Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: YoungBB
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại - Xuất Bản] Trâm - Kẻ Yểu Mệnh | Châu Văn Văn

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 14-8-2016 14:24:32 | Chỉ xem của tác giả
Q.2 - Chương 14.2 Phận Loan Mỏng Manh


Giọng gã khản đặc, mãi mới rặn trong họng ra được mấy tiếng van nài vỡ vụn, cơ hồ không nói nên lời.

Hoàng Tử Hà thở dài, vỗ vỗ vào tay gã trấn an: “Trương nhị ca yên tâm đi, tôi nhất định sẽ vạch trần chân tướng vụ này. Tới lúc đó, hung thủ không còn cách nào lẩn trốn, ắt sẽ bại lộ.”

Trương Hàng Anh trừng trừng nhìn cô hồi lâu, rồi như hiểu ra câu nói ấy, gã nặng nề buông cánh tay suýt nữa bóp gãy vai cô xuống, liêu xiêu lùi lại hai bước, đáp khẽ: “Được… tôi tin huynh… sẽ trả lại sự trong sạch cho A Địch.”

“Trương nhị ca, giờ huynh đã có thể quay về Tả Kim Ngô Vệ, ngày mai huynh đến báo danh được rồi.” Hoàng Tử Hà ngước nhìn gã, dịu giọng nói: “Đừng phụ kỳ vọng của A Địch.”

Ngự Sử Đài là nha môn nghiêm cẩn nhất, trang trọng nhất trong triều, nhưng khi họ bước vào, lại thấy mấy ông già ngự sử trung thừa, thị ngự sử, giám sát ngự sử ngồi quanh Quỳ vương đang tươi cười, hết kéo lại níu y, tựa hồ không hề nhận ra đã đến giờ tan.

Thấy Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần bước vào, Lý Thư Bạch bèn ra hiệu bảo họ đợi, rồi đứng dậy nói với mọi người: “Đây là Dương Sùng Cổ, hoạn quan bên cạnh ta, rất giỏi phá án, hiện cũng là một trong những người được thánh thượng chỉ định hợp tác với Đại Lý Tự. Hắn đến đây ắt để bẩm báo về tiến triển vụ án, bản vương đành phải cáo từ các vị thôi.”

“Cung tiễn Quỳ vương gia.” Người của Ngự Sử Đài niềm nở đứng dậy tiễn y ra đến cửa.

Rời khỏi Ngự Sử Đài, Chu Tử Tần không nhịn được ta thán: “Đám người ở Ngự Sử Đài này đúng là thiên vị hết sức. Lúc ta đến thì lão nào lão nấy hếch mặt lên trời, cứ như ta là mối nhục của triều đình không bằng, chẳng nỡ lấy thêm cho một đôi đũa nữa. Ấy vậy mà vương gia vừa đến thì, công công xem, một loạt gương mặt già quắm cười tươi như hoa cúc, nếp nhăn dãn hết cả ra!”

Lý Thư Bạch cũng không khỏi nhếch môi: “Hôm nay tâm trạng họ vui vẻ đấy thôi.”

“Ô? Người của Ngự Sử Đài cũng có ngày vui à? Chẳng phải ngày nào cũng vênh mặt giáo huấn người ta ư?”

Lý Thư Bạch quay sang Hoàng Tử Hà: “Vì chuyện cây trâm Cửu loan biến mất, hoàng thượng đã triệu tập mấy vị trọng thần lại, yêu cầu tam pháp ty: bộ Hình, Đại Lý Tự và Ngự Sử Đài cùng hội thẩm. Hai ty kia còn đỡ, nhưng mấy ông lão ở Ngự Sử Đài thì phản đối gay gắt, nói rằng tam pháp ty chỉ hội thẩm khi gặp phải vụ án lớn, liên can tới quốc gia xã tắc mà thôi, sao có thể vì công chúa mất một cây trâm mà làm rùm beng, kinh động đến cả tam pháp ty? Xong hoàng thượng lại nói vụ này đã có hai người chết một người bị thương, trước mắt có lẽ công chúa cũng gặp nguy hiểm, nhất định phải tra xét thật nhanh, không được thoái thác. Đôi bên đang tranh cãi thì Đại Lý Tự báo tin kẻ tình nghi đã tự ra đầu thú! Ngự Sử Đài thấy việc nhà của hoàng đế không biến thành việc công của cả triều đình, đương nhiên trên dưới đều hân hoan!”

Chu Tử Tần chau mày: “Nhưng… Tích Thúy không phải hung thủ…”

“Bất kể có phải hay không, giờ cô ta đã bước ra nhận tội, chẳng phải là cơ hội rất thích hợp ư?” Nói đoạn, Lý Thư Bạch liếc xéo Hoàng Tử Hà, “Ngươi muốn tiếp tục điều tra, hoàn thành nhiệm vụ hoàng thượng giao phó, hay dừng tay ở đây thôi?”

“Tích Thúy và nô tài cũng có thể coi là sơ giao, cảnh đời cô ấy đã thê thảm nhường ấy, nô tài không thể để cô ấy chết như thế được.” Hoàng Tử Hà nhíu mày, “Huống hồ, theo nô tài thấy, dù cô ấy đầu thú, chỉ e cây muốn lặng mà gió chẳng dừng.”

Lý Thư Bạch nhướng mày: “Ý ngươi là, có thể hung thủ vẫn chưa chịu ngừng tay?”

“Rất có thể. Vì người chết thứ ba theo như bức tranh vẫn chưa xuất hiện.” Hoàng Tử Hà đặt cuộn tranh vào tay y.

Lý Thư Bạch vừa đi vừa mở ra xem.

Chỉ liếc qua, bước chân y đã khựng lại.

Quỳ vương gia xưa nay điềm tĩnh, vậy mà lúc này đứng giữa hoàng thành, dưới bóng tường bao cao ngất quanh các nha môn, nhìn bức tranh nguệch ngoạc vụng về trong tay, thân hình bỗng sững lại một thoáng.

Trời trong vắt, nắng chói chang, gió lồng lộng cuốn tung ống tay cùng vạt áo ba người bay phần phật.

Hàng mi rợp bóng của Lý Thư Bạch cuối cùng cũng từ từ nhướng lên, y cuộn bức tranh lại đặt vào tay Hoàng Tử Hà: “Cất đi.”

Chu Tử Tần vội hỏi: “Vương gia có thấy cái chết thảm của ba người trong đó không?”

Lý Thư Bạch khẽ gật đầu, “Miễn cưỡng gán ghép thì cũng láng máng hình dung được. Nhưng chuyện hoang đường thế này, sao lại quy là thủ bút của tiên hoàng?”

Chu Tử Tần tức thì tiu nghỉu, đành đáp: “Gia nói rất phải.”

Đoạn gã len lén liếc trộm Hoàng Tử Hà, thấy cô ngày càng giống Lý Thư Bạch, lúc nào cũng ra vẻ bình thản kín đáo, không khỏi than thầm trong lòng rồi nói: “Vương gia, tôi cảm thấy việc Tích Thúy giết Tôn ghẻ còn nhiều nghi vấn, phải đến nghĩa trang xem sao, cáo từ trước vậy.”

Thấy Chu Tử Tần đã đi xa, Lý Thư Bạch bèn ra hiệu cho Hoàng Tử Hà lên xe.

Ngang qua cửa Đại Lý Tự, lính gác cổng tháo dây cương cho Na Phất Sa, nó liền cung cúc đi theo, ngoan đến nỗi khiến người ta phải tấm tắc.

Hoàng Tử Hà lại ngồi xuống chỗ ngồi quen thuộc, chiếc ghế thấp đối diện Lý Thư Bạch.

Y chìa tay ra, cô hiểu ý ngay, vội rút cuốn trục trong ngực áo trình lên.

Lý Thư Bạch trải bức tranh ra bàn. Chiếc bàn hơi nhỏ, nên một phần tranh thõng xuống đầu gối y. Cánh tay y chặn lên cuốn trục, ngón tay chầm chậm dò theo hình vẽ thứ nhất, một người bị lửa thiêu chết, “Lần trước ngươi nói, các ngươi cho rằng đây là hình một người bị lửa thiêu chết ư?”

“Vâng… Chúng tôi còn thấy nét mảnh này giống một tia sét từ trên trời giáng xuống. Nên hình vẽ này giống một người bị sét đánh trúng, lửa bùng lên bao phủ lấy người, đang giãy chết.”

“Người nhà họ Trương nói đây là ngự bút của tiên hoàng, ngươi có tin không?” Y hơi ngước lên nhìn cô.

Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ rồi chậm rãi đáp: “Tôi chưa từng thấy ngự bút của tiên hoàng, không dám khẳng định.”

“Ta thì có thể.”

Lý Thư Bạch điềm nhiên đặt tay lên bức tranh: “Loại mực này là Tổ Mẫn đặc chế cho tiên hoàng. Những năm cuối đời, tiên hoàng không được khỏe nên không thích mùi mực, nhà họ Tổ phải đổi công thức, ngoài những châu ngọc mài ra, còn phải pha thêm vào thỏi mực một loại hương liệu nước ngoài tiến cống, chỉ làm được mười thỏi, đã dùng bảy thỏi, dư ba thỏi đem tùy táng. Nay đã mười năm, mà vẫn còn thoang thoảng hương thơm.”

Hoàng Tử Hà cúi xuống ngửi thử, quả thấy một mùi hương cực nhẹ cực nhạt, khác hẳn bình thường.

Thấy cô ngẩng lên nhìn mình, Lý Thư Bạch lại tiếp: “Tiên hoàng viết chữ hay vẽ tranh, thường ướm thử mấy nét vào bên cạnh trước, đây là thói quen nhiều năm của Người, không phải kẻ thường xuyên cận kề thì không thể biết được. Ngươi xem này…”

Bên cạnh nét mảnh mà họ cho là tia sét, có một vạch mờ như sợi tóc, gần như không thể nhận ra.

“Nét này không như nét bên cạnh, rõ ràng không phải vết lông trên bút để lại, mà là phụ hoàng lúc đặt bút vẽ vô ý làm dây ra.”

“Tôi sẽ đến nhà họ Trương, hỏi cha Trương Hàng Anh về lai lịch bức tranh.”

“Cũng nên hỏi xem, vì sao phụ hoàng lại vẽ ra bức tranh này, hơn nữa còn ban cho một đại phu dân gian.” Lý Thư Bạch chậm rãi dặn.

Hoàng Tử Hà nhìn bức vẽ, lại nhớ đến phản ứng lạ lùng của Ngạc vương.

Quả nhiên, Lý Thư Bạch nói ngay: “Còn bây giờ, chúng ta phải đến phủ Ngạc vương. Chẳng phải ngươi kể, khi trông thấy bức tranh này, Thất đệ phản ứng rất lạ ư.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, đang định nói một tiếng với A Viễn thì nghe thấy tiếng ồn phía trước, xe chạy chậm dần, rồi dừng hẳn ở giao lộ.

Hoàng Tử Hà hé cửa sổ hỏi nhỏ: “Viễn bá, sao thế?”

“Đằng trước náo loạn quá, tắc đường mất rồi.” A Viễn nghển cổ nhìn rồi đáp.

Vừa vén rèm trông ra, cô đã trông thấy Chu Tử Tần đứng ngay cạnh đó, nhăn nhó nhìn sang cô: “Sùng Cổ, ta bị tắc đường.”

“Để tôi xuống xem đằng kia có chuyện gì.” Nói đoạn, Hoàng Tử Hà nhảy xuống xe, xăm xăm chen lên trước.

Chu Tử Tần cũng hớt hải chen đến bên cạnh, mở đường giúp cô: “Nhanh lên nào, đằng trước náo nhiệt lắm, để ta dẫn công công đi xem!”

Hoàng Tử Hà ngán ngẩm: “Tử Tần, tôi không định xem náo nhiệt…”

“Nhưng đây là việc trọng đại của phường Bình Khang, trong kinh cũng hiếm gặp! Công công không xem thì tiếc lắm!” Dứt lời gã đã kéo cô chen vào đám đông.

Lý Thư Bạch lạnh lùng nhìn theo, rồi lệnh cho A Viễn: “Đi thôi.”

“Nhưng giờ không thể đi tiếp được nữa thưa gia.”

“Quay lại, đến Đại Lý Tự.” Thấy Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần sắp mất hút giữa biển người, y cũng dời mắt nhìn sang chỗ khác.

Hoàng Tử Hà theo sau Chu Tử Tần, luồn trái lách phải, cuối cùng cũng chen đến chỗ đông nhất.

Nơi này gần phường Bình Khang, đường sá trong thành Trường An xưa nay rộng rãi, nhưng vì hai bên đường đang nạo vét cống rãnh, lại thêm cây hòe lâu năm mọc chìa ra đường, khiến khúc đường bị choán mất quá nửa, đi lại khó khăn, còn được cả hai phường hát đặt sân khấu đối diện nhau ngay giữa giao lộ, ra sức phô trương thanh thế, tiêu sáo rộn vang, áo xiêm phấp phới, thu hút đám người vô công rồi nghề xúm xít đứng xem, làm tắc nghẽn cả lối đi.

Trong đám đông nhốn nháo ấy, Hoàng Tử Hà liếc thấy cỗ xe nạm vàng khảm ngọc của Đồng Xương công chúa đang dừng ngay giữa đường, không sao di chuyển được.

Bọn Thùy Châu, Lạc Bội, Trụy Ngọc, Khuynh Bích đều đi theo xe, mấy tên hoạn quan và thị vệ hộ tống còn bị người xung quanh chen lấn đến nỗi phải liên tục lùi lại, nhưng trước sau vẫn bám sát bên cạnh cỗ xe, không dám rời nửa bước.

Thấy họ bị vây giữa đám đông, cô bèn đi đến chào hỏi: “Thực khéo quá, công chúa cũng ở đây ư?”

Giữa đám đông chen chúc đến nỗi cựa mình còn khó, vậy mà Thùy Châu vẫn thi lễ đáp: “Thưa vâng. Công công hôm nay… cũng đi xem náo nhiệt với Chu thiếu gia à?”

Hoàng Tử Hà vừa gật đầu thì Đồng Xương công chúa đột ngột vén rèm xe lên nhìn cô. Hàng lông mày của công chúa vốn mỏng manh mà sắc sảo, giờ đang nhíu lại buồn bực, càng toát lên vẻ ngạo nghễ lấn lướt: “Dương công công cũng ở đây ư? Người của Đại Lý Tự đâu rồi? Sao không mau giải tán bớt đám đông đi?”

Nghe giọng điệu công chúa đầy tức giận, rõ ràng đang lạm quyền quá phận, chỉ huy cả người của quan phủ, Hoàng Tử Hà ngán ngẩm thưa: “E rằng công chúa phải thất vọng rồi, nô tài tới đây một mình, không dẫn theo ai cả.”

“Hừ, sớm không tắc muộn không tắc, đúng lúc xe ngựa của bản cung đi đến đây thì tắc đường! Lại phải hôm đi vội quá, chỉ đem theo mấy đứa vô tích sự này!” Đồng Xương công chúa vừa miệt thị đám tùy tùng, vừa quay sang mắng người đánh xe té tát: “Kể cả vào bằng cửa Phượng Hoàng, động đao động kiếm thì đã sao, lẽ nào bản cung chưa gặp thái tử bao giờ chắc?”

Tên đánh xe bị mắng sa sả, chỉ biết cúi đầu vâng dạ rối rít.

Nghe nói đến cửa Phượng Hoàng, Hoàng Tử Hà thoáng ngẩn ra, vội hỏi: “Công chúa mấy hôm nay khó ở, nên tĩnh tâm nghỉ ngơi cho khỏe, sao tự dưng lại muốn đến cung Thái Cực?”

Thùy Châu khẽ gật đầu, lo lắng nhìn dòng người phía trước rồi thì thào: “Thục phi đang đợi công chúa…”

Cung Thái Cực hiện nay chỉ có Vương hoàng hậu ở, vậy mà giờ Quách thục phi lại ở đó, còn hẹn Đồng Xương công chúa đến đó gặp, không hiểu là chuyện gì?

Cô sực nghĩ đến một chuyện, vội gặng: “Hoàng thượng có ở đó không?”

“Nô tỳ không biết… Thục phi chỉ sai người tới báo cho công chúa thôi.” Thùy Châu lấm lét đáp.

Hoàng Tử Hà hiểu ra ngay, hôm nay ắt là thời khắc quan trọng của Vương hoàng hậu, mà Quách thục phi gọi Đồng Xương công chúa đến, là muốn giáng cho hoàng hậu một đòn chí mạng.

Nhớ lại lần triệu kiến trước, Vương hoàng hậu từng thuận miệng nhắc tới việc hồi cung, hơn nữa có vẻ đã nắm chắc thắng lợi trong tay, ắt hẳn bà ta phải có một con cờ đủ sức đối phó với Quách thục phi, nhưng… liệu hôm nay có dùng được không?

Còn đang nghĩ ngợi thì tiếng nhạc rộn lên, ra là trận so tài giữa hai phường hát đã đến lúc quyết thắng bại. Nữ tử áo đỏ bên phải đang múa điệu Hồ toàn vũ, cứ xoay tròn nhanh như gió, khiến người xem bên dưới luôn miệng hoan hô; còn nữ tử áo xanh bên trái lại cất cao giọng ca bài Xuân giang hoa nguyệt dạ, giữa những tiếng ồn ào huyên náo mà tiếng ca vẫn vang lên lảnh lót, đủ thấy giọng khỏe đến đâu. Lại vừa khéo hát đến hai câu:

Cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy,

Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.

Một điệu múa được du nhập từ Tân Cương vào triều đại nhà Đường, nhấn mạnh vào chuyển động của cổ. Vũ công đứng trên một tấm thảm lông tròn và nhảy múa, mỗi màn vũ đạo có hàng trăm tư thế khác nhau. Điệu múa này hiện vẫn tồn tại ở các nước Trung Á, Kazakhstan, Pakistan, Tajikistan, cũng như địa khu Tân Cương của Trung Quốc.

Ánh mắt Hoàng Tử Hà bất giác liếc sang Đồng Xương công chúa.

Xong công chúa dường như chẳng để tâm, vì còn đang cau có rủa xả: “Đám con hát đáng ghét này, lúc nào ta phải nói với phụ hoàng đuổi cổ tất cả bọn chúng ra khỏi thành Trường An mới được!”

Đoạn, nàng thả tấm rèm xe xuống đánh xoạch. Đám người ùn ùn chen lấn khiến hai con ngựa kéo xe kinh hãi, bắt đầu rục rịch di chuyển, làm thùng xe lắc lư.

Thùy Châu vội giữ lấy cửa xe hỏi vọng vào trong: “Công chúa không sao chứ?”

Chưa nói dứt câu, công chúa đã đẩy bật cửa ra nhảy xuống.

Nàng đang ốm, tính tình lại nóng nảy, lần này nhảy xuống quá nhanh, hai chân loạng choạng, suýt nữa thì ngã nhào.

Thùy Châu vội đỡ lấy nàng, mười mấy hoạn quan đi theo cũng xúm lại, rẽ đám đông ra.

Con phố đã chật cứng, mười mấy người này lại chen vào làm nhốn nháo cả lên, những người đang xem ca múa cạnh đó bị chen đến nỗi ngã dúi dụi, vài kẻ nóng nảy bèn quát: “Làm cái gì thế? Hoạn quan thì to lắm à? Hoàng thượng có đến cũng không thể cấm dân chúng xem ca múa được!”

Đúng lúc ấy, ánh mắt Đồng Xương công chúa bỗng sững lại giữa đám đông, nàng trợn tròn đôi mắt sắc lẹm, kêu lên thất thanh: “Trâm Cửu loan!”

Hoàng Tử Hà nhìn theo ánh mắt nàng, xong chỉ thấy đầu người lô nhô, có mấy cô gái làng chơi cài trang sức hoa lệ, nhưng màu sắc và tạo hình đều hết sức dung tục, đâu giống trâm Cửu loan đúc từ nguyên một khối ngọc.

Mấy ả thị nữ bên cạnh Đồng Xương công chúa cũng nhớn nhác nhìn quanh tìm kiếm, Thùy Châu buột miệng hỏi: “Công chúa thấy trâm Cửu loan ư? Nhưng… nô tỳ không thấy đâu cả…”

“Ở bên kia kìa, có người đang cầm đấy!” Đồng Xương công chúa trỏ về hướng Tây Nam, chân cũng dợm bước về phía đó.

Đám đông đang ùn lên, toán thị vệ phía sau chưa chen được đến, mấy tên hoạn quan lại đã bị đẩy ra ngoài rìa, chỉ còn mấy thị nữ ở cạnh công chúa, nhưng chẳng theo kịp.

Thùy Châu vội vươn tay níu nàng lại: “Công chúa cẩn thận đấy…”

Chưa nói dứt câu thì Đồng Xương công chúa đã bị tóm lấy cổ tay kéo mạnh, ngã chúi về phía trước. Thân hình nàng nhỏ nhắn, lại đột nhiên bị lôi vào đám đông, dòng người vừa tách ra đã nhanh chóng khép lại, chẳng khác nào một con thú dữ há hoác cái miệng to như chậu máu, tức thì nuốt chửng nàng.

Trên sân khấu hai bên, mấy chục nữ tử đang đồng ca khúc Xuân giang hoa nguyệt dạ, tiếng ca du dương uyển chuyển khôn xiết, đến cuối cùng thì át hết mọi âm thanh khác, chỉ còn tiếng ngân lảnh lót của ca nữ kia, chuyển âm ở chỗ cực cao chẳng khác nào băng qua vạn núi, quanh co khúc khuỷu, vút tận trời xanh.

Điệu Hồ toàn vũ đang vào hồi nhanh nhất, cả sân khấu đâu đâu cũng thấp thoáng bóng dáng yêu kiều mềm mại của vũ nữ nọ. Nàng dang hai tay ra, ngửa mặt lên trời, nhoẻn cười tươi tắn mà xoay tròn thật nhanh. Chiếc khăn chít trên đầu nàng, vạt áo nàng, gấu quần nàng, cùng mái tóc được tết thành cả trăm bím nhỏ đều xõa ra xoay tròn, như một dòng suối đủ màu.

Tiếng hét kinh hoàng của bọn Thùy Châu chìm trong tiếng nhạc rộn rã. Trước con mắt của mấy chục người, công chúa bị lôi vào đám đông, mà tất cả những kẻ bên cạnh nàng đều ngây ra không dám tin là sự thực, cũng không kịp phản ứng gì.

Hoàng Tử Hà định thần lại trước nhất, lập tức tách đám người chen vào.

Giữa đám đông chen chúc với đủ màu quần áo, đủ loại người, cô cũng mất phương hướng, cứ ngẩn ra không biết phải chạy về phía nào. May sao, đúng lúc này, có người tóm cổ tay kéo cô ra.

Hoàng Tử Hà quay lại thì thấy Chu Tử Tần. Gã khá cao, lại ra sức gạt đám đông, cuối cùng cũng tóm được cô.

Chỉ thấy gã nhìn trái ngó phải rồi hỏi: “Công chúa đâu? Công công thấy công chúa rồi à?”

Hoàng Tử Hà lắc đầu nhíu mày: “Mau lệnh cho hai đoàn ca múa kia rút đi, e rằng công chúa xảy ra chuyện rồi.”

“Lẽ nào lại thế, ở đây đông thế này, lại ngay trước mặt mọi người, có thể xảy ra chuyện gì được chứ?” Chu Tử Tần phản bác, nhưng cũng quay đi tập trung các thị vệ hoạn quan, để họ mau chóng giải tán đám đông.

Tiếc rằng người nhiều như thế, lại đang ầm ĩ hỗn loạn, trong chốc lát không thể giải tán ngay được.

Thùy Châu lo lắng: “Trước lúc biến mất, công chúa còn kêu lên thất thanh: ‘Trâm Cửu loan’, nên nô tỳ nghĩ nhất định có kẻ dùng trâm Cửu loan dụ công chúa đi. Công công… chúng ta phải đi đâu tìm công chúa đây?”

Hoàng Tử Hà bất giác đưa mắt tìm Lý Thư Bạch trong đám đông. Trí nhớ của y rất tốt, bốn đường lớn, mười sáu đường nhỏ, một trăm hai mươi ba ngõ ngách trong phường Bình Khang, hẳn y rõ hơn ai hết.

Nhưng lúc này Lý Thư Bạch không ở cạnh cô.

Bản thân cô lại không thông thuộc phường Bình Khang, đành bàn bạc với Chu Tử Tần, loại trừ các con đường tập trung nhiều phường nhạc kỹ, các phố có quán rượu đông người lắm tai mắt cùng các ngõ cụt đằng trước, chọn ra hơn mười con đường có khả năng nhất.

Tiếp đó, lại phân công đám hoạn quan và thị vệ phủ công chúa đang cuống cuồng như nhặng vỡ đàn tỏa ra tìm kiếm từng đường.

Xong xuôi tất cả, Hoàng Tử Hà ngoái lại, thấy các thị nữ hầu hạ công chúa chỉ còn ba ả, bèn hỏi: “Thùy Châu đâu rồi?”

“Hồi nãy Thùy Châu đuổi theo công chúa, cũng bị dòng người nuốt chửng rồi…” Trụy Ngọc chưa nói hết câu, chợt nghe thấy tiếng la đằng xa, sau đó là tiếng gọi kinh hoàng, lúc này, khi đám đông đã vãn, không gian yên tĩnh phần nào, nghe càng thêm thê thiết: “Người đâu… người đâu rồi…”

Là giọng Thùy Châu.

Chu Tử Tần và Hoàng Tử Hà phản ứng nhanh nhất, lập tức chạy ngay đến.

Sau bức tường bao, còn thừa ra đến ba bốn thước đất trống. Dây hoa sao tốt tươi bò tràn trên sân lên tường, từng mảng hoa đỏ thắm nổi bật trên nền lá xanh, trông như những vệt máu loang lổ.

Ở cuối mảng hoa lá dày rậm, thân hình Đồng Xương công chúa đang dựa vào tường, từ từ trượt xuống. Mắt nàng nhắm nghiền, xong thân thể vẫn không ngừng co giật.

Trên tấm áo đỏ thêu đầy bươm bướm ướt đẫm một mảng đỏ thẫm khác thường, chói chang dưới nắng.

Phía sau đám dây leo chằng chịt là cỏ dại um tùm, lúc này, chỉ có mấy nhành xác pháo trơ trọi rung rinh.

Thùy Châu liêu xiêu chạy đến, vấp phải dây leo ngã lăn ra, nhưng chẳng biết ả lấy đâu ra sức lực, vẫn vừa khóc lóc vừa lê đến bên cạnh công chúa, ôm chặt lấy nàng, sợ đến nỗi mặt mày tái ngắt không kêu nổi nữa, chỉ biết bịt chặt vết thương đang chảy máu xối xả trên ngực công chúa, tiếc rằng tay ả sao níu giữ nổi sự sống cho công chúa, đành trơ mắt nhìn sức thanh xuân của nàng trôi đi theo dòng máu tươi ấm nóng, thấm vào lòng đất đang bừng bừng nhựa sống rồi tiêu tan.

Vẻ mặt Thùy Châu đờ đẫn, như không thể đối diện với sự thực tàn nhẫn đau đớn trước mặt.

Chân Hoàng Tử Hà cũng ríu cả lại, cô loạng choạng chạy đến thì trông thấy cây trâm Cửu loan vốn đã biết mất đầy bí ẩn giờ đang nằm im lìm trên nền đất thấm đầy máu công chúa, giữa đám dây leo bị giày xéo giẫm đạp.

Máu tươi nhỏ xuống miếng ngọc chín màu kỳ lạ được chạm thành chín cánh chim loan phượng khoan thai bay lượn, trông càng lộng lẫy ấm áp khôn xiết.

Mà đuôi trâm được đẽo thành vành trăng khuyết, giờ đã gãy lìa, cắm ngay giữa ngực công chúa.

Máu tươi loang đỏ, càng làm nổi bật hai chữ triện cổ khắc bên trên.

Ngọc Nhi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 14-8-2016 14:25:57 | Chỉ xem của tác giả
Q.2 Chương 15 Lên Tận Mây Xanh


Chiều trong cung Thái Cực, cả gió cũng nhẹ nhàng êm dịu.

Điện Lập Chính nguy nga sừng sững, toát lên vẻ ung dung.

Quả là một nơi phù hợp với Vương hoàng hậu. Hoàng hậu sống ở đây chẳng khác mẫu đơn nở trong giếng vàng, đã rực rỡ lại thêm lộng lẫy.

Dọn đến đây hơn một tháng, đột nhiên hoàng thượng lại dắt Quách thục phi đến thăm, hoàng hậu thừa hiểu là ý gì, nhưng vẫn điềm nhiên, tươi cười niềm nở, ung dung thoải mái ra đón hai người vào, như thể mình vẫn đang ở giữa gác Bồng Lai, nắm trong tay tính mạng của mấy vạn người trong cung Đại Minh cho tới muôn vạn người thiên hạ.

Hoàng đế ân cần hỏi: “Ở đây có quen không? Hình như hoàng hậu rất thích chỗ này.”

Vương hoàng hậu cười nhìn ngài ngự, đáp khẽ: “Thần thiếp nào dám thích, kẻo hoàng thượng lại ban cho thiếp ở nơi này mãi mãi.”

Hoàng đế nhìn nữ nhân mình hiểu rõ nhất mà cũng lạ lẫm nhất dưới gầm trời này, bỗng dưng chẳng biết nói gì.

Quách thục phi giơ quạt che miệng cười nói: “Thì ra hoàng hậu vẫn thích cung Đại Minh ư? Cũng phải thôi, gác Bồng Lai mùa hè là mát nhất. Chỉ sợ không bao lâu nữa vào thu, điện gác bỏ không lại sinh ra lạnh lẽo, phải bày biện thêm nhiều đồ đạc cho ấm cúng.”

“Dù lạnh lẽo, nhưng luận về cảnh trí thì đó là nơi đẹp nhất trong cung, chỉ thua chỗ bệ hạ mà thôi. Ta thấy nếu có cơ hội, hẳn thục phi cũng thích lắm.”

Quách thục phi ngạo nghễ đáp: “Thần thiếp nào dám vọng tưởng…” Dứt lời, lại ngóng nhìn ra phía ngoài.

Hoàng hậu vẫy vùng trong cung bấy nhiêu năm, đã hiểu rõ Quách thục phi như lòng bàn tay, bèn hỏi: “Linh Huy đi đường bị chậm trễ gì ư?”

Hoàng đế kinh ngạc hỏi: “Linh Huy sắp đến à?”

“Thưa vâng, công chúa cứ nói muốn đến cung Thái Cực thăm hoàng hậu, nhưng chưa có dịp. Hôm nay nhân cơ hội hoàng thượng đến chơi, thiếp bèn sai người báo cho nó.”

Hoàng đế tỏ vẻ khó chịu: “Hôm nay chỉ có mấy lời quan trọng định nói với hoàng hậu, việc gì phải gọi Linh Huy đến cho rầy rà?”

Hoàng hậu cười nhìn hoàng đế: “Thục phi sợ hoàng thượng mềm lòng, nếu có Linh Huy mà hoàng thượng yêu thương nhất ở đây, may ra có thể cảnh tỉnh đôi phần chăng?”

Hoàng đế biết hoàng hậu đã thừa hiểu mục đích chuyến thăm này, giờ còn nói toạc ra, khiến ngài ngự có phần lúng túng, đành đi thẳng vào đề: “Nếu hoàng hậu ưa thanh tĩnh thì trẫm có thể thành toàn cho nàng.”

Vương hoàng hậu nhoẻn cười đáp: “Thần thiếp không phải không ưa tĩnh, nhưng mười mấy năm nay đã cùng bệ hạ dõi mắt trông khắp giang sơn gấm vóc, ngắm hết thịnh thế phồn hoa. Nếu trời cao rủ lòng thương, mong rằng hãy để thiếp được bầu bạn bên bệ hạ suốt đời này, răng long tóc bạc.”

Quách thục phi cười cười, hờ hững chêm vào: “Tấm lòng của hoàng hậu cũng bao la quá, bệ hạ là của chung thiên hạ, há có thể cùng một người đàn bà răng long tóc bạc hay sao?”

Vương hoàng hậu ngồi ngay ngắn trước mặt Quách thục phi, cười đáp: “Thục phi không hiểu rồi. Bản cung là hoàng hậu, là chính cung của bệ hạ, tuy trời cao vô tình, nhưng vợ chồng kết tóc mười mấy năm, cũng đã chung vai trả vô vàn mưa gió. Dưới gầm trời này, nếu có kẻ nào có thể bạn bầu cùng bệ hạ, thì đương nhiên là bản cung.”

Tính tình hoàng đế vốn ôn hòa độ lượng, giờ lại nghe hoàng hậu nói vậy, bất giác nhớ đến bao hồi ức xa xưa, lại thấy dung mạo hoàng hậu vẫn hệt như năm ấy, tóc vấn thành ba búi, cài cây trâm mành mành vàng ròng chạm hình sẻ xanh, phục sức lộng lẫy, xong không che lấp được mảy may ánh hào quang hấp dẫn tự thân.

Đây là nữ tử đã kề cận bên mình mười mấy năm, mỹ nhân trong cung cũng như hoa, hết mùa này sang mùa khác, lần lượt nở rộ rồi tàn lụi, chẳng cách nào khôi phục lại nhan sắc năm xưa, duy chỉ có người này càng ngày càng rực rỡ, càng kiều diễm mê người.

Vì vậy, dù biết hoàng hậu đã lừa dối mình, dù biết quá khứ của hoàng hậu không thể chấp nhận được, xong hoàng thượng vẫn tự an ủi, trên đời này chỉ có mình là người phù hợp với hoàng hậu nhất, dẫu trước kia hoàng hậu từng qua lại với kẻ nào, thì chỉ khi ở cạnh mình, hoàng hậu mới phơi bày dung mạo mỹ lệ yêu kiều nhất. Có vậy, ngài ngự mới không thấy uổng phí tình cảm mười mấy năm nay.

Nghĩ đến đây, hoàng đế lại không nén nổi tiếng thở dài. Ngài nhìn sang hoàng hậu, căn dặn: “Hoàng hậu cứ nghỉ ngơi cho khỏe, để trẫm cân nhắc thêm đã.”

Vương hoàng hậu uyển chuyển vái chào, xong khi ngẩng lên đã rưng rưng nước mắt, gương mặt kiều diễm vẫn cười mà hai mắt thì ầng ậc nước, nhìn đáng thương khôn tả.

Thấy hoàng đế đứng dậy đi ra, Quách thục phi bất giác buột miệng: “Không phải bệ hạ có chuyện muốn nói với hoàng hậu ư?”

Hoàng đến chẳng buồn ngoái lại, vừa xăm xăm đi ra vừa đáp: “Vốn chỉ nói tới thăm hoàng hậu thôi mà, đây cũng là trẫm quan tâm hoàng hậu. Phi biết rõ Linh Huy đang ốm, lại bảo nó ra ngoài, còn không nói với trẫm, quả là quá phận.”

Quách thục phi ấm ức, lỡ miệng cãi lại: “Linh Huy là con gái thần thiếp, bảo nó tới thì có gì là quá phận…”

Vừa buột miệng, phi liền thấy không ổn, vội im bặt.

Hoàng đế đã ra khỏi điện Lập Chính, đang xuống thềm.

Quách thục phi bị bỏ lại chỉ biết đứng ngẩn ra giữa điện, ngoái đầu thì thấy Vương hoàng hậu thong thả tiến lại. Hoàng hậu cười đầy ẩn ý, ghé tai hỏi nhỏ: “Thục phi định dựa vào Đồng Xương chứ gì? Bản cung thực không biết, các triều đại xưa nay có phi tần nào dựa vào con gái mà leo lên được không?”

Nhìn nụ cười của hoàng hậu, Quách thục phi bỗng thấy kinh hãi vô cớ, vội lùi lại, cãi cố: “Đã có hoàng hậu sinh được con trai bị biếm vào lãnh cung, tất cũng có phi tần sinh được con gái mà thăng tiến.”

“Chẳng phải vì năm ấy nói được một câu ‘sống được’ đấy ư” Vương hoàng hậu cười cười nhìn Quách thục phi, ánh mắt đầy khinh miệt và giễu cợt, xong giọng điệu vẫn dịu dàng uyển chuyển, điềm đạm khoan thai: “Một người đàn bà không có con trai mà dám vọng tưởng leo lên đỉnh cao nhất của cung Đại Minh, bản cung thật thương hại cho ngươi.”

Lồng ngực Quách thục phi phập phồng dữ dội, bà ta trừng mắt nhìn hoàng hậu đầy căm hận. Hồi lâu mới cúi gằm mặt xuống, chẳng nói nửa lời, quay ngoắt người đi thẳng ra ngoài điện.

Đúng lúc Quách thục phi bước xuống thềm thì thấy mấy tên hoạn quan hớt hải chạy tới, ngoài Trường Khánh khi nãy vẫn đợi bên ngoài, còn có Đức Chính, đại hoạn quan trong cung bà ta, cùng đám hoạn quan phủ công chúa và phủ Quỳ vương, những kẻ đáng lẽ không thể xuất hiện.

Hoàng đế thấy mấy tên hoạn quan hoảng hốt lao tới bèn hỏi: “Có gì mà hớt hơ hớt hải thế?”

Trường Khánh và Đức Chính tức thì quỳ sụp xuống đất, nước mắt ròng ròng, không dám lên tiếng.

Hoàng Tử Hà trịnh trọng quỳ xuống bẩm báo: “Khởi bẩm bệ hạ, trên đường đến cung Thái Cực, Đồng Xương công chúa đã bị tập kích.”

Hoàng đế kinh hoàng hỏi ngay: “Bị tập kích à? Có bị thương không?”

Hoàng Tử Hà đáp khẽ: “Thương thế rất nghiêm trọng.”

Hoàng đế tái mặt: “Đồng Xương đang ở đâu rồi?”

“Muôn tâu, đã tức tốc đưa về phủ công chúa, cũng vào cung mời thái y rồi.”

Hoàng đế nghe nói liền phất tay áo đi thẳng ra cửa cung, gọi lớn: “Phùng Hàn!”

Từ Phùng Hàn theo hầu bên cạnh vội vã chạy theo: “Hoàng thượng đừng lo, công chúa ở hiền gặp lành, nhất định sẽ không việc gì…”

“Đến phủ Đồng Xương ngay!” Hoàng đế thô bạo ngắt lời.

Quách thục phi theo sau hoàng đế, mặt mày tái mét, lúc ngang qua Hoàng Tử Hà vẫn quỳ dưới đất, bà ta giận dữ trỏ cô mắng: “Làm hoàng thượng kinh sợ như thế, khi nào công chúa khỏe lại thì ngươi biết tay!”

Công chúa không khỏe lại được nữa rồi.

Hoàng Tử Hà nghĩ bụng. Đợi Quách thục phi đi khỏi, cô mới từ từ đứng dậy thở hắt ra.

Trời xanh lồng lộng, ngày dài đằng đẵng. Linh hồn Đồng Xương công chúa đã về chốn suối vàng trời biếc, chẳng còn dây dướng với thế gian này nữa.

Sinh thời phồn hoa, lễ tang long trọng, cũng chẳng liên quan gì tới nàng nữa.

Hoàng Tử Hà giơ tay lên, nhìn vết máu Đồng Xương công chúa trên đó.

Nàng công chúa được cả thiên hạ ngưỡng mộ, lớn lên giữa lầu son gác tía, bọc trong gấm lụa lượt là, ngọc ngà châu báu, nhưng có ai hay, nàng lại chết đi giữa độ xuân xanh, trong một góc tường hoang phế chỉ có dây leo và cỏ dại, ngay khi vừa rời khỏi các thị nữ vỏn vẹn một khắc.

Khi phát hiện Đồng Xương công chúa đã chết, các thị nữ hầu hạ nàng đều sợ đến ngã quỵ xuống đất, khóc lóc thảm thiết, Trụy Ngọc vừa khóc vừa gào lên: “Nhất định là Phan thục phi nhà Nam Tề! Bà ta đã lấy trâm Cửu loan đi, giờ lại dùng nó sát hại công chúa!”

Những kẻ khác không dám lên tiếng, nhưng nhìn vẻ kinh hoàng và khiếp hãi trong mắt họ, Hoàng Tử Hà hiểu, tất cả đều đồng tình với Trụy Ngọc.

Sau khi gây án, hung thủ hốt hoảng chạy đến khúc ngoặt rồi vượt tường nhảy ra ngoài, vết chân xéo lên cỏ dại vẫn rành rành. Tường bao ở đây sát với con phố vừa tắc nghẽn phải giải tán, ngoài đường người đi lại nườm nượp, không ngừng tỏa ra bốn phía, sai dịch tức thì tóm lấy mấy kẻ lảng vảng phía ngoài hỏi han nhưng họ đều nói mình không để ý thấy ai vượt tưởng nhảy ra cả.

Xem ra manh mối chủ yếu trong vụ này, ngoại trừ đối chiếu dấu vết hiện trường, thì chỉ còn cách tra xem, rốt cuộc kẻ nào có thể đánh cắp trâm Cửu loan giữa trùng trùng vòng vây canh gác của phủ công chúa, rồi đến hôm nay lại dùng chính nó đâm chết công chúa.

Kẻ đánh cắp cây trâm ắt có liên quan mật thiết đến hung thủ.

Hoàng Tử Hà đang mải ngẩm nghĩ, không để ý có người đến gần mình.

Chợt một giọng thanh thanh có phần hơi the thé cất lên: “Chim trên cành, cá trong nước, người dưới hoa. Cảnh sắc đẹp thế này, chẳng hay Dương công công còn ngẩn ngơ nghĩ ngợi chuyện gì?”

Thình lình nghe thấy tiếng nói sát bên cạnh, Hoàng Tử Hà giật bắn mình, vội bước lên một bước rồi mới ngoái đầu trông lại.

Là một nam nhân áo tím, tuổi chừng ba mươi, da dẻ trắng đến lạ thường, xong cặp mắt lại đen thẫm, thân hình gày gò dong dỏng cao đứng tựa vào cội hoa phía sau cô.

Nhưng dù đang mỉm cười, dù những đóa hoa trên cây lả tả trút xuống người, thì toàn thân y vẫn toát lên vẻ lạnh lẽo. Ánh mắt y dừng trên mặt Hoàng Tử Hà, khiến cô bất giác rùng mình.

Bỗng chốc, cô nhớ đến gã đàn ông với cặp mắt rắn độc từng nhìn mình chòng chọc ở cung Thái Cực lần trước, bất giác nhìn xuống tay y. Trong chén sứ trắng to bằng cái bát, hai con cá đỏ đang bơi lượn.

Thấy ánh mắt cô dừng ở hai con cá, y cười hỏi: “Dương công công cũng thích cá ư?”

Cá. Hai con cá quẫy mạnh chiếc đuôi xòe như sa mỏng, nghe tõm một tiếng.

Hoàng Tử Hà bỗng định thần lại. Cả triều đình Đại Đường này, chỉ có duy nhất một nội thị được mặc áo tím mà thôi.

Vừa nghĩ tới người này, cô vội quỳ sụp xuống đất: “Dương Sùng Cổ tham kiến Vương công công.”

Người kia nhìn xuống, giơ tay ra ý bảo cô đứng dậy. Nhìn vết máu long lổ trên tay cô, y hỏi: “Nghe nói…Đồng Xương công chúa xảy ra chuyện ư?”

Hoàng Tử Hà thoáng ngần ngừ, rồi gật đầu.

Vẻ mặt y vẫn điềm nhiên, khóe môi chỉ hơi nhếch lên đầy lạnh nhạt: “Nào, ngươi chìa tay ra đây.”

Hoàng Tử Hà chần chừ chìa tay ra trước mặt y.

Người nọ nắm lấy cổ tay cô, ngón tay y chẳng những trắng đến lóa mắt, mà còn mịn màng lành lạnh như ngọc chuốt, ấn mấy ngón tay dính máu của cô vào chén sứ.

Vết máu đã khô lại loang ra trong nước, mấy cục máu nhỏ cũng tróc ra.

Hai con cá tức thì bơi về phía mấy đốm máu nhỏ, tham lam mút mát vết máu trên ngón tay, khiến Hoàng Tử Hà sởn cả gai ốc.

“A Già Thập Niết thích nhất máu người. Nghe nói Quỳ vương cũng nuôi một con, Dương công công nhớ đem bí quyết này mách lại với vương.”

Nghe giọng nói lạnh lẽo của y, cô bất giác rùng mình, rụt phắt tay lại, làm bắn nước lên cánh tay trái đang cầm chén sứ của y, ướt cả tay áo, mặt y cũng dính vài giọt nước.

Y giơ tay phải lên nhẹ nhàng lau nước trên mặt, lặng lẽ nhìn cô.

Lưng Hoàng Tử Hà đầm đìa mồ hôi lạnh, cảm giác kinh hãi như bị rắn độc nhìn chòng chọc lại quặn lên. Cô vội vã hành lễ: “Vương công công thứ tội! E rằng tiểu nhân phải tới phủ công chúa ngay bây giờ.”

“Đi đi.” Y vẫn điềm nhiên, chỉ hơi nhấc tay làm hiệu.

Hoàng Tử Hà lập tức đứng dậy, lùi lại mấy bước rồi quay lưng chạy thẳng.

Phủ công chúa đang náo loạn.

Phát hiện ra đứa con gái mình yêu thương nhất chết ngoài đường, hoàng đế nổi cơn thịnh nộ. Các ngự y chẩn trị là xui xẻo nhất, vì không cứu được công chúa nên cả ba người đều bị lôi xuống phạt trượng, lúc Hoàng Tử Hà đến thì đã chết mất hai.

Hoàng Tử Hà hay tin, bèn đứng cùng Chu Tử Tần thì thào trao đổi.

“Nhưng lúc chúng ta phát hiện thì công chúa đã chết rồi, có là Hoa Đà tái thế cũng không thể cải tử hoàn sinh được…” Chu Tử Tần sợ ra mặt, giọng nói cũng run lên, “Sùng Cổ, giờ làm sao đây? Hoàng thượng cứ trút giận lên người khác thế này, e rằng sẽ có rất nhiều người bị vạ lây!”

Hoàng Tử Hà nhìn vị ngự y bị lôi xềnh xệch ra, cau mày nói nhỏ: “Công tử lo cho mình trước đi, hoàng thượng đích thân giao phó cho chúng ta phụ trách vụ này, kết quả án chưa phá được thì công chúa đã bị giết, công tử nghĩ hoàng thượng có bỏ qua cho chúng ta không?”

Mặt Chu Tử Tần càng tái ngắt, mồ hôi trán túa ra đầm đìa: “Sùng Cổ này, chúng ta phải đi tìm Quỳ vương nhờ cậy thôi…”

“Giờ gia ở đâu? Công tử định đi đâu mà tìm?” Hoàng Tử Hà ngao ngán hỏi.

Sắc mặt Chu Tử Tần lập tức xám ngoét: “Vậy, vậy làm sao đây?”

“Lập công chuộc tội thôi.” Hoàng Tử Hà vừa dứt lời đã thấy một người bên trong sải bước đi ra, gầm lên: “Những kẻ nào trong phủ công chúa theo Đồng Xương ra ngoài? Tất cả phải bồi táng theo công chúa hết! Để bọn chúng xuống dưới đó tiếp tục hầu hạ Đồng Xương!”

Là đương kim hoàng đế, người cha đang cả giận mất khôn.

Cả đám hoạn quan và cung nữ nơm nớp đợi bên ngoài phủ, chợt nghe thấy tiếng quát như sét đánh giữa trời quang, tức thì đều òa khóc nức nở, bọn Thùy Châu vật vã dưới đất, mặt mày tái nhợt.

Chu Tử Tần nghe vậy thì cuống cả lên, liều mạng tâu trình: “Bệ hạ, người hầu kẻ hạ của công chúa đều vô tội! Xin bệ hạ nghĩ lại!”

Ánh mắt hoàng đế dừng ở gã, nhưng dường như cơn giận đã che mờ lý trí, trong chốc lát không hề nhận ra gã: “Ai dám nói nữa, cũng lôi cả xuống!”

“Tâu bệ hạ, nô tài có lời muốn nói, xin bệ hạ châm chước!” Hoàng Tử Hà quỳ sụp xuống hành lễ, đoạn thưa: “Bệ hạ, nếu công chúa có biết, nhất định không muốn bệ hạ nổi cơn thịnh nộ, làm ra những chuyện hối hận về sau như thế, xin bệ hạ giữ gìn long thể, để công chúa dưới suối vàng được yên lòng.”

“Dương Sùng Cổ!” Hoàng đế trừng mắt nhìn cô, gầm lên: “Ta lệnh cho ngươi điều tra mấy vụ nghi án ở phủ công chúa, nhưng đến nay ngươi vẫn chưa có tiến triển gì, làm bê trễ vụ án, đến nỗi Đồng Xương… Đồng Xương… đường đường công chúa Đại Đường, mà lại bị… bị kẻ gian giết hại ngoài phố!”

Nói đến đây hoàng đế cũng nghẹn ngào, gần như nghẹt thở.

Quách thục phi từ bên trong khóc lóc lao ra, vuốt xuôi giúp hoàng đế, nức nở: “Bệ hạ… Bệ hạ… Con gái độc nhất của thần thiếp… chết rồi! Tên hung thủ… hung thủ đó, nhất định phải bị lăng trì tùng xẻo, thiêu xác đổ tro!”

Hoàng Tử Hà lại thưa: “Nô tài nhất định sẽ bắt hung thủ về quy án, nên xin bệ hạ giữ lại tính mạng cho những người này, để nô tài thẩm vấn điều tra cho rõ, sớm ngày phá án, bắt giữ hung thủ!”

Hoàng đế đấm mạnh lên cây cột, nhìn lướt qua đám cung nữ, hoạn quan trước mặt, hằn học nói: “Kẻ hầu người hạ bên cạnh công chúa mà không bảo vệ được chủ nhân chu toàn, tất cả đều đáng chết!”

Hoàng Tử Hà cụp mắt tâu: “Công chúa long dạ thiện lương, có ơn sâu nghĩa nặng với kẻ hầu người hạ, nếu công chúa biết được, ắt không muốn thấy bệ hạ đại khai sát giới vì mình thế này đâu.”

Cả đám hoạn quan và cung nữ phủ công chúa đều quỳ rạp dưới đất, gật đầu như bổ củi, luôn miệng van vỉ.

Máu nóng bốc lên đầu, hoàng đế choáng váng cả người, phải dựa cột nhìn vào bên trong, xong chỉ thấy màn trướng dày che kín giường công chúa.

Trong đó là đứa con đầu lòng của hoàng đế, khi người còn là Vận vương, tương lai mờ mịt, chẳng biết ngày sau sẽ ra sao, bị tất cả mọi người bên cạnh hoài nghi, chỉ riêng đứa con gái này luôn nũng nịu sà vào long, coi người là chỗ dựa duy nhất. Mỗi lần ôm lấy cổ người, ánh mắt nó lại sang rực lên, dẫu Quách thục phi muốn bế, nó cũng không chịu rời ra.

Bốn tuổi con bé mới biết nói, câu đầu tiên là “sống được”, chưa kịp hiểu nó có ý gì thì đội nghi trượng đến đón người đăng cơ đã tới cửa. Từ bấy, người tin chắc rằng đứa con gái này là báu vật trời ban cho mình nên trân quý như châu báu, mà nó cũng hết long tin tưởng, xem phụ vương như tấm bình phong vững chãi nhất.

Vậy mà giờ đây, có kẻ đã cướp đi báu vật người trân quý nhất, chỉ để lại một mình người đau đớn nhìn thi thể lạnh ngắt của con.

Hoàng đế từ từ gỡ tay Quách thục phi ra, căm hận lườm phi.

Quách thục phi thoáng ngây người, nhưng rồi hiểu ra ngay, nhất định ngài ngự đã giận lây sang mình. Nếu phi không phải vì chuyện lật đổ hoàng hậu mà gọi Đồng Xương vào cung, thì công chúa cũng không đến nỗi chết ngay giữa phố.

Nghĩ vậy, Quách thục phi vừa uất ức vừa đau xót, vội quay phắt đi bưng mặt nén tiếng khóc.

“Cái gì mà Phan Ngọc Nhi, Phan thục phi nhà Nam Tề! Hồn ma mấy trăm năm trước, sao có thể lấy mạng công chúa mà trẫm yêu thương nhất được!” Hoàng đế đứng trước điện quát lớn, tuy giọng nói đã hơi khàn, nhưng vẫn bừng bừng sát khí khiến người ta chẳng rét mà run: “Tra đi! Tra rõ rang cho trẫm! Xem kẻ nào giả thần giả quỷ, kẻ nào đặt điều nhiều chuyện, kẻ nào… giết Linh Huy của trẫm!”

Tất cả đều quỳ sụp xuống trước mặt ngài ngự, không dám thở mạnh.

Tiếng quát của hoàng đế văng vẳng trong đại sảnh lặng phắc, càng lộ ra nỗi đau thương.

Ngài ngự thình lình quay phắt lại, trừng mắt nhìn về thi thể Đồng Xương công chúa, lồng ngực phập phồng dữ dội, đau đớn và phẫn hận như một ngọn lửa hữu hình thiêu đốt thân thể người, khiến người chỉ muốn lật tung cả phủ công chúa, giết sạch những kẻ trước mặt chôn chung theo con gái.

Nhìn đăm đăm về phía con gái hồi lâu, lửa giận phừng phừng dần dần cũng nguội, đau xót lại như thủy ngân từ đỉnh đầu trút xuống, lan khắp toàn thân. Khi hơi lạnh nuốt chửng lấy ngọn lửa, cuối cùng hoàng đế cũng hiểu ra rằng, đứa con gái yêu kiều người từng ôm vào lòng đã không còn nữa; tiếng gọi phụ hoàng nũng nịu lẫn trong giọng cười lanh lảnh đã không còn nữa; đôi tay từng níu tay người nhõng nhẽo đã không còn nữa; cặp mắt long lanh luôn kính ngưỡng người, cũng không còn nữa.

“Dương Sùng Cổ, dù có phải lật cả kinh thành này lên…” Hoàng đế chầm chậm giơ tay ngăn dòng nước mắt, nhưng không ngăn nổi cơn run rẩy nghẹn ngào, người nói rất chậm, như thể chỉ cần thả lỏng một khắc thì sẽ khóc òa lên.

“… Ngươi phải cho trẫm một đáp án trước khi đưa tang công chúa. Trẫm muốn… thiêu xác đổ tro hung thủ trước linh cữu Đồng Xương!”

Hoàng Tử Hà lặng lẽ quỳ xuống dập đầu, nghiêm trang đáp: “Vâng.”

“Suýt nữa là mất mạng…”

Vừa rời khỏi đại sảnh đặt di thể công chúa, Chu Tử Tần đã lau mồ hôi lẩm bẩm: “Quỳ vương đi đâu không biết, không có vương gia ở đó, ta sợ quá đi mất…”

Hoàng Tử Hà thấy phò mã Vi Bảo Hoành đang đứng lặng ngoài sảnh, bèn ra hiệu cho Chu Tử Tần nín lặng, đi đến trước mặt phò mã hành lễ.

Vi Bảo Hoành gượng gạo giơ tay ra ý bảo hai người không cần đa lễ, hai mắt hắn ầng ậc nước, tuy ra sức kìm nén, nhưng lệ vẫn lăn dài.

“Đều tại… tại ta cả.” Hắn lẩm bẩm, giọng thiểu não: “Quỳ vương và công công đã dặn dò… dặn ta phải trông nom công chúa… vậy mà khi nàng muốn ra ngoài, ta lại không can ngăn…”

Hoàng Tử Hà buồn bã, cũng chẳng biết nói gì, đành khuyên nhủ: “Xin phò mã bớt đau buồn.”

Vi Bảo Hoành chỉ khẽ gật đầu, nghẹn ngào không thốt nên lời.

Thấy vậy, Hoàng Tử Hà an ủi thêm vài câu rồi cùng Chu Tử Tần cáo từ.

Rời khỏi khu Thập Lục trạch, nơi đặt phủ công chúa, Hoàng Tử Hà ngớ ra, Chu Tử Tần cũng ngớ ra.

Xe ngựa của Lý Thư Bạch đang dừng ngay đó đợi họ. Cạnh xe có một người đang đứng, chính là Trương Hàng Anh.

Hai người ngơ ngác nhìn nhau, Hoàng Tử Hà định thần lại trước, vội gật đầu chào Trương Hàng Anh rồi chạy đến cạnh xe hành lễ: “Tham kiến vương gia.”

Lý Thư Bạch đang ngồi trên xe đọc công văn, chẳng buồn ngẩng lên: “Hạn mấy ngày?”

“Thưa, trước lúc đưa tang.”

“Còn may, hoàng thượng coi như cũng rộng lượng với ngươi rồi đấy.” Y nhướng mắt liếc cô rồi gập công văn lại, “Lúc công chúa qua đời, Lữ Tích Thúy đang ở trong ngục, rõ ràng không có khả năng gây án.”

“Mà ba vụ án mạng này rất có thể là cùng một hung thủ, tham khảo bức tranh kia để ra tay.” Hoàng Tử Hà trầm ngâm nhận xét, “Bởi vậy, khả năng Tích Thúy là hung thủ hai vụ trước không nhiều.”

“Gã Trương Hàng Anh kia,” Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn ra bên ngoài, “Cứ ngồi lì bên ngoài Đại Lý Tự, trông có ra thể thống gì không? Ngươi bảo hắn về nhà yên tâm đợi tin, hoặc là điều quách hắn từ Tả Kim Ngô Vệ sang giúp các ngươi tra án, làm chân chạy vặt cũng được.”

Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng, “Ý gia là… muốn bỏ qua cho Trương Hàng Anh ư?”

Lý Thư Bạch nheo mắt nhìn cô, “Còn hỏi nữa, người cứ lén lút qua lại với hắn, ta trông cũng ngứa cả mắt.”

“Đa tạ vương gia.” Hoàng Tử Hà đuối lý, đành cúi gầm mặt xuống, nhưng rồi lại nhớ ra ngay, “Vậy nô tài dẫn Trương Hàng Anh tới Đại Lý Tự, xem Tích Thúy có cung khai thêm gì không.”

Lý Thư Bạch khẽ gật đầu, ra hiệu cho cô lên xe, rồi bảo Chu Tử Tần qua cửa sổ: “Tử Tần, người cùng Trương Hàng Anh tới Đại Lý Tự trước xem tình hình thế nào, chúng ta sẽ đến đó ngay.”

Nói vậy nhưng xe ngựa lại đi về phía Nam, nhằm hướng phủ Ngạc vương. Hoàng Tử Hà biết ý y, nên chỉ điềm nhiên hỏi: “Gia cũng cảm thấy, đây chính là hình vẽ thứ ba trong bức họa ấy ư?”

“Chết dưới cánh loan phượng… Trâm Cửu loan chính là con chim bổ xuống giết người, đúng không nào?” Y nghiêng đầu nhìn cô, đoạn giở bức tranh kia ra, nhìn qua cả ba hình vẽ.

Bị sét đánh chết cháy, là Ngụy Hỷ Mẫn tại chùa Tiến Phúc.

Chết trong lồng sắt, là Tôn ghẻ giữa căn nhà bít bùng.

Bị chim phượng bổ xuống mổ chết, là Đồng Xương công chúa bị trâm Cửu loan đâm trúng tim.

Lý Thư Bạch ngước nhìn cô: “Ngươi thấy thế nào?”

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Nếu một hai người, còn có thể bảo là trùng hợp. Nhưng trùng hợp đến mức này không tìm Ngạc vương không xong.”

Ngạc vương Lý Nhuận thường ngày chỉ nhàn nhã ở trong phủ, hôm nay Lý Thư Bạch lại sai người đến báo trước, nên khi họ tới nơi, y đã pha sẵn trà ngồi đợi.

Cạnh tay y là một chiếc hộp dẹt.

“Tứ ca, nghe nói Đồng Xương xảy ra chuyện ở phường Bình Khang à?” Ngạc vương đích thân rót trà cho hai người, hơi nóng nghi ngút bốc lên rồi lan ra, khiến phòng trà trở nên mờ ảo.

Lý Thư Bạch gật đầu.

“Bị thương ư?”

Lý Thư Bạch lắc đầu: “Đã quy tiên rồi.”

Lý Nhuận bỗng khựng lại, làm nước tà hơi sánh ra ngoài, xong y chẳng hề để tâm, cứ ngẩn ra nhìn chằm chằm đám bọt xoay tròn trong cốc, giọng nghẹn lại như rặn ra từ cổ họng: “Làm sao… mà mất?”

“Bị cây trâm Cửu loan mình yêu thích nhất đâm chết.”

“Ai đâm?”

Lý Thư Bạch lắc đầu: “Lúc bấy giờ hỗn loạn, không bắt được hung thủ.”

Lý Nhuận đặt ấm trà xuống, thần người ra giây lát rồi khẽ cảm thán: “Đồng Xương là công chúa, sao có thể chết không minh bạch như thế, đúng là không thể tin nổi…”

“Khó tin nhất không phải cái chết của công chúa, mà là…” Lý Thư Bạch ra hiệu cho Hoàng Tử Hà đặt cuộn tranh lên bàn, rồi trải ra cho Ngạc vương xem: “Thất đệ đã thấy bức tranh này bao giờ chưa?”

Lý Nhuận gật đầu: “Đệ từng thấy tại nhà Trương Hàng Anh một lần. Lúc ấy mấy người bọn đệ còn tùy tiện chỉ trỏ bình luận ba hình vẽ trên đó, thực không ngờ… tất cả lại trở thành sự thật.”

“Ừ, ta cũng có nghe nói.” Lý Thư Bạch than thở, “Trước lúc Đồng Xương gặp nạn, ta từng xem qua bức tranh này, xong không chú ý lắm. Nếu lúc ấy nhận ra được manh mối gì đó, có lẽ hôm nay đã chẳng thành chuyện.”

“Thực ra… đệ đã thấy nó không bình thường từ lâu rồi.” Lý Nhuận phân vân nói, “Lần đầu tiên trông thấy, đệ đã cảm thấy chuyện này quá đỗi kỳ dị, sau khi về phủ vắt óc nghĩ mãi mấy hôm không thông, e rằng nay phải thỉnh giáo Tứ ca.”

Đoạn y mở chiếc hộp dẹt bên cạnh ra.

Trong hộp là một mảnh giấy được gấp vuông vắn, nhìn như mẩu giấy bông cũ vẫn dùng để vẽ mẫu thêu, trên có hai ba hình vẽ nguệch ngoạc đen sì bằng chì kẻ mày, trông cũng rối mắt hệt bức họa ở nhà họ Trương.

Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn nhau. Quỳ vương cầm hẳn mẩu giấy lên, vẫy cô lại cùng xem.

Là một mảnh giấy bông to chừng bàn tay, nét vẽ ngả nghiêng xiêu vẹo, rõ ràng người vẽ không biết gì về hội họa. Về cơ bản có thể thấy đường nét hai bức khá tương đồng. Ở hình thứ nhất, phía trên khối mực đen là một nét mảnh; hình thứ hai có bảy đường ngang tám đường dọc bao quanh một khoanh mực chẳng nhìn ra hình thù gì; hình thứ ba là hai mảng đen ngòm dính liền vào nhau, một trên một dưới.

Bức tranh ở nhà họ Trương còn có thể gượng coi là miêu tả cái chết của ba người, còn bức vẽ trên giấy bong này tuy đường nét tổng thể tương tự, nhưng chi tiết thì không thể bằng được, nhìn vào không hiểu là gì, chỉ thấy ba mảng mực.

Lý Thư Bạch ngắm nghía hồi lâu rồi đưa mẩu giấy cho Hoàng Tử Hà, quay sang hỏi Lý Nhuận: “Chẳng hay bức tranh này của Thất đệ từ đâu mà có?”

Lý Nhuận bưng ly trà thở dài: “Không dám giấu Tứ ca, là mẫu phi đệ vẽ.”

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch sững người, không ngờ bức tranh này lại từ mẫu phi Lý Nhuận. Hoàng Tử Hà không biết những chuyện thâm cung bí sử, nhưng Lý Thư Bạch hiểu rõ, mẫu phi Trần Tu Nghi của Lý Nhuận dịu dàng hòa nhã, giỏi lựa ý người, mấy năm tiên hoàng đau ốm, đều do bà ta cận kề chăm sóc.

Đêm tiên hoàng băng hà, bà ta đau lòng đến suy sụp, từ bấy thành ra dở điên dở dại. Được sự đồng thuận của các thái phi, Lý Nhuận đã đón mẫu phi ra khỏi cung, đưa về phủ phụng dưỡng.

“Năm ngoái mẫu phi qua đời. Trước ngày mất mấy hôm, bà như được hồi quang phản chiếu, còn nhận ra đệ. Chắc là trời thương, chứ đệ cứ nghĩ, bà chỉ nhớ hình ảnh đệ lúc nhỏ thôi.” Khóe môi Ngạc vương vẫn thấp thoáng nụ cười như mọi khi, xong mắt đã rân rấn nước, “Nhân lúc tỉnh táo, bà đưa cho đệ bức tranh này. Bấy giờ đệ cũng chẳng để tâm, nhưng sau khi bà qua đời, đệ mới nhận ra, đây là thứ duy nhất bà chính tay giao cho đệ. Bởi thế, tuy cho là bức vẽ nhăng cuội của mẫu phi lúc phát bệnh, nhưng đệ vẫn giữ trong thư phòng. Mãi đến mấy hôm trước, đệ trông thấy bức họa ở nhà Trương Hàng Anh…”

Nói đến đây, y đưa bút nhìn sang ngự bút tiên đế, nghi hoặc hỏi: “Nhưng vì sao phụ hoàng lại để lại bức tranh như vậy, còn mẫu phi đệ, tại sao sau mười năm bệnh tật, còn lén lút vẽ theo, giao tận tay đệ?”

Hoàng Tử Hà cầm tờ giấy bông lên hỏi: “Thứ cho nô tài mạo muội, chẳng hay đưa bức vẽ này cho vương gia, thái phi có căn dặn gì không?”

“Mẫu phi nói…” Lý Nhuận im lặng nhíu mày, đưa mắt ra lệnh cho người hầu lui ra. Đợi tất cả lui hết, y mới đáp khẽ, “Mẫu phi lúc ấy không được tỉnh táo, nói rằng, thiên hạ Đại Đường…”

Thiên hạ Đại Đường sắp mới rồi.

Xong y không nói nốt nửa câu sau, chỉ kể đại khái: “Mẫu phi nói năng lộn xộn, có lẽ muốn bảo thiên hạ náo động, Đại Đường sắp suy vong… Còn dặn rằng bức vẽ này liên quan đến sự tồn vong của Đại Đường, bắt bản vương cất giữ cẩn thận.”

Lý Thư Bạch lấy lại mảnh giấy từ tay Hoàng Tử Hà, nghiêm trang đặt vào tay Ngạc vương: “Đa tạ Thất đệ. Xem ra bức tranh này nhất định là thái phi vẽ phỏng lại di bút của tiên hoàng theo trí nhớ.”

Lý Nhuận nhận lấy bức tranh, ngạc nhiên hỏi: “Bức tranh kia là… di bút tiên hoàng ư?”

Lý Thư Bạch gật đầu: “Ta đã đến nội phủ tra hồ sơ lưu của cung đình, quả nhiên trong ghi chép về lịch trình sinh hoạt của tiên hoàng có ghi rõ, Trương Vĩ Ích, chính là cha Trương Hàng Anh, đã vào cung thăm bệnh cho phụ hoàng ngày mồng mười tháng Tám năm Đại Trung thứ mười ba.”

Lý Nhuận hồi tưởng lại: “Lúc ấy đệ còn nhỏ tuổi, nhưng cũng biết phụ hoàng dùng lầm thuốc, dẫn đến thánh thể bất an từ tháng Năm, đến tháng Bảy thì cả ngày hôn mê. Ngự y bó tay hết cách, mấy hoàng tử bọn đệ bấy giờ vẫn ở trong cung, muốn vào thăm phụ hoàng nhưng toàn bị đám hoạn quan ngăn lại bên ngoài. Các đại danh y trong kinh lần lượt được triệu vào cung, nhưng đều chẳng có cách nào…”

“Trương Vĩ Ích là danh y cuối cùng, vào cung đúng ngày phụ hoàng băng hà. Ta đã sai người đi hỏi ông ta về lần tiến cung ấy, theo ông ta nhớ thì lúc đó ông ta là danh y ở Đoan Thụy Đường, tháng Tám phụng chiếu vào cung chẩn mạch cho phụ hoàng, bấy giờ phụ hoàng đã hôn mê, nhưng sau khi ông ta châm cứu, quả thật người từng tỉnh lại. Có điều cũng như mọi người trong cung, ông ta biết đây chỉ là hiện tượng hồi quang phản chiếu, triệu ông ta vào cung trị bệnh, chẳng qua chỉ mong phụ hoàng tỉnh lại chốc lát, sắp xếp nốt việc lớn trước khi băng hà thôi.”

Hoàng Tử Hà hỏi khẽ: “Khó khăn lắm mới tỉnh táo được một lúc, sao tiên hoàng còn vẽ tranh ban cho Trương Vĩ Ích?”

Lý Thư Bạch và Lý Nhuận cũng thắc mắc điểm này. Bấy giờ tiên hoàng đã hấp hối, đáng ra phải lo an bài việc lớn của triều đình sau khi mình qua đời, chứ đâu phải vẽ tranh ban cho một thầy thuốc dân gian.

“Thế nên người ta mới không hiểu nổi. Ngay chính Trương Vĩ Ích cũng chẳng hiểu gì cả. Sau khi tiên hoàng tỉnh lại, ông ta phải lui xuống ngay, một thầy thuốc dân gian sao có thể ngồi nghe việc lớn trong cung được?” Lý Thư Bạch nhíu mày, “Hồ sơ trong cung cũng ghi như thế. Tiên hoàng tỉnh lại, Trương Vĩ Ích lui ra. Chưa ra đến cửa cung, có người đuổi theo nói hoàng thượng cảm tạ tay nghề của Trương đại phu, ban cho một bức ngự bút. Ông ta mừng quá, vội hướng về phía điện Tử Thần dập đầu bái tạ, rồi nhận lấy cuộn tranh, vừa đi vừa giở ra xem, tức thì sững sờ không nói lên lời.”

Theo lời kể khe khẽ của hai người kia, ánh mắt Hoàng Tử Hà dừng ở bức tranh nọ. Thật không ngờ bản vẽ nguệch ngoạc này, hóa ra lại là di bút của tiên hoàng từ mười năm trước. Chắc hẳn lần đầu tiên trông thấy nó, Trương Vĩ Ích cũng không sao tin nổi.

Vậy mà mười năm sau, lại có ba vụ án mô phỏng theo hình vẽ trên đó, quả là không thể tưởng tượng, rất khó truy tra.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 14-8-2016 14:28:05 | Chỉ xem của tác giả
Q.2 - Chương 16 Đêm Vận Ngày Cấm


Sau khi từ biệt Ngạc vương, hai người quay về thì trời đã tối.

“Ngươi về phủ hay đến Đại Lý Tự trước?”

Hoàng Tử Hà đáp ngay, không chút do dự: “Về phủ, tôi mang chút gì ăn đến Đại Lý Tự. Chu Tử Tần và Trương Hàng Anh vẫn ở đó mà.”

Lý Thư Bạch cũng chẳng phản đối: “Sau khi về thì đến đài Chẩm Lưu, ta đợi.”

Hoàng Tử Hà không màng ăn uống, chỉ chạy xuống bếp lấy hộp cơm rồi lại nhảy lên xe ngựa vương phủ, đến thẳng Đại Lý Tự.

Thiếu khanh Đại Lý Tự Thôi Thuần Trạm đã tới phủ công chúa. Vừa nghe tin này, Hoàng Tử Hà mường tượng ra ngay vẻ mặt nhăn nhó như bị đau răng của hắn.

Đại Lý Tự thừa là Phạm Dương đang ở đó, thấy Hoàng Tử Hà đến vội khách khí hành lễ với cô, mặt vẫn tái mét vì sợ: “Công chúa được thánh thượng yêu nhất bị giết ngoài phố, chuyện này làm sao bây giờ, Dương công công?”

Hoàng Tử Hà thở dài: “Giờ đành đợi ý chỉ của hoàng thượng rồi tính.”

Phạm Dương giậm chân than vãn một hồi, chẳng buồn để tâm đến những việc khác. Hoàng Tử Hà nói muốn đem hộp cơm cho Lữ Tích Thúy, hắn cũng chẳng hỏi han gì, chỉ xua tay: “Tử Tần và tên Trương Hàng Anh ấy đang ở trong đó, công công cứ vào đi.”

Trời tối mà cả phòng chỉ có mỗi một ngọn đèn leo lét trong hốc tường. Hoàng Tử Hà đứng trước cửa, trông thấy Tích Thúy và Trương Hàng Anh đang dựa vào nhau dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn lửa lập lòe, cả hai đều bất động, thẫn thờ nhìn chằm chằm vào đốm sáng trong hốc tường.

Chu Tử Tần ngồi chồm hổm trước cửa, thấy cô đến thì mừng rỡ đứng phắt dậy: “Sùng Cổ đến rồi đấy à? Ồ… hay quá, còn mang cả đồ ăn đến nữa, ta sắp chết đói rồi đây!”

Đoạn gã đón lấy hộp cơm từ tay Hoàng Tử Hà, vồn vã bảo hai người bên trong: “Trương nhị ca, A Địch, bất kể thế nào thì ăn cơm vẫn là quan trọng nhất, nào nào, đến đây ăn chút gì đi!”

Chu Tử Tần xăng xái bày chén đĩa ra, đặt hai món mình thấy ngon mắt nhất trước mắt Tích Thúy và Hoàng Tử Hà, rồi chia đũa cho mọi người.

Thím nấu bếp ở phủ Quỳ rất quý Hoàng Tử Hà, toàn để dành cho cô những món ngon nhất, tiếc rằng cả bốn người không ai nuốt nổi.

Hoàng Tử Hà nhìn Tích Thúy, nói bằng giọng ôn hòa hết mức: “Lữ cô nương, chắc Tử Tần cũng nói với cô rồi, chúng tôi lại có vài chuyện nhỏ phải hỏi, mong cô trả lời chúng tôi.”

Tích Thúy nơm nớp đứng dậy đáp khẽ: “Tôi… tôi không còn gì để nói cả, tôi đã nói hết rồi mà…”

Thấy nàng kinh sợ, Chu Tử Tần vội khoát tay giải thích: “Cô đừng hiểu lầm, đừng hiểu lầm mà, Trương nhị ca là bạn chúng ta, nên cô cũng là bạn chúng ta, cứ coi như đang tán gẫu vậy thôi.”

Thấy Tích Thúy vẫn ngập ngừng, Hoàng Tử Hà liền vỗ lưng Trương Hàng Anh: “Lữ cô nương tin chúng tôi đi. Tốt xấu gì cũng sẽ đứng về phía cô, bằng không để người của Đại Lý Tự đến hỏi, e rằng cô còn sợ hãi hơn.”

Nghe vậy, Trương Hàng Anh vội gật đầu, dỗ dành Tích Thúy: “Muội yên tâm đi, Dương công công rất lợi hại, trên đời làm gì có vụ án nào công công không phá được đâu! Ta tin chỉ cần muội nói thực, Dương công công nhất định sẽ rửa oan cho muội.”

Tích Thúy ngẩng lên, đăm đăm nhìn gã hồi lâu, rồi gượng gạo nhếch môi đáp: “Nhưng… muội không còn gì để nói cả, chính muội đã giết hai người kia.”

“Nói dối chúng tôi không ích gì đâu.” Hoàng Tử Hà cắt lời nàng rồi đưa mắt sang Chu Tử Tần, Chu Tử Tần hiểu ý nói ngay: “Lữ cô nương, chính tay ta đã khám nghiệm tử thi Tôn ghẻ, nhớ rõ những vết thương trên người hắn.”

Nói rồi, gã quay ra ngoài bẻ một cành cây đưa cho Tích Thúy: “Lữ cô nương, cô thử coi ta là Tôn ghẻ, diễn lại tình hình lúc đó xem. Cô nói Tôn ghẻ đứng trong khung cửa, nên cô giơ dao đâm hắn hai nhát, đúng không nào?”

“Đúng…” Tích Thúy nắm chặt cành cây, run rẩy đáp.

“Vậy lúc đó cô đâm thế nào?”

Tích Thúy chần chừ nhìn Trương Hàng Anh, lại nhìn cành cây trong tay, cuối cùng vẫn giơ lên đâm xuống ngực Chu Tử Tần.

Trương Hàng Anh phát hoảng, định ngăn cản thì Chu Tử Tần đã nhanh nhẹn tóm lấy cổ tay Tích Thúy, chặn đứng thế đâm của nàng: “Lữ cô nương, nếu một người đứng đối diện đâm xuống thì vết dao phải đi từ trên xuống dưới. Nhưng vết thương của Tôn ghẻ lại từ trái sang phải, cũng tức là, hắn ta bị đâm khi nằm nghiêng sang phải, vết dao chếch xuống dưới nên chúng ta đoán chắc hung thủ thừa cơ Tôn ghẻ ngủ say thì ngồi trước giường vung dao đâm hắn, chứ không phải như cô nói là đâm khi hắn ra mở cửa.

“Bởi vậy, nếu cô cứ khăng khăng nhận là mình giết Tôn ghẻ, thì hãy cho chúng tôi biết, cô làm thế nào lẻn được vào căn nhà bít bùng như lồng sắt đó để sát hại Tôn ghẻ khi hắn đang ngủ? Rồi làm sao thoát ra khỏi căn nhà cài chốt trong như thế?”

Tích Thúy đứng ngây ra, không biết phản bác thế nào.

Trương Hàng Anh trợn trừng mắt nhìn nàng, run run hỏi: “A Địch? Sao muội phải nói dối? Sao muội phải mạo nhận là hung thủ?”

“Dĩ nhiên là vì huynh rồi, Trương nhị ca à.” Hoàng Tử Hà bình thản phân tích, “Huynh cho rằng cô ấy là hung thủ giết Ngụy Hỷ Mẫn và Tôn ghẻ, còn cô ấy lại tưởng huynh đã giết hai kẻ kia để báo thù thay cô ấy. Bởi thế, khi phát hiện huynh trở thành đối tượng bị tình nghi, thậm chí còn ảnh hưởng đến tiền đồ sau này, cô ấy bèn quả quyết hy sinh thân mình, đến Đại Lý Tự đầu thú, hòng gánh tội thay, bảo vệ cho huynh bình an!”

Lời này của Hoàng Tử Hà khiến hai người Trương Hàng Anh và Tích Thúy đờ ra.

“A Địch… muội ngốc quá!” Trương Hàng Anh vội chộp lấy tay nàng, một gã trai chừng ấy tuổi, vậy mà giờ đây mừng rỡ, giận dữ, buồn bã, bao cảm xúc lẫn lộn đều lộ ra ngoài mặt, thật không biết phải miêu tả thế nào: “Muội… muội đấy! Giờ chúng ta làm sao đây?”

Thấy hai người siết chặt tay nhau, Hoàng Tử Hà vừa vui lại vừa buồn, đành an ủi: “Giờ công chúa đã qua đời, Lữ cô nương lại ở trong phòng tạm giữ của Đại Lý Tự nên không bị tình nghi. Nhưng trước đó cô đã nhận giết hai người kia, nên muốn bảo lãnh ra ngay cũng khó, e rằng phải đợi, bắt được hung thủ thật sự thì mới thả được.”

Tích Thúy rầu rĩ gật đầu nói khẽ: “Xin lỗi Trương nhị ca, tại muội… tại muội không tin huynh…”

“Không thể trách muội được, có trách thì trách ta đã giấu muội…” Trương Hàng Anh thở dài.

“Hai vị thật là, làm ầm ĩ lên thế này, báo hại chúng ta phải lần lại từ đầu.” Chu Tử Tần ngán ngẩm lắc đầu, xách hộp cơm ra ngoài, xếp lại bàn ghế rồi cũng Hoàng Tử Hà ngồi xuống, Trương Hàng Anh và Tích Thúy song song ngồi xuống chiếc giường thấp.

“Nào, hai vị là một trong những người đứng gần nhất, tận mắt chứng kiến thảm kịch ở chùa Tiến Phúc hôm đó, Lữ cô nương, hy vọng cô tạm thời gỡ bỏ gút mắc trong lòng, thuật lại thật kỹ tình hình lúc ấy cho chúng tôi nghe được không?”

Tích Thúy lặng lẽ cắn môi nhìn Trương Hàng Anh, thấy gã gật đầu, mới cúi gầm mặt kể: “Nhưng hôm ấy thoạt đầu tôi đội mũ có mạng che nên không thấy rõ lắm cảnh tượng bên ngoài, về sau làm rơi mũ, trong lúc chờ Trương nhị ca nhặt giùm, tôi sợ bị người ta nhận ra, bèn ngồi thụp xuống che mặt lại. Bởi thế, tôi không thấy gì cả, thậm chí… thậm chí cũng không trông thấy Ngụy Hỷ Mẫn giữa đám đông. Đáng lý bộ đồ hoạn quan đỏ chói như thế nhìn rất nổi bật, nhưng quả thật tôi không trông thấy.”

Trương Hàng Anh cũng vắt óc nhớ lại: “Đúng thế, chùa Tiến Phúc hôm ấy có cả biển người, Ngụy Hỷ Mẫn lại thấp bé, lọt thỏm giữa đám đông, đến tôi cũng không trông thấy. Mãi tới khi trời giáng sấm sét làm nổ cây nến, thấy Ngụy Hỷ Mẫn lăn lộn trên mặt đất, tôi mới biết hóa ra y cũng đi chùa.”

“Vậy hai vị nghĩ lúc đó… có thể có kẻ nào thừa cơ ra tay với y không?”

“Hoàn toàn không thể!” Trương Hàng Anh dứt khoát lắc đầu, “Sét đánh nổ tung cây nến chỉ trong nháy mắt, ai đủ thời gian kéo Ngụy Hỷ Mẫn ra khỏi đám đông rồi xô vào lửa chứ?”

“Hơn nữa, người y… cả người đều cháy phừng phừng, chứ không chỉ cháy một hai chỗ. Dù y lăn lộn dưới đất, cũng không dập nổi.” Tích Thúy khẽ khàng bổ sung, “Bởi vậy, tôi nghĩ, ắt là trời phạt.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, đoạn trầm tư hỏi: “Lúc đó các vị có nhìn rõ Ngụy Hỷ Mẫn không? Thấy y có gì khác lạ không?”

Trương Hàng Anh gật đầu: “Đương nhiên rồi! Tôi biết y là kẻ hại Tích Thúy, nên ở giữa đám đông chen lẫn vẫn quay đầu nhìn y mấy lần. Thấy hình như y… đờ cả ra vì sợ, bị lửa thiêu như thế hẳn là rất đau đớn, thế mà thoạt đầu y còn ngây ra, nằm bò dưới đất một lát, mới gào lên lăn lộn khắp nơi hòng dập lửa.”

“Ừm… muội cũng nhớ… trông y cứ như vừa tỉnh mộng ấy.”

Chu Tử Tần vừa ghi vừa quay sang hỏi Hoàng Tử Hà: “Thế nào đây, có phải càng điều tra càng giống trời phạt không?”

Hoàng Tử Hà lờ gã đi, lại hỏi Tích Thúy: “Sao cô nương lại lấy bức tranh kia đi?”

Nghe cô nhắc đến chuyện này, Tích Thúy run bắn lên, ngước mắt nhìn Trương Hàng Anh, thấy gã vẫn bình thản, còn dịu dàng nhìn mình đăm đăm, mới cắn môi đáp khẽ: “Tôi… bị cha tìm thấy rồi…”

Trương Hàng Anh ngạc nhiên hỏi: “Từ lúc nào thế?”

“Chính là hôm huynh đi đánh mã cầu đó.” Tích Thúy cúi gằm mặt, sợ sệt kể: “Muội muốn làm bánh cổ lâu cho huynh, bèn tới chợ Tây mua thịt dê… lúc ngang qua tiệm của cha, muội không kìm được, ngó vào trong…”

Tuy nàng đã đội mũ có mạng che, nhưng dù sao cũng là cha con mười mấy năm, Lữ Chí Nguyên vẫn nhận ra ngay. Nàng mua thịt dê xong, về đến của nhà Trương Hàng Anh mới thấy là lạ, vừa quay lại thì trông thấy cha mình đang lẳng lặng đi theo đằng xa.

Thấy Tích Thúy đã phát hiện, Lữ Chí Nguyên bèn đi thẳng đến trước mặt nàng: “Khá đấy, chẳng những không chết, mà còn tìm được chốn dung thân nữa.”

Nàng run cầm cập, chỉ sợ người nhà họ Trương phát hiện ra thân phận thật của mình, đành nài nỉ cha đi cho mau, coi như không có đứa con gái này nữa.

Nào ngờ cha nàng cười nhạt: “Tìm được chồng rồi, lại định rũ tao đấy à? Mày xem đã đền đáp được tí nào ơn dưỡng dục mười mấy năm nay của tao chưa? Tao nói cho mày biết, một là mày cút đi xa xa, đừng ở kinh thành này làm mất mặt tao, hai là mày bảo người nhà này chuẩn bị cho tao mười quan tiền sính lễ, coi như trả công tao nuôi nấng mày bấy nhiêu năm!”

Chu Tử Tần thở dài hỏi: “Thế nên cô mới đánh cắp bức tranh đi cầm lấy mười quan tiền , trả cho cha cô ư?”

Tích Thúy nghiến răng gật đầu: “Tôi… thực chẳng còn cách nào nữa, tôi không muốn xa Trương nhị ca, nhưng tôi cũng sợ huynh ấy biết quá khứ của mình… Tôi, tôi cứ ngỡ, dưới gầm trời này, chẳng ai chấp nhận nổi một kẻ nhơ nhuốc như tôi nữa…”

Đoạn nàng giơ đôi tay run rẩy lên che mặt, giọng càng lúc càng nhỏ đi: “Tôi tuyệt vọng rồi, tôi cứ tưởng có thể nhốt mình trong gian nhà đó suốt đời, đó là nơi nương náu cuối cùng của tôi… Nhưng cha tôi ép tôi, ông ấy muốn cắt đứt tia hy vọng cuối cùng của đời tôi… Về sau nghe thấy Trương nhị ca kể về bức tranh đó, biết được nó có lai lịch không tầm thường, tôi bèn… đánh cắp nó giao cho cha, nói rằng đây là ngự bút của tiên hoàng, rất đáng tiền, bảo ông ấy cầm lấy rồi đừng bao giờ đến tìm tôi nữa. Ông ấy không tin nên tôi đã đem nó đi cầm, quả nhiên được mười quan. Tôi đưa tiền cho cha, còn nói, từ nay về sau nhà họ Lữ không có con gái nữa, tôi là người nhà họ Trương…”

Đến đây nàng không kể tiếp được nữa, chỉ thổn thức không thôi, lâu thật lâu mới nghẹn ngào nói: “Xin lỗi Trương nhị ca… muội chính là tên trộm đánh cắp đồ gia bảo của nhà huynh…”

“Không, đừng nói là muội làm vậy vì muốn ở bên ta, dù muội đem tất cả đồ đạc trong nhà đi bán hay đi vứt, cũng chẳng sao cả.” Trương Hàng Anh dịu dàng cầm lấy tay nàng dỗ dành: “Cha ta bệnh nặng vừa đỡ, ta lại phải ra ngoài làm việc, trong nhà chỉ có một tay muội lo liệu, muội đã thành bà chủ từ lâu rồi! Bà chủ đem đồ đi cầm thì có gì sai chứ?”

Tích Thúy không ngờ Trương Hàng Anh lại nói thế, chỉ biết ngây ra nhìn gã, hai hàng nước mắt cứ thế lăn dài. Trương Hàng Anh nhẹ nhàng lau nước mắt cho nàng, đăm đăm nhìn nàng thật lâu, không giấu được vẻ buồn rầu: “A Địch, muội ngốc quá… giờ phải làm sao đây?”

“Rõ thật là, giờ thành ra thế này, chẳng phải gay go ư?” Chu Tử Tần thấy xung quanh không có ai khác, mới hạ giọng nói: “Có điều hai người đừng lo, lần này công chúa qua đời, đối với triều đình là bất hạnh, xong với Tích Thúy cô nương lại là may mắn… Thôi thiếu khanh là người sáng suốt, chỉ cần Tích Thúy kể rõ đầu đuôi câu chuyện với huynh ấy, chúng ta sẽ nhờ mấy vị vương gia nói đỡ cho, dẫu sao Chiêu vương và Ngạc vương cũng từng gặp hai vị, nếu chúng ta nài nỉ, chắc họ chẳng ngại ra mặt nói mấy câu đâu. Về phần hoàng thượng, ta thấy giờ đây cả thiên hạ chỉ mình Quỳ vương thuyết phục nổi thánh thượng thôi. Việc này đành nhờ Sùng Cổ vậy…”

Cả ba người đều đổ dồn mắt vào Hoàng Tử Hà, đầy hy vọng.

Hoàng Tử Hà thoáng do dự, rồi gật đầu đáp: “Tôi sẽ cố gắng.”

Trương Hàng Anh về nhà lấy chăn đệm và quần áo cho Tích Thúy, còn Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần rời khỏi Đại Lý Tự, vừa đi vừa thảo luận có phải Đồng Xương công chúa lúc ấy bị khống chế hay không, tại sao không kêu cứu. Chợt thấy Thôi Thuần Trạm cưỡi ngựa quay về, vừa nhảy xuống ngựa đã mừng rỡ reo lên với họ: “Tử Tần! Sùng Cổ! Hai người cũng ở đây à? Tốt quá rồi!”


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 14-8-2016 14:29:36 | Chỉ xem của tác giả
Q.2 Chương 16.2 Đêm Vận Ngày Cấm


Ngoài cổng Đại Lý Tự thắp đèn sáng choang, cây đuốc trong tay tên tùy tùng của Thôi Thuần Trạm cũng cháy rừng rực, càng soi rõ nét mặt hân hoan của Thôi thiếu khanh, khiến hai người đều lấy làm ngạc nhiên, vội đưa mắt nhìn nhau: cứ tưởng Thôi thiếu khanh sẽ phải âu sầu gần chết chứ nhỉ!

Trông thấy một thân hình béo phì bị lôi ra từ sau lưng Thôi Thuần Trạm, hai người lại càng kinh ngạc: gã trung niên lùn tịt tròn quay đang bị trói nghiến như đòn bánh tét kia chẳng phải Tiền Quan Sách hay sao?

Vừa trông thấy bọn họ, Tiền Quan Sách tức thì gọi toáng lên: “Chu thiếu gia! Dương công công! Hai vị nhất định phải làm chứng cho tôi! Tôi quả thực không giết người mà! Càng không thể nào giết công chúa được!”

Chu Tử Tần trợn tròn mắt kinh ngạc hỏi: “Thôi thiếu khanh, ông ta là hung thủ đấy ư?”

Thôi Thuần Trạm cười tít cả mắt, tự đắc đáp: “Đúng thế, hôm nay ta phụng mệnh hoàng thượng, lục soát phủ công chúa, vừa hay tóm được tên này lén lút lẻn vào gặp một đầu bếp trong phủ. Chúng ta bắt lại hỏi han thì hắn khai rằng mình tới tìm con gái, định lừa ai chứ!”

Chu Tử Tần nhìn theo Tiền Quan Sách bị lôi vào trong, ngạc nhiên hỏi: “Ô, con gái ông ta không phải thị nữ trong phủ công chúa sao?”

“Thì đúng, hắn luôn miệng nói con gái mình là thị nữ hầu hạ bên cạnh công chúa, còn nói mình đã gặp nhiều lần, gần đây thấy con gái không có tin tức gì nên mới lén lẻn vào phủ nghe ngóng.” Thôi Thuần Trạm dè bỉu, “Nói dối cũng không nên hồn, bảo hắn chỉ xem đâu là con gái thì hắn không chỉ được, lại kể rằng trên cổ tay con gái có một cái bớt hồng ngả xanh, kết quả chúng ta hỏi khắp người trong phủ từ trên xuống dưới, đừng nói không có thị nữ nào như vậy, mà kể cả hoạn quan, cũng chẳng ai có bớt trên tay.”

“Ồ, thế mà lần trước chúng tôi đến tiệm của ông ta điều tra, ông ta còn đưa ra vật chứng rõ ràng, con gái ông ta có biếu cha một con cóc vàng, toàn thân nạm đầy châu báu, ngồi trên một phiến lá sen bằng ngọc phỉ thúy, tinh xảo lắm!”

“Cóc vàng à?” Thôi Thuần Trạm sáng mắt lên, “Có phải trên phiến lá sen ấy còn có một giọt sương bằng pha lê, mỗi lần di động con cóc, giọt sương sẽ lăn tròn trên lá không?”

Chu Tử Tần gật đầu lia lịa: “Thôi thiếu khanh cũng thấy rồi à?”

“Dĩ nhiên! Ấy là cống phẩm của một quốc gia Tây Vực nào đó từ hai năm trước! Hôm ấy nhằm đúng mồng một Tết, các quần thần trên điện đều được chiêm ngưỡng, ai nấy trầm trồ không ngớt! Về sau, nó trở thành một trong những món hồi môn của Đồng Xương công chúa!” Nói đến đây, Thôi Thuần Trạm mững rỡ vỗ tay: “Ồ, có rồi, có cả động cơ gây án nữa chứ! Tiền Quan Sách mưu trộm cóc vàng, liên tiếp giết hại hoạn quan phủ công chúa, công chúa và tên Tôn ghẻ sống gần đó, tuy chưa rõ Tôn ghẻ dây dưa đến vụ này thế nào, nhưng ta tin rằng nếu dùng hình tra khảo, gã béo lùn đó ắt phải khai rõ ngọn ngành!”

Vừa nói, Thôi Thuần Trạm vừa xăm xăm đi thẳng vào đại sảnh Đại Lý Tự, luôn miệng sai bảo thuộc hạ: “Thắp đèn! Thăng đường! Bản quan muốn thẩm vấn trọng phạm ngay bây giờ!”

Chu Tử Tần líu cả lưỡi, quay lại nhìn Hoàng Tử Hà. Hoàng Tử Hà vội đuổi theo Thôi Thuần Trạm, không quên ném lại một câu: “Còn đợi gì nữa, mau đi theo xem Thôi thiếu khanh chuẩn bị thẩm vấn thế nào!”

Công đường Đại Lý Tự đèn đuốc sáng trưng, tam ban nha dịch, quan viên chấp pháp, bình sự, tự chính đứng hai bên, Đại Lý Tự thiếu khanh đích thân thẩm vấn, thanh thế rất rầm rộ.

Hai người được hoàng thượng khâm điểm tra xét vụ này là Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần ngồi bên cạnh xem thăng đường, thấy Tiền Quan Sách bị lôi ra, quỳ sụp xuống đất run cầm cập.

Hoàng Tử Hà hỏi nhỏ Chu Tử Tần: “Đại Lý Tự khanh hiện giờ là ai? Sao chẳng bao giờ thấy xuất hiện ở Đại Lý Tự vậy?”

Chu Tử Tần kinh ngạc nhìn cô: “Công công không biết ư?”

“Tôi làm sao biết được, trước đây lúc rời kinh thì Đại Lý Tự khanh là Từ công, xong về sau nghe nói Từ công đã qua đời…”

“Công công ngày ngày đều ở bên Đại Lý Tự khanh, thế mà không biết Đại Lý Tự khanh là ai à?” Chu Tử Tần hơi cao giọng.

Hoàng Tử Hà giơ ngón tay lên môi ra hiệu cho gã nhỏ tiếng, nhưng vừa động não, cô cũng buột miệng thốt lên: “Đại Lý Tự khanh là… Quỳ vương ư?”

“Chứ còn gì nữa! Công công không biết vương gia kiêm nhiệm bao nhiêu chức vị à?”

Lần này gã nói quá to, bèn bị mấy người bên cạnh liếc xéo, cả hai đành vờ như không biết, cúi đầu giở biên bản ghi chép lúc trước của Chu Tử Tần ra.

Thôi Thuần Trạm uy phong ngồi xuống ghế, đoạn trang trọng hỏi: “Kẻ quỳ dưới kia là ai?”

“Tiểu nhân… tiểu nhân Tiền Quan Sách, mở tiệm ngựa Tiền Ký trong kinh, bao năm nay làm ăn lương thiện, tuân thủ pháp luật… Tiểu nhân oan quá! Tiểu nhân không hề…”

“Bản quan hỏi gì ngươi hẵng đáp nấy!” Thôi Thuần Trạm đập bàn, đoạn cầm lấy bản câu hỏi mà tự chính đã ghi sẵn, lần lượt hỏi từng câu một: “Có phải gần đây tiệm ngựa của ngươi mở thêm dịch vụ nạo vét đường nước, còn qua lại với đám phu phen khơi thông cống rãnh ở bộ Công không?”

“Vâng…” Tiền Quan Sách chẳng hiểu mô tê gì, đành có sao khai vậy.

“Theo những gì Đại Lý Tự tra được thì gần nơi Đồng Xương công chúa xảy ra chuyện có một của cống, có phải sau khi ra tay ngươi đã ẩn náu dưới đó, hòng tránh khỏi sự truy lùng của sai nha không?

Tiền Quan Sách sợ hết vía, cuống quýt gào toáng lên: “Không phải! Không phải không phải! Tiểu nhân không hề giết người! Tiểu nhân… tiểu nhân còn không biết công chúa đã qua đời nữa mà!”

“Theo điều tra thì lần đầu tiên ngươi vào phủ công chúa là năm ngoái, nhằm tu sửa đường nước trong phủ. Ngươi không rành về đường nước, sao lại thường xuyên chạy đến đó xem xét công việc?”

“Tiểu nhân… tiểu nhân nghe nói phủ công chúa xa hoa lộng lẫy, rắp tâm muốn chiêm ngưỡng để mở rộng tầm mắt, lại nghĩ công chúa thân phận tôn quý, chỉ e bọn thuộc hạ phạm sai sót, nên thường tới giám sát, chứ không có ý gì khác cả!” Tiền Quan Sách sợ đến nỗi ngồi bệt dưới đất, nhìn như một miếng mỡ lợn nhũn nhẽo trắng bệch.

“Nghe nói phủ công chúa xa hoa lộng lẫy ư? Thế nên ngươi mới nhắm tới những kỳ trân dị bảo trong phủ, còn thông đồng với hoạn quan Ngụy Hỷ Mẫn tuồn cóc vàng và trâm Cửu loan trong kho ra ngoài, phải không?”

“Chuyện này từ đâu ra vậy? Tiểu nhân và Ngụy Hỷ Mẫn mới gặp nhau một lần, con cóc vàng của tiểu nhân là con gái biếu, tiểu nhân chưa bao giờ thấy trâm Cửu loan…”

“Ngươi mới gặp Ngụy Hỷ Mẫn một lần, sao lại biếu hắn thứ quý giá như linh lăng hương? Về sau Ngụy Hỷ Mẫn từng đến tiệm của ngươi đòi thêm, rồi mất tích ngay trong hôm đó, sáng hôm sau thì chết tại chùa Tiến Phúc. Ngươi nói xem, có phải y tiếp tay cho ngươi lấy trộm cóc vàng rồi bị ngươi giết người diệt khẩu, bày kế thiêu chết không?”

Tiền Quan Sách lúc này đã ròng ròng nước mắt, rên hừ hừ trong họng, rối rít phân trần: “Không phải, không có… Linh lăng hương đó, là tôi tặng cho một đầu bếp…”

“Vậy tại sao tất cả đều nói là Ngụy Hỷ Mẫn sử dụng? Ả đầu bếp kia có phải một trong những tai mắt của ngươi tại phủ công chúa không?”

“Không phải! Không phải thật mà! Xương Bồ ở nhà bếp là người tốt, cô ấy đã giúp tôi tìm thấy con gái…”

“Ngươi cứ luôn miệng nói con gái mình ở trong phủ công chúa, nhưng tất cả người hầu kẻ hạ trong phủ, không ai có vết bớt trên cổ tay như ngươi miêu tả cả, ngươi làm sao chứng minh được hả?”

Tiền Quan Sách thẫn thờ quỳ dưới công đường, cơ thịt trên mặt giần giật. Trông dáng vẻ ấy, Hoàng Tử Hà vừa thương xót vừa buồn rầu, bất giác than thầm trong lòng, quay đi không nỡ nhìn thêm nữa.

“Nhưng…nhưng tiểu nhân đúng là đã gặp con gái mà! Nó đứng sau tấm bình phong, chìa tay cho tiểu nhân xem, trên cánh tay rành rành có một vết bớt màu hồng ngả xanh hình con thỏ, chẳng phải Hạnh nhi thì còn ai nữa? Tiểu nhân đã gặp con gái thực mà…”

Thôi Thuần Trạm đập bàn, cắt ngang tràng kể lể vừa như phân trần vừa như truy hỏi của họ Tiền: “Tiền Quan Sách! Bản quan hỏi ngươi, ngươi thông đồng với Ngụy Hỷ Mẫn đánh cắp báu vật trong phủ công chúa, sao còn sát hại công chúa? Hôm đó ở giữa đám đông, công chúa trông thấy trâm Cửu loan trong tay ngươi, sau đó ngươi ra tay với công chúa thế nào? Mau khai thực cho bản quan!”

Tiền Quan Sách sợ bạt vía, chỉ biết lắc đầu quầy quậy: “Không phải đâu! Không phải thật mà! Tiểu nhân không giết người, con gái tiểu nhân ở trong phủ công chúa…”

Bình sự Đại Lý Tự thở dài: “Chứng cứ rành rành mà phạm nhân vẫn cứng miệng không nhận, thưa thiếu khanh, xem ra không dùng đại hình thì hắn sẽ không nhận đâu!”

“Ừm, trước tiên lôi xuống đánh hai mươi trượng!” Thôi Thuần Trạm ra lệnh, đoạn rút một thẻ lệnh quăng xuống công đường.

Chu Tử Tần bật dậy lao đến toan bắt lấy thẻ lệnh. Tiếc rằng vẫn chậm một bước, thẻ lệnh rơi xuống đất, nha dịch tức thì tóm lấy Tiền Quan Sách kéo xuống dưới.

Chu Tử Tần lao quá nhanh, vô ý vấp phải chiếc ghế, ngã nhào xuống đất, làm ghế cũng đổ theo, các nha dịch đứng quanh đó đều tản ra, công đường bỗng chốc trở nên lộn xộn.

Thôi Thuần Trạm cau mày: “Tử Tần làm gì thế?”

“Thôi thiếu khanh.” Hoàng Tử Hà đứng dậy chắp tay hành lễ với hắn: “Tuy thiếu khanh đã xử lý vụ này, nhưng hoàng thượng từng phái nô tài cùng Tử Tần tham gia, nên có vài chuyện muốn bàn bạc qua với thiếu khanh, có thể tìm chỗ nào đó nói vài câu không?”

Thôi Thuần Trạm nghe thấy tiếng la thảm thiết của Tiền Quan Sách từ bên ngoài vọng vào, lại nhìn đám nha dịch tán loạn trên công đường, đáp: “Được thôi, chúng ta ra phía sau nói chuyện, để chúng nghỉ ngơi chỉnh đốn lại một lát.”

Ba người ra nhà sau ngồi xuống, đợi kẻ hầu dâng trà nước xong xuôi, Thôi Thuần Trạm liền hỏi: “Có chuyện gì vậy?”

Hoàng Tử Hà hỏi: “Thôi thiếu khanh thấy Tiền Quan Sách là hung thủ thật ư?”

Thôi Thuần Trạm nhíu mày: “Theo tình hình trước mắt, chẳng phải hắn là kẻ bị tình nghi nhiều nhất ư? Hắn tặng Ngụy Hỷ Mẫn loại hương liệu quý giá như vậy, Ngụy Hỷ Mẫn tới tìm hắn rồi mất tích ngay trong đêm, đến sáng hôm sau thì bị thiêu chết; tên Tôn ghẻ kia nhất định là đồng phạm, hoặc phát hiện ra tội ác của hắn lên bị giết, sau đó họ Tiền lại canh thời gian, bày ra trò say rượu tình cờ phá cửa xông vào phát hiện thi thể; còn nữa, hắn đã trộm được cóc vàng trong kho của phủ công chúa, ắt cũng có thể trộm trâm Cửu loan, mà cây trâm đó lại chính là hung khí sát hại công chúa, cạnh hiện trường có cửa cống ngầm, rất tiện cho hắn trốn thoát, nghe nói mấy ngày trước hắn còn tới đó đích thân đốc thúc người ta khơi thông dòng…”

Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Cứ cho là Ngụy Hỷ Mẫn chết vì sự thông đồng cùng Tiền Quan Sách đánh cắp cóc vàng, sau đó bị Tiền Quan Sách giết người diệt khẩu, nhưng khi trâm Cửu loan biến mất, Ngụy Hỷ Mẫn đã chết rồi, Tiền Quan Sách không có nội ứng, làm sao ra tay được nữa?”

Thôi Thuần Trạm nhíu mày ngẫm nghĩ, hồi lâu mới nói: “Hay là ả đầu bếp mà hắn nhắc tới kia?”

Hoàng Tử Hà mệt mỏi lắc đầu: “Thôi thiếu khanh à, Ngụy Hỷ Mẫn là người hầu bên cạnh công chúa, may ra còn có cơ hội ăn cắp, chứ đầu bếp cả ngày loay hoay trong nhà bếp, đến lên gác Thê Vẫn còn chẳng có dịp, huống hồ là đánh cắp cây trâm?”

“Nhưng công công không thể phủ nhận, tên Tiền Quan Sách kia có liên quan mật thiết đến vụ này, hơn nữa còn dính líu rất sâu với cả ba vụ… Ồ, quên mất! Con ngựa xảy ra chuyện của phò mã, cũng là hắn bán cho Tả Kim Ngô Vệ! Công công bảo một người bị tình nghi nhiều như thế, còn có thể trong sạch ư?” Thôi Thuần Trạm thở dài, ghé lại gần bọn họ nói khẽ, “Huống hồ công công cũng biết hoàng thượng yêu nhất Đồng Xương công chúa, nâng niu như báu vật vậy. Giờ công chúa qua đời, đừng nói là tam pháp ty: Đại Lý Tự, Hình bộ và Ngự Sử Đài, ngay kinh thành chư vệ, hai nha môn, mười đạo quân cũng đừng hòng thoát khỏi trách nhiệm. Đã có mấy thái y bị đánh chết ngay tại chỗ, nghe nói hoàng thượng còn định trị tội đến cả dòng tộc nhà bọn họ mấy trăm người, công công bảo, công chúa bị hung thủ đâm một nhát mà chết, các thái y có tội tình gì đâu? Giờ còn không mau bắt lấy thủ phạm giao cho hoàng thượng thì nha môn nào gánh nổi cơn lôi đình này?”

Hoàng Tử Hà cau mày. Chu Tử Tần vội hỏi: “Vậy thiếu khanh thấy, Lữ Tích Thúy và Tiền Quan Sách ai đáng nghi hơn?”

“Tử Tần khéo đùa, so với Tiền Quan Sách, chút hiềm nghi của Lữ Tích Thúy thực chẳng đáng nhắc tới. Nếu không phải cô ta tự đến đầu thú, còn ký vào bản án, thì bây giờ có thể phóng thích rồi!”

Chu Tử Tần cả mừng, lại nói: “Thôi thiếu khanh, thực ra tôi cũng thấy vụ án này của ông chủ Tiền nên thận trọng một chút vẫn hơn, huynh bảo có phải không? Dù gì cũng liên quan đến mạng người mà…”

Thôi Thuần Trạm lộ vẻ khó xử, nhưng vẫn miễn cưỡng gật đầu: “Công tử yên tâm, ta dẫu sao cũng là thiếu khanh Đại Lý Tự, lúc nào nên thận trọng, ta vẫn sẽ…”

Chưa dứt câu, đằng sau lại có người chạy vào bẩm: “Thiếu khanh, Thôi thiếu khanh!”

Thôi Thuần Trạm nhíu mày, nhìn viên quan thừa mừng rỡ chạy vào, hỏi: “Sao thế?”

“Vừa nhận được tin, bên dưới nhà Tôn ghẻ cũng có một đường cống chạy qua!”

“Ô? Thật à?” Thôi Thuần Trạm mừng rỡ đứng phắt dậy: “Tiền Quan Sách có biết đường cống này không?”

“Dạ biết! Mấy hôm trước khi xảy ra vụ án, trong kinh khơi thông cống rãnh, mấy tên phu phen dưới trướng Tiền Quan Sách đã tới tu sửa chỗ này, họ Tiền còn đến tận nơi đốc thúc!”

“Đúng là lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt, lại thêm một chứng cứ nữa rồi!” Thôi Thuần Trạm đắc ý ngoái nhìn Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần, “Các vị xem, tên Tiền Quan Sách kia rõ ràng là hung thủ giết người! Hắn theo đường cống lẻn vào gian phòng kín như bưng của Tôn ghẻ giết người, rồi lẳng lặng theo đường cống chuồn mất. Sau đó lại tụ tập mọi người cùng phá cửa xông vào, ngụy tạo chứng cứ ngoại phạm cho mình!”

Chu Tử Tần cau mày: “Thôi đại nhân, lúc Tôn ghẻ vừa chết, tôi từng đến hiện trường, thấy nền nhà rất bằng phẳng, không có dấu hiệu đột nhập từ bên dưới…”

Thôi Thuần Trạm nghe vậy thì nhíu mày, nhưng chỉ thoáng sau đã hăng hái phản bác: “Ồ, thế nên hắn mới lôi kéo bấy nhiêu người cùng tới chứng kiến cái chết của Tôn ghẻ! Người đông như thế, chẳng phải sẽ giẫm phẳng nền nhà vừa bị xới tung, xóa sạch chứng cứ hay sao? Tâm tư kẻ này kín kẽ như thế, đúng là giảo hoạt tột bậc!”

“Nhưng… vẫn còn nghi vấn mà…” Chu Tử Tần đang định nói tiếp thì Thôi Thuần Trạm giơ tay ngăn lại, đi thẳng ra công đường: “Tử Tuần, Dương công công, vụ này ta đã nắm chắc trong tay, hai người khỏi cần nhọc lòng nữa, cứ giao cho ta là được, sáng mai ta sẽ tra xét tường tận vụ này!”

Về đến Quỳ phủ thì đã khuya, nhưng Hoàng Tử Hà vẫn tới chỗ Lý Thư Bạch, thuật lại đầu đuôi mọi chuyện hôm nay ở Đại Lý Tự.

Lý Thư Bạch nghe xong phì cười: “Mai ta sẽ đi hỏi Thôi Thuần Trạm xem, phạm nhân kia giảo hoạt kín kẽ như thế, sao còn đem con cóc vàng đánh cắp ở phủ công chúa ra khoe với người của quan phủ?”

“Nhưng hoàng thượng rất quan tâm đến vụ này, nếu có thể kết án thật nhanh thì các nha môn mới yên thân được. Theo đó, tìm ngay một kẻ thế tội, hơn nữa còn tập hợp được tất cả những điểm khả nghi, cũng là lựa chọn thường thấy của quan phủ thôi.” Hoàng Tử Hà nhíu mày.

Lý Thư Bạch trầm ngâm, hồi lâu mới nói: “Hơn nữa, nếu sớm ngày kết án, ngươi cũng có thể sớm lên đường theo ta về Thục, đây cũng là một lựa chọn không tệ đối với ngươi. Suy cho cùng, có những chứng cứ sẽ tiêu tán theo thời gian, ngươi muốn rửa sạch oan khuất cho mình thì nên nhanh nhanh là hơn.”

“Lẽ nào vương gia cho rằng, đẩy Tiền Quan Sách ra làm kẻ thế tội trong vụ này, là kết quả hay nhất ư?”

“Đương nhiên là không.” Lý Thư Bạch khẽ búng vào chiếc bình lưu ly đựng con cá nhỏ, “Theo ta thấy, kết quả hay nhất là tìm một kẻ gian ác không cha không mẹ không con không cái. Dưới gầm trời này rất nhiều những kẻ như thế, tiếc rằng hoàng thượng lại không tin, đúng không nào?”

Hoàng Tử Hà nói khẽ: “Tiền Quan Sách… tuy tham lam hèn nhát, nhưng không phải kẻ ác.”

“Nhưng biết làm sao được? Dù gì ngươi cũng phải tìm được một người để báo cáo với hoàng thượng. Ta và ngươi đều rõ, trong vụ án này, ba nạn nhân lần lượt là Ngụy Hỷ Mẫn, Tôn ghẻ và công chúa, có nam có nữ, có người sang kẻ hèn, nhưng tất cả đều liên quan đến việc Lữ Tích Thúy bị lăng nhục. Bởi vậy kẻ bị tình nghi nhiều nhất là ba người Lữ Tích Thúy, Trương Hàng Anh và Lưc Chí Nguyên.” Lý Thư Bạch nói thẳng, “Bất kể là lừa mình dối người hay là sẵn có cảm tình, thì ngươi cũng buộc phải thừa nhận, kẻ đáng nghi nhất chính là Trương Hàng Anh.”

Tâm sự vẫn đè nén trong lòng bị y nói toạc ra, khiến Hoàng Tử Hà không biết phải phản bác thế nào. Hồi lâu, cô mới gật đầu thừa nhận: “Nô tài biết.”

Lý Thư Bạch dời mắt khỏi con cá nhỏ nhìn sang cô, nheo nheo cặp mắt sắc sảo: “Nếu hung thủ thực sự là gã, ta lại rất tán thưởng. Bất kể kẻ nào ở vào lập trường của gã, đều không thể khoanh tay đứng nhìn được. Khác chăng là có kẻ dám nghĩ mà không dám làm, có kẻ lại làm mà không kín kẽ đấy thôi. Nếu ba vụ này đều do Trương Hàng Anh gây ra thì ta phải nhìn gã bằng con mắt khác rồi.”

Nhìn vẻ tán thưởng không hề giấu diếm của y, Hoàng Tử Hà khẽ hỏi: “Vậy nếu Trương Hàng Anh thực sự là thủ phạm, gia có giữ được tính mạng cho huynh ấy không?”

Lý Thư Bạch nhíu mày: “Trước cái chết của Đồng Xương công chúa thì còn có thể. Nhưng với tình hình bây giờ thì cũng khó nói lắm.”

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Từ xưa đến nay, giết người thì đền mạng.”

Lý Thư Bạch lại nói: “Nếu vụ này được tiến hành dựa theo ba hình vẽ kia, thì giờ đã đủ ba nạn nhân rồi, ngươi sắp xếp lại tất cả manh mối cho ta xem.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, đoạn khoanh chân ngồi xuống chiếc bàn thấp phía sau, nghĩ ngợi giây lát rồi trải giấy cầm bút thong thả viết ra. Cô vốn tập theo thư pháp của Vệ phu nhân, nét chữ như thiếu nữ cài hoa, thanh tú tao nhã, tốc độ viết lại nhanh, chẳng bao lâu đã viết xong trình lên.

Vệ phu nhân tên là Thược, tự Mậu Ỷ, là một nữ thư pháp gia thời Đông Tấn (năm 266-420). Chữ của bà nhàn nhã mỹ lệ, đậm nhạt hài hòa, được Đường nhân thư bình tán tụng rằng: “Như thiếu nữ cài hoa, khuôn mặt khi ngẩng khi nghiêng, như mỹ nữ lên đài, dáng tiên chập chờn biến ảo, sen hồng chiếu nước, mây nổi biển xanh.” Bà từng là thầy dạy Vương Hy Chi, nhà thư pháp nổi tiếng Trung Quốc.

Một, cái chết của Ngụy Hỷ Mẫn: Trời giáng sấm sét, sao lại đánh trúng cây nến, rồi thiêu chết một hoạn quan thấp bé giữa cả đám đông? Nếu đúng là do người làm, thì hung thủ điều khiển sấm sét bằng cách nào? Sợi dây sắt và thủy ngân trong hồ cá từ đâu mà ra, có liên quan đến vụ án không?

Hai, phò mã ngã ngựa tại sân kích cúc: Có phải có người nhúng tay vào hay không? Nếu đúng, thì có phải nhằm vào phò mã không? Làm sao để khiến phò mã chọn đúng con ngựa đó, sau đó ra tay với nó?

Ba, cái chết của Tôn ghẻ: Lản vào căn nhà kín bưng đó bằng cách nào? Tại sao trong gian nhà nghèo nàn như vậy lại thoang thoảng mùi linh lăng hương? Hung thủ đột nhập và trốn thoát theo đường nào?

Bốn, cái chết của công chúa: Tại sao giữa vòng vây canh gác nghiêm mật như vậy mà trâm Cửu loan vẫn bị đánh cắp? Công chúa bị lôi ra khỏi đám đông, xong hẳn phải biết mình đang ở rất gần phố xá, tại sao không hét lên gọi người hầu?

Ghi chú: Cái chết của Đậu Khấu trong phủ công chúa, bức tranh ở nhà họ Trương và phủ Ngạc vương, ắt có liên quan mật thiết đến vụ này.

Lý Thư Bạch xem xong gật đầu nhận xét: “Viết vội quá, chữ ‘lẻn’ viết nhầm thành ‘lản’ rồi kìa.”

Hoàng Tử Hà cuống lên, vội săm soi tờ giấy tìm chữ viết sai.

Lý Thư Bạch chẳng buồn ngẩng lên, thản nhiên nói: “Chữ thứ bảy hàng thứ tám.”

Hoàng Tử Hà thán phục: “Trí nhớ của gia tốt quá, nhìn thoáng qua cái gì là nhớ mãi không quên.”

“Cũng tàm tạm.” Y thuận miệng bổ sung, “Hoặc có thể nói, tổng cộng ngươi đã viết hai trăm ba mươi lăm chữ, nhầm mất chữ thứ một trăm mười tám.”

Hoàng Tử Hà không dám tin vào tai mình, bèn rút nửa nắm que tính cắm trong ống quăng ra bàn hỏi: “Vương gia bảo trong ống còn bao nhiêu que?”

Y liếc qua, đáp ngay: “Bốn mươi bảy.”

Hoàng Tử Hà đếm, quả nhiên là bốn mươi bảy.

Cô ngẩng lên nhìn y: “Nô tài có một câu muốn hỏi?”

Y không đáp, chỉ ngước nhìn cô.

“Hôm đó trong chùa Tiến Phúc có cả thảy bao nhiêu người?”

“Không đếm.” Ánh mắt y hiện rõ hai chữ “nhàm chán”.

“Nhưng bấy giờ gia cũng ở đó, với con mắt của gia, nhất định sẽ có ấn tượng với tất cả những người xuất hiện trước mặt mình, đúng không nào?”

“Ừm.”

“Vậy mà khi Ngụy Hỷ Mẫn chết, gia lại nói lúc trước mình không hề thấy y.”

Lý Thư Bạch hồi tưởng lại rồi gật đầu: “Có lẽ vì y thấp bé nên bị người bên cạnh che khuất.”

“Xong hai người chứng kiến tận mắt là Trương Hàng Anh và Lữ Tích Thúy đều nói, trước khi ngọn lửa bùng lên, họ cũng không hề thấy Ngụy Hỷ Mẫn.” Hoàng Tử Hà trầm ngâm nghĩ ngợi, ánh mắt sáng dần lên, “Ngụy Hỷ Mẫn là kẻ thù của họ, hơn nữa còn mặc y phục hoạn quan đỏ chói, nhìn rất nổi bật, chí đứng cách họ có mấy thước, đáng lẽ họ phải thấy ngay mới đúng.”

Thấy mắt cô sáng rực lên, Lý Thư Bạch hỏi lại: “Nói vậy là ngươi đã lần ra manh mối rồi ư?”

“Vâng, có lẽ nô tài đã tìm ra điểm mấu chốt trong vụ chết thiêu ở chùa Tiến Phúc.” Cô tươi cười gõ ngón tay lên vụ thứ hai, phò mã ngã ngựa: “Nhờ thế, cũng lờ mờ cảm nhận được nguyên do vụ này rồi.”

Lý Thư Bạch nhìn theo ngón tay cô: “Ngươi biết hung thủ thừa cơ ra tay vào lúc nào rồi ư?”

“Tôi thấy vụ án này hễ có động cơ thì chẳng cần quan tâm đến phương thức hạ thủ nữa.” Cô nghiêm trang nhìn y, “Gia có nhớ nô tài từng kể, tháng Hai đậu khấu mới đơm hoa không?”

Lý Thư Bạch hiểu điều cô ám chỉ, trầm ngâm giây lát rồi nhíu mày: “Hoàng gia đối với hắn không bạc, mới ngoài hai mươi đã là Quang Lộc đại phu, nhìn khắp triều đình có ai được vẻ vang như thế.”

“Nhưng dù ở ngôi cao, lòng vẫn không yên được, phải không nào?” Cô hỏi khẽ.

Lý Thư Bạch nghĩ ngợi, đoạn đứng dậy.

“Ngày mai ta với ngươi đến phủ công chúa một chuyến…”

“Ngày mai xin gia dẫn nô tài đến phủ công chúa…”

Hai người đồng thời nói cùng một ý.

Hoàng Tử Hà ngẩn người, rồi bất giác nhoẻn cười. Ánh mắt Lý Thư Bạch dừng trên gương mặt cô giây lát rồi lẳng lặng nhìn lảng đi, không nói một lời.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 14-8-2016 14:31:00 | Chỉ xem của tác giả
Q.2 Chương 17.1 Hương Tàn Ngọc Nát


Sáng hôm sau khi họ tới, cả phủ công chúa đã chìm trong bầu không khí nghiêm trang và đau buồn.

Đám người dưới đang gỡ hết trướng lụa xuống, treo màn trướng trắng lên; Vi Bảo Hoành cũng đổi từ áo gấm thêu sang áo xô trắng. Trong gác đặt thi thể công chúa bày đầy đá lạnh để giữ cho cái xác khỏi thối rữa, nhưng giờ đang mùa hạ, e rằng cũng không giữ được lâu.

Vi Bảo Hoành ra tận cửa đón Quỳ vương, rân rấn nước mắt thưa: “Hàn quốc phu nhân nói, năm ngoái đã đặt sẵn một cỗ quách bằng gỗ nam mộc khảm tơ vàng, xin nhường để khâm liệm cho công chúa. Người trong phủ đang đi lấy về, bằng không thời tiết nóng nực thế này, chỉ e…”

Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn thi thể Đồng Xương công chúa nằm đó. Nàng đã thay sang áo gấm đỏ tía thêu chim trĩ, búi tóc cài cây trâm Cửu loan đã được gắn lại, phục sức chỉnh tề, má hồng môi đỏ, nét đẹp sắc sảo mong manh còn mặn mà hơn trước.

Hoàng Tử Hà khẽ hỏi: “Đã ai kiểm nghiệm tử thi chưa?”

“Chưa, hoàng thượng đau lòng như thế, ai dám nhắc đến chuyện đó nữa?” Vi Bảo Hoàng nhìn thi thể Đồng Xương công chúa, nước mắt lại lăn dài.

Hoàng Tử Hà hỏi: “Có thể để nô tài kiểm tra sơ qua một lượt không?”

“Công công được hoàng thượng chỉ định điều tra vụ này, nhất định phải xem rồi.” Vi Bảo Hoành gật đầu.

Hoàng Tử Hà tạ tội với hắn rồi bước đến cạnh Đồng Xương công chúa, Lý Thư Bạch và Vi Bảo Hoành tạm lánh ra ngoài. Cô nhẹ nhàng cởi y phục công chúa ra, quan sát kỹ vết thương trước ngực.

Vết thương đã được rửa sạch, cơ thịt co lại làm miệng vết thương càng thêm nhỏ. Chỉ thấy một lỗ máu sâu hoắm gọn ghẽ, hung thủ đâm một nhát trúng tim khiến công chúa chết ngay tức khắc.

Lúc họ chạy đến nơi thì công chúa vừa bị đâm, hung thủ đang bỏ trốn. Nhưng trước đó công chúa đã bị bắt giữ đến nửa tuần hương, ở đó lại đông như thế, tại sao không kêu cứu? Trong khoảng thời gian ấy, công chúa và hung thủ đã làm gì?

Cô kiểm tra kỹ một lượt, xác định không còn vết thương nào khác, mới mặc lại y phục cho công chúa rồi bước ra khỏi phòng.

Vi Bảo Hoành hỏi ngay: “Thế nào rồi?”

“Không có gì khác thường cả, quả là bị đâm trúng tim mà chết, vết thương khá nhỏ, trùng khớp với kích thước trâm Cửu loan.” Nói đoạn, cô đưa mắt nhìn Quỳ vương.

Lý Thư Bạch hiểu ý, liền bảo: “A Vi, ta còn một việc muốn hỏi phò mã.”

Vi Bảo Hoành gật đầu, dẫn bọn họ đến vườn Túc Vi.

Ngang qua vườn Tri Cẩm, Hoàng Tử Hà chợt dừng bước: “Mạn phép hỏi phò mã, có thể cho chúng tôi vào trong xem xét được không?”

Nhìn hai cánh cửa khép chặt, nét mặt Vi Bảo Hoành thoáng vẻ kinh ngạc cùng đau xót, hắn lắc đầu: “Công chúa đã cho người phong tỏa vườn này lại, nói là bên trong có ma quỷ tác quái, phải mất mười năm mới thanh trừ được…”

“Nhưng giờ công chúa đã qua đời rồi mà?” Hoàng Tử Hà nhìn con dấu của Đồng Xương công chúa in trên giấy niêm phong dán ngoài cửa, phản bác.

“… Chỉ là mảnh vườn bỏ hoang lâu ngày thôi mà, lại nghe đồn có ma, ta thấy…” Vi Bảo Hoành nhìn Lý Thư Bạch, nào ngờ y lại tán đồng với Hoàng Tử Hà: “Đứng ngoài này cũng thấy chuối cao vượt tường, nghe được tiếng nước chảy róc rách, ta nghĩ bên trong hẳn là đẹp lắm, muốn vào xem sao.”

Vi Bảo Hoành không còn lời nào để nói, đành bảo người hầu đi lấy chìa khóa. Chẳng mấy chốc, cửa vườn đã được mở.

Vườn Tri Cẩm quả là nơi để tránh nóng, vừa mở cửa ra đã thấy hơi mát phả vào mặt. Bên trong rợp những chuối, dòng nước uốn lượn bao lấy ngôi đình nhỏ giữa vườn, dưới nước trồng đầy xương bồ và hoa súng. Vì bỏ hoang đã lâu nên hai bên bờ cỏ mọc xanh um, mặt nước đầy bèo, không gian xanh ngắt mà yên tĩnh.

“Khu vườn đẹp thế này, bỏ không thì tiếc quá.” Lý Thư Bạch tấm tắc rồi xăm xăm đi vào. Vi Bảo Hoành thoáng chần chừ, xong vẫn theo sau.

Đi đến bên hồ, Lý Thư Bạch ngoái lại hỏi Vi Bảo Hoành: “Sao Đồng Xương lại phong tỏa khu vườn này?”

“Mấy tháng trước… có người sẩy chân rơi xuống nước, chết đuối ở đây.”

“Là thị nữ trong vườn ư?”

“Vâng…” Hắn thẫn thờ nhìn ra mặt hồ.

“Người trong cung à?”

Thấy y cứ chăm chắm hỏi chuyện này, Vi Bảo Hoành biết không thể lảng tránh được, đành đáp: “Thưa không, là thị nữ ở nhà con đưa đến, hầu hạ con từ nhỏ, tên… Đậu Khấu.”

“Nghe nói bức tranh đậu khấu của phò mã vẽ rất đẹp.”

“Thưa vâng, Đậu Khấu cùng con lớn lên, tình cảm… như mẹ như chị vậy.”

Lý Thư Bạch nhìn gió thổi dạt đám bèo trên hồ, lộ ra mặt nước nông, trông thấy đáy, trầm ngâm hỏi: “Ả luôn hầu hạ bên cạnh phò mã, sao tự dưng lại chết đuối ở đây?”

Vi Bảo Hoành cắn môi, hồi lâu mới đáp: “Người trong phủ nói, Đậu Khấu bị ma quỷ trong vườn mê hoặc, dẫn dụ đến đây…”

“Ngươi biết rõ là không phải vậy mà.” Lý Thư Bạch lắc đầu, “Công chúa đã qua đời, ngươi muốn tránh tị hiềm cho người đã khuất, ta rất hiểu. Xong chuyện đã đến nước này, hoàng thượng lại sai Dương Sùng Cổ tra xét, có một chuyện, chúng ta buộc phải hỏi rõ, mong phò mã bỏ quá cho.”

Vi Bảo Hoành biến sắc: “Nhưng… đến giờ con vẫn không biết Đậu Khấu làm sao mà chết.”

“Nhưng phò mã biết hung thủ là ai, đúng không nào?” Hoàng Tử Hà chen vào.

Vi Bảo Hoành đột ngột bị vạch trần, loạng choạng lùi lại, sững sờ nhìn cô, không nói được nửa lời.

“Vi phò mã, để báo thù cho Đậu Khấu, phò mã đã bày ra vở kịch này, khiến mọi người đều đổ dồn mắt vào phủ công chúa, đến giờ xem ra, phò mã thành công rồi đấy.” Nhìn vẻ mặt kinh ngạc của hắn, Hoàng Tử Hà thở dài: “Nô tài vốn dĩ cũng không ngờ, nhưng mọi chuyện quả là trùng hợp, đến giờ đã có ba nạn nhân, hơn nữa ba vụ án mạng này dường như đều là trời phạt, lại lần lượt được thực hiện theo bức tranh của tiên hoàng, ba hình vẽ, ba người chết, chẳng khác nào cục diện được định sẵn từ mười năm trước.”

“Trời phạt ư…” Vi Bảo Hoành lẩm bẩm.

“Đúng thế, ba vụ án này thoạt nhìn không thể đoán được thủ pháp gây án, cách giải thích hay nhất là trời phạt hoặc bị nguyền rủa theo bức tranh của tiên hoàng. Nhưng trong tranh không có việc phò mã bị ngã ngựa. Bởi vậy, tuy việc phò mã bị thương khiến công chúa lo lắng không yên, cũng khiến hoàng thượng phải hạ lệnh cho chúng tôi để mắt tới phủ công chúa, tập trung điều tra mấy vụ án liên quan tới quý phủ, nhưng sau khi tra xét và so sánh, nô tài cảm thấy vụ án của phò mã gia không liên quan gì đến chuỗi án mạng này.”

Vi Bảo Hoành im lặng nhìn cô, không giải thích, cũng không thừa nhận.

“Thứ nhất, vụ việc của phò mã gia không hề xuất hiện trong tranh, chứng tỏ ban đầu hung thủ không tính đến phò mã. Thứ hai, ngã ngựa tuy nguy hiểm, nhưng đa phần chỉ thương tích chứ ít người tử vong, huống hồ phò mã gia chỉ bị thương nhẹ, không giống với thủ pháp chuẩn xác ác độc của hung thủ, rõ ràng không phải do cùng một người ra tay. Còn thứ ba…”

Hoàng Tử Hà nhìn thẳng vào Vi Bảo Hoành, thở dài: “Phò mã gia không trực tiếp can dự vào bi kịch của Lữ Tích Thúy, xét về điểm này thì phò mã gia là kẻ vô tội, không lý nào lại bị cuốn vào.”

Vi Bảo Hoành nhếch môi nhìn cô, hồi lâu mới hỏi: “Sao ngươi lại cho rằng, vụ tai nạn ở sân kích cúc hôm đó là do ta bày ra?”

“Nhìn bề ngoài thì vụ tai nạn đó rất khó có người nhúng vào được. Dẫu sao cũng là do phò mã gia đích thân chọn ngựa, có xảy ra bất trắc thì chỉ là trùng hợp, hoặc có người tiến hành phá rối không nhằm vào ai cả, phò mã xui xẻo gặp phải mà thôi. Nhưng có một người, bất luận phò mã chọn thớt ngựa nào, cũng có thể gây ra một vụ tại nạn không lớn không nhỏ, hơn nữa phò mã vẫn kịp thời phòng bị và khống chế được, có phải không?” Hoàng Tử Hà nhìn xoáy vào hắn, nói rành rọt từng tiếng một, “Người đó, chính là phò mã.”

Vi Bảo Hoành cụp mắt xuống tránh ánh mắt cô, quay đầu nhìn ra những bông súng lác đác trên mặt hồ: “Chứng cứ đâu?”

“Chứng cứ chính là chiếc móng sắt kia. Cây đinh trên đó mới bị nạy ra, vì nếu hung thủ ra tay trước trận đấu thì dấu vết chỗ cây đinh hẳn đã có gỉ sét hoặc bám bụi. Mà trong trận kích cúc, lúc ngựa của phò mã chạy đương nhiên người khác không thể ra tay, duy chỉ lúc nghỉ là có cơ hội, thì cả bầy ngựa lại bị Địch Ác của Quỳ vương uy hiếp, co cụm vào một góc, ngay đến người cho ngựa ăn uống còn không tiếp cận nổi, vô tình những người khác lại được tẩy sạch hiềm nghi.”

Vi Bảo Hoành gắng gượng nhếch môi cười nhưng trông rất khó coi, vặn lại: “Nói vậy chẳng lẽ công công trông thấy Vi mỗ ra tay ư?”

“Phò mã cần gì phải chính tay làm. Bấy giờ trong tay phò mã còn có cây gậy đánh cầu kia mà. Người trong kinh đều biết phò mã điều khiển gậy rất thành thục, cưỡi ngựa cũng cực giỏi, chỉ cần nhằm đúng lúc mọi người trong ngoài sân reo hò cổ vũ, đổ dồn mắt vào trái cầu, tiếng hoan hô át hết mọi âm thanh, phò mã thừa cơ ngựa cất vó hí dài thì dùng cây gậy đánh vào vó phải phía trước của ngựa, làm phần móng trước vênh lên, đinh sắt long ra, móng cũng hở ra, hễ ngựa chạy là sẽ ngã quỵ gãy chân, khiến người khác lầm tưởng rằng phò mã bị hãm hại.”

Vi Bảo Hoành vẫn chăm chú ngắm mấy bông súng buồn rũ trên hồ, giọng mơ màng lơ đãng: “Dương công công nói xem, tại sao Vi Bảo Hoành mỗ phải cố ý làm mình bị thương?”

“Vì Đậu Khấu, phải không nào?” Hoàng Tử Hà đứng phía sau hắn, giọng bình thản: “Sau khi nghe Xương Bồ kể về Đậu Khấu, nô tài đã lưu ý tới một điểm: một thị nữ ở vườn Túc Vi Bảo Hoành lại chết đuối tại vườn Tri Cẩm, cách đó khá xa, hơn nữa sau khi qua đời, người trong phủ chẳng ai phản ứng gì, chỉ riêng công chúa ngụ tại gác Thê Vân, nằm ở tuốt đầu kia phủ, nói là nửa đêm trong vườn có tiếng thở than khóc lóc, sai người phong tỏa vườn Tri Cẩm lại.”

Cô hướng mắt ra hồ như Vi Bảo Hoành, giọng nhỏ hẳn: “Hơn nữa hồ nước nông đến nỗi không trồng sen nổi phải trồng súng, muốn chết đuối dưới hồ cũng khó lắm.”

“Bởi vậy mọi người đều nói Đậu Khấu bị ma quỷ mê hoặc kéo xuống nước.” Rốt cuộc Vi Bảo Hoành cũng lên tiếng, giọng nói không giấu được vẻ mệt mỏi và đau xót, “Nhưng ta biết là không phải. Tiếc rằng ta chẳng có cách nào… Ta là đồ vô dụng, cả người mình thích cũng không bảo vệ nổi…”

Hoàng Tử Hà cụp mắt xuống, lặng thinh không nói.

“Từ nhỏ Vi mỗ đã chẳng có chí hướng, lớn lên cũng chẳng tài hoa xuất chúng, chỉ giỏi mỗi đánh mã cầu. Đậu Khấu lớn hơn ta mười tuổi thường khuyên rằng, ta viết chữ trông cũng tạm được, nên luyện viết chữ thêm. Thế là ta cố gắng luyện suốt ba tháng, chỉ viết hai chữ Đậu Khấu, đúng là viết đẹp hẳn ra…” Nét mặt Vi Bảo Hoành thoáng tươi lên, hắn trân trân nhìn vào hư không, vẻ nâng niu pha tiếc nuối, như đang thấy lại chính mình thời niên thiếu vô tri: “Năm ta tám tuổi, cha từng nhắc đến việc gả Đậu Khấu đi, ta bèn lăn ra đất giãy giụa khóc lóc, tuyệt thực suốt ba ngày, cuối cùng cha mẹ đành phải nhượng bộ. Ta cứ thế chiếm hữu hơn hai mươi năm thanh xuân của Đậu Khấu, giờ nghĩ lại thì, nếu năm đó Đậu Khấu được gả chồng, nhất định… sẽ hạnh phúc hơn ở bên ta…”

Lý Thư Bạch nhíu mày cắt lời: “Vậy mà ngươi còn cưới Đồng Xương công chúa, chẳng phải làm lỡ dở người ta ư?”

“Con biết làm sao được? Con chỉ chơi một trận kích cúc, thấy một nữ tử đứng ngoài sân nhìn mình chằm chằm, bèn vung gậy cười với cô ấy, nào ngờ mấy hôm sau trong cung hạ chỉ, nói hoàng thượng muốn gả Đồng Xương công chúa cho mình. Bấy giờ con còn không vào nổi Hàn Lâm Viện, vậy mà chỉ vẻn vẹn một năm đã thành Quang Lộc đại phu!” Vi Bảo Hoành hỏi ngược lại ngay, như đang phân trần: “Quỳ vương gia, có lẽ gia vừa ra đời đã có chức vị tiền đồ nên không để tâm, chứ với người bình thường, chỉ cần cưới một cô vợ mà có ngay tiền đồ gấm vóc, thậm chí vài ba năm là làm đến tể tướng, ai cự tuyệt nổi một chuyện như thế?”

“Nhưng phò mã muốn nhiều thứ quá.” Lý Thư Bạch chậm rãi lắc đầu, “Ngươi đưa Đậu Khấu đến phủ công chúa, thì đặt công chúa vào đâu? Huống hồ người biết rõ công chúa không đời nào chịu cảnh chồng chung, vậy mà còn bắt Đậu Khấu mạo hiểm, thì để Đậu Khấu vào chỗ nào?”

“Phải… cha mẹ con cũng nói vậy. Nhưng con… con không thể xa Đậu Khấu được. Lúc công chúa phát hiện ra, con đã quỳ sụp xuống đất nài nỉ, xin nàng tha cho Đậu Khấu, nàng cũng đã nhận lời, nhưng quay đi quay lại, Đậu Khấu lại chết ở đây… Hồ nước này nông như thế, dù Đậu Khấu có sẩy chân ngã xuống, cũng làm sao chết được? Chỉ có khả năng duy nhất là bị người ta dìm đầu xuống nước, ngạt thở mà chết thôi…”

Nói đến đây, Vi Bảo Hoành thẫn thờ nhìn đám cỏ xanh um bên bờ nước, giọng nghẹn lại, hơi thở nặng nề, không kể tiếp được nữa.

Hoàng Tử Hà cũng cảm thấy lòng ngổn ngang trăm mối, chẳng biết nên đồng cảm với tình cảm của hắn dành cho Đậu Khấu, hay nên căm ghét trước sự đê hèn của hắn đối với công chúa.

Chợt cô nghe thấy tiếng Lý Thư Bạch, xưa nay y luôn bình thản, vậy mà lúc này giọng nói cũng đượm phần lạnh lẽo: “Vi phò mã, ngươi biết rõ công chúa bị bệnh tim từ nhỏ, sau khi Ngụy Hỷ Mẫn chết thảm, công chúa lại mơ thấy Phan thục phi đòi trâm Cửu loan nên đã phát bệnh, vậy mà còn đổ thêm dầu vào lửa, ngụy tạo ra nguy cơ trùng trùng hù dọa công chúa. Bản vương thật nghi ngờ, cái gọi là âm hồn Đậu Khấu quấy nhiễu, nửa đêm khóc lóc trong vườn Tri Cẩm, có phải là ngươi giả thần giả quỷ, khiến tinh thần công chúa suy sụp, hòng báo thù cho Đậu Khấu đúng không?”

“Con chỉ muốn dọa công chúa, chứ không hề có ý giết nàng… Thực sự con chỉ định dọa nàng thôi mà…” Vi Bảo Hoành thẫn thờ lắc đầu, “Nhờ làm phò mã, con mới có tiền đồ rộng mở thế này, hại chết công chúa thì con được lợi lộc gì chứ? Các vị nói xem?”

“Những việc phò mã làm, đâu chỉ để hù dọa công chúa.” Hoàng Tử Hà không nhịn được nói tiếp, “Phò mã gia gây ra chuyện trên sân kích cúc, khiến công chúa vốn ăn ngủ không yên càng thêm sợ hãi, phải xin hoàng thượng phái người tới phủ điều tra, rồi thừa lúc chúng tôi điều tra, phò mã lại khéo léo hướng tất cả manh mối vào cái chết của Đậu Khấu, phò mã muốn mượn tay chúng tôi phanh phui vụ án mạng Đậu Khấu chứ gì?”

Nghe những lời vạch tội thẳng thừng của Hoàng Tử Hà, Vi Bảo Hoành lại phóng mắt nhìn bao quát những sắc xanh đậm nhạt trong vườn Tri Cẩm, hồi lâu mới hít sâu một hơi, nói: “Công chúa… là viên minh châu trên tay hoàng thượng, là con cưng nhà trời, cá tính rất quyết liệt. Lúc mới phát hiện quan hệ giữa Vi mỗ và Đậu Khấu, công chúa đã nổi giận đùng đùng, Vi mỗ phải vật nài mãi, công chúa niệm tình Đậu Khấu đã luống tuổi, lại chăm sóc Vi mỗ từ nhỏ, nên mới hậm hực bỏ qua. Sau khi Đậu Khấu qua đời, Vi Bảo Hoành mỗ xem sổ sách trong phủ, phát hiện công chúa đang sai người tìm cho Đậu Khấu một gian nhà bên ngoài, chỉ đợi sắp xếp xong sẽ đưa ngay đến đó.” Kể đến đây, Vi Bảo Hoành cũng rơi nước mắt, hạ giọng: “Công chúa… thực ra không phải kẻ xấu, tuy tính tình nóng nảy, bất chấp lý lẽ, nhưng nàng đã rắp tâm đẩy Đậu Khấu ra khỏi phủ, thì cần gì phải hại chết nữa?”

Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn nhau. Lý Thư Bạch hỏi: “Bởi thế, người giết chết Đậu Khấu không phải công chúa ư?”

“Con nghĩ là không phải… Nhưng có một người có thể khiến công chúa phải gánh tội thay.”

Vi Bảo Hoành không nói thêm, nhưng Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà hiểu ra ngay hắn ám chỉ ai.

Cả vườn Tri Cẩm lặng phắc như tờ, hơi nước từ phía hồ đưa lại, lá chuối và cỏ xương bồ xanh đến ngợp người.

Ánh mắt Vi Bảo Hoành chầm chậm dừng ở Hoàng Tử Hà: “Dương công công phụng mệnh đến phủ điều tra, chẳng biết có phát hiện ra, tòa phủ đệ tinh xảo hoa lệ vô song này ẩn giấu rất nhiều bí mật đáng sợ, không thể hé lộ không?”

Hoàng Tử Hà nhíu mày, thầm rà lại tất cả những điều mình thu thập được mấy ngày nay tại phủ công chúa.

“Vốn dĩ Vi mỗ tự làm mình bị thương để xé to chuyện này ra, khiến quan phủ phải nhúng tay vào điều tra, từ đó hé lộ nguyên nhân cái chết của Đậu Khấu, đồng thời cũng lôi được kẻ sắp bước lên ngôi vị cao nhất ở cung Đại Minh kia xuống… Nào ngờ mọi chuyện lại thành ra thế này, công chúa… cũng bỏ ta mà đi.”

Hoàng Tử Hà buột miệng hỏi: “Phò mã có biết quan hệ giữa Tích Thúy và Đậu Khấu không?”

“Vốn là không biết, sau khi nghe tin công chúa khó ở vì trông thấy cô ta, dẫn tới vụ bê bối kia, ta phải đi dẹp yên sự việc, cũng gặp cô ta mấy lần. Về sau mới hay cô ta là cháu gọi Đậu Khấu bằng dì. Thực ra hai người cũng chỉ nhang nhác nhau thôi, nhưng hễ nhìn thấy cô ta, ta lại nhớ tới Đậu Khấu.” Vi Bảo Hoành cụp mắt xuống, khó nhọc kể, “Vi mỗ cũng biết cô ta muốn giết Tôn ghẻ, nên đã lén bám theo, định bụng nếu cần thì giúp một tay… Nào ngờ lại bị các vị phát hiện. Thực ra Vi mỗ từng nghĩ, nếu được thì Vi mỗ có thể giết Tôn ghẻ giùm cô ta, coi như nể mặt cô ta là cháu ruột Đậu Khấu, coi như cũng vì… cô ta nhang nhác Đậu Khấu…”

Hoàng Tử Hà thầm thở dài, chẳng hỏi gì thêm nữa.

Vi Bảo Hoành thẫn thờ hành lễ cáo từ Lý Thư Bạch: “Cả công chúa lẫn Đậu Khấu đều qua đời rồi, biết được chân tướng hay không cũng chẳng quan trọng nữa… Nếu vương gia và Dương công công có gì nghi vấn, xin cứ việc tra xét trong phủ. Giờ con phải tới trông linh cữu công chúa, bằng không để hoàng thượng biết con không dốc lòng dốc sức, nhất định sẽ nổi trận lôi đình.”

Lý Thư Bạch gật đầu, cho phép hắn lui ra.

Khi hắn đứng thẳng người dậy, còn nói một câu rất khẽ, khẽ đến mức gần như không thể nghe thấy: “Lúc công chúa sắp khóa cửa vườn lại, Vi mỗ… vô ý đá một thứ vào cây cột ở hành lang trong đình.”

Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch đều nghe thấy câu này, xong Vi Bảo Hoành lại thản nhiên quay đi, như thể chỉ lẩm bẩm một mình.

Bí mật phủ công chúa.

Một bí mật rất đáng sợ, không thể hé lộ.

Đợi Vi Bảo Hoành đi khỏi, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà men theo hành lang bắc trên mặt nước, thong thả đi đến ngôi đình chính giữa hồ.

Khung cửa sổ âm u thấp thoáng mấy tàu chuối biếc. Mọi đồ vật trong đình bị công chúa gấp gáp phong tỏa đã phủ một lớp bụi mỏng.

Lý Thư Bạch khoanh tay nhìn ra cỏ xanh bên hồ nước. Hoàng Tử Hà thì quỳ xuống kiểm tra kỹ từng cây cột. Cuối cùng, khi lần đến cây cột nằm trong góc tối giữa hành lang và cửa chính, cô mới thấy một viên tròn màu xám lẫn trong đám bụi, nếu không tìm kỹ chỉ e khó mà nhận ra.

Hoàng Tử Hà vội cầm lên thì thấy vật trong tay khá mềm, ra là một viên giấy. Cô thong thả giở ra, thấy trên mẩu giấy hoa tiên nhỏ viết hai câu thơ dang dở:

Người sinh mãi, kiếp nào cho hết,

Nhìn trăng sông năm hệt không sai…

Trích trong bài Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư, bản dịch Tản Đà.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 14-8-2016 14:32:02 | Chỉ xem của tác giả
Q.2 -Chương 17.2 Hương Tàn Ngọc Nát


Nét cuối cùng của chữ “sai” còn chưa viết xong, người viết đã dừng bút. Mảnh giấy hoa tiên trắng muốt bị vò nát, bám đầy bụi bặm, khiến nét chữ cũng mờ đi, nhìn khá mơ hồ.

Đột nhiên, mấy con chữ trên mảnh tro nhặt từ lò hương vụt hiện ra trước mắt cô.

Có lẽ vì những chữ kia cũng chỉ hiện lên trong thoáng chốc rồi tan biến, tạo cảm giác mơ hồ hư ảo, nên cô bỗng thấy nét chữ trên mảnh giấy bị đốt thật giống hai dòng thơ này.

“Không phải chữ Đồng Xương.” Lý Thư Bạch nhìn rồi quả quyết: “Mỗi năm vào ngày sinh hoàng thượng, Đồng Xương chuẩn bị quà mừng đều tự tay viết lời chúc, ta từng đọc rồi.”

Hoàng Tử Hà nhẹ nhàng giơ mẩu giấy lên thổi cho sạch bụi.

Nét bút rất thanh tú, rõ ràng là của phụ nữ, hơi có vẻ gượng gạo vì lâu ngày không cầm bút, rõ ràng bấy giờ người viết đang bồi hồi do dự.

Lý Thư Bạch quay lưng đi thẳng ra ngoài: “Đứng dậy đi, ngươi có gì muốn biết thì đi mà hỏi người trong phủ.”

Là một trong những thị nữ thân cận bên cạnh công chúa, từ sau khi xảy ra chuyện, Thùy Châu luôn quỳ trước linh cữu công chúa, mấy lần còn khóc đến ngất lịm, tỉnh lại lại khóc tiếp. Lúc Hoàng Tử Hà đến, hai mắt ả đã sưng húp, không khóc nổi nữa, chỉ đờ đẫn quỳ ở đó.

Hoàng Tử Hà cũng quỳ xuống cạnh Thùy Châu thắp hương vái lạy công chúa, rồi liếc nhìn cổ tay ả.

Thùy Châu vận áo xô gai, để lộ cổ tay trái, có một vết sẹo bỏng lồi lõm chạy dài từ cổ tay đến tận khuỷu, rõ ràng từng bị bỏng rất nặng.

Hoàng Tử Hà hỏi nhỏ: “Thùy Châu cô nương, vết sẹo trên tay cô là thế nào?”

Thùy Châu không đáp, chỉ lẳng lẽ kéo tay áo xuống, che vết sẹo đi.

Lạc Bội quỳ bên cạnh nghẹn ngào đáp thay: “Mấy năm trước, công chúa tò mò nghịch lửa, suýt nữa bị lửa bén vào người, Thùy Châu cứu công chúa nên mới bị thương.”

Bọn Lạc Bội, Khuynh Bích, Trụy Ngọc tuy cũng ròng ròng nước mắt, xong trông vẫn đỡ hơn Thùy Châu nhiều. Mấy ả thị nữ cạnh đó hùa theo: “Đúng thế, Thùy Châu một lòng trung thành với công chúa, cả hoàng thượng cũng phải ngợi khen.”

Hoàng Tử Hà vờ thuận miệng hỏi: “Nói ra mới nhớ, hôm trước có một nam nhân họ Tiền cứ khăng khăng nói con gái mình là thị nữ trong phủ công chúa, bảo trên cổ tay con gái có một vết bớt, chẳng hay các cô có trông thấy ai như thế không?”

Thùy Châu lặng lẽ lắc đầu. Mấy người kia cũng đáp: “Tôi có nghe nói, nhưng hình như chẳng thấy ai có vết bớt trên tay cả?”

Khuynh Bích bĩu môi: “Chắc lại thấy người sang bắt quàng làm họ đấy thôi, người trong kinh ai chẳng muốn bắt quen bắt thân với phủ công chúa? Hễ có người nhà làm việc ở đây là thừa đủ để họ ra ngoài huênh hoang rồi.”

“Khuynh Bích.” Thùy Châu nhắc khẽ. Khuynh Bích hậm hực ngậm miệng lại, không quên vớt vát thêm một câu: “Nô tỳ có nói gì đâu. À phải… làm trong phủ Quỳ vương rõ ràng là hiển hách rồi.”

Xem ra Thùy Châu là kẻ đứng đầu trong các thị nữ bên cạnh công chúa, thảo nào công chúa khen ả hầu hạ chu đáo nhất.

Thùy Châu kéo tay áo che vết sẹo, lẳng lặng quỳ ở đó, đầu cúi thật thấp, tỏ ý không muốn nói chuyện.

Nhưng Hoàng Tử Hà vẫn hỏi riết: “Thùy Châu cô nương, hàng ngày quan hệ giữa cô và Ngụy Hỷ Mẫn thế nào?”

Thùy Châu đáp khẽ: “Chúng tôi cùng hầu hạ bên cạnh công chúa nên chẳng lạ gì nhau, nhưng cũng chẳng lấy gì làm thân. Thị nữ và hoạn quan qua lại thân thiết quá… sẽ làm người ta dị nghị.”

Ả nói vậy làm Hoàng Tử Hà nhớ ra một chuyện, bèn hỏi: “Nghe nói công chúa đã hứa gả cô nương đi, không lâu sau sẽ xuất phủ?”

Thùy Châu gật đầu, rồi lại lắc đầu: “Vốn định là cuối năm nay, người ta tuy không phải danh gia vọng tộc gì, nhưng cũng giữ chức quan ở Hồng Lư Tự. Nếu không nhờ công chúa, nô tỳ đâu thể gả được vào nhà danh giá như thế. Có điều giờ xem ra… ít hy vọng lắm.”

Cơ quan chuyên cai quản nghi thức lễ tiết trong các dịp lễ hội.

Hoàng Tử Hà hiểu, người kia chẳng qua nhìn vào quyền thế của công chúa nên mới chịu cưới một thị nữ. Dù sao, với một viên quan thất phẩm nhỏ nhoi dưới trướng tể tướng thì một thị nữ thân cận bên công chúa, sau khi xé giấy bán thân, lại có chủ cũ nâng đỡ, rõ ràng là một cái gấu váy tốt. Xong giờ công chúa đã qua đời, còn mong gì y chịu giữ lời mà cưới Thùy Châu nữa. Tương lai sau này thế nào, e rằng chính ả cũng không biết được.

Hoàng Tử Hà đành lựa lời an ủi: “Ta nghĩ người làm quan chắc sẽ giữ lời, không thể vì chuyện này mà hủy hôn được.”

“Đa tạ công công an ủi.” Thùy Châu đáp, xong vẫn mặt ủ mày chau.

Khuynh Bích quỳ bên cạnh thở dài: “Nếu không nhờ công công nói đỡ, e rằng giờ bọn nô tỳ đi theo công chúa cả rồi, sống được đã là trời thương, còn những chuyện khác, ai mà biết có phúc phận ấy không…"

Khuynh Bích còn trẻ, nói năng không biết chừng mực, lời vừa thốt ra, Hoàng Tử Hà thấy Trụy Ngọc và Thùy Châu sắc mặt càng thêm u ám, chắc hẳn gánh nặng trong lòng lại nặng thêm.

Lạc Bội nhìn làn khói xanh từ lò hương lững lờ bay lên, thẫn thờ: “Nhưng… chúng nô tỳ còn cách nào khác đâu? Sau khi công chúa mơ thấy ác mộng, luôn miệng nói Phan thục phi sắp đến đòi trâm Cửu loan, mà cây trâm lại… không cánh mà bay ngay giữa nhà kho được canh giữu nghiêm mật như thế, các vị bảo có lạ hay không? Rõ ràng công chúa đích thân khóa chặt, lại chứng kiến mấy người bọn nô tỳ chính tay đặt chiếc hộp vào rương, rồi chính tay lấy ra, sao bỗng dưng biến mất được… Cuối cùng còn xuất hiện ở phường Bình Khang, đâm chết công chúa nữa chứ.”

Khuynh Bích vừa buồn vừa sợ, khóc òa lên: “Chị Lạc Bội đừng nói nữa… Đừng nói nữa mà…”

Giọng họ chìm trong tiếng tụng kinh và khóc lóc xung quanh, chẳng khác nào cây trâm Cửu loan biến mất giữa vòng vây canh gác nghiêm mật.

Hoàng Tử Hà chỉ biết than thầm, hành lễ từ biệt họ rồi đứng dậy đi ra.

Công chúa vừa qua đời, phủ công chúa đã náo loạn.

So ra thì người hầu từ nhà phò mã đưa sang vẫn bình tĩnh hơn. Dù sao họ cũng có nơi để về.

Bởi thế, khi Hoàng Tử Hà đến nhà bếp, Xương Bồ vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, đang chọn món ngày mai, chỉ là nét mặt đượm phần rầu rĩ.

“Dương công công,” thấy Hoàng Tử Hà đến, Xương Bồ đập đập cuốn sổ trong tay, tự trào, “Bất luận thế nào thì bấy nhiêu người trong phủ cũng phải ăn, đúng không nào?”

Hoàng Tử Hà ra ý bảo Xương Bồ cứ tiếp tục, rồi ngồi xuống phía đối diện: “Chỉ muốn hỏi cô cô mấy câu thôi.”

“Công công cứ hỏi.” Xương Bồ gảy bàn tính tanh tách, cúi đầu mím môi đối chiếu từng khoản mục trong sổ.

“Cô cô có biết Tiền Quan Sách bị Đại Lý Tự bắt giam rồi không?”

Xương Bồ khựng lại, đáp khẽ: “Tôi biết. Tối qua ông chủ Tiền tới tìm tôi nghe ngóng tin con gái, không may bị người của Đại Lý Tự phát hiện, chính mắt tôi chứng kiến họ giải ông ấy đi.”

“Nghe nói ông ta khăng khăng nói con gái mình ở trong phủ, thậm chí còn đưa cả con cóc vàng ra làm bằng, nhưng người của Đại Lý Tự tìm khắp phủ cũng không thấy cô con gái.” Hoàng Tử Hà nhìn chằm chằm Xương Bồ, không bỏ qua một biểu cảm nào dù là nhỏ nhất, “Tôi nhớ cô cô từng nói, con gái ông chủ Tiền là Thùy Châu phải không?”

Xong Xương Bồ vẫn thản nhiên, không hề chớp mắt, thong dong gảy bàn tính: “Đúng thế, tối qua tôi biết chuyện cũng giật nảy mình. Thì ra Thùy Châu không phải con gái ông ấy, trên cổ tay con gái ông ấy có vết bớt chứ không phải vết sẹo, lâu nay tôi lầm.”

Hoàng Tử Hà nhíu mày nhìn Xương Bồ, hỏi: “Ra là cô cô lầm ư?”

“Phải, ban đầu ông chủ Tiền chỉ nói con gái mình có dấu trên cổ tay. Tôi phát hiện cổ tay Thùy Châu có vết, ngỡ là cô ấy, bèn mách lại với ông chủ Tiền, còn về sau họ có hẹn gặp nhau hay không thì tôi không rõ. Công công biết đấy, tôi cả ngày ở trong nhà bếp, bận túi bụi, làm gì có thời gian hỏi đến chuyện ấy. Về sau ông chủ Tiền đưa linh lăng hương đến cảm tạ, tôi còn nghĩ, quả nhiên là Thùy Châu.” Kể đến đây, Xương Bồ cũng thở dài, đặt tay lên bàn tính thẫn thờ: “Nhưng lúc ông ấy bị người của Đại Lý Tự bắt được rồi thẩm vấn, lại nói trên cổ tay con gái có một vết bớt màu hồng ngả xanh, cuối cùng tra khắp phủ công chúa không thấy. Lúc sau tôi hỏi nhỏ Thùy Châu, Thùy Châu cũng thề sống thề chết là không phải mình, mấy thị nữ hầu cận công chúa đều nói Thùy Châu không hề hẹn gặp riêng ông ấy… Công công bảo có lạ không? Rốt cuộc ông chủ Tiền đã tìm thấy con gái hay chưa? Người ông ta lén hẹn gặp là ai? Lẽ nào đúng như người Đại Lý Tự nói, ông ta chỉ mượn cớ tìm con gái để câu kết với Ngụy Hỷ Mẫn ăn trộm báu vật trong phủ công chúa thôi ư?”

Hoàng Tử Hà quan sát kỹ nét mặt Xương Bồ, lại hỏi: “Thế nên cô cô không biết gì, cũng không liên quan gì đến chuyện này, phải không nào?"

“Đương nhiên rồi! Bằng không… Lẽ nào Dương công công hoài nghi tôi ư?” Xương Bồ ôm ngực kinh ngạc nhìn cô, vẻ hoảng hốt, “Dương công công! Tôi chưa từng đến chỗ ở của công chúa! Cũng chưa thấy trâm Cửu loan và cóc vàng bao giờ cả! Tuy tôi sống trong vương phủ, nhưng là người hầu dưới bếp, đến công chúa cũng hiếm khi trông thấy nữa là…”

“Được rồi, tôi tin cô cô không dính dáng đến vụ này mà, tôi tuyệt đối tin vào sự trong sạch của cô cô.” Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn Xương Bồ, ánh mắt sáng rực lên như muốn soi thấu ruột gan: “Nhưng tôi không tin cô cô không biết cô gái Tiền Quan Sách hẹn gặp là ai.”

“Tôi không biết! Tôi không biết thực mà!” Xương Bồ cuống cuồng la lên.

Hoàng Tử Hà lặng thinh quan sát phản ứng của Xương Bồ.

Thấy thái độ của cô, Xương Bồ đành chịu phép, ngã ngồi xuống ghế, lấy tay chống trán lẩm bẩm: “Tôi không nói được… Tôi không thể tiết lộ được…”

Vẻ mặt Xương Bồ không chỉ kinh hoàng lo sợ, mà còn kiên định quả quyết, như thể dù có bỏ mạng, dù có tan xương nát thịt, cũng phải nuốt bí mật này vào bụng.

Hoàng Tử Hà biết không cạy nổi miệng người này, đành thở dài: “Cũng chẳng sao, tôi đã biết là ai rồi,” đoạn đứng dậy xăm xăm đi ra cửa. Thấy vậy, Xương Bồ không nhịn nổi, vội đứng dậy liêu xiêu đuổi theo, vịn vào khung cửa hỏi: “Công công… biết là ai ư?”

“Cô cô nói xem?” Hoàng Tử Hà ngoảnh lại cuời với Xương Bồ, duới ánh mặt trời mùa hạ chói chang, gương mặt cô mờ hẳn đi vì lóa.

Giọng cô bình thản mà kiên định, mang một vẻ quả quyết khiến người ta không thể nghi ngờ.

“Trong phủ công chúa này, còn có thể là ai nữa chứ?”

Hoàng Tử Hà rời phủ công chúa, đi thẳng về phía cỗ xe ngựa phủ Quỳ.

Chợt cô trông thấy hai người đứng trước xe, một là Quỳ vương Lý Thư Bạch tao nhã như cây ngọc đón gió, còn người kia, chính là Kỳ Lạc quận chúa lộng lẫy như minh châu.

Hoàng Tử Hà không khỏi chậm bước, thầm tính xem có nên đi đến hay không.

Đi đến chẳng phải là quấy nhiễu họ ư?

Kỳ Lạc quận chúa mỉm cười nhìn Lý Thư Bạch, hai má ửng hồng, gió lồng lộng dưới tàng cây làm mấy sợi tóc nàng bay tung, vấn vít quanh đôi mắt đắm đuối như sương như khói, đẹp say lòng người.

Cô quận chúa yểu mệnh này, dù có xinh đẹp nhường nào, cũng chẳng còn được bao lâu nữa. Bởi thế Lý Thư Bạch luôn nhìn nàng bằng ánh mắt xót xa, gương mặt xưa nay lạnh nhạt cũng lộ ra mấy phần dịu dàng.

Hoàng Tử Hà lẳng lặng lùi bước, ngồi xuống bóng râm đằng sau bức chiếu bích của phủ công chúa. Cây lựu trên đầu đã kết quả lúc lỉu trĩu trịt, to bằng nắm tay đứa bé sơ sinh. Thấy một cành sà xuống trước mặt, cô bèn giơ tay níu lấy một quả, ngơ ngẩn ngắm nhìn.

Những người con gái xuất thân cao quý như Kỳ Lạc quận chúa và Đồng Xương công chúa, sinh ra giữa cẩm tú phồn hoa bậc nhất thế gian, xong lại như những bông hoa rực rỡ đầy cành, bừng nở rồi rơi rụng, mà không cách nào đơm quả.

Ba cô gái, mỗi người một phận, nhưng đều bất hạnh. Đồng Xương công chúa chết yểu, Hạnh nhi bị cha bán đi từ nhỏ, và Tích Thúy phải chịu sự lăng nhục khủng khiếp nhất trên đời.

Ba người con gái, với ba người cha khác nhau.

Hoàng đế nuông chiều Đồng Xương công chúa đến nỗi không tiếc đem mọi thứ tốt đẹp nhất đời ban cho nàng, nhưng giờ đây, dù trút giận sang thái y, liên lụy đến cả mấy trăm người, cũng không cứu nổi đứa con gái đã chết dưới trâm Cửu loan.

Tiền Quan Sách trong lúc khó khăn nhất đã đem con gái bán đi, lấy tiền bán con dựng nghiệp rồi phát đạt, sau nhiều năm cũng tìm lại được đứa con, nhưng chưa kịp nghe con gọi một tiếng cha đã bị hạ ngục.

Lữ Chí Nguyên nằm mơ cũng muốn có con trai, hơn nữa khi con gái Tích Thúy rơi vào cảnh ngộ bi thảm nhất, vẫn nhẫn tâm đuổi ra khỏi nhà, nhất quyết ôm chặt món tiền bán con gái sống cô độc suốt tuổi già.

Ba người chết thân phận cũng khác nhau. Sợi dây liên hệ duy nhất là, họ đều can dự vào bi kịch của Tích Thúy.

Khiến người ta thắc mắc nhất là Đồng Xương công chúa. Tuy nàng hạ lệnh trách phạt Tích Thúy, nhưng không cố ý khiến Tích Thúy gặp chuyện, càng không trực tiếp hãm hại. Hung thủ cũng không bố trí cẩn mật như hai lần trước mà thẳng tay giết công chúa ngay giữa phố đông, dường như công chúa mới là người y hận nhất…

Nghĩ vậy, cô bất giác rút cây trâm ngọc ra, vạch lên phiến đá xanh đang ngồi.

Ba người cha, ba cô con gái, phò mã, Trương Hàng Anh, Tôn ghẻ, Ngụy Hỷ Mẫn, Đậu Khấu…

Chợt có tiếng hỏi từ đằng sau: “Vẽ gì thế?”

Cô ngẩng lên, trông thấy Lý Thư Bạch đang ở trước mặt, hơi khom người xuống nhìn mình. Dưới ánh nắng chói chang, bóng cây xanh mát phủ trùm lên họ, mặt y chỉ cách mặt cô gang tấc, cặp mắt đen thăm thẳm như mặt hồ nhìn xoáy vào Hoàng Tử Hà khiến cô bỗng thấy chới với như sắp chìm trong đó.

Cô đành cắm cây trâm ngọc lại chỗ cũ, gắng gượng né tránh ánh mắt y, đáp khẽ: “Vừa rồi thấy gia và Kỳ Lạc quận chúa đang trò chuyện, nô tài không dám đến quấy rầy, đành ngồi lại đây sắp xếp lại các manh mối.”

Y liếc cô rồi ngồi xuống bên cạnh: “Kỳ Lạc tới bái tế Đồng Xương, tình cờ gặp nhau.”

“Quận chúa… khí sắc rất khá, chắc gần đây có khỏe lên?”

“Không biết nữa, có khi cái chết của Đồng Xương sẽ khiến cô ấy chạnh lòng nghĩ đến mình, càng buồn bã thêm.” Nói rồi y hờ hững giơ tay nhón một quả lựu nhỏ giơ lên trước mặt quan sát, hỏi sang chuyện khác, “Vừa rồi ngươi để ý thấy manh mối nào chưa?”

Hoàng Tử Hà ngây ra một thoáng mới đáp: “Tôi còn nhớ, khi cây trâm Cửu loan của công chúa bị đánh cắp, gia dắt tôi đến thăm hỏi, bấy giờ, gia có vẻ khá thích con chó sứ trên nóc tủ ở đầu giường công chúa.”

“Đúng thế.” Lý Thư Bạch buông tay, để mặc quả lựu bé kia cứ rung rinh trước mặt hai người, “Bởi vì ta nhớ lúc Đồng Xương chừng sáu bảy tuổi, từng bị mảnh vỡ của chiếc đĩa sứ cứa đứt tay. Từ đó hoàng thượng hạ lệnh, trong cung của Đồng Xương không được dùng bất cứ thứ đồ gốm sứ gì nữa. Mãi đến khi Đồng Xương hạ giá lấy Vi Bảo Hoành, dọn vào phủ công chúa, đồ dùng bên cạnh đa phần cũng bằng vàng bạc, vậy mà tự dưng lại có một con chó sứ bên cạnh, hơn nữa nhìn rất giống những món bán đầy ngoài chợ, ngươi không thấy lạ ư?”

Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi: “Chúng ta đi lấy về xem được không?”

Lý Thư Bạch đứng ngay dậy không chút chần chừ: “Đi thôi.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 14-8-2016 14:33:58 | Chỉ xem của tác giả
Q.2 Chương 18 Sống Động Như Thật


Gác Thê Vân trống không, mọi thứ của công chúa đều đã bị niêm phong cất đi, chỉ để lại chiếc giường và hộc tủ khóa chặt.

Đặng Xuân Mẫn, hoạn quan thân cận bên cạnh công chúa dẫn họ vào. Lý Thư Bạch đi đến trước chiếc tủ đầu giường công chúa, bảo họ Đặng mở ra.

Bên trong đầy những món đồ chơi nho nhỏ, nào là nước tường vi, cầu xông hương, hộp gỗ đàn v.v… hằng ngày nhờ đám thị nữ vẫn dọn dẹp luôn luôn, nên tuy nhiều thứ xong không hề lộn xộn, món nào món nấy được đặt ngay ngắn, chỉ là góc phải bỏ trống một chỗ bằng nắm tay.

Vừa đủ cho một con chó sứ.

Thấy họ không tìm thấy thứ muốn tìm, Đặng Xuân Mẫn gợi ý: “Một số đồ dùng đã được gói đưa đến nhà kho rồi, để nô tài dẫn vương gia đi xem.”

Nhà kho nơi trâm Cửu loan biến mất vẫn đóng chặt cửa, toát lên vẻ lạnh lẽo, cách biệt với bên ngoài.

Từng hàng giá và kệ để đồ xếp đầy những hộp và rương, có thứ còn bọc vải kín mít, nhìn từ xa thấp thoáng như một bóng đen kỳ quái ngồi vắt vẻo trên giá.

“Hai chiếc rương này là những đồ dùng thường dùng của công chúa, đều đặt ở đây.” Đặng Xuân Mẫn lại rút chìa khóa mở hai rương ra.

Hoàng Tử Hà đang nhấc nắp rương lên, chợt trầm ngâm dừng lại.

Lý Thư Bạch hỏi: “Sao thế?”

Cô vỗ nhẹ vào nắp rương, ngước nhìn y: “Vương gia nghĩ tới việc gì?”

Lý Thư Bạch nhìn cánh tay cô gác lên nắp rương, nhíu mày đáp: “Ý ngươi muốn nói đến chuyện trâm Cửu loan đột nhiên biến mất ư?”

Hoàng Tử Hà gật đầu, rồi lập tức bắt tay vào tra xét những chiếc rương xung quanh, phát hiện rương ở ngăn dưới cùng đều đặt trực tiếp trên nền gạch xanh, duy có chiếc rương từng cất trâm Cửu loan, hiện đang bỏ trống cạnh đó là được lót mấy tấm vải dưới đáy, để tránh bị chấn động.

Lý Thư Bạch nhìn qua một lượt rồi gật đầu: “Mở ra xem đi, nếu không thấy chó sứ thì có thể khẳng định đấy.”

Ở bên nhau lâu ngày, hai người cũng có một sự ăn ý ngầm, không cần phải nhiều lời. Hoàng Tử Hà liền mở hai chiếc rương ra lục tìm, quả nhiên không có chó sứ.

Cả hai bèn đứng dậy rời khỏi nhà kho, quay về gác Thê Vân, trầm ngâm nhìn chỗ trống trong ngăn tủ đầu giường công chúa.

“Vừa đủ chỗ cho một con chó sứ, phải không?” Hoàng Tử Hà ước lượng.

Lý Thư Bạch gật đầu nhìn quanh: “Muốn làm nó biến mất cũng dễ thôi…”

Hai người không hẹn mà cùng bước đến bên xong nhìn xuống dưới.

Hợp hoan vẫn nở rộ bên dưới, từng đóa hoa mượt mà như lông tơ, phủ đầy mặt đất.

“Đi thôi.”

Cả hai men theo thềm đá mà xuống, rồi đi lòng vòng tìm kiếm quanh khu vực thẳng dưới cửa sổ gác Thê Vân, quả nhiên phát hiện một đám hoa tàn lá rụng vun đầy dưới gốc hợp hoan, nếu không để ý còn ngỡ là tình cờ bị gió thổi gom lại một chỗ.

Hoàng Tử Hà nhặt một cành cây gạt lớp hoa lá bên trên, thấy phía dưới là một đống mảnh sứ.

Quỳ vương mắc bệnh sạch sẽ chỉ khoanh tay đứng bên nhìn.

Hoàng Tử Hà thận trọng nhặt những mảnh sứ ra, đếm được cả thảy hai mươi tám mảnh lớn nhỏ. Cô bỏ vào khăn tay gói lại, đút trong tay áo.

Ngồi xe quay về, trông sắc trời đã sắp đến giờ Ngọ, Lý Thư Bạch đột nhiên bảo: “Qua rủ cả Tử Tần tới Chuế Cẩm Lâu ăn cơm đi.”

Hoàng Tử Hà vội bảo bác đánh xe A Viễn: “Đến phủ Chu thị lang nhé.”

Lý Thư Bạch lại trỏ hộc tủ bên dưới: “Cái đầu lâu vẫn ở đó à?”

Hoàng Tử Hà gật đầu đáp: “Không trả cho Tử Tần được, nếu để cậu ấy khôi phục lại nó hoàn toàn, sẽ phát hiện ra người chết rất giống Vương hoàng hậu. Nhưng nếu không trả hoàng hậu, thì phải để đâu đây…”

Lý Thư Bạch lạnh lùng lườm cô: “Mua dây buộc mình.”

Cô cúi gắm mặt không dám nhìn y, nem nép gật đầu nhận lỗi: “Nô tài biết sai rồi, là tại nô tài lo bò trắng răng, mua dây buộc mình, gia bảo nên giải quyết thế nào đây?”

“Ra ngoại ô tìm một khoảnh đất trống mà chôn đi.”

“…” Hoàng Tử Hà câm nín ngoảnh đầu nhìn ra cửa sổ, vờ như không nghe thấy y nói.

Rèm cửa lắc lư theo nhịp bánh xe, thấy đã đến nhà Chu Tử Tần, cô bèn nhảy phắt xuống, chạy tới gọi cửa: “Du thúc, tiểu thiếu gia hôm nay có nhà không?”

“Dương công công đấy à! Trùng hợp quá, hôm nay tiểu thiếu gia vừa ra đến cửa thì dừng lại nghĩ ngợi rồi quay trở về phòng, nói rằng sợ công công đến không gặp được mình!”

“Ồ, vậy phiền Du thúc báo một tiếng với tiểu thiếu gia, bảo rằng vương gia đợi cậu ấy đi ăn cùng.”

“Hả? Được rồi, đi ngay đây!” Người gác cổng chạy vội vào nhà như một làn khói.

Hoàng Tử Hà đứng đợi dưới gốc thủy lạp ngoài cửa, muôn ngàn đóa hoa nhỏ xinh nở rợp trên đầu, tỏa hương ngây ngất, đè trĩu cả cành. Cô vươn tay toan vít một cành xuống thì nhận ra ngay cả đóa hoa ở thấp nhất mình cũng không với tới, chỉ có thể đứng bên dưới lặng lẽ ngắm nhìn.

Chợt phía sau có người vươn tay ra, bẻ cành hoa Hoàng Tử Hà vừa cố với tới, đưa cho cô.

Ngỡ ngàng ngoảnh lại, Hoàng Tử Hà trông thấy Vương Uẩn đang cầm cành hoa nở rộ, mỉm cười đứng sau lưng mình tự lúc nào. Y đăm đăm nhìn cô nói khẽ: “Vừa rồi đi trên phố trông thấy xe ngựa phủ Quỳ chạy qua, lại thấy cô nhảy xuống bèn tới chào một tiếng.”

Thấy cành hoa vẫn chìa ra trước mặt mình, tỏa hương ngan ngát khiến người ta say đắm, Hoàng Tử Hà bất giác nhận lấy: “Đô úy đã chính thức nhậm chức ở Tả Kim Ngô Vệ rồi ư?”

“Ừm, hôm nay là ngày đầu tiên. Kinh thành lớn như thế, hôm nay lần đầu tiên đi tuần lại gặp ngay cô, đúng là duyên phận.” Y ung dung mỉm cười: “Ta cứ tưởng buổi tối cô hay ra ngoài tra án hơn.”

“Thì đúng mà, buổi tối tôi vẫn hay ra ngoài, giờ đô úy đi rồi, hy vọng các huynh đệ ở Kinh thành phòng vệ ty cũng nương tay cho tôi được nhờ.”

“Chuyện đó đương nhiên.” Y cười nói, đoạn quay sang chào Lý Thư Bạch qua cửa sổ xe: “Tham kiến vương gia.”

Lý Thư Bạch gật đầu chào, lại hỏi: “Ở Tả Kim Ngô Vệ có ổn không?”

“Cũng ổn, như phòng vệ ty thôi.” Y thản nhiên cười đáp.

Hoàng Tử Hà nắm chặt cành hoa thủy lạp trong tay, chợt thấy hổ thẹn trong lòng. Vương Uẩn ở Kinh thành phòng vệ ty đang như mặt trời chính Ngọ, giờ bị điều đến Tả Kim Ngô Vệ, bó chân bó cẳng, chính là vì cô vạch trần thân phận Vương hoàng hậu, hoàng đế mới chớp lấy thời cơ kiềm chế nhà họ Vương.

Nghĩ vậy, cô bèn nhét cành hoa vào tay áo, bảo Vương Uẩn: “Đô úy đợi cho một lát,” rồi lên xe xách một chiếc túi ra, đặt vào tay Vương Uẩn: “Cái này… nếu có cơ hội, đô úy xem có thể giao lại cho Tiểu Thi không.”

Vương Uẩn vừa cầm lấy đã đoán được ngay thứ bên trong, liếc qua chiếc đầu thật nhanh rồi vắt túi lên lưng ngựa, hỏi: “Tìm được ở đâu thế?”

“Đừng hỏi, dù sao… tôi nghĩ tốt xấu gì cũng nên được toàn thây.” Cô nói nhỏ.

“Ừm, thực ra ta hết sức hối hận. Cái chết của cô ấy, ta không khỏi liên quan.” Vương Uẩn chăm chú nhìn gương mặt cúi gằm của cô, lâu sau mới hạ giọng: “Cảm ơn.”

“Cảm ơn gì thế?” Thình lình một người từ đằng sau nhảy ra hỏi.

Kẻ xuất quỷ nhập thần thế này, đương nhiên là Chu Tử Tần. Hôm nay gã vận một bộ đồ màu hồng tím phối với vàng ươm, trông vẫn xốn mắt như thường.

Một tay đặt lên tay Vương Uẩn, tay kia khoác vai Hoàng Tử Hà, Chu Tử Tần tươi cười: “Nào nào, kể cho tôi nghe chuyện ân oán giữa hai vị đi.”

Hoàng Tử Hà tức thì gạt tay gã, cùng lúc ấy Vương Uẩn cũng kéo cánh tay Chu Tử Tần đang khoác vai Hoàng Tử Hà ra, hai người phối hợp hết sức ăn ý, khiến Lý Thư Bạch từ cửa sổ xe nhìn ra cũng phải nhướng mày, ánh mắt đầy phức tạp.

“Vương đô úy tặng tôi một cành hoa, tôi cũng tặng lại chút quà.”

Lý Thư Bạch thì nói: “Uẩn Chi cũng đừng về nha môn nữa, cùng đến Chuế Cẩm Lâu đi.” Uẩn Chi là tên tự của Vương Uẩn.

Thế là Chu Tử Tần lên xe, còn Vương Uẩn cưỡi ngựa theo sau, mấy người cùng kéo đến Chuế Cẩm Lâu.

“Sùng Cổ, công công vừa tặng lại cái gì đấy? Có qua có lại mới toại lòng nhau, Vương huynh tặng hoa, chắc công công cũng phải tặng lại thứ gì đó phong nhã chứ?” Dọc đường Chu Tử Tần cứ luôn miệng căn vặn.

Hoàng Tử Hà không muốn nói, quà đáp lễ phong nhã của mình chính là chiếc đầu lâu lấy từ chỗ gã.

Gặng hỏi mãi không được, Chu Tử Tần rầu rĩ bĩu môi ngồi dựa vào vách xe, nhìn chằm chằm cành hoa trên tay cô: “Đúng là, hoa này bẻ ngay ngoài cửa nhà ta chứ gì? Thế đâu tính là quà, rõ là mượn hoa dâng Phật!”

Lý Thư Bạch dõi mắt nhìn ra phố phường bên ngoài, vặn lại: “Ngươi có nghĩ Dương Sùng Cổ cũng mượn hoa dâng Phật không?”

Chu Tử Tần vẫn hồn nhiên không hề biết mình bị “mượn hoa” đến hai lần, nghe thấy câu này thì háo hức hỏi: “Lẽ nào quà đáp lễ của Sùng Cổ lấy từ chỗ vương gia? Hai người này đúng là keo kiệt, tặng qua tặng lại, toàn bòn của từ người khác.”

Tiếc rằng kế khích tướng này vô dụng, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà đã quá rõ tính tình gã, đều quay đầu nhìn ra cửa sổ, vờ như không nghe.

Chu công tử phải chịu ấm ức suốt dọc đường đi, tới Chuế Cẩm Lâu chọn một loạt món ăn vẫn không vui lên được, trong lúc đợi món bèn nằm bò ra bàn, trông tội nghiệp như một chú chó con bị bỏ rơi.

Hoàng Tử Hà chẳng buồn dỗ dành gã, mà gọi tiểu nhị múc cho một chậu nước, lại xin ít keo bong bóng cá và bột gạo, trộn lẫn vào nhau thành một hỗn hợp sền sệt dinh dính.

Chu Tử Tần nằm bò ra bàn nhìn cô, uể oải hỏi: “Sùng Cổ làm gì thế?”

Hoàng Tử Hà lấy gói mảnh sứ trong tay áo ra, đổ vào chậu nước rửa từng mảnh một. Vương Uẩn liền đứng dậy phụ giúp: “Cẩn thận kẻo bị cứa vào tay.”

Lý Thư Bạch chỉ ở bên cạnh thờ ơ quan sát, không giúp, cũng chẳng nói năng gì.

Chu Tử Tần thấy vậy thì hào hứng hẳn, nhặt ngay một mảnh cọ sạch rồi giơ lên ngắm nghía: “Cái gì đây?”

“Mảnh sứ vỡ tìm được trong phủ công chúa, công tử đoán xem là gì?” Hoàng Tử Hà rửa sạch từng mảnh đặt lên bàn.

Mảnh Chu Tử Tần đang cầm là pần tai chó, gã ngắm nghía hồi lâu rồi nói: “Hình như là một món đồ chơi bằng sứ… Mèo hay chó gì đó.”

“Hẳn là một con chó.” Cô đáp.

Thấy Hoàng Tử Hà lầm lượt ghép những mảnh sứ vỡ lại, Chu Tử Tần cũng quên cả giận dỗi, thoăn thoắt giúp cô tìm từng mảnh.

Vừa ghép lại hoàn chỉnh thì tiểu nhị cũng bắt đầu bưng thức ăn lên.

Đợi ba người ăn xong, keo dán cũng khô lại, con chó được dính chắc. Chu Tử Tần cầm trong tay săm soi rồi quả quyết: “Muốn mua được thứ này hẵng còn khó đấy.”

Vương Uẩn cầm lên xem rồi hỏi: “Chẳng phải một con chó sứ bình thường thôi sao? Hồi nhỏ hình như ta cũng từng chơi, có gì mà khó mua?”

“Vương gia lớn lên trong cung thì thôi, còn Sùng Cổ, hồi nhỏ có chơi thứ này không?” Chu Tử Tần hỏi.

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Tôi cũng có ấn tượng láng máng, chắc hồi nhỏ từng thấy rồi.”

“Đúng thế, mười năm trước, khi chúng ta còn nhỏ thì loại chó sứ này rất phổ biến, nhưng mấy năm nay lại ít thấy, con mấy ông anh ta đều không có. Hơn nữa loại đồ sứ này động một cái là bị bọn trẻ làm vỡ, ta dám đảm bảo, thứ này đã thành hàng hiếm rồi.”

“Con chó sứ này á?” Có đầy! Muốn bao nhiêu có bấy nhiêu!”

Ông chủ tiệm đồ chơi ở chợ Tây vừa mở miệng đã giáng cho Chu công tử một đòn như búa bổ.

Có điều da mặt gã cũng không phải dày vừa, chỉ một chốc đã gạt phăng chuyện này đi, hăm hở theo ông chủ vào kho, khiêng ra một rương chó sứ.

Ông chủ mở rương ra, bên trong là hàng dãy chó sứ xếp ngay ngắn thành ba lớp, phải đến bảy tám chục con. Lớp trên cùng thiếu mất mấy con, thành ra bị khuyết.

Hoàng Tử Hà ngồi xuống ngắm nghía, phát hiện đám chó trong hộp bám đầy bụi, chỉ riêng một con ở lớp thứ hai là sạch sẽ. Cô bèn nhặt lấy đặt lên lòng bàn tay săm soi rồi hỏi: “Ông chủ, rương hàng cũ này cũng mười năm rồi, sao ông không bỏ đi, lẽ nào vẫn còn người mua?”

“Đúng thế, rương chó sứ này nhập từ Giang Nam mười năm trước, bấy giờ rất phổ biến trong kinh. Tiếc rằng về sau dần dần lỗi thời, lò gốm chế ra chúng cũng đóng cửa, chẳng ai mua nữa. Có điều cũng thật tình cờ, tháng trước lại có người hỏi đến, tôi tìm mãi mới phát hiện còn một rương hàng tồn, bèn đem ra bán. Chắc cả kinh thành này chỉ còn chỗ tôi bán thứ này thôi. Trừ vị khách hôm đó ra, cũng chỉ có các vị hỏi tới.”

Hoàng Tử Hà ước chừng trọng lượng con chó sứ trong tay rồi hỏi: “Người khách lần trước trông thế nào? Chắc cũng tầm tuổi chúng tôi, đi mua lại món đồ chơi hồi bé chứ gì?”

Ông chủ cười hì hì nhận tiền Chu Tử Tần đưa rồi đáp: “Không phải không phải, chính là ông chủ Tiền của tiệm ngựa Tiền Ký ấy, ông ấy bốn năm chục tuổi rồi còn đi mua thứ này, có tức cười hay không?”

Chu Tử Tần quay sang nhìn Hoàng Tử Hà, nói bằng khẩu hình: “Lại là ông ta.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, cũng dùng khẩu hình trả lời: “Quả nhiên.”

Chu Tử Tần rầu rĩ hỏi: “Công công biết trước rồi à? Lại không nói với ta!”

“Chẳng phải tôi nói với công tử đầu tiên đấy ư?” Lúc ra khỏi tiệm đồ chơi, Hoàng Tử Hà dỗ gã.

Nghe vậy, Chu Tử Tần tức thì bò ra khỏi vực sâu tuyệt vọng, vui vẻ cầm chó sứ về Chuế Cẩm Lâu, đặt trước mặt hai người kia: “Đoán xem ai đã mua con chó sứ kia nào?”

Lý Thư Bạch chẳng buồn ngước lên, đáp ngay: “Tiền Quan Sách.”

Ba từ này đã đánh bật Chu công tử về đáy vực, gã rưng rưng quay lại nhìn Hoàng Tử Hà: “Công công bảo là nói với ta đầu tiên mà?”

“Là gia tự đoán được đấy chứ.” Hoàng Tử Hà xòe hai tay, vẻ bất lực.

“Nhưng, nhưng dù gần đây Tiền Quan Sách có mua một con chó sứ, thì cũng không thể nói con chó bị vỡ trong phủ công chúa có liên quan đến con của ông ta! Huống hồ chó sứ thì liên quan gì đến vụ án của công chúa?”

“Đương nhiên liên quan rất nhiều. Có thể nói, cái chết của công chúa, đều do con chó sứ này.” Nói đoạn, Hoàng Tử Hà thận trọng bọc cả hai con lại.

Vương Uẩn thấy cô tất bật thì mỉm cười hỏi: “Sùng Cổ, vụ án Tôn ghẻ lần trước hai vị đi suốt đêm điều tra, giờ thế nào rồi?”

“Vẫn… chưa có tiến triển gì.” Chu Tử Tần nằm bò ra bàn, chán nản đáp: “Đại Lý Tự đã kết án là Tiền Quan Sách mượn cớ sửa sang đường nước, rồi theo đường nước lẻn vào giết người, nhưng vụ này vẫn còn cả đống nghi vấn chưa giải thích được.”

Vương Uẩn hỏi: “Ví như mùi linh lăng hương ta ngửi thấy ở đó ư?”

“Ừm, dĩ nhiên.” Chu Tử Tần thành thật gật đầu.

Lý Thư Bạch hỏi chen vào: “Linh lăng hương gì cơ?”

Vương Uẩn liền giải thích: “Tối hôm ấy Tích Thúy chức đi tuần thì gặp họ đi tra án, bèn theo xem thử. Những chuyện khác thì ty chức không biết, nhưng ở hiện trường lại ngửi thấy mùi linh lăng hương. Về mặt này ty chức cũng hiểu biết qua loa.”

“Ngươi là kẻ bình phẩm hương giỏi nhất kinh thành, nếu nói là chỉ biết qua loa, thì ai dám nhận mình sảnh sỏi nữa? Trong nhà Tôn ghẻ quả có mùi linh lăng hương ư?”

“Đúng thế, ngửi thấy mùi linh lăng hương trong căn nhà nát đó, ty chức cũng hết sức ngạc nhiên. Nhưng ty chức nhớ nhất là mùi linh lăng hương ở đó bị lẫn với đủ thứ mùi, rất khó nhận ra. Nhớ đến thứ mùi nồng nặc khiến người ta lợm giọng trong nhà Tôn ghẻ, Vương Uẩn nhăn mặt.

Chu Tử Tần quay sang hỏi Hoàng Tử Hà: “Công công xem có nên tới nhà Tôn ghẻ lần nữa không?”

“Ừm, trong ba vụ, tôi chỉ còn khúc mắc mỗi vụ này thôi, nếu tìm ra được cách hung thủ sát hại Tôn ghẻ trong phòng kín thì có thể kết án rồi.”

Lý Thư Bạch sực nhớ ra một chuyện, liền bảo: “Dương Sùng Cổ, ngươi cầm lệnh tín phủ Quỳ đi bảo lãnh cho Tích Thúy ra đi.”

Hoàng Tử Hà ngạc nhiên nhìn y, rồi gật đầu đầy cảm động: “Thưa vâng.”

Giờ Tiền Quan Sách là nghi phạm lớn nhất, Tích Thúy tuy có liên quan tới hai vụ đầu, nhưng Đại Lý Tự từ lâu đã không còn hoài nghi nàng. Nay có Quỳ vương ra mặt bảo lãnh cho, huống hồ Lý Thư Bạch còn kiêm nhiệm Đại Lý Tự khanh, Tích Thúy hoàn toàn có thể về nhà đợi khi nào xử án sẽ cho truyền gọi.

Chu Tử Tần thở dài: “Tích Thúy cũng thật là, kết án xong, chắc chắn cô ấy sẽ bị khép tội khai man rồi phạt trượng cho coi.”

Vương Uẩn cười nói: “Lo gì, tới lúc đó vương gia chỉ cần nói một câu với Thôi thiếu khanh, để thiếu khanh nhắc nhở người phạt trượng là xong mà.”

“Tôi là người chính trực, làm sao hiểu nổi mấy thủ đoạn đó của các người.” Chu Tử Tần vỗ trán than vãn.

Thấy Hoàng Tử Hà đã ra đến cửa, Vương Uẩn bèn đứng dậy theo: “Ta cũng phải về Tả Ngô Kim Vệ, cùng đường với Dương công công, để ta đi cùng công công!”

“Đi với đi với!” Chu Tử Tần bật dậy, “Tôi cũng phải đi lấy lòng Tích Thúy, bằng không lấy đâu đồ ngon mà ăn!”

Ba người cùng xuống lầu, chỉ còn mình Lý Thư Bạch đứng bên song cửa sổ nhìn xuống dưới.

Chu Tử Tần đi bên trái Hoàng Tử Hà, vừa đi vừa nhảy chân sáo, hoa chân múa tay ba hoa gì đó.

Vương Uẩn đi bên phải Hoàng Tử Hà, thỉnh thoảng lại nghiêng đầu nhìn cô, nở nụ cười ôn hòa quen thuộc.

Lý Thư Bạch đứng trên lầu nhìn theo cho tới khi cả ba ra khỏi chợ Tây. Ánh nắng gay gắt khiến cả thành Trường An sang rực lên, xói vào mắt y chói lóa.

Cảnh Dục và Cảnh Hữu đứng phía sau chẳng hiểu sao y đột nhiên quay ngoắt đi, không nhìn ra bên ngoài nữa.

Sau khi dừng ở cửa chợ Tây bàn bạc, ba người quyết định chia làm hai ngả, Chu Tử Tần đến phường Phổ Ninh báo tin cho Trương Hàng Anh, còn Vương Uẩn và Hoàng Tử Hà tới Đại Lý Tự trước.

Hoàng Tử Hà bảo Vương Uẩn: “Tôi chạy ù sang bên này một lát,” đoạn rẽ vào tiệm nhang đèn nhà họ Lữ.

Lão Lữ vẫn ở sau tiệm, lại đang hì hục làm một cây nến lớn, giống hệt cây bị nổ lần trước, chỉ thiếu chưa vẽ hoa văn và quết màu lên.

Hoàng Tử Hà lặng lẽ đứng ngoài quan sát, không bước vào, cũng không lên tiếng. Lão Lữ đã gần sáu mươi tuổi, nheo nheo cặp mắt mờ đục, còng lưng ngồi tỉ mẫn vẽ hình rồng phượng và hoa lá lên nến. Giữa ngày hè nóng hầm hập, lão cầm bảng màu trên tay, thỉnh thoảng còn phải lại gần lò lửa khuấy sáp lỏng.

Hơi nóng bốc lên nghi ngút, cả người lão Lữ đầm đìa mồ hôi, bộ áo chẽn nâu ướt sũng, xong lão vẫn chăm chú vẽ nến, vô cùng thành kính, không chút cẩu thả.

Vương Uẩn nhìn lão rồi nhìn sang Hoàng Tử Hà hỏi khẽ: “Sao thế?”

Hoàng Tử Hà thở dài đáp: “Không có gì. Tôi nghĩ hôm nay Tích Thúy được thả, không biết có nên báo cho cha cô ấy một tiếng không.”

“Cha con đoàn tụ là chuyện đương nhiên, phải không nào?”

Nghe Vương Uẩn nói vậy, Hoàng Tử Hà bèn cùng y bước vào tiệm, chào Lữ Chí Nguyên: “Lão Lữ.”

Lữ Chí Nguyên nheo mắt ngước lên, chẳng biết có nhận ra cô hay không, chỉ lạnh nhạt ậm ừ: “Ồ, là quý khách.”

“Ta đến báo tin mừng cho ông, Lữ Tích Thúy con gái ông hôm nay sẽ được thả, ông có muốn tới gặp cô ấy không?”

Bàn tay Lữ Chí Nguyên thoáng khựng lại, nhưng rồi vẫn thoăn thoắt vẽ tiếp: “Được thả à? Được thả thì tốt rồi, cứ sợ nó làm liên lụy đến lão.”

Hoàng Tử Hà biết tính lão già này nên cũng chẳng nhiều lời nữa, chỉ đứng ngắm nghía cây nến một hồi, chợt buột miệng: “Sắp xong rồi đấy nhỉ?”

Lữ Chí Nguyên chẳng buồn đáp, lão vốn sẵn ghét hoạn quan.

Vương Uẩn đang ngắm một đôi nến hoa trong tiệm, chợt gọi cô: “Sùng Cổ lại mà xem.”

Đôi nến hoa nọ cao chừng một thước, hình thù rất đặc biệt, một cây hình rồng, cây kia hình phượng, mỗi chiếc vảy sợi lông một màu khác nhau, chỉ riêng màu đỏ đã có đỏ nhạt đỏ thẫm đỏ son đỏ thắm đỏ phớt, vô vàn sắc độ màu đều do một tay lão Lữ chế ra, thực khiến người ta phải trầm trồ. Tài điêu khắc của lão lại càng tuyệt diệu, đôi rồng phượng trông sống động như thật, bừng bừng khí thế, trên đầu mỗi con đính một sợi bấc, dọc thân trang trí vô số hoa lá, lục lạc bằng những mảnh đồng, quả là muôn màu muôn vẻ, lấp lánh rạng ngời, khiến người ta không ngăn được ý nghĩ, chẳng biết khi đốt lên còn đẹp đến đâu.

Thấy đôi nến tinh xảo nhường ấy, Vương Uẩn ngoái lại hỏi: “Ông chủ có bán đôi nến này không?”

“Không bán.” Lão từ chối thẳng thừng.

Vương Uẩn cũng chẳng lấy thế làm điều, chỉ cười cười nói: “Thứ này bày trong tiệm, đúng là bảng hiệu đẹp nhất rồi.”

Lúc hai người bước ra cửa, chợt có cơn gió thổi qua khiến mấy chiếc lục lạc trên thân nến rung lên khe khẽ, những cánh hoa phiến lá bằng đồng cũng lay động tạo thành tiếng leng keng ngân nga như tiên nhạc.

Hoàng Tử Hà bất giác ngoái lại nhìn đôi nến.

Vương Uẩn đi bên cạnh, chợt nói khẽ: “Nếu cô thích, sau này cũng có thể đặt ông ta làm một đôi như vậy dùng khi hai ta thành hôn.”

Hoàng Tử Hà bỗng thấy lòng ngập đầy bối rối xen lẫn kinh ngạc, hai má đỏ bừng, nhưng đồng thời, cô lại có cảm giác nhói lạnh như bị kim châm đâm thẳng vào tứ chi, khiến thân hình không sao cử động.

Thấy cô cứng đờ người, Vương Uẩn chỉ liếc nhìn rồi mỉm cười, nụ cười gượng gạo mà bao dung, giọng nói vẫn dịu dàng như thế: “Ta đùa thôi, chuyện đó chờ đến khi phá được vụ án của gia đình cô rồi tính, được không nào?”


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 14-8-2016 14:35:36 | Chỉ xem của tác giả
Q.2 Chương 18.2 Sống Động Như Thật


Cô chẳng biết mình nên gật hay lắc đầu nữa.

Người trước mặt biết rõ cô đã ô danh đến nhường này, còn biết cô luôn bị đàm tiếu về chuyện Vũ Tuyên, nhưng vẫn bỏ qua tất cả.

Lâu thật lâu, cô mới nghèn nghẹn đáp: “Được, đợi khi nào phá xong vụ án của gia đình tôi…”

Rồi như bị chính những lời mình vừa thốt ra đánh thức, cô sực tỉnh.

Hoàng Tử Hà, từ khi cha mẹ người thân qua đời ngươi đã thề rằng vĩnh viễn không để bất cứ việc gì ảnh hưởng đến mình nữa, quyết tâm vứt bỏ tất cả dịu dàng quyến luyến, cắt đứt vương vấn nhớ nhung, chỉ dốc lòng báo thù cho cả nhà, chẳng phải thế ư?

Vũ Tuyên, Vương Uẩn, đều không phải vấn đề cần xét đến bây giờ.

Nghĩ vậy, cô ngẩng lên cười với Vương Uẩn, giọng hơi khàn, nhưng ngữ điệu hết sức bình thản: “Vương đô úy khéo đùa, tôi là hoạn quan trong vương phủ, đời này còn thành hôn với ai được nữa?”

Vương Uẩn sững người, rồi bật cười tự giễu: “Đúng thế… Ta đùa vô ý rồi.”

Họ rời tiệm nhang đèn, lại ghé qua tiệm ngựa Tiền ký gần đó. Chưởng quầy vừa thấy Vương Uẩn vội vỗn vã chạy ra đón: “Ôi chao, Vương đô úy! Hôm nay đô úy đại giá quang lâm mà bổn tiệm thất lễ, không kịp ra ngoài nghênh tiếp rồi.”

Tiệm ngựa Tiền ký đã mấy lần bán ngựa cho Tả Kim Ngô Vệ nên chẳng lạ gì nhau, mấy người làm bên trong tức thì chạy ra đón họ vào, lăng xăng bày quả pha trà.

Vương Uẩn thấy vậy liền ngăn lại: “Ta chỉ đi ngang qua thôi, không cần bày vẽ.”

“Ôi, thực xin lỗi Vương đô úy, đô úy xem đấy, Tiền lão gia bị bắt giam rồi, chúng tôi thật không biết phải làm thế nào nữa…” Chưởng quầy đang than vãn thì Tiền phu nhân và ba đứa con từ nhà sau chạy đến, khóc lóc thảm thiết vật nài Vương Uẩn giúp đỡ.

Vương Uẩn xưa nay ôn hòa lễ độ, thấy họ kêu khóc như thế đành gượng cười phân trần: “Chuyện này ta không can thiệp được, các vị thử đến Đại Lý Tự kêu oan đi.”

“Vị…Vị quan sai này lần trước từng đến tìm lão gia, nghe nói là người của Đại Lý Tự!” Người hầu trỏ ngay Hoàng Tử Hà, bảo với chưởng quầy và phu nhân.

Lập tức cả nhà họ Tiền từ trên xuống dưới liền xúm lấy cô, Tiền phu nhân còn khóc nức lên: “Lão gia nhà chúng tôi là người tốt, hàng ngày làm gì cũng cẩn trọng, sao có thể giết người chứ…”

Hoàng Tử Hà vội đỡ Tiền phu nhân dậy: “Thực ra ta tới đây cũng có chuyện muốn hỏi, chẳng rõ các vị có biết viên cai thầu đã sửa sang nhà cửa cho Tôn ghẻ không?”

Chưởng quầy vội đáp: “Sổ sách về sửa sang phòng ốc đều để ở ngay nhà bên cạnh đây, tiểu nhân sẽ đi tìm ngay, xem hôm đó ai đến nhà họ Tôn.”

“Nếu tiện thì ông mời người đó đến ngay nhà họ Tôn ở phường Đại Ninh cho, ta còn bận chút việc, làm xong sẽ tới đó đợi ông ta.”

“Vâng vâng, tiểu nhân sẽ bảo ông ta đến ngay.”

Lòng vòng mãi, khi Hoàng Tử Hà và Vương Uẩn đến Đại Lý Tự đã thấy Chu Tử Tần và Trương Hàng Anh đợi ở đó, Trương Hàng Anh đang ẵm một đứa bé, sau lưng còn hai người lạ mặt, một nam một nữ.

“Anh trai chị dâu tôi dẫn thằng bé sang chơi, nghe nói là đi đón A Địch, bèn cùng đi luôn.” Trương Hàng Anh giới thiệu.

Anh trai Trương Hàng Anh tên Trương Hàng Vĩ, dáng người cao to không kém em trai. Hai vợ chồng y rụt rè cười: “A Địch là người nhà chúng tôi, đương nhiên phải đi đón cô ấy về.”

Chu Tử Tần xen vào: “Trương lão gia cứ khăng khăng đòi đi, nhưng ông ấy vừa khỏi bệnh, chúng tôi phải khuyên ngăn mãi, nếu không lão gia cũng đến rồi.”

Thấy nhà họ Trương thật lòng yêu thương Tích Thúy như thế, Hoàng Tử Hà cũng nhẹ lòng, bèn mỉm cười gật đầu: “Mọi người đợi cho một lát, tôi vào đón A Địch ra.”

Thực không ngờ Thôi Thuần Trạm vẫn ở nha môn chưa về nhà, hơn nữa trông còn rất vui vẻ, vừa thấy cô đã tươi cười hỏi: “Dương công công lại phụng lệnh vương gia ư?”

Hoàng Tử Hà hành lễ rồi đưa lệnh tín của Quỳ vương phủ ra: “Vương gia nói vụ này đã tìm được kẻ bị tình nghi nhiều hơn, huống hồ khi công chúa qua đời, Lữ Tích Thúy đang bị giam, không có khả năng gây án, nên sai tôi đến thương lượng với Thôi thiếu khanh xem có nên cho Lữ cô nương về nhà chờ thẩm vấn không, chứ cứ giữ cô ta mãi như vậy có phần không ổn lắm.”

“Ồ, chuyện này đơn giản mà.” Thôi Thuần Trạm quay sang bảo viên tri sự bên cạnh mang một tờ đơn đến để Hoàng Tử Hà điền vào, rồi đích thân cùng cô đi thả Lữ Tích Thúy.

Dọc đường đi qua mấy gian phòng bỏ không, Hoàng Tử Hà thuận miệng hỏi: “Không biết Tiền Quan Sách bị giam ở đâu?”

“Hắn ta ấy à? Chuyển đến đại lao bộ hình rồi.” Thôi Thuần Trạm thản nhiên đáp: “Nhân chứng vật chứng đầy đủ, sáng nay hắn đã cung khai rồi.”

Hoàng Tử Hà sững sờ: “Khai rồi ư?”

“Đúng thế.” Bị đôi mắt trong veo như soi thấu tất cả của cô nhìn chằm chặp, Thôi Thuần Trạm chột dạ ngoảnh đi, né tránh ánh mắt cô, hạ giọng nói: “Dương công công, vụ này… kết thúc rồi. Phá án nhanh như thế, chứng cứ lại rõ ràng, thánh thượng và Quách thục phi đều hài long, Đại Lý Tự lập được công lớn, bộ Hình cũng có cái mà ăn nói, không phải kết cục tốt nhất hay sao?”

Hoàng Tử Hà đứng lặng dưới mái hiên mờ tối, hồi lâu mới cất tiếng: “Tiền Quan Sách… Làm thế nào mà khai?”

“Làm thế nào, công công còn không biết ư?” Thôi Thuần Trạm dán mắt nhìn xuống nền gạch xanh dưới mái hiên, thở dài bất lực: “Bộ Hình phái một tay lệnh sử lợi hại nhất đến, đem theo cả bộ đồ nghề. Nghe nói hắn đã tra tấn hơn một trăm hai mươi người, không kẻ nào không khai nhận, Tiền Quan Sách cũng… chẳng phải ngoại lệ.”

Chức vụ phụ tá cho huyện lệnh. Lệnh sử có thể làm nhiều công việc, viên lệnh sử được nói tới ở đây là đến tra khảo.

Hoàng Tử Hà nhíu mày: “Hắn nhận cả việc giết công chúa ư?”

“Nhận rồi. Chiều qua nhận giết Tôn ghẻ, đến tối nhận Ngụy Hỷ Mẫn, sáng sớm nay thì khai nhận sát hại công chúa.”

Hoàng Tử Hà thấy lòng lạnh buốt, thẫn thờ thốt lên: “Quả là thủ đoạn ghê gớm.”

“Bản án đã được cấp tốc sao chép lại, trình lên hoàng thượng, hẳn lát nữa trong cung sẽ có ý chỉ truyền ra.”

Thì ra hôm nay Thôi thiếu khanh ăn trưa xong còn chưa về nhà, là vì phải đợi ý chỉ.

Hoàng Tử Hà trầm ngâm, chợt nghe sau lưng có tiếng xích sắt xủng xoảng, rồi Tích Thúy được dẫn ra. Bị giam mấy ngày, nàng có phần tiều tụy ngơ ngác, trông thấy Hoàng Tử Hà mới gượng gạo mỉm cười.

“Lữ Tích Thúy, hôm nay ngươi được phủ Quỳ vương bảo lãnh, tạm thời cho về phường Phổ Ninh. Trước khhi bản án kết thúc, nếu bộ Hình và Đại Lý Tự cần thẩm vấn, sẽ cho triệu đến, rõ chưa?”

“Thưa, rõ.”

Hoàng Tử Hà giúp nàng gấp hết chăn màn Trương Hàng Anh đem đến, ôm theo ra khỏi Đại Lý Tự.

Vừa rời Đại Lý Tự, Tích Thúy đã trông thấy Trương Hàng Anh đứng đợi bên ngoài, tức thì lộ vẻ mừng rỡ xen lẫn buồn thương, nức nở gọi: “Trương nhị ca!”

Trương Hàng Anh vội đặt đứa bé xuống, chạy như bay lên thềm, ấp chặt hai tay Tích Thúy trong lòng bàn tay mình áp lên ngực, đăm đăm nhìn nàng hồi lâu mới nghẹn ngào bảo: “A Địch, chúng ta… về nhà thôi.”

Những người đứng đó thấy hai người như vậy đều mỉm cười đầy thấu hiểu. Ngay cả đứa bé được chị dâu Trương Hàng Anh dắt cũng giơ tay vẫy vẫy Tích Thúy: “Tỷ tỷ… Tỷ tỷ…”

Rồi, nó đột ngột quay đi, gập người xuống gọi với ra ngoài cửa nha môn: “Ca ca, ca ca!”

Thấy đứa nhỏ sắp vùng ra, anh trai Trương Hàng Anh vội chạy đến bế xốc nó lên, quay đầu nhìn ra đường.

Chỉ thấy một nam tử dáng người dong dỏng vừa đi ngang qua gốc du bên đường, nghe đứa bé gọi, liền quay đầu nhìn sang bên này.

Con phố hết sức bình thường, chỉ vì một cái ngoái đầu này mà sang bừng lên.

Ánh mắt Hoàng Tử Hà sững lại trên mặt hắn, hơi thở cũng ngưng một nhịp. Nắng hè chói chang, nóng như lửa đốt, còn lòng cô đau đớn như nghẹt thở.

Giữa ngày hè nóng bức, người kia lại toát ra khí chất thanh tĩnh mát lạnh, không vướng bụi trần, dáng dấp cao gầy như một cây trúc non, tỏa hào quang nhàn nhạt.

Hắn mỉm cười tiến lại, giơ tay ôm lấy đứa nhỏ cứ nhoài người về phía mình, đùa với nó: “Ra là A Bảo, còn nhớ ca ca ư?”

Hoàng Tử Hà lặng lẽ lùi lại một bước, nấp sau gốc đại thụ ở cửa Đại Lý Tự, tránh phá vỡ bầu không khí.

Người nhà họ Trương nhận ra hắn là ân nhân đã đưa đứa bé về nhà, vội chạy lại cảm tạ.

Vũ Tuyên giơ tay che nắng cho đứa bé, rồi ẵm nó đến dưới bóng cây. Chu Tử Tần vội sán đến, ngưỡng mộ hỏi: “Không biết huynh đài tên họ là gì? Lần trước nghe Trương nhị ca tả huynh là một nhân vật như thần tiên, ta còn không tin, hôm nay tận mắt chứng kiến mới thấy quả không sai!”

Vũ Tuyên nghe nói chỉ cười đáp: “Chuyện vặt ấy mà, đâu đáng nhắc đến.”

Rõ ràng là hắn không định tiết lộ tên họ, xong Chu Tử Tần vẫn bám nhằng nhẵng: “Ta tên Chu Tử Tần, nhà ở phường Sùng Nhân, cạnh mộ Đổng Trọng Thư, chẳng hay huynh đài tên họ là gì, sống ở đâu? Ta có khá nhiều bạn bè trong kinh, chắc chắn họ sẽ rất mến huynh, sau này chúng ta có thể hẹn nhau ngâm thơ làm văn, nghe nhạc uống rượu, du sơn ngoạn thủy, đi chơi xuân, đánh mã cầu… Phải rồi, tôn tính đại danh huynh đài là gì vậy, ta phải xưng hô thế nào đây?”

Gặp phải hạng người dai dẳng thế này thực chẳng có cách nào thoát nổi, hắn đành đặt đứa bé xuống, chắp tay hành lễ: “Tại hạ Vũ Tuyên, là học chính Quốc Tử Giám.”

“Gì cơ? Huynh là học chính Quốc Tử Giám?” Chu Tử Tần giật nảy mình, “Bất công hết chỗ nói! Sao năm xưa ta ở Quốc Tử Giám, toàn gặp phải mấy lão đầu râu tóc bạc! Nếu bấy giờ có một học chính như huynh, thì ta đâu đến nỗi phải trốn học đi chọc tổ chim chứ?”

Vũ Tuyên giải thích: “Tại hạ mới được tiến cử vào kinh chừng một tháng thôi. May mắn lọt mắt xanh của tế tửu Quốc Tử Giám nên tạm thời được phân giảng dạy phần Chu Lễ.”

“Huynh giỏi thật đấy! Trẻ thế này mà đã làm học chính Quốc Tử Giám rồi! Ta đến giờ còn chưa thuộc hết Chu Lễ nữa!” Nói đến đây. Chu Tử Tần chợt sững ra, hỏi lại: “Vũ Tuyên… học chính Quốc Tử Giám ư?”

Hắn gật đầu, không nói gì thêm.

Nhìn vẻ tò mò pha lẫn kinh ngạc của Chu Tử Tần, Hoàng Tử Hà biết gã đang nghĩ đến lời đồn đại về quan hệ khác thường giữa Đồng Xương công chúa và Vũ Tuyên lâu nay vẫn xôn xao kinh thành.

Nỗi buồn âm thầm len vào lòng, cô mệt mỏi tựa vào thân cây, lặng lẽ lắng nghe hơi thở của mình.

Vũ Tuyên không để ý tới ánh mắt lạ lùng của Chu Tử Tần, chỉ cười cúi xuống xoa đầu A Bảo rồi cáo từ hai anh em họ Trương: “Tôi còn có việc ở Quốc Tử Giám, phải đi trước đây.”

Trương Hàng Anh vội kéo Tích Thúy lại giới thiệu: “Đây là… vợ chưa cưới của tôi, chúng tôi sắp thành hôn, tới khi ấy mời huynh đến uống ly rượu mừng, huynh không được từ chối nhé.”

Vũ Tuyên nhìn Tích Thúy rồi gật đầu cười, không nói gì.

A Bảo cứ nắm chặt lấy tay hắn, ríu rít gọi: “Ca ca, ca ca…”

Vũ Tuyên bèn quay lại, ngồi xuống nhìn vào mắt A Bảo mỉm cười dỗ dành: “Ngoan nào, A Bảo thích ăn gương sen đúng không? Để ca ca đi tìm xem, nếu thấy sẽ mua về cho A Bảo, được không nào?”

A Bảo nghiêng đầu nghĩ ngợi, rồi buông tay ra, gật đầu lia lịa: “Được, A Bảo muốn hai cái cơ.”

“Ba cái cũng được.” Vũ Tuyên cười, xoa đầu A Bảo, đứng dậy hành lễ cáo từ rồi quay người đi thẳng, sau khi ngoặt vào một con hẻm thì khuất bóng.

Chu Tử Tần ngưỡng mộ bình phẩm: “Đúng là khéo dỗ trẻ con.”

Hoàng Tử Hà dựa vào gốc cây, nói khẽ như tự lẩm bẩm: “Đúng thế… rất giỏi gạt trẻ con, từ xưa đến giờ vẫn vậy.”

Trong nháy mắt, cô chợt thấy thoáng qua quang cảnh một buổi chiều hè, hoàng hôn rực rực rỡ, gió sen lồng lộng. Vũ Tuyên cúi xuống còn cô ngước lên, thấy rõ hình bóng mình in trong đáy mắt sâu thẳm mênh mang của hắn, có điều, ảo ảnh ấy chỉ vụt qua rồi biến mất.

Cô hít một hơi thật sâu, xác nhận mình đã bình tĩnh lại, mới từ sau gốc cây đi ra.

Chu Tử Tần vừa thấy cô đã liến thoắng khoe: “Sùng Cổ! Vừa nãy công công đi đâu thế? Có thấy người vừa rồi không? Ta sống sở Trường An hai mươi năm nay, chưa từng gặp ai phong tư trác tuyệt, khí độ thanh cao như thế, nếu công công không thấy thì thực đáng tiếc!”

Hoàng Tử Hà đang không biết trả lời thế nào thì một thót ngựa từ phía cung Đại Minh chạy tới, người trên ngựa nhảy xuống lao thẳng vào trong: “Thánh thượng có khẩu dụ, Đại Lý Tự thiếu khanh Thôi Thuần Trạm ở đâu?”

Thôi Thuần Trạm lật đật chạy ra tham kiến: “Công công, không biết thánh thượng hạ ý chỉ thế nào?”

Vị công công nọ tên Phùng Nghĩa Toàn, hầu hạ bên ngài ngự, giọng sang sảng như chuông đồng, vừa cất tiếng đã vang khắp trong ngoài nha môn: “Thánh thượng có chỉ, tội phạm giết hại Đồng Xương công chúa bị lăng trì tùng xẻo, tịch thu gia sản, cả nhà bất luận già trẻ lớn bé đều xử trảm.”

Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần nhìn nhau, không giấu được vẻ ngạc nhiên.

Trương Hàng Anh và Lữ Tích Thúy nắm chặt tay nhau, đều cảm thấy tay người kia dấp dính mồ hôi lạnh.

Chu Tử Tần ghé tai Hoàng Tử Hà hỏi nhỏ: “Chúng ta còn điều tra nữa hay thôi?”

Hoàng Tử Hà hỏi lại: “Công tử nói xem?”

“Chân tướng vụ án còn chưa rõ, sao có thể bỏ qua?” Chu Tử Tần bừng bừng nhiệt huyết, siết chặt hai tay đặt lên ngực.

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Đi thôi.”

“Đi đâu?”

“Tới phường Đại Ninh, nhà Tôn ghẻ.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 14-8-2016 14:36:42 | Chỉ xem của tác giả
Chương 19 Trăm Năm Than Thở


Lúc Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần đến nhà họ Tôn, đã thấy một người đàn ông trung niên cao to thuần hậu bồn chồn đứng đó đợi. Nhác thấy bóng họ, ông ta vội bước lên đón: “Dương công công phải không? Tiểu nhân là Chử Cường, người làm ở tiệm ngựa Tiền Ký, lần trước chính tôi cùng các anh em dưới quyền sửa nhà cho Tôn ghẻ.”

“A, là cai thầu Chử.” Trong lúc Hoàng Tử Hà chào hỏi ông ta, Chu Tử Tần đã nhanh nhẹn gỡ giấy niêm phong trên cửa ra.

Đồ đạc bên trong vẫn y nguyên như lần trước, chỉ là mấy hôm đóng kín cửa, không khí trong nhà càng hầm hập như nung, mùi hôi xộc nên nồng nặc.

Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần lại rà soát cửa sổ và nền đất một lượt, rồi bảo Chử Cường: “Các vị làm khá thật, cửa sổ rất chắc chắn.”

“Thưa vâng, thế nên tiệm Tiền Ký mới lấn sang lĩnh vực sửa sang nhà cửa chưa lâu, nhưng đã có tiếng trong kinh, mọi người đều tín nhiệm!” Chử Cường tự đắc vỗ vào ván cửa sổ bằng gỗ bản: “Công công xem, nếu cài chốt vào thì gậy sắt cũng không đánh bật ra được! Cái then này chấp cả bốn năm trai tráng cũng đừng hòng xô gãy!”

Hoàng Tử Hà gật đầu tán đồng, rồi đứng dậy đi một vòng quanh nhà.

Phòng ốc vẫn lộn xộn ngổn ngang, tường treo đầy bùa chú, tượng Phật, tượng gỗ. Chử Cường chỉ những thứ này nói: “Lúc chúng tôi tới đã thất mấy thứ này rồi. Tôn ghẻ có tật giật mình nên đem treo khắp nơi trong nhà, nói là sợ trời phạt!”

Hoàng Tử Hà hỏi: “Ông biết hắn ta không có tiền, lại chẳng phải hạng tử tế gì, sao còn nhận lới sửa nhà giúp?”

“Ôi chao, chẳng vẫn nghe đồn tên Tôn ghẻ này rủng rỉnh tiền của ư, lão Lữ ở tiệm nhang đèn kể rằng đã được hắn bồi thương rất nhiều tiền, nên mới tha cho đấy. Ai ngờ tên khốn này đền tiền xong thì chẳng còn xu nào nữa, hại tôi bị ông chủ Tiền mắng như tát nước vào mặt, giờ người chết rồi, nợ biết đòi ai!” Chử Cường hối hận ra mặt, hậm hực nhận xét: “Lão Lữ cũng chẳng tử tế gì, vốn đã đi theo để đặt đế đèn, vừa thấy là nhà Tôn ghẻm lão liền biến sắc, trỏ mặt họ Tôn chửi cho một chặp rồi đi thẳng, chẳng thèm đặt đế đèn nữa, thế mà không hề hé răng bảo cho tôi biết Tôn ghẻ đã hết tiền!”

Chu Tử Tần không hứng thú với việc tranh chấp tiền nong, nhân lúc hai người trò chuyện, gã lần lượt gỡ hết những tấm bảng phổ độ chúng sinh trên tường, tranh Quán Âm ban con treo trên đầu giường và mấy lá bùa nhăng cuội xuống xem, nhưng chẳng thấy lỗ hổng nào trên bức tường phía sau cả, liền hậm hực ra mặt.

Hoàng Tử Hà phân tích: “Mặt tường bằng phẳng như thế, làm sao có lỗ hổng bên trong được?”

“Biết đâu đấy.” Chu Tử Tần miệng nói, chân đã giẫm nên bậu cửa, định gỡ tấm bảng sắt Mục Liên cứu mẹ trên đỉnh khung cửa xuống, nào ngờ gỡ mãi không được,gã tiện tay gõ gõ mấy cái, phát hiện ra đó là một chiếc hộp dài rỗng không, gắn vào tường.

Chử Cường vội ngăn lại: “Ồ, cái đó không gỡ xuống được đâu, hộp sắt đặt trong tường đó là cái giá đỡ khung cửa đấy.”

“Để làm gì vậy?” Chu Tử Tần hỏi.

Chử Cường giải thích: “Ban đầu là ông chủ Tiền nhà chúng tôi học được cái này ở chỗ mấy thương nhân Tây Vực, nghe nói bên đó họ thích đặt một chiếc hộp sắt rỗng, chạm trổ hoa văn rất đẹp, dài bằng chiều rộng cửa lên đỉnh khung cửa, coi như đặt một miếng giảm xóc giữa khung cửa và bức tường, như vậy khung cửa sẽ không bị biến dạng. Về sau trong kinh dẫn dần thịnh hành, chúng tôi đến xưởng rèn đặt làm hơn một trăm chiếc, chưa đầy năm đã sắp hết tới nơi. Cái này là tôi chọn bừa, hình khắc bên trên hình như là… Mục Liên cứu mẹ phải không?”

“Hình như thế.” Chu Tử Tần kê ghế đứng lên cao ngang tầm chiếc hộp quan sát rồi nhận xét: “Đúng là chạm rỗng, tiếc rằng cứ đen sì, nếu thêm ít sơn vào có phải đẹp không.”

Hộp sắt dài bằng chiều rộng khung cửa, cao chừng hai tấc. Mặt hướng vào trong chạm rỗng hình Mục Liên cứu mẹ, mặt hướng ra ngoài thì đặc ruột, vẽ hoa văn cát tường, xong đã nứt rạn đen sì, nhìn rất xấu xi.

“Đương nhiên là phải sơn rồi… Ô, rõ ràng lúc gắn lên, tôi gắn cái mới cho hắn kia mà, kẻ nào lại đổi thành thứ đen kịt như đã dùng mấy năm vậy?” Chử Cường ngẩng lên nhìn chiếc hộp đèn sì, nhíu mày: “Sao thế nhỉ, mới mấy hôm mà đã ám khối đen sì thế này rồi? Lúc trước có hoa văn sặc sỡ mà.”

Chu Tử Tần nhìn qua lớp hoa văn chạm rỗng vào bên trong hộp, cũng cau mày: “Bẩn quá… Toàn là tro than.”

Hoàng Tử Hà lật đật bê ngay một chiếc ghế kê cạnh ghế của Chu Tử Tần rồi trèo lên nhìn vào trong hộp. Chỉ thấy lớp sơn bên ngoài cháy đen như bị lửa thiêu, bên trong hộp toàn tro, ở góc còn có mất vết ngón tay quẹt qua.

“Có người thò ngón tay qua lỗ hổng, lấy thứ bên trong ra.” Hoàng Tử Hà nhận xét, rồi ngoái lại hỏi Chử Cường: “Cái hộp này mở ra được không?”

“Hộp bằng sắt mỏng ấy mà, muốn mở thì lấy kéo cắt ra là xong.”

Chu Tử Tần tìm được một cây kéo gỉ ngoèn, bèn cắt rời hoa văn Mục Liên cứu mẹ ra, trong hộp chỉ có một cái khung sắt và lớp tro dày, trên lớp tro còn in hằn một vài vết tích.

Chu Tử Tần trỏ một vết khá lớn nhận xét: “Nhìn cái này này, có vẻ vật bị lấy ra là hình tròn.”

Lại trỏ một vết dài mảnh: “Nhìn cái này, thì có vẻ là thứ gì đó làm bằng sợi sắt mảnh.”

Hoàng Tử Hà nhíu mày, săm soi dấu vết hình tròn khá lớn kia: “Nhìn độ lớn này, công tử có thấy là không thể móc một vật hình tròn to như thế qua lỗ hổng bé thế này không?”

Chu Tử Tần dùng ngón tay ước lượng độ lớn của vật tròn, rồi lại gí ngón tay đo chiều rộng lỗ hổng trên mặt hộp sắt mà mình vừa cắt rời ra, ngỡ ngàng nhận xét: “Đúng thật… Chỗ lỗ hổng lớn nhất cũng vẫn nhỏ hơn kích thước vật kia! Công công xem, dài mất là mấy đám mây này, phải đến hai ba tấc ấy, nhưng lại hẹp bề ngang…”

“Bởi vậy thứ đó nhất định không phải hình tròn, chỉ là cong cong thôi.” Vừa nói cô vừa quệt ít tro trong hộp ngửi thử, không giấu được nụ cười: “Linh lăng hương.”

Giữa gian phòng tranh tối tranh sáng, không khí lởn vởn bụi bặm, nụ cười vui sướng của cô vì vạch trần được âm mưu chợt bừng lên rạng rỡ, khiến Chu Tử Tần nhìn mà ngẩn ngơ.

Hoàng Tử Hà rút khăn tay ra, quệt ít tro đen trong hộp gói lại. Ngẩng lên thấy Chu Tử Tần vẫn đờ đẫn nhìn mình, cô buột miệng hỏi: “Sao thế?”

“Ờ…” Chu Tử Tần vội nhìn lảng đi nơi khác, luống cuống quệt vội ít tro, chống chế: “Ta cũng lấy một ít về kiểm nghiệm xem có phải linh lăng hương không.”

Rời phường Đại Ninh, Chu Tử Tần đi về hướng Tây Nam, còn Hoàng Tử Hà đi về hướng Đông Nam, mỗi người một ngả.

Đi đến phường Hưng Ninh, Hoàng Tử Hà chợt thấy rất nhiều người chậy rầm rập trên đường, có kẻ còn la lớn: “Mau tới Thập Lục trạch đi! Chậm là hết đó!”

Hoàng Tử Hà không hiểu chuyện gì, đương ngỡ ngàng chợt thấy một bà lão đang chạy thì bị đám đông xô ngã nhào, miệng kêu ôi chao. Cô vội chạy tới đỡ bà ta lên, hỏi: “Các vị chạy đi đâu vậy?”

“Ối chao, nghe nói thánh thượng và Quách thục phi đang rải tiền khắp phố ở khu Thập Lục trạch, gần phủ công chúa ấy. Chúng tôi đi nhặt tiền chứ đi đâu nữa!”

Hoàng Tử Hà chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, đành chạy theo dòng người.

Đến nơi, thấy cả đám đông đang vây chặt cửa phủ,ai nấy đều lom khom nhặt gì đó dưới đất, cô đành níu một người đang nắm chặt vật vừa nhặt được trong tay hỏi: “Đại ca, nghe nói thánh thượng và Quách thục phi đang rải tiền, đúng không?”

“Rải tiền cái gì? Đúng là phàm tục!” Người trông như ăn sĩ nọ xòe tay ra cho cô xem. Trong lòng bàn tay ông ta là một đóa hoa cài đầu bằng bạc khảm trân châu, tinh xảo hoa mỹ, hẳn là đồ trang sức trong cung.

“Vừa rồi thánh thượng và Quách thục phi giá lâm phủ công chúa để xem điệu Than thở trăm năm mà Lý Khả Cập mới dựng, gấm đoạn trải dài suốt dọc đường thánh giá đi từ trong cung Đại Minh tới đây, mấy trăm người vừa ca vừa múa, hoa cài đầu rơi lả tả, những kẻ này đều kéo đến để nhặt đó.”

Hoàng Tử Hà sực hiểu ra, bèn lắng tai nghe, quả nhiên lẫn trong tiếng lao nhao của đám đông, vẫn loáng thoáng nghe thấy tiếng ca múa tờ bên trong vẳng lại.

Cô tránh cửa lớn, lánh đến nơi vắng người, quả nhiên nghe rõ mồn một tiếng mấy trăm người đồng ca. Âm điệu bi ai uyển chuyển khiến cô đứng xa xa nghe mà cũng thấy nao nao trong dạ, chạnh lòng buồn thương vô cớ.

Hoàng Tử Hà dựa vào tường, lặng lẽ ngẩng đầu nhìn trời. Chiều hạ lặng gió, tiếng ca sầu thảm từ xa đưa lại như cứa vào lòng, khiến nước mắt cô cứ thế lăn dài.

Tự thấy mặt mình nhạt nhòa nước mắt sẽ rất khó coi, cô lần tìm khăn tay để lau, nhưng lại sực nhớ ra khăn tay đã dùng gói mấy dúm tro tàn khi nãy. Cầm trong tay gói tro linh lăng hương, còn đang bần thần, Hoàng Tử Hà chợt thấy một chiếc khăn tay trắng muốt chìa ra từ phía sau.

Cô ngoái lại, mở to mắt, nhìn qua màn lệ nhạt nhòa.

Là Vũ Tuyên.

Hắn vận chiếc áo thiên thanh, đứng giữa con hẻm xám nhờ, màu sắc rất thanh nhã, dung mạo rất thuần tịnh.

Cô chầm chậm đưa tay nhận lấy chiếc khăn, ấp lên mặt.

Nước mắt nóng bỏng thấm vào lần vải mềm mịn, chẳng còn dấu vết.

Rồi như vừa bị rút cạn sức lực, Hoàng Tử Hà bất giác dựa người vào tường, vùi mặt trong chiếc khăn tay hắn đưa, thật lâu chẳng chịu ngẩng lên.

Trong chiếc khăn là mùi hương của hắn, nhẹ nhàng mà hư ảo, là đóa sen chớm nở ngày hạ, là nhụy mai rơi rụng mùa đông, là lửa nóng, cũng là băng giá trong giấc mơ của cô.

“Ta trông thấy muội, từ lúc ở Đại Lý Tự.” Giọng hắn nhẹ nhàng cất lên, tuy còn hơi mơ màng, nhưng vẫn rành rọt lọt vào tai cô: “Muội nấp sau gốc cây, tránh mặt ta. Cũng phải, dù gặp mặt, thì có thể nói gì đây?”

Qua giọng nói chậm rãi ấy, cô nghe được rất rõ nỗi bi ai và lưỡng lự trong lòng hắn.

Hắn cũng như cô, hắn đang hồi tưởng lại những ngày đầm ấm bên nhau, những điều không thể quên, cũng không thể chết.

“Ta đã gặp cô nương ấy, muội cứu cô ấy từ Đại Lý Tự ra đúng không?” Vũ Tuyên ngẩng lên nhìn những đóa mây trắng đến lóa mắt trên đầu, giọng chậm rãi mà xa xăm, “Dọc đường về, ta cứ nghĩ mãi. Nhớ lại năm xưa, chỉ vì một câu cần cân nhắc trên hồ sơ, muội cũng lặn lội ngàn dặm, đi suốt ngày đêm lật lại bản án giúp người dưng. Dù giờ đây phải gánh đủ thứ tiếng xấu, bị dồn vào chân tường, muội vẫn dốc sức giúp đỡ người khác. Vậy mà kẻ thân thiết với muội nhất trên đời là ta lại khăng khăng cho rằng muội là hung thủ, thực… uổng phí tình cảm bấy nhiêu năm nay.”

Hoàng Tử Hà cắn môi nín lặng, nhưng bờ vai run bần bật đã bán đứng cô.

Vũ Tuyên thở dài, dịu dàng giữ lấy vai cô.

Trước đây, họ từng thân mật hơn thế này nhiều. Nhưng lâu ngày không gặp, lần đầu tiên chạm lại vào nhau, Hoàng Tử Hà bất giác nghiêng người né tránh, khiến bàn tay Vũ Tuyên đang vươn ra bị hẫng.

Hồi lâu, hắn mới lặng lẽ rút tay lại, nói khẽ: “Muội không nên nói với ta nhưng lời ấy, cũng không nên làm những việc đó, nếu không ta đời nào tin muội gây ra chuyện tày đình như vậy, bất luận thế nào cũng không tin.”

Hoàng Tử Hà gập chiếc khăn lại, vẻ mặt bình thản, trừ khóe mắt hơi đỏ thì chẳng còn gì khác thường.

Cô hỏi ngược lại: “Muội đã… nói gì với huynh? Muội đã làm gì?”

Hắn nhìn cô chăm chú, giọng rất khẽ, xong lại hết sức rành rọt: “Đêm trước khi cả nhà muội qua đời, lúc muội từ Long Châu trở về, ta đến tìm, thấy… muội đang nhìn chằm chằm gói tỳ sương trong tay, vẻ mặt rất lạ.”

Hoàng Tử Hà tròn mắt ngạc nhiên nhìn Vũ Tuyên: “Gì cơ?”

“Đêm hôm đó, chính hôm muội vừa từ Long Châu trở về ấy. Ta còn nhớ muội gửi cho ta một bức thư, viết rằng vụ án ở Long Châu là vì cô con gái bị người nhà chia uyên rẽ thúy, bèn bỏ cỏ đoạn trường vào thức ăn, đầu độc chết cả nhà. Muội còn bảo, nếu đôi ta lâm vào cảnh ngộ ấy, chẳng rõ muội có vứt bỏ người nhà, bước lên con đường không thể quay đầu hay không.” Ánh mắt Vũ Tuyên nhìn cô đầy đau đớn, “Đọc được câu đấy, ta rất lo lắng, thấy muội vừa về lại lấy tỳ sương ra xem, liền khuyên muội vứt đi, nhưng muội chỉ cất vào tủ khóa lại rồi nói, biết đâu thứ này có thể giúp đôi ta được ở bên nhau.”

Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng nhìn Vũ Tuyên, như nhìn một người xa lạ: “Muội nhớ chuyện ở Long Châu, cũng nhớ nội dung bức thư ấy, nhưng muội không nhớ mình từng lấy tỳ sương ra… càng không nhớ mình đã nói câu đó!”

Vũ Tuyên nhìn xoáy vào cô, ánh mắt sắc như dao, nhưng chỉ thấy mặt cô đầy vẻ ngạc nhiên và đau xót, chẳng có gì sơ hở.

Mặt Vũ Tuyên hơi tái đi, hắn day day thái dương, hơi thở cũng nặng nề vì kích động, khó nhọc nói: “A Hà, xem ra, đúng là ta hiểu lầm hành động khi đó của muội rồi… Có điều lúc đó muội cầm gói tỳ sương, nét nặt rất đáng sợ, mà ngay tối hôm ấy, cả nhà muội lại chết vì tỳ sương… Muội bảo ta làm sao tin muội đây?”

“Không thể nào!” Hoàng Tử Hà run rẩy cắt lời, “Sau khi mua tỳ sương về, muội lập tức khởi hành đi Long Châu, tới tận lúc về cũng chưa động vào nó! Sao huynh lại thấy muội cầm gói tỳ sương được?”

Vũ Tuyên nhìn cô chằm chằm, con người tiêu sái thanh tinh như hắn, lúc này cũng lộ vẻ kinh hoàng, cứ lẩm bẩm mãi mấy chữ: “Không thể nào? Không thể nào…”

Nóng và lạnh, máu me và quạnh hiu, mệnh vận không thể đoán trước cùng ý trời khôn lường đều đổ sụp lên người họ.

“Dương Sùng Cổ.”

Phía sau chợt vang lên một giọng nói lạnh lùng đến gần như vô tình, phá vỡ bầu không khí im phắc như chết giữa hai người.

Hoàng Tử Hà ngoái lại, thấy Lý Thư Bạch đang đứng đầu ngõ bất động nhìn cả hai. Ánh sáng từ sau lưng y hắt lại, không trông rõ nét mặt y, chỉ thấy đường nét gương mặt toát lên áp lực vô hình, không thể trốn thoát.

Cuối cùng, cô nhìn thấy đôi mắt trong veo sâu thẳm của y, bỗng sực tỉnh khỏi trạng thái mơ màng ngơ ngẩn, nhận ra mình đang đứng giữa một con ngõ vắng tanh. Khúc Than thở trăm năm sâu thẳm vẫn vọng lại từ đằng xa, giục người rơi lệ, tiếng nhạc văng vẳng giữa bầu không, tựa hồ lấn át cả mây trời, khiến mấy ngừng trôi.

Vũ Tuyên phía đối diện dường như cũng đã định thần lại, tuy trán còn xâm xấp mồ hôi lạnh, nhưng vẻ mặt đã bình thản như thường.

Hắn cúi đầu hành lễ với Lý Thư Bạch rồi quay người bỏ đi, trước khi đi còn ngước nhìn cô.

Hoàng Tử Hà cũng lặng lẽ nhìn hắn, trên gương mặt tái nhợt là vô vàn ưu tư phức tạp, khiến cô ngập ngừng, muốn nói lại thôi.

Vũ Tuyên khẽ hỏi: “Lần trước muội nói muốn về Thục tra rõ chân tướng ư?”

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Muội nhất định sẽ về.”

“Vậy ta ở Thành Đô đợi muội.”

Ánh mắt Vũ Tuyên đăm đăm nhìn vào mắt cô, hệt như lần đầu gặp gỡ, hồi ấy cô còn chưa hiểu tình yêu là gì, nhưng khi nhìn vào đôi mắt đắm đuối của hắn, cô đã thấy bóng mình in trong đó.

Chẳng ai biết được, trong khoảnh khắc ấy, cô đã từ một cô bé trở thanh thiếu nữ.

Lúc Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà bước vào phủ Đồng Xương, đội múa Than thở trăm năm đã giải tán.

Trên nền đá sáng lóa dưới nắng, châu ngọc vương vãi khắp nơi càng lấp lánh chói mắt. Thi thể Đồng Xương công chúa đã nhập quan, nhưng trong phòng vẫn đặt đầy nhưng khối những khối băng lớn có nhỏ có.

Bên cạnh còn một cỗ áo quan nhỏ hơn, đặt thi thể Vân nương, bà vú của công chúa, vết hằn vẫn rành rành trên cổ, vẻ mặt nhăn nhó đến tuyệt vọng, cùng công chúa đi vào giấc ngủ vĩnh hằng.

Hoàng đế và Quách thục phi ngồi giữa đại sảnh, các cung nữ và hoạn quan phía sau đều đang lau nước mắt. Ngài ngự trông hết sức giận dữ, cơn giận của nỗi tuyệt vọng không thể phát tiết, tích tụ lại mà thành.

Vừa nhác thấy Lý Thư Bạch dẫn theo Hoàng Tử Hà bước vào, mấy hoạn quan và cung nữ bên cạnh hoàng đế liền thở phào nhẹ nhõm. Thấy Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn Vân nương, hoàng đế nói: “Công chúa một mình dưới đó thì lạnh lẽo quá, nên trẫm cho Vân nương xuống tiếp tục hầu hạ công chúa.”

Dù sao người cũng đã chết, nên Lý Thư Bạch chỉ lặng thinh, ngồi xuống bên cạnh hoàng đế.

Quách thục phi bưng mặt nức nở: “Còn mấy thị nữ và hoạn quan nữa, những người khác thì thôi, nhưng mấy kẻ đó chuyên hầu hạ bên cạnh công chúa, công chúa xảy ra chuyện, chúng cũng phải chịu trách nhiệm!”

Hoàng đế nghĩ ngợi hồi lâu rồi chậm rãi nói: “Lần trước Dương công công đã xin tha cho chúng, trẫm nghĩ cũng có lý, cứ tạm gác chuyện đó lại đi.”

“Hoàng thượng thương hại chúng, nhưng thiếp lại lo Linh Huy ở dưới đó cô đơn!” Quách thục phi khóc nấc lên, càng thương tâm khôn xiết: “Linh Huy từ bé sợ nhất là cô đơn, lúc nào cũng cần có người bên cạnh, vậy mà giờ phải xuống dưới đó một thân một mình, không có người hầu hạ, kẻ làm mẹ như thần thiếp làm sao yên lòng đây…”

Nghe tiếng khóc thảm thiết của bà ta, Hoàng Tử Hà chỉ thấy một luồng khí lạnh từ gan bàn chân theo cột sống chạy thẳng lên đầu. Lý Thư Bạch cũng đang đưa mắt nhìn cô, cả hai đều thấy dụng ý của Quách thục phi trong mắt nhau.

“Thục phi đừng nói nữa, trẫm đau lòng lắm.” Hoàng đế thở dài, nhưng không phản đối, chỉ quay sang nói với Lý Thư Bạch: “Vừa rồi, trẫm đã truyền gọi tên Vũ Tuyên, học chính Quốc Tử Giám mà công chúa yêu quý lúc sinh thời đến.”

Quách thục phi ngồi bên vẻ mặt phức tạp, khẽ khàng đặt tay lên mu bàn tay hoàng đế. Xong ngài ngự dường như không hề nhận thấy, vẫn tiếp tục nói: “Trẫm cũng nghe được lời đồn đại trong kinh, Linh Huy từng đề nghị Vũ Tuyên dạy học cho mình, nhưng hắn nhiều lần cự tuyệt, về sau công chúa phải đích thân có lời với tế tửu Quốc Tử Giám, hắn mới chịu đến phủ công chúa giảng Chu Lễ. Bấy giờ trẫm chỉ cười cho qua, nhưng giờ nghĩ lại thì thương Linh Huy đang trẻ trung mơn mởn, lại phải thui thủi một mình dưới đó, nó thích nghe Vũ Tuyên giảng Chu Lễ, lẽ nào trẫm không thể chiều theo nó?”

Tim Hoàng Tử Hà giật thót, nhưng rồi cô sực nghĩ mình vừa gặp Vũ Tuyên đi ra, xem chừng hoàng thượng đã tha cho hắn rồi.

“Trẫm quả thật định giết hắn.” Hoàng đế thẫn thờ giây lát mới ngẩng lên thở hắt ra, “Nhưng sau khi gặp mặt, chẳng hiểu sao lại từ bỏ ý định đó.”

Lý Thư Bạch không đáp, chỉ hơi nghiêng đầu nhìn sang cỗ áo quan của công chúa.

“Có lẽ trẫm già rồi, không đành lòng bẻ gãy cây ngọc.” Đoạn hoàng đế quay sang hỏi Lý Thư Bạch: “Tứ đệ đã gặp Vũ Tuyên bao giờ chưa?”

“Thưa, thần đệ gặp rồi. Quả là thanh tú thuần tịnh, tuyệt thế vô song.” Lý Thư Bạch hờ hững đáp.

Quách thục phi ngẩn người ra hồi lâu, rồi đột ngột đứng phắt dậy, chạy đến cạnh quan tài Đồng Xương công chúa, vịn vào mép áo quan khóc lóc.

Trái lại, Lý Thư Bạch vẫn thản nhiên như thường: “Hoàng thượng không giết hắn là phải. Nếu không, để hắn bầu bạn cùng công chúa ở dưới đó, thì phò mã phải làm sao?”

Hoàng đế gật đầu, nhắm nghiền mắt lại vẻ mết mỏi.

Hoàng Tử Hà đứng hầu phía sau, im lặng lắng nghe. Chiều mùa hạ râm ran tiếng ve. Cô nghe thấy giọng hoàng đế yếu ớt lẫn trong tiếng ve inh ỏi: “Sáng mai, Đại Lý Tự sẽ xét xử công khai vụ này. Trẫm đã hạ lệnh, sau khi thẩm vẫn, lập tức đưa phạm nhân tới pháp trường, lăng trì tùng xẻo.”

Lý Thư Bạch trầm tư hỏi: “Vụ này đã có kết luận rồi ư?”

“Nhân chứng vật chứng đủ cả rồi.”

“Nếu bắt được hung thủ, cũng an ủi được vong linh công chúa trên trời.” Lý Thư Bạch ngoái lại liếc Hoàng Tử Hà rồi nói: “Thần đệ giữ chức trong Đại Lý Tự, sáng mai cũng sẽ có mặt.”

“Trời nóng quá, Linh Huy cũng không thể để lâu, trẫm quyết rồi, sau khi hung thủ chịu hình phạt, sẽ tạm thời quàn linh cữu công chúa vào Trinh lăng của phụ hoàng, đợi khi nào lăng công chúa xây xong, sẽ cho an táng.”

“Thế là ổn nhất.” Lý Thư Bạch tán đồng, xong chỉ thấy hoàng đế ngả người dựa vào lưng ghế, ngửa mặt nhìn trời bất động, thậm chí mắt cũng không hề chớp, hơi thở mỗi lúc một nặng nề.

Y làm thinh hồi lâu rồi cáo từ hoàng đế, cũng Hoàng Tử Hà rời khỏi phủ công chúa.

Chiều mùa hạ, cả kinh thành chìm trong nóng nực, đường phố cũng vắng ngắt.

Trong thùng đá lạnh trên xe đặt một khối đá lớn đẽo hình núi tiên, trời nóng quá nên những hình thần tiên và cây cỏ đều tan chảy cả, chỉ còn thấy dáng dấp ngọn núi mà thôi.

Nước đá tan chảy tí tách nhỏ xuống lòng thùng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 14-8-2016 14:38:06 | Chỉ xem của tác giả
Chương 19.2 Trăm Năm Than Thở


Dù ngồi ngay cạnh khối đá, Hoàng Tử Hà vẫn thấy nóng bức, mồ hôi rịn ra ướt cả lưng. Cảm giác được cái nhìn chăm chú của Lý Thư Bạch, cô càng căng thẳng tột độ.

Rơi vào cảnh này, quả là biết mình không biết người, đáng mất khả năng khống chế cục diện. Cuối cùng, để tránh kết cục bi thảm, cô đành nghiến răng lên tiếng trước: “Nô tài muốn thỉnh giáo vương gia một chuyện.”

Ánh mắt chăm chú của y toát lên vẻ ngạc nhiên: “Gì cơ?”

“Có cách nào khiến người ta sinh ra ảo giác, trông thấy một việc không hề xảy ra không?” Lý Thư Bạch lắc đầu: “Không có.”

“Nhưng vừa rồi gặp Vũ Tuyên, huynh ấy có nói, vào hôm cha mẹ tôi qua đời, từng thấy tôi cầm gói tỳ sương, vẻ mặt hết sức quái dị.”

Khi thốt ra hai tiếng Vũ Tuyên, lòng cô như dậy sóng, nhưng rồi, cơn sóng lại loang ra thành từng gợn lăn tăn, dần dần tan biến.

Lý Thư Bạch thoáng trầm tư: “Có lẽ chuyện đó có thể giải thích vì sao hắn cứ khăng khăng cho rằng ngươi là hung thủ. Bởi hắn đã chính mắt chứng kiến ngươi có cử chỉ khác thường ngay trong ngày hôm đó.”

“Nhưng tôi thực sự không làm gì cả!”

“Là hắn nhớ lầm, hay là ngươi quên mất?” Lý Thư Bạch vặn lại.

“Huynh ấy nhớ lầm rồi.” Hoàng Tử Hà đáp ngay không hề do dự.

“Cũng có thể còn một khả năng nữa, là hắn nói dối.”

“Nhưng… huynh ấy nói dối người trong cuộc để làm gì?” Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng hỏi.

“Ngươi là người trong cuộc còn không hiểu, làm sao ta hiểu được?” Lý Thư Bạch lạnh lùng, “Huống hồ, chẳng phải các người đã hẹn gặp ở Thành Đô ư? Đến lúc đó đối chất lại là rõ.”

Nghe giọng điệu lạnh băng của y, Hoàng Tử Hà đành nín lặng ngồi nghe nước đá nhỏ xuống tí tách, xe ngựa cũng từ từ dừng lại, đã đến phủ Quỳ.

Vừa bước xuống xe, hơi nóng bên ngoài đã tạt thẳng vào mặt Hoàng Tử Hà như một con sóng hữu hình, khiến cô lảo đảo.

Lý Thư Bạch phía sau vội giơ tay ra đỡ cô.

Hoàng Tử Hà vừa đứng vững, đang định cảm tạ thì y đã buông tay, xăm xăm băng qua cô đi thẳng vào trong.

Cô đứng nhìn theo bóng y giây lát rồi quay người đi về phía tàu ngựa.

Lý Thư Bạch không hề quay đầu, nhưng như có mắt sau gáy, lạnh lùng hỏi: “Đi đâu?”

“Cung Thái Cực.” Cô ngoái lại đáp, “Tôi muốn xem thử có thể cứu mấy hoạn quan và thị nữ bên cạnh công chúa hay không.”

“Dương công công vẫn khỏe chứ?”

Vương hoàng hậu vừa ngủ trưa dậy, vẫn còn uể oải. Hoàng hậu da băng xương ngọc, áo lụa như mây quấn quanh mình, ngồi giữa đại điện thâm u, hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi cái nóng hầm hập ngày hè.

Trái lại, Hoàng Tử Hà cưỡi ngựa dãi nắng chạy đến nên trông rất lôi thôi, tóc mái bết vào trán, mồ hôi lấm tấm hai cánh mũi, quần áo vừa sửa sang vội vàng bên ngoài điện, vẫn còn xộc xệch.

Vương hoàng hậu giơ tay cho tất cả người hầu lui xuống, rồi cầm khăn gấm trên bàn đưa cho cô: “ Công công vội đến tìm ta như vậy, có chuyện gì chăng?”

Hoàng Tử Hà cung kính nhận lấy, thấm mồ hôi trên mũi, sẽ giọng thưa: “Chúc mừng hoàng hậu nương nương sắp quay về cung Đại Minh.”

Vương hoàng hậu nhìn xoáy vào cô, thấy không có vẻ giả trá mới mỉm cười nói: “Gác Bồng Lai gần hồ, mát hơn ở đây nhiều, nếu chóng về được thì tốt quá.”

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Nô tài biết nương nương nhất định đã chuẩn bị về cung, nhưng có thể giúp nương nương về sớm dăm ngày, cũng là chức trách của nô tài.”

“Ngươi nói xem, sao phải vội vã đến đây thông báo chuyện này?” Vương hoàng hậu ngả người trên sập, phe phẩy cây quạt tròn họa hình thiên nữ rải hoa.

“Quách thục phi có một bí mật, có thể đã bị mấy hoạn quan và thị nữ hầu hạ bên cạnh Đồng Xương công chúa biết được, nên giờ chỉ muốn bọn chúng phải chôn theo công chúa.”

Vương hoàng hậu dùng quạt che miệng, nhưng không che được đôi mắt cong cong: “Xem ra, hẳn là một bí mật quan trọng.”

“Thực ra… chỉ là một câu nói thôi.” Cô thì thào, “Nô tài còn một chuyện, xin hoàng hậu đồng ý.”

“Chuyện gì?”

“Việc này liên quan đến một người nữa, là học chính Quốc Tử Giám Vũ Tuyên… người quen cũ của nô tài. Nô tài tin rằng bí mật này chỉ cần bẩm báo với hoàng hậu là đủ để dạy bảo Quách thục phi, không cần thiết làm toáng lên cho mọi người đều biết.”

Vương hoàng hậu cười: “Đương nhiên rồi, bản cung đã dung dưỡng được Quách thục phi trong cung bấy nhiêu năm, về sau cũng muốn ả ta tiếp tục làm trợ thủ cho ta.”

Hoàng Tử Hà cúi đầu khẽ đáp: “Thưa, đúng vậy.”

“Vậy thì, bí mật của Quách thục phi là câu nói gì?”

Khung cảnh lần đầu gặp gỡ Vũ Tuyên chợt hiện ra như ảo ảnh, những đóa sen trong lòng cô lả tả rơi xuống, trôi bồng bềnh trên mặt hồ loang đầy những gợn nước lăn tăn.

Hôm đầu tiên dọn ra ở riêng, Vũ Tuyên không ngủ được, đành chạy đến đứng trước cửa nhà cô cả đêm, mặc cho tuyết phủ khắp người, những bông tuyết trên mi tan ra, chảy dài như nước mắt.

Vào ngày xảy ra thảm án, hắn ôm một ôm hoa mai giùm cô, những đóa mai đỏ rực như lửa đặt cạnh nụ cười của hắn, còn tươi thắm hơn máu đào.

Cả những mảnh vụn lá thư bị hắn xé nát bỏ vào lò hương chùa Hưng Đường, từ từ tan biến trong lửa, chỉ còn lại tàn tro.

Cô nhắm nghiền mắt, nói thật khẽ, như mê sảng: “Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.”

Ráng chiều như gầm phủ lên toàn bộ Trường An. Hoàng Tử Hà quay đầu về Tây, thấy bầu không thấp đến nỗi tưởng chừng chỉ giơ tay ra là chạm đến.

Sau ráng chiều lộng lẫy, là một ngày sắp trôi qua.

Hoàng Tử Hà quay về phủ Quỳ, vào phòng ngồi xuống, rút cây trâm trên đầu ra, vô thức vạch vạch lên giường, sắp xếp lại toàn bộ manh mối.

Xác định không còn gì lầm lẫn, cô mới cắm trâm lại chỗ cũ, ngồi trên giường ngẫm nghĩ một lúc, cuối cùng cũng phát hiện được cảm giác bất ổn này từ đâu đến…

Lý Thư Bạch không cho gọi cô.

Bình thường, khi cô về đến phủ, nhất định sẽ có người chạy ra báo, vương gia truyền ngươi đến.

Vậy mà hiện giờ, cô vừa nắm được một bước tiến quan trọng của vụ án, lại không biết phải bẩm báo tình hình với ai.

Hoàng Tử Hà thở dài, nằm vật ra giường, ngơ ngẩn ngẫm lại tình cảnh xảy ra hôm nay trong con ngõ cạnh phủ công chúa.

Vũ Tuyên nói đã trông thấy cô cầm gói tỳ sương, vẻ mặt quái dị.

Không có khả năng đó. Như cô nhớ thì, sau khi mua tỳ sương về, cô còn chưa kịp tiến hành vụ cá cược đã nghe được ở Long Châu xảy ra vụ thảm án giết chết cả nhà, bèn chạy ngay đến Long Châu điều tra, cuối cùng phát hiện hung thủ chính là con gái nhà đó, vì bị cha mẹ ngăn cấm tình duyên nên mới hạ độc vào đồ ăn, để cả nhà, bao gồm cô ta, cùng xuống suối vàng. Thấy vậy cô rất xúc động, bèn viết thư cho hắn. Hai ngày sau, cô về đến phủ Thành Đô. Cả ngày bôn ba vất vả, về tới nhà cũng đã hoàng hôn, ăn cơm xong, cô lập tức lên giường, ngủ say như chết, chẳng mộng mị gì. Sáng sớm hôm sau, lúc Vũ Tuyên đến cô cũng vừa trở dậy, hắn hỏi han chuyện cô kể trong thư, thấy cô không có gì khác lạ, bèn cùng ra sân sau ngắm hoa mai, mãi đến khi bà và chú cô đến mới cáo từ ra về.

Bấy giờ cô còn chưa hề mở ngăn tủ đựng tỳ sương ra, sao có thể cầm nó lên xem được chứ?

Là hắn nhớ lầm, hay chính cô nhớ lầm đây?

Hay là Vũ Tuyên bịa đặt? Nhưng nhìn vẻ mặt hắn không có gì giả trá, hơn nữa, hắn nói dối cô thì được tác dụng gì chứ?

Hoàng Tử Hà thấy cả người rời rã, mệt mỏi đến cùng cực, bất giác năm ngửa ra giường, thẫn thờ nhìn lên trần nhà.

“Nghĩ gì mà đờ người ra thế?” Một giọng nói vang lên ngay bên cạnh.

Cô đang mơ màng, vô thức lẩm bẩm gọi: “Vũ Tuyên…”

Vừa buột miệng, cô bỗng sởn da gà, mồ hôi lạnh túa ra, lập tức lật người ngồi phắt dậy, nhìn về phía Lý Thư Bạch đang đứng trước cửa.

Trời đã nhá nhem, sắp sập tối đến nơi, ánh hoàng hôn nhạt nhòa phủ lên đường nét gương mặt y, càng khó trông rõ vẻ mặt.

Cô cuống quýt leo xuống giường bước ra đón y: “Nô tài đang nhớ đến mấy câu huynh ấy nói.”

Cũng chẳng hiểu sao cô phải vội vã giải thích như vậy, tiếc rằng Lý Thư Bạch vẫn thản nhiên như không, chỉ nhìn xoáy vào cô, hờ hững “ừm” một tiếng.

Hoàng Tử Hà lấy làm ấm ức, tại sao cô đứng trong phòng, bị ráng chiều soi rõ mồn một nét mặt, còn y lại đứng ngược sáng, khiến cô cố thế nào cũng không trông rõ được y, càng không biết trong đôi mắt thăm thẳm kia ẩn giấu điều gì.

Lý Thư Bạch chẳng buồn để ý tới cô, quay lưng đi thẳng ra ngoài.

Hoàng Tử Hà thấp thỏm đi theo đến đài Chẩm Lưu. Dọc đường y cứ im lìm, khiến cô càng căng thẳng.

Mãi tới khi bước vào bên trong, cô mới đánh bạo lên tiếng: “Nếu gia có chuyện cần truyền, cứ bảo bọn Cảnh Dục gọi tôi là được mà…”

Nào ngờ y phớt lờ câu này, hỏi ngay sang chuyện khác: “Ngươi đến cung Thái Cực, hoàng hậu phản ứng thế nào?”

“Chắc hẳn nương nương sẽ sai người triệu Quách thục phi đến, dù sao thời cơ cũng chín muồi rôi.”

“Ừm, hoàng thượng lạm sát kẻ vô tội vì Đồng Xương công chúa, hôm nay trong triều cũng có mấy vị đại thần khuyên can, xong đều bị thánh thượng trách phạt. Các thái phi trong cung vì chuyện này mà lo lắng không yên. Nhưng ai dám trách móc hoàng thượng? Đánh đổ tất cả tội lỗi lên đầu Quách thục phi thôi.”

Lúc này, cả triều đình và hậu cung đều đồng lòng nhất trí, mong Vương hoàng hậu trở về kiềm chế Quách thục phi, thậm chí dân chúng trong kinh thành cũng xôn xao bàn tán.

“Có lẽ ông trời giúp Vương hoàng hậu, trong lúc quan trọng nhất thì Đồng Xương công chúa, chỗ dựa vững chắc nhất của Quách thục phi lại qua đời, khiến trong triều ngoài nột náo loạn cả lên.” Hoàng Tử Hà khẽ nhận xét.

Lý Thư Bạch lắc đầu: “Vương hoàng hậu đi được đến ngày hôm nay, hoàn toàn không phải nhờ may mắn. Kẻ chống lưng cho bà ta quả không thể xem thường.”

“Là nhà họ Vương ư?”

“Phải, mà cũng không phải.” Lý Thư Bạch nhìn về phía con cá nhỏ đang lặng lẽ lặn xuống đáy bình lưu ly, giọng chậm rãi: “Một kẻ mạng họ Vương, xong lại ly khai nhà họ Vương, mới thực sự là bàn tay âm thầm thao túng cả triều đình này.”

Trước mắt Hoàng Tử Hà chợt hiện ra nam nhân đứng trên lầu gác ở cung Thái Cực, nhìn cô chòng chọc từ xa.

Áo tía đai ngọc, mắt như rắn độc.

Y từng ấn tay cô vào chậu cá, để A Già Thập Niết mút mát máu dính trên tay.

Cô sực hiểu ra, lẩm bẩm gọi cái tên đó: “Vương Tông Thực.”

Lý Thư Bạch chỉ nhếch môi: “Nếu không nhờ Vương Tông Thực chống lưng, ta sao có thể đi đến ngày hôm nay, ngồi vào vị trí này?”

Hoàng Tử Hà nín lặng.

Mười năm trước, tiên hoàng qua đời, Vương Tông Thực là trung úy trong Tả thần sách hộ quân, đã giết chết bọn Vương Quy Trường, Mã Công Nho, Vương Cư Phương mưu đồ làm phản, đích thân dẫn đội nghi trượng tới nghênh đón hoàng đế vào cung, là công thần hàng đầu trong việc đăng cơ của đương kim thánh thượng.

Sau khi bước lên ngôi cửu ngũ, hoàng đế mới hiểu ra, ngai vàng vốn không dễ ngồi.

Gần trăm năm nay, triều đình phần nhiều do hoạn quan nắm giữ, những triều thần chết trong tay chúng nhiều không đếm xuể, thậm chí có cả hoàng đế. Tiên hoàng phải giả ngây giả dại, ẩn nhẫn nhiều năm, cuối cùng mới lật đổ được hoạn quan Mã Nguyên Chí từng phò trợ mình lên kế vị, nhưng đương kim thánh thượng chẳng cách nào lừa được Vương Tông Thực luôn luôn phòng bị, cũng chẳng có khả năng chống lại.

May sao, ba năm trước Từ Châu đại loạn, nhờ Quỳ vương Lý Thư Bạch dẹp yên, uy hiếp thế lực của lục đại tiết độ sứ, kinh thành thập ty hầu như đều nghe theo lệnh y, cuối cùng hoàng thất mới vực dậy được thế lực. Mấy năm nay, nhờ Quỳ vương kiềm chế quân Thần sách, triều đình và hoàng đế mới được yên lòng.

Nhìn gương mặt bình thản của y, Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, lúc tiên hoàng băng hà, y mới mười ba tuổi, bị đuổi ra khỏi cung Đại Minh, là tình cảnh thế nào? Trong sáu năm làm Thông Vương mờ nhạt, y đã sống ra sao? Mười chín tuổi đại thắng, vang danh bốn biển, hiển lộ tài năng, từ bấy gánh trên vai toàn bộ sự tồn vong của hoàng thất Đại Đường, y đã nghĩ những gì?

Y mang vô số trọng trách, lúc nào cũng phải tận tâm kiệt lực, chẳng được một ngày thảnh thơi. Có lúc, cô đã vắt óc nghĩ xem y thích gì, nhưng giờ ngẫm lại thì, ý thích đối với y là một thứ quá chừng xa xỉ, cả cuộc đời y có lẽ chỉ mang nặng trách nhiệm với hoàng thất Lý Đường, chẳng lúc nào được sống cho mình nữa.

Bởi vì y họ Lý, y là Quỳ vương Lý Thư Bạch.

Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn y, đúng lúc y ngoái lại, ánh mắt đôi bên giao nhau thật lâu.

Cuối cùng cô cụp mắt xuống trước, còn y vẫn nhìn cô chăm chú: “Bí mật của Quách thục phi bại lộ, ngươi thử nghĩ Vũ Tuyên sẽ có kết cục thế nào?”

Cô cắn môi đáp khẽ: “Vương hoàng hậu sẽ không tiết lộ đâu, lộ ra thì hoàng hậu có lợi lộc gì chứ? Cách làm thông minh nhất là cảnh cáo Quách thục phi, biến phi thành một trong những người ra mặt đề nghị hoàng hậu hồi cung.”

“So với Vương hoàng hậu, Quách thục phi quá khờ khạo. Chỉ có một đứa con gái mà dám vọng tưởng dựa vào lòng sủng ái của hoàng thượng với công chúa, lật đổ một Vương hoàng hậu đã sinh một trai một gái, còn đích thân nuôi nấng thái tử; huống hồ, sống giữa chốn cung đình phải cẩn trọng từng li từng tí, vậy mà dám ngang nhiên viết thơ tình gửi cho người, để rồi bị kẻ khác nắm thóp.” Lý Thư Bạch lạnh lùng nhận xét, nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi: “Ngươi khẳng định người tư tình với Vũ Tuyên là Quách thục phi chứ không phải Đồng Xương công chúa từ bao giờ?”

“Thưa gia, từ khi nhìn thấy hai câu thơ dang dở ở vườn Tri Cẩm.” Hoàng Tử Hà ngước lên nhìn ra cửa sổ, thấy sắc trời đang tối dần, từng ngọn đèn lồng lần lượt được thắp lên, “Đó không phải nét chữ Đồng Xương công chúa, như vậy kẻ ở vườn Tri Cẩm ngày hôm đó mới thực sự là hung thủ giết hại Đậu Khấu. Công chúa vốn đã định cho Đậu Khấu chuyển ra ngoài ở, vậy mà vì bảo vệ kẻ đó, đành để phò mã hiểu lầm rồi sinh ra oán hận mình… Người được công chúa dốc sức bao che như vậy, đương nhiên chỉ có… mẹ ruột mình, chính lá Quách thục phi. Nét chữ của phi, giống hệt nét chữ trên bức thư bị Vũ Tuyên thiêu hủy.”

Trời tối dần, khiến ngọn đèn trong phòng càng rực lên, soi sáng hai người, chỗ sáng càng thêm sáng, chỗ tối càng thêm tối.

“Hơn nữa, hai câu trong thư, ‘cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy, muốn theo trăng trôi chảy đến chàng’ cũng không phải lời lẽ của công chúa. Công chúa muốn gì được nấy, đã đến thẳng Quốc Tử Giám tìm tế tửu đòi Vũ Tuyên đích thân tới giảng bài cho mình, sao có thể viết cho huynh ấy những câu thơ ai oán, cứ như gần trong gang tấc mà biển trời cách mặt như thế được?”

Lý Thư Bạch mỉm cười, nhìn con cá nhỏ đang bất động như say ngủ: “Ngoài phố đồn đại Quách thục phi liên tục ra vào phủ công chúa là vì có tư tình với phò mã Vi Bảo Hoành; lại có lời đồn rằng, Đồng Xương công chúa ép học chính Vũ Tuyên của Quốc Tử Giám vào phủ giảng bài, làm mất mặt phò mã, nhưng có mấy ai rõ chân tướng sự thực đâu.”

“Gia phát hiện ra chuyện này từ bao giờ?”

“Sớm hơn ngươi.” Y ngồi xuống bàn, mắt vẫn không rời con cá, vẻ mặt bình thản, “Khi trâm Cửu loan biến mất, ngươi đến gác Thê Vân tra xét, ta đứng ở lan can bên ngoài, nhìn xuống dưới thấy Quách thục phi dúi cho Vũ Tuyên vật gì đó. Về sau, ngươi nói rằng đó là một phong thư, cũng kể cho ta biết câu thơ còn sót lại.”

Hoàng Tử Hà ngập ngừng, nhưng cuối cùng vẫn hỏi: “Sao gia không nói với tôi?”

“Ta cho rằng việc đó chẳng liên quan gì tới ngươi, cũng chẳng liên quan tới vụ án.”

Hoàng Tử Hà nín lặng, hồi lâu mới lên tiếng: “Bất kể thế nào, Vũ Tuyên với tôi cũng là chỗ quen biết nhiều năm, tôi nên biết chuyện của huynh ấy…”

“Vậy cần gì ta kể? Hắn đợi ngươi ở Thành Đô kia mà, ngươi cứ tự đi mà hỏi hắn.”

Từ khi quen biết đến giờ, lần đầu tiên Lý Thư Bạch gay gắt cắt lời cô như thế. Hoàng Tử Hà ngạc nhiên ngước mắt nhìn y, khẽ khàng thưa: “Vương gia đã nói khi nào chuyện này kết thúc, sẽ lập tức đưa tôi đi mà.”

“Nóng lòng quá không chờ nổi nữa chứ gì?” Y cười nhạt.

Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng: “Lẽ nào phải ở lại kinh thành ít lâu nữa ư?”

“Nếu đã nóng lòng như thế, sao không theo Vũ Tuyên về Thục quách, còn đòi ta đưa đi làm gì?”

Hoàng Tử Hà bối rối, chẳng hiểu sao y lại đột ngột trở mặt, chỉ biết phân trần: “Vụ án đó đã có phán quyết, nếu không có gia giúp đỡ, nô tài rất khó lật lại bản án. Trước đây chúng ta đã thống nhất rồi kia mà, lẽ nào bây giờ gia lại nuốt lời?”

“Bản vương chưa bao giờ nuốt lời.” Mặt Lý Thư Bạch đã lạnh càng thêm lạnh, y quay đi không buồn nhìn cô, lạnh lùng nói: “Ngươi nói đúng, chúng ta vốn chỉ là quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau mà thôi. Đợi khi nào phá được vụ án gia đình ngươi, hai ta cũng đường ai nấy đi, không nợ nẫn gì nhau nữa.”

Hoàng Tử Hà cảm thấy lời lẽ của y có gì đó rất khó chấp nhận, nhưng theo giao hẹn ban đầu giữa hai người thì đúng là như vậy.

Ngẩng đầu lên, bắt gặp gương mặt lạnh băng của Lý Thư Bạch, lòng cô rối như tơ vò, bất giác nhích lại gần y một bước: “Bất luận ra sao, xin vương gia đừng quên giao hẹn, dẫn tôi về Thục điều tra huyết án của gia đình, rửa sạch oan khuất…”

Vừa nói, Hoàng Tử Hà vừa với tay về phía y, khi cánh tay vươn qua mặt bàn, cô chợt thấy cổ tay lành lạnh, thì ra chiếc bình lưu ly đặt ở góc bàn đã vô tình bị kéo theo, rơi xuống nền gạch xanh vỡ tan tành, nước bắn tung tóe, con cá đỏ giãy đành đạch trên mặt đất.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách