Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 3021|Trả lời: 18
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại - Xuất Bản] Chuyện Tình Núi Brokeback | Annie Proulx

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Tên tác phẩm: Chuyện tình núi Brokeback
Tác giả:Annie Proulx
Dịch giả: Phạm Văn
Độ dài:
Thể loại: Tình cảm
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
Nguồn: NXB Nhã Nam
Nhà xuất bản: NXB Nhã Nam
Ngày xuất bản: 01/2008
Giới thiệu sơ lược (không bắt buộc):
Lần đầu thành ra không dám tự edit mà chỉ dám đánh máy lại tác phẩm đã xuất bản và không biết mọi người có ủng hộ hay không nên đành thăm dò trước. Tác phẩm mình muốn giới thiệu là "Chuyện tình núi Brokeback" - lần đầu mình ấn tượng là vì xem phim điện ảnh "Tình yêu núi Brokebacck" và vì ấn tượng quá lớn về một tình yêu không có đoạn kết hạnh phúc nhưng lại quá hấp dẫn nên đã tìm mua truyện "Chuyện tình núi Brokeback". Đây là cuốn truyện mà đã đọc rồi thì sẽ không hối hận - hấp dẫn, cuốn hút và thơ mộng là những gì mình có thể cảm nhận được từ cuốn truyện này và cũng chính những cảm xúc này mà mình muốn chia sẻ cuốn sách này đến với mọi người. Mong là mọi người ủng hộ tác phẩm.
END
P/S: Mỗi chương sẽ được post vào 7h, chủ nhật hàng tuần, chương đầu tiên mình sẽ bắt đầu post vào ngày 01/03/2015















Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
Đăng lúc 23-2-2015 10:59:08 | Chỉ xem của tác giả
Chào bạn, mình là Mod box Văn, chịu trách nhiệm xét duyệt các tác phẩm có trong box.

Phiền bạn đăng ký re-post tác phẩm ở thread này trước để Mod xét duyệt trước rồi mới mở topic nhé.

http://kitesvn.com/thread/dang-k ... ong-397016-1-1.html

Trong bài post của bạn, phần nguồn re-post không được cụ thể lắm, bạn có thể cho biết bạn tự type hay là re-post từ một trang web nào đó không?

Bình luận

cảm ơn đã cho mình biết nha.  Đăng lúc 25-2-2015 06:48 PM
Ừ đúng rồi bạn ơi, sửa lại cả tiêu đề topic hộ mình với nhé :D  Đăng lúc 24-2-2015 08:53 PM
minh post chương 1 ở đây luôn phải không bạn  Đăng lúc 24-2-2015 04:56 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 1-3-2015 18:55:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương một là hành trình dài tìm về vùng đất Wyoming đầy hoang sơ, khắc nghiệt của một ông lão hơn tám mươi tuổi để dự đám tang của em trai mình. Đây như một chương dẫn của tác giả để giới thiệu khái quát vùng đất Wyoming.
Chương 1: CON BÒ LỘT DA DỞ

Trong cuộc đời trải dài của ông, từ đúa bé năng nổ, bồn chồn trong bộ com lê len đáp tàu hỏa rời Cheyenne đến ông già khập khiểng trong năm tháng cuối cùng này, Mero đã gạt bỏ những suy nghĩ về chốn khởi đầu của mình, một nơi được gọi là trang trại ở vùng đất lạ lùng trên nhánh phía Nam rặng Big Hons. Ông tự ý bỏ chốn ấy hồi năm 1936, dự vào một chiến tranh rồi trở về, cưới vợ rồi cưới vợ lần nữa (rồi lại lần nữa), kiếm tiền bằng nồi súp de, thông ống thoát hơi và những đầu tư khôn khéo, rồi về hưu, dự vào chính trường địa phương và lại ra khỏi mà không bị điều tiếng gì, chưa bao giờ vòng lại để chứng kiến ông cụ và Rollo vợ nỡ và phá sản vì ông đã biết trước họ sẽ như vậy.
Họ gọi đó là trang trại, và nó vốn là thế, nhưng một hôm ông cụ bảo không thể chaưn cừu trên vùng đất khắc nghiệt như vậy, nơi gia súc rơi xuống vực và biến mất vào những hố sụt, lũ beo núi cướp đi rất nhiều bê, nơi cỏ rơm thì không thể mọc nhưng bụi cỏ đắng và cây gai dại Canada lại lớn nhanh và gió cát đủ để cào mờ kính xe. Ông cụ xoay được việc phát thư, nhưng nom đầy tội lỗi mỗi khi ông lóng ngóng nhét hóa đơn đòi tiền vào hộp thư của các láng giềng.
Mero và Rollo xem việc phát thư của ông cụ như một cách trốn tránh việc nông trại, công việc đó lại đổ lên dầu họ. Đàn bò giống giảm còn tám mươi con, và một con bò cái không đáng giá mười lăm đô la, nhưng họ cứ sữa chữa hàng rào, xẻo tai và đóng dấu bò, lôi lũ bò ra khỏi hố bùn và săn beo núi với hy vọng rằng sớm muộn gì ông cụ cũng sẽ dọn đi Ten Sleep cùng với  nhân tình và chai rượu của cụ. Rồi họ có thể chỉnh đốn lại trang trại giống như bà nội Olive của họ đã làm khi Jacob Corn khiến bà thất vọng. Mơ ước đó không thành, và rốt cuộc sáu mươi năm sau, Mero trở thành ông giá tám mươi tuổi góa vợ, ăn chay, hì hục với cái máy tập thể dục Exercyle trong phòng khách căn nhà kiểu thuộc địa ở Woolfoot, tiểu bang Massachusetts.
Một buổi sáng ẩm thấp, một giọng nữ ken két như tiếng nhổ đinh qua điện thoại tự xưng là Luoise, vợ của Tick, và mời ông về Wyoming. Ông không biết nó là ai, Tick là ai, cho đến khi nó nói là Tick Corn, con của Rollo em trai ông, và Rollo đã qua đời, bị một con đà điểu Úc giết chết, mặc dù căn bệnh ung thư tiền liệt tuyến cũng đang chờ. Nó nói, vâng, tụi cháu gần như quán xuyến trang trại mười năm nay rồi.
Đà điểu Úc? Ông nghe có đúng không?
Đúng, nó nói. Ôi dào tất nhiên bác không biết. Bác có nghe tới Down Under Wyoming(1) bao giờ chưa?
Ông chưa nghe. Và nghĩ tên gì lại là Tick, thằng Bọ chét? Ông nhớ tới những con bọ xám béo căng bị rút khỏi bầy chó. Thằng bọ chét này chắc là nghĩ ông sẽ lấy hết cái trang trại khốn kiếp và béo phù lên ở đó. Ông nói, chuyện đà điểu Úc quái quỷ gì gì thế hả? Tụi nó ở bên đó điên hết rồi sao?
Nó nói trang trại bây giờ là Down Under Wyoming. Rollo đã bán trại cho Nữ hướng đạo từ hồi xửa hồi xưa, nhưng một đứa trong bọn nữ hướng đạo bị beo núi lôi đi, và Hội Nữ Hướng đạo bán cho trại Banner bên cạnh để thả bò một vài năm, rồi Banner tống khứ cho một thương gia Úc giàu có, ông này lập ra Down Under Wyoming, nhưng đã có quá nhiều việc phải làm từ xa, lại thêm chuyện gặp rủi với tay quản lý, một gã gốc Idaho đeo khóa thắt lưng rodeo chuộc ở hiệu cầm đồ, nên ông mới tìm Rollo đề nghị chia đôi lợi tức nếu Rollo trông nom trang trại. Hồi đó là năm 1978. Trại làm ăn khá lắm. Dĩ nhiên lúc này bọn cháu đóng cửa, nó nói, đang mùa đông không có du khách. Tội nghiệp, Rollo đang giúp Tick chuyển bầy đà điểu qua gian nhà khác thì một con trong bầy quay ngoắc lại và nhào thẳng tới ổng với bộ móng to như dao cạo. móng đà điểu ghe gớm lắm.
Ông nói, tao biết. Ông có xem các chương trình về thiên nhiên trên truyền hình.
Nó hét lớn như thể đường dây điện thoại khắp nước bị hỏng hết rồi, Tick thấy số điện thoại của bác trong máy vi tính. Rollo cứ nói ông ấy sẽ liên lạc. Ổng muốn thấy bác thấy mọi việc ngã ngũ ra sao. Ổng cố dùng gậy đuổi nó, nhưng nó cào ổng lòi ruột.
Ông nghĩ, có lẽ mọi việc chưa ngã ngũ đâu. Sốt ruột với trò này, ông bảo ông sẽ dự đám tang. Ông bảo nó, đừng nói tới mấy chuyến bay và đón ông ở phi trường làm gì, ông không bay, nhiều năm trước ông đã gặp chuyện không hay vì mưa đá, máy bay nom như cái khuôn bánh kẹp lúc hạ cánh. Ông định lái xe. Dĩ nhiên ông biết bao xa. Có chiếc xe tốt cực kỳ, hiệu Cadillac, chỉ lái Cadillac, bánh xe hiệu Gislaved, xa lộ liên bang, lái xe giỏi, chưa hề bị tai nạn trong đời, nói dại mồm, bốn ngày, ông sẽ tới đó chiều thứ bảy. Ông nghe giọng nó kinh ngạc, biết nó đang nhẩm tính tuổi ông, đoán ông phải tám mươi ba, lớn hơn Rollo một vài tuổi, hình dung ông phải lụ khụ chống cây ba toong đi lanh quanh, lê lết cho hết ngày tàn, có lẽ nó đang sờ mái tóc bạc màu của chính nó. Ông co dãn cánh tay vạm vỡ của chính mình, co đầu gối, nghĩ mình có thể né một con đà điểu Úc. Ông sẽ xem em ông chôn trong cái hố Wyoming đất đỏ. Hình ảnh đó lôi ông trở về hiện tải; lằn chớp chói lòi trên mây không phải tia sét giáng xuống, mà là nét vạch dứt khoát lên chín tầng mây nóng bỏng.

Ông đã đột ngột bỏ đi khi nhân tình của ông cụ có vẻ trở nên quá quắt – bây giờ ông không nhớ nổi tên mụ, Rollo trợn tròn mắt nhìn mất ngón tay nhấm đỏ như máy của mụ, móng tay bị gặm tới chỗ thịt mềm, mạch máu ở cổ như sợi kẽm, lưng cánh tay phủ lông, và điếu thuốc cháy đỏ, khói thuốc cuộn lên khiến mụ ta nhấp nháy cặp mắt lồi như mắt ngựa hoang, dấu hiệu của những hành vi hắc búa và tai họa. Tóc ông cụ đang rụng, Mero hai mươi ba và Rollo hai mươi, và mụ ta vần cả bọn như một cỗ bài. Nếu bạn mê ngựa, bạn sẽ nhảy xổ vào mụ, vào cái cổ cong và cặp mông ngựa của mụ ta cao và vểnh đến nỗi bạn muốn vỗ vào. Gió rú quanh căn nhà, lùa những tinh thể tuyết qua kẻ nứt nơi cánh cửa gỗ súc vêu vao, và tất cản bọn họ trong bếp hình như đều đang căng đầy ý định mãnh kiệt nào đó. Mụ ta ghé cặp mông to lên mép tủ thức ăn cho chó, nhìn ông cụ và Rollo, thỉnh thoảng đảo cặp mắt loang loáng sang Mero, những cái răng to nhấm viền móng tay, vừa mút máu ứa vừa rít thuốc lá.
Ông cụ uống Everclear khuấy bằng que liễu lột vỏ để lấy vị đắng. Hình ảnh ông cụ sắc nét trong trí Mero lúc ông đứng bên tủ áo nơi hành lang, ngắm nghía mấy cái tủ của mình. Ông có nên mang mũ đi dự lễ tang không? Vành mũ của ông cụ cong thật cong, cuộn chặt bên phải, nơi bàn tay ông nắm lấy để nhấc mũ ra hay đội mũ vào, và xuôi xuống bên trái như cái nhà kho. Bạn có thể nhận ra ông cụ ở cách xa hai dặm. Ông cụ đội mũ ở bàn, lắng nghe câu chuyện về người đàn bà kể về gã Đầu Thiếc, cạn ly đều đều đến khi ông say khướt, bộ mặt của ông giãn ra, cái mũi gẫy vì trò rodeo(2) và cặp lông mày có vết sẹo cát ngang, cái tai cụt biến mất dần trong lúc ông uống rượu. Bây giờ chắc ông cụ đã chết ít nhất năm mươi năm, chôn trong chiết áo len của người đưa thư.

Mụ nhân tình mở đầu câu chuyện, ừ, có một tay tên Đầu Thiết ở dưới vùng Dubois từ hồi ba tôi còn la con nít. Có một trại nhỏ, vài con ngựa, bầy bò, đàn con và một bà vợ. Nhưng hắn có chuyện tức cười. Hắn có một miếng kim loại trong đầu vì ngã xuống mấy bậc thềm xi măng.
Nhiều đứa cũng có, Rollo nói với vẻ công kích.
Mụ ta lắc đầu. Không như tay này. Miếng kim loại của hắn mạ kền và nó gặm óc hắn.
Ông cụ giơ chai Everclear,  nhướn mày nhìn mụ: Nào, cưng?
Mụ ta gật đầu, nhận ly từ tay ông và nốc một hơi cạn. Ồ, không làm tôi dừng bớt tại lại được đâu, mụ ta nói.
Mero chờ mụ hí lên.
Rồi sao nữa, Rollo vừa nói vừa cạy phân ngựa dưới gót ủng. Đầu Thiếc và miếng sọ mạ kiềm của hắn thì sao?
Mụ ta nói, tôi nghe như vầy. Mụ đưa ly ra lấy một ngụm Everclear nữa, ông cụ rót và mụ tiếp tục.

Mero trằn trọc suốt cái đêm xa xưa ấy, mơ thấy ngựa đang gây giống hoặc tiếng thở khàn, hành động giao cấu hoặc tiếng cắt cổ hổ hễn đẫm máu. Sáng hôm sau ông thức dậy đẫm mồ hôi tanh tưởi, nhìn lên trần nhà và nói lớn, có thể sẽ còn nhùng nhằng như thế này bao lâu. Ông có thể án chỉ bầy bò và thời tiết, cũng như bất cứ chuyện gì, và cơ hội nào ông có thể tìm được, ở hai ba tiểu bang quanh đó. Ở Woolfoot, vừa tập máy Exrcyle ông vừa nghĩ, sự thật thì hơi khác: ông đã muốn có một người đàn bà của riêng mình mà không phải ăn mót đồ thừa của ông cụ.
Bánh xe xóc trên những ổ gà và kế nứt trát nhựa đường, cái mũ nỉ đội đám tang trượt trên ghế sau, bây giờ ông muốn biết liệu Rollo có nẫng được nhân tình từ tay ông cụ, ném bộ yên lên người mụ rồi cưỡi đi vào hoàng hôn không?
Những chóp màu cam gắn chắn trên xa lộ liên bang thuộc luồng xe chạy thành một hàng khiến ông hết hy vọng phóng nhanh. Chiếc Cadillac của ông kẹt giữa những toa rờ moóc rít thắng, sát những bánh sau khổng lồ, một chiếc xe tải Peterbilt lù lù trong kính sau. Suy nghĩ của ông tắc nghẽn như cái lược chải qua óc bị vướng nút rối. Khi dòng xe chuyển bánh, ông cố gỡ lại quãng đường đã trễ và cảnh sát xa lộ chặn ông lại. Gã cớm mặt mụn, có ria mép và cặp mắt lác, hỏi ông tên gì, đi đâu. Trong thoáng chốc ông không nghĩ ra được mình đang làm gì ở đó. Lưỡi gã cớm nhắp nhắp hàng ria mép lởm chởm trong lúc gã viết nguệch ngoạc.
Đám tang, đi dự đám tang em tao.
Thong thả thôi ông cụ ơi, nếu không họ sẽ làm đám ma cho ông luôn.
Mày là đồ nhóc con khốn nạn phải không, ông nói, đăm đăm nhìn tờ giấp phạt, nhìn nét chữ thảm hại, nhưng bộ ria mép cùng gã cảnh sát đã đi vạn dặm, lách qua làn xe như hồi xưa Mero đã lách khỏi trang trại,  nhíu mắt nhìn qua kính xe xướt xát. Đáng lẽ ông có thể đi một cách phong độ hơn, nhưng lòng nôn nóng đã giụt ông như quật vào xương tay chuyền tê giật lên cánh tay. Ông tin đó là con mụ hông ngựa đang dựa tủ, Rollo thì nhìn mụ đăm đăm, ông cụ nốc Everclear và không để ý, hay nếu có để ý cũng bất cần, hình ảnh đó đối với ông như chiếc chìa khóa trong ổ công tắc. Mụ ta có hai bím tóc dài màu chuối tiêu, Rollo có thể dùng như dây cương.
Ừ, mụ ta nói, giọng thấp và dụ dỗ của kẻ dối trá. Tôi kể cho nghe, mọi thứ ở trại Đầu Thiếc đều không ổn. Đàn gà đổi màu qua đêm, lũ bê sinh ra ba cẳng, con hắn da đốm và vợ hắn cứ đồi bộ bát đĩa màu xanh. Đầu Thiếc chưa làm xong hẳn việc gì, lần nào cũng bỏ ngang. Thậm chí quần của hắn cũng cài cúc nửa chừng để con cu thòi ra. Hắn là một đứa nhếch nhác có miếng kẽm ăn mòn óc, và trang trại cùng gia đình hắn nhếch nhác. Mụ nói, nhưng họ cũng phải ăn như mọi người chứ?
Tôi hy vọng họ ăn những thứ bánh ngon hon những thứ bánh bà làm, Rollo nói, hắn không thích miềng hắn đầy hạt khi ăn bánh dâu dại.

Ông bắt đầu chú ý đến đàn bà vài ngày sau khi ông cụ hất đầu về phía vị khách lạ và nói, dẫn tay này lên xem hình vẽ da đỏ. Hồi đó Mero mới mười một hay mười hai, không hơn. Họ cưỡi ngựa dọc con lạch làm đôi vịt trời cất cánh bay xuôi dòng rồi lại bất chợt hiện ra, bị con ó đuổi theo, nó mổ con vịt đực như tiếng vỗ tay. Con vịt rơi nhào qua hàng cây xuống đống lá rụng, va con ó vút đi nhanh như lúc đến.
Họ leo qua bãi đá, nền đá vôi bị gió bào mòn thành những món đồ kỳ dỵ, vỏ bánh mì gặm dở đã ôi, xương lăn lóc, những tấm chăn bẩn xếp thành đống, răng chó và càng cua bạc màu. Ông buộc ngựa trong bóng mát của hàng thông rủ và dẫn nhà nhân chủng học trèo lên, qua cây gụ núi cành cứng đến chỗ mái nhô ra. Trên đầu họ những vách đá mòn dựng đứng rực rỡ rêu màu cam phủ kín, lồi lõm những hốc và gờ sẫm màu vì phân chom hàng thiên nhiên kỷ.
Nhà nhân chủng học đi qua đi lại xem xét hành lang đá có những hình vẽ đen đỏ: những sọ bò tót, một hàng cừu núi, các chiến binh mang giáo, một con gà tây vướng bẫy, một hình gậy chết ngã chổng ngược, những bàn tay đỏ màu đất son, những hình thù dữ dội gắn cào cỏ trên đầu mà ông ta nói là mũ lông chim, một con gấu đỏ lớn chồm tới trước trên hai chân sau,  những vòng tròn đồng tâm, những hình chữ nhật và lưới mắt cáo. Ông ta vẽ lại các hình ảnh vào cuốn sổ tay, cứ lặp đi lặp lại rubba-dubba nhiều lần.
Đó là mặt trời, nhà nhân chủng học, chính ông ta cũng giống một hình vẽ dang dở, vừa nói vừa chỉ một cái bia bắn cung, dứ dứ cây bút chì trong không khí như đâng đập ruồi. Đó là dụng cụ ném lao còn đó là con chuồn chuồn. Đây rồi. Chú mày biết đây là cái gì không; và ông ta sờ vào một hình bầu dục nứt đôi, xoa kẻ nứt bằng những ngón tay lấm bụi. Ông ta lồm cồm bò xuống, chỉ thêm vài tá nữa.
Móng ngựa?
Móng ngựa! Nhà nhân chủng học cười. Không phải dâu nhóc tì, đó là âm hộ. Tất cả mấy cái này đều là nó. Chú mầy không biết là cái gì phải không? Thứ hai chú mày tự đến trường tra tự điển đi.
Nó là biểu tượng, ông ta nói. Chú mày biết biểu tượng là gì không?
Biết, Mero nói, ông đã thấy chúng vỗ vào nhau trong ban nhạc diễu hành của trường trung học. Nhà nhân chủng học cười bảo ông có tương lai khá, cho ông một đô la vì đã chỉ chỗ cho ông ấy. Nghe bày, chú nhóc, người da đỏ làm cũng y như mọi người khác.
Ông tra từ đó trong từ điển của trường, đóng sập lại trong nỗi ngượng ngùng, nhưng hình ảnh vết đất son thô sơ trên đá đã gắn chặt với ông (với tiếng kèn quân hành làm nền), và không một mẫu hình da thịt nào thắng nỗi niềm tin vào cấu trúc đá ngầm của cơ quan sinh dục nữ, bằng chứng là xương mu, ngoại trừ nhân tình của ông cụ mà ông đã hình dung bò trên bốn chân, bị nhét vào từ phía sau và hí như ngựa, một điều không thuộc vào địa chất mà là nhục dục.

Tối thứ năm, vì những đoạn đi vòng và công trường đang làm dở gây trở ngại, ông chỉ đến được ngoại ô Des Moines. Trong căn phòng quán trọ xây gạch ống, ông để đồng hồ báo thức, nhưng tiếng gáy ầm ầm của chính ông đánh thức ông trước khi nó reo. Ông dậy lúc năm giờ mười lăm, mắt đỏ ngầu nhìn qua màn cửa nylon, xe của ông phủ tuyết lấp lánh xanh dưới tấm bảng NGỦ NGỦ của quán trọ. Trong phòng tắm ông khuấy gói cà phê uống liền của quán trọ và uống đen mà không dùng đèn thế phẩm hay kem hóa học. Ông cần chất caphein. Gốc rễ trí não ông dường như khô héo và mục ruỗng.
Một buổi sáng lạnh lẽo, tuyết xốp rơi nghiêng: ông mở khóa chiếc Cadillac, nổ máy và lái vòng vào dòng xe cộ, toàn là xe hàng, xe rờ moóc kéo hai hoặc bà toa. Trong ánh đèn xe sáng chói đỏ ông lỡ mất lối rẽ về hướng Tây và lái vào những con phố bùn lầy đầy gập ghềng, rẽ phải rồi lại rẽ phải, lấy tấm bản NGỦ của quán trọ làm điểm mốc, nhưng ông đã ở bên kia phía xa lộ của liên bang và tấm bảng thuộc về một quán trọ khác.
Một con lộ khác đầy hố bùn đưa ông vào dòng xe của bọn lái xe đi làm vừa hút cà phê trong ly cách nhiệt, bánh ngọt trượt trên bảng đồng hồ xe. Chạy được nauwx vòng đai, ông phát hiện lối vào xa lộ liên bang, ngoặt về phía đó, tông vào chiếc xe tải đóng thùng kín vẽ chữ BỎ HÚT THUỐC! THÔI MIÊN CÔNG HIỆU!, rồi bị một chiếc limo(3) dài húc vào đuôi, chiếc limo lại bị tông đuôi vì một gã chạy máy ép hơi ngái ngủ trong xe tải nhỏ của công ty.
Ông chẳng thấy gì mấy vì bị túi hơi phòng tại nạn ép vào ghế, miệng ông đầy bụi và vị cao su, kính đeo mắt cắt vào mũi ông. Ý nghĩ đầu tiên của ông là chửi tiểu bang Iowa và bọn sống ở đó. Cổ tay áo ông có vài đốm máu.
Một miếng băng có hình cờ sao và sọc dán ngang mũi ông, ông nhìn chiếc xe bẹp gí của mình đang chảy nhớt đen trên xa lộ bị lôi đi sau xe kéo. Một chiếc taxi đưa ông và vali của ông, cái mũ nỉ đội đám tang, đi ngược về hướng Posse Motors, nơi những gã bán hàng chểng mãng trôi dạt như vệ tinh lọt ra ngoài quỹ đạo, và ông mua một chiếc Caddilac cũ, màu đen như chiếc bị đụng, nhưng cũ hơn ba năm và không có ghế bọc da màu kem mà bọc nhung bạc phếch vì nắng. Ông cho mang bộ bánh tốt của chiếc xe bị đụng tới để lắp vào. Ông thích thì ông cứ làm, mua xe như mua gói thuốc lá và hút cho hết. Ông bất chấp cách nó chạy ngoài xa lộ, tự ý văng về một phía khi ông vặn nhẹ tay lái, và ông đoán sườn xe có thể bị cong. Đồ trời đánh, ông sẽ mua một chiếc khác cho chuyến về. Ông muốn thì ông cứ làm.
Nửa tiếng sau khi ông vượt qua Kearney, bang Nebraska, trăng rằm mọc lên như một nét ngớ ngẩn chông chênh trong kính chiếu hậu, phía trên có mấy lọn mây tóc giả, viền mỏng như sợi tóc bạch kim. Ông sờ cái mũi sưng, mâm mê cái cái cằm đau vì túi hơi ngừa tai nạn tung bất ngờ. Tối hôm đó trước khi ngủ ông nốc một ly nước máy nóng pha rượu mạnh cho thêm phấn chấn, rồi bò vào cái giường ẩm xì. Cả ngày ông chưa ăn gì nhưng dạ dày ông quoặn lên khi nghĩ đến thức ăn bình dọc đường.
Ông mơ thấy mình trong căn nhà ở trang trại nhưng các phòng bị dọn hết đồ đạc, và ngoài sân lính tráng mặc đồng phục trắng bẩn thỉu đánh nhau. Những tiếng nổ chấn động từ các khẩu súng khổng lồ làm vỡ kính cửa sổ và xé toang sàn gỗ vì thế ông phải bước trên đà rầm, và dưới sàn nhà vỡ toác ông thấy những bồn mạ kẽm đầy chất lỏng đen sền sệt.
Sáng thứ bảy, còn bốn trăm dặm trước mặt, ông nuốt vài miếng trứng cháy, khoai tây quệt sốt cà chua xanh đóng hộp, một tách cà phê nhạt, không để lại tiền boa, lên đường. Thức ăn không phải thứ ông cần. Thói quen ăn sáng của ông là hai ly nước khoáng, sáu tép tỏi, một quả lê. Bầu trời hướng tây lù lù u ám, sau lưng ông những đốm cam rực rỡ chiếu qua những vết sáng lòa. Vầng thái dương phình lên ở chân trời.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 1-3-2015 18:56:41 | Chỉ xem của tác giả
Chương 1 (tt)
Ông vượt qua biên giới tiểu bang, đến Chenyenne lần thứ nhì sau sáu mươi năm. Có đèn neon, xe cộ và bê tông, nhưng ông biết nơi này, một thị trấn ga xe lửa đã từng thăng trầm. Lần đó ông đói rã rời, vào hiệu ăn trong nhà ga Union Pacific dù ông không quen ăn hiệu và gọi món bít tết, nhưng khi người đàn bà mang ra và ông cắt miếng thịt, máu chảy loan trên cái dĩa trắng, ông không thể không thấy con thú há hốc miệng trong tiếng kêu câm nín, và cũng thấy vẻ khôi hài trong nỗi ghê tởm của mình, một đứa chăn bò lầm lạc.
Giờ đây ông dừng xe trước bốt điện thoại, khóa cửa xe dù ông chỉ đứng cách hai mét, và gọi số điện thoại vợ chồng thằng Tick đã cho ông. Chiếc xe bị đụng của ông có điện thoại bên trong. Giọng rống cả bên ngoài ống nghe.
Tụi cháu không nghe gì nên tụi cháu không rõ liệu có phải bác đổi ý không.
Không, ông nói, chiều nay tao sẽ đến đó trễ. Tao bây giờ đang ở Chenyenne.
Gió đang thổi mạnh đấy. Người ta nói sẽ có thể có tuyết. Trên núi. Giọng nó có vẻ hoài nghi.
Tao sẽ để ý, ông nói.
Vài phút sau ông ra khỏi thị trấn và chạy về hướng bắc.
Vùng đất mở ào ra hai bên, thu nhỏ chiếc Cadillac thành cái búng tay. Chẳng có gì thay đổi, vùng đất trống xanh xao và gió gầm gào, con linh dương xa xa bé như chuột nhắt, địa hình đúng như xưa. Ông cảm thấy mình trượt lại, tám mươi ba năm êm đềm trôi tuột khỏi ông như nước, thay vào đó là cơn giận sôi sục của một gã thanh niên bởi thế gian ngu xuẩn và bọn ngốc trong đó. Dấn bước lân đường dạo ấy thật khó. Bà không biết sự thể thế nào, ông kể cho các bà vợ cũ cho đến khi họ nói họ biết rồi, ông nện nó vào tai họ hai trăm lần, thằng thanh niên đáng thương giơ tấm bảng tìm việc trên phố, và việc làm với ông thợ lò sưởi, vân vân và vân vân. Cách Cheyenne ba mươi dặm, ông thấy tấm bảng quảng cáo đầu tiên, DOWN UNDER WYOMING, Vui miền Tây kiểu miền Tây, trên tấm ảnh phóng đại ấy có mấy con kanguroo đang nhảy qua bụi ngải đắng và một đứa bé tóc vàng cười toe toét giả vờ đang vui điên dại. Hàng chữ chéo báo trước: Mở cửa 31 tháng Năm.

Rồi sao nữa, Rollo nói với nhân tình của cụ, ông Đầu Thiếc đó thì sao? Nhìn mụ ta, không chỉ nhìn khuôn mặt, mà từ trên xuống dưới, cặp mắt đảo khắp người mụ như bàn ủi trên chiếc áo sơ mi, và ông cụ mặc áo len của người phát thư, đội mũ lệch đang nhắm nháp Everclear mà không chú ý hay bất cần, thỉnh thoảng lảo đảo đứng lên ra hàng hiên tưới cỏ dại. Lúc ông rời phòng, căng thẳng dịu xuống và họ chỉ là những kẻ bình thường mà chẳng có gì xảy ra. Rollo thôi nhìn người đàn bà, cuối xuống gãi tai con chó và nói, Snarleyow Snapper, và người đàn bà mang cái dĩa tới cái bồn rửa bát vừa dội nước lên vừa ngáp. Lúc ông cụ trở lại ghế, Everclear như dầu ngọt trong ly ông, những cái liếc lại sắc bén và giọng nói lại biến đổi mang ý nghĩa phức tạp.
Ôi dà, dào, mụ ta nói, hất bím tóc ra sau, mỗi năm Đầu Thiếc xẻ thịt một con bò đực của hắn, và họ ăn thịt nó suốt mùa đông, luộc, rán, xông khói, hầm, cháy và sống. Một lần hắn ra cạnh chuồng bò  và giáng cho con bò đực một cú rìu mạnh, nó choáng váng ngã xuống. Hắn cột hai chân sau, kéo bổng nó lên và thọc huyết, đẩy cái chậu bên dưới để hứng máu. Khi nó chảy hết máu, hắn hạ nó xuống và bắt đầu lột da, trước tiên từ cái đầu, cắt từ ót xuống qua mắt tới mũi, lột ngược lớp da ra. Hắn không chặt đầu mà cứ tiếp tục lột da, từ móng huyền tới khủyu chân sau lên đến bẹn rồi đến bìu dái và xuống giữa bụng tới ức tới đuôi. Bây giờ hắn sẵn sàng làm bên sườn, lột lớp da cứng. Nhưng da bên sườn khó lột – ông cụ gật đầu – hắn lột được khoảng nửa bên sườn rồi bắt đầu nghĩ đến bữa ăn tối. Thế là hắn để con bò đực lột da nửa chừng trên mặt đất rồi đi vào bếp,  nhưng trước tiên hắn cắt cái lưỡi, món ăn khoái khẩu của hắn, nấu thật chín và ăn nguội với xốt mù tạc của bà Đầu Thiếc trong tách trà cẽ hình cỏ lưu ly. Để con bò trên mặt đất và vào ăn tối. Bữa ăn tối gồm bánh hấp và thịt gà, một trong mấy con gà đổi màu từ trắng sang xanh, thưa đúng, xanh như cặp mắt ông già anh.
Mụ ta là đứa nói láo hết cỡ. Mắt ông cụ màu nâu đục.

Tuyết mịn rơi lấm tấm trên cao nguyên, không gian phơn phớt mờ, một lớp bụi hiếm hoi, đẹp, ông nghĩ thầm, màu lụa mỏng, nhưng sức gió đủ lắc chiếc xe nặng, một lõi gió xoáy lớn rộn ràng trên trời sà xuống chạm đất. Những cụm khói dâng lên hàng chục mét trong không gian, những suối nước tao nhã và con lốc tuyết, những hình dáng phụ nữ Ả Rập che mạng và các kỵ mã ma quái tan biến trong khói trắng. Những con rắn tuyết quằn quại bò qua mặt đường nhựa bị kéo thẳng thành cây gậy. Ông đang lái trong dòng bọt trắng lạnh chảy xiết. Ông không nhìn thấy gì, đạp thắng, gió vùi dập chiếc xe, một lớp bụi rét buốt lao tới rít trên kim loại và kính xe. Chiếc xe rung lên. Và đột ngột như khi nổi lên, gió lặng và con lộ quang đãng; ông có thể nhìn thấy dặm đường dài trống trải.
Làm sao bạn biết khi nào là đủ? Cái gì bật dấu NGỪNG lên? Dòng điện nào xì xèo và tanh tác trong óc để hình thành quyết định rời bỏ một nơi? Ông đã nghe câu chuyện đáng nguyền của mụ ta và viên súc sắc đã lăn. Nhiều năm qua ông tin rằng ông đã bỏ đi mà không vì lý do chắc chắn nào và bị dằn vặt bởi điều đó. Nhưng ông đã học được từ những chương trình thiên nhiên trên truyền hình rằng đó là lúc ông tìm lãnh thổ riêng của mình và con đàn bà riêng của mình. Ngoài kia có biết bao  đàn bà! Ông đã cưới ba bốn đứa và thử rất nhiều đứa khác.

Trong tiếng vỗ phản phất của dòng suy nghĩ đang chảy đến, hình dáng trang trại bắt đàu tụ về trong tâm trí ông. Ông có thể nhớ lại những hàng rào thân thuộc ông đã dựng, dây căng và những góc tuyệt hảo, những mương rãnh và vỉa đá lộ thiên, khe nước dốc, các vách đá như bộ xương còn dính những mãng thịt dâng lên dâng lên, và dòng nước đột ngột lao vào lòng đất, biến mất trong vùng tăm tối sâu kín của loài cá mù, rồi trào ra khỏi núi cách đó mười dặm về phía tây trên đất láng giềng, nhưng để trang trại của họ thành vùng đất đỏ cằn khô như bánh quy giòn, và các hẻm núi sâu với hang động trên cao thích hợp cho lũ beo núi. Ông và Rollo đã bắn hai con hồi đầu mùa đông năm đó gần chỗ mái nhô ra có vẽ hình âm hộ. Trên đó có những hang động tốt, dưới góc nhìn của lũ beo núi.

Ông đi về phía vần vũ. Tuyết lại rơi xuống sáu mươi dặm đường cuối. Ông leo ra khỏi vùng Buffalo. Những bông tuyết nhợt nhạt bay qua, thưa thớt như những thiên hà, rồi nhiều hơn và mười phút sau ông bò hai mươi dặm một giờ, cái gạt nước kính trước thùm thụp như que củi bị kéo lê xuống thang lầu.
Ánh sáng đang nhạt dần khi ông đến đèo, rặng núi đỉnh tù chìm trong tuyết, những khúc quanh gấp trơn trượt phía trước. Ông để số nhỏ, lái chậm và điều; ông chưa quên cách lái xe trên núi mùa đông. Nhưng gió lại nổi lên, lắc và quật vào xe, xóa nhòa mọi thứ ngoại trừ tuyết vun vút, và ông toát mồ hôi lo giữ đúng trên đường, choáng ván vì độ cao. Mười hai dặm trơn trượt và vùi dập nữa trước khi ông đến Ten Sleep, nơi đèn đường rực sáng thành những vòng xoáy như mặt trời của Van Gogh. Hồi ông ra đi, nơi này chưa có điện. Dạo ấy có mười bảy dặm tối tăm không đèn giữa thị trấn và trang trại, và giờ đây hình cung dài năm tháng nén lại vào khoảng cách đó. Đèn xe của ông bắt gặp tấm bảng: CÁCH DOWN UNDER WYOMING 20 DẶM. Lũ đà điểu Úc và bò tót liếc mắt bên trên dòng chữ.
Ông rẽ vào con lộ đầy tuyết có một vết xe duy nhất, mờ nhạt nhưng còn nhận ra, máy sưởi quạt vù vù, may thu thanh lặng tiếng, quá khỏi đèn xe tất cả đều mờ mờ. Nhưng mọi thứ vẫn như xưa, hình dáng con đường quen thuộc đến nhức nhối, những tảng đá gác to lù lù như thời ông còn trẻ. Nhà Farrier bỏ trống nghiêng về hướng Đông như vẫn nghiêng từ sáu mươi năm trước gợi cảm giác mộng mị ghê rợn, vết xe ông lái theo rẽ vào cổng trại Banner, cái cổng ma quái trong tuyết nhưng lá cờ sắt rèn vẫn bay, hình hiệu trên cờ không rõ vì thời tiết làm hư hại, những hàng rào năm dây chăng thẳng và hình dáng gia súc lờ mờ di chuyển. Kế đến sẽ là con lộ dẫn đến trang trại của họ, một lối rẽ trái ngay bên đỉnh dốc. Hiện giờ ông đang chạy trên con lộ không dấu xuyên qua bóng đêm mênh mang.

Mụ nhân tình nháy Rollo rồi nói, phải, mụ đã nói, dạ phải, gã Đầu Thiếc ăn dở bữa tối rồi hắn phải chợp mắt một giấc. Một lúc sau hắn tỉnh dậy, ra ngoài vươn tay và ngáp, rồi nói, chắc tao lột da con bò đó cho xong. Nhưng con bò không có đó. Nó biến mất. Chỉ còn có lưỡi nằm trên đất đầy bụi và rơm, với chậu máu và con chó đang liếm chậu.
Điều lôi cuốn bạn là giọng mụ ta, giọng mũi trầm, dù mụ đánh và cũng không hề gì, những gì bạn nghe là tiếng cỏ khô xào xạc. Mụ có thể làm bạn ngửi thấy khói của ngọn lửa chưa cháy.

Làm sao ông không nhận ra lối rẽ vào trại? Nó quá rõ và sắc nét trong trí ông: góc quanh bụi bặm, chỗ trũng tuyết chất đống, khúc đường nơi liễu quất vào hông xe tải. Ông lái một dặm, tìm nó, nhưng không thấy lối rẽ, rồi tìm nhà hàng Bob Kitchen trên hai dặm kế tiếp, nhưng khoảng cách cứ trải dài mà không thấy gì. Ông quay đầu xe và quay lại lối cũ, vì nó không có ở đó. Quán Kitchen đã tiêu thùng trong lửa hoặc gió. Nếu ông không tìm thấy lỗi rẽ cũng chẳng mất mát gì nhiều; quay về Ten Sleep và tìm một quán trọ. Nhưng ông ghét bỏ cuộc khi đã đến gần sát nách, ghét lần mò lại nhiều dặm đường tối đen trong một đêm xấu trời khi ông có lẽ chỉ cách trang trại hai mươi phút lái xe.
Ông lái thật chậm, dõi theo vết cũ của mình, và lối vào trại hiện ra phía bên phải, mặc dù cổng đã mất và bảng tên đã hạ. Vì thế lúc này ông không thấy nó, và cũng vì bụi ngãi đắng che khuất khoảng trống.
Ông rẽ vào, cảm thấy hơi đắc thắng. Nhưng con đường dưới tuyết ngày càng lúc càng xốc hơn, đến khi ông chồm lên những phiến đá cuội và đá dựng nghiêng thì ông biết, mình đã ở không đúng chỗ.
Ông không thể quay xe trên con đường hẹp và bắt đầu rón rén lui xe, cửa kính hạ xuống, vừa vươn cái cổ cứng vừa vươn nhìn đăm đăm vào màu đỏ hắt ra từ đèn sau. Bánh sau bên phải lăn lên một hòn đá, trượt và lún vào một vũng lầy. Bánh xe xoay trong tuyết, nhưng chẳng được tích sự gì.
Tao cứ ngồi đây, ông nói lớn. Tao cứ ngồi đây cho tới khi trời sáng và lội bộ đến Banner xin một tách cà phê. Tao sẽ bị lạnh nhưng tao không chết cóng. Ông tưởng tượng, cứ như thể một trò đùa khi Bob Banner mở cửa mà nói, sao vậy, thằng Mero đây mà, vào đây uống tí cà phê java ăn bánh nóng, trước khi ông nhớ ra Bob Banner muốn làm trò đó thì phải thọ đến một trăm hai mươi tuổi. Có lẽ ông đang cách cổng của Banner khoảng ba dặm, và căn nhà trong trại Banner cách cổng thêm bảy dặm nữa. Coi như lội bộ mười dặm trên vùng cao trong bão tuyết. mặt khác ông có nữa bình xăng. Ông có thể nổ máy xe một lúc, rồi tắt đi, rồi bật lại suốt đêm. Xui xẻo, thế thôi. Bí quyết là kiên trì.
Ông ngủ gà gật nửa tiếng trong chiếc xe lắc lư vì gió, thức dậy run rẩy và bị chuột rút. Ông muốn nằm xuống. Ông nghĩ chắc ông có thể để một phiến đá phẳng dưới cái bánh xe trời đánh. Đừng bao giờ chịu chết, ông vừa nói vừa mò mẫn trên sàn xe dưới ghế bên cạnh tìm đèn pin trong túi cấp cứu của ông, rồi ông nhớ ra chiếc xe hư hại bị kéo đi, pháo sáng, điện thoại xe, thẻ AAA(4), đèn pin, diêm, nến, thỏi Power Bar và chai nước vẫn còn trong đó, và chắc đã nằm trong xe con vợ trời đánh của thằng lái xe kéo trời đánh. Dù sao ông vẫn có thể nhìn khá rõ trong ánh tuyết phản chiếu. Ông đeo găng và mặc áo khoác dày, ra ngoài và khóa xe, rón rén vòng ra phía sau, cúi xuống. Đèn sau rọi xuống tuyết dưới đuôi xe như vết máu tươi. Bánh xe xoay đào thành vết lõm lớn cỡ cái nôi. Hai ba phiến đá có thể giúp ông thoát ra, hoặc vài hòn cuội nhỏ, ông sẽ không khăng khăng tìm phiến đá hoàn hảo. Gió quật vào ông, rõ ràng tuyết đang chất đống. Ông bắt đầu lê bước trên con lộ, dùng chân dò dẫm những phiến đá ông có thể khiêng, thậm chí chiếc xe cũng rộn ràng những cử chỉ đầy hứa hẹn và giải thoát. Gió buốt và tai ông đau nhức. Mũ len của ông nằm trong cái túi cấp cứu trời đánh kia rồi.

Chúa ơi, mụ ta nói tiếp, Đầu Thiếc rụng rời khi không thấy con bò đực. Hắn nghĩ có đứa nào tới ăn cắp, một tên láng giềng không ưa hắn chẳng hạn, bọn đó rất nhiều. Hắn nhìn quanh tìm vết bánh xe hay dấu chân nhưng chẳng có gì ngoài vết chân bò đã cũ. Hắn đưa tay lên mắt nhìn chăm chú ra xa. Chẳng có gì phía bắc, phía nam, phía đông, nhưng xa tít phía tây trên sườn núi, hắn thấy vật gì đang di chuyển khó khăn và chậm, ngả nghiêng. Trông nó máu me và có một mớ ướt lủng lẳng sau mông. Ừ phải, con bò đực, không hề gây tiếng động.  Đúng lúc đó nó ngừng bước và quay lại nhìn. Qua khoảng cách xa tít đó, Đầu Thiếc có thể thịt sống trên đầu và bắp thịt vai và cái miệng trống mất lưỡi ngoác ra và cặp mắt đỏ của nó nhìn hắn trừng trừng, căm hờn vô hạn như hai mũi tên bắn về phía hắn, và hắn biết, thế là xong đời hắn, xong đời lũ con hắn và con cái của chúng, xong đời vợ hắn, và cả bộ đĩa xanh của vợ hắn cũng phải vỡ, xong đời con chó liếm máu, và căn nhà họ sống phải tốc bay đi hay cháy rụi cùng với từng con ruồi và con chuột trong đó.
Lặng yên một lúc rồi mụ ta nói thêm, thế thôi. Và hắn cũng tiêu ma trong mọi việc.
Thế thôi à? Rollo nói. Chỉ vậy thôi à?

Nhưng ông biết mình đang ở bên trang trại, ông cảm thấy nó và ông cũng biết con lộ này. Nó không phải lộ chính vào trang trại mà là một lối vào dưới thấp nào đó ông không rõ nữa cắt vào dưới lòng sông. Bây giờ ông nhớ cổng chính nằm trên con lộ ngang rẽ vào trước chỗ Banner xa. Ông tìm thấy một phiến đá tốt, một phiến nữa, tự hỏi hẻm này là hẻm nào; tấn bảng đồ trang trại trong ký ức ông giờ đây không còn sáng rõ, mà xướt xát và tẩy xóa như bị giẫm lên. Những cái cổng trong trí nhớ sụp đổ, hàng rào xiêu vẹo, trong khi những đặc điểm của vùng đất cằn cõi phồng lên đến khổng lồ. Những vách đá phình lên bầu trời, lũ beo núi gầm gừ, dòng sông ngoằn nghèo chảy xiết qua lỗ đá và những viên đá cuội trên cao đổ xuống như thác. Bên kia rào kẽm gai có gì đó cử động.
Ông chộm lấy tay cầm cổ xe. Cửa khóa. Bên trong, nhờ ánh đèn của bảng đồng hồ, ông thấy chùm chìa khóa ông đã đẻ lại lấp lánh trong ổ công tắc để giữ cho máy xe nổ. Có vẻ khôi hài. Ông dùng hai tay khiêng tảng đá lớn và đập vỡ của kính bên tài xế, một cái với tay của kẻ dẻo dai, vòng cánh tay ra sau bánh lái rồi thò xuống, và nếu ông không giữ mình mềm dẻo nhờ thể dục và bánh đậu cùng rau xanh, ông đã không thể nào với tới chùm chìa khóa. Ngón tay ông phớt qua rồi nắm lấy chùm chìa khóa, xong rồi. Người lớn và trẻ con chỉ khác nhau thế này thôi, ông nói lớn. Lúc ngón tay ông nắm chùm chìa khóa ông liếc nhìn cánh cửa bên kia. Chốt khóa dựng cao. Và cho dù phía bên đó cũng khóa, tại sao ông phải cố với chùm chìa khóa trong khi ông chỉ cần đẩy chốt khóa bên phía tài xế? Vừa chửi thề, ông vừa rút mấy tấm thảm cao su lót sàn xe và xếp chúng lên trên những phiến đá, trầy trật đi quanh chiếc xe một lần nữa. Ông choáng váng, khát và đói kinh khủng, há miệng hứng bông tuyết. Ông chưa ăn gì đã hai ngày, ngoại trừ món trứng cháy sáng hôm đó. Lúc này ông có thể ăn một tá trứng cháy.
Tuyết ào qua cửa kính vỡ. Ông để số de và từ từ đạp ga. Chiếc xe tròng trành rồi vững lại trong vết mòn và ông ngoái cổ một lần nữa, lùi xe trong ánh đèn chói đỏ, năm mét, mười mét, nhưng bánh xe trượt và quay tròn; tuyết quá nhiều. Ông đang lùi xe ngược trên dốc, lúc vào thì nom bằng phẳng, nhưng hóa ra một lô đất dài tàn nhẫn lởm chởm đá và ngậm trong tuyết. Vết xe vào của ông ngoằn ngoèo như sợi thừng. Ông dần ra thêm gần mười mét nữa, bánh xe quay tròn đến khi bốc khói, hai bánh sau lệch ngang ra ngoài con lộ và lọt vào rãnh sâu hơn nữa mét, máy xe tắt và thế là xong. Ông cảm thấy gần như nhẹ nhõm vì đã đến được điểm này, nơi móng tay định mệnh chờn vờn chờ đợi bấm đứt đời ông. Ông gạt bỏ ý nghĩ về khoảng cách mười dặm đến chô của Banner: có thể không xa đến thế, hay có thể đã đưa trang trại về gần đường cái hơn. Một chiếc xe tải có thể chạy ngang. Đôi giày trơn trượt, áo khoác cài cúc lệch, ông có thể tìm thấy Đại Khách sạn thần thoại trong bụi ngãi đắng.

Trên đường cái, vết bánh xe của ông như một dấu in nhạt nhòa trong ánh sáng màu mơ bạc của vầng trăng đang nhấp nháy sau đám bụi tuyết quay cuồng, Chiếc bóng mờ của ông hiện rõ mỗi khi gió lặng. Rồi vùng đất dữ dội hiện hình, những vách đã vươn tới tận vành trăng, tuyết tỏa mờ đồng cỏ như hơi nước, những đoạn hàng rào cắt vào bên hông trang trại trắng xóa, bụi ngãi đắng lấp lánh và dọc theo con lạch những mớ liễu rối đen búi lại như tóc rụng. Trên cánh đồng bên đường có đàn bò, hơi thở của chúng phản chiếu ánh trăng như những quả bóng ghi lời thoại trong cốt truyện tranh hài hước.
Ông bước ngược gió, giày ông đầy tuyết, cảm thấy mình dễ rách như hình nhân cắt bằng giấy. Trong lúc bước đi, ông nhận thấy một con trong đàn thú bên kia hàng rào đang sánh bước cùng ông. Ông bước chậm hơn và con thú tụt lại phía sau. Ông ngừng chân và quay lại. nó cũng ngừng, phì phò hơi nước, dò xét ông, một vệt tuyết trên lưng nó nom như dải vải. Nó bắt đầu, và trong ánh sáng lạnh lẽo đang gào thét, ông thấy mình lại sai lầm, rằng con mắt đỏ của con bò đực bị lột da dở vẫn chờ ông suốt bấy lâu nay.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 8-3-2015 19:09:51 | Chỉ xem của tác giả
Chương hai hơi dài nên sẽ được mình chia làm 4 phần, đây là phần đầu tiên. Chương hai đưa ta về miền tây hoang dã với một môn thể thao hấp dẫn nhất cho cánh mày râu: cưỡi bò.
BÙN LẦY
Tối thi đấu rodeo diễn ra trong một thị trấn nhỏ nóng bức thuộc tiểu bang Okie, Diamond Felts đang ở trong chuồng sắt hẹp rất xa vạt đất hắn gọi là nhà ở Wyoming, ngồi trên lưng con bò đực 82N, một con bò đốm da nhăn lai giống Brahma, có tên Nụ Hôn Ngắn trong chương trình biểu diễn. Khí hậu oi bức. Hắn giữ mông lệch qua một bên, hai bàn chân gác lên chấn song chuồng để con bò không thể nghiến chân hắn, gí nát hắn, để nếu có quẫy hắn có thể leo vội lên. Đã sắp đến giờ, hắn tát mạnh vào mặt mình để đưa kích thích tố lên má, liếc xuống tụi kéo dây và nói “Chắc được”. Rito, cổ bóng nhẩy mồ hôi, quàng một cái móc kim loại vào đầu dây thừng thả lỏng, khéo léo đưa nó từ dưới bụng bò vào tay hắn, leo lên chấn song và kéo chặt.
“Ái dà, còn này thứ dữ thật”, Rito nói, “Cho mày biết”.
Diamond nắm đầu dây, quấn vào tay hắn, quàng sợi thừng qua mu bàn tay lên lòng bàn tay lần thứ nhì, đan nó giữa ngón giữa và ngón và ngón áp út, những ngón tay đeo găng bôi nhựa thông đè lên sợi dây và ấn lòng bàn tay hắn. Hắn để đầu dây thừng vắt ngang con bò đực và cuộn vòng chỗ dây thừa, nhưng chưa được – mọi thứ vẫn hơi lỏng. Hắn tháo vòng quấn và bắt đầu lại, làm vòng nhỏ hơn, đợi họ kéo lần nữa, và trong đấu trường một gã hề bắn khẩu đại bác màu hồng, tiếng súng xì xèo chìm trong tiếng sâm gầm gừ từ phía nam, cơn bão sấm sét từ Texas đang kéo đến cuồn cuộn.
Các buổi biểu diễn đêm có sự giật gân sôi nổi của riêng nó, vẻ hào nhoáng, đoàn nữ cao bồi diễu hành, chân thẳng băng trong bộ ống phủ ngoài quần có tua lóng lánh đi vào sân đấu, ánh đèn pha quét qua các đấu thủ nhíu mắt và đám đông vênh váo. Lúc này họ đang ở cuối đêm diễn, trong mục cưỡi bò đực, còn một gã nữa mới đến lượt hắn. Con bò đực bên dưới hắn thở, cựa quậy dữ dội. Một bàn tay xòe ra quàng qua vai phải và áp ngực hắn, giữ hắn ngồi vững. Hắn không biết vì sao một bàn tay ghì đỡ đã làm dịu nỗi lo âu kinh niên của hắn. Nhưng trong trò này, đó là lúc hắn cần vặn chặt, để ghì hắn qua lần cưỡi.
Trong vòng đầu, hắn rút thăm đúng con bò hắn biết và đấu sát phạt với nó. Hắn xuống dốc mấy tuần, gân cốt căng thẳng, nhưng mọi việc đang thuận lợi trở lại. Hắn phóng khỏi con bò đó như bay xuống, làm bật lên vài tiếng vỗ tay ngắn; khán giả cũng như hắn biết rằng nếu hắn cháy bùng lên và ca một bảng cải lương sau tiếng còi thì cũng chẳng khác biệt gì.
Những lần sau hắn rút thăm và cưỡi mấy con bò tàm tạm, được gần tám mươi điểm, dán chặt mắt vào bả vai con bò giống Wellington tìm cách hất hắn, rồi ở lần rút thăm phụ hắn bốc trúng Nụ Hôn Ngắn, dữ dằn và dũng mãnh, to như xe goòng chở than. Lên lưng con đó bạn chỉ biết cố gắng hết sức và hy vọng gặp chút may mắn; nếu bạn gặp may thì đó là con ăn tiền.
Giọng kích động của gã xướng ngôn huyên thuyên trên sân khấu có mái che. “Nào, bà con cô bác, hổng phải bản Hiến pháp hay Tuyên ngôn Nhân quyền làm cho đất nước này vĩ đại. Mà là Chúa tạo nên núi non, đồng bằng và buổi chiều hoàng hôn rồi đem ta đến đây để ta xem. Amen, Chúa ban phúc cho lá cờ. Và bây giờ chúng ta có một ta cưỡi bò đến từ Redsled, Wyomoing, Diamond Fels hai mươi ba tuổi, có lẽ anh ta đang tự hỏi có còn được nhìn thấy cảnh đẹp đó nữa không. Thưa bà con cô bác, Diamond Fels nặng sáu mươi ký. Nụ Hôn Ngắn nặng gần một ngàn ký, nó là con bò bự thiệt bự và có thành tích 38-1, được Hội cưỡi bò Dodge City chọn hồi năm ngoái. Duy chỉ có một con bò trụ trên lưng con bò bự ghê gớm này tám giây, kẻ đó là Marty Casebolt ở Reno, và bà con biết rằng anh ta hốt bạc. Tối nay nó có để cho ai cưỡi hay không? Thưa bà con cô bác, chỉ một phút nữa chúng ta sẽ biết, ngay khi chàng cao bồi của chúng ta sẵn sàng. Và nghe tiếng mưa kìa, bà con cô bác hãy tạ ơn rằng chúng ta ngồi trong sân có mái che nếu không thì bùn lầy ngập ngụa”.
Diamond liếc ngược về phía gã bên sườn, kéo sát sợi thừng, gục gặc đầu lia lịa, “Đi,đi”.
Cửa chuồng mở toang và con bò đực bè chân xuống, bất chợt im lặng chờ, rồi thình lình vặn mình, lắc bụng và xoay tròn, nhảy cẫng, chụm vó và quay cuồng, rơi mạnh, cho hắn ăn đủ món.

Diamond Fels có một chùm nốt ruồi trên má trái, tóc đen húa cua sát da đầu, nom khá bảnh bao sau khi tắm gội va chải đầu, mặc áo sơ mi sạch và đeo khăng quàng in những ngôi sao xanh, nhưng hầu như cả đời hắn không biết điều đó. Một mét sáu, nhịp tay, nhịp chân, cắn móng tay, hắn toát ra vẻ bứt rứt. Mười tám tuổi còn trinh – không có bao nhiêu thuộc hai giới tính trong năm cuối trung học của hắn ở vào hoàn cảnh đó – những lần hắn cố thay đổi tình huống đều hỏng chuyện, và theo suy nghĩ tuyệt vọng của hắn thì sẽ luôn hỏng chuyện giữa rừng bọn con gái cao lớn. Ngoài ấy cũng có bọn đàn bà nhỏ nhắn, nhưng trong thâm tâm của hắn, hắn muốn cưỡi bọn một mét tám.
Suốt đời hắn nghe thiên hạ gọi hắn là Một Xị, Bé trai, Lùn, Nhóc tì, Chú nhỏ, Cưa nòng. Mẹ hắn không bao giờ ngừng gọi hắn như thế, luôn sẵn sàng châm chích, ngay cả lúc bà lên hành lang trên gác và bắt gặp hắn trần truồng từ phòng tắm bước ra; bà nói, “À, ít ra thì mầy không đến nỗi cụt phần đó, phải không?”
Mùa xuân năm cuối trung học, hắn gõ ngón tay lên cái xe tải nhỏ của Wallace Winter, vừa nghe thằng chỗ xe cổ ngỗng tán phét vừa cố cười, lúc đó một thằng ngốc bước tới – bọn chúng chỉ biết nó tên là Leecil, xin Chúa cứu rỗi đứa nào nói Lucille – nó nói, “Đứa nào muốn làm việc cuối tuần này? Ông già đang đóng dấu bò và thiếu tay. Mà hổng ai muốn làm”. Nó nhấp nháy cặp mắt cỡ đồng xu. Khuôn mặt đần độn của nó nhăn nhúm đầy mụn đỏ bầm và giữa những chỗ sưng tấy mọc vài sợi ria vàng hoe. Diamond chẳng biết làm sao nó cạo râu mà không chảy máu tới chết. Mùi gia súc nồng nặc.
“Ổng đúng là chọn lầm cuối tuần rồi”, Wallace nói, “Bóng rổ, tiệc tùng, chơi gái, nhậu nhẹt, hút xách, đụng xe, cớm, ngộ độc thức ăn, đánh lộn, ba má lên cơn. Mày không nói cho ổng biết hả?”
“Ổng không hỏi tao. Biểu tao kiếm mấy đứa. À bây giờ thời tiết tốt. Cả tháng toàn bão và cuối tuần.” Leecil phun nước bọt.
Wallace giả vờ nghiêm trang cân nhắc. “Bỏ chơi cuối tuần thì chắc tụi tao được trả tiền đây”. Nó nháy Diamond, hắn nhăn mặt ra hiệu cho nó biết Leecil không phải là đứa để giỡn mặt.
“Ừ, tụi mầy mỗi đứa sáu đồng. Tao và anh em tao làm không công cho trang trại. À, tụi tao nghỉ khoảng giờ ăn tối, vì vậy tụi mầy vẫn chơi bời chuyện tụi mầy được. Tiệc tùng hay gì đó”. Hắn chẳng đi phá làng phá xóm gì.
“Tao chưa bao giờ làm nông trại hết, Diamond nói. “Má tao lớn lên ở nông trại, bả ghét nó lắm. Chỉ đưa tao đến đó một lần và tao đánh cuộc là chưa tới một tiếng”, hắn nhớ đến bãi bùn đầy móng chân bò, ông ngoại hắn quay đi, một Bác John vạm vỡ, đẫm mồ hôi, mặc ống phủ ngoài quần và đội chiếc mũ bẩn thỉu, đánh vào mông hắn và nói điều gì đó với mẹ hắn khiến bà nổi cáu.
“Hổng sao. Việc thôi mà. Dồn lũ bê vào chuồng hẹp, đóng dấu, sửa sang, chích ngừa, rồi thả ra”.
“Sửa sang”.
Leecil làm một cử chỉ ở đũng quần.
“Có thể thú vị một cách rất quái đản lắm à nhe”, Wallace nói. “Tap sẽ có cách làm nó thú vị một cách quái đản”.
“Tụi bay đừng diện thẳng thớm gì quá, phải nằm xuống bùn đó”. Leecil nghiêm trang nói.
“Không”, Wallace nói. “ Tao không diện. Ừ, tao làm. Mẹ kiếp”.
Diamond gật đầu.
Leecil  nhe hàm răng hoàn hảo. “Biết chỗ tụi tao ở không? Có một đống ngõ quẹo khác nhau. Tụi mầy đi như vầy”, và nó vẽ tấm bản đồ phức tạp sau lưng bài kiểm tra đánh chữ F đỏ. Điều đó giải được một câu đố: họ của Leecil là Bewd. Wallace nhìn Diamond. Bộ tộc Bewd rải rác từ Phaska tới Pine Bluffs và chiếm địa vị cao trong ngôi đền những đứa phá rối tại địa phương.
“Bảy giờ sáng”, Leecil nói.
Diamond lật tấm bản đồ lại và xem bài kiểm tra. Những con dấu đóng gia súc được tỉ mỉ vẽ bằng bút chì nhọn điền vào chỗ dành cho câu trả lời khiến cho tờ giấy có một thứ uy quyền thiển cận,

Thời tiết tốt trôi phăng. Ngày cuối tuần là một thứ hổ lốn gió mây u ám, chói tai vì la rống, thú vật bết phân, bùn lầy, bụi đất, khuân vát, chích kim, mùi lông cháy hôi hám mà hắn nghĩ sẽ bám mãi trong mũi hắn. Hai thằng học trò gãi đũng quần cũng có mặt; Diamond trước kia đã gặp họ đây đó, nhưng hắn không biết họ và nghĩ họ vô dụng, chả vì lý do gì mà vì họ nói năng ú ớ và sống nhờ những nông trại tồi tàn; bọn bạn bè của Leecil. Como Bewd, một ông tóc hoa râm đeo đai lưng, đứng chỉ trỏ trong lúc Leecil và lũ em nó lùa lũ bê từ đồng cỏ vào bẫy quay thú, đến chuồng trạm, rồi đến chuồng đóng dấu và con dấu điện nóng đỏ, đến bàn cắt nơi gã nhân công Lovis.
Diamond cứ liếc nhìn Como Bwed. Trán ông có một hàng sẹo ngoằn nghèo như sợi kẽm gai trắng. Ông ta bắt gặp cái nhìn của nó và nháy mắt.
“Nhìn huân chương của tao hả? Ông anh tao cán xe tải qua tao hồi tao bằng tuổi mầy. Lột da từ tai tới đây. Cào nát bươm. Tao được gắn huy chương”.
Họ xong việc lú chiều tối chủ nhật và Como Bewd đếm tiền trả chúng một cách chậm rãi và cẩn thận, cho thêm năm đô la vào mỗi đống, nói chúng làm khá tốt, rồi bảo Leecil, “Thế nào?”
“Tụi mày có muốn chơi không?” Leecil Bewd hỏi Diamond và Wallce. Bọn kia đã đi về phía bãi rào nhỏ khá xa đó.
“Chơi cái gì?”, Wallce nói.
Diamond chợt nghĩ có một bà trong bãi rào thú.
“Cưỡi bò. Ba tao có mấy con bò đực khá. Lớp học cưỡi bò của bọn tao mới mở tháng trước. Có một con khó lòng mà cưỡi nỗi”.
“Để tao coi”, Wallce nói bằng giọng châm biếm khóe miệng của hắn.
Diamond xem lớp học xem lớp học cưỡi bò là phương kế cuối cùng của tụi đầu bê tông không hiểu nổi cách cầm trái bóng rổ. Hắn học hết lớp võ và đấu vật đến khi người ta dẹp cả hai lớp như chuyện phù phiếm. “Ôi dào”, hắn nói, “Bò đực. Tao hổng khoái”.
Leecil Bewd chạy đến bãi rào thú trước. Chuồng bên cạnh có ba con bò đực, hai con đang lấy chân bới đất. Trước chuồng là một chuồng hẹp mở cửa hông ra bãi rào thú. Một trong mấy đứa gãi đũng quần ở trong sân đấu đang nhảy nhót, sẵn sàng đóng vai kẻ đấu bò để nhử con bò đực ra xa một gã cưỡi bò bị hất văng.
Diamond thấy lũ bò đực đầy sát khí và hoang dại, thậm chí bọn làm công nông trại cũng không cưỡi nổi chúng, Lovis bị cạ xây xát vào hàng rào; cha của Leecil bị hất văng trong ba giây, ngã ngồi xuống đất, đai lưng xốc lên ngực.
“Thử coi”, Leecil vừa nói vừa nhổ nước bọt, miệng nó chảy máu vì một cú dập mặt.
“A, tao thì miễn”, Wallce nói, “Đời tao còn dài”.
“Ừ”, Diamond nói, “Ừ, chắc tao thử một cú”.
“Khá, khá”, Como Bewd nói và đưa nó chiếc găng trái bôi nhựa thông. “Có bao giờ cữa bò chưa?”
“Dạ chưa”, Diamond nói, chưa giày ủng chưa đinh thúc ngựa, chưa quần ống phủ ngoài, áo thun và đầu trần. Ông già thằng Leecil bảo hắn giơ tay kia lên, đừng để đụng con bò hay thân mình, đưa vai tới trước và cúi cằm xuống, giữ chặt bằng hai bàn chân cùng bộ giò và bàn tay trái của nó, và nhất là đừng suy nghĩ, và khi hắn bị hất văng, bất kể què gãy cái gì thì vẫn phải đứng dậy ngay và chạy trối chết tới hàng rào. Ông giúp hắn làm vòng quấn, nhẹ nhàng ngồi lên con thú, nói, hất cái mặt của mầy rồi dông ra ngoài đó, và gã Lovis lấm tấm máu, cười nhăn nhở mở cửa chuồng, đợi xem thằng nhóc tỉnh lẻ bị ném văng và ngã chỏng gọng.
Nhưng hắn giữ cho đến khi có đứa đếm được tám và dùng ống sắt dài gõ vào chấn song để báo giờ. Hắn bay ra, đáp trên hai chân, lảo đảo về phía trước nhưng không ngã, lao về hàng rào. Hắn tự leo lên, thở hổn hển vì gắng sức và phấn khích cực độ. Hắn đã bắn ra khỏi nòng đại bác. Sốc vì cử đọng hung bạo, thăng bằng thay đổi chớp nhoáng, cảm giác uy quyền như thể hắn là con bò đực chứ không phải người cưỡi, ngay cả nỗi sự hãi, đều có đó; tất cả đáp ứng nỗi khát khao ham muốn bạo lực nào đó mà hắn chưa từng biết. Kinh nghiệm phấn chấn và trực tiếp khôn lường.
“Mày biết không”, Como Bwed nói, “Mày làm thằng cưỡi bò được đó”.

Bình luận

Mình nhận đăng tiếp truyện này theo lời kêu gọi của mod, nếu qua mùng 10 bạn vẫn k onl thì mình đăng tiếp nhé  Đăng lúc 5-6-2016 07:38 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
Đăng lúc 13-5-2016 22:26:36 | Chỉ xem của tác giả
THÔNG BÁO


Xin chào bạn!

Trước tiên, cám ơn sự đóng góp của bạn dành cho box.

Hiện nay, box đang tiến hành sắp xếp lại để gọn gàng hơn.

Trong quá trình sắp xếp, bọn mình thấy bạn đã ngừng thread hơn 2 tháng và không có bất cứ thông báo nào đến độc giả.

Vậy nên 5 ngày sau thông báo này, nếu vẫn không có chương mới, bọn mình sẽ tiến hành các biện pháp xử lý thích hợp.

Mong bạn hiểu và thông cảm!

Thân mến!

Mod
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
Đăng lúc 25-6-2016 13:12:20 | Chỉ xem của tác giả
Bùn lầy (tt)



Redsled nằm trên triền phía Tây của đường phân nước, địa thế nứt nẻ với những suối nước nóng hấp dẫn du khách, bọn lái xe đi tuyết, bọn trượt tueyets, bọn nhân công trang trại đắt việc và bụi bặm, bọn chủ ngân hàng lái mô tô cho năm chụ đo tiền trà nước. Đó là lợi điểm của Redsled, mùi lưu huỳnh hôi nồng nặc và cái nóng ẩm ướt khiến hắn khật khừ đến khi chịu hết nổi, chạy ra sông và ngã vào dòng nước đục, tim đập thình thịch.

"Mình nhào xuống suối đi," hắn nói trên đường về, chất kích thích vẫn còn sóng sánh, cần thêm cái gì nữa.

"Thôi," Wallace nói, lời nói đầu tiên của hắn sau một giờ đồng hồ, "tao có việc phải làm."

"Vậy thì thả tao xuống rồi về," hắn nói.

Trong dòng nước hung bạo, dựa vào những tảng đá trơn trượt, hắn diễn lại cuộc cưỡi bò, diễn lại cái cảm giác đời hắn lớn lên gấp đôi. Cặp chân nhợt nhạt của hắn chập chờn dưới nước, những hạt không khí bằng đầu kim treo trên mỗi sợi lông. Nỗi phấn chấn như máu chảy trong thân, hắn cười, nhớ trước đó hắn đã cưỡi một con bò đực. Hắn năm tuổi, và họ đi đến một nơi nào đó, hắn và mẹ hắn và cha hắn, hồi xa xưa ấy ông vẫn còn là cha hắn, những buổi chiều họ dắt hắn đến một hội chợ huyện có vòng xoay lớn, thứ đã khiến hắn nôn mửa, không vì nhìn phía sau bầy ngựa bằng sợi thuỷ tinh có cặp mông vểnh và cái lỗ quái gở cắm cái đuôi nylon trước khi bị bọn phá hoại giật mất, mà vì con bò đực nhỏ đen bóng, con bò đực duy nhất giữa bầy ngựa hư hỏng, đuôi còn nguyên vẹn, bộ yên đỏ và đôi mắt cười, đốm mắt sáng được vẽ bằng một vệt sơn trắng. Cha nhấc hắn lên con bò và đứng quàng tay qua vai hắn, giữu hắn vững trong khi con bò đực nhấp nhô và nhạc chơi nước kiệu.

Sáng thứ Hai trên xe buýt của trường hắn tìm đến thằng Leecil đang ngồi phía sau với một trong mấy đứa gãi đũng quần. Leecil khoanh ngón cái và ngón trỏ thành vòng tròn, nháy mắt.

"Tao có chuyện muốn nói với mày. Tao muốn biết làm sao vô nghề. Cưỡi bò, Rodeo."

"Đừng tưởng bở, một thằng gãi đũng quần nói,"Lộn tùng phèo cú đầu tiên là mày sẽ réo má mày cho coi."

"Không đâu," Leecil nói, rồi bảo Diamond, "Chắc chắn hổng phải trò chơi đâu. Đừng kiếm chuyện chơi bời, mày sẽ te tua đấy."

Hoá ra đó là một trò chơi và hắn đúng là te tua.

Mẹ hắn, Kaylee Felts, quản lý một cửa hiệu bán hàng cho khách du lịch, một trong loạt cửa hiệu có trụ sở chính ở Denver: CAO NGUYÊN MIỀN TÂY - Hàng cao bồi kiểu cổ, Đồ cổ miền Tây, Đinh thúc ngựa, Đồ sưu tầm.Diamond đã từng giúp mở thùng hàng, phủi bụi tủ bày hàng, chùi những bộ đinh thúc ngựa cứng cáp bằng bàn chải sắt từ hồi hắn mười hai tuổi, và bà bảo công ty có thể có chỗ cho hắn sau khi xong cao đẳng, tại một hiệu khác nếu hắn muốn biết đó biết đây. Hắn nghĩ hắn thích như thế, nhưng khi hắn cho bà biết hắn sẽ đi học cưỡi bò ở California, bà nổi sùng.

"Không. Không được. Mày phải học cao đẳng. Cái gì vậy, trò trẻ con mày giấy tới bây giờ à? Tao làm việc như con ngốc để nuôi tụi mày lớn lên trong trhij trấn, lôi mày ra khỏi bùn, cho mày cơ hội tự sống cho ra hồn. Mày định vứt hết cả mọi thứ để làm thằng cưỡi bò vô tích sự hả? Chúa ơi, mày bất chấp những gì tao cố làm cho mày, mày đập vào mặt tao."

"Ôi dào, con sẽ redo," hắn đáp, "con sẽ cưỡi bò."

"Đồ quỷ ranh con," bà nói, "tao biết mày làm thế để trêu tức tao. Mày thật đáng ghét. Mày đừng hòng mong tao ủng hộ trong vụ này."

"Chẳng sao," hắn nói, "con không cần."

"Ồ, mày cần chứ" bà nói, "Mày cần lắm chứ. Mày không hiểu à, rodeo là trò dành cho mấy thằng nhà quê không có cơ hội tốt như mày. Bọn ngốc nhất là bọn cưỡi bò. Tuần nào tụi tao cũng gặp bọn nó ở cửa hàng gạ bán cho tụi tao mấy cái khoá thắt lưng sát đít nồi hay mấy cái quần ống dơ bẩn của bọn nó."

"Cứ làm" hắn nói. Không thể giải thích nổi.

"Tao không chặn xe hoả lại được," bà nói. "Lùn à, từ trước đến nay mày thật khó chịu quá sức. Ngay từ đầu đã là tai hoạ rồi. Mày trồng cây nào thì ăn quả nấy. Tao nói thật. Mày có thói cứng đầu cứng cổ," bà nói, "như ổng. Mày giống y như ổng, nói vậy không hay ho gì đâu."

Câm mẹ cái miệng lại, hắn nghĩ, nhưng không nói ra. Hắn muốn bảo và đừng lôi những lời dối trá đó ra nữa. hắn không giống ông ấy, và không bao giờ có thể giống.

"Đừng gọi con là Lùn," hắn nói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
Đăng lúc 29-6-2016 21:46:52 | Chỉ xem của tác giả
Bùn lầy (tt)


Trong trường dạy cưỡi bò bên California hắn cưỡi bốn mươi con một tuần, đổ tiền mua một thùng băng thể thao, xem video đến khi ngủ ngồi. Giọng mũi không biết mệt mỏi của gã huấn luyện viên kêu gọi, cố lên, đừng bao giờ nghĩ mày sẽ thua, đừng nản, tìm điểm thăng bằng của mày, một khi mày đã kiệt sức, lấy hơi lại ngay, đừng bao giờ bỏ cuộc.

Trở về Wyoming hắn tìm được một phòng ở Cheyenne, một việc làm tạp nhạp, mua giấy phép và bắt đầu vào Vòng đấu Miền Núi. Trong một tháng hắn lấy được thẻ Hội đấu bò nhà nghề và nghĩ mình đang lên hương. có đứa nói đó là cái may mắn của thằng mới vào nghề. Hắn gặp Leecil Bewd trong hầu hết các trận thi đấu, nhậu say với nó hai lần, và sau một thời gian một mình lái xe thâu đêm, luôn túng quẫn, năm rộng tháng dài và thiếu tiền, chúng móc vào nhau và cùng đi chung, cùng xóc nảy trên đường, cùng cưỡi những con bò đực từ buổi diễn này sang buổi diễn khác, cùng ăn bụi đường. Trong suy nghĩ rối ren của hắn, hắn chọn cuộc sống gian khổ bầm dập này để đấu tranh cho chiến thắng và tạ lỗi khi thắng cuộc, nhưng khi leo lên con bò, tận đáy lòng hắn loé lên một ánh chớp mơ hồ, một cảm giác về hiện thực lừng lẫy.

PRCA: Professional Redo Cowboys Association.

Leecil lái chiếc xe tải nhỏ hiệu Chevronlet cũ ba chục năm, sườn xe cong, vá chằng vá đụp, dây điện mắc lại, máy làm lại, ống bỏ mới, một chiếc xe cứng đầu chạy tạt về bên phải.  Nó hỏng máy vào nhưng lúc khốn khó và quan trọng. Một lần đang nhấn ga đi Colorado Springs, nó bỏ cuôc cách đó bốn mươi dặn. Tụi nó chúi đầu dưới nắp xe.

"Khỉ thật, tao ghét phải mò mẫm trong đám dây dợ dầu mỡ khốn khiếp  này, tao mù tịt. Sao mày không biết chút gì về xe cộ hả?"

"Hên thôi."

Một chiếc xe tải dừng lại sau xe họ, gã ném thòng lọng bê tên Sweets Musgrove ngồi trên ghế cạnh tài xế, con vợ tóc đuôi ngựa tên Neve lái xe. Sweets xuống xe. Gã bế một đứa bé mặc quần yếm màu hồng.

"Trục trặc hả?"

"Không biết có trục trặc hay không. Cả hai thằng đều dốt, nếu có điềm lành cũng hổng biết."

"Tao làm chuyện này lãnh lương," Musgrove vừa nói vừa bế nguyên đứa bé mà cúi dưới nắp xe, lôi lôi mấy sợi dây điện trong lòng xe. "Sống bằng nghề rodeo đâqu có nổi phải không em bé?" Neve thả bước đến, quẹt que diêm lên đế ủng và đốt điếu thuốc, dựa vào Musgrove.

"Mày cần dao không?" Leecil nói. "Cắt cái đám tạp nhạp đó hả?"

"Mày làm bẩn đứa nhỏ kìa" Diamond nói, hy vọng Neve sẽ bế nó.

"Tao thà có một con bé dính dầu mỡ còn hơn một em bé cô đơn, ư ư ư?" hắn nói vào cái cổ bụ bẫm của đứa bé. "Bây giờ thử nổ máy coi." Máy không nổ và không còn thì giờ để phí phạm vớ vẩn với nó.

"Không thể nhét cả hai đứa mày vào xe với tụi tao, với lại con ngựa cái của tao hổng thích chung toa kéo với ai. Nhưng lo đếch gì, vì có một bọn sắp tới. Có thằng sẽ chở tụi mày. tụi mày sẽ tới nơi." Gã nhét miếng bảo vệ răng - hồng, cam và tím - lên miệng và nhăn nhở cười với đứa bé đáng yêu của gã.

Bốn thằng cưỡi bò với hai con nhỏ ưỡn ẹo trong chiếc xe mui trần nhặt họ lên, và một trong hai con ép sát vào Diamond từ vai tới mắt cá chân suốt quãng đường. Hắn vào đấu trường trong tâm trạng rõ ràng muốn cưỡi nhưng không phải cưỡi bò.


--
huhu, gõ mỏi cả tay T.T
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
Đăng lúc 3-7-2016 03:32:45 | Chỉ xem của tác giả

Bùn lầy (tt)


Công việc ổn thoả được một năm thì Leecil bỏ nghề. Chiều hôm đó nóng cháy và bẩn thỉu trong một hội chợ ở Colorado, phòng tắm khô khốc. Leecil xịt vòi nước ở trạm xăng lên đầu cổ nó, quay kính cửa sổ xuống để lái xe, gió hanh lập tức hút hết hơi ẩm. Bầu trời xanh độc địa nóng hừng hực.

"Nhảy hai cú, té đúng lúc để bị bò đạp. Trời ơi, nó làm thịt tao. Lại hết tiền. Bữa nay chắc tao hổng đeo đủ đạn trong quần để cưỡi đồ rác rưởi đó. Người ta nói sao, hổng đáng công. Tao quyết định ngay giữa lúc ngã lăn lóc dưới đất. Tao hay nghĩ tao muốn rodeo hơn bất cứ cái gì," Leecil nói, "nhưng khỉ thật, tao phải nói là toa ghét rodeo, di chuyển, xe cộ và quán trọ hôi hám, đủ thứ chuyện. Chán bầm dập hoài rồi. Tao hổng có cái mày có, cái tác phong, cái cần-đếch-gì-tao-tung-hê-hết của mày. Tao nhớ trang trại quá. Tao nghĩ tới ông già. Ổng bị bệnh gì đó, hổng đi đái cho ngon lành được, ổng nói với thằng em tao là trong cứt ổng có máu. Người ta đang thử coi sao. Rồi còn Retana nữa. Tao muốn nói là toa bỏ rơi mày. À nè, đoán coi, tao sắp lấy vợ." Bóng chiếc xe tải chập chờn phóng dọc theo một bờ kinh.

"Mày nói gì? Mày làm con Renât có bầu hả?" Mọi thứ đang lao nhanh.

"À, ừ. Không sao đâu."

"Đồ khốn, Leecil. Từ nay hết vui." Hắn ngạc  nhiên là điều đó đúng. Hắn biết mình không có khiếu trong tình bạn hay tình cảm, lạnh lùng với tình yêu, dù sau đó khi hắn đã mến ai, tình cảm đó đến như một lưỡi rìu và hắn bị làm thịt.  "" Chưa hề có con nhỏ nào dính với tao hơn hai giờ. Tao không biết sau hai giờ đó thì mày làm sao," hắn nói.

Leecil nhìn hắn.



Hắn gửi cho Pearl, em trai hắn, tấm bưu thiếp hình con bò vàng khổng lồ đang tấn công, mũi dãi chảy lòng thòng, nhưng không gọi điện thoại. Sai khi Leecil b ỏ nghề, hắn dọn qua Texas nơi có thi đấu mỗi đêm cho bọn lái xe ào ào, đỏ mắt vì nhìn đăm đăm vào những đốm đèn xe hàng dặm đường xxa lúc tối lúc sáng trên con lộ cứ mở ra rồi lại mất hút.

Năm thứ nhì, hắn hơi được chú ý và kiếm ra tiền cho đến vài hôm trước cuối tuần lễ Độc lập. Sau kh cưỡi khá ổn, hắn nhảy ra và chân đáp mạnh xuống, đầu gối bên giả gập cong lại, xé rách gân và vỡ sụn. Hắn là đứa mau lành nhưng phải nghỉ suốt mùa hè. Khi hắn bỏ cây nạng, chán chường và khập khiễn chống gậy đi quanh, hắn nghĩ đến Redsled. Bác sĩ nói suối nước nóng có thể tốt. Hắn đi nhờ một chuyến xe đêm với Tee Dove, gã Texas cưỡi bò, chiếc xe lớn phóng nhanh dưới chân đồi tối, quáng mắt vì ánh ban mai đã lên một giờ sau vách đá, trao đổi không hơn một chục lời.

"Trò nhức xương," Tee Dove nói và Diamond gật đầu, nghĩ gã muốn nói đến những thương tích.

Lần đầu tiên trong hai năm hắn ngồi bên bàn của mẹ hắn. Bà nói, "Xin Chúa ban ơn cho thức ăn này, amen, ồ, tao biết có ngày mày sẽ trở về mà. Nhìn mày kìa. Cứ nhìn mày kìa," bà nói. "Thấy gớm. Tao chắc mày hết tiền rồi." Bà diện đẹp, tóc bà dài và sọc vàng óng, gợn sóng như sợi mì Tàu, mí mắt xanh lóng lánh.

Diamond xoà các ngón tay, lật qua lật lại hai bàn tay kỳ cọ cẩn thận của hắn, những bàn tay rắn chắc có những đốt bị cắt và những vết sẹo nhỏ, hai móng tím đen và bật móng.

"Tay sạch. Và con không hết tiền. Có xin tiền má đâu?"

"Ồ, ăn xà lách đi," bà nói. Họ lặng lẽ ăn, nĩa lách cách giữ những miếng đưa chuột và cà chua. Hắn không thích ăn dưa chuột. Bà đứng lên, đặt những chiêucs đĩa nhỏ viền vàng loảng xoảng lên bàn, amng cái bánh ngọt vị chanh mua ở siêu thị, dùng con dao bac cắt bánh.

"Hoan hô," Diamon nói, "bánh nước dãi bê."

Pearl, thằng em mười tuổi của hắn, bật ra một tiếng ngắn.

Bà ngưng cắt bánh và nhìn hắn trừng trừng. "Ở với bọn vô lại redeo mày tha hồ nói bậy, nhưng khi ở nhà thì mày giữ miệng cho đứng đắn."

Hắn nhìn bà, bắt gặp lời chửi mắng lạnh lùng, "Con không ăn cái bánh đó."

"Tao nghĩ sau hình ảnh khó quên đó thì sẽ không ai ăn nữa. Chắc mày muốn uống cà phê." Dạo hắn còn ở nhà, bà cấm, bảo cà phê làm hắn không lớn được. Giờ đây có thứ bột này trong lọ.

"Ờ." Chăng nên đụng chạm nhiều trong buổi tối đầu tiên ở nhà, nhưng hắn cần một tách cà phê thật đậm, muốn ném cái bánh khốn khiếp lên trần nhà.

Rồi bà ra đi, dự một buổi hội họp miền Tây vớ vẩn nào đó ở khách sạn Redsled, để bát đĩa cho hắn rửa. Như thể hắn chưa bao giờ rời nhà.

************

Sáng hôm sau hắn xuống trễ. Pearl dang ngồi ở bàn bếp đọc truyện tranh. Nó mặc cái áo thun Diamond gửi cho. Trên áo có chữ Hiến máu, Cưỡi bò. Cái áo quá nhỏ.

"Má ra cửa hàng. Má nói anh nên ăn ngũ cốc, đừng ăn trứng. Trứng có chất béo làm xơ động mạch. em thấy anh trên truyền hình một lần. Em thấy anh bị hất văng."

Diamond lấy bơ rán hai quả trứng và ăn luôn trong chảo, rồi rán hai quả nữa. Hắn tìm cà phê nhưng chỉ có lọ bột cà phê uống liền.

"Khi nào mười tám tuổi em sẽ mua khoá thắt lưng giống cái của anh," Pearl nói, "và em sẽ không bị hắt văng vì em sẽ giữ chặt tới chết. Như vầy nè." Và nó nắm chặt tay đến nỗi đốt ngón tay trắng bệch.

"Cái khoá thắt lưng này hổng đáng sợ. Mong là em mua được cái ngon lành."
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
Đăng lúc 8-7-2016 00:17:24 | Chỉ xem của tác giả
Bùn lầy (tt)



"Em sẽ mách má là anh nói 'hổng'".

"Chúa ơi, người ta ai cũng nói vậy hết. Ngoại trừ ông già ba bị ném thòng lọng bỏ. Anh có thể uốn tóc cho em. Anh hổng nói dóc. Em muốn ăn trứng không?"

"Em ghét trứng. Trứng không tốt cho anh. Hổng tốt cho anh. Ông già ba bị nói thế nào? Ông ấy nói 'bánh nước dãi bể không?'"

"Em nghĩ coi tại sao má mua trứng nếu không ai được ăn? Ông già ba bị sùng đạo. Cầu nguyện linh tinh thập cẩm. Lúc nào cũng đọc mấy tờ truyền đơn về Jesus. Thật ra hắn chưa già. Hắn hổng già hơn anh. Hắn trẻ hơn anh. Hăn chẳng bao giờ nói 'hổng'. Hắn không nói 'cứt' hay 'đếch' hay 'đéo' hay 'cu' hay 'tiên sư'. Hắn nói 'Chúa nhân từ' những lúc hắn bực mình hay bị nện vào thái dương."

Pearl cười sặc sụa, phấn khích vì những chữ cấm kỹ và văn phạm hạ cấp nói ra trong bếp của mẹ chúng nó. Nó nghĩ sẽ thấy gạch lát sàn rộp lên và bốc khói.

"Trò rodeo đầy tụi cuồng tín theo Jesus. Và bọn anh em sinh đôi, sinh ba. Đủ laoij anh em chú bác bên Texa. Có mấy thằng lập dị thấy mẹ. Lắm lúc giống như sô ảo thuật, đủ loại cầu nguyện, bùa phép, thánh giá, bùa hộ mạng và mê tín dị đoan. ai làm điều gì hay, cưỡi được, ấy không phải tự họ mà là nhờ mối liên hệ với quyền lực bí ẩn đã giúp họ. Mấy thằng từ khắp nơi, Braxin, Canada, Úc, nhúng nước, khom lưng, cúi đầu, làm dấu." Hắn ngáp, bắt đầu xoa bên đầu gối đau, nghĩ tới nước lưu huỳnh ngập đến cằm và bầu trời xanh trên đầu. "Sao, em sẽ giữ chặt và không bị hất văng à?"

"Ừ. Thật chặt."

"Anh phải nhớ để thử xem sao," Diamond nói.



*******************


Hắn gọi trang trại Bewd để hỏi thăm Leecil nhưng điện thoại ở đó bị cắt. Thông tin cho hắn một số ở Gillette. Hắn thấy lạ nhưng cứ gọi suốt ngày. Không ai trả lời. Khuya hôm đó hắn lại thử gọi và gặp giọng càu nhàu ngái ngủ của Leecil.

"Ê, sao mày không ở ngoài trại? Sao số điện thoại của trại bị cắt?" Hắn đoán chuyện chẳng lành trước khi Leecil nói câu nào.

"À, tao cho mày biết, không suôn sẻ. Lúc ba tao chết họ định giá trang trại, nói tụi tao phải trả hai triệu đô la thuế di sản. Hai triệu đô la? Đồ ăn cướp cơm chim. Cái bô đi đái tụi tao còn chưa có thì lấy đâu ra số tiền đó cho miếng đất của chính mình, cái chỗ hổng ra gì hồi ba tao khởi nghiệp? Mày biết giá thịt bò bao nhiêu không? Một đô la một ký. Tụi tao bàn đi tính lại. Rốt cuộc tụi tao phải bán. Phát ốm vì nó, đồ chết tiệt, toa đỏ cả đít. Tao lên đây làm thợ mỏ. Nói mày nghe, xứ này có gì đó không ổn."

"Chơi bẩn."

"Ừ, đúng. Từ hồi tao về toàn là trò bẩn. Đéo mẹ nhà nước."

"Nhưng mày phải có một mớ tiền bán trang trại."

"Tao đưa phần của tao cho mấy đứa em. Tụi nó lên B,C (1) tìm trang trại. Đổ hết tiền vào mua trại, mua gia súc. Tao đang định lên đó với tụi nó. Wyomin rõ ràng hất cẳng tụi tao rồi. Ê, mày cưỡi bò có khá không? Thỉnh thoảng toa nghĩ có thể tao quay lại, nhưng tao bỏ ý đó ngay."

"Tao cũng tàm tạm cho tới khi tao hư đầu gối. Còn con mày thì sao, gái hay trai? Tao chưa hề nghe. Mày không phát xì gà."

"Mày đúng là hỏi mấy câu nhức nhối. Chuyện đó hoá ra cũng không ổn, lúc này tao hổng muốn nhắc tới. Tao làm mấy điều đáng ân hận. Tóm tắt chuyện của tao như vậy, đi đám tang, bệnh viện, ra toà ly dị và ký giấy bất động sản. Cuối tuần này mày lên đây, nhậu xỉn chứ? Sinh nhật tao. Sắp hai mươi bốn mà tao cảm thấy như đã kéo tới năm chục rồi."

"Ồ, tao không đi được. Đầu gối tao bết tới nỗi tao không lái xe được. Tao sẽ gọi mày, tao sẽ gọi mày."

Tới gần thằng Leecil có thể xui tận mạng.


**************

Tối thứ Năm, vừa nhét lườn gà vào lò vi sóng, bà vừa giục Pearl lấy muỗng nĩa. Bà trộn bột khoai tay khô với nước nóng, đặt thức ăn lên bàn và ngồi xuống, nhìn Diamond.

"Tao ngửi thấy mùi lưu huỳnh," bà nói. "Mày không tắm lại sau khi ngâm suối à?"

"Lần này thì không," hắn nói.

"Mày hôi rình." Bà giũ khăn ăn ra.

"Thằng cao bồi rodeo nào cũng có chút mùi riêng."

"Cao bồi à? Mày là đồ giả chứ cao bồi gì. Ông nội tao là chủ trang trại, ổng thuê cao bồi hay tụi có tiếng là cao bồi. Ba tao bỏ nghề để đi bán gia súc, ổng thuê tụi làm công trong trại. Anh tao chỉ là thứ đồ chỉ để. Không ai là cao bồi hết, nhưng ngay cả bọn họ cũng đều cao bồi hơn một thằng cưỡi bò rodeo. Sau bữa ăn tối," bà vừa bảo Diamond, vùa đẩy đĩa lườn gà nhợt nhạt về phía hắn,"sau bữa ăn tối, tao có chuyện muốn cho mày thấy. Đi một quãng ngắn thôi."

"Con đi được không?" Pearl nói.

"Không. Đây là chuyện tao muốn cho anh mày thấy. Cứ xem tivi. Một giờ nữa tao về."

"Chuyện gì vậy," Diamond nói, nhớ tới vệt đen trên đường bà đã dắt hắn đến nhiều năm trước. Bà đã chỉ trỏ, nói, hắn đã không nhìn cả hai bên. Hắn biết chuyện này cũng sẽ tương tự. Miếng lườn gà trên đĩa của hắn giống như cái cánh căng phồng nước. Đáng lẽ hắn không nên trở về.


**************


Bà lái qua những con đường xấu, ngang đống sắt vụn và nhà máy đất sét thấm nước, rồi băng qua đường ray xe lửa ở rìa thị trấn, nơi con đường biến thành đường đất gồ ghề cắt qua cánh đồng cỏ. Bên phải, dưới ánh hoàng hôn vàng vọt, có vài toà nhà bằng tôn thấp. Các ô cửa sổ phản chiếu ánh trời chiều mật rạng rỡ.

"Chung quanh không có ai," Diamon nói, hắn lại là đứa bé ngồi trên ghế bên cạnh tài xế trong lúc mẹ chở hắn đi đây đó.

"Chuồng ngựa Bar J. Đừng lo, ở đây có người" mẹ hắn nói. Ánh nắng vàng rực đổ trên bàn tay mẹ đặt trên bánh lái và cánh tay bà, làm lấp lánh viền tóc uốn của bà. Mặt bà trong bóng tối, kín đáo và khe  khắt. Hắn thấy làn da khô héo trên cổ bà. Bà nói, "Hôndo Gunsch? Mày biết cái tên này không?"

"Không." Nhưng hắn đã từng nghe đâu đó.

"Đây rồi," bà nói, dừng lại trước toà nhà lớn nhất. Hàng ngàn con bọ chỉ lớn hơn hạt bụi bay lơ lửng trong không gian vàng sậm. Bà bước nhanh, bắn chống gậy theo sau.

"Ê," bà gọi vào hành lang tối. Một ngọn đèn bật lên. Một người đàn ông bước qua cánh cửa, gã mặc sơ mi trắng, túi áo cứng phẳng có miếng nhựa để cài bút bi. Dưới chiếc mũ đen, vành cong như cánh quạ, là khuôn mặt đầy tàn nhang, đeo kính, râu ria.

"Ê, Kaylee." Người đàn ông nhìn bà như thể bà là miếng bánh mì mới nướng phết bơ.

"Đây là thằng Lùn, muốn làm tài tử rodeo. Nè Lùn, đây là Kerry Moore."

Diamond bắt tay gã, bàn tay gã nóng. Cái bắt tay thù nghịch.

"Hondo ở bên phòng yên cương ấy," gã vừa nói vừa nhìn bà. Gã cười. "Cả ngày trong phòng yên cương. Nếu bọn tôi cho phép, ổng sẽ ngủ luôn tại đó. Thôi ra ngoài này."

Gã mở cánh cửa dẫn vào một căn phòng vuông lớn ở cuối dãy chuồng. Ánh sáng cuối ngày lạnh như sắt chiếu qua ô cửa sổ cao, dát vàng những bộ dây cương treo trên tường. Dọc bức tường khác, một dãy giá nhô ra để yên ngựa, những tấm chăn gấp lại đặt trên các bộ yên sáng loáng. Một chiếc tủ lạnh nhỏ kêu o o sau bàn viết, và nơi bức tường phía trên Diamond thấy một bìa tạp chí lên khung, Giày Ủng và Ngựa Hoang, tháng Tám 1960, in hình một người cưỡi trên yên ngựa hoang, gọn gàng, vững chắc, bám chặt trên con ngựa vặn mình trên không, đỉnh thúc ngựa cào lên tới bộ yên, cánh tay ông ta ném ra phía trước. Mũ ông ta đã mất và miệng ông nở nụ cười cuồng dại. Một hàng chữ ghi: Gunsch đoạt giải Cheyenne SB Crown (2). Lưng con ngựa gù lên, mũi nó chúi xuống, hai chân sau giương thẳng trong cú nhảy dữ dội và vó trước đang đáp xuống còn cách mặt đất một mét rưỡi.


(2) Ceyenne Soddle Bronco Crown: giải nhất cuộc thi cưỡi ngựa hoang có thắng yên ở Cheyenne.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách