Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 12872|Trả lời: 70
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Viễn Tưởng - Xuất Bản] Septimus Heap tập 1: Pháp Thuật | Angie Sage (Hết)

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả

Tên tác phẩm: Septimus Heap tập 1: Pháp Thuật
Tên gốc: Septimus Heap Book One: Magyk
Tác giả: Angie Sage
Dịch giả: Hương Lan
Thể loại: Tiểu thuyết
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
Nguồn: Đánh máy từ sách
Giới thiệu: Người con trai thứ bảy của người con trai thứ bảy, có tên là Septimus Heap, ngay khi sinh ra đã bị bà đỡ ăn cắp mất và báo là đã chết. Vào cùng đêm đó, cha của cậu là Silas Heap đi ngang qua rừng cây và thấy trong tuyết có một bọc đựng một bé gái mới sinh với đôi mất màu tím. Ông Heap mang bé gái đó về nhà, đặt tên là Jenna, nuôi nấng và yêu thương như con gái mình.
Bé gái đó là ai? Và chuyện gì xảy ra với cậu bé sơ sinh bị đánh cắp?


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 31-10-2012 10:45:36 | Chỉ xem của tác giả
1.

Có cái gì đó trong tuyết

Silas Heap kéo áo chùng sát vào người để chống chọi với tuyết. Cả một quãng đường dài đi bộ xuyên qua cánh rừng, và ông buốt thấu tới tận xương. Nhưng trong mấy túi áo, ông đã có được thảo dược mà ba lang Galen bốc để ông mang về cho Septimus, đứa bé vừa mới sinh được vài ngày của ông.

Silas về gần tới Lâu đài, và ông đã có thể trông thấy ánh sáng thấp thoáng qua những tàn cây do nến hắt ra từ cửa sổ của những toà nhà cao, hẹp, co cụm dọc theo các bức tường thành bao bên ngoài. Đó là một đêm dài nhất trong năm, và nến được thắp cho tới tận bình minh, để xua không cho bóng tối lại gần. Silas vẫn luôn yêu thích được đi bộ như thế này về Lâu đài. Vào ban ngày thì cánh rừng chẳng hề đáng sợ, và ông thích cuộc đi bộ yên bình, xuyên qua con đường mòn hẹp tí, dặm nói dặm len lỏi qua rừng cây rậm rạp. Giờ ông đã gần ra tới bìa cánh rừng, những cây cao bắt đầu thưa dần, và khi con đường bắt đầu đổ dốc xuống thềm thung lũng, Silas đã có thể trông thấy toàn cảnh Lâu đài dàn trải ra trước mắt mình. Những bức tường cổ kính ôm chặt lấy con sông rộng, khúc khuỷu, ngoằn nghoèo uốn quanh những cụm nhà lộn xộn. Mọi ngôi nhà đều sơn màu rực rỡ, và những căn nhà đâu mặt về hướng Tây trông như thể đang bốc cháy khi cửa sổ của chúng đón những tia nắng mặt trời cuối cùng của mùa đông.

Lâu đài thoạt tiên vốn là một ngôi làng nhỏ. Do ở kề bên cánh rừng, nên dân làng phải xây dựng lên những bức tường đá cao để phòng chống bọn chồn gu-lô và bọn pháp sư, phù thuỷ - cái bọn chẳng nghĩ gì đến gì ngoài chuyện bắt trộm cừu, gà và đôi khi cả con cái của dân làng. Càng thêm nhiều nhà mới mọc lên, thì những bức tường càng được mở rộng ra, đồng thời một hào nước sâu được đào quanh tường để chon tất cả mọi người đều cảm thấy an toàn.

Chẳng bao lâu sau Lâu đài đã thu hút những nghệ nhân tài hoa từ các làng khác về. Nó phát triển và trù phú, đến nỗi cư dân bắt đầu không còn đủ chỗ để ở, và một người nào đó quyết định phải cho xây khu Mở Rộng. Khu Mở Rộng, nơi Silas, Sarah và các con trai của họ sống, là một toà nhà bằng đá khổng lồ, vươn thẳng lên dọc theo bờ sông. Nó trườn suốt ba dặm dọc theo bờ sông rồi quành trở vào Lâu đài, và là một nơi nhộn nhịp, ồn ào, chi chít những đường ngang ngõ tắt, những hành lang, những xưởng máy nhỏ, trường học, và cửa tiệm xen lẫn với những phòng ở của các hộ gia đình, những khu vườn bé tí xíu có mái che, và thậm chí cả một nhà hát. Không có nhiều không gian cho khu Mở Rộng, nhưng người ta không lấy thế làm phiền. Luôn có tình thân ái và luôn có người cho bọn trẻ chơi với.


Khi mặt trời mùa đông đã chìm khuất xuống dưới những bức tường của Lâu đài, Silas dấn bước nhanh hơn. Ông cần phải về tới cổng Bắc trước khi họ khoá cổng và rút chiếc cầu bắc qua hào nước lúc trời xẩm tối.

Đúng lúc đó thì Silas chợt cảm thấy có một cái gì đó ở gần bên mình. Và vật này là vật sống, thế thôi. Ông cảm nhận được một nhịp tim người, một sinh linh nhỏ bé, đập yếu ớt ở đâu đó gần mình. Silas dừng lại. Vì là một Pháp sư Thường đẳng nên ông có khả năng cảm nhận sự vật, nhưng cũng vì không phải là một Pháp sư Thường đẳng tài giỏi đặc biệt, nên ông cần phải tập trung cao độ. Ông đứng im lìm, mặc cho tuyết rơi dày đặc xung quanh đã phủ kính những dấu chân. Và rồi, ông nghe thấy một tiếng gì đó - một tiếng khịt mũi, một tiếng thút thít, hay một hơi thở nhẹ? Ông không chắc, nhưng như thế là đủ.

Dưới một bụi cây ven đường là một cái bọc. Silas nhặt cái bọc lên, và thật sửng sốt, ông thấy mình đang nhìn trân trân vào đôi mắt nghiêm nghị của một đứa trẻ sơ sinh. Silas ẵm nó trên tay và tự hỏi làm thế nào mà con bé nằm được dưới tuyết trong cái ngày lạnh nhất trong năm này. Ai đó đã quấn chặt nó vào một cái chăn len dày, nhưng nó đã nhiễm lạnh rồi: làn môi tím mét, và tuyết phủ trắng lông mi. Khi đôi mặt màu tím đậm của đứa bé chăm chú nhìn ông, Silas có cảm giác bất an là hình như nó đã nhìn thấy điều gì đó trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, một việc mà không một đứa trẻ nào nên nhìn thấy.

Chợt nghĩ đến Sarah ở nhà, ấm áp và an toàn với Septimus và các con trai, Silas quyết định là chắc chắn họ sẽ nhín chỗ cho một sinh linh bé nhỏ nữa cùng sống. Ông cẩn thận nhét đứa bé vào trong tấm áo chùng pháp sư màu xanh da trời của mình, và ôm sát nó vào người trong lúc chạy về hướng cổng Lâu đài. Ông tới được cây cầu vừa lúc Gringe, người gác cổng, chạy ra và đang la hét cậu trực cầu quay tới rút cầu lên.

"Còn xíu thời gian thôi đó," Gringe gầm gừ. "Pháp sư mấy người đúng là quái. Muốn gì mà lại ra ngoài vào một ngày như thế này không biết nữa!"

"Hả?" Silas muốn đi qua mặt Gringe càng nhanh càng tốt, nhưng trước tiên ông cần phải đặt đồng bạc vào lòng bàn tay lão. Silas vội lục tìm ra được một đồng xu bạc từ một túi áo của mình và đưa cho lão già.

"Cảm ơn, Gringe. Chúc ông ngủ ngon."

Gringe dòm đồng xu như thể đó là một con bọ góm ghiếc.

"Mụ Marcia Overstrand vừa cho ta hẳn một nửa đồng crao(*) kìa. Nhưng mụ vừa mới lên bậc, chẳng hiểu sao mà giờ mụ đã lên tới Pháp sư Tối thượng rồi."

"Hả?" Silas suýt nghẹt thở.

"Ừm. Lên bậc, thì mụ ấy lên bậc chứ sao."

Lão Gringe lùi lại cho Silas đi ngang qua, và Silas vọt lẹ. Silas đang đang nôn nóng muốn tìm hiểu tại sao mà Marcia Overtrand lại bỗng dưng trở thành Pháp sư Tối thượng, thì bỗng cảm thấy cái bọc cũng bắt đầu ngọ nguậy nôn nóng y như thế trong tấm áo chùng ấm áp của mình. Và có cái gì đó mách bảo ông rằng tốt hơn đừng để cho lão Gringe biết gì về đứa bé.


Khi Silas vừa biến vào bóng tối của đường hầm dẫn tới khu Mở Rộng, thì một dáng người cao lớn trong bộ đồ đỏ tía bước ào ra và ngáng đường ông.

"Marcia!" Silas há hốc miệng. "Cái quái gì..."

"Cấm được nói cho ai biết về con bé. Nó sinh ra là để dành cho anh. Hiểu chứ?"

"Chết sững người, Silas gật đầu. Ông chưa kịp nói thêm điều gì, Marcia đã biến mất vào màn sương mờ màu đỏ tía. Silas đi nốt quãng đường dài quanh co còn lại qua khu Mở Rộng với đầu óc quay cuồng đủ mọi ý nghĩ. Đứa trẻ này là ai? Marcia có liên can gì tới nó? Và tại sao bây giờ Marcia Overtrand lại là Pháp sư Tối thượng? Và khi Silas về gần tới cánh cửa lớn màu đỏ dẫn vô căn phòng vốn đã chật chội rồi của gia đình Heap, bỗng một câu hỏi nữa, cấp bách hơn, bật ra trong đầu ông: liệu Sarah sẽ nói gì về việc phải chăm sóc thêm một đứa bé đây?

Silas không có thời gian để nghĩ lâu về câu hỏi cuối cùng này. Ông vừa bước tới cánh cửa thì cánh cửa bật mở tung ra, và một phụ nữ xồ xề, mặt đỏ gay, mặc cái váy màu xanh đậm của bà mụ chạy vụt ra, suýt nữa thì đâm phải Silas. Bà ta cũng ôm một cái bọc, nhưng cái bọc đó bị quấn băng kín từ đầu tới chân, và bà cắp nó dưới nách tựa như xốc một cái bao hàng và đang vội vã đi giao.

"Chết rồi!" Bà mụ thét lớn.

Bà đẩy Silas qua một bên bằng một cú thật mạnh, và chạy xuống hành lang. Bên trong phòng, Sarah Heap đang kêu khóc vật vã.


Silas bước vào, tim đập thình thịch. Ông thấy Sarah được bao quanh bởi sáu thằng bé mặt trắng bệch, chúng quá sợ đến nỗi không khóc được.

"Bà ấy mang nó đi rồi," Sarah tuyệt vọng gào lên. "Septimus chết rồi. Bà ấy mang nó đi mất rồi."

Đúng lúc đó một làn hơi ấm, ươn ướt lan ra từ cái bọc Silas vẫn giấu trong áo chùng. Silas không tìm ra lời cho điều mình muốn nói, cho nên ông lôi cái bọc ra khỏi áo chùng và đặt nó vào cánh tay Sarah.

Sarah Heap bật khóc nức nở.


(*) một đồng crow bằng 5 sillings

Bình luận

bạn type à ^^ cố lên nhé  Đăng lúc 1-11-2012 09:32 PM
ha, đây có phải truyện của phim Phép Thuật đã chiếu trên VTV1 hồi xưa ko nhỉ?! :)  Đăng lúc 31-10-2012 11:15 AM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 31-10-2012 12:41:34 | Chỉ xem của tác giả
2.

Sarah và Silas

Đứa bé trong bọc gia nhập gia đình Heap và được đặt tên là Jenna, theo tên mẹ Silas.

Khi Jenna tới, thằng út nhất trong đám, thằng Nicko, chỉ mơi lên hai, và nó nhanh chóng quên bén cậu em Septimus của mình. Mấy thằng lớn hơn cũng từ từ quên luôn. Chúng yêu đứa em gái bé bỏng của mình, và hay tha về nhà cho cô bé đủ thứ báu vật từ lớp học Pháp thuật ở trường.

Sarah và Silas hiển nhiên là không thể nào quên được Septimus. Silas luôn tự đổ lỗi cho mình vì đã để Sarah ở nhà một mình trong khi ông tới chỗ bà lang bốc thuốc cho thằng bé. Sarah thì cứ tự dằn vặt mình vì tất cả mọi thứ. Mặc dầu vậy, bà gần như không thể nhớ nổi chuyện gì đã xảy ra vào cái ngày khủng khiếp ấy. Sarah biết mình đã cố thổi sự sống trở lại cho con và đã thất bại. Bà cũng nhớ mình đã nhìn thấy bà mụ quấn băng bé Septimus của bà kín từ đầu tới chân rồi vụt ra cửa, ngoái lại hét, "Chết rồi!"

Tất cả những gì Sarah nhớ được chỉ có thế.

Nhưng Sarah nhanh chóng yêu thương bé gái nhỏ hệt như bà đã yêu thương Septimus. Có thời gian bà cứ nơm nớp lo sợ kẻ nào đó sẽ tới và cũng sẽ giật Jenna đi mất, nhưng nhiều tháng trôi qua, khi Jenna lớn lên thành một bé gái bụ bẫm, hay ọ ẹ, Sarah mới dịu bớt và gần như thôi không lo lắng nữa.

Cho đến một ngày kia, chị bạn thân Sally Mullin, gần như đứt hơi chạy đến bậu cửa nhà bà. Sally Mullin là một trong những người biết tất cả mọi thứ diễn ra trong Lâu đài. Đó là một phụ nữ nhỏ thó, tất bật, tóc lưa thưa, hoe hoe lúc nào cũng lòi hẳn ra khỏi chiếc nón đầu bếp cáu bẩn. Gương mặt Sally tròn xoe, tươi cười, đỏ ửng vì cứ phải nướng bánh luôn tay, quần áo thì bao giờ cũng lấm tấm bột.

Sally điều hành một quán ăn xinh xắn ở ngay trên cầu phao, ngay bên sông. Tấm biển treo trên cánh cửa quán thông báo:

QUÁN RƯỢU VÀ TRÀ CỦA SALLY MULLIN

CÓ SẴN PHÒNG TRỌ SẠCH SẼ

CẤM MANG SÚNG VÀO


Không có gì bí mật nổi trong quán ăn nhỏ của Sally Mullin. Bất cứ vật gì và bất cứ người nào đến Lâu đài bằng đường thuỷ đều bị để ý và đều được bình phẩm, và hầu hết ai đến Lâu đài cũng thích đến bằng thuyền. Trừ Silas ra, chẳng ai ưa những lối mòn tăm tối xuyên qua cánh rừng bao quanh Lâu đài. Đêm đến, cánh rừng vẫn còn vô vàn chồn cáo và lúc nhúc những thứ cây ăn thịt người. Rồi lại còn những phù thuỷ Wendron, một tộc người quanh năm túng tiền và khét tiếng là hay giăng bẫy những người khách bộ hành khinh suất, rồi bỏ lại họ chỉ còn áo với tất chân.

Quán ăn nhỏ của Sally Mullin là một mái nhà nhộn nhịp, khói nghi ngút, đậu chênh vênh trên mặt nước. Thuyền bè đủ mọi kiểu dáng và kích cỡ thường bỏ neo bên chiếc cầu phao của quán, từ đấy tất cả mọi loại người cùng thú vật loạng choạng bước ra. Hầu hết bọn họ đều quyết định lấy lại sức sau cuộc hành trình vất vả bằng cách đánh chén ít nhất là một cốc bia cay xè và một lát bánh lúa mạch nướng của Sally, và kể những tin ngồi lê đôi mách nóng hổi nhất. Và bất cứ cư dân nào của Lâu đài có chừng nửa tiếng đồng hồ rảnh rỗi cùng một cái dạ dày đánh lộn lạo cũng sẽ đi xuống con đường đông đúc người lại qua, tới Cổng Cảng, qua Bãi rác Bờ sông Thơ mộng, đi dọc theo cầu phao tới Quán Trà và Rượu của Sally Mullin.

Sally tự xem mình có bổn phận mỗi tuần phải tới thăm Sarah một lần và cập nhật tất cả mọi sự việc cho bạn. Theo quan điểm của bà thì Sarah là một phụ nữ bị ngược đãi vì phải chăm sóc bảy đứa con lóc nhóc, đó là chưa kể Silas Heap, người mà hầu như Sally chẳng thấy mặt mũi bao giờ. Những câu chuyện của Sally thường liên quan đến những người mà Sarah chưa bao giờ nghe nói tới và chưa bao giờ gặp, thế nhưng Sarah luôn luôn ngóng đợi những cuộc viếng thăm của Sally và thích thú nghe kể về những gì đang diễn ra xung quanh. Tuy nhiên, lần này những gì Sally phải kể cho bà nghe thì lại khác hẳn. Nó nghiêm trọng hơn những câu chuyện phiếm hàng ngày, và lần này, nó lại có dính líu đến Sarah. Và, cũng là lần đầu tiên, Sarah biết được điều gì đó mà Sally không biết.


Sally lao vào phòng và đóng sập cửa lại sau lưng một cách bí ẩn.

"Tôi vừa nghe được một tin khủng khiếp," Sally thì thào.

Sarah, vừa lúi húi lau sạch món điểm tâm dính trên mặt Jenna và khắp những chỗ mà con bé vừa phun ra, vừa cùng lúc đi theo dọn cho chú cún săn sói mới nuôi, nên không để ý lắng nghe lắm.

"Chào chị Sally," bà nói. "Có chỗ sạch đây này. Ngồi xuống đi. Uống trà nhé?"

"Ừ. Nghe này, Sarah, cô có tin được không?"

"Tin gì, chị Sally?" Sarah hỏi, định bụng sẽ nghe phàn nàn về một vị khách cư xử không ra gì gần đây nhất trong quán.

"Nữ hoàng. Nữ hoàng băng hà rồi!"

"Hả?" Sarah há hốc miệng. Bà nhấc Jenna ra khỏi ghế của nó và bê con bé ra góc phòng, chỗ đặt cái cũi. Sarah đặt Jenna xuống cho nó ngủ. Bà tin là trẻ con cần phải tránh thật xa những tin tức xấu.

"Băng hà," Sally rầu rầu lập lại.


"Không!" Sarah sửng sốt. "Tôi không tin. Người chỉ hơi yếu sau khi lâm bồn thôi mà. Chính vì vậy mà cho đến nay chưa ai trông thấy Người."

"Đó là bọn lính canh nói, đúng không?" Sally hỏi.

"Ở, đúng," Sarah thừa nhận, rót trà ra tách. "Nhưng họ cận vệ của Người mà, cho nên họ phải biết chớ. Tuy nhiên tôi không hiểu sao bỗng dưng Nữ hoàng lại chọn cái bọn côn đồ ấy làm lính bảo vệ cho mình, tôi không hiểu nổi."

Sally cầm lấy tách trà Sarah vừa đặt trước mặt.

"Ừm. Hà, ngon. À, chính xác là..." Sally hạ thấp giọng và nhìn quanh như sợ sẽ thấy một tên lính canh bất ngờ từ trong góc phòng xồ ra, dù bà không hề nhận thấy có tên nào núp giữa đống bừa bộn trong phòng nhà Heap.

"Chúng một lũ lưu manh. Thật ra thì, chính chúng đã giết Người."

"Giết? Người bị giết à?" Sarah thảng thốt kêu lên.

"Suỵt. Này, nghe kỹ đây..." Sally kéo ghế lại gần Sarah hơn. "Đang lan truyền một câu chuyện... và tôi vừa nghe từ miệng của con ngựa..."

"Ngựa nào thế?" Sarah hỏi với nụ cười gượng gạo.

"Bà Marcia... chứ còn ai nữa," Sally ngồi thẳng lên và khoang tay lại, lộ vẻ chiến thắng.

"Cái gì? Làm sao mà chị gặp được Pháp sư Tối thượng đó? Bà ấy ghé vào quán uống trà à?"

"Gần như vậy. Terry Tarsal ghé quán. Trước đó lão có đến Tháp Pháp sư giao đôi giày quái dị lão vừa đóng cho bà Marcia. Kêu rêu xong một hồi về gu giày của bà ấy với chuyện lão ghét cay ghét đắng rắn như thế nào, lão mới bảo rằng lão đã nghe lõm được bà Marcia nói chuyện với một Pháp sư. Chắc là Endor, bà phụ thuỷ mập ấy, tôi nghĩ vậy. Ừm, họ nói với nhau là Nữ hoàng bị bắn! Lính bảo hộ bắn. Một đứa trong bọn Ám Sát binh."


Sarah không thể tin nổi những gì mình đang nghe.

"Lúc nào?" Bà thở gấp.

"Ờm, đây mới thật là kinh khủng này," Sally thì thầm một cách kích động. "Họ nói là Người bị bắn vào ngày mà đứa con của Người ra đời. Đúng sáu tháng trước, và chúng ta chẳng biết tí gì về chuyện đó cả. Kinh khủng... kinh khủng thật. Chúng còn bắn cả Ngài Alther nữa. Chết. Chính vì thế mà bà Marcia kế vị..."

"Ngài Alther chết?" Sarah thở hổn hển. "Tôi không tin. Không thể tin được... Cả nhà tôi đều nghĩ là ngài nghỉ hưu thôi. Silas từng là học trò của ngài nhiều năm trước mà. Ngài ấy dễ mến lắm..."

"Dễ mến?" Sally hỏi, vẻ hoài nghi, háo hức kể tiếp câu chuyện. "Này, chưa hết đâu. Bởi vì Terry đoán là bà Marcia đã cứu Công chúa và mang nó đi đâu đó. Endor và Marcia đang thắc mắc với nhau, không biết lúc này con bé ra sao rồi. Nhưng đương nhiên khi nhận ra Terry mang giày đến thì họ ngừng nói liền. Bà Marcia rất cục cằn với lão, lão kể thế. Sau đó lão cảm thấy hơi lạ, và lão đoán là bà ta đang ếm bùa Lú lên lão, nên lão đã kịp nấp vào sau mấy cây cột nhà khi thấy bà lẩm bẩm, do đó bùa cũng không được trúng. Vụ ấy làm lão giận điên lên, vì lão không thể nhớ được là bà ấy đã trả tiền đôi giày cho lão hay chưa."


Sally Mullin dừng lời để lấy hơi và hớp một ngụm trà to.

"Công chúa nhỏ tội nghiệp. Cầu Chúa phù hộ cho nàng. Chị thắc mắc không biết bây giờ nàng đang ở đâu. Chắc chắn là bị vứt trong hầm ngục nào đó ở đâu đó rồi. Không như thiên thần xinh xẻo của em đằng kia... Dạo này nó thế nào rồi?"

"Ồ, nó ngoan lắm," Sarah đáp, bà vốn thường nói không ngớt về những cái hỉ mũi và cái răng mới mọc của Jenna, rồi về chuyện con bé ngồi chựng ra sao và tự cầm tách như thế nào. Nhưng lúc này Sarah chỉ muốn dẹp mọi sự chú ý khỏi Jenna - bởi vì sáu tháng qua Sarah không lúc nào ngưng thắc mắc con bé con mình đang nuôi này là ai, và giờ thì bà đã biết rồi.

Jenna là... Sarah nghĩ, và chắc là phải thế... là Công chúa bé con.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 31-10-2012 21:01:45 | Chỉ xem của tác giả
2.

(tiếp theo)

Đây là lần duy nhất Sarah cảm thấy vui mừng khi vẫy chào tạm biệt Sally Mullin. Bà nhìn bạn mình tất tưởi đi qua hành lang, và khi Sarah đóng cửa lại, bà thở phào một tiếng nhẹ nhõm. Rồi bà chạy bổ nhào tới chiếc cũi Sarah nằm.

Sarah ẵm Jenna lên và bế vòng bé trên tay. Jenna mỉm cười với Sarah và thò tay tóm sợ dây chuyền xinh xắn của bà.

"Ôi, Công chúa bé bỏng," Sarah lẩm bẩm. "Mẹ vẫn biết là con rất đặc biệt mà, nhưng chưa bao giờ mẹ dám mơ rằng con chính là Công chúa."

Đôi mắt màu tím đậm của con bé dòm chằm chằm vào mắt Sarah, và trông con bé nghiêm trang như thể đang nói, Chà, vậy là mẹ biết rồi.

Sarah dịu dàng đặt Jenna trở lại ổ. Đầu bà quay mòng mòng, hai bàn tay run lẩy bẩy trong khi tự rót cho mình một tách trà khác. Bà thấy thật khó tin nổi tất cả những gì mình vừa nghe. Nữ hoàng chết. Cả ngài Alther cũng chết. Jenna là người thừa kế Lâu đài. Công chúa. Chuyện gì đang xảy ra vậy?

Suốt buổi chiều hôm ấy Sarah cứ hết nhìn trân trối vào Jenna, Công chúa Jenna, lại hoảng hốt lo lắng không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu người ta biết con bé là ai. Silas đâu rồi, trong lúc bà vô cùng cần ông như thế này?


Silas đang thong dong thưởng thức một ngày câu cá với các con trai của mình.


Tại đoạn sông ngoặt ra từ khu Mở Rộng, có một bãi cát nhỏ. Silas đang bày cho Nicko và Jo-Jo, hai thằng bé nhất, cách cột những hũ mứt vào đầu một cây sào rồi dìm chúng xuống nước. Jo-Jo đã bắt được ba con cá lòng tong, nhưng Nicko đang nổi quạu vì cứ làm rớt cá của nó hoài.

Silas bế Nicko lên và đưa nó tới chỗ Erik và Edd, hai đứa sinh đôi năm tuổi. Erik đang sung sướng mơ màng, đong đưa một bàn chân xuống dòng nước ấm, trong vắt. Edd thì đang dùng gậy chọc chọc cái gì đó dưới một phiến đá. Thì ra là một con bọ nước khổng lồ. Nicko kêu thét lên và ôm chặt lấy cổ Silas.

Sam, thằng gần bảy tuổi, là một ngư dân chánh hiệu. Nó đã được tặng một bộ cần câu "đúng chuẩn" vào ngày sinh nhật vừa qua của mình, và đã có hai con cá nhỏ, óng ánh bạc nằm vắt trên một phiến đá bên cạnh. Cu cậu đang chuẩn bị quay lên một con nữa. Nicko phấn khích hét ầm lên.

"Đưa nó đi chỗ khác đi, ba. Nó làm con cá đó sợ," Sam gắt gỏng.

Silas nhón gót bế Nicko đi và đến ngồi bên thành anh cả, Simon. Simon đang một tay cầm cần câu, một tay cầm cuốn sách. Hoài bão của Simon là trở thành Pháp sư Tối thượng, và nó đang bận rộn đọc tất cả đống sách pháp thuật cũ của Silas. Cuốn này, Silas để ý, có tựa đề Bùa Câu Cá Tuyệt Chiêu.

Silas kỳ vọng tất cả các con trai mình sau này đều sẽ trở thành những pháp sư có đẳng cấp - theo truyền thống gia đình. Dì của Silas là một Phù thuỷ Thiện lừng danh, và cả cha lẫn chú của Silas đều từng là những Người Biến hình, một chuyên ngành vô cùng đặc biệt, và là chuyên ngàng mà Silas hy vọng các con mình sẽ tránh, bởi vì những Người Biến hình thành công sau này khi về già đều trở nên cực kỳ bất ổn, có thể những lúc không thể giữ nổi hình hài của chính mình hơn vài phút. Cha của Silas cuối cùng đã biến mất vào cánh rừng thành một cái cây to, nhưng không ai biết là cây nào. Đó chính là một trong những lý do tại sao Silas thích đi bộ băng qua cánh rừng. Ông thường ra dấu với một cái cây trông lùm xùm, hy vọng đó có thể là cha  mình.


Sarah Heap xuất thân từ một gia đình thầy pháp và phù thuỷ. Hồi còn con gái, cô đã học dược thảo và thuật chữa bệnh với bà lang Galen sống trong cánh rừng, nơi mà một ngày nọ cô tình cờ gặp Silas. Lúc ấy anh đi vào rừng tìm cha. Anh bị lạc và đang buồn rầu thì Sarah đưa anh về cùng mình để gặp Galen. Bà lang giúp Silas hiểu rằng cha của anh, vì là Người biến hình, chắc hẳn từ nhiều năm trước đã chọn cho mình một đích đến cuối cùng là một cái cây, và giờ có lẽ ông ấy đang sung sướng thật sự. Và Silas cũng vậy, lần đầu tiên trong đời, anh bỗng cảm nhận được một niềm hạnh phúc đúng nghĩa khi ngồi kế bên Sarah, bên cạnh đống lửa của bà lang.

Khi Sarah đã thông hiểu tất cả những gì có thể thông hiểu về dược thảo và thuật chữa bệnh, cô vui mừng từ biệt Galen và về sống cùng Silas trong căn phòng của anh ở khu Mở Rộng. Và họ luôn sống bên nhau kể từ đó, mỗi năm mỗi sinh thêm con cái,  trong khi Silas hân hoan bỏ vị trí Học trò của mình, làm một chân Pháp sư Thường đẳng chạy việc vặt để trang trải cuộc sống. Sarah bào chế cồn thuốc bên chiếc bàn nhà bếp mỗi khi có thời gian rảnh - điều này không thường xảy ra.


Tối hôm đó, khi Silas và các con đang bước lên những bậc thang bãi cát để trở về lại khu Mở Rộng, một tên lính bảo hộ lực lưỡng, trùm đồ đen kín mít từ đầu tới chân, chặn đường họ.

"Đứng lại!" Hắn gầm lên. Thằng Nicko oà khóc.

Silas dừng lại và bảo các con dừng theo.

"Giấy tờ!" Tên lính bảo hộ quát. "Giấy tờ của tụi bay đâu?"

Silas trố mắt dòm hắn.

"Giấy tờ gì?" Ông nhỏ nhẹ, không muốn gây rắc rối cho sáu thằng nhóc mệt mỏi vây quanh mình, đang cần về nhà để dùng bữa tối.

"Giấy tờ của mày, đồ pháp sư cặn bã. Bãi này cấm tất cả bọn không có giấy tờ," gã lính bảo hộ khinh khỉnh.


Silas ngạc nhiên hết sức. Nếu không đi cùng các con, chắc chắn ông đã tranh cãi rồi, nhưng ông đã để ý thấy khẩu súng tên lính đang cầm.

"Xin lỗi," ông bảo. "Tôi không biết."

Tên lính nhìn cả đám khắp lượt như thể quyết định làm gì đó, nhưng may cho Silas là lúc đó hắn còn những người khác đang đi tới để mà doạ nạt.

"Cả lũ tụi bay cút khỏi đây và cấm trở lại," gã lính nạt nộ. "Ở đâu yên đấy."

Silas lùa vội bầy con đang sừng sững lên hết những bật cấp và bước vào vùng an toàn của khu Mở Rộng. Sam đánh rơi hết cá của nó và bật khóc sụt sùi.

"Nào nào," Silas dỗ dành. "Ổn thôi mà."

Nhưng Silas cảm thấy cái gì đó không hề ổn chút nào. Đang có chuyện gì vậy nhỉ?

"Tại sao ông ấy lại gọi chúng ta là pháp sư cặn bã, hả ba?" Simon hỏi. "Pháp sư là tốt nhất cơ mà, phải không ba?"

"Phải," Silas lơ đãng nói. "Tốt nhất."

Nhưng vấn đề là, Silas nghĩ, không thể che giấu được nếu anh là pháp sư. Tất cả mọi pháp sư, và chỉ pháp sư mà thôi, đều có dấu hiệu này. Silas có, Sarah có, và tất cả đám con trai, trừ Nicko và Jo-Jo, cũng đều có. Chừng nào Nicko và Jo-Jo đi học Pháp thuật ở trường, chừng đó chắt chắn chúng cũng sẽ có dấu hiệu ấy. Chậm nhưng chắc, cho đến khi không nghi ngờ gì nữa, đôi mắt của đứa trẻ pháp sư sẽ chuyển thành màu xanh lá cây khi nó tiếp nhận bài học Pháp thuật. Đó luôn là niềm tự hào. Vậy mà, cho đến bây giờ, đột nhiên điều đó lại có thể trở thành nguy hiểm.


Tối hôm đó, khi mãi cuối cùng tất cả bọn trẻ rồi cũng đi ngủ, Silas và Sarah nói chuyện với nhau đến tận đêm khuya. Họ nói về Công chúa và đám con pháp sư của mình, và về những thay đổi đã xảy ra với Lâu đài. Họ bàn chuyện đào thoát tới Đầm Cỏ Thô, hoặc đi sâu vào cánh rừng và sống với Galen. Mãi đến khi bình minh hé dạng, họ mới ngủ thiếp đi, Silas và Sarah đã quyết định làm cái điều mà gia đình Heap thường hay làm: tính toán mọi phương kế và hy vọng điều tốt nhất sẽ xảy ra.

Và như thế, suốt chín năm rưỡi sau, Silas và Sarah vẫn giữ im lặng. Họ khoá kín và che chắn cửa nhà, chỉ nói chuyện với những láng giếng về những người mà họ tin cậy, và khi lớp học Pháp thuật ở trường bị cấm, họ dạy Pháp thuật cho các con tại nhà vào những buổi tối.

Chính vì lý do đó mà chín năm rưỡi sau, tất cả mọi người trong gia đình Heap, ngoại trừ một người, đều có mắt màu xanh lá cây đậm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 1-11-2012 18:21:50 | Chỉ xem của tác giả
3.

Vị Bảo hộ Toàn quyền

Sáu giờ sáng và trời vẫn còn tối, đã mười năm tính từ cái ngày Silas tìm thấy cái bọc.

Ở cuối Hành lang 223, đằng sau cánh cửa lớn màu đen có số 16 do Đội Tuần tra Số nhà đóng lên, gia đình Heap đang ngủ say sưa. Jenna nằm cuộn tròn trên chiếc giường hộp xinh xinh của mình, chiếc giường do Silas đóng cho cô bé từ gỗ dạt trôi tấp vào bờ sông. Chiếc giường được đóng thành một chiếc tủ lớn, kê ở đầu một căn phòng rộng, mà thật ra đó là căn phòng duy nhất thuộc quyền sở hữu của gia đình Heap.

Jenna yêu chiếc giường của bé lắm. Sarah dùng vải vụn màu sắc sặc sỡ may chắp lại thành những tấm rèm để cho Jenna có thể kéo xuống, quây kín giường, vừa tránh được rét lại vừa tránh khỏi đám anh ồn ào của mình. Điều thú vị nhất là, cô bé có một ô cửa sổ nho nhỏ ở trên tường, ngay phía trên gối nằm một chút, nhìn ra dòng sông. Nếu Jenna không ngủ được, cô bé có thể chong mắt ngó ra cửa sổ hàng nhiều giờ liền, ngắm những đoàn thuyền vô tận, đủ mọi kiểu dáng, tấp nập đi ra đi vào Lâu đài, và thỉnh thoảng vào những đêm trời trong, cô bé mê mẩn đếm sao cho đến khi ngủ thiếp đi.

Căn phòng lớn là chỗ cho toàn thể gia đình Heap sống, nấu nướng, ăn, tranh luận, và (thỉnh thoảng) làm bài tập về nhà. Căn phòng bừa bộn kinh khủng. Nó chứa lủ khủ những món đồ tích góp được suốt hai mươi năm kể từ khi Sarah và Silas cùng nhau gầy dựng gia đình. Nào là cần câu cá và cuộn dây nhợ, giày và vớ, dây thừng và bẫy chuột, túi giỏ và chăn mềm, lưới và que đan, rồi nào là quần áo và nồi niêu xoong chảo, gối và đồ nghề nấu bếp; rồi sách, sách, sách, và đương nhiên, ngày càng thêm nhiều sách.

Nếu ai đó ngớ ngẩn mà đảo mắt quanh căn phòng của gia đình Heap, hy vọng tìm được một chỗ trống để ngồi, thì chắc chắn sách sẽ là thứ được trông thấy trước tiên. Tất cả mọi ngóc ngách, xó xỉnh đều toàn sách là sách. Sách trên những cái kệ nghiêng võng, sách trong thùng, sách trong những cái bao treo thòng từ trên trần nhà xuống, sách dùng để kê bàn, và sách chất thành những chồng cao ngất nghểu, đe doạ có thể đổ sập xuống vào bất cứ lúc nào. Sách truyện, sách dược thảo, sách nấu ăn, sách về thuyền, sách dạy câu cá, nhưng chiếm phần lớn là hàng trăm quyển sách Pháp thuật, do Silas lén lút cứu vớt khỏi trường học khi Pháp thuật bị cấm cách đây vài năm.


Chính giữa căn phòng là một lò sưởi lớn, từ đó một ống khói cao vút lên, ngoằn nghoèo bò xuyên qua mái nhà - trong lò chứa những tàn dư của một ngọn lửa, giờ đã lạnh ngắt, xung quanh lò là sáu thằng con trai nhà Heap và một con chó to đùng đang ngủ ngổn ngang trong một đóng mền bông và tấm đắp.

Sarah và Silas cũng đang ngủ ngon lành. Họ đã tẩu thoát lên gác mái bé tí, do Silas chiếm được cách đây vài năm bằng một cách đơn giản là trổ hẳn một lỗ xuyên qua trần nhà, sau khi Sarah tuyên bố rằng bà không còn chịu nổi cảnh sống chung với sáu thằng quỷ nhỏ đang lớn nữa.


Nhưng, giữa đám lộn xộn trong căn phòng lớn, một ốc đảo nhỏ ngăn nắp nhô lên - một chiếc bàn dài, hơi xộc xệch phủ khăn bàn trắng tinh. Trên bàn bày biện chín cái dĩa và chín cái ca, và ở đầu bàn có một chiếc ghế nhỏ được trang trí bằng lá cây và quả mọng mùa đông. Mặt bàn phía trước chiếc ghế có đặt một món quà xinh xinh, được gói cẩn thận trong giấy hoa và cột ruy băng đỏ thắm, sẵn sàng cho Jenna mở ra vào ngày sinh nhật thứ mười của cô bé.

Tất cả đều yên ắng và thinh lặng khi gia đình Heap nằm ngủ an bình trong suốt những tiếng đồng hồ cuối cùng của đêm tối, trước khi mặt trời mùa đông đến hẹn lại lên.


Tuy nhiên, ở đầu đằng kia Lâu đài, trong Cung Điện của những người Bảo hộ, giấc ngủ, dù yên bình hay không, vẫn luôn bị bỏ bê.

Vị Bảo hộ Toàn quyền vừa bị dựng dạy khỏi giường, và với sự trợ giúp của tên Hầu Đêm, ông ta lật đật mặc chiếc áo chẽn màu đen viền lông thú và khoác chiếc áo chùng đen khảm vàng nặng chịch vào, xong quay sang quát tháo, hướng dẫn Hầu Đêm cách cột dây đôi giày lụa thêu cho mình. Rồi, tự tay ông ta đội chiếc vương miện tuyệt đẹp lên đầu. Vị Bảo hộ Toàn quyền không bao giờ để ai trông thấy mình không có vương miện ngự trên đầu, nó vẫn mang một vết lõm từ ngày bị rớt khỏi đầu Nữ hoàng và lao xuống nền nhà bằng đá. Chiếc vương miện đậu hơi vẹo trên cái hộp sọ hói, nhòn nhọn của ông ta, nhưng tên Hầu Đêm, mới vào làm và sợ đến chết khiếp, không dám thông báo cho ông ta biết.


Vị Bảo hộ Toàn quyền sải những bước chân hùng dũng trong hành lang dẫn tới phòng Thiết triều. Đó là một người đàn ông nhỏ choắt như chuột, da tái, với đôi mắt hình như không màu, và một bộ râu dê cầu kỳ mà ông ta vốn có thói quen tốn hàng nhiều giờ tỉa tót, ngắm vuốt một cách khoái chí. Ông ta gần như bị gói gọn trong chiếc áo khoác rộng lùng phùng, khảm đầy những phù hiệu quân đội, và diện mạo ông ta trông hơi lố bịch do chiếc vương miện thanh thoát của phụ nữ bị đội lệch. Nhưng giả sử có ai trông thấy ông ta vào buổi sáng hôm ấy, thì chắc chắn người đó cũng không dám bật cười, mà hẳn là sẽ chỉ biết co núp vào bóng tối, hy vọng ông ta đừng nhìn thấy mình, bởi vì từ ông Bảo hộ Toàn quyền toả ra một bầu không khí đe doạ ghê gớm.

Gã Hầu Đêm giúp vị Bảo hộ Toàn quyền an vị trên chiếc ngai vàng trang trí hoa văn cầu kỳ ở trong phòng Thiết triều. Sau đó, bị phẩy tay đuổi đi một cách nôn nóng, gã liền hấp tấp rời đi khỏi với vẻ biết ơn; ca trực của gã sắp hết.

Không khí lạnh như cắt buổi sáng ở lì trong phòng Thiết triều. Bảo hộ Toàn quyền ngồi dửng dưng trên ngai vàng, nhưng hơi thở của ông ta, bị bám khí lạnh thành những tiếng phì phò gấp rút, đã tố cáo tâm trạng kích động của ông.

Ông ta không cần đợi lâu thì đã có một phụ nữ trẻ, cao, mặc áo chùng đen tuyền và áo chẽn đỏ rực của Ám Sát binh lanh lẹ bước vào, và cúi chào thấp đến nỗi hai ông tay áo xẻ của mụ quết xuống sàn đá.

"Tâu, đã tìm thấy Công chúa," mụ Ám Sát binh tâu bằng giọng trầm.

Bảo hộ Toàn quyền ngồi thẳng dậy và giương đôi mắt trắng dã dòm mụ Ám Sát binh.

"Ngươi chắt chứ? Ta không muốn sai lầm lần này đâu đấy," ông ta cất cao giọng đe doạ.

"Tâu, gián điệp của chúng ta đã nghi ngờ một đứa trẻ từ lâu. Chị ta để ý thấy con bé là một người lạ trong gia đình của chính nó. Hôm qua, gián điệp của chúng ta phát hiện ra đứa trẻ này đúng tuổi."

"Chính xác mấy tuổi?"

"Đúng mười một tuổi vào hôm nay, tâu Chúa thượng."

"Thật không?" Vị Bảo hộ Toàn quyền ngả người ra sau ngai vàng và nghiền ngẫm những lời mụ Ám Sát binh vừa nói.

"Tâu, thần có hình đứa trẻ ấy ở đây. Thần thấy rằng nó rất giống mẹ nó, cựu Nữ hoàng."

Mụ Ám Sát binh lôi từ bên trong áo chẽn ra một tờ giấy nhỏ. Trên giấy là bức tranh, với nét vẽ thật tài tình, một bé gái có đôi mắt màu tím đậm và mái tóc đen dài. Bảo hộ Toàn quyền cầm lấy bức vẽ. Quả đúng vậy. Con bé này giống Nữ hoàng đã chết như đúc. Ông ta liền ra ngay một quyết định và bật những ngón tay xương xẩu một tiếng tách thật to.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 2-11-2012 09:12:13 | Chỉ xem của tác giả
3.

(tiếp theo)

Mụ Ám Sát binh nghiêng mình, cúi đầu.

"Bẩm?"

"Tối nay. Nửa đêm. Đến ngay... ở đâu, hả?"

"Bẩm, phòng 16, Hành lang 223."


"Họ?"

"Bẩm, Heap."

"Ờ. Mang súng bạc. Bao nhiêu người trong gia đình đó?"

"Bẩm, chín, kể cả đứa trẻ."

"Thế thì, chín viên đạn để phòng rắc rối. Viên bạc dành cho đứa trẻ. Mang nó về đây cho ta. Ta muốn có bằng chứng."

Mụ phụ nữ trẻ mặt trắng bệch. Đây là bài kiểm tra đầu tiên, và duy nhất của mụ. Không có cơ hội thứ hai cho Ám Sát binh.

"Bẩm, vâng."

Mụ cúi chào nhanh và rút lui, hai bàn tay mụ run cầm cập.

Trong một góc lặng lẽ của phòng Thiết triều, hồn ma Alther Mella đứng dậy khỏi băng ghế đá lạnh toát mà ngài ngồi nãy giờ. Ngài thở dài và duỗi thẳng đôi cẳng ma. Xong, quấn mấy lớp áo thụng màu tía nhạt quanh mình, ngài hít một hơi thật sâu và bước xuyên qua bức tường đá của phòng Thiết triều.

Ra đến ngoài trời, hồn ma bay lượn ở độ cao cách mặt đất mười tám mét trong bầu không khí lạnh buổi sáng còn tối mờ. Thay vì sải bước theo đúng cách thức cao quý mà một hồn ma ở tuổi tác và địa vị của ngài nên tuân thủ, thì Alther lại dang cánh tay ra như cánh chim và uyển chuyển chao liệng qua làn tuyết rơi.

Bay là điều duy nhất mà hồn ma Alther thích thú về phận làm ma. Bay, hay Nghệ thuật Khinh công Thất truyền, là môn phái mà những Pháp sư Tối thượng hiện đại không còn thực hiện được nữa. Ngay cả Marcia, người đáng ra phải bay được, cũng chẳng làm được khá hơn một cú liệng chớp nhoáng rồi đâm sầm xuống đất. Vì lý do nào đó, bí mật Khinh công đã bị thất lạc. Nhưng dĩ nhiên tất cả mọi con ma đều có thể bay được. Và kể từ khi thành ma, Alther đã mất luôn nỗi ám ảnh sợ độ cao của mình, và đã mải mê dành không biết bao nhiêu giờ để chau chuốt cho những cú nhào lộn tinh xảo. Ngoài ra, phận làm ma chẳng có gì có thể khiến ngài thích thú, và ngồi trong phòng Thiết triều (nơi trước kia, khi còn sống ngài từng đóng đô thật sự - và tiếp tục là nơi Alther trải qua một năm và một ngày kiếp làm ma của mình) là một trong những công việc mà ngài ít thích nhất. Nhưng ngài buộc phải làm. Alther tự coi bổn phận của mình là phải biết vị Bảo hộ Toàn quyền đang âm mưu cái gì, và phải cố cập nhật tin tức cho bà Marcia. Nhờ sự giúp sức của hồn ma Alther mà ba có thể giữ được trạng thái đi trước Bảo hộ Toàn quyền một bước và bảo vệ an toàn cho Jenna. Tính cho đến bây giờ.


Suốt bao nhiêu năm, kể từ khi Nữ hoàng tạ thế, Bảo hộ Toàn quyền càng ngày càng ráo riết săn lùng Công chúa. Năm nào ông ta cũng thân hành rong ruổi đường xa, và nguy hiểm, tới Vùng Đất Hoang. Ở đó, ông ta buộc phải báo cáo tiến độ của mình cho một cựu Pháp sư Tối thượng biến thành Thầy đồng Gọi hồn, DomDaniel. Chính DomDaniel là kẻ đã sai Ám Sát binh đầu tiên đi thủ tiêu Nữ hoàng, và chính DomDaniel đã dựng nên vị Bảo hộ Toàn quyền và bè lũ tay sai để lùng sục Lâu đài và truy tìm Công chúa. Bởi vì chừng nào Công chúa vẫn còn ở trong Lâu đài, chừng đó DomDaniel còn không dám lại gần. Vì vậy, năm nào Bảo hộ Toàn quyền cũng hứa với DomDaniel rằng năm nay ông ta sẽ thành công. Năm nay, ông ta sẽ quét sách tàn tích của Nữ hoàng và cuối cùng sẽ chuyển giao Lâu đài cho chủ nhân đích thực của nó, DomDaniel.

Và chính vì lý do này mà khi hồn ma Alther rời khỏi phòng Thiết triều, Bảo hộ Toàn quyền đeo vào gương mặt mình thứ mà ngày xưa mẹ ông vẫn gọi là nụ cười ngốc nghếch. Rốt cuộc, ông ta đã làm xong việc được giao. Dĩ nhiên, ông ta nghĩ bụng (trong lúc nụ cười ngốc nghếch biến thành cái mỉm cười tự mãn), chẳng phải nhờ trí thông minh và tài năng tuyệt tột đỉnh của mình mà mình đã phát hiện ra con bé đấy sao. Nhưng không phải - chẳng qua là nhờ một cú ăn may quái dị mà thôi.


Khi Bảo hộ Toàn quyền chiếm lĩnh Lâu đài, một trong những điều đầu tiên ông ta làm là cấm phụ nữ có chân trong trụ sở hành chính. Nhà vệ sinh Nữ, vì không còn dùng đến nữa, cuối cùng trở thành một phòng họp Hội đồng nhỏ. Trong suốt tháng lạnh căm vừa qua, Hội đồng Bảo hộ nhóm họp ở cái phòng trước kia là Nhà vệ sinh Nữ, rất tiện lợi vì có lò sưởi đốt củi, ấm hơn phòng Hội đồng Bảo hộ nhiều ngóc ngách, nơi từng cơn gió buốt thấu cứ hú hít réo quanh và đông cứng bàn chân các ông Hội đồng thành những khối nước đá.

Và như vậy, rất vô tình, đúng một lần duy nhất mà quân Bảo hộ đã đi trước hồn ma Alther Mella một bước. Vì là ma, nên Alther chỉ đi tới được những nơi mà khi còn sống ngài từng đi - và, vốn là một Pháp sư trẻ có giáo dục, cả đời Alther không bao giờ léo hánh đến Nhà vệ sinh Nữ. Điều duy nhất ngài có thể làm là lảng vảng chờ bên ngoài, như hồi còn sống và đang tán tỉnh thẩm phán Alice Nettles.

Một buổi xế chiều lạnh băng cách đây vài tuần, con ma Alther đã thấy Hội đồng Bảo hộ đi vào Nhà vệ sinh Nữ. Cánh cửa nặng nề, có dòng chữ QUÝ BÀ vẫn còn thấy được những mẫu tự vàng bị phai nhoà, đóng sầm lại sau lưng chúng, và ma Alther lượn lờ bên ngoài, dán tai vào cánh cửa, cố nghe ngóng xem chúng đang bàn bạc gì. Nhưng dù có cố thế nào, ngài cũng không thể nghe được việc Hội đồng Bảo hộ quyết định phái tên gián điệp xuất sắc nhất của chúng, Linda Lane, biết thảo dược và chữa bệnh, tới sống ở phòng 17, Hành lang 223, sát bên phòng của gia đình Heap.

Và như vậy cả hồn ma Alther lẫn gia đình Heap đều không hay biết rằng, người láng giềng mới là một gián điệp. Và lại là một tên gián điệp cừ khôi.


Khi hồn mà Alther Mella bay qua màn tuyết dày, mải nghiền ngẫm cách cứu Công chúa, ngài đã lơ đễnh lặp lại gần hai vòng quãnh đường rồi mới lao xuống, xuyên qua những bông tuyết rơi dập dìu để đến Kim tự tháp vàng, ngự trên đỉnh Tháp Pháp sư.

Alther khéo léo đáp xuống bằng hai bàn chân. Trong một tích tắc, ngài đứng thăng bằng trên mũi chân. Rồi ngài nâng cánh tay lên quá đầu và quay tít thật nhanh, nhanh, nhanh nữa cho tới khi bắt đầu chìm từ từ qua mái nhà và xuống căn phòng bên dưới, nơi đây ngài tính toán sai nên đã đáp xuống và rớt vèo qua bức màn trướng treo trước cái giường bốn cọc mùng của bà Marcia Overstrand.

Bà Marcia ngồi phắt dậy thất kinh. Ma Alther nằm sóng xoài trên gối của bà, bối rối.

"Xin lỗi. Marcia. Rất bất lịch sự. Ồ tốt, ít nhất cô cũng đang không đeo ống cuốn."

"Tóc tôi quăn tự nhiên mà, cám ơn, ngài Alther," bà Marcia cáu kỉnh nói. "Lẽ ra ngài nên đợi đến khi tôi thức dậy thì hơn."

Alther lộ vẻ nghiêm trang và trở nên mập mờ hơn thường lệ.

"Tôi e rằng, Marcia à," ngài nói khó nhọc, "việc này không chờ được đâu."
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
Đăng lúc 2-11-2012 09:59:11 | Chỉ xem của tác giả
A, truyện này mình có đọc rồi này.
Cũng được. Hơi giống Harry Potter, đặc biệt là những lúc phép thuật, chắc tại người dịch
Ủng hộ bạn hết mình cho cuốn tiểu thuyết đầu tay nghen

Bình luận

mình chỉ type thôi chứ đâu có dịch đâu  Đăng lúc 2-11-2012 10:03 AM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 3-11-2012 09:09:03 | Chỉ xem của tác giả
4.

Bà Marcia Overstrand

Bà Marcia Overstrand sải bước ra khỏi phòng ngủ trên tầng tháp cao ngất của mình để đi vào phòng để quần áo ngay bên cạnh, mở tung cánh cửa màu tía nặng nề dẫn lên chiếu nghỉ và soi bóng mình vào chiếc gương điều chỉnh.

"Bớt tám phẩy ba phần trăm!" Bà ra chỉ thị cho chiếc gương, mà sáng nào cũng líu ríu và kinh hãi chọn tư thế sẵn sàng nghinh đón khi cánh cửa của bà Marcia mở toang ra. Suốt bao nhiêu năm ròng, chiếc gương luôn đọc được tiếng những bước chân khi cúng dậm trên ván sàn gỗ, và hôm nay chúng khiến cho chiếc gương rất bực mình. Bực mình ghê lắm. Chiếc gương đứng nghiêm, và với vẻ hăng hái muốn làm hài lòng, nó chỉnh cho hình ảnh phản chiếu của bà Marcia mảnh bớt đi tám phẩy ba phần trăm, khiến bà trông giống như một con bọ màu tía, cáu kỉnh, ốm tựa cây sậy.

"Khùng!" Bà Marcia gắt.

Chiếc gương tính toán lại. Nó ghét phải làm toán vào lúc sớm bảnh mắt, và nó tin chắc là bà Marcia đã cố ý đưa cho mình cái phần trăm quỷ quái như thế này. Bộ bà ấy không thể ốm đi theo một con số tròn, kiểu như 5%, hoặc thậm chí nhỉnh thêm chút nữa là 10% được sao. Chiếc gương thích những con số 10% lắm - nó có thể làm được những số ấy.

Bà Marcia mỉm cười với hình ảnh mình trong gương. Trông bà thật tuyệt vời.


Bà mặc đồng phục Pháp sư Tối thượng mùa đông vào. Bộ đồ rất vừa vặn với bà. Chiếc áo chùng hai lớp lụa màu tía được viền lông mèo angora màu chàm mềm mại nhất. Nó duyên dáng buông xuống từ đôi bờ vai rộng và ngoan ngoãn chụm lại ôm quanh đôi bàn chân nhọn của bà. Bàn chân của bà Marcia nhọn là vì bà mê thích các loại giày mũi nhọn, và bà hay đặt đóng riêng cho thật đặc biệt. Chúng được làm bằng da rắn, thứ da được lột từ loài trăn tía mà tiệm giày cất giữ ở sân sau, chỉ chuyên dùng để đóng giày cho bà Marcia. Ông thợ giày Terry Tarsal ghét rắn và tin rằng bà Marcia đặt da rắn là có chủ ý. Có lẽ ông ta đúng. Đôi giày da trăn của bà Marcia óng ánh lên trong ánh sáng phản chiếu từ chiếc gương, và vàng cùng bạch kim nạm trên dải dây thắt lưng Pháp sư Tối thượng của bà chói rực lên thật oai nghi. Quanh cổ bà đeo tấm bùa Hộ mạng Akhu, biểu tượng và nguồn sức mạnh của Pháp sư Tối thượng.

Bà Marcia hài lòng. Hôm nay bà cần toát lên vẻ uy nghi. Uy nghi và một chút đáng sợ. Đúng, chỉ một chút đáng sợ nếu cần. Bà hy vọng là không cần đến nó.

Bà Marcia không chắc là mình có tỏ ra đáng sợ được hay không. Bà cố thử vài điệu bộ trong gương. Chiếc gương co rúm lại im re, nhưng bà vẫn chưa chắc mình sẽ chọn điệu bộ nào. Bà Marcia không nhận ra rằng hầu hết mọi người đều cho là bà thật sự đáng sợ lắm rồi, một vẻ đáng sợ hoàn toàn tự nhiên.

Bà Marcia bật ngón tay.

"Sau!" Bà quát.

Chiếc gương soi phía sau bà.

"Hông!"

Chiếc gương soi cả hai bên hông bà.

Sau đó bà đi ra. Bước xuống cầu thang hai bậc một, xuống nhà bếp để khiến chiếc bếp lò hoảng hồn, nó đã nghe tiếng bà đi tới và cuống quít tự thắp lửa lên trước khi bà bước qua ngưỡng cửa.

Nhưng nó làm không xong, và bà Marcia cau có, quạu quọ suốt bữa điểm tâm.


Bà Marcia bỏ mặc chén dĩa bữa sáng cho chúng tự rửa lấy và bước thoăn thoắt ra khỏi cánh cửa tía nặng chịch dẫn tới các phòng của bà. Cánh cửa đóng lại một tiếng "cách" nhẹ, đầy kính cẩn sau lưng khi bà Marcia nhảy lên dãy cầu thang xoắn bạc.

"Xuống," bà bảo cầu thang.

Nó bắt đầu quay như một cái mở nút chai khổng lồ, chậm rãi đưa bà xuống toà tháp cao sừng sững, qua những tầng gác như vô tận và những cánh cửa đủ kiểu đủ loại - mà tất cả đều dẫn tới những phòng của các pháp sư theo một hệ thống phân bậc tài tình. Từ các căn phòng vọng ra tiếng luyện bùa, tiếng niệm thần chú và tiếng những ông bà pháp sư râm ran nói chuyện với nhau trong bữa sáng. Mùi thịt xông khói, cốm bắp, và cháo hoà quyện lạ lùng với mùi trầm hương, bay dập dềnh lên từ sảnh đường phía dưới, và khi chiếc cầu thang xoắn ốc nhẹ nhàng dừng lại, bà Marcia bước ra, cảm thấy hơi mắc ói và nhìn về phía trước, hướng thẳng vào bầu không khi trong lành. Bà bước lẹ làng qua sảnh đường, tới cảnh cửa đôi đồ sộ bằng bạc đặc,  chấn giữ lối vào Tháp Pháp sư. Bà Marcia đọc mật khẩu, cánh cửa đôi lẳng lặng mở ra cho bà, và một tích tắc sau bà Marcia đã đi qua vòm cửa bạc, xông ra ngoài cái lạnh cắt da thịt của một buổi sáng giữa mùa đông tuyết đổ.


Khi bà Marcia đi xuống những bậc thang dốc, thận trọng dẫm đôi giày có mũi nhọn hoắt lạo xạo lên tuyết, bà khiến cho tên lính canh đang vơ vẩn chọi tuyết vào một con mèo hoang sững người lại. Một cục tuyết đáp bịch xuống tấm áo chùng lụa tía của bà.

"Đừng thế chứ!" Bà Marcia nạt, phủi cục tuyết khỏi áo chùng.

Tên lính canh giật bắn mình đứng nghiêm. Trông hắn kinh hãi. Bà Marcia nhìn đăm đăm vào thằng bé trông như trẻ bụi đời. Nó mặt đồng phục của lính canh, một kiểu thiết kế ngớ ngẩn từ vải cô-tông mỏng, một manh áo chẽn sọc đỏ và trắng có bèo màu tía diềm quanh ống tay áo. Nó cũng đội một chiếc nón mềm lớn màu vàng, mang vớ ôm màu trắng và ủng màu vàng chói, và bàn tay trái của nó, để trần và xanh thẫm lại vì lạnh, cần một cán giáo nặng.


Bà Marcia từng phản đối khi những tên lính canh đầu tiên đến Tháp Pháp sư. Bà đã bảo với ông Bảo hộ Toàn quyền rằng các pháp sư không cần phải có bảo vệ. Họ có thể chăm sóc cho mình rất tốt, xin cảm ơn. Nhưng lão ta chỉ nhếch nụ cười khinh mạn của mình và điềm nhiên bảo với bà rằng có lính canh là vì sự an toàn của các pháp sư. Bà Marcia nghi ngờ gã đặt bọn chúng ở đó không chỉ để theo dõi việc ra vào của các pháp sư mà còn để làm cho các pháp sư thành ngớ ngẩn.

Bà Marcia nhìn tên lính canh vừa ném tuyết. Chiếc nón rộng quá khổ đối với nó - sụp hẳn xuống và đậu lại trên hai tai, coi bộ loe ra đúng chỗ để tiện hứng không cho chiếc nón sụp xuống mặt nó. Vành nón tạo cho gương mặt gầy gò, tím tái của thằng bé có màu vàng nhợt, yếu ớt. Hai con mắt xám sâu thẳm trố lên kinh hoàng bên dưới cái nón khi thằng bé nhận ra mình vừa ném tuyết trúng Pháp sư Tối thượng.

Trông hắn, bà Marcia nghĩ, quá bé con để làm một tên lính.

"Mi bao nhiêu tuổi?" Bà hỏi như buộc tội.

Tên lính canh đỏ mặt. Trước giờ chưa từng có ai như bà Marcia thèm nhìn nó, chứ đừng bảo là nói chuyện với nó.

"Mư... ười, thưa bà."

"Thế sao mi không đi học?" Bà Marcia hạch hỏi.

Tên lính canh tỏ ra kiêu hãnh:

"Tôi không cần trường học, thưa bà. Tôi ở trong Thiếu sinh quân. Chúng tôi là niềm tự hào của Hôm nay, là chiến binh của Ngày mai."

"Mi có lạnh không?" Bà Marcia buột miệng hỏi.

"Kh... không, thưa bà. Chúng tôi được huấn luyện để không cảm thấy lạnh."

Nhưng đôi môi của tên lính canh đã tím bầm và nó run bần bật khi nói.

"Hừ," bà Marcia nện giày xuống tuyết, đi khỏi, bỏ lại tên lính với bốn giờ canh gác nữa của nó.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 4-11-2012 11:02:42 | Chỉ xem của tác giả
4.

(tiếp theo)

     Bà Marcia bước phăm phăm qua khoảng sân dẫn ra khỏi Tháp Pháp sư, và bươn qua một cánh cổng hông, đưa bà vào một lối đi bộ im ắng, ngập tuyết.
     Bà Marcia đã là Pháp sư Tối thượng được mười năm rồi, kể từ ngày ấy, và khi dấn bước trên đường, ý nghĩ của bà lùi về quá khứ. Bà nhớ cái thời mình còn là một mầm hy vọng đáng thương, đọc ngấu nghiến bất cứ thứ gì về pháp thuật, hy vọng một điều hiếm hoi - ấy là được chọn làm học trò của Pháp sư Tối thượng, ngài Alther Mella. Đó là những năm tháng hạnh phúc sống trong một căn phòng nhỏ ở khu Mở Rộng cùng với rất nhiều mầm hy vọng khác, hầu hết họ sau đó không lâu đều được chọn làm học trò của những Pháp sư Thường đẳng. Nhưng Marcia không muốn vậy. Cô biết mình muốn gì, và cô muốn vị trí cao nhất cơ. Thế nhưng, Marcia vẫn không thể tin nổi vận may của mình khi cô có cơ hội được nhận làm học trò của ngài Alther Mella. Mặc dù trở thành học trò của ngài không có nghĩa là cô sẽ trở thành Pháp sư Tối thượng, nhưng đó là một bước nữa tiến gần hơn đến giấc mơ của mình. Và vì vậy, Marcia mất thêm bảy năm và một ngày kế tiếp sống trong Tháp Pháp sư với tư cách là học trò của Alther.
     Bà Marcia bất giác mỉm cười một mình khi nhớ lại Alther Mella là một pháp sư tuyệt vời như thế nào. Phương pháp sư phạm của ngài thật dễ gây hứng thú, ngài kiên nhẫn khi bùa chú bị ếm sai, và ngài luôn có câu bông đùa mới để dành cho cô. Ngài cũng là một pháp sư có quyền năng thâm hậu. Cho đến khi chính Marcia trở thành Pháp sư Tối thượng, cô vẫn chưa thể hình dung nổi ngài Alther kiệt xuất đến mức nào. Nhưng trên hết thảy, ngài Alther là một người dễ mến. Nụ cười của bà chợt tắt khi bất giác nghĩ tới sự kiện mình đã thay vị trí của ngài như thế nào, và bà nghĩ về cái ngày cuối cùng của cuộc đời ngài Alther Mella, cái ngày mà bây giờ ông Bảo hộ Toàn quyền gọi là Ngày Đầu.
     Chìm đắm trong suy tư, bà Marcia bước lên những bậc thang hẹp dẫn lên gờ tường rộng, có mái che, chạy ngay dưới chân bức tường Lâu đài. Đó là một lối đi tắt tới Bờ Đông, tên gọi mới hiện thời của khu Mở Rộng, và cũng là nơi hôm nay bà đang hướng tới. Gờ tường này được bảo tồn để cho đội Tuần tra Vũ trang Bảo họ sử dụng, nhưng bà Marcia biết rằng, ngay cả thời nay, không ai ngăn được Pháp sư Tối thượng đi bất cứ nơi nào. Vì vậy, thay vì len lỏi đi qua những hành lang vô tận, thỉnh thoảng đông cứng như nhiều năm trước vẫn đi, bà lại di chuyển dọc theo gờ tường cho đến khi, khoảng chừng nửa giờ sau, bà trông thấy một cánh cửa, và bà nhận ra chính là nó.
     Bà Marcia hít một hơi thật sâu. Thế đấy, bà thầm nhủ.

     Bà đi theo một dãy cầu thang xuống gờ tường và đứng đối mặt với cánh cửa. Vừa cúi người định xô cánh cửa một cú thì nó đã hoảng sợ khi trông thấy bà và liền mở bung ngay ra. Bà Marcia lao vụt qua cửa và tông ầm vào bức tường mỏng mảnh đối diện. Cánh cửa đóng sập lại, và bà Marcia nín thở. Hành lang tối hù, ẩm ướt và bốc mùi bắp cải luộc, mùi nước đái và phân mèo khô. Cái này không như những thứ mà bà Marcia nhớ. Hồi bà sống ở trong khu Mở Rộng, những hành lang này từng rất ấm và sạch sẽ, được thắp sáng bằng những ngọn đuốc ống sậy, gắn cách khoảng dọc theo bức tường và được các cư dân đầy tự hào ở đây lau chùi mỗi ngày.
     Bà Marcia hy vọng mình còn nhớ đường tới căn phòng của Sarah và Silas Heap. Trong những năm là học trò, bà thường hay phóng vù qua cánh cửa nhà họ, hy vọng Silas Heap đừng trông thấy bà mà mời vào. Tiếng ồn ào là thứ bà nhớ nhất, tiếng náo loạn của đám nhóc con la thét, nhảy nhót, đánh nhau và làm bất cứ điều gì bọn con trai nhỏ hay làm, mặc dù bà Marcia không biết chắc bọn chúng hay làm gì - bởi vì bà thích tránh né con nít hơn, nếu có thể tránh được.

     Bà Marcia cảm thấy hơi hồi hộp khi bước dọc theo những hành lang tối om, ẩm thấp. Bà bắt đầu tự hỏi mọi việc đã ra sao rồi kể từ lần đầu tiên bà đến nhà Silas hơn mười năm qua. Bà hãi hùng về điều mình sẽ phải nói cho gia đình Heap, thậm chí bà còn tự hỏi không biết Silas có tin mình không. Anh ta là một pháp sư bướng bỉnh, và bà biết anh ta không thích bà cho lắm. Cứ như vậy, với những ý nghĩ quay cuồng trong đầu, bà Marcia bước dứt khoát dọc theo những hành lang và không để ý tới bất kỳ điều gì khác.
     Nếu bà chịu khó để ý một chút, thì chắc hẳn bà đã kinh ngạc trước những phản xạ của mọi người đối với bà. Lúc này là tám giờ sáng, giờ mà Silas Heap gọi là giờ cao điểm. Hàng trăm con người mặt mày xanh xao hối hả trên đường đi làm, đôi mắt ngái ngủ của họ lớp chớp trong bóng tối, và bộ đồ rẻ tiền, mỏng manh ôm sát lấy người họ, những mong chống lại cái lạnh thấu xương phả ra từ những bức tường đá ẩm. Giờ cao điểm ở trong những hành lang của Bờ Đông là giờ phải tránh. Dòng người ùn ùn xô nhau đi, vượt qua cả ngõ hẻm mà ai đó tính quẹo, cho tới khi người đó cố luồn lách sao đó để xuyên qua được dòng người bên này và nhập được vào dòng người ở chiều bên kia. Bầu không khí giờ cao điểm luôn đầy ắp những tiếng la ai oán:
     "Cho tôi ra khỏi đây, làm ơn đi!"
     "Đừng có đẩy tôi!"
     "Để tôi quẹo, tôi quẹo!"
     Nhưng bà Marcia đã làm cho giờ cao điểm biến mất. Không cần thiết phải dùng đến pháp thuật ở đây - chỉ nội việc bà Marcia xuất hiện thôi đã đủ khiến cho tất cả mọi người đang đi bỗng ngừng phắt lại rồi. Trước giờ hầu hết cư dân của Bờ Đông đều chưa từng trông thấy Pháp sư Tối thượng. Nếu họ có trông thấy bà chút nào đó, thì chắc hẳn là do họ đã đi một ngày đường tới Trung tâm Tham quan của Tháp Pháp sư, và nấn ná ở khoảng sân cả ngày, hy vọng mình may mắn thoáng thấy được bà. Vì thế cho nên việc Pháp sư Tối thượng cùng đi với họ trong những hành lang nhớp nháp của Bờ Đông là điều không thể tin nổi.
     Mọi người há hốc miệng và co rúm lại. Họ tan chảy vào những hốc cửa tăm tối và lỉnh biến vào những ngõ ngách bên các hông nhà. Họ lầm rầm niệm bùa chú. Một số khác đông cứng lại và đứng ngay ra tại chỗ, hệt như những con thỏ bị một luồng ánh sáng chói loà lia trúng. Họ dòm bà Marcia trao tráo như thể bà là một sinh vật đến từ hành tinh khác; mà đúng ra bà đã phải dọn ra cái hành tinh ấy chính vì những sự khác nhau giữa cuộc sống của bà và của họ.
     Nhưng bà Marcia thật sự không nhận ra điều này. Mười năm làm Pháp sư Tối thượng đã tách biệt bà khỏi cuộc sống thực, và cho dù có sửng sốt đến đâu chăng nữa khi lần đầu tiên việc đó xảy ra, thì bây giờ bà cũng đã quen với việc người ta dạt ra nhường đường cho mình, cúi chào và lẩm nhẩm những lời tôn kính xung quanh mình.
     Bà Marcia bước ra khỏi đường phố chính và rẽ vào hành lang hẹp dẫn tới nhà của gia đình Heap. Trên đường đi, bà Marcia nhận thấy tất cả những hành lang bây giờ đều được đánh số, thay thế cho những cái tên kỳ quặc của chúng trước kia, chẳng hạn như Góc gió, Hẻm ngược.
     Địa chỉ hồi trước của gia đình Heap là: Cửa Đỏ lớn, Lô tới và Lùi lại, khu Mở Rộng.
     Bây giờ hoá ra nó lại là như thế này: Phòng 16, Hành lang 223, Bờ Đông. Bà Marcia thích rõ mình thích tên nào hơn.
     Bà Marcia đã tới cửa nhà Heap, cánh cửa vừa bị đội Tuần Sơn sơn đen cách đây vài ngày. Bà nghe được tiếng huyên náo ầm ĩ của bữa sáng nhà Heap ở đằng sau cánh cửa. Bà hít thở vài hơi thật sâu.
     Bà không thể trì hoãn khoảnh khắc này lâu hơn được nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 4-11-2012 20:05:19 | Chỉ xem của tác giả
5.

Tại nhà Heap

     "Mở," bà Marcia bảo cánh cửa đen nhà Heap.
     Nhưng, là một cánh cửa thuộc quyền Silas Heap, nó chẳng nhúc nhích gì cả. Chưa kể, bà Marcia nghĩ, bà còn thấy nó thít chặt lại bản lề và tự vặn ổ khoá lại chắc hơn. Vì thế cho nên, bà, Quý bà Marcia Overstrand, Pháp sư Tối thượng, phải hạ mình phang cánh cửa mạnh hết sức. Không ai trả lời. Bà phang lần nữa, mạnh hơn và bằng cả hai nắm đấm, nhưng vẫn không có phản hồi. Ngay khi bà vừa định đạp cho cánh cửa một cú ra trò (và thật đáng đời nó) thì cánh cửa bật mở toang ra, và và Marcia đứng mặt đối mặt với Silas Heap.
     "Hả?" Ông sẵng giọng như thể bà không hơn một người chào hàng bám dai như đĩa.

     Trong thoáng chốc, bà Marcia á khẩu. Bà nhìn sượt qua vai Silas, thấy một căn phòng hình như vừa mới bị nổ bom và bây giờ,  vì lý do gì đó, bỗng đầy nhóc bọn con trai. Những chú bé bu quanh một bé gái nhỏ tóc đen, đang ngồi tại một cái bàn phủ khăn trắng sạch một cách đáng ngạc nhiên. Đứa bé gái đang cầm một món quà nhỏ gói giấy màu rực rỡ và cột ruy-băng đỏ, cười hớn hở và đẩy mấy thằng bé giả bộ giật lấy quà của mình ra. Nhưng lần lượt từng đứa một, cô bé rồi tất cả bọn con trai cùng ngẩng đầu lên, và một sự im lặng lạ lùng rơi tõm xuống gia đình Heap.
     "Chào, Silas Heap," bà Marcia nói, có phần hơi quá lịch thiệp. "Và chào Sarah Heap. Và, è, chào tất cả các Heap con."
     Các Heap con, mà hầu hết đều không còn nhỏ nữa, chẳng nói gì. Nhưng sáu cặp mắt xanh lá cây biếc và một cặp mắt tím đậm đảo khắp từng chi tiết trên người bà Marcia Overstrand. Bà Marcia bỗng cảm thấy ngượng ngập. Liệu mình có vết bẩn nào trên mũi hay không? Có mớ tóc nào của mình chỉa ra kỳ cục chăng? Hay có lẽ răng mình dính rau dền?
     Bà Marcia tự nhắc nhở mình rằng bữa sáng nay mình không hề ăn rau dền. Tiến lên nào, Marcia, bà tự động viên. Mi thống lĩnh nơi này cơ mà. Thế là bà quay qua Silas, đang nhìn bà như thể hy vọng bà sẽ chóng rời đi.
     "Tôi nói xin chào, Silas Heap," bà Marcia giận dữ.
     "Quả đúng thế, Marcia, đúng thế," Silas nói. "Và điều gì mang cô tới đây sau ngần ấy năm thế?"
     Bà Marcia đi thẳng vào vấn đề.
     "Tôi đến đón Công chúa," bà nói.
     "Ai?" Silas hỏi.
     "Anh biết rõ mười mươi là ai mà," bà Marcia quặc lại, bà vốn không thích bị bất cứ ai, nhất là Silas Heap, chất vấn.
     "Chúng tôi không có Công chúa nào ở đây cả, Marcia," Silas nói. "Điều đó là hiển nhiên."
     Bà Marcia nhìn quanh quất. Đúng thật, chẳng ai lại nghĩ đến việc tìm thấy một Công chúa ở đây cả. Đúng hơn, trong đời mình, bà Marcia chưa bao giờ trông thấy chỗ nào bừa bãi đến thế.

     Giữa đống hỗn độn ấy, bên cạnh ngọn lửa mới nhóm, là Sarah đang đứng. Sarah đang nấu món cháo cho bữa sáng sinh nhật thì Marcia xông vào nhà bà, và vào luôn cuộc đời bà. Bây giờ bà đứng ngay như phỗng, tay bưng nồi cháo và nhìn trân trân vào Marcia. Có cái gì đó trong ánh mắt Sarah nói cho Marcia hiểu rằng bà biết việc gì sắp xảy ra. Thế này thì, bà Marcia nghĩ, sẽ không dễ dàng đâu. Bà quyết định dằn nén sự hung hãn và làm lại từ đầu.
     "Làm ơn cho tôi ngồi xuống, được không, Silas... Sarah?" Bà hỏi.
     Sarah gật đầu. Silas nhăn nhó. Không ai nói gì.
     Silas liếc qua Sarah. Sarah đang ngồi xuống, mặt trắng bệch, run rẩy và quơ cô bé sinh nhật đặt lên đùi mình, ôm thật chặt. Silas mong ước bà Marcia đi khỏi hơn bất cứ điều gì khác và để cho họ yên, nhưng ông biết vợ chồng mình cần phải nghe những gì bà ta sắp nói. Ông thở dài đánh thượt và nói:
     "Nicko, lấy ghế mời bà Marcia."
     "Cảm ơn, Nicko," Bà Marcia nói khi ngần ngừ ngồi xuống một trong những chiếc ghế tự đóng của Silas. Nicko tóc bù xù nhe răng cười ngoác với bà Marcia và rút lui vào với các anh mình; bọn chúng đang lởn vởn xung quanh Sarah với ý định bảo vệ mẹ.
     Bà Marcia dòm gia đình Heap chằm chằm và sửng sốt, sao mà tất cả bọn họ giống nhau đến thế. Tất cả họ, kể cả Sarah và Silas, đều có tóc quăn màu rơm, và dĩ nhiên tất cả họ đều có đều có mắt xanh lá cây biếc của pháp sư. Và ở giữa đám nhà Heap là Công chúa đang ngồi, mái tóc đen thẳng, mắt tím đậm. Bà Marcia rên thầm trong bụng. Đối với bà, tất cả bọn con nít đều giống hệt nhau, và bà đã không bao giờ ngờ được Công chúa lại khác biệt gia đình Heap đến thế khi cô bé lớn lên. Chả trách, hèn chi mà tên gián điệp đã phát giác ra cô bé.
     Silas Heap ngồi lên một cái rương úp ngược.
     "Hừm, Marcia, có chuyện gì vậy?" Ông nói.
     Miệng bà Marcia khô rang:
     "Anh có ly nước nào không?" Bà hỏi.
     Jenna lụi hụi trườn khỏi đùi Sarah và đi lại gần bà Marcia, chìa ra một cái ca gỗ mòn vẹt, có dấu răng vòng khắp miệng ca.
     "Đây ạ, đây là nước của cháu. Không sao đâu."
     Cô bé nhìn bà Marcia chăm chú, đầy vẻ ngưỡng mộ. Jenna chưa từng trông thấy ai giống như bà Marcia, không ai đỏ tía một màu, bóng loáng, trông sạch sẽ và sang trọng đến thế, và không ai mang giầy mũi nhọn như vậy.

     Bà Marcia nhìn vào cái ca vẻ ngờ vực, nhưng rồi, nhớ ra ai đã trao nó cho mình, bèn nói:
     "Cảm ơn, Công chúa. À, è, thần có thể gọi Người là Jenna được không?"
     Jenna không đáp. Cô bé quá mải mê ngắm đôi giày tía của bà Marcia.
     "Trả lời bà Marcia đi, cưng," Sarah Heap nhắc.
     "Dạ, ờm, được ạ, thưa bà Marcia," Jenna nói, lúng túng nhưng lễ phép.
     "Cảm ơn, Jenna. Rất vui vì lần này được gặp tất cả quý vị. Và vui lòng gọi tôi là Marcia," bà Marcia nói, bà không thể không nghĩ Jenna trông giống mẹ cô biết chừng nào.
     Jenna lui trở lại bên cạnh Sarah, và bà Marcia cố ráng uống một ngụm nước từ cái ca bị gặm.
     "Nói mau đi, Marcia," Silas phán từ cái rương lộn ngược của mình. "Chuyện gì thế? Như thường lệ, xem ra chúng tôi luôn là những kẻ cuối cùng biết chuyện."
     "Silas, anh và Sarah biết ai... è... Jenna... là ai không?"
     "Biết chứ. Jenna là con gái của chúng tôi, chứ còn là ai nữa?" Silas nói với vẻ ngang ngạnh.
     "Nhưng cô đoán được mà, phải không?" Bà Marcia nói, lái ánh mắt qua phía Sarah.
     "Phải," Sarah lẳng lặng nói.
     "Vậy là cô sẽ hiểu khi tôi nói rằng cô bé không còn an toàn ở đây nữa. Tôi cần mang cô bé đi. Ngay bây giờ," bà Marcia nói gấp.
     "Không!" Jenna thét lên. "Không!"
     Cô bé trèo trở lên đùi Sarah. Sarah ôm chầm lấy cô bé.
     Silas nổi xung thiên:
     "Marcia, không phải cứ Pháp sư Tối thượng là cô nghĩ cô có thể bước vào đây và ngang nhiên xáo tung cuộc sống của chúng tôi lên đấy nhé. Chắc chắn cô không mang Jenna đi được. Nó là con chúng tôi. Con gái duy nhất của chúng tôi. Nó an toàn tuyệt đối ở đây và nó sống với chúng tôi."
     "Silas," bà Marcia thở dài. "Cô bé không an toàn với anh chị được. Không còn an toàn nữa. Cô bé đã bị phát hiện. Quý vị có một tên gián điệp ở ngay sát vách. Linda Lane."
     "Linda!" Sarah sững sờ. "Gián điệp? Tôi không tin."

     "Ý cô là cái bà già lắm lời lúc nào cũng lảng vảng ở đây ba hoa về thuốc viên thuốc nước và không ngừng vẻ tranh bọn trẻ ấy hả?" Silas hỏi.
     "Silas!" Sarah phản đối. "Đừng thô lỗ thế."
     "Tôi sẽ thô lỗ hơn nữa với mụ ta nếu mụ gián điệp," Silas lớn tiếng.
     "Không có nếu niếc gì về chuyện đó cả, Silas," bà Marcia nói. "Linda Lane là tên gián điệp cáo già nhất. Và tôi tin chắc là những bức tranh mụ ta vẽ sẽ chứng tỏ là rất có ích cho Bảo hộ Toàn quyền."
     Silas rên rỉ. Bà Marcia đã thắng thế.
     "Silas này, tôi chỉ muốn điều tốt nhất cho Jenna. Anh cần phải tin tôi."
     Silas khịt mũi:
     "Việc quái gì tôi phải tin cô, hả Marcia?"
     "Bởi vì tôi tin cậy giao Công chúa cho anh, Silas à," bà Marcia nói. "Giờ anh phải tin tôi. Chuyện từng xảy ra mười năm trước giờ tuyệt đối không được tái diễn nữa."
     "Cô quên rằng, Marcia," Silas gay gắt, "chúng tôi không biết chuyện gì xảy ra mười năm trước. Không ai chịu hạ cố cho chúng tôi biết."
     Bà Marcia thở dài:
     "Làm sao tôi có thể nói cho anh biết được, Silas? Đó là điều tốt nhất cho Công chúa. Ý tôi là vì lợi ích của Jenna, anh không nên biết thì hơn."
     Lại nghe nhắc đến Công chúa, Jenna ngước lên nhìn Sarah.
     "Lúc nãy bà Marcia cũng gọi con như thế," cô bé thì thào. "Có đúng đó là con không?"
     "Phải, cưng à," Sarah thì thầm đáp lại, rồi bà ngước lên nhìn thẳng vào mắt bà Marcia và nói:
     "Tôi nghĩ tất cả chúng tôi cần biết việc gì đã xảy ra mười năm trước, Marcia."
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách