, mẫu đơn, tuế hàn tam hữu.

Tôi xem lần lượt mẫu cắt của từng người rồi cất tiếng khen: “Cận Tịch cắt khéo quá, thật không thẹn là bậc cô cô!”

Mặt Cận Tịch hơi ửng hồng, khiêm tốn thưa: “Sao bằng được mẫu “hòa hợp nhị tiên” do Quý nhân cắt, đúng là sinh động y như thật!”

Tôi cười xòa. “Trên đời này làm gì có “hòa hợp nhị tiên”, chẳng qua chỉ là tưởng tượng ra rồi cắt theo ý mình mà thôi! Nếu có thể cắt hình giống hệt như người thật thì mới gọi là tài chứ!”

Vừa dứt lời, Bội Nhi đã nhao nhao nói: “Tiểu Doãn Tử biết cắt hình giống hệt người thật đấy!”

Tiểu Doãn Tử lập tức quay đầu lườm nàng ta một cái. “Đừng nói nhăng nói cuội trước mặt tiểu chủ như thế, làm gì có chuyện đó!”

Bội Nhi không chịu thua, cãi: “Ban nãy chính mắt nô tỳ nhìn thấy Tiểu Doãn Tử cắt hình của tiểu chủ rồi giấu vào trong tay áo kia kìa!”

Tiểu Doãn Tử hổ thẹn, mặt đỏ bừng, nhỏ giọng ấp úng: “Nô tài không có ý bất kính với tiểu chủ đâu!”

Tôi cười hì hì. “Thế thì có đáng gì? Trước giờ ta không để ý đến những chuyện vặt đó. Ngươi cứ lấy ra cho mọi người xem đi!”

Tiểu Doãn Tử ngượng ngùng dâng bức hình cho tôi. Tôi nhìn qua rồi cười tủm tỉm, khen: “Quả nhiên là tinh xảo! Tiểu Doãn Tử, ngươi khéo tay thật đấy!”

Tiểu Doãn Tử thưa: “Đa tạ Quý nhân khen ngợi! Chỉ là nô tài vụng về, không cắt được hoa dung nguyệt mạo của Quý nhân.”

Tôi cười mắng: “Mồm miệng trơn như mỡ, chỉ giỏi nịnh cho ta vui lòng. Ngươi đã cắt hình ta quá xinh đẹp rồi, ta rất hài lòng!”

Lưu Chu cười tủm tỉm, hỏi: “Hắn đúng là tên nhóc lanh lợi như quỷ sứ ấy, sao lại có ý muốn cắt hình của Quý nhân vậy?”

Tiểu Doãn Tử nghiêm túc đáp: “Từ khi tiểu chủ nhờ Ôn thái y cứu mạng cho ca ca của nô tài, nô tài và ca ca vẫn luôn khắc ghi đại ơn, đại đức của tiểu chủ, do đó đặc biệt cắt hình của tiểu chủ, đem về thờ phụng, ngày ngày thắp hương, quỳ lạy.”

Tôi nghiêm mặt khuyên: “Ta hiểu tấm lòng của ngươi và ca ca ngươi nhưng làm như vậy thì không hợp với quy củ, để truyền ra ngoài không tốt chút nào, thôi cứ dán bức hình này trong cung của ta cũng được!”

Cận Tịch đứng dậy cười, đề nghị: “Trong cung có tập tục, đêm Ba mươi tháng Chạp, đem một vật nhỏ mà mình ưa thích treo lên cành cây để cầu năm mới được vạn sự như ý. Tiểu chủ đã thích bức tranh do Tiểu Doãn Tử cắt như vậy, hay là cứ treo nó lên cành cây để cầu phúc đi, như thế coi như cũng thưởng cho Tiểu Doãn Tử được nở mày nở mặt một phen.”

Tôi tủm tỉm cười, đáp: “Ý kiến này nghe hay đấy!” rồi lệnh cho Hoán Bích đi lấy phần thưởng, thưởng cho Cận Tịch và Tiểu Doãn Tử.

Đang lúc náo nhiệt thì có người vén rèm tiến vào thỉnh an, chính là Bảo Quyên, cung nữ hầu cận của Lăng Dung. Nàng ta ôm hai chậu thủy tiên, thưa: “Tuyển thị tiểu chủ đích thân trồng mấy bồn thủy tiên, hôm nay đã nở hoa, nên bảo nô tỳ đem đến tặng Hoàn Quý nhân.”

Tôi cười, tiếp nhận. “Khéo thật, bọn ta vừa cắt xong mẫu hoa thủy tiên bằng giấy thì tiểu chủ của các ngươi lại sai ngươi đưa thủy tiên đến đây. Có tặng cho bên Huệ Tần tiểu chủ hay không?”

Bảo Quyên đáp: “Tiểu chủ đã bảo Cúc Thanh đưa hai chậu qua bên đó rồi, còn tặng cho Thuần Thường tại một chậu nữa.”

Tôi gật đầu. “Quay về bẩm báo với tiểu chủ nhà ngươi là ta rất thích, rồi cầm theo hoa giấy ta cắt về cho tiểu chủ nhà ngươi dán chơi trên cửa sổ. Bên ngoài tuyết lớn ngươi ở lại sưởi ấm người rồi hẵng đi, đừng để bị lạnh cóng”

Bảo Quyên vâng dạ rồi lui xuống. Chẳng mấy chốc đã đến Ba mươi tháng Chạp. My Trang, Lăng Dung và Thuần Thường tại theo lệ được mời tham gia gia yến trong nội đình do Hoàng thượng và Hoàng hậu chủ trì, đương nhiên không thể ghé thăm tôi được. Tôi bệnh tật quấn thân, Hoàng hậu ra ơn cho phép tôi ở lại trong cung nghỉ ngơi, không cần đi dự yến tiệc. Một mình ăn xong bữa cơm tất niên, tôi cùng đám hạ nhân chờ đón giao thừa. Phẩm Nhi bưng nước nóng vào, cười hì hì, kể: “Tiểu chủ, tuyết bên ngoài tạnh hẳn rồi, còn thấy sao sáng đầy trời nữa, xem ra ngày mai trời quang mây tạnh.”

“Thật sao?” Tôi cao hứng cười thành tiếng. “Cảnh đẹp như vậy không thể bỏ lỡ được!”

Cận Tịch cũng vui vẻ tiếp lời: “Vừa khéo Quý nhân có thể treo bức hình giấy của mình lên cành cây ngoài vườn để cầu phúc!”

Tôi không đồng ý. “Ngoài vườn ư? Cành khô trụi lá thì treo lên có gì hay cơ chứ! Chi bằng xem nơi nào có hoa mai nở, treo bức hình giấy lên.”

Tiểu Doãn Tử đáp ngay: “Hoa mai ở góc tây nam Thượng Lâm uyển nở đẹp lắm, cũng gần cung điện của chúng ta.”

Tôi hỏi lại: “Là mai trắng sao?”

Tiêu Doãn Tử thưa: “Là mai vàng, thơm lắm!”

Tôi hơi cau mày. “Mai vàng không đẹp lắm, mùi hương lại quá nồng như hơi rượu. Còn nơi nào khác không?”

Tiểu Doãn Tử dang tay ra hiệu. “Ỷ Mai viên ở góc đông nam Thượng Lâm uyển có trồng loại mai cánh đỏ nhị trắng như ngọc, nở hoa đỏ rực, nhìn xa như áng mây đỏ vậy, đẹp đến mức nhìn thôi cũng phải ngẩn ngơ, chỉ là cách đây hơi xa!”

Đêm tuyết trăng thanh, rọi xuống từng cụm mai trắng xóa, mùi hương thầm bảng lảng, cảnh đẹp đến nhường nào… Tôi sinh lòng thích thú, đứng dậy khoác chiếc áo choàng gấm màu trắng bạc thêu vân xanh biếc lót lông chim, đội thêm mũ trùm đầu, vừa đi vừa nói: “Vậy ta sẽ đến đó xem một chuyến!”

Tiểu Doãn Tử nghe thấy vậy thì sợ đến độ mặt tái nhợt, lập tức quỳ xuống, tự tát vào mặt mình hai cái, van vỉ: “Đều do nô tài lắm lời! Sức khỏe của tiểu chủ vẫn chưa khá lên, không chịu được lạnh đâu! Huống chi hôm trưóc, Hoa Phi đã ban lệnh, nói tiểu chủ bị bệnh theo mùa, không tiện ra ngoài đi lại, nếu chuyện này truyền đến tai Hoa Phi thì tội không nhỏ đâu!”

Tôi tủm tỉm cười, đáp: “Đang yên đang lành ngươi lại tự trách móc bản thân làm gì kia chứ? Bây giờ đêm hôm khuya khoắt, không người qua lại, các tần phi đều đi tham dự yến tiệc, ta cố ý mặc bộ y phục này, đi trong tuyết vừa ấm áp lại vừa không gây chú ý. Huống chi ta bệnh lâu như vậy, đi ra ngoài giải sầu một phen cũng có lợi chứ sao!” Tiểu Doãn Tử còn muốn khuyên thêm, tôi đã rảo bước đi nhanh ra ngoài cửa, quay đầu lại, cười, nói: “Ta ra ngoài một mình không ai được phép đi theo! Ai dám to gan ngăn cản phạt kẻ đó đứng ngoài tuyết lạnh cả đêm!”

Vừa ra khỏi cửa Đường Lê cung, Cận Tịch và Lưu Chu đã hấp tấp đuổi theo kịp, nhún chân hành lễ rồi dặn dò: “Nô tỳ không dám khuyên Quý nhân ở lại, chỉ xin Quý nhân cầm theo chiếc đèn này để đề phòng tuyết đọng, khó đi lại.”

Tôi giơ tay đón lấy, là một chiếc đèn gió kiểu sừng dê, vừa nhẹ vừa sáng, lại không sợ bị gió tuyết thổi tắt, mỉm cười, khen: “Các ngươi thật chu đáo!”

Lưu Chu lại đặt một chiếc lồng ấp nhỏ vào lòng tôi. “Tiểu thư giữ lấy cho ấm tay!”

Tôi cười, mắng: “Chỉ có ngươi là phiền phức, sao không đem cả chăn gối luôn một thể?”

Lưu Chu xấu hổ, mặt ửng hồng nhưng vẫn cứng miệng nói: “Giờ tiểu thư càng lúc càng chán ghét nô tỳ rồi, cứ như thế mãi thì Lưu Chu sẽ trở thành Lưu Lệ mất!”

Tôi cười, mắng: “Lại nói bậy bạ, cưng chiều nhà ngươi đến mức ngươi chẳng biết quy củ là gì nữa rồi!”

Lưu Chu cũng cười, đáp: “Nô tỳ việc gì phải lo lắng đến quy củ này nọ cơ chứ, chỉ cần lo lắng đến sự an toàn của tiểu thư là đủ rồi!”

Cận Tịch nghe vậy cũng phá lên cười,

Tôi nói: “Thôi đem về đi! Ta đi một lát rồi về ngay, không đến nỗi bị rét cóng đâu!” Nói xong, quay người đi ngay.

Tuyết đọng trên vĩnh hạng [1] và đường lớn trong cung sớm đã được đám cung nhân quét dọn sạch sẽ, nhưng mặt đường đóng băng rất trơn, đi lại phải hết sức cẩn thận. Đêm khuya trời lạnh, các tần phi đều ở chính điện hoan hỉ dự yến cùng Hoàng đế, Hoàng hậu, cung nữ nội giám ở các nơi cũng rúc vào nhà trong, sợ lạnh không dám ló đầu ra ngoài. Thỉnh thoảng có ngự lâm thị vệ và nội giám canh đêm đi qua nhưng thanh thế cũng giảm hơn ngày thường rất nhiều, rất dễ lảng tránh. Đường đến Ỷ Mai viên có hơi xa, cũng may gió đêm không lớn lắm, tuy hơi lạnh vờn quanh nhưng trên người tôi, y phục dày ấm cũng đủ để chống chọi. Tôi đi bộ chừng gần nửa canh giờ thì đến nơi.

[1] Vĩnh hạng: con đường nhỏ, hẹp và dài trong nội cung, còn dùng để chỉ nơi ở của phi tần trong cung.

Chưa vào vườn nhưng từ xa đã ngửi thấy một mùi hương thơm ngát, vương vấn không thôi, phảng phất đủ để giữ chân lữ khách, càng lại gần mùi hương càng thấm sâu vào lòng người, ngây ngất tận đáy lòng. Tuyết đọng trong Ỷ Mai viên vẫn chưa có ai quét dọn, tuyết vừa dứt cơn, chưa đông cứng thành băng. Giày đi tuyết bằng da dê non thêu hoa đạp trên mặt tuyết, phát ra âm thanh kẽo kẹt, khẽ khàng. Trong vườn vô cùng yên tĩnh, chỉ nghe thấy tiếng bước chân giẫm lên tuyết. Cả vườn trồng toàn mai đỏ, rộ hương khoe sắc, dưới ánh sao trong trẻo, chúng như những giọt thủy ngân nhỏ xuống tí tách, càng giống như ráng mây rực rỡ, đỏ đến mức như sắp cháy bùng. Trên mỗi cánh hoa còn đọng lại vài vụn tuyết trắng, trong suốt, tinh khiết, phản chiếu nhị hoa như ngọc, cánh hoa như đá quý đỏ thẫm, tôn dáng cho nhau, càng thêm vẻ ngạo nghễ, thoát tục, không biết tuyết làm nền cho mai hay mai làm cho tuyết, tạo nên một cảnh tượng thần tiên: “Hương thoảng thầm trăng mới chớm, nhành thưa bóng lộng giữa làn vơi.”

Tôi đứng xa hai bước, hương hoa mai thanh khiết tựa hồ muốn gột rửa giúp người ta trở nên trong sáng, trắng ngần. Tôi thích thú, bèn chọn một nhành mai rộ hoa nhất treo bức tranh cắt giấy của mình lên đó rồi chẳng để ý đến băng tuyết đầy trên mặt đất, đặt đèn gió qua một bên, thành tâm quỳ xuống, thầm cầu nguyện:

Chân Hoàn tôi nguyện thứ nhất, mong cha mẹ khỏe mạnh, huynh muội bình an.

Nguyện thứ hai, mong có thể ở trong cung bình an cả đời, sống trọn kiếp tàn.

Nghĩ đến đây, tôi không khỏi thấy lòng sầu muộn muốn thoát khỏi thị phi trong chốn cung cấm, lo bảo vệ thân mình thì đời này đành bệnh mãi không khỏi, tự vùi mình trong chốn thâm cung, nhưng đến chuyện khi hầu Huyền tông cũng không có để mà kể.

Nguyện thứ ba, “mong người lòng chỉ một, bạc đầu chẳng xa nhau” lại càng là mộng tưởng hão huyền, chẳng bao giờ đạt được. Nghĩ đến đây, dẫu tôi đã sớm ý thức thân mình đời này phải chôn vùi trong chốn thâm cung, vĩnh viễn không có tương lai nhưng trong lòng bất giác cảm thấy xót xa khôn tả, thở dài một tiếng, ngâm một câu thơ: “Gió đông như hiểu ý, xin đừng hại đến hoa.”

Tôi vừa dứt lời, khuất sau hàng mai đằng xa chợt có một giọng nam trầm ấm vang lên: “Ai đang ở đó?” Tôi giật mình kinh hãi, nơi này còn có người khác! Còn là đàn ông nữa chứ! Tôi lập tức im lặng, “phù” một tiếng thổi tắt đèn gió, lách mình ẩn sau một gốc mai. Người nọ dừng lại một thoáng rồi hỏi tiếp: “Là ai?”

Bốn bề yên tĩnh, chỉ nghe thấy tiếng gió lùa tuyết đọng trên cành mai rơi xuống đất lộp bộp, hồi lâu sau vẫn không có tiếng trả lời. Tôi quấn chặt tấm áo choàng. Ánh sao mờ ảo, mặt tuyết trắng tinh, bóng cành bóng nhánh đan xen trập trùng, tựa vô số chạc san hô quấn quýt, muốn phát hiện được tôi cũng chẳng dễ dàng gì. Tôi hít thở khẽ khàng, rón rén rời đi, cố lách mình đi ra phía ngoài, chỉ sợ giẫm phải chỗ tuyết đọng cao sẽ gây ra tiếng động.

Tiếng bước chân của người nọ mỗi lúc một gần, lờ mờ có thể nhìn thấy hoa văn giao long xuất hải trên chiếc ủng xanh lam, khi chỉ còn cách mấy lùm mai nữa là đến chỗ tôi thì tiếng bước chân dừng hẳn. Giọng của người đó lại vang lên, có phần nghiêm khắc: “Còn không lên tiếng, ta sẽ cho người xới tung cả Ỷ Mai viên này lên!”

Tôi đứng yên không dám động đậy, hai tay siết chặt, chỉ cảm thấy toàn thân lạnh buốt, cứng đờ, qua bóng hoa nhìn thấy một vạt áo màu xám bạc cách tôi không xa, bên trên thêu chi chít hình rồng uốn lượn, lòng tôi càng thêm khiếp hãi, bất giác quay đầu nhìn thấy có bóng cung nữ mặc y phục màu xanh thấp thoáng ở cửa sau vườn, nhanh trí đáp: “Nô tỳ là cung nữ của Ỷ Mai viên, ra ngoài cầu phúc, vô tình quấy nhiễu tôn giá, xin được thứ tội!”

Người nọ lại hỏi: “Ngươi có đọc sách à? Tên gọi là gì?”

Lòng tôi bất giác cảm thấy hoảng hốt, cố định thần lại, đáp: “Tên gọi của nô tỳ đê tiện, sợ làm bẩn tai tôn giá!”

Nghe người nọ lại bước tới gần mấy bước, tôi vội vã gọi với: “Ngài đừng qua đây… Giày vớ của nô tỳ bị ướt hết rồi, đang phải thay.”

Người nọ quả nhiên dừng bước, thật lâu sau không nghe thấy nói gì, đợi thêm lát nữa, nghe tiếng bước chân của ông ta chầm chậm bước sang hướng khác, rồi chẳng còn động tĩnh gì nữa. Lúc này tôi mới trấn tĩnh lại, trái tim đập thình thịch như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, hoảng hốt cứ như đằng sau có người đuổi sát theo, tôi giẫm lên lối mòn đầy băng vụn, băng qua vĩnh hạng dài dằng dặc, chạy thẳng về Đường Lê cung.

Đám Cận Tịch, Hoán Bích thấy tôi hớt hơ hớt hải chạy vào, nhanh đến mức trâm thoa rời rạc, tóc mai rối bời, ai nấy đều kinh hãi đưa mắt nhìn nhau rồi rối rít hỏi thăm: “Tiểu chủ có chuyện gì vậy?”

Hoán Bích nhanh nhẹn rót trà dâng lên, tôi uống cạn một hơi rồi mới có sức trả lời: “Có hai con mèo nấp sau đống tuyết nằm bên vĩnh hạng, cũng không biết là của ai nữa, đột nhiên lao thẳng vào người ta, đúng là sợ phát khiếp.”

Lưu Chu tủm tỉm cười, trêu: “Tiểu thư từ nhỏ đã sợ mèo, một lúc gặp hai con, hẳn là bị kinh sợ một phen rồi!” Nàng ta lại cao giọng gọi: “Bội Nhi, nấu một bát canh gừng thật đặc bưng lên đây, để Quý nhân chống lạnh.” Bội Nhi vâng dạ làm ngay.

Cận Tịch an ủi tôi: “Nữ nhân trong cung trước giờ thích nuôi mèo, đám mèo ấy cũng ngang tàng lắm, tiểu chủ thân thể tôn quý, phải cẩn thận mới được!” Lại hỏi: “Tiểu chủ đã cầu nguyện xong chưa?”

Tôi gật đầu, kể: “Nguyện đến ba điều liền, chẳng biết thần phật có trách ta quá tham lam hay không nữa!”

Cận Tịch đoan chính hành đại lễ với tôi, cười tươi rói, chúc mừng: “Chúc mừng tiểu chủ! Thường nghe nói “mèo đem vận may”, tiểu chủ cầu nguyện xong liền gặp ngay hai con mèo chẳng phải đó là điềm lành cho thấy ước nguyện của người nhất định sẽ thành sự thật đó sao?”

Tôi tủm tỉm cười. “Cái gì không tốt đến miệng các ngươi đều thành cực tốt! Nếu những ước nguyện của ta thực sự có thể trở thành sự thực thì ta bị đám mèo làm hoảng sợ coi như cũng đáng!” Nói xong, tôi gọi Tinh Thanh bưng chậu nước tới, giúp tôi quấn lại tóc, thay y phục rồi ngồi xuống đánh mã điếu.

Khi bình tĩnh trở lại, trong lòng tôi không khỏi cảm thấy hoài nghi. Hôm nay hậu cung tổ chức dạ yến, tuyệt không mời ngoại thần thân thích. Ngoài Hoàng thượng ra thì chẳng còn người đàn ông nào khác có thể ra vào hậu cung. Trong đầu tôi chợt hiện ra hình ảnh đôi ủng xanh lam có thêu hoa văn giao long xuất hải… cùng vạt áo xám bạc thêu chìm hình rồng uốn lượn. Tôi sợ đến toát mồ hôi, hoa văn chìm hình rồng uốn lượn là loại hoa văn dành riêng cho bậc bề trên, những thân vương bình thường cũng không được tự tiện dùng, chẳng lẽ người trong Ỷ Mai viên là… Cũng may tôi đã nhanh chóng thoát thân, nếu không bao công sức náu mình kể từ khi vào cung đến giờ coi như đổ sông đổ bể. Cận Tịch và Tiểu Doãn Tử giỏi đoán ý qua lời nói và sắc mặt, thấy tôi có vẻ uể oải bèn cố ý thua liền vài ba ván cho tôi vui lòng. Tôi lấy cớ không được khỏe nên trở về phòng trước. Cận Tịch đi theo giúp tôi tháo đồ trang sức.

Tôi vờ thản nhiên hỏi chuyện nàng ta: “Đêm nay hậu cung tổ chức dạ yến, Hoàng thượng, Hoàng hậu có mời ai khác đến dự không?”

Cận Tịch thưa: “Theo lệ trước giờ thì mấy vị vương gia cũng đến dự.”

Tôi khẽ “à” một tiếng.

Mấy vị vương gia mà Cận Tịch nhắc đến là đại hoàng tử Kỳ Sơn vương Huyền Tuân, tam hoàng tử Nhữ Nam vương Huyền Tể, lục hoàng tử Thanh Hà vương Huyền Thanh và cửu hoàng tử Bình Dương vương Huyền Phần của tiên hoàng. Tiên hoàng có tổng cộng bảy trai, hai gái. Ngũ hoàng tử, thất hoàng tử và bát hoàng tử mất sớm.

Hoàng đế Huyền Lăng đứng thứ tư, cùng với nhị hoàng nữ Chân Ninh trưởng công chúa đều là con ruột của đương kim Thái hậu.

Kỳ Sơn vương Huyền Tuân, mẹ đẻ là Nghi Phi, giờ là Khâm Nhân Thái phi. Người này tuy là con trưởng nhưng tính tình yếu hèn, tầm thường, không chí tiến thủ, chỉ muốn an phận làm thân vương để tận hưởng vinh hoa phú quý.

Tương Thành vương Huyền Tể là con của Ngọc Ách phu nhân. Ngọc Ách phu nhân là em gái út của Bắc Lăng hầu. Năm Long Khánh thứ mười, Bắc Lăng hầu mưu phản, Ngọc Ách phu nhân bị liên lụy, không được sủng ái, uất ức mà chết. Huyền Tể trời sinh thần lực hơn người, anh dũng thiện chiến nhưng tính tình quá ngay thẳng, không hợp ý tiên hoàng, đến khi tiên hoàng qua đời mới được phong làm Tương Thành vương, hiện giờ nam chinh bắc chiến lập không ít quân công, rất được Huyền Lăng tin cậy.

Thanh Hà vương Huyền Thanh thông minh trí tuệ, lại nhờ vào mẫu phi là Thư Quý phi, từ nhỏ rất được Hoàng đế thương yêu, mấy lần có ý muốn lập làm thái tử. Chỉ có điều xuất thân của Thư Quý phi có nhiều điểm bị người đời chê trách, quần thần đồng loạt phản đối nên tiên hoàng đành phải thay đổi ý định. Sau khi tiên hoàng băng hà, Thư Quý phi tự xin xuất gia, Huyền Thanh liền được Lâm Phi trước giờ vẫn rất thân thiết với Thư Quý phi nuôi dạy khôn lớn. Lâm Phi chính là đương kim Thái hậu nên Huyền Thanh và Huyền Lăng thân thiết chẳng kém anh em ruột. Huyền Thanh tính tình lông bông, tinh thông lục nghệ nhưng đặc biệt không ưa việc triều chính, cả ngày lấy thi thư làm bạn, âm nhạc làm bè, tài thổi sáo nổi danh khắp kinh thành, được mọi người xưng tụng là “tự tại vương gia”.

Bình Dương vương Huyền Phần là con út của tiên hoàng, giờ mới tròn mười ba tuổi. Mẹ ruột là Ân Tần xuất thân hèn mọn, từng là một cung nữ chuyên may vá trong Tú viện, sau khi tiên hoàng qua đời, dù được tấn phong làm Thuận Trần Thái phi, nhưng Bình Dương vương từ nhỏ đã được mẹ của ngũ hoàng tử là Trang Hòa Thái phi nuôi dưỡng, chăm sóc.

Tôi lẳng lặng nghe Cẩn Tịch kể, trong lòng vẫn cảm thấy bất an, hình như quên mất một chuyện gì đó quan trọng mà không sao nhớ ra được, đành nhắm mắt ngủ. Mọi người cũng dần lui ra. Mơ màng ngủ đến nửa đêm, tôi đột nhiên giật bắn mình, ngồi bật dậy, hành động quá đột ngột khiến màn gấm tung bay, tôi đã nghĩ ra chuyện khiến mình cảm thấy không yên lòng rồi: bức tranh cắt giấy!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 31-3-2016 11:07:27 | Xem tất

RE: [Cổ Đại - Xuất Bản] Hậu Cung Chân Hoàn Truyện | Lưu Liễm Tử (Tập 1-Chương 7)

Tập 1-Chương 7
Diệu Âm nương tử


Tôi giật mình tỉnh khỏi giấc mộng, trong lòng thấp thỏm không yên, cũng không để ý đến chuyện đêm khuya, lập tức sai Tinh Thanh ra Ỷ Mai viên xem bức tranh cắt giấy treo trên nhành mai còn ở đó không. Tinh Thanh thấy tôi sốt ruột, cũng chẳng dám hỏi lý do, lập tức khoác áo ấm, đi ra ngoài. Nhưng nàng ta vừa rời đi thì cả cung đều kinh động, tôi phải giải thích là vì mơ thấy ác mộng nên giật mình.

Hồi lâu sau, mà dường như tôi đã phải chờ đợi suốt cả đêm ròng, cuối cùng Tinh Thanh cũng quay về, báo cho tôi biết bức tranh cắt giấy của tôi đã không cánh mà bay, e là bị gió thổi mất rồi. Lòng tôi như bị giội một gáo nước lạnh, ngẩn ngơ hồi lâu. Đám Cận Tịch nghĩ tôi vì mất bức tranh cắt giấy ấy nên cảm thấy may mắn tuột khỏi tay, sinh ra buồn bực, không yên. Bọn họ liền an ủi hồi lâu, kể chuyện vui cho tôi giải sầu. Tôi cố lấy lại tinh thần, tự an ủi bản thân vài ba câu, có thể nó đã bị gió thổi bay mất thật, hoặc có cung nữ nào đó thấy bức hình tinh xảo nên đã lấy xuống chơi không biết chừng… Tuy nói như vậy nhưng trong lòng tôi vẫn cảm thấy có chút bất an. Cũng may là tháng ngày vẫn trôi qua bình yên như mặt hồ không gợn sóng, chẳng thấy có sự cố gì ảnh hưởng đến Đường Lê cung của tôi. Tôi tiếp tục nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng trong cung, ngày mùng Một cả hậu cung tụ họp, tôi cũng được miễn không phải tham dự.


Một ngày nọ, sau khi dùng xong bữa trưa, tôi đang nằm nghỉ trong phòng sưởi thì My Trang vén rèm bước vào, cười nói: “Có chuyện kỳ lạ phải kể cho muội nghe chơi mới được!”

Tôi lười chẳng buồn ngồi dậy, chỉ mỉm cười hỏi tỷ ấy: “Trong cung lại có chuyện gì mới nữa đây?”

My Trang cười nhạt, kể: “Chẳng hiểu tại sao Hoàng thượng lại coi trọng một cung nữ trồng hoa họ Dư ở Ỷ Mai viên, vừa mới phong cho ả chức Canh y. Tuy là chức vị thấp nhất, chỉ là tòng bát phẩm nhưng so với thuở còn là cung nữ thì cũng đường hoàng là tiểu chủ rồi.”

Tôi xoay xoay lồng ấp trong lòng, nói: “Triều đại nào chẳng có chuyện Hoàng đế chấm trúng cung nữ nào đó rồi phong làm phi tần, Thuận Trần Thái phi chẳng phải…” My Trang lườm tôi một cái, tôi cười trêu tỷ ấy: “Xem bộ dạng cẩn trọng của tỷ kìa. Hiện giờ chỗ muội là nơi có thể nói chuyện thoải mái đấy!”

My Trang cúi đầu, vuốt ve hoa văn thêu trên váy, chậm rãi kể tiếp: “Bây giờ Hoàng thượng rất sủng ái nàng ta.”

“Nàng ta đẹp lắm sao?”

“Cũng thường thường thôi. Nhưng nghe nói nàng ta có giọng hát rất du dương.”

Tôi mỉm cười không nói, chiếc móng tay giả bằng bạc đính hạt trai nhỏ bằng hạt gạo đeo trên ngón tay út gõ leng keng lên lồng ấp, hồi lâu sau mới lên tiếng khuyên: “Chẳng qua Hoàng thượng tham luyến người mới thôi! Suy cho cùng, dẫu sủng ái nàng ta đến đâu thì theo quy định của tổ tiên, cung nữ để được thăng chức thành phi tần thì chỉ có thể tấn phong từng cấp, nhất thời không thể vượt qua tỷ được.”

My Trang cười chua chát. “Chuyện đó tỷ biết chứ! Chỉ là… trong lòng Lăng Dung bứt rứt không yên.”

Tôi lấy làm lạ. “Lăng Dung vẫn chưa được sủng ái hay sao?”

My Trang khẽ gật đầu, nói: “Vào cung lâu như vậy rồi mà Hoàng thượng vẫn chưa triệu muội ấy thị tẩm.” Nói xong, tỷ ấy khẽ thở dài. “Người khác được sủng ái thì cũng đành, đằng này lại là một cung nữ có thân phận ti tiện còn hơn muội ấy, trong lòng muội ấy đương nhiên không dễ chịu rồi.”

Tôi nhớ lại cảnh Lăng Dung đứng suốt đêm dưới gió sương trong đêm trước khi vào cung, tình ý của nàng ta đối với đại ca tôi… Chẳng lẽ nàng ta cũng giống tôi, cố ý tránh không nhận sủng ái của Hoàng thượng? Tôi chần chừ hỏi lại: “Chẳng lẽ bản thân Lăng Dung không muốn được thị tẩm?”

My Trang nghi hoặc hỏi lại: “Sao lại thế được? Tuy ngoài mặt muội ấy lộ vẻ thờ ơ nhưng đương nhiên vẫn khao khát được Hoàng thượng sủng ái chứ! Nếu không, với gia thế của mình, làm sao muội ấy có thể đứng vững trong cung?”

Tôi chần chừ giây lát rồi nói: “Tỷ nghĩ muội ấy có ý trung nhân không?”

My Trang bị câu hỏi của tôi làm cho giật mình, mặt đỏ ửng. “Không được ăn nói bậy bạ! Chúng ta đều là cung tần của thiên tử, thân và tâm đều thuộc về Hoàng thượng, sao có thể có ý trung nhân cơ chứ?”

Tôi nghe My Trang nói vậy, bất giác cũng đỏ mặt hổ thẹn, ấp úng bào chữa: “Muội cũng chỉ thuận miệng hỏi chơi một câu vậy thôi, tỷ làm gì mà căng thẳng quá thế?”

My Trang ngẫm nghĩ hồi lâu rồi lắc đầu, đáp: “Tỷ thực sự không biết nàng ta có ý trung nhân hay không. Ngày thường tuy hay gặp gỡ nhưng nàng ta không thân với tỷ bằng muội, quả thực không thấy có dấu hiệu gì đáng ngờ. Nhưng xem bộ dạng của nàng ta thì chắc hẳn nàng ta không có ý trung nhân đâu!” Sau đó tỷ ấy nói sang chuyện khác, tán gẫu vài ba câu rồi ra về.

Tiễn My Trang rời đi xong, thấy Bội Nhi bưng than vào thay, tôi giả vờ thuận miệng hỏi: “Nghe nói một cung nữ ở Ỷ Mai viên được phong làm Canh y phải không?”

Bội Nhi thưa: “Đúng vậy ạ! Ai cũng nói nàng ta gặp vận may, nghe nói đêm Giao thừa, nàng ta chỉ nói với Hoàng thượng đúng hai câu. Sáng sớm mùng Hai, Lý công công hầu cận bên cạnh Hoàng thượng đã sang đó tìm người, nàng ta đáp vài ba câu rồi được dẫn đi. Ai ngờ đi rồi không quay trở lại, lúc ấy mọi người mới biết Hoàng thượng ban ân, phong nàng ta làm Canh y.”

Tôi tủm tỉm cười, quả nhiên là cung nữ đó. Đúng là lanh lợi quá đi thôi! Nhưng cũng coi như giúp tôi tránh được một kiếp nạn. Xem ra trong cung trước giờ không bao giờ thiếu cá chép muốn vượt long môn hóa rồng. Trong lúc nói chuyện, Cận Tịch bước vào phòng, quỳ ghé xuống trước sạp bóp chân cho tôi, thấy Bội Nhi đổi xong than lui ra ngoài, trong buồng sưởi chỉ còn mình tôi và nàng ta, nàng ta mới khẽ cất giọng: “Đêm hôm ấy, tiểu chủ cũng ghé qua Ỷ Mai viên, không biết có gặp ai không?”

Tôi thò tay lấy một viên mứt hoa quả bỏ vào miệng, đáp: “Gặp hay không thì có gì quan trọng đâu cơ chứ?”

Cận Tịch ngẫm nghĩ một lát rồi mỉm cười, thưa: “Nô tỳ chỉ nghĩ bậy bạ mà thôi! Nhưng trong chốn cung cấm, chuyện vàng thau lẫn lộn, củi trộn với trầm cũng nhiều vô kể, nô tỳ sợ làm lợi cho kẻ khác.”

Tôi nhổ hạt của viên mứt vào ống nhổ đặt kế bên rồi trả lời: “Có đôi lúc, làm lợi cho kẻ khác cũng là làm lợi cho chính mình.”

Thêm một tháng nữa trôi qua, Lăng Dung vẫn chưa được Hoàng thượng sủng ái, còn Dư Canh y thông minh, lanh lợi, giỏi tài ca hát, sự sủng ái của Hoàng thượng dành cho nàng ta chẳng hề giảm xuống. Trong một tháng ngắn ngủi, nàng ta liên tục thăng lên hai cấp thành thái nữ, tuyển thị, sau đó lại được phong làm chính thất phẩm Diệu Âm nương tử, ban cho ở tại Hồng Nghê các. Nhất thời tiếng tăm nổi trội, đến Hoa Phi cũng đích thân ban thưởng lễ vật cho nàng ta. Dư Nương tử cũng rất giỏi tài nịnh nọt Hoa Phi, hai người vô cùng thân mật. Dư thị từ đó dần trở nên kênh kiệu, đến My Trang, Lưu Lương viện, Điềm Quý nhân, thị cũng chẳng để vào mắt, mở miệng ra là gây sự. My Trang dẫu giỏi kiềm chế đến đâu cũng không tránh khỏi có chút tức tối.

Tuy đã sang tháng Hai nhưng tiết trời vẫn chưa ấm lên, hai ngày gần đây trời mỗi lúc một lạnh. Trên bầu trời, mây đen rủ thấp, bầu trời u ám, xem tình hình này, rất có khả năng sẽ có thêm một trận tuyết lớn nữa. Quả nhiên đến tối, hoa tuyết vừa to vừa dày, một trận tuyết lớn đổ xuống đúng một ngày một đêm. Đến đêm hôm sau, bông tuyết dần nhỏ lại, Tiểu Doãn Tử và Tiểu Liên Tử quét dọn tuyết đọng ngoài vườn, lúc vào nhà thì toàn thân ướt nhẹp, lạnh cóng, run lẩy bẩy, miệng lầm bầm mắng chửi “thời tiết quỷ quái” rồi vội vàng lui xuống thay quần áo.

Tôi buông tấm khăn tay đang thêu dở xuống, lên tiếng: “Năm nay thời tiết xấu quá, ngày mùng Hai tháng Hai rồng ngẩng đầu rồi mà tuyết vẫn rơi. Sợ rằng đám hoa cỏ ngoài kia sẽ chết vì lạnh mất thôi!”

Lưu Chu mỉm cười, nói: “Tiểu thư đúng là thương hoa tiếc ngọc! Hồi cuối thu, đám tiểu nội giám đã quấn rơm rạ kĩ càng xung quanh rồi, có lạnh nữa cũng chẳng sao!” Tôi an tâm mỉm cười rồi cúi đầu, tiếp tục thêu mẫu chim hoàng oanh trên khăn tay.

Loáng thoáng nghe ngoài xa có tiếng xe lộc cộc, tôi không khỏi lấy làm lạ. Đường Lê cung khuất nơi hẻo lánh, trước giờ rất hiếm khi có xe ngựa qua lại, tại sao đã khuya như vậy mà vẫn còn tiếng xe? Ngẩng lên, tôi thấy Cận Tịch cung kính đứng hầu bên cạnh, nàng ta hạ giọng thưa: “Bẩm tiểu chủ, đó là tiếng xe Phượng Loan Xuân Ân.”

Tôi lẳng lặng không nói gì thêm, xe Phượng Loan Xuân Ân là xe dành riêng cho tần phi phụng chiếu thị tẩm đến tẩm cung của Hoàng đế.

Tập trung lắng nghe một hồi, tiếng xe càng lúc càng gần, trong đêm tuyết tĩnh mịch có thể nghe thấy tiếng leng keng vui tai của châu ngọc đính trên xe. Loáng thoáng còn có tiếng nữ nhi ca hát, giọng hát uyển chuyển, vang dội, đó là lời của một bài ca chúc tụng vừa được đặt ra trong cung: “Lò nóng đàn hương than lách tách, trân châu rèm quý tuyết tung bay. Sáu cung dâng rượu, vua Nghiêu thọ, phượng múa rồng bay chật ngự y.” Tôi lắng tai nghe hồi lâu rồi cất tiếng khen: “Hát hay thật, chẳng trách Hoàng thượng ban cho nàng ta phong hiệu Diệu Âm.”

Tiểu Doãn Tử cúi đầu, lí nhí nói: “Nửa đêm nửa hôm cao giọng hát hò ngoài vĩnh hạng thì thật chẳng hợp với quy củ trong cung!”

Tôi chẳng thèm ngẩng đầu, chỉ ngắm nghía, lựa chọn mấy mẫu hoa để thêu, thản nhiên đáp: “Như thế mới thể hiện được sự sủng ái của Hoàng thượng dành cho nàng ta chứ!” Sau đó chẳng ai lên tiếng nữa, trong phòng hoàn toàn tĩnh lặng, thỉnh thoảng lại nghe thấy tiếng than nổ lách tách. Bên ngoài cửa sổ, tiếng gió bấcgào rít tái tê, át tiếng cười nói, ca hát đang dần lùi xa. Giọng cười của nàng ta nghe thật kiêu ngạo, vang dội trong đêm tuyết tịch mịch len lỏi qua vĩnh hạng và vô số cung điện trải dài vô tận trong hậu cung…

Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy tiếng xe Phượng Loan Xuân Ân, âm thanh đó cũng êm tai lắm. Tôi không biết tiếng xe đi suốt dọc đường sẽ thu hút được bao nhiêu lỗ tai và ánh mắt của các nữ nhân trong cung cấm. Cỗ xe tưởng như nhỏ bé ấy đè nặng bao nhiêu chờ mong, thất vọng, nước mắt và tiếng cười của bao thiếu nữ. Vào rất nhiều buổi chiều trong cung cấm, họ lặng lẽ đứng trong vườn, chờ đợi đến khi trăng lên cao tận đỉnh đầu, chỉ mong đợi được đến lúc cỗ xe Phượng Loan Xuân Ân dừng trước cửa cung, đưa mình đến tẩm cung của Hoàng đế.

Còn nhớ thuở nhỏ, tôi thường theo đại ca ngồi đọc bài Phú cung A Phòng của Đỗ Mục dưới cửa sổ chái tây, có mấy câu giờ nhớ lại mà sởn gai ốc: “Đám khói tà tà, sấm động kinh hồn. Tiếng xe chạy qua, nào biết đi đâu. Ầm ầm ở xa, mong được vua nhìn. Da thịt dung mạo, làm đỏm làm duyên. Đứng chờ xa xa, mong được vua nhìn. Có kẻ trông ngóng, ba mươi sáu năm liền!” Ba mươi sáu năm, chỉ e đó là cả cuộc đời của bao nhiêu người con gái! Làm đỏm làm duyên, nữ nhân trong cung ai chẳng đẹp như tiên trên trời, chỉ có điều sắc đẹp là thứ không bao giờ thiếu trong hậu cung này. Mỗi ngày đều có nhan sắc khác mới lạ hơn xuất hiện, mỹ nhân cũ già đi, mỹ nhân mới lại đến, thân thể trẻ trung hơn, vầng trán trơn bóng, đôi môi đỏ hồng, ánh mắt long lanh, vòng eo mảnh khảnh… Việc bọn họ làm nhiều nhất, quen thuộc nhất chẳng qua là “đứng chờ xa xa, mong được vua nhìn” mà thôi. Ở chốn hậu cung này, nữ nhân không được Hoàng đế sủng hạnh chẳng khác gì hình nhân giấy không có sinh mệnh, ngay cả gió thu ngẫu nhiên lướt qua cũng có thể quật ngã. Nhưng người được Hoàng đế sủng ái thì có thể cao gối ngủ ngon được chăng? Chỉ e ngày tháng của bọn họ còn đáng lo âu hơn những nữ nhân vô sủng kia, “lấy sắc giữ chân người, tốt đẹp được bao lâu”? Bọn họ càng sợ hãi cảnh bị thất sủng, càng sợ hãi cảnh già đi, càng sợ hãi có nữ nhân khác đẹp hơn, mỹ lệ hơn xuất hiện. Nếu không có tình yêu, sủng hạnh của đế vương cũng chẳng bền hơn giấy mỏng là bao. Nhưng tình yêu của bậc đế vương là thứ hiếm hoi nhất, thiếu thốn nhất trong hậu cung rộng lớn. Nữ nhân trong cung sẵn sàng vì địa vị, vinh hoa, ân sủng đi lấy lòng Hoàng đế nhưng vì tình yêu thì… có ai nghe nói đến hay chưa…

Tôi chỉ cảm thấy đầu óc nhức nhối, khó chịu, bèn buông kim thêu xuống, nói với Hoán Bích: “Mùi than này khó ngửi quá, khiến ta nhức cả đầu, ngươi đi lấy trầm thủy hương lại đây!”

Hoán Bích chần chừ một lát rồi thưa: “Tiểu thư, phần hương tháng này vẫn chưa được lấy về, đã trễ mấy ngày rồi, để nô tỳ sai người đi hỏi thử xem sao!”

Tôi lập tức biết được lý do, nhất định người ở Nội vụ phủ khinh tôi vô sủng nên đã cắt xén phần của tôi. “Mấy ngày nay tuyết lớn, có thể người trong Nội vụ phủ lười biếng nên chậm trễ vài ba ngày thôi. Không sao, giờ có sẵn thứ hương nào thì cứ lấy ra đốt trước đã!”

Hoán Bích vâng dạ rồi vội vàng chạy ra lấy hương, vừa đến cửa đã “ôi chao” một tiếng kinh ngạc. “Thuần Thường tại, sao người lại đứng ở đầu gió một mình thế này, không sợ cảm lạnh sao? Xin mời vào!”

Tôi nghe thế thì lấy làm lạ, vội đứng dậy ra ngoài đón. Quả nhiên Thuần Thường tại đang đứng trước cửa cung, chóp mũi đỏ ửng vì lạnh, hai gò má tái nhợt, ngẩn ngơ không nói được tiếng nào. Tôi vội vã hỏi han: “Thuần Nhi, sao chỉ có mình muội đứng đây?”

Thuần Thường tại nghe tôi hỏi mới chầm chậm quay đầu lại, đôi mắt từ từ đảo một vòng, sắc mặt chợt biến đổi rồi òa lên khóc thành tiếng: “Hoàn tỷ ơi, muội sợ lắm!”

Tôi thấy tình hình không ổn, vội kéo nàng ta vào buồng sưởi, rồi bảo Tinh Thanh lấy lồng ấp đặt vào lòng nàng ta để sưởi ấm cơ thể, gọi Phẩm Nhi đem canh sữa nóng hổi đến hầu nàng ta uống cạn rồi mới từ từ hỏi thăm ngọn ngành.

Thì ra sau khi dùng cơm tối, tuyết rơi nhỏ lại, Sử Mỹ nhân đến chỗ Thuần Thường tại dùng cơm tối xong đang định hồi cung, Thuần Thường tại bèn tiễn nàng ta đi một quãng. Trời tối đường trơn, thắp đèn lồng dẫn lối, ai ngờ đèn lồng giấy trong tay cung nữ của Sử Mỹ nhân đột nhiên bị gió thổi cháy bùng lên, đúng lúc Diệu Âm nương tử ngồi trên xe Phượng Loan Xuân Ân đi qua, ngựa kéo xe thấy lửa thì hoảng sợ, dù ngự mã đã được huấn luyện kĩ càng, xa phu cũng phát hiện ra từ sớm nhưng vẫn khiến Diệu Âm nương tử ngồi trong xe bị chấn động một phen. Vốn chẳng phải chuyện gì to tát nhưng Diệu âm nương tử khăng khăng không chịu bỏ qua, Sử Mỹ nhân ỷ mình vào cung sớm hơn, địa vị còn cao hơn Diệu Âm nương tử, thêm vào đó, gần đây Diệu Âm được sủng ái, trong lòng Sử Mỹ nhân đã không vui, giọng điệu chẳng mấy dịu dàng. Diệu Âm nương tử trong lúc tức giận liền sai Dịch Đình lệnh bắt Sử Mỹ nhân giam vào Bạo thất. Tôi nghe kể mà bất giác rùng mình. Bạo thất là nơi giam giữ, hành hạ các phi tần bị phế truất hay cung nga phạm lỗi. Sử Mỹ nhân chưa bị phế truất, lại không phải là cung nữ, sao có thể bị giam vào Bạo thất được?

Tôi hấp tấp hỏi lại: “Đã đi thỉnh ý chỉ của Hoàng thượng hay Hoàng hậu chưa? Chẳng lẽ Hoàng thượng và Hoàng hậu không ai nói gì sao?”

Thuần Thường tại ngơ ngác lắc lắc đầu, giơ tay lau lệ, đáp: “Nàng ta… Diệu Âm nương tử nói chuyện nhỏ không cần làm phiền đến Hoàng thượng và Hoàng hậu, nếu kinh động đến Hoàng thượng, Hoàng hậu thì sẽ lôi Dịch Đình lệnh ra trị tội.”

Tôi càng cảm thấy bất ngờ hơn, Diệu Âm nương tử không có lệnh của đế hậu, tự hạ lệnh bắt cung tần giam vào Bạo thất, ngang ngược như thế là cùng!

Khóe môi tôi từ từ cong lên thành nét cười nhưng sau đó lại lập tức khôi phục lại vẻ thản nhiên, trầm tĩnh như thường. Hành động ỷ được sủng ái mà kiêu ngạo, nói năng không cẩn thận như vậy, chỉ e khí số đã đến lúc tận rồi.

Tôi an ủi Thuần Thường tại hồi lâu rồi lệnh cho Tiểu Liên Tử và Phẩm Nhi tiễn nàng ta về cung. Thật cũng tội cho nàng ta, còn nhỏ như vậy đã phải vào thâm cung đối diện với nỗi khiếp sợ thế này.

Sáng sớm hôm sau, My Trang và Lăng Dung vội vã sang chỗ của tôi. Tôi đang dùng bữa sáng, thấy bọn họ đến liền cười, mời mọc: “Lỗ mũi thính thật đấy! Hai người biết Cận Tịch vừa nấu xong món cháo bột tủy bò nên sáng sớm tinh mơ đã chạy đến đây sao?”

My Trang lên tiếng trách móc: “Cả hoàng cung này chắc chỉ còn mỗi muội là thoải mái, vui vẻ được thôi. Bên ngoài đang náo loạn ầm ầm kia kìa!”

Tôi húp một ngụm cháo rồi cười tủm tỉm, hỏi lại: “Thế nào? Đến tỷ cũng có lúc không kiềm chế được nữa sao?”

Lăng Dung hỏi: “Đêm qua tỷ có nghe thấy tiếng ca không?”

Tôi tủm tỉm cười. “Đương nhiên có. Diệu Âm nương tử quả là danh bất hư truyền, giọng hát thực sự làm lay động lòng người.”

My Trang lẳng lặng không nói, hồi lâu sau mới thốt lên: “Ỷ sủng mà kiêu, nửa đêm hát lớn! Ả ta còn dám tự tiện hạ lệnh tống Sử Mỹ nhân từng ở cùng cung với muội vào Bạo thất nữa!”

Tôi cười nhạt. “Đó là chuyện tốt ấy chứ!”

“Chuyện tốt ư?” My Trang hơi cau mày, mặt Lăng Dung lộ vẻ nghi hoặc, chẳng hiểu gì.

“Ả ta bất ngờ được sủng ái đã khiến mọi người trong hậu cung bất mãn rồi, lại không biết giữ ý tứ, ỷ sủng mà kiêu, chẳng phải tự tìm đường chết hay sao? Tự tìm đường chết dù sao cũng tốt hơn là đợi đến ngày ả ta chèn ép, buộc tỷ phải đích thân ra tay, có phải không?” Tôi tiếp tục giải thích: “Ả không biết cẩn thận giữ gìn, tư chất như thế có thể coi là ngu xuẩn, loại người như thế sẽ không thể uy hiếp được địa vị của tỷ. Đại khái là tỷ có thể kê cao gối ngủ ngon rồi.” Tôi nhấc chung trà lên. “Chuyện vui như vậy có đáng để tỷ uống trọn chung trà này hay không?”

My Trang vẫn còn lo âu. “Tuy nói như vậy nhưng Hoàng thượng vẫn chưa lên tiếng trừng trị ả ta cơ mà! Huống gì ả còn thân thiết với Hoa Phi nữa.”

Tôi thản nhiên đáp: “Đó là chuyện sớm muộn mà thôi! Chuyện ngày hôm qua đã ảnh hưởng đến thể diện của đế hậu, làm rối loạn trật tự tôn ti trong hậu cung, dù Hoa Phi có muốn bảo vệ ả cũng không được. Huống chi Hoa Phi thông minh như vậy, sao chịu nhúng tay vào vũng nước đục này làm gì?”

Lăng Dung tiếp lời: “Chỉ e ả ta được sủng ái như vậy, Hoa Phi ngoài mặt tuy vẫn vui vẻ nhưng trong lòng cũng cảm thấy khó chịu khôn nguôi, sao có thể chịu ra tay giúp đỡ ả ta cơ chứ?” Nói xong, nàng ta bèn nhấc chén lên, cười nói: “Lăng Dung lấy trà thay rượu, uống cạn chén này trước vậy!”

Mặt My Trang dãn ra, cười nói: “Vậy thì tỷ cũng không từ chối thịnh tình của các muội!”

Quả nhiên, đến trưa, Hoàng đế hạ chỉ, thả Sử thị ra khỏi Bạo thất, đồng thời ban thưởng để an ủi. Ngoài ra, còn trách mắng Dư thị, buộc ả phải đóng cửa suy nghĩ lỗi lầm một tuần, tước bỏ phong hiệu Diệu Âm. Tuy ả ta vẫn còn là chính thất phẩm nương tử nhưng mất đi phong hiệu thì địa vị cũng chẳng được coi trọng như xưa nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 31-3-2016 13:51:37 | Xem tất

RE: [Cổ Đại - Xuất Bản] Hậu Cung Chân Hoàn Truyện | Lưu Liễm Tử (Tập 1-Chương 8)

Tập 1-Chương 8
Gặp gỡ mùa xuân


Thời tiết dần ấm lên, trước giờ tôi thấy mọi chuyện vẫn an bình, yên ổn nên đã giảm số lần uống thuốc và số lượng thuốc xuống, cơ thể cũng thoải mái đôi chút. Hoán Bích nói riêng với tôi: “Tiểu thư thường dùng thuốc rồi nằm lì trong phòng, sắc mặt nhợt nhạt lắm, nên chịu khó đi dạo dưới ánh nắng mặt trời để khí sắc được tốt hơn!”

Mùa xuân là thời gian đẹp nhất ở Thượng Lâm uyển, hoa lê và hải đường ở Đường Lê cung chỉ mới mọc lá, chưa có nụ nào nhú lên, thế mà hoa ngoài Thượng Lâm uyển đã rộ hương. Các loại hoa quý ngào ngạt tỏa hương trong gió, cây cối tươi tốt, nước xanh như ngọc, sóng gợn lăn tăn, cảnh tượng đặc sắc, u nhã như trong tranh vẽ, đắm say lòng người. Trong cung rất thích trồng các loại cây hoa phú quý như ngọc lan, hải đường, mẫu đơn, hoa quế, trúc xanh, ba tiêu, hoa mai, lan bát phẩm… còn có câu “ngọc đường phú quý, trúc báo bình an”, được xưng tụng là “tám loại cây quý của Thượng Lâm”, tượng trưng cho điềm lành trong cung đình. Đường Lê cung nằm ở góc tây nam Thượng Lâm uyển, vốn là một nơi ít kẻ qua lại, khu vực phụ cận cũng rất hiếm khi có người ghé qua. Do đó, tôi chỉ đi dạo xung quanh Đường Lê cung, chẳng bị ai đến làm phiền hay hạch hỏi.

Ra khỏi Đường Lê cung không xa là hồ Thái Dịch. Dọc theo hồ Thái Dịch trồng đầy thùy dương, cành nhánh nào cũng khoe lá mới, tựa như lông mày vừa kẻ, ngàn sợi, vạn sợi tơ màu xanh ngọc đong đưa trong gió. Đứng ở ven hồ, đến một luồng gió nhẹ thổi qua cũng mang theo hơi nước trong trẻo, ngọt ngào khiến người ngắm cảnh cảm thấy vui tươi, thanh thản. Hồ Thái Dịch rộng hơn trăm mẫu, sóng biếc lăn tăn, từ xa nhìn lại, nước hồ cùng trời cao một sắc, trong hồ có điểm xuyết vài hòn đảo nhỏ, đặc biệt nhất là hai đảo Bồng Lai và Vân Mộng. Trên đảo, đình đài, lầu các san sát, tựa như bè nổi của tiên nhân. Đi vào sâu bên trong một chút là những cây cổ thụ cao chọc trời, thân to đến mấy người ôm không xuể. Số cây cối đó đều được trồng từ khi lập quốc đến giờ, tổng cộng cũng đã mấy trăm năm, chưa từng bị chặt bỏ cành lá nào, rậm rạp xanh um, bóng râm che kín bầu trời.

Tôi đứng đó, thích thú vui chơi. Sau khi quay về liền lệnh cho Tiểu Liên Tử, Tiểu Doãn Tử buộc một cái xích đu lên cây. Tiểu Doãn Tử lanh lợi, còn kết thêm dây tử đằng và cỏ lê xung quanh dây đu, chúng trổ hoa nhỏ li ti màu tím thơm ngát, cành lá mềm mại, mùi hương bay xa. Lúc xích đu tung bay, gió thơm phảng phất, lâng lâng như ở trên mây.

Trưa hôm đó, thời tiết rất đẹp, sắc trời trong xanh, ánh nắng vàng ruộm, tơ liễu trắng muốt phấp phới bay đầy trời như từng bông tuyết nhỏ, chấp chới, bập bềnh trong gió. Tôi ngồi trên xích đu, dùng chân gẩy những cánh hoa rơi rụng trên mặt cỏ thơm mềm mại. Lưu Chu thỉnh thoảng lại nhẹ nhàng đẩy vào xích đu, từng cánh hoa mỏng tang rơi lả tả xuống người tôi, dịu dàng như ngón tay mẹ vẫn thường âu yếm, vuốt ve khuôn mặt tôi hồi nhỏ.

Tôi không dằn lòng được, ngẩng đầu ngắm hoa, những đóa hoa mọc thành chùm, chen nhau nhuộm hồng nửa bầu trời, qua giàn hoa mọc chi chít đó chỉ có thể nhìn thấy nền trời xanh ngắt lấp ló qua kẽ hoa. “Hạnh hoa thưa bóng rọi. Địch thổi tới bình minh”, người xưa đã từng mô tả như vậy, tôi đột nhiên nổi hứng, quay đầu ra lệnh cho Lưu Chu: “Đi lấy tiêu của ta lại đây!” Lưu Chu “vâng” một tiếng rồi đi ngay. Tôi ngồi chơi đu một hồi, chợt phát hiện sau lưng chẳng biết từ bao giờ xuất hiện một bóng người, tôi sợ đến giật bắn mình, vội nhảy xuống khỏi chiếc đu, quay người nhìn kĩ. Chỉ thấy một nam nhân trẻ tuổi đứng ở sau lưng, y mặc một bộ thường phục màu xanh nước biển thêu hoa văn hình dơi, đầu đội mũ đính trâm vàng ròng, thân hình cao ráo, phong độ, thần thái sáng láng, diện mạo vô cùng anh tuấn, ánh mắt lấp lánh hữu thần đang chăm chú quan sát tôi, nhưng không đoán ra được tôi là ai.

Mặt tôi bất giác ửng hồng, khuỵu gối chào, không biết phải xưng hô thế nào, đành tiếp tục giữ nguyên tư thế hành lễ. Im lặng hồi lâu, mặt tôi nóng bừng như có lửa đốt, hai gối cũng bắt đầu đau nhức, tôi đành cố nén ngượng ngùng, lên tiếng hỏi: ”Không biết tôn giá tên gọi là gì?”

Người này không trả lời, tôi không dám ngẩng lên, khẽ hỏi lại một lần nữa, lúc đó y mới tựa hồ bừng tỉnh khỏi giấc mộng, khẽ “à” một tiếng rồi ôn hòa nói: “Xin mời đứng dậy!”

Tôi hơi ngước mắt nhìn y phục của y, tựa hồ y cũng để ý thấy, bèn tự giới thiệu: “Ta là… Thanh Hà vương “

Tôi biết y là Thanh Hà vương Huyền Lăng thì càng thêm ngượng ngập, tần phi một mình gặp mặt vương gia, thật chẳng hợp lễ chút nào. Tôi bèn lùi xa hai bước nhún mình thưa: “Thiếp thân là Hoàn Quý nhân Chân thị tham kiến vương gia!”

Y ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi lại: “Cô nương là vị Quý nhân đang bị bệnh phải không?”

Tôi lập tức cảm thấy có gì không đúng, nghi ngờ hỏi: “Chuyện vặt trong cung, làm sao vương gia biết được?”

Y hơi ngẩn người rồi lập tức cười, nói: “Ta nghe hoàng… tẩu nói qua, lúc Giao thừa, hoàng huynh có hỏi một câu, ta vừa khéo ở ngay bên cạnh.”

Tôi nghe vậy mới an lòng.

Y ôn hòa hỏi thăm sức khỏe của tôi: “Cô nương đã khoẻ hơn chút nào chưa? Mùa xuân trời vẫn còn se lạnh, tại sao không mặc thêm áo?”

“Phiền vương gia phí tâm, thiếp đã khá hơn nhiều rồi!” Đang định cáo từ thì Lưu Chu mang tiêu đến, thấy có nam nhân lạ mặt đứng cạnh thì không khỏi hốt hoảng. Tôi vội quát: “Còn không chịu tham kiến Thanh Hà vương!”

Lưu Chu vội vàng quỳ xuống hành lễ.

Y đưa mắt liếc qua ống tiêu ngọc lục bảo xanh thẫm, tủm tỉm cười, hỏi: “Cô nương biết thổi tiêu à?”

Tôi khẽ gật đầu. “Phòng khuê buồn chán, chỉ dùng để tiêu khiển mà thôi.”

“Có thể thổi một khúc cho ta nghe không?” Y cũng thấy câu hỏi có phần đường đột, bèn nói thêm: “Bản vương rất thích nghe tiêu.”

Tôi chần chừ một lát, thưa: “Thiếp vốn không tinh thông thổi tiêu, chỉ sợ làm nhục lỗ tai của ngài!”

Y đưa mắt nhìn ra phía đường chân trời, tủm tỉm cười, đáp: “Cảnh xuân mỹ lệ thế này, nếu có thêm tiếng tiêu làm bạn thì mới tính là không phụ lòng cả khu vườn liễu xanh hoa đỏ này. Xin Quý nhân đừng nỡ cự tuyệt!”

Tôi không từ chối được, đành lùi ra xa một trượng, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi ứng cảnh khẽ thổi khúc Ngàn bóng hạnh hoa, chính là “đâu tiếng ngọc tiêu, trời tựa nước, quỳnh hoa nở rộ, trắng như băng”.

Lơ thơ tơ liễu, cửa Uyên Ương, nhớ Đào Diệp gọi đò thuở ấy. Mắt sầu ngơ ngẩn đón gióxuân, chờ đợi, tựa lan can chèo thuyền đi.

Lối Kim Lăng, oanh ca yến múa. Chỉ thủy triều, hiểu nỗi khổ lòng ta. Cỏ thơm đầy bãi ngày về chưa trọn, chiều xuống, thuyền rời đi, bến ở nơi nào?


Khi tôi còn nhỏ, dì tôi từng có thời gian sống ở Giang Nam, bà từng dạy tôi dùng huân [1] thổi khúc nhạc này, âm điệu thanh nhã, cao vút. Giờ dùng tiêu tấu nhạc, làm vơi đi nỗi sầu muộn trong khúc nhạc, lại thêm phần uyển chuyển du dương, trong trẻo. Khúc nhạc đã dứt mà Thanh Hà vương vẫn im lặng thất thần, chẳng thốt nên lời.

[1] Huân: hay còn gọi là huyên, là một công cụ âm nhạc thời cổ.

Tôi tĩnh lặng hồi lâu rồi khẽ gọi: “Vương gia!” Lúc ấy y mới như choàng tỉnh. Tôi hạ giọng thưa: “Thiếp thân bị bêu xấu rồi, xin vương gia đừng trách tội!”

Y nhìn sang tôi, cất tiếng khen: “Cô nương thổi hay lắm, chỉ có điều khi nãy thổi đến câu “Cỏ thơm đầy bãi, ngày về chưa trọn”, tiếng tiêu có phần nghẹn lại, không được trôi chảy cho lắm, nghe như tiếng nức nở. Hẳn là cô nương đang nhớ nhà, phải không?”

Tôi bị y nói đúng tâm sự, có phần ngượng ngập, đỏ mặt thưa: “Từng nghe người ta nói: “Khúc nhạc sai, Chu lang quay đầu”, không ngờ vương gia lại thính tai như vậy!”

Y hơi ngẩn ra rồi tủm tỉm cười. “Cũng lâu lắm rồi bản vương chưa nghe được tiếng tiêu nào hay như vậy. Kể từ khi… Thuần Nguyên Hoàng hậu qua đời, chẳng còn tiếng tiêu của ai có thể làm bản vương cảm động nữa.” Tuy y đứng cách tôi không xa nhưng giọng nói u sầu của y mơ hồ như từ nơi chân trời vẳng lại, tràn đầy cảm xúc.

Tôi bước lên hai bước, mỉm cười thưa: “Đa tạ vương gia tán thưởng! Chỉ là thần thiếp sao dám so sánh với Thuần Nguyên Hoàng hậu kia chứ!” Rồi nhún mình hành lễ. “Không còn sớm nữa, thần thiếp xin lui về cung trước, vương gia cứ tự nhiên!”

Y gật đầu cười, chào tôi rồi rời đi.

Lưu Chu đỡ tôi trở về Đường Lê cung. Vừa vào trong Oánh Tâm đường ngồi xuống, tôi lập tức gọi Tinh Thanh lại. “Ngươi đi nghe ngóng xem hôm nay Thanh Hà vương có vào cung không? Hiện giờ đang ở đâu?”

Tinh Thanh nghe lệnh, lập tức ra ngoài hỏi thăm.

Lưu Chu lấy làm lạ, hỏi tôi: “Tiểu thư cho rằng người hôm nay nghe tiêu không phải là Thanh Hà vương sao?”

Tôi đáp: “Cẩn thận hơn một chút cũng tốt.”

Tinh Thanh ra ngoài hồi lâu rồi trở về bẩm báo: “Hôm nay Thanh Hà vương có vào cung, hiện đang thưởng họa cùng Hoàng thượng ở Nghi Nguyên điện.”

Tôi khẽ gật đầu, an tâm đi dùng cơm.

Sau hôm đó một ngày, tôi lại ra chỗ xích đu giết thời gian. Sáng sớm ngày xuân, không khí thật trong lành, vấn vít chút hơi ẩm từ khói sóng nước hồ mênh mang. Hai bên bờ hồ, mùi hương thanh tân của hàng dương liễu hòa cùng mùi thơm ngọt của hoa tươi mới nở khiến người ta có cảm giác vô cùng sảng khoái, cỏ lê và tử đằng quấn quanh dây đu vẫn còn đọng vài giọt sương lóng lánh. Xích đu vừa nhẹ nhàng chuyển động, những giọt sương ấy đã rơi lên mặt, lên vai tôi, mát lạnh. Chim oanh đậu trên ngọn cây ríu rít chuyền cành, cất tiếng hót líu lo đầy vui thích.

Chợt cảm thấy có người giơ tay đẩy mạnh xích đu của tôi, chiếc đu lập tức bay lên cao rồi nhanh chóng hạ xuống. Tôi kinh hãi, vội giữ chặt dây đu. Chiếc đu bay vút về phía trước, gió vù vù lướt qua má tôi, váy tôi xòe rộng, căng phồng trong gió như một con bướm lớn. Tôi phá lên cười giòn giã. “Lưu Chu, ả a đầu ranh mãnh kia, dám giở trò sau lưng ta hả!” Tôi lại khúc khích cổ vũ: “Đẩy ta cao hơn nữa! Lưu Chu, cao hơn chút nữa!” Lời vừa dứt, chiếc đu đã vùn vụt bay lùi lại, lướt qua một bóng người, càng lùi về sau càng nhìn thấy rõ, tôi kinh ngạc kêu lên một tiếng: “Vương gia!” Không phải Thanh Hà vương thì còn là ai nữa, tôi lại thất lễ thế này, trong lòng cảm thấy vô cùng hoảng hốt. Tay buông lỏng dây đu, tôi định nhảy xuống đất.

Thanh Hà vương giơ cao hai tay, tủm tỉm nhìn tôi cười “Nếu cô nương sợ thì cứ nhảy xuống đi!”

Tôi chợt cảm thấy có chút thẹn thùng nhưng sự ngang bướng vẫn thắng thế, bèn dùng sức giữ chặt lấy dây thừng, cao giọng đáp trả: “Vương gia cứ thỏa thích mà đẩy, ta không sợ!”

Mắt y đậm nét cười, y bước lại gần chiếc đu, ra sức đẩy mạnh về phía trước. Chỉ nghe thấy tiếng gió vù vù bên tai khiến tóc mai hai bên thái dương tôi tung bay, rối bời. Càng sợ hãi, tôi càng cố gắng mở to mắt, khiến đôi mắt tôi vừa to vừa tròn như quả hạnh. Chiếc đu bay thẳng về phía một gốc hạnh già hoa nở sum suê, tính nghịch ngợm của tôi lại nổi lên, thò chân đá vào đám hoa hạnh nở rộ như lụa băng mây ấm, vừa rút chân về, đám hoa lập tức rơi lả tả khiến chim oanh trên cành kinh hãi kêu một tiếng rồi bay vụt lên không trung, làm xao động cả bức màn ánh nắng lấp lánh.

Cánh hoa bay lả tả như mưa rơi, có một cánh hoa bay ngang vừa khéo lọt vào mắt tôi. Mắt đau nhói, tôi bất giác đưa tay lên dụi mắt, vừa buông lỏng thì người đã mất thăng bằng, rơi khỏi chiếc đu. Tôi vô cùng hoảng hốt, đến mức nhắm chặt hai mắt, thầm nghĩ: “Xong đời ta rồi!”

Rơi xuống đất, tôi chẳng thấy đau, chỉ là không dám mở to mắt ra nhìn, cảm thấy trên trán lúc lạnh lúc nóng, hình như có hơi thở của ai đó lướt nhẹ qua, tựa như gió xuân trong buổi sớm mai. Tĩnh lặng không một tiếng động, tôi dường như nghe thấy tiếng hoa khẽ rơi xuống vạt áo. Lén mở mắt nhìn, tôi thấy ngay đôi tròng mắt đen láy, dịu dàng như ngọc đen, ẩn giấu nụ cười nhẹ nhàng, ấm áp như có như không. Tôi không quay đi, bởi chính trong giây phút tôi nhìn thấy đường nét khuôn mặt mình phản chiếu trong đôi con ngươi ấy. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy bản thân mình trong ánh mắt của người khác. Tôi không rời mắt đi được, chỉ chăm chăm nhìn bóng hình mình trong mắt y. Mắt chấp chới, tôi liếc thấy khuôn mặt dịu dàng như gió xuân của Thanh Hà vương, ánh mắt đậm nét cười vẫn chăm chú ngắm nhìn tôi. Lúc này, tôi mới phát hiện, hóa ra mình rơi vào vòng tay của y, trong lòng giật thót, tôi vội vã nhảy xuống đất, ngượng ngùng, hận không thể chui ngay xuống đất cho đỡ xấu hổ, chỉ biết lí nhí: “Xin chào vương gia!”

Y cười hì hì. “Bây giờ sao lại xấu hổ rồi? Khi nãy, chẳng phải không biết sợ là gì sao? Hành động chẳng khác nào nữ trung hào kiệt.”

Tôi cúi đầu, vặn vẹo đôi bàn tay. “Thần thiếp thất lễ, không biết vương gia lại thích lén lút đứng sau lưng người khác như vậy!”

Y cao giọng: “‘Vậy phải trách bản vương rồi!” Rồi y đưa tay đỡ tôi dậy. “Ta vốn không định ghé qua đây, nhưng đi ngang qua thì lại nhớ đến tiếng tiêu của Quý nhân ngày hôm đó nên cố ý gọi người mang tiêu đến, hy vọng có thể gặp gỡ được Quý nhân, để ta được thưởng thức một lần nữa.” Thuận tay, y đưa cho tôi một ống tiêu bằng ngọc lam điền, toàn thân trắng muốt, trên thân tiêu có thể lờ mờ nhìn thấy những đường gân chìm màu tím nhạt. Một đầu ống tiêu đính một sợi dây đỏ óng ánh kim tuyến thắt thành nút như ý, đúng là một ống tiêu ngọc thượng hạng!

Tôi đón lấy tiêu ngọc, hỏi: “Không biết vương gia muốn nghe bài gì?”

“Quý nhân cứ thổi bài mình thích là được.”

Tôi bình tĩnh lại, chọn bài Liễu sơ tân để thổi:

Thành Đông hừng sáng, sao tinh chếch. Báo kinh thành, xuân đã đến nơi. Mắt liễu mơ huyền, thần hoa hé mặt, thoáng lộ xanh đẹp, đỏ xinh. Trang điểm đình đài lầu các, trời múa bút, nét đan thanh vô giá.

Này còn điện thí cung rồng. Tân lang quân, xếp hàng như họa. Vườn hạnh gió thưa, sóng đào hoa ấm, mừng cho cá chép hóa rồng. Chín đường lớn, vui chơi quên lối, thoáng bụi thơm, ngựa quý yên sang [2].


[2] Bài Liễu sơ tân của Liễu Vĩnh (1004-1054).

Liễu sơ tân vốn là bài từ ca ngợi cảnh đẹp mùa xuân, thời thịnh thế thái bình, khúc điệu cực kỳ thanh thoát. Y nghe xong quả nhiên thích mê, khóe miệng thoáng nét cười. “Vườn hạnh gió thưa? Lại là hạnh, cô nương thích hoa hạnh lắm sao?”

Tôi ngẩng đầu nhìn gốc hạnh tỏa hương thơm ngát trả lời: “Hoa hạnh lúc nở rộ thì trong sáng, long lanh, lúc còn ngậm nụ thì ửng nét hồng. Không diễm lệ như hoa đào, chẳng lãnh đạm như hoa mai, chỉ dịu dàng như thiếu nữ e ấp.”

Ánh mắt y dừng lại trên người tôi. “Người như hoa, hoa cũng như người. Chỉ những người tính tình dịu dàng thì mới ưa thích loài hoa dịu dàng mà thôi!”

Tôi trầm ngâm một thoáng. “Nhưng thần thiếp không dám ưa thích hoa hạnh.”

“Vậy ư?” Y nhướng mắt, hứng thú nói: “Kể lý do cho ta nghe thử!”

“Hoa hạnh tuy đẹp đấy nhưng khi kết thành quả thì lại rất chua, hạt vừa đắng vừa chát. Nếu lấy hoa luận người thì có thể nói bắt đầu tốt nhưng kết cục lại chông chênh, vậy thì có ý nghĩa gì cơ chứ? Chẳng bằng tùng bách, quanh năm xanh tươi, không hoa không quả còn hay hơn nhiều.”

Y nhướng mày. “Thật tình… chưa từng nghe cách giải thích này bao giờ, đúng là mới lạ đặc biệt!”

Tôi tủm tỉm cười. “Thần thiếp chỉ thuận miệng nói bừa, để vương gia cười chê rồi. Chỉ mong vương gia nghe xong khúc nhạc này, về sau đừng hù dọa thần thiếp nữa là được!”

Y vỗ tay cười lớn. “Hôm nay là do ta đường đột mạo phạm. Ta có hai bản khúc phổ, sau bữa trưa ngày mai sẽ đem đến để cùng thưởng thức với Quý nhân. Hy vọng Quý nhân sẽ đồng ý.”

Nụ cười của y tươi tắn đến cực điểm, tựa như ánh nắng lóa mắt vạch qua làn sương mù dày đặc bên trên cảnh xuân trong vườn, khiến tôi không thể nào từ chối được. Tôi ngẩn người một thoáng rồi dịu dàng đáp: “Cung kính không bằng tuân mệnh!”

Đi được hai bước, chợt nhớ ra một chuyện, tôi bèn quay lại nói với y: “Thần thiếp có chuyện muốn nhờ, xin vương gia đồng ý!”

“Quý nhân cứ nói!”

“Thần thiếp gặp vương gia thế này đã không ổn rồi, mong vương gia đừng để người khác biết, để khỏi ảnh hưởng đến danh dự của hai bên.”

“Chao ôi, đã là danh dự thì có ai làm hỏng được nào?”

Tôi lắc đầu, thưa: “Vương gia có điều không rõ rồi. Thần thiếp và vương gia quang minh lỗi lạc, tuy nói chẳng làm chuyện gì đáng xấu hổ nhưng trong hậu cung đông người nhiều miệng, lời nói xói vàng, tốt nhất đừng để xuất hiện chuyện thị phi.”

Y hơi cau mày nhưng miệng vẫn cười sảng khoái, đồng ý với tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-4-2016 08:54:33 | Xem tất
Tập 1-Chương 9
Thẻ hoa


Trở về cung, trời vẫn còn sớm, tôi thấy nội giám, cung nữ trong cung đang xúm xít tưới nước, xới đất cho mấy gốc hoa, bất giác phá lên cười. “Hoa lê vừa nhú nụ thôi mà, các ngươi đã vội vàng thúc nó nở hoa rồi ư?”

Hoán Bích hớn hở chạy đến, bẩm: “Tiểu thư, hôm nay có chuyện vui đấy! Hai gốc hải đường trước sảnh đã nhú mấy nụ rồi.”

Tôi mừng rỡ kêu lên: “Thật vậy sao? Khi nãy ta đi thẳng vào đây, không nhìn kĩ, giờ phải đi ngắm nghía một phen mới được!” Người trong cung ai cũng còn rất trẻ, tôi vừa đề nghị, ai nấy đều thích thú, xúm xít vây quanh, cùng tôi đi ra trước sảnh. Quả nhiên giữa những chiếc lá xanh non là vài ba nụ hoa đỏ tươi, tựa như chút son môi vừa thoa lên, trông yêu kiều, thướt tha như trinh nữ. Hoa còn chưa nở nhưng mùi hương dìu dịu đã thoang thoảng lan tỏa. Tôi cười, nói: “Quần Phương phổ của người xưa có chép rằng: Hải đường có bốn loại: tây phủ hải đường, thùy ti hải đường, mộc qua hải đường và thiếp ngạnh hải đường. Hoa hải đường không có mùi hương, chỉ có loại tây phủ hải đường này vừa thơm vừa mỹ lệ, là loại hải đường thượng phẩm.”

Tiểu Doãn Tử lập tức tiếp lời: “Tiểu chủ học cao hiểu rộng, chúng nô tài nghe được coi như mở mang tầm mắt, tha hồ khoe khoang, khoác lác trước mặt những nô tài khác, đúng là nở mày nở mặt!”

Tôi phá lên cười, gõ đầu hắn đánh “cốc” một cái, khiến mọi người đều cười theo. Lưu Chu bèn trêu: “Đúng là chỉ mỗi Tiểu Doãn Tử mồm miệng lanh lợi mới mua vui được cho tiểu thư, càng cho thấy bọn tôi ai cũng vụng về, lóng ngóng, chẳng được ai yêu thương gì cả!”

Tiểu Doãn Tử ngẩng đầu nhìn nàng ta, cười nịnh nọt: “Nếu Lưu tỷ mà vụng về, lóng ngóng thì bọn tôi thành con nít chưa mọc răng rồi, sao dám mở miệng trước mặt tỷ nữa!”

Lưu Chu bị hắn nịnh đến sướng rơn. “Biết điều làm ta vui vẻ như vậy, ngày mai ta sẽ làm một đôi giày mới để thưởng cho nhà ngươi.”

Tiểu Doãn Tử chắp tay, cong lưng tạ ơn: “Cảm ơn tỷ, hài tỷ làm tôi sao dám mang, ngày nào cũng đặt ở đầu giường, ngắm nghía để ghi nhớ ơn của tỷ!”

Lưu Chu cười đến đau bụng, phì hắn một tiếng: “Chắp tay tạ ơn ứng trước rồi, xem ra ta không thể tiếp tục lười biếng nữa, nhất định phải làm cho ngươi một đôi thật đẹp.”

Tôi nói: “Đã làm rồi thì làm luôn cho Tiểu Liên Tử một đôi đi!”

Hai người đồng loạt tạ ân, mọi người ngắm hoa một hồi rồi mới tản đi.

Loáng cái đã đến tối, dùng xong bữa, tôi liền ngồi trước bàn gỗ sơn đỏ chạm hình năm con dơi chúc thọ, lật xem Thi kinh. Bên ngoài cửa sổ là ánh trăng nhàn nhạt, sương gió đẫm hương, đúng là một đêm vô cùng yên tĩnh, mỹ lệ. Thi kinh giấy trắng mực đen, ngày xưa mỗi lần đọc đều cảm thấy miệng thấm mùi thơm, hôm nay không hiểu vì sao tâm tư của tôi cứ mãi hoảng hốt. Ánh trăng mềm mại như lụa, ngọn cây trước cửa sổ bị gió lay động, bóng mờ chập choạng ánh lên giấy dán cửa sổ, phảng phất như thân hình cao ngất của ai đó. Tinh thần mơ màng, dường như từng dòng chữ trong trang sách đều biến thành đôi con ngươi đen láy, đan xen giữa bóng hoa hạnh lưa thưa, múa loạn trước mắt tôi, thoáng tĩnh, thoáng động. Tâm tư lưu chuyển, bất giác nhớ lại chuyện xảy ra hồi sáng, trái tim chợt mềm nhũn như lụa. Ánh nến trước mắt sáng rỡ, lấp lánh phản chiếu hoa văn trên gấm đoạn phủ lên ghế, giúp tôi nhớ ra mình đang ở trong Oánh Tâm đường, rồi dần bình tĩnh trở lại. Chỉ không biết hôm nay mình đã xảy ra chuyện gì, mặt nóng tai đỏ, thuận tay lật một trang, thì ra là bài Trù Mâu.

Củi kia bó đã thong dong. Trên trời sao sáng ba ông lập lòe. Đêm nay là cái đêm gì? Gặp người, ta chuốc ta vì bấy nay. May thay, may thật là may. Phượng loan hòa hợp, nước mây trùng phùng.

Cỏ kia bó đã thong dong. Đông nam sao sáng ba ông lập lòe. Đêm nay là cái đêm gì? Nên duyên giải cấu chuốc vì bấy nay. May thay, may thật là may. Đôi ta giải cấu, nước mây tương phùng.

Gai kia bó đã thong dong. Trước thềm sao sáng ba ông lập lòe. Đêm nay là cái đêm gì? Gặp người xinh đẹp chuốc vì bấy nay. May thay, may thật là may. Phượng loan hòa hợp, nước mây trùng phùng.

Tôi nửa thẹn nửa bối rối, tựa như tâm sự bị người ta nhìn thấu, vội vàng đóng sách lại rồi tự trách mình. Tôi và y thân phận khác biệt, lấy gì để nói “nước mây trùng phùng”, huống chi “phượng loan hòa hợp”? Trong lúc bối rối, tôi lại nhớ đến câu nói của Ôn Thực Sơ: “Vào cửa công hầu sâu tựa biển”, liền quẳng sách xuống bàn. Cận Tịch nghe thấy tiếng động, sợ giật bắn mình, vội bưng một chung mật ong chưng anh đào lại, khuyên: “Chắc tiểu chủ đọc sách đã mệt rồi, uống một chung mật ong rồi nghỉ ngơi một lát đi!”

Tôi uống cạn chung mật ong nhưng vẫn bứt rứt không yên, vô cùng chán ngán. Tôi liếc mắt phát hiện nước sơn của chiếc bàn chạm năm con dơi chúc thọ bắt đầu bị bong tróc loang lổ, bèn thuận miệng hỏi: “Lớp sơn của chiếc bàn này đã bị bong tróc, sao người ở Nội vụ phủ vẫn chưa đến sửa sang, quét thêm một lớp sơn nữa?”

Mặt Cận Tịch lộ vẻ khó xử, giải thích: “Tiểu Doãn Tử đã đi dò hỏi rồi, chắc mấy ngày nữa sẽ có người tới thôi!”

Tôi gật đầu. “Trong cung sự vụ bận rộn, bọn họ bận bịu không lo hết việc, chậm trễ vài ba ngày cũng là lẽ thường tình.”

Ừ hử mấy câu, đang ngồi lặng lẽ bên bàn thì tôi bỗng nghe thấy tiếng thì thầm trò chuyện giữa Bội Nhi và Tiểu Doãn Tử ở bên ngoài cửa sổ: “Sao hồi trưa nay, lúc Tiểu Liên Tử quay về, mặt mũi lại ủ rũ, xám xịt như thế?”

Cận Tịch hơi biến sắc mặt, vừa định lên tiếng ngăn cản, tôi lập tức nghiêm mặt nhìn nàng ta, nàng ta đành im lặng, không dám nói gì.

Tiểu Doãn Tử “hừ” một tiếng. “Thì cũng chỉ đến Nội vụ phủ rồi ôm một bầu tức tối vì bị người ta mỉa mai, lủi thủi quay về mà thôi.”

Bội Nhi lấy làm lạ, hỏi: “Chỉ vì chuyện cái bàn cần sơn lại đó mà phải chạy đi chạy lại mấy lượt, vẫn phải về không sao?”

“Ngươi hiểu cái quái gì chứ?” Tiểu Doãn Tử càng hạ thấp giọng, tức tối. “Đám mắt chó không biết nhìn người đó, mỉa mai Tiểu Liên Tử vài ba câu thì thôi cũng đành, nhưng đến tiểu chủ cũng bị bọn chúng xỉa xói, nói một đống những lời không hay!”

Sắc mặt Cận Tịch trở nên vô cùng khó coi, cau mày định chạy ra ngoài nhưng thấy tôi vẫn lộ vẻ thản nhiên nên đành nhẫn nhịn đứng lại.

Bội Nhi hậm hực. “Đám đốn mạt ở Nội vụ phủ kia dám không coi trọng tiểu chủ ư? Mùa đông vừa rồi còn ăn bớt phần than của tiểu chủ, nếu không phải Huệ tiểu chủ đưa qua chút than thượng hạng thì tiểu chủ đã bị đám than đen đó hun cho ngạt thở rồi. Giờ đây bọn họ ngày càng ngang ngược, coi trời bằng vung, chỉ việc sơn sửa cái bàn mà cũng lăng nhục người ta mới bằng lòng!”

Tiểu Doãn Tử vội vã can ngăn: “Nhỏ tiếng một chút, tiểu chủ vẫn còn ở bên trong, lỡ mà nghe thấy thì hẳn sẽ đau lòng lắm.”

Bội Nhi cố nén giọng, buồn bã thốt lên: “Nhưng làm sao bây giờ? Ngày tháng sau còn dài, kẻ làm nô tỳ như bọn ta chịu thiệt một tí cũng được nhưng tiểu chủ… đang mắc bệnh, vậy mà còn phải chịu tức tối vô lý thế này!” Nói xong, nàng ta hậm hực tiếp: “Cái tên Hoàng Quy Toàn ỷ mình là họ hàng xa của Hoa chủ tử, càng ngày càng ngông cuồng, đến mức không biết trời cao đất rộng là gì!”

Tiểu Doãn Tử nói: “Ngươi làm ơn nhịn nhục một chút đi! Lỡ tiểu chủ biết được, trong lòng không vui, Tiểu Liên Tử hầu hạ bên cạnh cũng vờ như chẳng có chuyện gì, ngươi tốt xấu gì cũng phải giúp che giấu mới được.”

Hai người nói chuyện một lát rồi ai làm việc người nấy. Trong lòng tôi thoáng nhói đau, vừa cảm động vừa khó xử, ngoài mặt vẫn vờ như chưa nghe thấy gì, chỉ thản nhiên lên tiếng: “Nếu Nội vụ phủ đã bận rộn như vậy thì cứ dùng tạm đi, cũng chẳng phải việc tày trời gì!”

Cận Tịch hạ giọng vâng dạ: “Vâng, tiểu chủ!”

Tôi ngẩng đầu nhìn nàng ta. “Những lời họ nói khi nãy, coi như ta chưa nghe thấy, ngươi cũng chưa hề nghe thấy, ra ngoài không được trách móc bọn họ.” Cận Tịch liền vâng theo. Tôi thở dài một hơi, than thở: “Đi theo một tiểu chủ như ta quả thật khiến các ngươi phải chịu không ít uất ức!”

Cận Tịch vội vã quỳ xuống, mặt biến sắc, thiết tha khuyên nhủ: “Sao tiểu chủ lại nỡ nói những lời như vậy, bọn nô tỳ còn mặt mũi nào! Nô tỳ đi theo tiểu chủ, không hề cảm thấy uất ức.”

Tôi cho nàng ta đứng dậy, cất tiếng than: “Người trong hậu cung quen thói nịnh hót, bợ đỡ, đội trên đạp dưới cũng là chuyện bình thường, bọn họ việc gì phải coi trọng một tiểu chủ bệnh tật, không được sủng ái như ta kia chứ! Chúng ta an phận sống qua ngày thôi là đủ rồi.”

Cận Tịch im lặng hồi lâu, mắt long lanh ánh lệ, khuyên: “Nếu tiểu chủ không mắc bệnh thì với nhan sắc của người, chắc gì Hoa Phi đã sánh được kia chứ!” Nói xong, mặt nàng ta lộ vẻ kinh hãi, hẳn nàng ta cũng hiểu mình nói lỡ lời.

Tôi cất tiếng an ủi: “Người nào mệnh nấy, có miễn cưỡng cầu xin cũng chẳng được.”

Cận Tịch thấy tôi nói vậy, vội chuyển sang chuyện khác: “Tiểu chủ đọc sách mệt rồi, hay là thêu hoa đi vậy?”

“Cứ nhìn mãi từng đường kim, mũi chỉ, mỏi mắt lắm!”

“Vậy nô tỳ đem đàn tranh lại đây hầu tiểu chủ đánh đàn vậy!”

“Bực bội quá thể, cũng chẳng muốn đàn.”

Cận Tịch nhìn mặt đoán ý, đứng bên khuyên: “Tiểu chủ chê đêm dài buồn chán, bứt rứt khó chịu, hay mời Huệ Tần tiểu chủ, An tiểu chủ và Thuần tiểu chủ cùng đến chơi xóc thẻ hoa cho vui.”

Tôi ngẫm nghĩ thấy đó cũng là một ý hay, vả lại đó cũng là việc duy nhất có thể làm được vào lúc này, bèn bảo: “Ngươi đi chuẩn bị chút đồ ăn, lệnh cho bọn Phẩm Nhi ra ngoài mời các tiểu chủ đến đây!” Đám tiểu cung nữ ham cảnh náo nhiệt, lập tức thắp đèn chia nhau đi mời.

Hơn nửa canh giờ sau, chợt nghe thấy tiếng bước chân rộn rã, tôi vừa ra đến trước sảnh đón tiếp thì đã nghe thấy tiếng cười khúc khích của Thuần Thường tại: “Hoàn tỷ rất hay nghĩ ra được những ý tưởng hay ho, mới mẻ. Đúng lúc muội đang không biết làm gì để giết thời gian đây.”

Tôi cười, đáp: “Muội á, chỉ được những lúc như thế này thôi, chứ cả ngày ở lì trong phòng ngủ, sắp thành mèo lười mất rồi.”

Thuần Thường tại phá lên cười, kéo tay áo tôi. “Tỷ lúc nào cũng thích trêu chọc muội, muội không chịu đâu!”

My Trang đỡ tay Thải Nguyệt tiến vào, mỉm cười. “Từ xa đã nghe thấy tiếng nhõng nhẽo của Thuần Nhi rồi!” Lại hỏi: “Sao Lăng Dung vẫn chưa tới nhỉ?”

Tôi mỉm cười, đáp lời: “Mời được tỷ thật chẳng dễ dàng gì, còn phải mất công cung nữ của muội dè chừng để tránh làm kinh động tới Hoàng thượng nữa!”

My Trang cười, mắng: “Ả này miệng lưỡi càng ngày càng chua ngoa” rồi nhéo má tôi. Tôi bật cười né cánh tay của tỷ ấy, luôn miệng van xin.

Đang đùa giỡn thì Lăng Dung dẫn theo Cúc Thanh chầm chậm tiến vào. Cúc Thanh còn ôm theo một bó đỗ quyên. Lăng Dung chỉ vào bó hoa trong tay cung nữ, nói: “Đỗ quyên trong cung của muội nở rất nhiều, muội thấy màu sắc cũng đẹp nên cho người hái một ít mang sang cho Hoàn tỷ cắm bình.”

Tôi vội mời họ vào nhà rồi gọi Tinh Thanh lấy bình hoa ra để cắm. Tinh Thanh và Cúc Thanh trước giờ vốn rất thân thiết, cắm hoa xong, thỉnh an rồi nắm tay nhau xuống nhà dưới trò chuyện, tâm sự. Tôi mỉm cười, cảm ơn Lăng Dung: “Cảm ơn muội lúc nào cũng nhớ đến tỷ, biết tỷ thích những thứ hoa cỏ này. Hôm Giao thừa, chậu thủy tiên muội đưa đến thật thơm, làm át đi mùi thuốc trong phòng tỷ, nếu không có chậu hoa đó thì mùi thuốc rất hắc, sao ở nổi!”

My Trang chêm vào: “Lại còn than thở gì chứ? Tỷ thấy mùi thuốc đó dễ ngửi đấy chứ, còn thơm hơn túi hương, bột hương của tỷ.”

Chúng tôi vào buồng sưởi ngồi, Cận Tịch đã bày đồ ăn ra bàn: lạc rang mật, mứt hạnh đào, kẹo táo mềm, bánh đậu xanh, bánh hạt dẻ, bánh đậu hai màu.

Thuần Thường tại than thở: “Thức ăn từ Ngự thiện phòng dâng lên chẳng có mùi vị gì cả, miệng muội cứ nhạt thếch.”

My Trang giải thích: “Bọn họ nấu những món soạn cho đại tiệc thì còn tạm được, chứ nấu nướng sao ngon bằng bếp riêng của chúng ta.”

Tôi nhìn Thuần Thường tại, hỏi: “Làm dâu trăm họ cũng khó khăn lắm. Chẳng phải muội vẫn thường ghé qua chỗ tỷ nếm đồ ăn sao?”

Thuần Thường tại sớm đã nhét một miếng bánh đậu xanh vào miệng, một tay còn cầm sẵn viên kẹo táo mềm, mắt chăm chăm nhìn vào đĩa lạc rang mật, vừa ăn vừa ấp úng: “Nếu không phải chỗ Hoàn tỷ có nhiều đồ ăn ngon như thế này thì chắc muội chết đói từ lâu rồi!”

My Trang âu yếm lấy cho nàng ta một chung sữa tươi. Tôi khẽ vuốt lưng cho nàng ta, “Ăn từ từ thôi, không lại nghẹn rồi khóc òa lên bây giờ!”

Lưu Chu ôm một ống thẻ bằng gỗ hoàng dương đến, bên trong để một bó thẻ hoa làm bằng trúc xanh, lúc lắc một hồi rồi đặt xuống giữa bàn. My Trang cười, nói: “Tỷ muốn dặn trước một chuyện, đây chỉ là trò chơi thôi, không được coi là thật.”

Mọi người phá lên cười. “Ai coi là thật đâu nào? Chỉ là trò chơi tiêu khiển thôi mà, tỷ sốt ruột gì chứ?”

Vẻ mặt My Trang ửng hồng. “Tỷ chỉ dặn dò vài câu lấy lệ thôi mà!”

Trong số những người ngồi đây hôm nay, My Trang lớn tuổi nhất, kế đó là tôi, sau cùng là Lăng Dung và Thuần Nhi. My Trang lắc ống thẻ, lấy ra một thẻ hoa, nói: “Chẳng biết tỷ rút được thứ gì đây? Hy vọng đừng quá xui xẻo!” Rút thẻ xong, tỷ ấy tự đọc rồi cười, nói: “Chỉ là trò đùa thôi!” rồi thuận tay đưa cho chúng tôi cùng xem. Trên thẻ trúc vẽ một bó cúc màu vàng, bên dưới lại khắc thêm một hàng chữ nhỏ, là một câu thơ Đường: “Sắc bên rào ông Đào, hương trong nhà La Hàm.”

Lăng Dung cười, nói: “Tỷ vốn yêu hoa cúc, nơi ở lại có tên là Tôn Cúc đường, giờ đang được Hoàng thượng sủng ái, chẳng phải là: “Hương trong nhà La Hàm” hay sao? Đúng là chẳng sai chút nào!”

My Trang phì một tiếng, mắng: “Lăng Dung tiểu muội gần đây gan dạ thật đó, ta vừa mắng nó mấy câu, nó đã chuẩn bị sẵn một xe văn vẻ chờ đón ta.”

Thuần Thường tại bênh vực: “Huệ tỷ vốn hợp với hoa cúc nhất còn gì!”

Lăng Dung che miệng cười: “Thấy chưa, muội nói có sai đâu. Chính Thuần muội cũng cảm thấy thế đấy nhé!”

My Trang bèn nói lảng sang chuyện khác: “Coi như ta đã xong, đến phiên Hoàn muội đó.” Nói xong, tỷ ấy liền đẩy ống thẻ ra trước mặt tôi.

Tôi mỉm cười. “Đến lượt muội thì muội cứ rút thôi!” Tôi chẳng thèm xem xét, thuận tay rút ra một thẻ, xem kĩ thì thấy bên trên vẽ một đóa hoa hạnh phớt đỏ, bên cạnh là bốn chữ Tiên phẩm Dao Trì, đồng thời khắc thêm một câu thơ Đường: “Thượng giới, bích đào sương móc gội. Bên trời, hồng hạnh sắc mây lồng.” Tôi vừa nhìn thấy hình vẽ hoa hạnh, vừa xúc động vừa hoài nghi, đến mặt cũng đỏ theo, tựa ráng mây chiều vậy.

Thuần Thường tại lấy làm lạ. “Hoàn tỷ đâu có uống rượu, sao lại say rồi?”

Lăng Dung thò tay đoạt lấy tấm thẻ, cười nói: “Chúc mừng, chúc mừng! Hoa hạnh, hạnh phúc, ý chỉ có rể quý. Hoa hạnh chính là điềm sắp được sủng ái đây mà.”

My Trang nghiêng người qua xem, vui vẻ thốt lên: “Thật không? Hoa hạnh tượng trưng cho điềm lành, xem ra bệnh của muội cũng sắp khỏi hẳn rồi. Muội ốm bao lâu nay, giờ trời đã ấm lên, cũng đã đến lúc khỏe lại rồi.”

Thuần Thường tại cầm một miếng bánh hạt dẻ, tấm tắc khen: “Chẳng phải trên thẻ có nhắc đến “đào” hay sao, tỷ có định làm bánh hoa đào để ăn không?”

Lăng Dung cười đến đau cả bụng, ôm chặt Thuần Thường tại vào lòng. “Chỉ biết nghĩ đến mỗi chuyện ăn thôi, “đào” ở đây là ý chỉ vận đào hoa của Hoàn tỷ sắp tới rồi đó!”

Tôi giơ tay bịt miệng Lăng Dung. “Đừng nói những lời vớ vẩn ấy, lại dạy xấu cho Thuần Nhi nữa!”, rồi quay sang phân bua với My Trang: “Thẻ ấy không tính, ban nãy muội chỉ rút đại mà thôi, thử xem có thuận tay hay không ấy mà!”

“Chưa thấy ả nào mặt dày như muội!” My Trang cười. “Ai bảo muội là nhà cái làm gì, cho phép muội rút thêm một thẻ nữa, nhưng lần này rút xong không được ăn vạ nữa đâu nhé!”

Tôi cảm ơn tỷ ấy, giơ cao ống thẻ, khẽ lắc hồi lâu rồi mới chọn. “Lần này nhất định phải là thẻ tốt!” Ngẩng đầu nhìn thật kĩ, đó là thẻ hoa hải đường, vẫn ghi bốn chữ: “Hải đường giải ngữ” rồi bên dưới thêm câu thơ ngắn: “Phe phẩy màu xuân ngọn gió đông.” Tôi mím miệng cười, khen: “Cũng không tồi. Muội ở Đường Lê cung, sáng sớm nay, hai gốc tây phủ hải đường trước sảnh vừa mới trổ nụ.”

My Trang đọc một lát rồi cười, nói: “Quả thật nói rất hay, hải đường còn được gọi là “giải ngữ hoa”, chẳng phải muội là một đóa hoa giải ngữ mê người hay sao?”

Lăng Dung đưa rượu đến bên môi tôi. “Nào, nào, uống cạn chung rượu này để chúc mừng đi!”

Tôi nâng chén, ngửa đầu uống cạn, nhất thời nổi hứng gọi Lưu Chu, Hoán Bích cùng vào, cười, nói: “Hai câu kế của Đông Pha là: “Canh khuya những sợ rồi hoa ngủ. Khêu ngọn đèn cao ngắm vẻ hồng.” Các ngươi đi lấy hai chiếc đèn lồng đỏ lại đây, lấy loại lớn ấy, giúp ta soi sáng gốc hải đường trước sảnh, đừng để nó ngủ mất.”

Hai người đồng thanh vâng dạ rồi chạy ra ngoài.

My Trang áp tay vào má tôi, mắng: “Con nha đầu này hôm nay phát điên rồi!”, rồi quay sang nói với Lăng Dung: “Muội cũng rút chơi một thẻ đi!”

Lăng Dung “vâng” một tiếng rồi rút một thẻ ra xem, vừa xem qua, tay đã buông lỏng rồi quăng tấm thẻ xuống đất, mặt đỏ bừng như say rượu, mắng: “Trò này chẳng hay chút nào, lẽ ra không nên chơi mới phải. Toàn là điều nhảm nhí!”

Mọi người không hiểu lý do vì sao, Thuần Nhi vội nhặt thẻ lên, thì ra đó là thẻ một gốc trúc đào, bên dưới ghi chú một câu: “Mảnh mai mềm mại, nhu tình thiết tha, mấy tầng bóng áo lơ thơ, gió thơm tắm gội.”

My Trang dùng khăn tay che miệng, cười trêu: “Cái khác thì không rõ, nhưng ta hiểu được câu “nhu tình thiết tha”, chỉ là không biết “nhu tình thiết tha” của Lăng Dung muội muội đang muốn nhắn gửi cho ai đây?”

Tôi chợt nhớ tới đêm trước ngày tiến cung, tiếng khóc nghẹn ngào của Lăng Dung phảng phất vang lên bên tai, trong lòng lạnh lẽo nhưng mặt vẫn tươi cười, vờ như vô ý nói với My Trang: “Nhu tình thì đương nhiên là nhu tình với Hoàng thượng rồi, chẳng lẽ còn có ai khác sao? Chúng ta đã là cung tần của thiên tử, chắc chắn trong lòng ngoài Hoàng thượng ra thì chẳng còn người đàn ông nào khác nữa.”

Tôi tuy nói với My Trang nhưng khóe mắt lúc nào cũng theo dõi phản ứng của Lăng Dung. Nàng ta nghe xong câu nói của tôi, chỉ thất thần ngẩn ra trong một thoáng. Nàng ta quét mắt nhìn vội sang tôi rồi nhanh chóng cười tươi như hoa. “Lăng Dung tuổi còn nhỏ, sao hiểu được chữ “nhu tình” mà các tỷ nói kia chứ!” Tôi tủm tỉm cười, không bình phẩm gì thêm, tôi đã nói thẳng đến mức đó, chắc hẳn Lăng Dung cũng đã hiểu ý rồi.

My Trang lên tiếng: “Lăng Dung làm rơi thẻ hoa, phải chịu phạt mới được. Hay là phạt muội ấy uống ba chén rượu nhé!”

Lăng Dung vội vã cầu xin: “Tửu lượng của Lăng Dung muội rất kém, một chén đã đủ để bụng đau, đầu choáng rồi, sao uống nổi ba chén chứ! Không được, không được đâu!”

Tôi thấy ánh sáng của ngọn nến đỏ bắt đầu mờ đi, bèn rút một cây trâm bạc trên đầu xuống, khêu khêu tim nến, ai ngờ tim nến đột nhiên nổ “tách” một tiếng, ánh nến vụt sáng, kết thành hoa đèn thật lớn. My Trang thấy vậy liền nói: “Hôm nay là ngày gì vậy, bao nhiêu điềm tốt đều xuất hiện trong cung của muội?”

Lăng Dung nghe vậy càng hớn hở. “Xem ra tỷ sắp khỏi hẳn bệnh rồi đấy! Hay là thế này, để muội hát một bài chúc mừng tỷ nhé!”

“Trò này nghe có vẻ mới lạ, thanh nhã đây, ta chưa từng nghe Dung muội hát lần nào. Vậy phiền muội hát một bài cho bọn ta nghe vậy!”

Lăng Dung vuốt vạt áo cho ngay ngăn rồi khẽ hát bài Chuyện tốt đến gần.

Hoa lay núi xuân, lục vờn xanh quấn. Mưa dâng nước hồ buổi sớm, chân trời sáng trong xanh.

Rời chèo áp sóng sâu, ca vang sạch bụi trần. Ngắm mây trời đậm nhạt, xem sắc thực núi hồ.

Mọi người ai nấy đều im lặng. Lăng Dung hát xong, Thuần Nhi ngơ ngẩn thốt lên: “An tỷ, tỷ hát hay thật đấy, muội nghe say mê đến mức món mứt hạnh đào ngon lành nhất cũng chẳng buồn ăn.”

Tôi mừng rỡ khen ngợi: “Lăng Dung giỏi thật! Quả nhiên là muội giấu tài, tỷ không ngờ muội lại hát hay đến vậy! Đúng là: “Khúc này thượng giới có thôi, trần gian thử hỏi mấy hồi được nghe”.”

My Trang nghe mà mê mẩn, hỏi: “Nếu được nghe muội hát từ trước thì Diệu Âm nương tử nào có đáng gì? Hai chữ “Diệu Âm” ngoài muội ra thì không ai xứng đáng cả!”

Lăng Dung đỏ mặt, khiêm tốn chối từ: “Chút tài mọn thôi mà, mọi người đừng trêu muội nữa!”

“Trêu đâu mà trêu, nghe bài hát này, ba tháng tới tỷ cũng không cần biết đến mùi thịt ấy chứ!”

Nói đùa một hồi, chúng tôi lại giục Thuần Thường tại rút thẻ hoa. Nàng ta rút xong liền đưa cho tôi xem. “Hoàn tỷ xem giúp muội với, muội xem không hiểu.” Tôi nhìn qua thì thấy trên thẻ vẽ một đóa hoa nhài bé xíu, bên cạnh có chú: “Tuy không nhan sắc cho người mến, may có hương thơm át chín thu”, thêm một dòng chữ nhỏ: “Tiết Thiên công, Chức Nữ cài hoa.”

Tôi chợt ớn lạnh, cảm thấy đây là điềm không lành, lập tức mỉm cười, nói với nàng ta: “Lời này tốt lắm!” Lại khuyên thêm: “Muội thích ăn món gì thì cứ lấy, bếp riêng của tỷ vẫn còn dư một ít, muội cứ đi chọn thứ muội thích ăn, tỷ sẽ bảo cung nữ gói lại cho muội đem về.”

Nàng ta nghe tôi nói vậy thì vui vẻ chạy xuống bếp.

My Trang lo lắng hỏi: “Sao vậy? Rút phải thẻ không tốt à?”

Tôi cười cười. “Không có gì đâu, chỉ là không bằng thẻ của hai chúng ta thôi.” Nghĩ một lúc rồi nói thêm: “Hoa thì tốt đấy, chỉ là có một câu nghe gai cả người.”

Lăng Dung hỏi: “Sao lại thế?”

“Tiết Thiên công, Chức Nữ cài hoa. Nghe đồn nữ nhân thời Đông Tấn cài hoa vào tiết Thiên công là để… đeo tang cho Chức Nữ.”

Mặt Lăng Dung hơi biến sắc, My Trang cười gượng. “Chỉ là trò đùa chốn khuê phòng thôi, đừng tin đó là thật!”

Đang nói chuyện thì a đầu của My Trang là Thải Nguyệt tiến vào, thưa: “Bẩm tiểu chủ, Hoàng thượng hôm nay nghỉ lại ở Hồng Nghê các.”

My Trang thản nhiên nói: “Biết rồi. Ngươi lui xuống trước đi!”

Thấy nàng ta lui ra, tỷ ấy mới chậm rãi thốt lên: “Dư Nương tử này giỏi thật, chẳng mấy chốc mà đã gượng dậy được.”

Lăng Dung lấy làm lạ: “Chẳng phải vừa bị phạt đóng cửa hối lỗi hay sao?”

My Trang đưa tay nhón lấy một hạt lạc, không ăn mà chỉ vân vê trên ngón tay, lớp vỏ đỏ bên ngoài hạt lạc nhẹ nhàng rơi qua kẽ ngón tay thon thả, trắng muốt của tỷ ấy, đọng lại một mảng vụn đỏ trên mặt bàn. My Trang vỗ tay khen: “Thế mới chứng tỏ được bản lĩnh của người ta chứ! Hôm nay đã là đêm thứ ba rồi, vừa được thả ra mấy ngày đã thừa sủng đến ba lần…” My Trang khẽ nghiến răng rồi không nói tiếp nữa.

“Sao lại gượng dậy được nhanh như thế nhỉ?” Tôi lên tiếng hỏi.

“Nghe nói nàng ta quỳ bên ngoài Nghi Nguyên điện của Hoàng thượng, cất giọng hát suốt một đêm, cổ họng khàn cả đi mới khiến Hoàng thượng sinh lòng thương tiếc.”

Lăng Dung lộ vẻ lo âu, ngón tay siết chặt lấy tấm khăn, lên tiếng: “Ả ta trước giờ bất hòa với Huệ tỷ. Tuy địa vị thấp nhưng lại nghênh ngang, càn quấy quá thể. Theo tình hình trước mắt, e là Hoàng thượng lại muốn thăng chức cho ả ta rồi.” Nàng vừa nói vừa lén quan sát vẻ mặt của My Trang.

Tôi đứng thẳng dậy, phủi vụn vỏ lạc vương trên vạt áo của My Trang, khuyên: “Đến tỷ cũng phải dè chừng ả ta, người khác e là còn hơn thế. Nếu ả ta không chịu sửa tính kiêu ngạo của mình, chỉ e là chưa cần tới phiên tỷ bận tâm, người khác đã không nhịn được phải ra tay rồi.”

My Trang hiểu ngay ý tôi muốn nói. “Chưa đến mức vạn bất đắc dĩ thì tỷ sẽ không dễ dàng ra tay đâu!”

Tôi cười tươi như hoa. “Thứ đồ hèn hạ ấy đâu đáng để chúng ta hao tốn tinh thần.”

Mọi người lại im lặng, ngồi nghiêm chỉnh lắng nghe tiếng đồng hồ nước tích ta tích tắc. Hồi lâu My Trang mới vui vẻ mỉm cười. “Muộn rồi, bọn tỷ cáo từ trước đây!”

Tôi tiễn họ ra cửa cung rồi mới vào nhà trong nghỉ ngơi. Trong giấc mộng nửa đêm, tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng trống canh vang lên hết hồi này đến hồi khác, cảm thấy có bóng dáng một nụ cười sáng ngời như ánh mặt trời, xuyên qua tầng tầng hoa hạnh, rạng rỡ hiện ra trước mặt tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách