|
Tôi đến Mumbai với cha. Một tuần trước khi chúng tôi đi, trong nhà có một sự im lặng đáng sợ và tôi biết có điều gì đó xảy ra. Cha mẹ tôi không cãi nhau bao giờ, và không có mùi nước hoa trên bộ đồ làm việc đẫm mồ hôi của cha. Tôi cũng biết rằng mình có liên quan gì đó tới sự yên lặng này, vì mẹ tỏ ra ân cần với tôi hơn bình thường. Cha thì khác, có một cảm giác buồn lạ lung giữa hai cha con mà sau này tôi mới nhận ra là nỗi ân hận.
Giờ thì tôi là một chuyên gia về nỗi ân hận của đàn ông. Sự ân hận không tuân theo quy luật của tiền bạc. Những người chồng, cha, con trai, linh mục, thầy giáo, bác sĩ, thương nhân, nhân viên ngân hàng, kẻ trộm, chính khách… tất cả đều có những nỗi ân hận. Kể từ ngày cha bộc lộ cho tôi thấy nỗi ân hận của ông, tôi có thể nhận ra nó ở tất cả những người đàn ông tôi gặp. Khi một nông dân trồng đậu cần bảo vệ mùa màng khỏi ánh nắng mặt trời gay gắt, họ che chắn chúng bằng những tấm vải nhựa trắng; mặc dù hứng nắng gió và gần như trong suốt nhưng nó có độ bền rất cao. Toàn bộ cánh đồng được che phủ bằng loại vật liệu này, trông như những cánh buồm khổng lồ. Những cánh buồm trắng lất phất không ngăn cản ánh nắng chiếu vào cho cây trồng lớn lên nhưng có thể giảm bớt cường độ ánh sáng mặt trời. Điều đó cũng đúng đối với nỗi ân hận. Nó là một tấm màn làm giảm nhẹ những cảm giác ray rứt của con người trong thực tế. Chúng ta không thể hoàn toàn tránh được cái nóng của ánh sáng, nhưng chúng ta có thể giấu mình dưới tấm màn để cảm thấy được xoa dịu hơn.
Chúng ta khoác lên người hết lớp áo này đến lớp áo khác, nỗi ân hận, sự giả dối, sự độc ác, sự kiêu hãnh. Cha tôi, một tuần trước khi đưa tôi đến Mumbai, cha đã ẩn mình trong nỗi ân hận.
Tôi chỉ biết mình sẽ đến Mumbai khi tham dự bữa tiệc chia tay của chính mình. Không giống như một bữa tiệc sinh nhật, nó giống một buổi họp mặt của những người đầy ưu tư. Không ai biết phải làm gì hay nói gì, và tôi cũng không được tặng món quà nào. Mọi người ở đó, ngoại trừ tôi, đều biết rằng tôi sắp ra đi. Khi những chiếc bánh ngọt được chuyền tay và những chén súp đậu được húp cạn, chúng tôi không hề bị đốt cháy dưới ánh nắng buổi chiều, vì tất cả mọi người đều được che chắn bởi một lớp màn ân hận rất dày.
Mọi người đều nói tạm biệt với tôi. Các anh, các chị tôi đều khóc, và cậu em trai nhỏ Avijit bật lên nức nở. Khi cố gắng tìm hiểu chuyện gì xảy ra, tôi nghĩ có lẽ mình bị bệnh. Tôi tưởng mình sẽ chết vì một căn bệnh gì đó mà không ai dám nói với tôi.
Khi mẹ giải thích rằng cha sẽ đưa tôi đến Mumbai, tôi nghĩ có lẽ mình cần đến đó khám bệnh, dù bình thường chúng tôi hay đến Bhopal khi có vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Tôi kết luận rằng mình đang bị bệnh gì đó vào giai đoạn cuối. Khi đó thì mọi việc đều có lý: bữa tiệc, nước mắt, sự tử tế của mẹ và sự ảm đạm của cha. Tôi bắt đầu sợ, đó là một điều bất thường với tôi bởi vì tôi là con báo có đôi mắt bạc chưa biết sợ bao giờ.
Chuyến đi đến Mumbai đòi hỏi một chặng đi bộ khá dài và sau đó là lần đầu tiên tôi được đi xe buýt – chỉ có hai cha con. Tôi nắm tay cha, tán gẫu với cha về bữa tiệc và cười khúc khích về Chú V lại một lần nữa ngủ gục khi đang ăn. Khi đi đến con đường chính, tóc tôi ướt đẫm mồ hôi và đầy bụi, tay tôi không còn nắm tay cha nữa. Trong khi chờ xe buýt, hai cha con chỉ nói với nhau vài câu. Chúng tôi ngồi dưới bóng mát của một cái cây lớn mà có lẽ cả đời nó đã bỏ ra để chờ xe buýt.
Cha ngồi tựa lưng vào gốc cây, hai bàn chân to xù xì choãi xuống lớp cát màu đỏ nâu. Cha nhìn xa xăm nơi những cánh đồng trải rộng với những chiếc áo khoác trắng bay phấp phới. Những cánh đồng điểm xuyết vài rặng cây, có khi chỉ là một cây to đứng lẻ loi và có khi là hai, ba cây nhỏ chụm lại thành một bụi. Trời nóng hừng hực và bầu trời màu xanh xám. Sau mười giây nhìn cha ngồi gập người im lặng, tôi bắt đầu mở bọc đồ ăn đầy hấp dẫn. Mắt tôi mở to; trong bọc có bánh mì ngọt, bánh mì tròn, tương ớt và nước sốt (tất cả là những thứ còn thừa sau bữa tiệc). Ngon nhất là những cái bánh bột rắc đường, bánh ngọt trắng với những xoáy kem màu xanh lá bên trong, và những viên kẹo đỏ với lớp tinh thể đường lấp lánh bên ngoài. Mỗi món đều được gói cẩn thận và có thể dễ dàng mở ra.
“Batuk”, cha tôi lẩm bẩm, “nếu con ăn hết mọi thứ bây giờ thì con sẽ không còn gì cho cả chuyến đi nữa”.
“Mmm…”, tôi bắt đầu nhai. Chiếc bánh ngọt trắng với những xoáy kem màu xanh lá quả là ngon tuyệt. “Cha, tại sao mình phải đi Mumbai… con bị bệnh hay sao?”
“Không, Batuk”, cha nói bằng một giọng bực bội, “Tại sao con nghĩ vậy? Con không bị bệnh”.
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi ngồi im lặng vài phút nữa rồi tôi hỏi tiếp.
“Vậy tại sao mình phải đi đến đó? Mình sẽ ở đâu?”
“Batuk, rồi con sẽ biết”, cha trả lời cộc lốc và tỏ vẻ cáu kỉnh hơn, “Giờ thì im lặng đi và đừng ăn nữa. Xe buýt sắp tới rồi”.
Tôi im lặng không hỏi cha nữa.
Tôi quyết định đứng dậy nói chuyện với cái cây. Tôi hỏi cái cây:
“Cây ơi, tại sao cây lại ở đây chờ xe buýt suốt cả cuộc đời mà khi xe đến thì lại không lên xe?”
Ban đầu cái cây im lặng, sau đó nó thô lỗ đáp: “Cô không nghe cha cô nói à? Im lặng chờ xe buýt đi”. Ngừng một lúc, sau đó cái cây nhận ra tôi rút lui và để nó lại một mình. Nó hắng giọng: “Batuk, tôi có thể kể cho cô nghe cảm giác như thế nào khi chờ đợi xe buýt suốt đời… nhưng cô bé ạ, tôi khát nước lắm và không thể nói được”.
Tôi suy nghĩ một lúc rồi reo lên: “Đợi đã!”. Tôi chạy đến gói đồ, chụp bịch nước, quay lại cái cây và tưới nước vào gốc cây.
“Batuk!”, cha tôi hét lên, “Con đang làm cái quái gì vậy! Dừng lại! Dừng lại!”.
“Nhưng cha ơi, cái cây khát nước lắm, giọng nó khàn cả rồi”, tôi trả lời.
Cha nhìn tôi trừng trừng và gương mặt ông bắt đầu đỏ lên. Dường như ông sắp mắng tôi một trận nhưng lại dằn xuống.
“Đến đây nào, con quỷ nhỏ!”, cha gọi tôi, giang rộng hai cánh tay. Tôi chạy ào đến nhảy vào lòng cha. Bộ quần áo đi làm của cha đã mỏng tanh sau hàng triệu lần giặt và tôi có thể ngửi thấy mùi nấu nướng của mẹ trên đó. Trong vòng tay cha, vì tôi chính là của cha. Cha là cha tôi, cha đang đưa tôi, con báo có đôi mắt bạc của cha, trên đường đến Mumbai. Giữa không trung, dưới bóng cây, tôi nhắm mắt lại. Tôi nhận ra nỗi ưu tư của mọi người khi tôi ra đi chỉ vì họ muốn được như tôi lúc này, nằm trong vòng tay cha khi chờ xe buýt.
Cái cây nhìn cha con tôi ngồi ôm nhau. Cái cây nói: “Batuk, sao cô không đến đây với tôi? Tôi có thể dạy cô tất cả những điều bí ẩn trên thế giới. Những chiếc lá của tôi có thể nghe được những tiếng nói, tiếng cười, tiếng khóc của mọi sinh vật sống. Rễ cây của tôi uống nước trên cả trái đất này. Lớp vỏ cây của tôi vẽ bản đồ mở cửa tất cả mọi bí mật kiến thức. Hạt giống của tôi được gieo từ một cây mẹ trên Thiên đường và tôi biết cả tình yêu hoàn hảo. Đến đây, Batuk, hãy rời cha cô, đến đây và tan chảy vào tôi”.
“Nhưng cây ơi”, tôi nói với cái cây, “cây biết tất cả mọi thứ cần biết, thế nhưng cây vẫn đứng đây chờ xe buýt mà không bao giờ lên xe. Sứ mệnh của cây là gì?”
“Sứ mệnh của tôi”, cái cây đáp, “là đem lại bóng mát cho cô”.
Tôi suy nghĩ câu trả lời này mãi một lúc lâu, đến khi cha ngủ gục. Tôi ngọ nguậy rời khỏi vòng tay cha, chạy đến cái cây và mân mê lớp vỏ sần sùi của nó. Tất cả những gì tôi thấy được chỉ là những con côn trùng bé nhỏ đang bò trên những kẽ nứt. Một số con dường như đang bò có mục đích hẳn hoi, còn những con khác có vẻ chỉ lang thang đây đó, nhưng tất cả chỉ là những con côn trùng nhốn nháo quanh một cái cây lớn.
Tôi nói với cái cây: “Tôi không thể ở lại với cây được. Tôi phải theo cha lên xe buýt đi Mumbai”.
Tôi thấy một đám mây bụi từ chiếc xe buýt đang đến. “Cha ơi, cha ơi, xe buýt kìa!”. Cha tôi choàng dậy, vội vã thu dọn đồ đạc khi chiếc xe buýt đang từ từ đến gần.
“Tôi còn một điều nữa muốn nói với cô, Batuk”, cái cây bảo tôi, giọng không có gì ác ý.
“Điều gì thế?”, tôi hỏi.
Cái cây trả lời bằng một giọng nhẹ nhàng đến mức bạn phải tập trung cao độ mới có thể nghe được tiếng nói qua những tán lá: “Tất cả thế giới này, Batuk, được tạo ra để dành cho cô, không một ai khác”.
Khi quay lại cha, tôi thấy những giọt nước mà tôi tưới lên rễ cây nay đã bốc hơi lên mặt cha tôi, và đọng lại trên mi mắt của ông.
|
|