Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 3917|Trả lời: 34
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Viễn Tưởng - Xuất Bản] Biển Quái Vật (The Sea Of Monsters) | Rick Riordan

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Tên tác phẩm: Biển quái vật




Tác giả: Rick Riordan
Dịch giả: Nguyễn Lệ Chi
Thể loại: Viễn tưởng
Tình trạng sáng tác: Hoàn thành
Nguồn: Tự type
Ngày xuất bản: Tháng 9 năm 2010
Nhà xuất bản: Thời Đại

Giới thiệu sơ lược:

  "Năm lớp bảy của Percy Jackson trải qua một cách khá yên tĩnh. Không có một con quái vật nào đặt chân vào khuôn viên trường học của cậu ở New York. Nhưng khi trận đấu bóng ném bình thường giữa Percy và những người bạn cùng lớp của mình biến thành một trận đấu sống còn để chống lại một đám khổng lồ ăn thịt người xấu xí, mọi việc trở nên… ừm, xấu đi. Và sự xuất hiện bất ngờ của Annabeth, một người bạn của Percy, đã mang đến thêm nhiều tin xấu: vành đai phép bảo vệ Trại Con Lai đã bị đầu độc bởi một kẻ thù bí ẩn. Nếu không tìm được phương thức cứu chữa nó, nơi ẩn náu an toàn duy nhất dành cho các á thần sẽ bị tiêu diệt…"

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 2-9-2014 12:33:25 | Chỉ xem của tác giả
BIỂN QUÁI VẬT


Dành tặng cho Patrick John Riordan, người kể chuyện tuyệt vời nhất
trong gia đình.


~~~


1. BẠN THÂN TÔI MUA MỘT CHIẾC ÁO CƯỚI



Cơn ác mộng của tôi bắt đầu như thế này.

Tôi đang đứng trên một con phố vắng tanh ở một thành phố biển nhỏ bé nào đó. Giờ đã là nửa đêm. Một cơn bão đang ập đến. Gió và mưa lao vút qua những hàng cây cọ dọc con đường dành cho người đi bộ. Cửa sổ ở các toà nhà màu vàng và hồng xếp ngay ngắn dọc phố đều được bịt kín bằng ván. Cách nơi tôi đang đứng một khối nhà, phía bên kia hàng rào dâm bụt, đại dương dậy sóng.

Florida, tôi thầm nghĩ. Mặc dù tôi không chắc làm thế nào tôi biết được điều đó. Tôi chưa từng tới Florida.

Rồi tôi nghe thấy tiếng móng guốc gõ lóc cóc trên nền đường cứng. Tôi quay lại và nhìn thấy anh bạn Grover đang chạy bán sống bán chết.

Đúng vậy, tôi nói tiếng móng guốc.

Grover là một thần rừng. Từ nửa người trên, nom cậu ấy giống hệt một thiếu niên cao lênh khênh với chòm râu lún phún ở cằm và khuôn mặt đầy mụn trứng cá. Cậu ấy bước đi với vẻ khập khiễng kỳ lạ. Nhưng trừ khi bạn vô tình bắt gặp cậu ấy lúc cậu ấy không mặc quần (tôi không hề gợi ý về điều này), nếu không bạn sẽ chẳng bao giờ biết được điều gì không là con người ở cậu ấy. Chiếc quần jeans rộng thùng thình và cặp chân giả đã che giấu sự thật rằng cậu ấy có phần thân sau lông lá và có móng guốc của động vật.

Grover là bạn thân tôi năm lớp sáu. Cậu ấy đã làm một chuyến phiêu lưu với tôi và một bạn gái tên là Annabeth để cứu cả thế giới. Nhưng tôi không gặp cậu ấy từ tháng Bảy năm trước khi cậu ấy bắt đầu một mình đơn độc lên đường thực hiện một cuộc tìm kiếm đầy nguy hiểm – một cuộc tìm kiếm mà trước đó không một thần rừng nào có thể quay về.

Dù sao, trong giấc mơ của tôi, Grover đang kéo lê chiếc đuôi dê, ôm đôi giày trong tay theo cách mà cậu ấy làm khi cần di chuyển nhanh hơn. Cậu ấy gõ móng lộp cộp qua các cửa hiệu mua sắm nhỏ dành cho khách du lịch và những nơi cho thuê ván lướt sóng. Gió uốn cong những cây cọ gần như ngả rạp xuống đất.

Grover rất sợ hãi thứ gì đó bám theo sau cậu ấy. Cậu ấy hẳn mới đi lên từ bãi biển bởi cát ẩm ướt vẫn còn đóng lại trên bộ lông. Cậu ấy đã trốn thoát khỏi một nơi nào đó và đang cố gắng để thoát khỏi… thứ gì đó.

Một tiếng gầm đinh tai nhức óc vang lên trong cơn bão. Một cái bóng lù lù hiện ra ở tận khối nhà cuối cùng xa xa, sau lưng Grover. Nó đánh dãy đèn đường dạt sang một bên, khiến chúng nổ tung trong một chùm tia lửa.

Grover bị trượt chân và khóc thút thít vì sợ hãi. Cậu ấy thì thầm với chính mình: Phải thoát khỏi nơi đây. Phải báo cho họ biết!

Tôi không thể thấy được cái gì đang đuổi theo cậu ấy. Nhưng tôi có thể nghe thấy tiếng nó cằn nhằn và nguyền rủa. Mặt đất rung lên khi nó tiến lại gần. Grover bị vấp khi rẽ nhanh ở góc phố. Cậu ấy chạy vào một dãy các cửa tiệm ở góc phố cụt. Không còn thời gian để quay trở lại nữa. Cánh cửa gần nhất bị bão làm bật tung. Dòng chữ phía trên cửa kính bày hàng bị bóng tối bao trùm ghi: TIỆM ÁO CƯỚI ST. AUGUSTINE.

Grover lao vào trong. Cậu ấy biến mất bên dưới giá treo áo cưới.

Cái bóng của con quái vật nọ đã hằn lên phía trước cửa tiệm. Tôi có thể ngửi thấy mùi gì đó – một sự kết hợp kinh tởm giữa lông cừu ướt và thịt thối cùng mùi hương cơ thể ôi thiu khác thường chỉ có ở những con quái vật.

Grover run bần bật sau những chiếc váy cưới. Bóng con quái vật đã lướt qua.

Không gian hoàn toàn im lặng, chỉ có tiếng mưa rơi rả rích. Grover hít một hơi sâu. Có lẽ thứ đó đã bỏ đi rồi.

  Rồi một tia chớp loé lên. Toàn bộ phần trước cửa tiệm nổ tung, và một giọng nói gớm ghiếc rống lên, “CỦA… TAAA!”


Tôi ngồi bật dậy, run rẩy trên giường.

Không có cơn bão, cũng không có con quái vật nào cả.

Những tia nắng ban mai đang rọi qua cửa phòng ngủ của tôi.

Tôi nghĩ mình đã nhìn thấy một cái bóng lập loè trên lớp kính – có hình dáng của con người. Nhưng khi có tiếng gõ cửa phòng và tiếng mẹ tôi gọi, “Percy, con sẽ bị muộn mất.” – cái bóng ở cửa sổ lập tức biến mất.

Nó hẳn do tôi đã tưởng tượng ra. Cửa sổ tầng năm và lối thoát hiểm ọp ẹp… chắc chắn không thể có ai ngoài đó.

“Nhanh lên con”, mẹ tôi gọi lần nữa. “Ngày cuối ở trường đấy. Con sẽ rất vui cho mà xem. Con gần như sắp đạt được điều con hằng ước nguyện!”

“Con đang ra đây”, tôi đáp.

Tôi sờ tay xuống dưới gối. Những ngón tay tôi khép kín một cách vững chắc quanh chiếc bút mà tôi luôn ngủ cùng. Tôi lấy nó ra và nghiên cứu dòng chữ Hy Lạp cổ đại được khắc ở bên hông: Anaklusmos. Thuỷ Triều.

Tôi đã nghĩ tới việc mở nắp cây bút nhưng có thứ gì đó giữ tôi lại. Tôi đã không sử dụng cây Thuỷ Triều này từ lâu lắm rồi…

Hơn nữa, mẹ đã bắt tôi hứa không được dùng những vũ khí chết người trong nhà kể từ khi tôi vung vẩy ngọn lao sai hướng, làm hỏng đi cái tủ đựng cốc tách bát đĩa kiểu của mẹ. Tôi cất cây Thuỷ Triều trên bàn đầu giường và lê người ra khỏi giường.

Tôi nhanh chóng mặc quần áo và cố không nghĩ đến cơn ác mộng của tôi hay lũ quái vật hoặc về cái bóng nơi cửa sổ.

Phải thoát ra khỏi đây. Phải báo cho họ biết!

Grover định ám chỉ về điều gì nhỉ?

Tôi dí ba ngón tay về phía trái tim và đẩy khẽ ra phía ngoài. Đây là cử chỉ cổ xưa mà Grover từng dạy tôi để tránh khỏi lũ ma quỷ.

Giấc mơ không thể là thật được.

Ngày cuối cùng ở trường, mẹ đã đúng, tôi nên vui vẻ. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi gần như hoàn thành xong một năm mà không hề bị đuổi học. Không có các tai nạn kỳ lạ. Không đánh nhau trong lớp học. Không có thầy cô biến thành quái vật và cố giết tôi bằng đồ ăn có độc hoặc đống bài tập ngồn ngộn tới phát điên. Ngày mai, tôi sẽ lên đường tới nơi mà tôi yêu thích nhất trên thế giới – Trại Con Lai.

Chỉ thêm một ngày nữa thôi. Chắc chắn rằng tôi không thể làm nó rối tung lên.

Và như thường lệ, tôi không có manh mối về việc mình đã làm sai như thế nào.


Mẹ làm món bánh quế xanh và trứng xanh cho bữa sáng. Mẹ thật buồn cười với những thứ kiểu như vậy – luôn ăn mừng những dịp đặc biệt bằng đồ ăn màu xanh. Tôi nghĩ đó là cách mẹ muốn nói rằng không có gì là không thể. Percy có thể qua được lớp bảy. Bánh quế có thể màu xanh. Một chút phép màu như vậy đấy.

Tôi ăn sáng tại bàn khi mẹ đang rửa chén dĩa. Mẹ mặc đồng phục đi làm – một chiếc váy điểm những ngôi sao xanh, một chiếc áo sọc trắng và đỏ mà mẹ vẫn thường mặc khi bán kẹo ở tiệm Kẹo Ngọt Ở Mỹ. Mái tóc dài màu nâu của mẹ buộc đuôi ngựa gọn gàng phía sau.

Bánh quế rất tuyệt, nhưng tôi đoán mình đã không chú ý đến nó nhiều như vẫn thường làm. Mẹ nhìn tôi và cau mày. “Percy, con không sao chứ?”

“Dạ… ổn ạ.”

Nhưng mẹ luôn luôn có thể biết được khi nào có chuyện gì làm tôi bực mình. Mẹ lau khô tay và ngồi xuống trước mặt tôi. “Chuyện trường học hay là…”

Mẹ không cần phải nói nốt vì tôi biết điều mẹ đang hỏi.

“Con nghĩ rằng Grover đang gặp chuyện”, tôi nói và kể lại cho mẹ về giấc mơ.

Mẹ mím chặt môi. Chúng tôi không nói nhiều về phần khác trong cuộc sống của tôi. Chúng tôi cố gắng sống càng bình thường càng tốt, nhưng mẹ tôi biết tất cả về Grover.

“Con yêu, mẹ sẽ không quá lo lắng đâu”, mẹ nói. “Grover là một thần rừng đã trưởng thành. Nếu có vấn đề gì đó, mẹ chắc rằng chúng ta sẽ được nghe tin từ… từ trại…”. Đôi vai mẹ căng lên khi nhắc tới từ trại.

“Có chuyện gì ạ?”. Tôi hỏi.

“Không có gì”. Mẹ đáp. “Mẹ sẽ nói cho con sau. Chiều nay chúng ta sẽ tổ chức ăn mừng ngày cuối cùng ở trường của con đã. Mẹ sẽ đưa con và Tyson tới Trung tâm Rockefeller – chỗ tiệm bán ván trượt mà con vẫn thích.”

Ôi trời ơi, điều đó thật hấp dẫn. Chúng tôi luôn phải vật lộn với tiền bạc. Với học phí các lớp học buổi tối của mẹ và của tôi ở trường tư, chúng tôi sẽ không bao giờ có đủ khả năng để làm những điều đặc biệt như đi mua một tấm ván trượt. Nhưng có điều gì đó trong giọng nói của mẹ khiến tôi lo lắng.

“Khoan đã mẹ”, tôi nói. “Con nghĩ chúng ta nên đóng đồ tới trại tối nay.”

Mẹ xoắn chặt cái giẻ rửa bát. “Ồ, con yêu. Về chuyện này… mẹ có nhận được lời nhắn của bác Chiron từ tối qua.”

Lòng tôi se lại. Bác Chiron từng là người điều hành các hoạt động của Trại Con Lai. Bác ấy sẽ không liên hệ với chúng tôi trừ phi có điều gì đó nghiêm trọng đang xảy ra. “Bác ấy đã nói gì?”

“Bác ấy nghĩ… sẽ không an toàn cho con nếu con tới trại. Chúng ta phải trì hoãn việc này.”

Trì hoãn ư? Mẹ, không an toàn là thế nào? Con là một á thần. Trại giống như là nơi an toàn duy nhất trên trái đất dành cho con vậy.”

“Thông thường là vậy, cưng à. Nhưng với vấn đề mà họ đang gặp phải thì…”

“Vấn đề gì vậy mẹ?”

“Percy. Mẹ… mẹ xin lỗi. Mẹ mong có thể nói cho con chuyện này vào chiều nay. Mẹ không thể giải thích tất cả vào lúc này được. Mẹ cũng không chắc là bác Chiron có thể giải thích. Tất cả mọi chuyện diễn ra quá đột ngột.”

Những dòng suy nghĩ của tôi quay cuồng, đan xoắn vào nhau. Sao tôi lại không thể tới trại được? Tôi muốn bật ra hàng triệu câu hỏi nhưng chiếc đồng hồ bếp đã điểm chuông báo hết nửa giờ.

Nom mẹ đã bớt căng thẳng hơn. “Bảy giờ ba mươi rồi đấy, con yêu. Con phải đi thôi. Tyson đang đợi…”

“Nhưng…”

“Percy, chúng ta sẽ nói chuyện này vào buổi chiều nhé. Giờ tới trường thôi.”

Đó là điều cuối cùng tôi muốn làm. Nhưng trong mắt mẹ có thứ gì đó dễ vỡ như một kiểu cảnh báo rằng nếu tôi cứ thúc bách bà quá nhiều, bà sẽ bật khóc. Hơn nữa, mẹ tôi nói đúng về bạn tôi – Tyson. Tôi phải gặp cậu ấy ở ga tàu điện ngầm đúng giờ hoặc cậu ấy sẽ cảm thấy khó chịu. Cậu ấy rất hãi phải đi một mình dưới lòng đất.

Tôi gom mọi thứ của tôi lại, nhưng ngập ngừng nơi cửa. “Mẹ… vấn đề của trại có liên quan tí nào tới giấc mơ của con về Grover không ạ?”

Mẹ tránh ánh mắt tôi. “Chúng ta sẽ nói chuyện này vào buổi chiều nhé, con yêu. Mẹ sẽ giải thích… nhiều trong mức mẹ có thể.”

Tôi miễn cưỡng chào tạm biệt mẹ rồi chạy xuống cầu thang để đuổi kịp chuyến tàu Số Hai.

Vào lúc đó tôi không biết được rằng mẹ và tôi không bao giờ có được cuộc chuyện trò vào buổi chiều như đã định.

Thực tế tôi sẽ không được về nhà trong một khoảng thời gian khá dài.

Khi bước ra ngoài, tôi liếc nhìn toà nhà xây bằng đá màu nâu ở con phố đối diện. Chỉ trong tích tắc, tôi nhìn thấy một bóng đen trong ánh nắng ban mai rực rỡ – một bóng người phản chiếu lên bức tường gạch, một cái bóng vô chủ.

Rồi nó khẽ lay động và biến mất.


* * *


HẾT CHƯƠNG 1
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2014 20:56:00 | Chỉ xem của tác giả
2. TÔI CHƠI BÓNG NÉM(1) VỚI KẺ ĂN THỊT NGƯỜI



Một ngày của tôi bắt đầu rất bình thường. Hoặc nó bình thường như thể vẫn thường xảy ra tại trường Trung học Meriwether.

Có thể thấy đó là một trường “cấp tiến” nằm trong Khu thương mại Manhattan. Điều đó có nghĩa là chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế túi(2) thay cho những chiếc ghế cứng quèo. Chúng tôi không cần lấy điểm, thầy cô mặc đồ jeans và áo phông trong buổi biểu diễn nhạc rock khi lên lớp.

Điều đó thật tuyệt với tôi. Ý tôi là tôi mắc chứng ADHD và chứng khó đọc, giống như phần lớn những đứa con lai khác. Thế nên tôi sẽ chẳng làm được điều gì ra hồn trong các trường bình thường ngay cả trước khi họ đuổi tôi đi. Điều khó chịu duy nhất ở Meriwether là giáo viên luôn nhìn vào những phần sáng của sự việc và lũ trẻ lại không thường… ờ, ngoan ngoãn và sáng sủa cho lắm.

Giờ học đầu tiên trong ngày hôm nay của tôi là môn tiếng Anh. Hầu như cả trường đều phải đọc cuốn sách có tên Chúa Ruồi(3), nơi tất cả lũ trẻ bị bỏ lại trên một hòn đảo và trở nên điên loạn. Vì vậy đối với bài kiểm tra cuối kỳ của chúng tôi, giáo viên đã cho chúng tôi ra sân chơi một tiếng đồng hồ không có sự giám sát của người lớn, để quan sát xem điều gì sẽ xảy ra. Điều đã xảy ra là một trận chiến giày đế bằng rất căng thẳng giữa học sinh lớp bảy và lớp tám, hai cuộc chiến bằng đá cuội và một trò bóng rổ. Thằng đầu bò của trường – Matt Sloan – đã dẫn đầu hầu hết các trò.

Sloan không hề to lớn, vạm vỡ nhưng nó có thể hành động như nó muốn. Đôi mắt nó giống mắt của chú chó chọi Pitbull(4), mái tóc đen bờm xờm. Nó luôn mặc quần áo đắt tiền nhưng nhếch nhác như kiểu muốn tất cả mọi người chứng kiến việc nó không thèm mảy may quan tâm tới tiền của gia đình mình như thế nào. Một chiếc răng cửa của nó bị mẻ từ cái lần nó lén đi chơi bằng chiếc Porsche của cha nó và lao thẳng vào biển báo XIN ĐI CHẬM LẠI! CÓ TRẺ EM.

Sloan là người ném giày về phía tất cả mọi người, cho đến khi nó mắc sai lầm khi cố thử làm điều đó với Tyson bạn tôi.

Tyson là đứa trẻ vô gia cư duy nhất ở trường Trung học Meriwether. Cũng gần giống như mẹ và tôi nghĩ, cậu ấy bị bố mẹ ruồng bỏ từ khi còn là một đứa con nít, chắc chắn bởi cậu ấy… quá khác thường. Tyson cao hai mét và nom giống như một Người tuyết. Nhưng cậu ấy lại khóc rất nhiều và sợ hãi tất cả mọi thứ, bao gồm cả cái bóng phản chiếu của chính mình. Gương mặt cậu ấy trông méo mó và có vẻ hung ác. Tôi không thể kể ra được màu mắt của Tyson vì tôi chưa bao giờ nhìn cao hơn hàm răng vẹo vọ của cậu ấy. Giọng cậu ấy rất trầm nhưng nói chuyện khá hài hước, giống như một đứa trẻ ít tuổi hơn rất nhiều. Tôi đoán rằng đó là do cậu ấy chưa từng đi học trước khi tới Meriwether. Cậu ấy mặc chiếc quần jeans rách rưới, đi đôi giày size hai mươi cáu bẩn, chiếc áo sơ mi bằng vải flanen kẻ sọc với đầy lỗ thủng. Cậu ấy có hơi thở như ngóc ngách của thành phố New York. Vì đó là nơi mà cậu ấy sống, trong một thùng chứa tủ lạnh bằng giấy các-tông trên Phố Bảy hai.

Trường Meriwether nhận cậu ấy như một dự án phục vụ cộng đồng để tất cả học sinh đều cảm thấy chúng may mắn. Nhưng thật không may, phần lớn trong số chúng lại không đứng về phía Tyson. Một lần chúng phát hiện ra rằng cậu ấy chỉ là một đứa mềm yếu to xác, bất chấp cơ thể cường tráng và cái nhìn đáng sợ của cậu ấy, chúng làm mình vui bằng cách kiếm chuyện với Tyson. Tôi là người bạn duy nhất của Tyson. Điều đó cũng có nghĩa cậu ấy là người bạn duy nhất của tôi.

Mẹ tôi từng phàn nàn với nhà trường hàng triệu lần rằng họ chưa làm đủ mọi thứ giúp Tyson. Bà đã gọi tới các dịch vụ xã hội nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra. Những người hoạt động công tác xã hội đã quả quyết rằng Tyson không hề tồn tại. Họ thề rằng đã đi suốt con hẻm mà chúng tôi miêu tả nhưng không tìm thấy cậu ấy. Tôi không tài nào hiểu nổi rằng sao họ có thể không nhìn thấy một cậu bé to lớn sống trong một cái hộp tủ lạnh được chứ.

Matt lẻn ra sau lưng Tyson và cố tộng cho cậu ấy một chiếc giày. Tyson đã rất hốt hoảng. Cậu ấy hắt hơi quá mạnh vào Sloan. Sloan bắn ra xa tới năm mét và cắm đầu vào dây đu bằng lốp của các em lớp nhỏ.

“Thằng quái vật!” Sloan hét lên. “Sao không quay về cái hộp các-tông của mày đi?”

Tyson bắt đầu nức nở và ngồi mạnh xuống chỗ leo trèo dành cho trẻ em khiến các thanh cong vòng xuống, vùi đầu vào hai tay.

“Rút lại lời mày vừa nói đi, Sloan!” Tôi hét to.

Sloan chỉ cười khinh bỉ với tôi. “Tại sao mày lại bực mình hả Jackson? Mày sẽ có nhiều bạn bè hơn nếu mày không luôn dính tới thứ quái vật này nữa.”

Tôi nắm chặt nắm đấm và hy vọng mặt không đỏ như tôi cảm thấy. “Cậu ấy không phải là quái vật. Cậu ấy chỉ là…”

Tôi cố gắng suy nghĩ những điều đúng đắn để nói nhưng Sloan không nghe nữa. Nó và mấy thằng bạn dữ tợn của nó chỉ mải cười cợt. Tôi tự hỏi nếu đây là những tưởng tượng của tôi, hoặc nếu Sloan có nhiều thằng ngu vây quanh nó hơn bình thường. Tôi thường nhìn thấy nó đi cùng hai hoặc ba đứa gì đó, nhưng hôm nay con số đó có thể lên đến hơn mười hai đứa. Và tôi có thể đoan chắc rằng mình chưa bao giờ gặp chúng trước đó.

“Cứ chờ tới giờ thể dục đi, Jackson à”, Sloan kêu to. “Mày sẽ chết chắc.”

Khi giờ học đầu tiên kết thúc, giáo viên tiếng Anh của chúng tôi – thầy de Milo – bước ra ngoài để kiểm tra cuộc tàn sát này. Thầy ấy phát biểu rằng chúng tôi đã hoàn toàn hiểu về tác phẩm Chúa Ruồi. Tất cả chúng tôi đều hoàn thành tốt môn học của ông và chúng tôi sẽ không bao giờ lớn lên thành những kẻ bạo lực. Matt Sloan gật đầu đầy nhiệt tình và nhìn về phía tôi với nụ cười toe toét.

Tôi phải hứa mua cho Tyson thêm một chiếc bánh sandwich bơ lạc vào bữa trưa để cậu ấy ngưng khóc.

“Tớ… tớ là quái vật ư?” Cậu ấy hỏi.

“Không” Tôi đáp và nghiến răng kèn kẹt. “Matt Sloan mới là đứa quái vật.”

Tyson khụt khịt. “Cậu là bạn tốt của tớ. Năm tới tớ sẽ nhớ cậu lắm nếu… nếu tớ không thể…”

Giọng cậu ấy run lên. Tôi nhận ra rằng cậu ấy không hề hay biết gì về việc mình được mời quay lại trường vào năm tới theo dự án phục vụ cộng đồng. Tôi tự hỏi liệu hiệu trưởng có bận tâm nói chuyện với cậu ấy về vấn đề này không.

“Đừng lo lắng, chàng trai to lớn à”, tôi ra vẻ dỗ dành. “Mọi thứ đều sẽ ổn thôi.”

Tyson liếc nhìn tôi đầy khoan khoái khiến tôi cảm thấy mình như là kẻ nói láo cỡ bự. Sao tôi lại có thể hứa với một đứa trẻ như cậu ấy rằng mọi thứ đều sẽ ổn chứ?


Buổi thi tiếp theo của chúng tôi là môn khoa học. Cô Tesla nói với chúng tôi rằng cần phải pha hoá chất vào nhau cho tới khi chúng tôi thành công trong việc tạo nên một chất nổ gì đó. Tyson là bạn làm chung thí nghiệm cùng tôi. Đôi tay của cậu ấy quá lớn so với những cái ống nghiệm bé xíu mà chúng tôi được cấp để sử dụng. Cậu ấy vô tình gạt đổ một khay hoá chất từ trên bàn xuống và tạo nên một đám mây nấm màu cam trong thùng rác.

Sau khi cô Tesla di tản mọi người ra khỏi phòng thí nghiệm và gọi đội dọn dẹp chất thải nguy hiểm tới, cô ca ngợi Tyson và tôi là những nhà khoa học bẩm sinh. Chúng tôi là những người đầu tiên hoàn thành xuất sắc bài thi của cô dưới ba mươi giây.

Tôi rất mừng khi thấy buổi sáng trôi qua thật nhanh vì nó giữ cho tôi không nghĩ quá nhiều về những vấn đề của mình. Tôi không thể chịu được ý tưởng rằng có điều gì đó không đúng đang diễn ra ở trại. Thậm chí tồi tệ hơn, tôi không thể giũ sạch cơn ác mộng kinh khủng khỏi ký ức của mình. Tôi có một cảm giác cực kỳ tệ hại rằng Grover đang gặp nguy hiểm.

Ở môn xã hội, khi chúng tôi đang vẽ những bản đồ kinh tuyến/vĩ tuyến, tôi mở sổ tay ra và nhìn chăm chú vào bức hình bên trong – Annabeth bạn tôi đang đi nghỉ ở Washington DC. Cô ấy mặc quần jeans, áo khoác bằng vải giả jeans bên ngoài chiếc áo phông màu da cam của Trại Con Lai. Mái tóc vàng của cô ấy được buộc gọn bằng một chiếc khăn lớn in hoa. Cô ấy đang đứng trước Đài Tưởng niệm Lincoln với hai tay khoanh lại, với cái nhìn như rất hài lòng về chính mình, như thể chính cô ấy đã thiết kế nên nơi đó. Có thể thấy Annabeth muốn trở thành một kiến trúc sư khi lớn lên. Vì thế cô ấy luôn đi thăm các đài kỷ niệm và những công trình nổi tiếng. Cô ấy luôn kỳ lạ như thế. Cô ấy gửi email cho tôi bức hình này sau kỳ nghỉ mùa xuân. Và cứ mỗi lần nhìn nó, tôi lại tự nhắc nhở rằng cô ấy có thật và Trại Con Lai không phải là trí tưởng tượng của tôi.

Tôi ước gì Annabeth có ở đây. Cô ấy sẽ biết cái gì tạo nên giấc mơ của tôi. Tôi chưa bao giờ thừa nhận điều này với cô ấy. Nhưng cô ấy thông minh hơn tôi, ngay cả những lúc cô ấy khó chịu đi chăng nữa.

Tôi đang định đóng cuốn sổ lại thì Matt Sloan thò tay tới và xé tấm hình ra khỏi cuốn sổ.

“Này!” Tôi phản đối.

Sloan kiểm tra tấm hình, đôi mắt nó mở to. “Không đời nào, Jackson. Ai thế? Cô ấy không phải là… của mày chứ?”

“Trả lại đây.” Tai tôi bắt đầu nóng bừng.

Sloan đưa tấm hình cho mấy thằng bạn dữ tợn của nó – những đứa đang cười khúc khích và bắt đầu xé toạc tấm hình ra thành nhiều mảnh nhỏ. Chúng là những học sinh mới đang đi tham quan trường học vì tất cả bọn chúng vẫn đang đeo những tấm thẻ tên ngớ ngẩn của phòng tuyển sinh có dòng chữ CHÀO! TÊN TÔI LÀ: Chúng hẳn phải có sự hài hước kỳ quái vì chúng đã điền vào những cái tên kỳ lạ như: MARROW SUCKER(5), SKULL EATER(6) và JOE BOB. Không có người nào mang những cái tên như vậy cả.

“Những thằng này sẽ tới đây vào năm tới”, Sloan khoe khoang như thể đang cố doạ cho tôi sợ. Tao cá rằng chúng có thể trả học phí, không giống như thằng bạn chậm tiến của mày.”

“Cậu ấy không chậm tiến.” Tôi cố gắng hết sức để không thụi cho Sloan một quả vào mặt.

“Mày cũng là một kẻ thất bại thôi, Jackson à. Điều tốt là tao sẽ tống khứ mày ra khỏi những bất hạnh của mày vào giờ học tiếp theo.”

Đám bạn thân to tợn của nó đang nhai tấm hình của tôi. Tôi muốn nghiền nát chúng ra, nhưng tôi phải tuân theo những quy định khắt khe của bác Chiron là không bao giờ được trút sự tức giận của mình lên những người bình thường, cho dù họ đáng ghét thế nào đi chăng nữa. Tôi phải để dành chuyện đánh đấm cho lũ yêu quái.

Tuy nhiên một phần trong tôi lại nghĩ rằng, nếu Sloan chỉ cần biết tôi thực sự là…

Chuông reo vang.

Khi Tyson và tôi rời lớp học, một giọng con gái thì thầm: “Percy!”

Tôi nhìn quanh về khu vực để đồ nhưng không ai mảy may chú ý tới tôi. Như thể bất cứ đứa con gái nào ở Meriwether sẽ chết khi gọi tên tôi.

Trước khi tôi có thời gian nghĩ ngợi xem điều này có phải do tôi tưởng tượng ra hay không thì một đám nhóc tì đã vội vàng đi đến phòng thể dục, cuốn theo cả Tyson và tôi. Đây là thời gian tập thể dục. Huấn luyện viên của chúng tôi đã hứa cho chúng tôi tự do chơi môn bóng ném và Matt Sloan đã thề sẽ giết tôi.


Đồng phục tập thể thao ở Meriwether là quần soóc màu xanh da trời và áo thun có hoa văn nhuộm tie-dye(7). May sao chúng tôi đều thực hiện phần lớn các hoạt động thể thao bên trong trường, vì thế chúng tôi không phải chạy bộ khắp Tribeca giống như một đám nhóc hippie đi cắm trại.

Tại phòng thay quần áo, tôi thay trang phục với tốc độ nhanh nhất có thể vì tôi không muốn gặp mặt Sloan. Tôi vừa định rời đi thì Tyson gọi, “Percy!”.

Cậu ấy vẫn chưa thay đồ, đang đứng nơi cánh cửa phòng tập tạ, tay nắm chặt bộ đồ tập. “Cậu sẽ…”.

“Ờ, được.” Tôi cố gắng không bực mình thêm về chuyện này. “Được, dĩ nhiên rồi, anh bạn ạ.”

Tyson cúi người xuống và đi vào bên trong phòng tập tạ. Tôi đứng gác ngoài cửa trong lúc cậu ấy thay đồ. Tôi cảm thấy lúng túng ngượng nghịu khi làm điều này, nhưng cậu ấy luôn nhờ tôi như vậy trong hầu hết các ngày. Tôi nghĩ điều này có thể bởi người cậu ấy đầy lông và lưng cậu ấy đầy những vết sẹo kinh khủng tới mức tôi không đủ dũng cảm để hỏi về chúng.

Hơn nữa, tôi biết rõ rằng nếu ai đó chòng ghẹo Tyson lúc cậu ấy đang thay đồ, cậu ấy sẽ khó chịu và xé toạc các cánh cửa của tủ đựng đồ.

Khi chúng tôi bước vào phòng tập, huấn luyện viên Nunley đang ngồi bên chiếc bàn nhỏ và đọc tạp chí Sports Illustrated. Thầy Nunley nom như một triệu tuổi với cặp kính lão, móm mém và mái tóc nhờn màu xám lượn sóng. Ông nhắc tôi nhớ đến Nhà Tiên Tri ở Trại Con Lai – vốn là một xác ướp quắt queo – ngoại trừ việc thầy Nunley di chuyển nhiều hơn và chưa bao giờ toả ra khói xanh. Ừm, ít nhất cũng không phải giống như tôi quan sát.

Matt Sloan hỏi: “Thưa huấn luyện viên, em làm đội trưởng được không?”

“Hả?” Huấn luyện viên Nunley ngước nhìn lên khỏi tờ tạp chí. “Ừ”, ông lầm bầm. “Ừm, ừm.”

Sloan cười toe toét và đảm đương việc chọn người. Nó bắt tôi làm đội trưởng của một nhóm khác. Nhưng điều đó không có nghĩa tôi cũng được lựa chọn vì tất cả các vận động viên và những đứa trẻ được ái mộ trong trường đều về phe Sloan. Và cả nhóm học sinh tham quan trường to lớn ấy nữa.

Về phía đội của tôi, tôi chỉ có Tyson, con mọt máy tính Corey Bailer, Raj Mandali – người cực kỳ xuất sắc môn toán và hơn nửa tá con nít là những kẻ luôn bị Sloan và đám bạn nó quấy rối. Thường thì tôi chỉ luôn hoà hợp với Tyson – mình cậu ấy đã đáng giá bằng nửa đội – nhưng nhóm học sinh tham quan trường ở đội Sloan hầu hết lại cao lớn, nhìn có vẻ mạnh mẽ như Tyson và chúng có tới sáu tên.

Matt Sloan đổ một cái lồng đầy bóng ra giữa sàn tập.

“Sợ”, Tyson lẩm bẩm. “Có mùi ngồ ngộ.”

Tôi nhìn cậu ấy: “Cái gì có mùi ngồ ngộ?” Vì tôi không cho rằng cậu ấy đang nói về chính mình.

“Chúng.” Tyson chỉ về những người bạn mới của Sloan. “Có mùi ngồ ngộ.”

Nhóm học sinh tham quan trường đang bẻ các đốt ngón tay và nhìn chòng chọc vào chúng tôi như thể sắp đến thời khắc tàn sát. Tôi không thể không tự hỏi chúng đến từ đâu. Một nơi mà họ cho bọn trẻ ăn thịt sống và đánh chúng bằng roi vọt.

Sloan thổi còi của huấn luyện viên và trận đấu bắt đầu. Đội của Sloan chạy tới vạch trung tâm. Phía đội tôi, Raj Mandali hét lên thứ gì đó bằng tiếng Hindu, hình như “Tớ phải đi vệ sinh!” và chạy như bay về phía cửa. Corey Bailer cố luồn vào phía sau tấm thảm treo tường để trốn. Phần còn lại trong đội chúng tôi đang ngồi co rúm lại sợ hãi và nom không giống như những mục tiêu tí nào.

“Tyson”, tôi nói, “Chúng ta…”

Một trái bóng đập rầm vào phần ruột tôi. Tôi nện mông mạnh xuống giữa sàn nhà thi đấu. Đội bên kia đang phá ra cười như nắc nẻ.

Mắt tôi như mờ đi. Tôi có cảm giác mình vừa được một con khỉ đột thực hiện kỹ thuật cấp cứu chống nghẹt thở. Tôi không thể tin được ai đó lại có thể ném mạnh như thế.

Tyson hét lên, “Percy, cúi đầu xuống!”

Tôi lăn mình khi một quả bóng ném khác bay vụt qua tai tôi với tốc độ âm thanh.

“Whooom!”

Nó đập mạnh vào tấm thảm treo tường và Corey Bailer kêu ầm lên.

“Này!” Tôi hét lớn về phía đội của Sloan. “Bọn mày có thể sẽ giết chết ai đó.”

Một trong nhóm học sinh tham quan trường tên Joe Bob nhìn tôi cười cay độc. Không hiểu sao bây giờ nom nó to hơn… thậm chí còn cao hơn cả Tyson. Bắp tay nó cuồn cuộn dưới lớp áo thun. “Tao hy vọng thế, Perseus Jackson à! Tao hy vọng thế!”

Cái cách hắn nói tên tôi khiến tôi ớn lạnh sống lưng. Không ai gọi tôi bằng cái tên Perseus trừ những người biết rõ thân thế thực sự của tôi. Bạn bè… và kẻ thù.

Tyson đã nói gì nhỉ? Chúng có mùi ngồ ngộ.

Quái vật.



Chú thích:

(1) Bóng ném: Một môn thể thao quen thuộc của đa số các trường Đại học ở Mỹ hay Canada. Trong trò chơi này, phân chia số người làm hai đội, mỗi đội sẽ cố gắng ném bóng trúng đội đối phương và né những quả đối phương ném trả, đội nào bị ném trúng hết cả đội sẽ thua cuộc. (ND)

(2) Ghế túi: Được sáng tạo bởi một nhóm nhà thiết kế người Ý: Piero Gatti (1940), Cesare Paolini (1937) và Franco Teodoro (1939) vào năm 1968 cho công ty Zanotta, Italy. Mẫu ghế đầu tiên có hình dáng như quả lê với chất liệu da. Tuy nhiên, sản phẩm được sản xuất đại trà được làm bằng chất liệu vinyl và được đổ đầy hạt nhựa (polystyrene plastic pellets). Mẫu ghế túi đã làm một cuộc cách mạng mới trong khái niệm về các loại ghế có thiết kế cứng nhắc, không linh động. Ngoài ra, sản phẩm này trở thành một hiện tượng của thế giới và một biểu tượng hang đầu trong nội thất những năm 1970. Lý do là mẫu ghế này nằm sát sàn nhà và thích hợp với vị trí nằm ườn của con người. Ngoài ra, các nhà thiết kế lại thích vì nó là mẫu ghế có trọng lượng nhẹ và linh động. Các nhà trị liệu khám phá rằng loại ghế này có ích cho những trẻ gặp vấn đề về cảm giác.

Sách chú thích dông dài quá, các bạn nhìn hình ảnh trực quan dưới đây cho dễ tưởng tượng nhé



(3) Chúa Ruồi: Là tiểu thuyết đầu tay của tác giả William Gerald Golding (19/09/1911 – 19/06/1993) được xuất bản năm 1954 (dựng thành phim năm 1963 và 1990) kể về những cậu bé Anh bị lạc trên một hoang đảo sau khi máy bay chở chúng đi sơ tán bị bắn hạ trong một cuộc chiến tranh nguyên tử. Trong môi trường không có người lớn, chúng đã tỏ ra cứng rắn không ngờ. Ban đầu cuốn tiểu thuyết bị 21 nhà xuất bản từ chối, nhưng sau khi in, nó lại trở nên nổi tiếng ngay lập tức, trở thành giáo trình văn học tại Anh, Mỹ và nhiều nước châu Âu. Đây được xem là kiệt tác của thế kỷ 20 và góp phần đưa tác giả đến với giải Nobel Văn học năm 1983. (ND)

(4) Chó chọi Pitbull: Được xem là hung thần của các loại chó chọi. Pitbull có gốc gác từ châu Mỹ xa xôi. Đặc điểm nổi trội của giống chó này là bảo vệ lãnh địa, bảo vệ chủ nên chúng có thể chiến đấu đến hơi thở cuối cùng khi có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa. Chó Pitbull có rất nhiều màu lông: vàng, đen, trắng… hay màu xanh thiên thanh. Chính vì những đặc tính đặc biệt của dòng Pitbull, phong trào nuôi chó loại này phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước. (ND)



(5) Marrow sucker: Kẻ hút tuỷ.

(6) Skull eater: Kẻ ăn óc.

(7) Tie-dye: Phong cách Tie-dye bắt nguồn từ cách buộc nhuộm Shibori nhằm tạo hoa văn cho áo Kimono của Nhật Bản từ thế kỷ thứ VII. Ở châu Phi, phong cách này cũng ra đời từ rất sớm và thường được coi là nguồn cảm hứng cho phong cách thời trang Hippie tại Âu Mỹ sau này. Ngày nay, vải Tie-dye thường dùng để may váy, áo, làm khăn quàng cổ, thậm chí là túi xách, giày dép và các phụ kiện. Đúng như tên gọi của mình, Tie-dye chính là cách tạo hoa văn, hoạ tiết cho vải bằng cách buộc túm và nhuộm màu tuỳ thích. Sau khi thuốc nhuộm ngấm khô, mảnh vải sẽ là tổng hoà của những vệt màu loang lổ đầy ngẫu hứng. Có các loại vải Tie-dye như Tie-dye với vòng xoắn trung tâm, Tie-dye sọc, Tie-dye vòng tròn, Tie-dye dạng tia nắng, Tie-dye hình xoắn ốc, hình chữ V hay Tie-dye tự do… Mỗi loại vải này sẽ có hoa văn, hoạ tiết khác nhau tuỳ theo kỹ thuật cũng như ý đồ của người nhuộm. (ND)


Do đứt cáp quang nên mạng quá chậm, mình không chèn được hình minh hoạ Tie-dye cho các bạn, đành bổ sung sau vậy nhé
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
Đăng lúc 13-5-2016 22:37:14 | Chỉ xem của tác giả
THÔNG BÁO


Xin chào bạn!

Trước tiên, cám ơn sự đóng góp của bạn dành cho box.

Hiện nay, box đang tiến hành sắp xếp lại để gọn gàng hơn.

Trong quá trình sắp xếp, bọn mình thấy bạn đã ngừng thread hơn 2 tháng và không có bất cứ thông báo nào đến độc giả.

Vậy nên 5 ngày sau thông báo này, nếu vẫn không có chương mới, bọn mình sẽ tiến hành các biện pháp xử lý thích hợp.

Mong bạn hiểu và thông cảm!

Thân mến!

Mod
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
Đăng lúc 26-6-2016 14:45:56 | Chỉ xem của tác giả
xin chào mọi người,
từ nay mình sẽ đăng tiếp truyện này. hi vọng mọi người sẽ ủng hộ
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
Đăng lúc 27-6-2016 21:36:56 | Chỉ xem của tác giả
  CHƯƠNG 2. TT.

Vây quanh Matt Sloan, nhóm học sinh tham quan trường đang lớn dần lên. Chúng không còn là những đứa trẻ nữa, mà trở thành những người khổng lồ cao tới hai mét rưỡi với những đôi mắt hoang dại, hàm răng nhọn hoắt, những cánh tay lông lá xăm trổ đầy rắn, các cô gái Hawaii và những trái tim Valentine.
Matt Sloan để rơi quả bóng của nó: “ Woa, bọn mày không ở Detroit. Vậy bọn mày…”
Những đứa trẻ khác trong đội nó bắt đầu hét lên thất thanh và chạy lùi về phía cửa ra vào Nhưng gã khổng lồ có tên Kẻ Hút Tủy đã ném quả bóng một cách chính xác. Nó bay vọt qua người Raj Mandali khi nó chuẩn bị rời đi và đập mạnh vào cánh cửa, đóng sầm cửa lại như trò ma thuật. Raj và một số đứa trẻ khác liều đập mạnh vào cánh cửa nhưng nó không thèm nhúc nhích.
“Để họ đi!” Tôi hét lên với đám khổng lồ.
Gã Joe Bob càu nhàu với tôi. Gã có một hình xăm trên bắp tay với dòng chữ: JB luvs Babycakes. “ Định làm mất mấy miếng ngon của chúng ta sao? Không đời nào, thằng con trai Thần Biển kia. Anh em nhà Laistrygonian chúng ta không đùa với cái chết của ngươi đâu. Chúng ta muốn bữa trưa cơ!”
Gã khẽ phất tay và một dãy bóng ném mới xuất hiện ở vạch trung tâm, nhưng những quả bóng này không phải được làm từ cao su đỏ. Chúng bằng đồng, cỡ như đạn súng đại bác, khoan lỗ giống như những trái Wifflebanws tung lửa từ lỗ ra. Chúng ắt phải cực kỳ nóng, nhưng những tên khổng lồ nhấc chúng lên bằng tay.
“ Huấn luyện viên!” Tôi gọi to.
Huấn luyện viên Nunley ngước nhìn với vẻ mặt ngái ngủ. nhưng nếu thầy ấy thấy được bất cứ điều gì bất thường  về trận bóng ném, thầy ấy đã không giả vờ. đó là vấn đề của người thường. sức mạnh ma thuật có tên Màn Sương Mù đã che đi diện mạo thật sự của những tên quái vật và thần thánh từ cái nhìn của họ. vì thế, người thường chỉ nhìn thấy những gì họ có thể hiểu. Có lẽ huấn luyện viên đã nhìn thấy một nhóm học sinh lớp tám đang “giã” mấy nhóc tì như bình thường. Có lẽ những đứa trẻ khác cũng chỉ nhìn thấy những kẻ côn đồ của Matt Sloan đang chuẩn bị ném bom xăng (1) (Đây không phải là lần đầu). dù sao đi nữa, tôi cũng đoan chắc rằng không một ai có thể nhận ra chúng tôi đang phải đối phó với một lũ quái vật khát máu chuyên ăn thịt người chính cống
“ Ừm, ừm,” huấn luyện viên làu bàu. “Chơi được đấy”
Và ông quay lại với tờ tạp chí
Một gã khổng lồ có tên Kẻ Ăn Óc ném bóng của hắn. Tôi lao sang một bên khi một luông sao chổi bằng đồng bốc chảy bay sượt qua vai tôi.
“Corey!” Tôi hét lên
Tyson kéo cậu ấy ra khỏi tấm thảm ngay khi quả bóng đập vào nó và nổ tung, biến nó thành những mảnh vụn nghi ngút khói.
“Chạy đi!”  tôi nói với những thành viên khác trong đội mình. “ Ra cửa thoát hiểm khác đi!”
Họ chạy về phí phòng để đồ nhưng một cái vẫy tay khác của Joe Bob, cánh cửa đó cũng bị đóng sầm lại.
“Không ai có thể đi, trừ phi mày chết!” Joe Bob gầm lên “và mày không thể chết cho tới khi chúng tao ăn thịt mày.”
Hắn liền quăng trái bóng lửa của của mình. Các thành viên trong đội tôi chạy toán loạn khi trái bóng lửa nổ và tạo thành một miệng hố trên sàn phòng thể dục.
Tôi gắng tiến về phía cây bút Thủy Triều mà tôi vẫn luôn để trong túi. Nhưng rồi tôi nhận ra mình đang mặc quần sooc thể thao. Tôi không có túi nào cả. Thủy Triều nằm trong quần jeans của tôi, và được đặt trong ngăn để đồ. Cánh của phongfb tập đã đóng kín. Tôi hoàn toàn không có khả năng tự vệ
Một quả bóng khác đang bay nhanh về phía tôi. Tyson đẩy mạnh tôi ra khỏi hướng bay của quả bóng lửa, nhưng vụ nổ của nó vẫn hoàn toàn thổi bay tôi. Tôi nhận thấy mình đang nằm song soài trên sàn tập, choáng váng bốc khói, chiếc áo thun có hoa văn nhuộm tie-dyed tới tấp đày những  lỗ thủng còn đang kêu xèo xèo. Phía bên kia vạch giữa, hai tên khổng lồ đói khát đang trừng trừng nhìn tôi
“ Thịt tươi!” Bọn chúng rống lên. “Thịt tươi của anh hùng cho bữa trưa!” cả hai đều nhắm vào tôi.
“ Percy cần giúp đỡ” Tyson kêu to và lao ra trước mặt tôi ngay khi chúng ném bóng tới
“ Tyson!” Tôi gào to nhưng đã quá muộn
Cả hai quả bóng đều ném vào người cậu ấy… nhưng không… cậu ấy đã bắt được chúng. Không biết làm sao mà Tyson – người quá vụng về tới mức làm đahs đỏ dụng cụ thí nghiệm, làm hỏng đồ ở sân chơi – nhưng lại có thể  bắt được hai quả bóng kim loại bốc lửa đang lao tới cậu ấy với tốc đọ hang tỉ dặm một giờ. Cậu ấy ném ngược lại về phái chủ nhân của chúng, những người còn đang đầy kinh ngạc. Chúng hét lên hoảng loạn, “Ch…ê…ết rồi!” khi những quả cầu đồng đó nổ tung vào ngực chúng
Hao gã khổng lồ bị phân hủy trong hai cột lửa – một dấu hiệu chắc chắn cho thấy chúng là quái vật.  Quái vật không hề chết. chúng chỉ bị tan biến thành khói và bụi, những thứ giúp các anh hung khỏi phải bận tâm việc quét dọn sau mỗi trận đấu
“ Các anh em của ta!” Joe Bob Kẻ Ăn Thịt gào khóc. Hắn cong cơ bắp lên và hình xăm Babycakes của hắn bị xé toạc ra. “ Mày sẽ phải trả giá về cái chết của họ!”
“ Tyson!” Tôi nói “ coi chừng!"
Một sao chổi khác lại bay rít lên lao về phía chúng tôi. Tyson chỉ kịp hất mạnh nó sang một bên. Quả bóng bay sượt qua đầu huấn luyện viên Nunley và rơi xuống khan đài với  một tiếng nổ KA – BOOM  lớn
Lũ trẻ chạy vòng vòng và gào khóc, cố tránh những miệng hố đàn sôi xèo xèo trên sàn. Những đứa trẻ khác đập mạnh vào cửa, kêu cứu. Sloan đứng đơ ra ở giữa sân tập, hoài nghi  nhìn về những quả bóng thần chết đang vây quanh mình
Huấn luyện viên Nunley vẫn không nhìn thấy gì. Ông gõ gõ vào dụng cụ trợ thính như thể những vụ nổ vừa rồi đã làm nhiễu chúng, nhưng ông vẫn không chịu rời mắt khỏi cuốn tạp chí.
Chắc chắn rằng cả trường có thể nghe thấy những tiếng ồn vừa rồi. Thầy hiệu trưởng, cảnh sát, một ai đó sẽ đén giúp chúng tôi.
“Chúng tao luôn là người chiến thắng!” Joe Bob kẻ Ăn Thịt Người gầm lên. “Chúng tao sẽ nhai xương mày!”
Tôi muốn nói  với hắn rằng hắn đã quá xem trọng trò chơi bóng ném này. Nhưng trước khi tôi kịp nói, hắn đã nhấc lên một trái bóng khác. Ba thằng khổng lồ kia cũng bắt chước theo.
Tôi biết chúng toi sẽ chết. Tyson không thể làm chệch hướng tất cả các quả bóng cùng một lúc. Tay cậu ấy đã bị bỏng rất nặng từ lần cản phá quả bóng đầu tiên. Không có cây kiếm của tôi…
Tôi nảy ra một ý tưởng điên rồ.
Tôi chạy về phía phòng thay quần áo.
“Tránh ra!” Tôi nói với các bạn trong đội mình. “Tránh xa cái cửa ra!”
Những tiếng nổ lien tiếp vang lên phía sau lưng tôi. Tyson đã đánh bật hai trái bóng quay trở lại với chủ nhân nó và biến chúng thành tro bụi
Chỉ còn sót lại hai tên khổng lồ.
Trái bóng thứ ba lao thẳng về phía tôi. Tôi buộc mình phải chờ đợi – một Mississippi, hai Mississippi(2) – và ngoặt sang một bên khi trái cầu đỏ rực đó phá tan cửa phòng thay quần áo
Giờ đây, tôi đoán rằng khí gas tích tụ lại trong các phòng thay đồ của tụi con trai đủ để gây ra vụ nổ. bởi thế tôi không hề ngạc nhiên khi quả bóng cháy rực lại kéo theo một vụ nổ lớn nữa!
Bức tường bị thổi bay. Các cánh cửa ở ngăn để đồ, vớ, vật dụng thể thao và vô số đồ dùng cá nhân dơ dáy khác ồ ạt trút xuống phòng tập.
Tôi quay lại đúng lúc khi nhìn thấy Tyson thụi mottj quả vào mặt Kẻ Ăn Óc. Gã khổng lồ sụp xuống. nhưng gã cuối cùng, Joe Bob, đã khôn ngoan giữ lại trái bóng của mình và chờ đợi cơ hội. gã ném nó ngay khi Tyson vừa quay lại đối mặt với gã.
“Không!” Tôi gào lên
Trái bóng đập thẳng vào ngực Tyson. Cậu ấy trượt dài trên sàn và đâm sầm vào bức tường phía sau, khiến nó nứt rạn và một phần của nó đỏ ụp lên phía trên người cậu ấy, tạo nên một cái hốc nhắm thẳng ra Phố Nhà Thờ. Tôi không tưởng tượng được làm thế nào ma Tyson còn sống, nhưng nom cạu ấy chỉ hơi choáng váng. Trái bóng đồng vãn nhả khói ngay chân cậu ấy. Tyson cố để nhặt nó lên, nhưng cậu ấy ngã người vào đống gạch đang cháy dở, bất tỉnh
“Hay lắm!” joe Bob hả hể reo lên. “Tao là người cuối cùng đứng đây! Tao sẽ có đủ thịt để mang cho Babycakes một “túi chó con(3)!”
Gã nhấc thêm một quả bóng nữa nhắm thẳng vào Tyson.
“Dừng lại!” Tôi hét vang. “ Tao mới là người mày cần!”
Tên khổng lồ cười toe toét. “ Mày mong chết trước phải không, thằng anh hùng nhãi nhép kia?”
Tôi phải làm điều gì đó. Cây Thủy Triều đang ở đâu đó quanh đây.
Rồi tôi nhận ra quần jeans trong đống quần áo đầy khói ngay dưới chân gã khổng lồ. Nếu tôi có thể tới đó… Tôi biết điều này thật tuyệt vọng nhưng tôi phải tấn công gã
Gã khổng lồ cười phá lên. “Bữa trwwacuar ta đang đến.” Gã đưa tay lên chuẩn bị ném. Tôi đứng yên chờ chết.
Đột nhiên cơ thể gã khổng lồ cứng đờ. Nét mặt gã thay đổi từ hả hê sang ngạc nhiên. Ngay nơi cái rốn của gã, chiếc áo thun rách toạc và gã mọc ra một cái gì đó như cái sừng, không, không phải một cái sừng, mà là đầu của một lưỡi dao sáng bóng.
Trái bóng tuột ra khỏi tay gã. Con quái vật nhìn chằm chằm vào con dao vừa đâm xuyên qua mình từ phía sau.
Gã thì thào “Ôi” và biến mất trong một đám lửa xanh lục mà tôi đoán là sẽ làm Babycakes đau buồn.
  
~~~to be continue ~~~~~~
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
Đăng lúc 3-7-2016 18:31:29 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 2 .TT.
Người đang đứng trong đám khói đó là bạn tôi – Annabeth. Mặt cô ấy đầy bụi và vết sước. cô ấy khoác một cái ba lô rách tả tơi sau lưng. Chiếc mũ bóng chày của cô ấy vo tròn nhét vào trong túi. Trên tay cô ấy là một con dao bằng đồng và ánh nhìn hoang dại tràn ngập trong đôi mắt màu xám của cô ấy như thể những con ma đã đuổi theo cô ấy hàng nghìn dặm.
Matt Sloan, người đã đứng chết lặng ở đó trong hầu hết thời gian, cuối cùng cũng minh mẫn trở lại. Cậu ta nháy mắt với Annabeth, như thể cậu ta lờ mờ nhận ra cô ấy từ tấm hình trong cuốn sổ của tôi. “Đó là cô gái… Đó là cô gái…”
Annabeth đấm ngay vào mũi cậu talamf cậu ta ngã lăn trên sàn. “Và mày,” cô ấy nói. “tránh xa bạn tao ra.”
Phòng thể dục bốc cháy. Lũ trẻ vẫn đang chạy vòng quanh kêu gào. Tôi nghe tiếng còi báo động vang lên và một giọng nói bị méo đi qua hệ thống lien lạc. Qua lớp cửa kính cửa thoát hiểm, tôi có thể nhìn thấy thầy hiệu trưởng Bonsai đang đánh vật với cái khóa. Một đám đông các thầy cô đang nhốn nháo sau lưng ông.
“Annabeth…” tôi lắp bắp. “Làm thế nào mà cậu… Mất bao lâu mà cậu…”
“Mất cả sáng nay đấy.” cô ấy cất con dao kim loại đi. “Tớ đã cố tìm thời điểm tốt để nói chuyện với cậu, nhưng cậu chẳng bao giờ ở một mình”
“Cái bóng mà mình thấy sáng nay, đó là…” Tôi cảm thấy mặt mình nóng lên. “Ôi chúa ơi, cậu đã nhìn vào cửa sổ phòng ngủ của tớ sao?”
“Không có thời gian để giải thích đâu!” cô ấy nói một cách cáu kỉnh dù mặt cũng hơi đỏ. “Tớ chỉ không muốn…”
“Ở đây!” Một người phụ nữ thét lên. Cánh cửa bật tung và đám người lớn ùa vào
“Gặp tớ ở bên ngoài nhé!” Annabeth dặn tôi. “Và cậu ấy nữa”. Cô ấy chỉ vào Tyson – người vẫn đang choáng váng ngồi tựa lưng bức tường. Annabeth  nhìn cậu ấy với ánh mắt không thiện vảm tới mức tôi hoàn toàn không  hiểu nổi. “Tốt nhất cậu mang cậu ấy đi.”
“Cái gì?”
“không có thời gian đâu!” Cô ấy giục. “Nhanh lên!”
Cô ấy đội chiếc mũ bóng chày Yankees lên đầu – đó cũng là một món quà phép thuật  do mẹ cô ấy tặng và ngay lập tức cô ấy biến mất
Chỉ còn mình tôi dứng chơ vơ giữa phòng thể dục đang cháy khi thầy hiệu trưởng hối hả lao vào với phân nửa giáo viên của trường và một số cảnh sát.
“Percy Jackson?” Thầy Bonsai hỏi. “Cái gì?... Sao lại?...”
Bên kia bức tường đổ, Tyson rên rỉ và đứng trên đám gạch còn đang cháy dở. “Đầu đau.”
Matt Sloan cũng đang đi đến. nó nhìn tôi đầy khiếp sợ. “Percy đã làm đấy, thưa thầy Bonsai. Nó đã thiêu cháy cả khu nhà này. Huấn luyện viên Nunley sẽ kể cho thầy nghe. Thầy ấy đã chứng kiến tất cả.”
Huấn luyện viên Nunley đang đọc cuốn tạp chí thật trịnh trọng nhưng với vận may của tôi – ông lại chọn đúng thời điểm khi Sloan nhắc đến ông. “Ờ? Đúng vậy, ừm ừm.”
Những người lớn khác quay lại về phía tôi. Tôi biết họ sẽ không bao giờ tin tôi, dù tôi có kể ra sự thật
Tôi lấy câu thủy triều ra khỏi túi quần jeans đã cháy của tôi, nói với Tyson, “Đi thôi!” rồi nhảy qua lỗ hổng ở mặt bên của tòa nhà.

HẾT CHƯƠNG 2
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
Đăng lúc 9-7-2016 21:50:55 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 3. CHÚNG TÔI ĐÓN TAXI CỦA CHỊ EM NHÀ GREY

Anabeth đang đứng chờ chúng tôi trong một con hẻm ở cuối Phố Nhà Thờ. Cô ấy kéo Tyson và tôi khỏi vỉa hè khi chiếc xe cứa hỏa kêu ing ỏi lao vụt qua về phía trường Meriwether.

“Cậu tìm thấy cậu ấy ở đâu thế?” cô ấy hỏi gặng, chỉ về phía Tyson.


Giờ đây trong hoàn cảnh khác, tôi thực sự vui mừng khi gặp lại cô ấy. Chúng tôi đã làm lành vào mùa hè năm ngoái, bất chấp một thực tế rằng mẹ cô ấy là Athena, người không hòa thuận với bố tôi.  Tôi nhớ Annabeth nhiều hơn những gì tôi muốn thừa nhận
Nhưng tôi vừa bị lũ khổng lồ ăn thịt người tấn công và Tyson đã cứu tôi ba hoặc bốn lần. Và tất cả những gì mà Annabeth có thể làm là nhìn cậu ấy đầy giận dữ như thể cậu ấy chính là vấn đề.


“Cậu ấy là bạn tớ,” tôi nói với Annabeth.


“Cậu ta vô gia cư phải không?”


“Việc ấy thì có vấn đề gì nào? Cậu ấy có thể nghe thấy cậu nói đấy, cậu biết không? Tại sao cậu không tự đi hỏi cậu ấy"
Cô ấy nhìn đầy kinh ngạc. “Cậu ta có thể nói được sao?”
“Tớ nói đươc,” Tyson thừa nhận. “Cậu rất xinh.”
“ Ôi, khiếp quá!” Annabeth tránh xa khỏi cậu ta.


Tôi không thể tin nổi cô ấy lại khiếm nhã như thế. Tôi đã kiểm tra tay của Tyson vì tôi chắc rằng chúng đã bị cháy xém bởi những quả bóng ném bốc cháy kia, nhưng nom chúng vẫn bình thường với đầy bụi và sẹo với các đầu móng tay có kích thước khoai tây chiên hơi bẩn, nhưng chúng luôn trông như vậy cơ mà. “Tyson.” Tôi nói với sự hoài nghi. “Tay cậu thậm chí không hề bị cháy xém.”
“tất nhiên là không,” Annabeth cằn nhằn. “tớ chỉ ngạc nhiên về bọn Laistrygonians căm ghét cậu đến mức tấn công cậu với cậu ta.”
Tyson có vẻ ngưỡng mộ mái tóc vàng của Annabeth. Cậu ta cố gắng để chạm vào nó nhưng  cô ấy đã đánh và hất tay cậu ấy ra
“Annabeth,” tôi nói “cậu đang nói cái gì thế? Laistry gì cơ?”
“Laistrygonians.  Những tên quái vật trong phòng thể dục ây. Chúng thuộc chủng tộc ăn thịt người khổng lồ sống ở phía bắc xa xôi cơ. Odysseus đã gặp phải chúng một lần, nhưng tớ chưa bao giờ thấy chúng ở miền nam xa xôi như New York trước đó.”
“ Laistry… Tớ thậm chí không thể nói được. Cậu gọi chúng bằng tiếng Anh là gì?”
Cô ấy suy nghĩ một lúc. “Canadians”, cô ấy quyết định. “Nào, đi thôi. Chúng ta phải ra khỏi đây.”
“Cảnh sát sẽ theo sau tớ.”
“ Đó là vấn đề nhỏ nhất của chúng ta,” cô nói. “Dạo này cậu có nằm mơ không?”
“những giấc mơ về… Grover ư?”
Mặt cô ấy trở nên xanh lè. “Grover? Không, Grover thì sao?”
Tôi kể ra cơn ác mộng của mình. “Tại sao? Cậu đã nằm mơ thấy gì?”
Mắt cô ấy đầy kích động, như thể những suy nghĩ của cô ấy đang chạy đua với tốc độ một triệu dặm một giờ.
“Trại,” rốt cuộc cô ấy cũng chịu thốt lên. “Có rắc rối lớn ở trại.”
“Mẹ tớ cũng nói về điều tương tự. Nhưng rắc rối kiểu gì?”
“Tớ không biết chính xác. Có thứ gì đó không ổn. Chúng ta phải tới đó ngay. Bọn quái vật đeo đuổi theo tớ trên mọi nẻo đường từ Virginia, cố chặn tớ lại. Cậu có bị tấn công nhiều không?”
Tôi lắc đầu. “Chẳng bị tí gì suốt cả năm… cho tới tận hôm nay.”
“Không ư ? nhưng bằng cách…” Mắt cô ấy nhìn sang Tyson. “Ồ.”
“Ồ có nghĩa là sao?”
Tyson giơ tay lên như thể cậu ấy vẫn đang ngồi trong lớp. “Lúc ở phòng thể dục, bọn người Canadians đã gọi Percy bằng cái tên gì đó… Con trai Thần Biển?”
Annabeth và tôi nhìn nhau.
Tôi không biết phải giải thích ra sao, nhưng tôi thấy Tyson đáng được biết sự thật sau khi suýt bị giết.
“Anh bạn to lớn,” tôi nói, “cậu đã từng nghe những câu chuyện xưa về các vị thần Hy Lạp chưa? Như thần Zues, thần Poseidon, thần Athena…”
“Có nghe,” Tyson đáp.
“Ừ… những vị thần này vẫn đang sống. HỌ đi theo nền văn minh phương Tây khắp nơi, sinh sống ở những nước mạnh nhất. Vì thế giờ đây họ đang ở mỹ. Và đôi khi họ có con với con người. Những đứa trẻ đó được gọi là con lai.”
“Ừ,” Tyson nói, như thể vẫn đang chờ đợi tôi nói ra điểm cốt yếu.
“Ừ, Annabeth và tớ đều là con lai,” tôi nói. “Chúng tớ giống như… các-anh-hùng-đang –trong-quá-trình-huấn-luyện. Và bất cứ khi nào bọn quái vật đánh hơi được mùi của bọn tớ, chúng sẽ tấn công. Đó là những gã khổng lồ trong phòng thể dục. chúng là quái vật.”
“Ừ”
Tôi nhìn Tyson chằm chằm. Tôi cảm thấy kinh ngạc và bối rối khi cậu ấy dường như không tỏ vẻ gì kinh ngạc hoặc bối rối về những điều tôi đang nói. “Thế… cậu có tin tớ không?”
Tyson gật đầu. “Nhưng cậu là… Con trai Thần Biển?”
“Ừ,” tôi xác nhận. “Bố tớ là Poseidon.”
Tyson cau mày. Giờ nom cậu ấy rất bối rối. “Nhưng…”
Có tiếng còi réo vang. Một xe cảnh sát lao qua hẻm của chúng tôi.
“Chúng ta không còn thời gian đâu,” Annabeth nói. “Chúng ta sẽ nói tiếp trên taxi.”
“Đi taxi đến trại sao?” tôi hỏi, “Cậu có biết mất bao nhiêu tiền không?”
“Cứ tin tớ.”
Tôi ngần ngừ. “thế còn Tyson?”
Tôi tưởng tượng ra cảnh mình phải hộ tống anh bạn to lớn vào trại Con Lai. Nếu cậu ấy sợ hãi những gã du côn thông thường ở  sân chơi bình thường này thì liệu cậu ấy sẽ ra sao với các á thần trong một trại huấn luyện? mạt khác, cảnh sát sẽ tìm kiếm chúng tôi
“Chúng ta không thể bỏ cậu ấy lại,” tôi quyết định. “Cậu ấy cũng sẽ gặp rắc rối.”
“Ừ.” Annabeth nhìn thật dữ tợn. “ Chắc chắn là chúng ta cần phải đưa cậu ấy theo. Nào, đi thôi.”
Tôi không thích cái cách cô ấy nói như vậy, như thể Tyson là một căn bệnh ghê gớm mà chúng tôi cần phải đưa cậu ấy đến bệnh viện, nhưng tôi vẫn theo cô ấy đi xuôi xuống con hẻm. Cả ba chúng tôi lén lút đi xuyên qua các con phố nhỏ của khu thương mại trong khi một cột khói lớn từ phòng tập thể thao của trường đang dâng lên cuồn cuộn sau lưng tôi
“Ở đây.” Annnabeth ngăn chúng tôi dừng lại ở góc đương Thomas & Trimble. Cô ấy mò mẫm trong ba lô hồi lâu. “Tớ hi vọng vẫn còn sót một.”
Nhìn cô ấy nom tệ hơn so với lúc đầu tôi nhận ra. Cằm cô ấy có một vài vết cắt. các nhánh cây nhỏ và cỏ dính cả vào trong phần đuôi tóc đuôi ngựa của cô ấy, như thể cô ấy đã ngủ vài đêm ở ngoài trời. Những vết cắt trên đường viền của chiếc quần jeans nom đáng ngờ như những vuốt mèo.
“Cậu đang tìm gì thế?” Tôi hỏi.
Còi lại hú lên quanh chúng tôi. Tôi đoán rằng sẽ không lâu trước khi có thêm nhiều cảnh sát đi tuần tra ngang qua, tìm kiếm những tên tội phạm vị thành niên, những kẻ đánh bom phòng tập thể dục. Không còn nghi  ngờ gì nữa, chính Matt Sloan đã khai bậy với họ. Chắc chắn nó đã bẻ cong câu chuyện thành Tyson và tôi là những kẻ ăn thịt người khát máu.
“Tìm ra một đồng rồi. Tạ ơn các vị thần.” Annabeth lấy ra một đồng vàng và tôi nhận ra đó là đồng drachma, tiền của đỉnh Olympus. Nó có hình thần Zues ở một mặt và tòa nhà Empire State nằm ở mặt còn lại
“Annabeth này,” tôi nói “tài xế taxi New York không lấy tiền này đâu.”
“Anakoche,” cô ấy hét lớn bằng tiếng Hy Lạp cổ, “Harma epitribeios!”
Như  thường lệ, khi cô ấy nói bằng thứ tiếng trên đỉnh Olympus, tôi cũng hiểu được ít nhiều. Cô ấy nói, Dừng lại, cỗ xe của sự nguyền rủa!
Điều này không hoàn toàn khiến tôi thấy hứng thú thực sự về kế hoạch của cô ấy.
Cô ấy ném đồng tiền ra giữa đường, nhưng thay cho việc kêu loảng xoảng trên mặt đường thì đồng tiền lại chui ngay xuống bên dưới và biến mất.
Trong giây lát vẫn chưa có gì xảy ra.
Sau đó, đúng chỗ đồng tiền vàng rơi xuống, mặt đường đen sẫm lại. Nó biến đổi dần thành cái bể bơi hình chữ nhật giống kích thước của một chỗ đậu xe – trong đó có chứa dung dịch đỏ như máu đang sôi sùng sục. Một chiếc xe hơi nhô lên từ mớ sền sệt đó.
Đó là một chiếc taxi. Đúng vây, nhưng không giống những chiếc taxi khác ở New York, nó không có màu vàng. Nó có màu xám khói. Ý tôi là nó trông như được tạo thành từ khói, như thể bạn có thể đi băng qua nó vậy. Có một vài từ được in trên cánh cửa xe, kiểu như GYAR SSIRES- nhưng chứng khó đọc của tôi khiến tôi rất khó khăn khi giải mã xem nó nói gì.
Cửa sổ hành khách kéo xuống và một bà già thò đầu ra ngoài. Bà ta có mái tóc hoa râm che phủ cả đôi mắt và nói lầm bần rất khó nghe, như thể bà ta vừa mới tiêm một mũi Novocain. “Hành khách đâu? Hành khách đâu?”
“Ba người tới trại con lai,”  Annabeth đáp. Cô ấy mở cửa ghế sau và vẫy tay gọi tôi vào, như thể đó là chuyện hoàn toàn bình thường.
“Ấy không,” bà già thét lên. “Chúng ta không chở loại này đâu.”
Bà ta chỉ một ngón tay xương xẩu vào Tyson.
Chuyện gì đang diễn ra vậy? Ngày Trêu –chọc-những – Đứa – trẻ -To – xác- và – Xấu – xí sao?
“Sẽ trả thêm”, Annabeth hứa. “Thêm ba đồng vàng nữa khi đến nơi.”
“Được” bà già thét lên.
Tôi miễn cưỡng lê mình vào xe. Tyson chen vào giữa. Annabeth là người cuối cùng vào xe
Nội thất trong xe cũng có màu khói xám nhưng nó mang lại cảm giác như đủ rắn chắc. Ghế kêu răng rắc và lổn nhổn, chả khác gì phần lớn những chiếc xe taxi khác. Không có tấm chắn bằng kính Plesxiglas ngăn chúng tôi với bà già đang lái xe… chờ một chút. ở đó không chỉ có một bà già, mà có đến ba bà. Tất cả đang chen chúc trên chiếc ghế trước. Bà nào cũng có mớ tóc xõa che cả cặp mắt, hai bàn tay xương xẩu và mặc một chiếc áo đầm bằng vải bố có màu than chì.
Bà già đang lái xe nói,”Long Island! Không phụ thu phí tàu điiện ngầm nhé! Ha!”
Bà ta nhấn ga, và đầu tôi đâm sầm vào cái đệm tựa lưng. Một giọng nói được ghi âm từ trước vang lên: Xin chào, tôi là Ganymede, người hầu rượu của thần Zues. Và tôi ra ngoài mua rượu cho Chúa tể Bầu trời, tôi luôn thắt dây an toàn,
Tôi nhìn xuống và thấy một dây xích đen lớn thay cho dây an toàn. Tôi thấy mình chưa bao giờ liều lĩnh… như thế.
Chiếc taxi tăng tốc ở quanh góc đường West Broadway và người đàn bà xám ngồi giữ thét lên, “Coi chừng! Rẽ trái!”
“ Tốt thôi, nếu bà đưa tôi con mắt, Tempest à, tôi cũng có thể thấy điều đó!” Bà lái xe phàn nàn.
Gượm đã. Đưa bà ta con mắt là sao?
Tôi không còn thời gian để hỏi vì người lái xe bẻ lái sang hướng khác để tránh một chiếc xe giao hàng đang lao tới, chaỵ băng lên lề đường với một tiếng thump lớn, rồi phóng như bay tới tòa nhà tiếp đó.
“Wasp!” Bà già thứ ba nói với bà già đang lái xe. “Đưa cho tôi đồng tiền của cô gái kia. Tôi muốn cắn nó,”
“Bà vừa mới cắn nó, Anger f!” Bà già lái xe đáp trả. Tên bà ấy hẳn là Wasp. “giờ đến lượt tôi!”
“ Không phải thế!” Bà già có tên Anger kêu to.
Bà ở giữa, Tempest, gào lên, “đèn đỏ!”
“ Phanh!” Bà có tên Anger gào lên.
Thay vào đó, Wasp lại nhấn ga và lái lên phần đường bê tong, lê rít quanh một góc phố khác và húc ngã một máy bán báo tự động. Bà ấy khiến ruột gan phèo phổi của tôi như bắn tung ở đâu đó trên đườn Broome.
“Xin lỗi,” tôi cất tiếng. “Nhưng …. Bà có thể nhìn thấy không?”
“Không!” Wasp hét ầm lên sau tay lái
“Không!” Tempest cũng hét ầm lên ở giữa.
“Có!” Anger hét lên từ phái cửa sổ.
Tôi nhìn Annabeth. “Họ bị mù sao?”
“Không hoàn toàn,” Annabeth nói. “Họ vẫn còn một con mắt.”
“Một mắt ư?”
“Ừ”
“Mỗi người một mắt sao?”
“Không. Tất cả ba người chỉ có một mắt.”
Ngồi kế bên tôi, Tyson rên rỉ và túm chặt vào ghế. “Cảm giác không tốt tí nào.”
“Ôi, trời.” Tôi nói vì thấy Tyson từng bị say xe trong các chuyến đi dã ngoại của trường và đó không phải là điều bạn muốn ở cùng trong vòng mười lăm mét. “Cố lên, anh bạn to lớn. Có ai đó có túi nôn hay cái gì đó đại loại như thế không?”
Ba bà già quá bận rộn với việc cãi nhau ầm ĩ, không thèm mảy may chú ý tới tôi. Tôi nhìn xéo về phía Annabeth, người đang cố bám chặt vì mạng sống quý giá của mình và tôi đã nhìn cô ấy theo kiểu tại –sao – cậu – lại – làm – điều – này – với – tớ.
“Này,” cô ấy nói, “Taxi chị em nhà Grey là cách nhanh nhất tới Trại đấy.”
“Tại sao cậu không đi nó từ Virginia?”
“ Nơi đó nằm ngoài vùng phục vụ của họ,” cô ấy đáp, như thể điều ấy là hiển nhiên. “Họ chỉ phục vụ trong phạm vi trung tâm New York và những quận quanh đó thôi.”
“Chúng ta có người nổi tiếng trong xe đấy!” Anger kêu to. “Jason. Bà có nhớ cậu ta không?”
“Đừng có nhắc tôi!” Wasp rền rĩ. “Và lúc đó chúng ta đâu có chiếc xe này đâu, đồ bà già gàn dở. Việc đó xảy ra cách đây ba ngàn năm rồi!”
“Đưa cho tôi cái răng nào!” Anger cố túm lấy miệng của Wasp  nhưng Wasp đã hất tay bà ta ra.
“Chỉ khi Tempest đưa cho tôi con mắt!”
“Không!” Tempest rít lên. “Bà đã có nó hôm qua rồi mà!”
“Nhưng tôi đang lái xe, đồ mụ phù thủy già.”
“Xin lỗi nhé! Rẽ! Đó là cách bà rẽ đấy!”
Wasp thình lình quẹo sang đường Delancey, nghiền tôi và Tyson ở giữa cánh cửa. Bà ta tăng ga và chúng tôi bắn thẳng lên cầu Williamsburg với tốc độ bảy mươi dặm một giờ.
Ba chị em này giờ đây đang cãi nhau thực sự. Họ ra sức tát nhau khi Anger cố chộp lấy mặt Wasp và Wasp cố chộp lấy mặt Tempest. Với mái tóc họ bay tung lên, những cái miệng há to, cùng gào thét vào mặt nhau, tôi nhận ra rằng không ai trong số chị em này có đủ răng, trừ Wasp có một chiếc răng cửa duy nhất màu vàng rêu. Thay cho mắt, họ chỉ có mí mắt hõm và đóng lại, trừ Anger có một con mắt xanh lục đỏ ngầu trừng trừng nhìn mọi thứ đầy đói khát, như thế nó nhìn chưa đủ vậy.
Cuối cùng, Anger – người có lợi thế về cái nhìn – đã định nhổ cái răng ra khỏi miệng bà chị Wasp của mình. Điều này khiến Wasp phát điên tới mức bà ta thình lình rẽ ngoặt về phía gờ cầu Williamburge và gào lên, “Ta phải có nó! Ta phaỉ có nó!”
Tyson rên rỉ và ôm chặt lấy bụng.
“Ôi, nếu ai đó có hứng thú,” tôi nói, “ chúng ta sắp chết đây.”
“Đừng lo,” Annabeth nói với tôi, nhưng giọng cô ấy đầy lo lắng. “Chị em nhà Grey biết họ đang làm gì mà. Họ rất khôn ngoan đấy.”
Điều này chỉ đến từ con gái của thần Athena, nhưng tôi không thể đoan chắc một cách chính xác. Chúng tôi đang lướt dọc gờ cây cầu dài bốn mươi mét trên sông East River.
“Ôi, khôn ngoan!” Anger cười toe toét trong chiếc kính chiếu hậu, lộ rõ cái răng mới giật được. “Chúng ta biết mọi thứ mà!”
“Các con phố ở Manhattan!”, Wasp khoác loác, vẫn tấn công chị mình, “Thủ đô của Nepal!”
“Địa điểm mà ngươi tìm kiếm!” Tempest nói thêm.
Đột nhiên hai bà kia đấm thùm thụp vào bà ta và kêu gào, “Yên lặng! Yên lặng! Cậu ta chưa hỏi gì cơ mà!”
“Cái gì?” Tôi cất tiếng. “Địa điểm gì cơ? Tôi không tìm bất cứ thứ gì...”
“Không có gì!” Tempest đáp. “Cậu nói đúng, cậu bé ạ. Không có gì đâu.”
“Nói cho tôi,”
“Không!” Tất cả đều đòng thanh gào lên.
“Lần trước bọn tôi nói ra, mọi việc thật kinh khủng!” Tempest nói
“Mắt đã bị quẳng xuống hồ!” Anger đồng ý.
“Phải mất nhiều năm mới tìm lại được nó!” Wasp rền rĩ. “Và nhân tiện nói về chuyện đó – trả nó lại đây!”
“Không!” Anger la chói lói
“Mắt!” Wasp gào lên. “Đưa đây cho tôi!”
Bà ta giáng một cú mạnh vào lưng của bà chị Anger. Một tiếng nổ bốp đầy ghê tởm cùng thứ gì đó bay ra từ mặt Anger. Anger long ngóng với theo, cô bắt lại nó, nhưng bà ta chỉ có thể quờ quạng vào tay mình. Một cầu mắt màu xanh lầy nhầy trượt trên vai bà ta, rơi xuống cái ghế sau và lọt thẳng vào vạt áo tôi.
Tôi nhảy bật lên, khiến đầu cụng vào trần xe và con mắt đó cũng lăn tròn
“ Tôi không thể nhìn thấy gì hết!” Ba chị em đồng thanh hô to
“Đưa con mắt cho tôi!” Wasp nài nỉ.
“Đưa con mắt cho bà ta!” Annabeth gào lên.
“Tớ không cầm nó!” Tôi đáp.
“Kia kìa, dưới chân cậu đấy,” annabeth nói. “Đừng dẫm lên nó. Nhặt lên đi!”
“Tơ không nhặt nó đâu!”
Chiếc taxi đâm sầm vào lan can cầu và trượt dài với tiếng rít rợn người. Cả chiếc xe rung mình, xì ra làn khói như thể nó chuẩn bị sắp vỡ tung ra
“Tớ sắp nôn ra đây!” Tyson cảnh báo
“Annabeth,” tôi hét lên, “đưa cho Tyson cái balo của cậu!”
“Cậu điên à? Nhặt con mắt lên!”
Wasp giật mạnh vô lăng, chiếc taxi lệch khỏi lan can. Chúng tôi đâm chúi xuống phần cầu đi về hướng Brooklyn, lao nhanh hơn bất kỳ chiếc taxi bình thường nào. Đám chị em nhà Grey kêu thét lên và đấm thùm thụp vào nhau, khóc lóc về con mắt.
Cuối cùng, tôi thu hết cam đảm, xé toạc một mảnh áo thun trên người – chiếc áo đã rách lỗ chỗ bởi vô số vết cháy – và dùng nó để nhặt con mắt trên sàn lên.
“Cậu bé ngoan lắm!” Anger khóc như thể bà ấy biết được tôi có con mắt của bà ấy bị đánh mất. “Đưa nó lại cho ta!”
“Chỉ tới khi bà giải thích đã,” tôi nói. “Các bà đang nói về cái gì? Địa điểm nào mà tôi cần tìm?”
“Không có thời gian đâu!” Tempest khóc nức lên. “Nhanh lên!”
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ xe. Như mong đợi, cây cối, xe cộ và tất cả vùng lân cận  giờ đang lướt qua trong một màn sương màu xám. Chúng tôi đã ra khỏi Brooklyn, đang lao thẳng tới trung tâm của Long Island.
“Percy,” Annabeth cảnh báo, “họ không thể tìm ra điểm đến của chúng ta nếu không có con mắt. Chúng ta vẫn sẽ đi với vận tốc như vậy cho tới khi chúng ta bị xé toạc ra hàng triệu mảnh.
“Họ phải nói cho tớ trước đã,” tôi nói.” Hoặc tớ sẽ mở cửa sổ và ném con mắt xuống chỗ giao thông sắp tới.”
“Không!” Chị em nhà Grey gào lên. “Quá nguy hiểm!”
“Tôi đang hạ cửa sổ xuống đây.”
“Khoan đã,” Chị em nhà Grey thét lên. “Ba mươi, ba mốt, bảy lăm, mười hai!”
Họ đồng thanh gào lên như một tiền vệ đang ra hiệu trước khi trận đấu được bắt đầu.
“Ý bà là gì?” Tôi hỏi, “Điều đó không có nghĩa!”
“Ba mươi, ba một, bảy lăm, mười hai!” Anger rền rĩ. “Đó là tất cả những gì chúng tôi có thể nói được với cậu. Giờ hãy trả mắt cho chúng tôi. Sắp tới trại rồi!”
Giờ đay chúng tôi đã ra khỏi đường cao tốc, đang lướt qua vùng quê  bắc Long Island . Tôi có thể nhìn thấy Đồi Con Lai phái trước chúng tôi với cây thông lớn ở đỉnh – cái cây của Thalia, nơi chứa cuộc sống của một anh hùng đã hy sinh.
“Percy!” Annabeth nói bằng giọng khản thiết hơn. “Đưa con mắt cho họ ngay!”
Tôi quyết định không cãi cọ. Tôi ném con mắt vào lòng Wasp
Bà ta vồ lấy nó, ấn nó vào hốc mắt của mình như thể ai đó đang đeo kính áp tròng và nháy mắt. “Chao ôi!”
Bà ta ấn mạnh vào cái phanh. Chiếc Taxi quay tròn bốn hoặc năm lần trong đám khói và kêu ré lên, đứng khựng lại giữa con đường đi tới trang trại ở phía chân Đồi Con Lai.
Tyson để thoát ra một tiếng ợ lớn. “Tốt hơn rồi.”
“Được rồi,” tôi nói với chị em nhà Grey. “Giờ nói cho tôi biết những con số đó có nghĩa gì.”
“Không có thời gian đâu!” Annabeth mở cửa xe. “Chúng ta phải ra khỏi đây ngay!”
Tôi đang định hỏi tại sao nhưng khi vừa nhìn lên Đồi Con Lai, tôi đã hiểu.
Trên đỉnh đồi là một nhóm trại viên, và họ đang bị tấn công.



HẾT CHƯƠNG 3

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
Đăng lúc 16-7-2016 22:27:03 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 4. TYSON  ĐÙA VỚI LỬA

Nói theo kiểu thần thoại, nếu có thứ gì đó khiến tôi thấy ghét hơn bộ ba bà già thì đó chính là bò đực. Hè năm ngoái, tôi đã chiến đấu với Minotaur trên đỉnh đồi con lai. Lần này thứ tôi thấy còn tồi tệ hơn. Đó là hai con bò đực, và không phải loại bò thông thường – chúng là những con bà bằng đồng có kích thước của những con voi. Nhưng thậm chí điều đó vẫn chưa đủ tồi tệ. Dĩ nhiên, chúng cũng thở ra lửa.
Ngay sau khi chúng tôi ra khỏi taxi, chị em nhà grey hối hả quay về New York – nơi cuộc sống an toàn hơn. Thậm chí họ không kịp chờ khoản ba  đồng drachma trả thêm. Họ chỉ kịp để chúng tôi xuống lề đường, Annabeth với balo đeo vai cùng con dao, Tyson và tôi vẫn trong bộ đồ thể thao loang màu cháy xém.
“ôi, trời!” Annabeth thốt lên khi nhìn lên trận chiến đang diễn ra ác liệt trên đồi
Điều khiến tôi lo lắng nhất lại không phải bản thân những con bò đực. Hay mười anh hùng trong những chiếc áo giáp sắt kiên cố - những người đang đuổi theo sau những con bò. Điều khiến tôi lo lắng là những con bò này đang càn quét khắp qủa đồi, thậm chí vượt sang cả phần bên kia của cây thông. Điều đó không thể xảy ra. Những đường ranh giới phép thuật của trại không cho phép quái vật vượt qua cây thông của Thalia. Nhưng những con bò kim loại này lại làm được điều đó.
Một trong những anh hùng gào to: “đội tuần tra đường ranh giới, đi theo tôi!” Giọng của một người con gái – cộc cằn và khá quen thuộc.
Đội tuần tra đường ranh giới ư? Tôi nghĩ. Trại chưa bao giờ có một đội tuần tra đường ranh giới nào.
“đó là Clairisse,” Annabeth nói. “chúng ta đi giúp cô ấy.”
Thông thường, đổ xô cứu viện Clarisse không nằm trong danh sách “ việc phải làm” của tôi. Cô ta là một trong những đại ca lớn nhất trong trại. Lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, cô ta cố giới thiệu đầu tôi với cái toilet. Cô ta cũng là con gái của thần Ares và tôi đã bất hòa nghiêm trọng với bố cô ta vào hè năm ngoái. Vì thế vị thần chiến tranh này cùng với những đứa con của ông về cơ bản rất ghét lòng quả cảm của tôi.
  Nhưng, cô ta đã gặp rắc rối. Những người bạn chiến đấu của cô ta đang chạy tán loạn, đầy hốt hoảng khi bị lũ bò đực tấn công. Đám cỏ quanh cây thông đang cháy từng vạt lớn. Một anh hùng hét lên và vẫy vẫy hai tay khi anh ta chạy vòng tròn, chùm lông ngựa trên chiếc mũ sắt của anh ta cháy dữ dội như kiểu tóc dựng đứng đang bị đốt cháy. Chiếc áo giáp của Clarisse bị cháy xém. Cô ta đang đánh nhau với một ngọn giáo đã gãy phần mũi, phần còn lại được cắm chặt một cách vô dụng vào khớp kim loại trên vai con bò.
  Tôi mở nắp chiếc bút. Nó tỏa ánh sáng lung linh và cứ dài ra, nặng hơn cho tới khi tôi nắm được thanh kiếm thủy triều bằng đồng nặng trịch trong tay. “Tyson, ở yên đây nhé. Tớ không muốn cậu liều lĩnh làm thêm bất cứ điều gì nữa.”
  “Không!” Annabeth phản đối. “Chúng ta cần cậu ấy.”
  Tôi nhìn cô ấy trừng trừng. “Cậu ấy là con người. Cậu ấy may mắn với những quả bóng lửa nhưng cậu ấy không thể…”
  “Percy, cậu có biết trên đó là những con gì không? Những con bò Colchis, được chính Hephaestus làm ra. Chúng ta không thể đánh nhau với chúng mà thiếu kem chống nắng của Medea loại spf 50,000. Chúng ta sẽ bị nấu cho đến cháy khét đấy.”
  “Cái gì của Medea?”
  Annabeth lục lọi trong chiếc ba lô và càu nhàu. “Tớ có một lọ lớn có mùi dừa nằm trên bàn ở đầu giường ở nhà. Sao tớ lại không mang đi thế?”
  Tôi đã học được một thời gian dài là không nên hỏi Annabeth quá nhiều. Nó chỉ làm tôi thêm bối rối mà thôi. “Nghe này, tớ không biết cậu đang nói cái gì. Nhưng tớ sẽ không để Tyson bị nướng chín đâu.”
  “Percy…”
“Tyson, đứng nguyên đây nhé!” Tôi nâng thanh kiếm lên. “tớ đi đây”
Tyson cố phản đối nhưng tôi đã chạy lên trên đồi, hướng vềClarisse – người đang cố gào thét đội của mình, cố đưa họ vào đội hình phalăng. Đó là một ý tốt. Vài người nghe được đã đứng thành hàng, vai sát vai, khóa khiên lại để hình thành một bức tường bằng đồng để trốn con bò. Những ngọn giáo của họ dựng tua tủa như lông nhím.
  Thật không may, Clarisse chỉ có thể tập hợp được sáu trại viên. Bốn người còn lại vẫn đang chạy vòng quanh với những chiếc mũ sắt đang cháy. Annabeth đang chạy về phía họ và cố gắng giúp. Cô ấy trêu chọc một con bò để nó đuổi theo cô, rồi biến thành vô hình, khiến con quái vật kia hoàn toàn bối rối. Một con bò khác tấn công vào phòng tuyến của Clarisse.
Tôi mới chạy được nửa đường quả đồi, không đủ gần để giúp. Clarisse chưa nhìn thấy tôi.
Con bò lao quá nhanh với thứ nặng nề như vậy. Làn da kim loại của nó ánh lên dưới ánh mặt trời. Mắt nó là những viên hồng ngọc to bằng nắm tay và cặp sừng bằng thép sáng loáng. Khi nó mở cái miệng có khớp nối của nó, một cột lửa có màu trắng và nóng được phun ra.
  “Giữ lấy đội hình!” Clarisse ra lệnh cho binh lính của mình.
  Bất cứ điều gì bạn có thể nói về Clarisse, cô ta thật dũng cảm. Đó là một cô gái vạm vỡ với cặp mắt dữ tợn như cha mình. Cô ta như thể được sinh ra để mặc áo giáp  chiến trận Hi Lạp vậy, nhưng tôi không hiểu được làm thế nào cô ấy lại có thể đứng đó chống trả lại các đợt tấn công của lũ bò cơ chứ.
Không may vào lúc đó, con bò lại mất hứng thú trong việc tìm kiếm Annnabeth. Nó quay đầu lại, phía sau lưng Clarisse, phía cô không được bảo vệ.
“Đằng sau kìa!” Tôi hét lên. “Cẩn thận!”
Lẽ ra tôi không nên nói gì vì tất cả những gì tôi làm lại khiến cô ta giật mình. Con bò số một đâm sầm vào cái khiên của cô ta và đội hình phalăng bị phá vỡ. Clarisse bay ngược ra sau và đáp xuống một mảng cỏ đang cháy âm ỉ. Nó tiếp tục tấn công sau khi thổi bay những anh hùng khác với hơi thở bằng lửa của mình. Những chiếc khiên tan chảy trên tay họ. Họ thả rơi vũ khí và bỏ chạy khi con bò số hai tiến đến gần để giết chết Clarisse.
Tôi lao tới và túm chặt lấy Clarisse bằng chiếc đai da trên chiếc áo giáp của cô ta. Tôi kéo cô ta ra ngay khi con bò số hai to như toa kéo hàng đang lao vút qua. Tôi chém nó một cú tuyệt đẹp bằng thanh kiếm thủy triều và tạo một vết cắt dài và sâu bên sườn nó, nhưng con quái vật đó chỉ nghiến răng ken két, rên rỉ và tiếp tục lao tới.
Nó không chạm vào tôi nhưng tôi có thế cảm nhận sức nóng từ làn da kim loại của nó. Nhiệt độ cơ thể của nó có thể làm chín cả món Burrito được đông lạnh.
“Thả tao ra!” Clarisse đấm thùm thụp vào tay tôi. “Percy, tao nguyền rủa mày!”
Tôi thả cô ta xuống cạnh đống gỗ bên cạnh cây thông và quay lại đối mặt với lũ bò. Chúng tôi đang ở đoạn dốc bên trong quả đồi và thung lũng trại con lai nằm ngay dưới chúng tôi – những căn nhà, những dụng cụ luyện tập, và nhà lớn – tất cả đều gặp nguy hiểm nếu lũ bò này vượt qua chúng tôi.
        Annabeth gào ra lệnh cho các anh hùng khác, kêu họ tản rộng ra và làm cho lũ bò mất tập trung.
        Con bò số một chạy hết một vòng cung lớn, đang từ từ tiến dần về phía tôi. Khi nó băng qua phần giữa quả đồi, nơi đường ranh giới vô hình  khiến nó không thể vượt qua, nó chậm lại một chút như thể nó đang vật lộn chống lại một cơn gió mạnh. Nhưng rồi nó vẫn phá vỡ và lao tới. Con bò số hai quay đầu đối mặt với tôi, lửa phun phì phì từ vết chém mà tôi đã thực hiện một bên người nó. Tôi không thể nói nó có cảm giác đau đớn ra sao, nhưng đôi mắt ruby của nó trừng trừng nhìn tôi như thể tôi đang làm chuyện gì đó trả thù cá nhân vậy.
        Tôi không thể đánh hai con bò cùng một lúc. Tôi phải hạ con bò số hai trước, chém đứt đầu nó trước khi con bò số một tấn công trở lại. Cánh tay tôi đã mệt đừ.  Tôi nhận ra đã rất lâu mình không làm việc với cây thủy triều và cũng rất lâu tôi không chịu luyện tập ra sao.
        Tôi bất ngờ tấn công nhưng con bò số hai thổi lửa về phía tôi. Tôi lăn người sang bên khi không khí hoàn toàn là hơi nóng. Tất cả oxy như rút hết khỏi phổi tôi, chân tôi vướng phải thứ gì đó – có thể là rễ cây – và cơn đau ở mắt cá chân ngày càng lớn hơn. Tuy thế, tôi vẫn thành công trong việc cắt đứt một phần mũi của con quái vật đó. Nó lao khỏi đó với sự điên cuồng và hoàn toàn mất phương hướng. Nhưng trước khi tôi cảm thấy thích thú vì điều đó, tôi cố gắng đứng lên, chân trái tôi đang oằn xuống bên dưới tôi. Mắt cá chân tôi bị bong gân, có thể nó đã bị rạn.
        Con bò số một tấn công thẳng về phía tôi, tôi không có cách nào để bò ra khỏi hướng chạy của nó.
        Annabeth gào lên, “Tyson, giúp cậu ấy đi!”
        Ở đâu đó rất gần phía đỉnh đồi,  Tyson rên rỉ: “không-qua-được!”
        “Tôi, Annabeth Chase, cho phép cậu được vào trại!”
        Tiếng sấm làm rung cả sườn đồi. Đột nhiên Tyson đã ở đó, lao nhanh về phía tôi và hét toáng, “Percy cần giúp đỡ!”
        Trước khi tôi có thể nói không với cậu ấy, cậu ấy đã ở giữa tôi và con bò ngay khi nó thở ra một cơn bão lửa hạt nhân.
        “Tyson!” Tôi hét lớn.
        Luồng hơi xoáy quanh người cậu ấy như một vòi rồng màu đỏ. Tôi chỉ có thể nhìn thấy cái bóng màu đen của cơ thể cậu ấy. Tôi biết chắc chắn một điều kinh khủng rằng bạn tôi vừa bị hóa thành tro.
        nhưng khi ngọn lửa tàn, Tyson vẫn đang đứng đó, hoàn toàn nguyên vẹn. Ngay cả khi bộ quần áo dơ của cậu ấy bị cháy xém. Con bò ắt cũng kinh ngạc như tôi. Vì trước khi nó thổi ra luồng nhiệt thứ hai, tyson đã nắm tay lại và đấm vào mặt nó. “ĐỒ BÒ TỒI TỆ!”
        Nắm đấm của Tyson tạo nên một cái hố ở nơi trước kia từng là cái mõm của con bò bằng đồng này. Hai dòng lửa nhỏ đang bắn ra từ tai nó. Tyson lại đánh nó tiếp, và khối đồng thiếc đó bị dúm dó, đổ gục dưới đôi tay cậu ấy như thể một miếng nhôm cán mỏng. Mặt con bò giờ đây giống hệt một con búp bê làm bằng bít tất bị rút ruột.
        “Nằm xuống!” Tyson hét lên.
        Con bò loạng choạng, ngã ngửa người ra. Bốn chân nó đung đưa run rẩy trong không khí, hơi nước phun ra từ chiếc đầu bẹp dúm của nó.
        Annabeth chạy tới kiểm tra tôi.
        Mắt cá chân tôi như bị ngâm với axit. Nhưng cô ấy đã đưa tôi uống chút rượu từ đỉnh Olympus từ cái biđông của mình và ngay lập tức tôi thấy khá hơn. Tôi ngửi thấy mùi khét mà sau đó nhận ra nó đến từ cơ thể tôi. Lông trên hai cánh tay tôi hoàn toàn cháy trụi.
        “Con bò kia đâu?” Tôi hỏi.
        Annabeth chỉ xuống dưới đồi. Clarisse đang chăm sóc con bò xấu xa số hai. Cô ta đã đâm xuyên cẳng sau của nó bằng ngọn giáo bằng đồng có màu xanh. Và giờ đây với cái mõm đã bị phạt mất một nửa, một vết chém sâu bên mình, nó cố gắng chạy chậm lại theo vòng tròn, như những con vật trong vòng quay ngựa gỗ.
        cCarisse cởi cái mũ giáp sắt và đi về phía chúng tôi. Một lọn tóc màu nâu của cô ấy đang cháy âm ỉ nhưng dường như cô ta không chú ý. “mày – hủy hoại – tất cả mọi thứ!” Cô ta hét lên về phía tôi. “tao đã khống chế được nó!”
        Tôi quá kinh ngạc để đốp lại. Annabeth cằn nhằn, ‘vui được gặp lại cậu đấy, Clarisse.”
        “Argh!” Clarisse gào lên. “đừng bao giờ, BAO GIỜ cố gắng cứu tao lần nữa!”
        “Clarisse,” Annabeth nói, “cậu có trại viên bị thương đấy.”
        Điều này khiến cô ta tỉnh lại. Clarisse thậm chí đã chịu quan tâm tới những người  lính dưới quyền chỉ huy của cô ấy.
        “Tao sẽ quay lại,” cô ta làu bàu rồi lê bước mệt nhọc đi đánh giá những tổn thất của phía mình.
        Tôi nhìn Tyson chòng chọc. “cậu không chết.”
        Tyson nhìn xuống đất như đang rất lúng túng. “Tớ xin lỗi. Đã tới giúp. Đã trái ý cậu.”
        “Là lỗi của tớ,” Annabeth giành. “tớ không có lựa chọn nào khác. Tớ phải để  Tyson vượt qua  đường ranh giới để cứu cậu. Nếu không, cậu sẽ chết mất.”
        “Để cậu ta vượt qua đường ranh giới?” Tôi hỏi. “nhưng…”
        “Percy,” cô ấy nói, “cậu đã bao giờ nhìn thật kỹ Tyson chưa? Ý tớ là… vào mặt ấy. Đừng để ý tới màn sương mù. Hãy thực sự nhìn thẳng vào cậu ấy.”
        Màn sương mù khiến con người chỉ nhìn thấy điều mà não họ có thể xử lý… tôi biết nó có thể đánh lừa luôn các á thần, nhưng…
        Tôi nhìn vào mặt Tyson. Điều này không dễ dàng gì. Tôi luôn gặp khó khăn khi nhìn vào mặt cậu ấy, mặc dù tôi chưa hoàn toàn hiểu nguyên nhân. Tôi từng nghĩ rằng việc đó có thể do cậu ấy luôn dính bơ đậu phụng trên hàm răng lộn xộn. Tôi buộc mình phải tập trung vào cái mũi cà chua to lớn, rồi cao hơn một chút là đôi mắt cậu ấy.
        Không, không phải là đôi mắt.
        Một con mắt. Một con mắt lớn màu nâu nằm ngay giữa trán với lông mi dày, những dòng nước mắt tuôn như thác xuống ở hai bên má cậu ấy.
        “Tyson,” tôi lắp bắp. “Cậu là…”
        “Cyclops,” Annabeth chêm vào. “một đứa trẻ, theo vẻ bề ngoài của cậu ấy. Chắc chắn đó là lý do khiến cậu ấy không thể vượt qua hàng rào ranh giới dễ dàng như lũ bò. Tyson là một trong số những đứa trẻ mồ côi vô gia cư.”
        “Một của những cái gì?”
        “Họ có mặt hầu hết ở tất cả các thành phố lớn,” Annabeth nói với vẻ mặt khó chịu. “họ…là những sai lầm, Percy à. Con cái của các linh thể tự nhiên và các vị thần… Ừm, một vị thần nói chung, luôn luôn… Và họ không phải lúc nào cũng lộ mặt ra đúng không. Không ai cần chúng cả. Chúng bị quẳng sang một bên. Chúng lớn lên tự do trên các đường phố. Tớ không biết làm sao người này lại tìm ra cậu. Nhưng rõ ràng là cậu ấy thích cậu. Chúng ta nên đưa cậu ấy tới chỗ bác Chiron, để bác ấy quyết định cần phải làm gì.”
        “Nhưng ngọn lửa. Làm thế nào…”
        “Cậu ấy là Cyclops mà.” Annabeth ngưng lại, như thể cô ấy đang nhớ ra một điều gì không mấy vui vẻ. “họ làm việc trong lò rèn của các vị thần. Họ phải miễn dịch với lửa. Đó là điều tớ đang cố gắng để nói với cậu.”
        Tôi hoàn toàn bị sốc. Sao tôi lại không nhận ra Tyson là cái gì nhỉ?
        Nhưng tôi không có nhiều thời gian để suy nghĩ. Toàn bộ một bên của quả đồi đang cháy. Các anh hùng bị thương cần được quan tâm. Vẫn còn hai con bò đồng bị đánh ngã chờ xử lý, mà tôi không chắc rằng chúng sẽ vừa mấy cái thùng tái chế bình thường của chúng tôi.
        Clarisse đã quay lại và chùi bồ hóng trên trán. “Jackson này, nếu mày có thể đứng, thì đứng lên. Chúng ta cần phải khiêng mấy người bị thương trở về nhà lớn, báo cho Tantalus biết chuyện gì đã xảy ra.”
        “Tantalus?” Tôi hỏi.
        “Là người điều khiển các hoạt động của trại.” Clarisse đáp với vẻ mất kiên nhẫn.
        “Bác chiron mới là người điều khiển các hoạt động của trại chứ? Thế Argus ở đâu? Anh ấy là trưởng ban an ninh của trại. Anh ấy nên có ở đây.”
        Clarisse nhăn nhó. “Argus bị bỏng. Hai người đã đi quá lâu rồi đấy. Mọi thứ đang  thay đổi.”
        “Nhưng bác Chiron… Bác ấy đã huấn luyện lũ trẻ để chiến đấu với bọn quái vậy hơn ba ngàn năm qua cơ mà. Bác ấy không thể đi được. Điều gì đã xảy ra thế?”
        “Chuyện đó đã xảy ra.” Clarisse cắt ngang.       
        Cô ta chỉ lên cái cây Thalia.
        Tất cả trại viên đều biết về câu chuyện phía sau cái cây này. Sáu năm trước. Grover, Annabeth và hai á thần khác là Thalia và Luke cùng tới trại con lai. Họ bị một nhóm quái vật truy sát. Khi họ bị dồn lên đỉnh đồi, Thalia – con gái của thần Zeus – đã tình nguyện là người cuối cùng đứng lại chiến đấu để các bạn mình có thời gian chạy tới nơi an toàn. Khi Thalia chết, cha cô là thần Zeus đã quá thương xót con gái nên đã hóa kiếp cô vào một cây thông. Linh hồn của Thalia đã tăng thêm sức mạnh cho ranh giới phép thuật của trại, bảo vệ nó trước lũ quái vật. Cây thông từ đó cứ mạnh mẽ và vững chãi ở đó.
        Nhưng giờ đây, những chiếc lá thông đã úa vàng. Rất nhiều lá khô rơi đầy gốc cây. Ở giữa thân cây, cách mặt đát chừng một mét là một vết thủng bằng cỡ một viên đạn, đang rỉ nhựa cây màu xanh.
        Ngực tôi như bị một mảnh đá xuyên qua. Giờ tôi đã hiểu tại sao trại bị nguy hiểm. Ranh giới phép thuật đã không còn hiệu nghiệm vì cây của Thalia đang chết.
        Ai đó đã đầu độc nó.       
       
HẾT CHƯƠNG 4
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
Đăng lúc 6-8-2016 22:02:44 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 5. TÔI CÓ BẠN CÙNG PHÒNG MỚI

        Có bao giờ bạn trở về nhà và phát hiện thấy phòng của mình lộn xộn không? Giống như có vài người có lòng tốt thích giúp đỡ nào đó (con chào Mẹ) đã cố gắng “làm sạch” nó, và đột nhiên bạn không thể tìm thấy bất cứ thứ gì. Và thậm chí nếu không mất thứ gì chăng nữa, bạn vẫn có cảm giác khó chịu như thể ai đó đã ngó nghiêng hết đống đồ cá nhân của bạn và làm sạch tất cả mọi thứ bằng dung dịch đánh bóng đồ nội thất hương chanh?
        Đó là cách tôi cảm nhận được khi quay lại Trại Con Lai.
        Nhìn bề ngoài, mọi thứ trông không có gì khác biệt, Nhà Lớn vẫn nằm ở đó với mái có đầu hồi màu xanh và mái hiên bao quanh. Những cánh đồng dâu tây vẫn phơi mình dưới ánh nắng. Những tòa nhà Hy Lạp có cột trắng vẫn rải rác quanh thung lũng – hý trường, đấu trường, lều ăn tối nhìn ra Long Island Sound. Và nép mình ở giữa rừng cây và con sông nhỏ là các căn nhà giống nhau, một sự phân loại điên rồ của mười hai công trình. Mỗi cái đại diện cho một vị thần trên đỉnh Olympus.
        Nhưng bầu không khí ở đây đang rất nguy hiểm. Bạn có thể nói rằng có điều gì đó sai. Thay vào việc chơi bóng chuyền ở các hố cát, cố vấn và các thần dê lại đang dự trữ vũ khí trong nhà kho dụng cụ. Các nữ thần cây được trang bị cung và tên, nói chuyện với nhau đầy lo lắng bên bìa rừng. Rừng cây trông cằn cỗi, cỏ trên các cánh đồng ngả màu vàng nhạt, và vết lửa cháy trên Đồi Con Lai bật  lên như những vết sẹo xấu xí.
        Ai đó đã làm xáo trộn nơi tôi yêu thích trên thế giới, và tôi đã không còn là… một trại viên hạnh phúc.
        Khi chúng tôi trên đường tới Nhà Lớn, tôi nhận ra rất nhiều bọn nhóc từ  hè năm ngoái. Không ai dừng lại để nói chuyện. Không ai reo lên, “Chúc mừng đã quay về.” Một số vờ kinh ngạc khi thấy Tyson  nhưng hầu hết đều bước nhanh qua và tiếp tục các công việc của mình như chuyển tin, vác kiếm đến mài trên các máy mài. Cả trại nom như một trường học quân sự. Và hãy tin tôi đi, tôi biết rõ mà. Tôi đã bị tống ra khỏi đó hai lần.
        Những việc đó không ảnh hưởng gì nhiều đến Tyson. Cậu ấy hoàn toàn bị mê hoặc bởi tất cả những gì mà cậu ấy nhìn thấy. “Cái gì thế?” cậu ấy hổn hển hỏi.
        “Chuồng cho những con Pegasus,” tôi đáp. “Những con ngựa có cánh ấy.”
        “Còn kia?”
        “Ừm… chúng là nhà vệ sinh thôi.”
        “Còn kia?”
        “Nhà cho các trại viên. Nếu họ không biết rõ bố mẹ cậu là vị thần nào trên đỉnh Olympus, họ sẽ để cậu ở trong nhà thần Hermes – cái màu nâu kia kìa – cho đến khi cậu được xác định rõ. Sau đó, khi họ biết được, họ sẽ cho cậu sống trong nhà của cha hoặc mẹ cậu.
        Tyson nhìn tôi đầy kính sợ. “Cậu… có một căn nhà sao?”
        ‘Nhà số ba.” Tôi chỉ một cái nhà màu xám thâm thấp làm từ đá biển.
        “Cậu sống với bạn bè trong nhà đó chứ?’
        “Không. Không, chỉ mình tớ thôi.’ Tôi không hứng thú với việc giải thích. Nhưng sự thật đáng xấu hổ hơn là: Tôi là người duy nhất sống trong nhà đó vì tôi vốn không được dự kiến được sống. “Bộ Tam Vĩ Đại” – gồm thần Zeus, thần Poseidon, thần Hades – từng có một hẹn ước với nhau rằng sau Chiến tranh thế giới thứ hai, họ sẽ không có thêm con với người thường nữa. Chúng tôi có sức mạnh hơn so với con lai bình thường khác. Chúng tôi là những người khó có thể đoán trước được. Khi chúng tôi nổi cơn giận dữ, chúng tôi sẽ có khuynh hướng gây nên nhiều rắc rối… như Chiến tranh thế giới thứ hai chẳng  hạn. Hiệp ước của “Bộ Tam Vĩ Đại” bị phá vỡ hai lần: Một là khi Zeus có Thalia, và một lần khi Poseidon có tôi. Chẳng ai trong số hai chúng tôi được phép sinh ra.
        Thalia đã nhập người mình vào một cây thông khi cô mới mười hai tuổi. Còn tôi… ừm, tôi đang gắng hết sức để không theo cô ấy. Tôi có những cơn ác mộng về thứ mà thần Poseidon có thể biến tôi thành khi tôi cận kề cái chết – sinh vật phù du, biết đâu. Hoặc là một đám tảo bẹ trôi dập dờn.
        Khi chúng tôi tới Nhà Lớn, chúng tôi tìm thấy bác Chiron trong phòng riêng, vừa đắm mình trong loại nhạc lounge thập niên 1960 mà bác ấy hằng ưa thích, vừa gói ghém những cái túi yên của mình. Tôi đoán mình nên nói rõ ràng bác Chiron là một  nhân mã. Từ thắt lưng trở lên, bác ấy giống như một người đàn ông trung niên bình thường với mái tóc xoăn màu nâu và hàng râu lơ thơ, Từ thắt lưng trở xuống, bác ấy là một con ngựa đực trắng. Bác ấy có thể trở thành người bằng cách nhét nửa người còn lại vào chiếc xe lăn có phép thuật. Và thực ra bác Chiron từng biến thành thầy giáo dạy tiếng La tinh của tôi trong suốt năm tôi học lớp sáu. Nhưng phần lớn thời gian, nếu trần nhà đủ cao, bác ấy thích trở lại với nguyên hình dáng nhân mã của mình.
        Ngay khi chúng tôi vừa nhìn thấy bác Chiron, Tyson đã đông cứng người. “Ngựa con!” Cậu ấy kêu lên vui sướng.
        Chiron quay lại, nhìn chúng tôi bằng ánh mắt bị xúc phạm. “Xin lỗi?”
        Annabeth chạy tới và ôm chặt lấy bác Chiron. “Bác Chiron, có chuyện gì thế? Bác không… bỏ đi chứ?” Giọng cô ấy run rẩy. Bác Chiron như người cha thứ hai của cô ấy vậy.
        Bác Chiron vò rối mái tóc của cô ấy và cười thân thiện. “Chào cháu. Cả Percy nữa, ôi trời. Nom cháu lớn hơn năm ngoái đấy!”
        Tôi nghẹn lời, “Clarisse nói rằng bác bị… bác bị…”
        “Bị đuổi.” Mắt bác Chiron lấp lánh ánh đen hài hước. “À, có ai đó phải chịu khiển trách chứ. Thần Zeus đã cực kỳ buồn bực. Cái cây mà ông ấy đã tạo ra từ linh hồn của con gái mình đã bị đầu độc. Ngài D phải trừng phạt ai đó.”
        “Ý bác là, ngoài ông ta ra,” tôi làu bàu. Chỉ vừa nghĩ tới trưởng trại – ngài D, tôi đã thấy giận dữ.
        “Nhưng điều này thật điên rồ!” Annabeth khóc ầm lên. “Bác Chiron, bác chẳng được lợi gì khi đầu độc cây của Thalia!”
        “Thế nhưng,” bác Chiron thở dài, “giờ đây trong hoàn cảnh này, có một số thần trên đỉnh Olympus đã không còn tin ta nữa.”
        “Hoàn cảnh nào?” Tôi hỏi.
        Mặt bác Chiron tối sầm lại. Bác nhét một cuốn từ điển La tinh – Anh vào chiếc túi yên trong khi tiếng nhạc của Frank Sinatra vẫn đang phát ra từ máy nghe nhạc.
        Tyson vẫn đang nhìn chằm chằm bác Chiron với vẻ mặt đầy kinh ngạc. Cạu ấy rên rỉ như thể rất muốn vỗ lên hông của bác Chiron nhưng lại sợ tới gần. “Ngựa con?”
        Bác Chiron khụt khịt vẻ khó chịu. “Này anh bạn trẻ Cyclops yêu quý! Ta là một nhân mã.”
        “Bác Chiron,” tôi hỏi. “Thế còn cái cây thì sao? Chuyện gì đã xảy ra?”
        Bác ấy lắc đầu buồn bã. “Chất độc dùng cho cây Thalia là thứ gì đó đến từ Địa ngục, Percy à. Là loại độc dược mà ta chưa từng thấy bao giờ. Chắc hẳn nó phải đến từ một con quái vật ở sâu bên dưới đáy vực Tartarus.”
        “Thế chúng ta biết được ai là người phải chịu trách nhiệm. Kro…”
        “Đừng gọi tên vị thần khổng lồ ấy ra, Percy. Đặc biệt không được gọi ở đây, vào chính lúc này.”
        “Nhưng hè năm ngoái, ông ta đã cố gây ra một cuộc nội chiến trên đỉnh Olympus cơ mà. Việc này chắc  là ý của ông ta. Ông ta đã bảo Luke làm chuyện đó, cái đồ phản bội đó.”
        “Có thể,” bác Chiron nói. “Nhưng ta sợ rằng ta phải chịu trách nhiệm vì đã không bảo vệ được nó, và không thể cứu được nó. Cái cây này chỉ còn sống được vài tuần nữa thôi, trừ phi…”
        “Trừ phi cái gì?” Annabeth hỏi.
“Không,” bác Chiron đáp. “Một suy nghĩ ngớ ngẩn. cả thung lũng này đang bị sốc bởi chất độc. các hàng rào phép thuật đang bị hỏng. trại đang chết dần. chỉ có một nguồn phép thuật duy nhất đủ mạnh để đẩy lùi chất độc và nó cũng đã bị thất lạc hàng thế kỉ qua.”
“Đó là cái gì?” Tôi hỏi. “Chúng cháu sẽ đi tìm nó.”
Bác Chiron đóng cái túi yên lại. bác nhấn nút tắt trên máy nghe nhạc, rồi quay người lại, đặt tay lên vai tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi. “Percy, cháu phải hứa với ta rằng, cháu sẽ không hành động vội vàng. Bác đã nói với mẹ cháu rằng bác không muốn cháu ở đây cả mùa hè này chút nào. Điều đó quá nguy hiểm. nhưng giờ nếu cháu đã ở đây, hãy cứ ở yên đây nhé. Hãy luyện tập chăm chỉ. Hãy học cách chiến đấu nhưng đừng rời khỏi trại.”
“ Tại sao?” tôi hỏi. “Cháu muốn làm điều gì đó! Cháu không thể để đường ranh giới bị hỏng. toàn bộ trại sẽ….”
“Bị lũ quái vật giày xéo.” Bác Chiron nói. “Đúng thế. Bác cũng sợ điều đó. Nhưng cháu không thể để mình bị mắc lừa bởi hành động khinh suất. đó có thể là cái bẫy của vị thần Titan đó. Hãy nhớ vè mùa hè năm ngoái. Ông ta suýt lấy tính mạng cháu đấy!”
Điều đó hoàn toàn đúng, tuy nhiên, tôi lại rất muốn giúp đỡ. Tôi cũng muốn Kronos phải trả giá, ý tôi là bạn nên nghĩ rằng vị thần Titan đã thấm bài học từ hàng niên kỷ trước khi ông ta bị các vị thần đánh bại. bạn nên nghĩ việc bị chặt ra hàng triệu mảnh và bị tống xuống phần tăm tối nhất của Địa ngục – nơi sẽ cung cấp cho ông ta một câu chuyện huyền ảo mà không ai muốn dính dáng tới. nhưng không. Vì ông ta là bất tử, ông ta vẫn còn sống mãi ở Tauratus – đau đớn với nỗi đau vĩnh viễn, thèm khát được trở lại và trả món thù với đỉnh Olympus. Ông ta không thể tự mình hành động, nhưng ông ta rất giỏi việc bóp méo những suy nghĩ của người thường, và thậm chí với các vị thần để giúp ông ta làm những việc bẩn thỉu.
Việc đầu độc chắc chắn là việc làm của ông ta. Ai lại có thể hèn hạ khi tấn công cây của Thalia, thứ duy nhất còn sót lại của một anh hùng đã hy sinh mạng sống  để cứa lấy bạn bè mình như thế?
Annabeth đang gắng sức để không bật khóc. Bác Chiron lau nước mắt trên má cô ấy. “Hãy ở lại cùng Percy, cháu gái à,” bác ấy nói. “Hãy giúp cậu ấy được an toàn. Hãy nhớ lấy – Lời Sấm Truyền!”
“Cháu, cháu nhớ!”
“Ừm…” tôi cất tiếng. “Đó có phải lời tiên tri cực kỳ nguy hiểm có dính dáng đến cháu, nhưng các thần đã cấm bác nói với cháu phải không ạ?”
Không ai đáp cả.
“Được rồi,” tôi càu nhàu. “ Cháu chỉ hỏi thôi.”
“Bác Chiron …” Annabeth cất tiếng. “Bác từng nói với cháu rằng các thần cho phép bác bất tử tới lúc nào họ còn cần bác để huấn luyện các anh hùng. Nếu giờ họ sa thải bác khỏi trại thì…”
“Cháu hãy thề gắng hết sức mình để giúp  cho Percy vượt qua nguy hiểm đi!” Bác Chiron khăng khăng. “Hãy thề trên dòng sông Styx.”
“Cháu, cháu xin thề trên dòng sông Styx,” Annabeth nói.
Sấm ầm ầm bên ngoài.
“Tốt lắm!” Bác Chiron nói. Nom bác ấy có vẻ thoải mái hơn phần nào. “Có lẽ tên bác sẽ được trong sạch và bác sẽ trở lại. Nhưng từ giờ cho tới đó, bác sẽ đi thăm mấy người bà con ở Everglades. Có thể họ biết đôi chút về phương thức cứu chữa cho cái cây bị đầu độcmà bác đã quên mất. Dù sao bác cũng bị đày đi xa cho tới khi vấn đề được giải quyết… cách này hay cách khác.”
Annabeth  nghẹn ngào. Bác Chiron lung túng vỗ lên vai cô ấy. “Nào, bây giờ bác phải giao phó sự an toàn của các cháu cho ngài D và người điều khiển các hoạt động mới. Chúng ta hy vọng…. Hừm, họ sẽ không phá hủy trại nhanh như bác e sợ.”
“Nhân tiện cho cháu hỏi gã Tantalus là ai thế?” tôi nài nỉ. “Gã ấy từ đâu đến mà chiếm việc của bác thế?”
Một tiếng tù và bằng xà cừ vang lên khắp thung lũng. Tôi đã không nhận ra trời tối nhanh như vậy. Đã đến giờ các trại viên tập trung ăn tối.
“Đi đi” bác Chiron nói. “Cháu sẽ gặp ông ấy ở đình. Bác sẽ liên lạc với mẹ cháu, Percy à, và sẽ cho bà ấy biết chắc rằng cháu đã an toàn. Ắt hẳn bà ấy đang lo lắng lắm. Hãy nhớ những gì bác cảnh báo. Cháu đang cực kỳ nguy hiểm. Đừng bao giờ nghĩ rằng vị thần Titan đó không còn nhớ đến cháu!”
Rồi bác Chiron lọc cọc ra khỏi phòng và đi về phía cuối hành lang. Tyson gọi với sau lưng bác ấy, “Ngựa con! Đừng đi!”
Tôi nhận ra rằng mình quên mất không nói với bác Chiron về cơn ác mộng của tôi về Grover. Nhưng giờ đã quá muộn. Người thầy giáo tốt nhất mà tôi từng có đã đi rồi, có lẽ đó lại là điều tốt
Tyson bắt đầu khóc lóc tương tự như Annabeth vậy.
Tôi cô gắng nói với họ rằng mọi chuyện sẽ ổn, nhưng tôi không tin vào điều đó.
Mặt trời đang xuống dần sau đình ăn tối khi các trại viên lục tục từ nhà tiến đến đó. Chúng tôi đứng dưới cái bóng của một cái cột bằng đá cẩm thạch và ngắm nghía mọi người đang tụ họp. Annabeth vẫn bị sốc nhưng cô ấy hứa sẽ nói chuyện với chúng tôi sau. Rồi cô ấy bỏ đi để gia nhập vào đám anh chị em ruột đến từ nhà thần Athena. Đó là một tá đám con trai và gái đều có mái tóc vàng và đôi mắt xám giống cô ấy. Annabeth không phải lớn nhất hội nhưng cô ấy từng ở trại nhiều mùa hè hơn bất kỳ ai. Bạn có thể nói điều đó khi nhìn vòng cổ trại của cô ấy – mỗi hè một chuỗi vòng và Annabeth có sáu chuỗi tất cả. Không ai nghi ngờ về quyền dẫn đầu của cô ấy.
Tiếp đó là Clarisse dẫn đầu nhà thần Ares. Một tay cô ta phải treo lên, trên má còn một vết thương nom rất kinh. Nhưng mặt khác cuộc đọ sức giãu cô ta với lũ bò đồng không có vẻ khiến cô ta phải bối rối. Ai đó đã gắn một mảnh giấy có ghi “HÃY RỐNG LÊN, CÔ GÁI!” Vào ngay sau lưng cô ta. Nhưng không ai trong nhà cô ta chịu nhắc cô ta về điều này.
Ngay sau nhà thần Ares là một đám gồm sáu đứa do Charles Beckendorf – một đứa trẻ mười lăm tuổi người Mỹ gốc Phi to lớn- dẫn đầu đến từ nhà thần Hephaestus. Cậu ta có đôi bàn tay to bằng găng tay của người bắt bóng chày, một gương mặt nặng nề và mắt lác do nhìn vào lò rèn suốt ngày. Cậu ta khá dễ thương khi bạn biết rõ cậu ta. Nhưng không ai chịu gọi cậu ta là Charlie, Chuck hoặc Charles. Hầu hết mọi người chỉ gọi cậu ta là Beckendorf. Có tin đồn rằng cậu ta có thể làm bất cứ vật gì. Nếu cho cậu ta một thanh kim loại, cậu ta có thể tạo ra một thanh kiếm sắc như dao cạo hoặc một con robot chiến binh, hoặc một bể nước cho chim tắm trong vườn bà ngoại bạn. cậu ta có thể làm bất cứ thứ gì bạn cần.
Con cái của các nhà khác như Demeter, Apollo, Aphrodite, Dionysus cũng đã tới đông đủ. Các nữ thủy thần cũng đã đến bằng xuồng. các nữ thần câu đi ra từ các cây. Từ đồng cỏ, một tá thần Rừng – những người nhắc nhở tôi nỗi nhức nhối về Grover cũng đang đi đến.
Tôi luôn có tình cảm đặc biệt với các thần rừng. khi ở trại, họ phải làm một tá việc vặt vãnh theo yêu cầu của Ngài D – giám đốc trại. nhưng công việc quan trọng nhất của họ chính là ở thế giới thực. họ là những người tìm kiếm của trại. họ phải cải trang để đi vào các trường học khắp nơi trên thế giới, tìm kiếm những người có khả năng là con lai và đưa họ về trại. đó là cách tôi quen Grover. Cậu ấy là người đầu tiên nhận ra tôi là một á thần.
Sau khi các thần rừng nối đuôi nhau vào bữa tối, nhà thần Hermes làm hậu phương ngay tiếp đó. Họ luôn là đám đông nhất. hè năm ngoái, hội này được dẫn đầu bởi Luke – người đã cùng Thalia và Annabeth chiến đấu trên Đồi Con Lai. Trong một thời gian ngắn, trước khi thần Poseidon xác nhận tôi, tôi cũng ở trong khu nhà của thần Hermes. Luke đã  tỏ ra thân thiết với tôi… rồi sau đó anh ấy cố giết tôi.
Giờ đây, đội quân nhà thần Hermes được dẫn đầu bởi Travis và Connor Stoll. Chúng không phải là một cặp song sinh nhưng lại rất giống nhau. Tôi không thể nhận ra ai nhiều tuổi hơn. Cả hai đều cao, gầy nhom với mái tóc nâu luôn xõa xuống mắt. chúng đều mặc áo phông màu da cam với hang chữ Trại Con Lai bỏ ngoài chiếc quần short rộng thùng thình. Chúng cũng có những nét đặc trưng tinh nghịch như tất cả lũ trẻ nhà thần Hermes. Đó là đôi lông mày rậm, nụ cười mỉa mai, một chút lóe sáng khi chúng nhìn bạn – như thể chúng sắp bắn một tàn lửa xuống áo bạn. tôi luôn nghĩ rằng điều đó thật buồn cười bởi vị thần của những tên trộm  lại có những đứa con tên mang họ Stoll. Nhưng đó chỉ là lần duy nhất tôi đề cập tới điều này với Travis và Connor. Chúng nhìn tôi chằm chằm đầy thất thần như thể thấy điều đó không chút buồn cười.

~TOBE CONTINUE~
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách