|
Chương 2.2
“Anh nhi, nói ta nghe, nàng thấy thế nào mới gọi là ‘bồi đắp tình cảm’?”.
Nàng có vẻ hơi giật mình. Chàng thấy sóng mắt nàng lưu chuyển, một lát nàng nhẹ nhàng đặt xuống miếng bánh đang nâng lên, đáp ngắn gọn.
“Không được vô sỉ”, vừa nói, vừa nhìn chàng cười nhẹ.
Mạc Quân cau mày.
“Phải cư xử đứng đắn, lịch sự,” nàng nghiêm nghị nói.
Mạc Quân đảo mắt. Đứng đắn, lịch sự bao giờ mới gạo nấu thành cơm được đây!!!
“Như ngài trước đây là được,” nàng kết luận.
Mạc Quân giật mình. Như chàng trước đây? Khoảng thời gian mới kéo được nàng quay trở lại, chàng phải ra sức kiềm chế bản thân, chậm rãi làm quen với nàng lại từ đầu. Lúc đó đâu có khác gì hai kẻ xa lạ mới quen biết xã giao? Bây giờ làm sao chàng chịu được loại cảm giác đó? Nàng không biết rằng nàng là người cực kỳ xa cách và phòng thủ quá sức nghiêm cẩn với thế giới bên ngoài sao? Mặc dù Mạc Quân chàng cũng y chang vậy, nhưng bây giờ yêu nàng rồi, chàng làm sao chịu được nàng hờ hững với mình? Người khác là nạn nhân chả sao, nhưng chàng là nạn nhân thì chàng không chịu được! Mặc dù lừa nàng lấy mình cũng chẳng phải đứng đắn lịch sự gì, nhưng hai kẻ lạnh lùng bên nhau cứ như hai tảng băng, nếu không tạo cớ tiếp cận, làm sao có thể bừng lên lửa nóng? Rõ ràng Anh nhi của chàng vẻ lạnh nhạt bên ngoài chỉ là mặt nạ, sâu thẳm bên trong thì mãnh liệt nóng chảy như lò than, chàng biết rõ hơn ai hết và cũng thưởng thức nhiều hơn ai hết, ngay từ khi nàng còn trong thân thể nữ nhân kia. Muốn chàng lịch sự thanh tao để cho kẻ khác đốt cháy ngọn lửa của chàng? Làm sao có thể được? Ngọn lửa này là của chàng, mặc dù bây giờ chưa hẳn là thế.
“Không được! Đêm qua đã thỏa thuận, trừ ‘chuyện đó’ ra, chuyện gì ta cũng được làm rồi”.
“Từ đầu đến cuối chỉ có ngài tự biên tự diễn”.
“Nhưng nàng im lặng. Im lặng là đồng ý, lên tiếng là xác nhận”.
“Thế thì hỏi tôi làm gì?”.
“Vậy ý nàng là cứ làm, không cần hỏi?”.
“Tôi đã nói ngài là hồ ly mấy lần rồi?”.
“Thêm lần vừa rồi là hai”.
“Vậy thêm lần nữa đi. Đồ hồ ly xảo quyệt!!!”, nàng rít lên trong tiếng cười lớn của chàng.
“Thật sự là,” chàng thu lại nụ cười, nắm lấy tay nàng, vẻ mặt hết sức khó xử, “nàng không nên trách ta. Ta có thói quen phải ôm mới ngủ được”.
“Thói quen này có từ bao giờ?” Thiên Anh trợn mắt.
Mạc Quân vô tội nhìn nàng, nhỏ nhẹ đáp, “Từ đêm qua”.
“Cộng thêm một vạn tám ngàn lần nữa!”.
“Được, tất cả chiều theo nàng”.
Mạc Quân cười đến vô cùng rực rỡ. Chàng làm sao lại không biết thế nào là hồng nhan họa thủy, làm sao lại không biết lợi dụng nam sắc của chính mình để khiến nàng tim đập chân run? Chàng biết rõ, dưới tác động của ánh sáng, gió, nắng và khung cảnh tự nhiên đẹp đẽ phía sau, chính bản thân chàng nhìn có biết bao cuốn hút. Mạc Quân trên mặt vẫn giữ vẻ tươi cười vô tư nhưng trong bụng đã dâng đầy mưu sâu kế hiểm. Nhìn thái độ thiếu tự nhiên của nàng, chàng cho rằng sáng nay công thành thế là đủ rồi, nên thu binh tránh cho lòng người oán hận, liền đứng dậy nói, “Ta về thư phòng, nàng tiếp tục ăn nhé”.
Mạc Quân rời khỏi Vân đình, trong lòng như có trăm ngọn gió xuân thổi tới. Bữa sáng mặc dù chưa ăn chút gì nhưng lại không hề thấy đói, ngược lại vô cùng khoan khoái. Chàng bước tới cửa thư phòng đã thấy Trần quản gia cung kính gọi “Gia” một tiếng rồi cúi đầu nhận lệnh.
“A Phỉ hầu hạ trong phủ ngươi biết không?”, chàng hỏi.
“Dạ bẩm, nô tài biết”.
“Tốt lắm. Ban thưởng vì sự cống hiến cho hạnh phúc vương phủ”.
Trần quản gia há hốc miệng, chưa kịp phản ứng đã thấy chàng thiếu kiên nhẫn phất phất tay áo, sau đó nhấc lên kiếm Thanh Minh, nhanh chóng bỏ đi.
Chương 2.3
Cả vương phủ bề thế là vậy, nhưng nơi duy nhất Mạc Quân ưa thích và thường xuyên tới luyện kiếm là Trúc uyển nằm ở phía Đông phủ, nơi diễn ra sự kiện “lục trúc”, một trong hai dấu mốc đặc biệt nhất cuộc đời chàng.
Đó là một sáng đầu xuân se lạnh. Vị trí lúc ấy hệt như lúc này, chàng đứng trên trảng đất trống hình tròn trong trúc uyển, bao quanh chàng là trúc xanh. Vị vương gia cao ngạo ngày đó đâu hề quan tâm đến vạn vật lưu chuyển xung quanh? Chỉ là giờ khắc ấy, khi chàng múa một bài quyền dài và khó, lúc vung kiếm về trước trong động tác kết thúc, một gối hơi khuỵu, đầu hơi cúi, mắt ngước lên, ánh nhìn quyết liệt hướng về phía trước, mà thẳng đường kiếm của chàng, vầng mặt trời ban mai đang sống dậy tuôn ra muôn ngàn vệt máu đỏ rực rỡ xuyên thấu lớp lớp trúc xanh, rọi thẳng vào mắt chàng. Vị vương gia trẻ tuổi ngây người, mồ hôi chảy dọc hai bên thái dương, hơi thở nồng nàn thanh xuân vì trời lạnh mà hóa thành làn khói trắng mờ, đôi mắt chàng vẫn đang nghiền ngẫm nhìn từng dòng máu mặt trời tưới lên trúc xanh, rồi chàng bỗng nhận ra, đó không phải và chưa bao giờ là màu xanh chết. Màu xanh tưởng chừng như vĩnh cửu của trúc kỳ thực biến ảo khôn lường, sắc độ mỗi lúc một khác nhau, đổi thay liên tiếp, từ khắc này qua khắc khác, giờ này sang giờ khác, mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi mùa, mỗi năm.
Suốt cuộc đời gần như được sắp đặt sẵn của chàng, chưa từng có khoảnh khắc nào nhiệm màu đến thế. Lúc đó, không phải thời gian ngừng trôi hay mọi thứ đứng yên, không phải thứ cảm giác tách rời và xa lạ với thế giới. Lúc đó, chàng không còn là một Mạc Quân mười tuổi đã nổi danh vì trí tuệ và mỹ mạo; hay một Mạc Quân mười một tuổi, cùng đại hoàng tử và lục hoàng tử trở thành ba người xứng đáng nhất kế thừa vương vị; lại càng không phải một Mạc Quân mười sáu tuổi, lần đầu dẫn binh thảo phạt miền Đông Bắc, kể từ đó bách chiến bách thắng. Không còn kiêu căng, không còn bạo ngược, không cả lãnh khốc vô tình. Chỉ còn lại một Mạc Quân với linh hồn tự do, hòa ái; một con người nhỏ bé trong thế gian vạn biến này.
Năm đó Mạc Quân chưa tròn mười tám tuổi.
Không lâu sau sự kiện “lục trúc”, trong một sớm mùa thu, vị thái tử cao cao tại thượng, vị tướng quân lừng lẫy uy danh Mạc Quân biến mất. Bất chấp mọi nỗ lực tìm kiếm của triều đình, không một ai biết chàng đã đi đâu, cứ như thể chàng đã tan biến vào trong màn sương mù ngày ấy, theo gió hoặc mặt trời bay đi khắp nơi. Sau này nhớ lại, chàng vẫn cảm thấy những ngày tháng ấy tuyệt diệu vô cùng. Chàng đã đến rất nhiều nơi, gặp gỡ rất nhiều người, trải qua vô vàn chuyện. Và dù trong một chừng mực nào đó, chàng vẫn giữ khoảng cách với mọi người, nhưng chàng không còn lạnh lùng cao ngạo nữa, mà trở nên phóng khoáng hơn, dịu dàng hơn và nhẫn nại hơn. Chàng thậm chí còn từng múa lân cùng đám trẻ con một dịp Trung thu, hoặc ngồi nghe vị tộc trưởng già nua của bộ tộc thiểu số vùng biển Bắc Hải kể về truyền thuyết hải ngọc… Những năm tháng rong ruổi trên lưng ngựa đó còn chứng kiến mối nhân duyên kỳ lạ của chàng với đệ nhất cầm sư La Huy Xuân Tuyết.
Đó là thời điểm hai năm sau ngày chàng bỏ đi, đại hoàng tử Mạc Hiên lên ngôi vua, xuống chiếu gọi chàng về kinh cống hiến cho thiên triều, nhưng ở núi Hải Sơn, Mạc Quân đã trở thành đệ tử duy nhất và đắc ý nhất của La Huy Xuân Tuyết.
Ba năm sau đó, La Huy Xuân Tuyết trao cho chàng cây Huyền cầm trứ danh thiên hạ, bỏ lại vẻn vẹn bốn chữ, “Đến lúc về rồi”, sau đó nhập thất tu đạo.
Mạc Quân ôm cây đàn một mình xuống núi, quay về kinh đô Châu An.
Năm đó chàng hai mươi tư tuổi.
Chương 2.4
Dấu mốc đặc biệt thứ hai trong đời chàng là với Thiên Anh, diễn ra hai năm sau đó vào một ngày trung tuần tháng bảy, trời rất trong và nắng rất mỏng, khi chàng đã là Hoài Vũ vương, đệ nhất quân sư của Mạc Hưng Đế, và một truyền kỳ của dân gian; còn nàng vẫn chỉ là một linh hồn đến từ thời không khác sống nhờ trong thân xác Dao Thiển. Ngày đó, chàng chưa yêu nàng, càng chưa có hứng thú tìm hiểu nàng; còn nàng, cũng chẳng để mắt để tâm tới chàng. Nhưng đó là ngày đầu tiên chàng và nàng gặp nhau ở Thái Bình lâu.
Có bao nhiêu trà lâu lớn nhỏ trong kinh thành này, vậy mà nàng lại chọn bước vào Thái Bình lâu. Có bao nhiêu chỗ ngồi trong trà lâu này, vậy mà nàng lại chọn ngồi đối diện chàng, cách hai bàn trà nhỏ.
Khi ấy, Mạc Quân đang khép mắt, lơ đãng nghe những người xung quanh trò chuyện. Bỗng mọi âm thanh im bặt, giọng Trần Kiên, trưởng nam phủ Tể tướng đương triều vang lên khe khẽ, “Kia chẳng phải là Dao Thiển, nhị tiểu thư phủ Binh bộ thượng thư hay sao?”.
Chàng nhẹ nhàng mở mắt, ánh nhìn hờ hững quét qua người con gái ngồi cách đó một quãng. Nàng ngồi ngược sáng nên khó mà nhìn rõ từng đường nét trên khuôn mặt, chỉ thấy dưới ánh nắng mỏng manh ngày cuối hạ, khuôn mặt trắng trẻo của nàng, màu áo nguyệt bạch cùng mái tóc đen huyền vấn trâm ngọc như được bao phủ bởi một tầng ánh sáng tinh khiết. Dao Thiển vốn được xưng tụng kinh thành đệ nhất mỹ nhân, nay xuất hiện trong tư thái thanh lệ thoát tục như vậy, quả thật khiến nhiều người nhìn đến mê muội.
Mạc Quân đã gặp nhiều mỹ nhân trong thiên hạ, nhan sắc khuynh thành của Dao Thiển dù không khiến chàng choáng váng, nhưng trong hoàn cảnh này, cũng khiến chàng chú ý. Đặc biệt, nàng dường như không hề để tâm tới những ánh mắt đang dán lấy mình, chỉ thản nhiên mở ra cuốn sách nhỏ, lật qua lật lại, thi thoảng ngẩng mặt nói chuyện rồi cười đùa cùng nha hoàn. Khi đó, Mạc Quân chỉ cảm thấy kỳ lạ, vì Dao Thiển trong trí nhớ của chàng là một người kiêu căng đến độ luôn lấy tư thế bề trên nói chuyện, biểu cảm lạnh lẽo cứng nhắc, sao có thể cùng người dưới trò chuyện thân thiết đến thế?
Bỗng một tiếng “hừm” nặng nề vang lên, chàng liếc mắt đã thấy Triệu Thắng đứng dậy. Triệu Thắng vốn là tứ công tử phủ Triệu võ tướng, trước từng đến phủ Binh bộ thượng thư cầu thân nhưng bị Dao Thiển công khai sỉ nhục, giờ thấy nàng như thế có lẽ sinh tâm bất mãn, muốn kiếm cớ trả đũa nàng.
Triệu Thắng dậm chân bình bịch, một bước, hai bước, bốn bước, sáu bước, đến chỗ nàng. Bóng người to lớn cồng kềnh của hắn đứng sừng sững bên bàn khiến Mạc Quân liên tưởng tới một con gấu đen đúa khổng lồ đến quấy nhiễu trẻ con mà chàng từng gặp trong thời gian phiêu bạt.
Nha hoàn của nàng ngẩng mặt nhìn.
Nàng cũng ngẩng mặt nhìn. Khuôn mặt nàng trong chốc lát thoáng qua vẻ khó hiểu và bối rối.
Một tiếng thì thầm vang lên, “Tiểu thư, đây là Triệu tứ công tử phủ Triệu võ tướng”.
“Thế thì sao?”, nàng hỏi.
Dường như Mạc Quân nghe thấy tất cả những người xung quanh chàng đồng loạt hít vào một hơi. Họ đều có vẻ đang chờ đợi một trận lôi đình mà kẻ phát nổ chính là Triệu Thắng. Khắp kinh thành không ai không biết, Triệu tứ công tử: hữu dũng vô mưu, tính tình nóng nảy, trọng thể diện như trọng mạng sống, nay bị kẻ từng sỉ nhục mình làm ngơ, ắt cảm thấy không thể chấp nhận được.
Quả thật, “rầm” một tiếng, Triệu Thắng đập hai bàn tay to lớn xuống mặt bàn. Chén trà để trước mặt Dao Thiển nảy lên rồi đổ xuống, nước tràn lênh láng, lan cả vào sách và tay áo nàng.
Qua đôi mắt khép hờ, Mạc Quân thấy đầu mày nàng nhăn tít lại. Bằng động tác nhanh đến không ngờ, nàng đứng bật dậy, cấp tốc cứu cuốn sách ra khỏi chỗ nước, xong xuôi quay qua giũ tay áo, giũ cho đến khi toàn bộ lá và cánh hoa ướp trong trà rơi hết ra, sau đó lấy khăn tay thấm khô phần nước ẩm, từ đầu đến cuối không hề dừng lại, cũng chẳng thèm nhìn đến Triệu Thắng đang trơ ra bên bàn mình. Điều này khiến chàng vừa ngạc nhiên vừa buồn cười.
“Dao Thiển!”, Triệu Thắng gầm lên.
“Tiểu thư… ,” nha hoàn của nàng run run.
Nàng hừ lạnh, quắc mắt nhìn một lượt từ trên xuống dưới con gấu khổng lồ đen đúa đang đứng chắn bên bàn và làm đổ chén trà của nàng, “Ngươi là Triệu Thắng? Ta và ngươi có quan hệ gì ư?”.
Triệu Thắng bị câu hỏi của nàng làm cứng họng, miệng mở ra lại đóng vào, đóng vào lại mở ra, tư thái hệt con cá nằm trên thớt chới với ngáp lên ngáp xuống chút hơi ẩm trong không khí. Đương nhiên hắn không thể nói, “Phải, ta chính là Triệu Thắng. Còn ngươi là kẻ thù của ta vì ngươi vừa từ chối lời cầu thân của ta vừa sỉ nhục ta là kẻ xấu xí không xứng với ngươi”. Tất nhiên không thể nói thế, vì như vậy chẳng khác nào tự sỉ nhục mình. Thay vào đó, Triệu Thắng quát lớn, “Nữ nhân đê tiện này-yyy!”.
Nàng bèn trừng mắt với hắn, cái trừng mà Mạc Quân tin chắn rằng, so với kiếm Thanh Minh của chàng, còn sắc lẻm và dữ tợn hơn cả ngàn lần. Có lẽ vì thế mà Triệu Thắng ngây đơ ra một bên, còn nàng kéo tay nha hoàn quay lưng bỏ đi trước con mắt trợn trắng của toàn bộ khách nhân.
Định thần lại, Triệu Thắng điên cuồng đến mức vung tay muốn túm lấy nàng, chưa kịp hành động đã bị Mạc Quân lên tiếng chặn lại, “Triệu công tử, đủ rồi”.
Triệu Thắng, dù ngang tàng đến mức nào, trước mặt Hoài Vũ vương cũng phải cúi đầu kính nể, vì thế đành hậm hực thu tay, quay lại chỗ ngồi.
Còn nàng, lần đầu tiên từ khi bước vào trà lâu, đưa mắt nhìn chàng. Mạc Quân thản nhiên đáp lại cái nhìn đó. Nghiền ngẫm ánh mắt nàng, thay vì tìm thấy những loại cảm xúc thường sẽ phát sinh trong tình cảnh này, ví như, cảm kích, biết ơn hay xúc động, chàng chỉ thấy vẻ… khó chịu.
Tiếp đó nàng quay lưng bỏ đi.
Sau này, Mạc Quân mới biết, sở dĩ nàng chẳng hề tỏ thái độ cảm kích hay biết ơn sự giúp đỡ của chàng lúc ấy là bởi, nàng cho rằng, kẻ có thể giải quyết nhanh gọn như vậy, đến phút chót mới lên tiếng, rõ ràng ý đồ chỉ muốn xem kịch vui, chứ chẳng tử tế hay tốt đẹp gì.
Nghĩ lại những chuyện này, Mạc Quân cảm thấy vô cùng vui vẻ.
Chàng thu kiếm, thân trúc trước mặt hiện lên một chữ “Anh” đẹp mắt. Chàng bước đến, tì trán lên thân cây, nhẹ nhàng vuốt ve mặt chữ, dịu dàng bỏ đi những sợi xơ lem quanh mỗi nét, miệng thì thầm, “Đến bao giờ nàng mới nhìn thấy ta, hả Anh nhi?”.
Đáp lại chàng là một chuỗi những tiếng vi vu của gió luồn trong lá trúc. |
|